Tài liệu Luận văn Khảo sát việc sử dụng từ ngữ địa phương trong thơ Tố Hữu: ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
---------------------------
PHẠM THỊ THUỲ DƯƠNG
KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG TỪ NGỮ ĐỊA
PHƯƠNG TRONG THƠ TỐ HỮU
Chuyên ngành: Lý luận Ngôn ngữ
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS – TS PHẠM VĂN HẢO
Thái Nguyên - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
MỤC LỤC
CHÚ THÍCH: ………………………………………………………………...3
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………...4
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………4
2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………5
3. Đối tƣợng ngiên cứu…………………………………………………..6
4. Mục đích nghiên cứu………………………………………………….7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu……………………………………………7
6. Ý thực tiễn và ý nghĩa khoa học………………………………………8
7. Bố cục luận văn……………………………………………………….8
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN
…9
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp thơ Tố Hữu………………….…………....9
1.1.1.Vài nét về cuộc đời Tố Hữu............................................................
124 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1830 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Khảo sát việc sử dụng từ ngữ địa phương trong thơ Tố Hữu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
---------------------------
PHẠM THỊ THUỲ DƯƠNG
KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG TỪ NGỮ ĐỊA
PHƯƠNG TRONG THƠ TỐ HỮU
Chuyên ngành: Lý luận Ngôn ngữ
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS – TS PHẠM VĂN HẢO
Thái Nguyên - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
MỤC LỤC
CHÚ THÍCH: ………………………………………………………………...3
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………...4
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………4
2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………5
3. Đối tƣợng ngiên cứu…………………………………………………..6
4. Mục đích nghiên cứu………………………………………………….7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu……………………………………………7
6. Ý thực tiễn và ý nghĩa khoa học………………………………………8
7. Bố cục luận văn……………………………………………………….8
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN
…9
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp thơ Tố Hữu………………….…………....9
1.1.1.Vài nét về cuộc đời Tố Hữu.............................................................9
1.1.2. Khái quát về sự nghiệp thơ Tố Hữu……………….……..........10
1.2. Khái quát về phƣơng ngữ tiếng Việt…………………………….13
1.2.1. Khái niệm phƣơng ngữ……………………...……………...........13
1.2.2. Đặc điểm phƣơng ngữ tiếng Việt………………...……………14
1.2.2.1. Đặc điểm về ngữ âm……………………...……………………14
1.2.2.2. Đặc điểm về từ vựng và ngữ nghĩa………...…………………..15
1.2.2.3. Đặc điểm về ngữ pháp………...……………………………….18
1.3. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật………………………………..20
1.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật…………………………………………….20
1.3.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật………………………………...21
1.3.2.1. Tính hình tƣợng………………………………………………..21
1.3.2.2. Tính truyền cảm……………………………………………….23
1.3.2.3. Tính cá thể hoá………………………………………………...24
CHƢƠNG 2: VIỆC DÙNG TỪ ĐỊA PHƢƠNG TRONG THƠ TỐ HỮU….
27
2.1. Khái niệm từ ngữ địa phƣơng …………………………………….27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
2.2. Thống kê phân tích các từ ngữ địa phƣơng đƣợc sử dụng trong thơ
Tố Hữu………………..……………………………………………………28
2.2.1. Bảng thống kê chung…….………………………………………28
2.2.2. Từ ngữ địa phƣơng trong từng tập thơ…..…………………….29
2.2.3. Khảo sát phân tích………………...……………………………..30
2.2.3.1. Số lƣợng, tần số xuất hiện của các từ ngữ địa phƣơng ….…..30
2.2.3.2. Từ ngữ địa phƣơng sử dụng theo vùng……..………………..34
2.2.3.3. Phân nhóm từ ngữ địa phƣơng theo từ loại……….….……...35
2.2.3.4. Đề tài, thời gian, không gian với vấn đề sử dụng từ ngữ địa
phƣơng…………………………………………………………..……...46
2.2.3.5. Các lớp từ…………….…………………………...................49
2.3. Tiểu kết……………………………………………….……………57
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TỐ HỮU TRONG VIỆC
SỬ DỤNG TỪ NGỮ ĐỊA PHƢƠNG……………………………………...58
3.1. Quan điểm về thơ và ngôn ngữ thơ của Tố Hữu…………….…..58
3.2. Về cách dùng từ ngữ địa phƣơng trong thơ Tố Hữu…………….66
3.2.1. Ba nguyên tắc sử dụng từ ngữ địa phƣơng ……………….…...66
3.2.1.1. Tố Hữu dùng từ ngữ địa phƣơng khi viết về địa phƣơng …...66
3.2.1.2. Sử dụng từ ngữ địa phƣơng khi tác giả là ngƣời ở địa phƣơng
…………………………………………………………………….……71
3.2.1.3. Từ ngữ địa phƣơng với yêu cầu của ngôn ngữ nghệ
thuật.................................................................................................................72
3.2.2. Lựa chọn từ ngữ “đắc địa”……………….……………………74
3.3. Hiệu quả của việc sử dụng từ ngữ địa phƣơng trong thơ Tố
Hữu.…76
3.4. So sánh với ngôn ngữ thơ Xuân Diệu, Huy Cận………………...87
3.5. Tiểu kết…………………………………………………………….89
KẾT
LUẬN…………………………………………………………….…….90
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ………………………..92
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………...93
PHỤ LỤC……………………………………………………………………96
CHÚ THÍCH
d : danh từ
đ : động từ
t : tính từ
đt : đại từ
nv : từ nghi vấn
ct : từ cảm thán
tr : trạng thái
B : Phƣơng ngữ Bắc
T : Phƣơng ngữ Trung
N : Phƣơng ngữ Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tố Hữu là một cây đại thụ trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ Tố
Hữu gắn liền với các chặng đƣờng cách mạng của dân tộc và lắng sâu trong
lòng quần chúng nhân dân suốt thời gian qua. Đúng nhƣ Phong Lan và Mai
Hƣơng nhận xét “Trên bầu trời của văn học Việt Nam hiện đại, Tố Hữu luôn
đƣợc coi là ngôi sao sáng, là ngƣời mở đầu và dẫn đầu tiêu biểu cho thơ ca
cách mạng. Sáu mƣơi năm gắn bó với hoạt động cách mạng và sáng tạo thơ
ca, ông thực sự tạo nên đƣợc niềm yêu mến, nỗi đam mê bền chắc trong nhiều
độc giả. Ông là ngƣời đem đến cho công chúng và rồi cũng nhận lại từ họ sự
đồng điệu, đồng cảm, đồng tình tuyệt diệu, đang là niềm mơ ƣớc của mọi sự
nghiệp thơ ca, kể cả những nhà thơ lớn cùng thời với ông” [33, tr.20]. Bởi
vậy, thơ Tố Hữu luôn thu hút đƣợc sự quan tâm của giới phê bình, nghiên cứu
văn học và là đối tƣợng giảng dạy trong nhà trƣờng phổ thông.
Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị. Mọi sự kiện, vấn đề lớn của đời
sống cách mạng, lí tƣởng chính trị, những tình cảm chính trị thông qua trái
tim nhạy cảm của nhà thơ đều có thể trở thành đề tài và cảm hứng nghệ thuật
thực sự. Tố Hữu là nhà thơ của lẽ sống lớn, của những tình cảm lớn, niềm vui
lớn của cách mạng và con ngƣời cách mạng. Đặc biệt ở những bƣớc ngoặt
trong đời sống cách mạng của dân tộc, hồn thơ Tố Hữu thƣờng vang ứng nhạy
bén và dạt dào cảm hứng, kết tinh trong những bài thơ đặc sắc, đƣợc sự đồng
cảm và hƣởng ứng rộng rãi của đông đảo công chúng. Xuân Diệu có lần
khẳng định: Tố Hữu đã đƣa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ
tình.
Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật biểu
hiện. Hiện thực đời sống cách mạng, những tình cảm chính trị, đạo lí cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
mạng qua sự cảm nhận và thể hiện của Tố Hữu đã gắn bó, hoà nhập với
truyền thống tinh thần tình cảm và đạo lí của dân tộc, làm phong phú thêm
cho truyền thống ấy. Trong thơ ông có thể bắt gặp một cách phổ biến những
lối so sánh, các phép chuyển nghĩa và cách diễn đạt trong thơ ca dân gian đã
trở nên quen thuộc với tâm hồn ngƣời Việt. Chiều sâu của tính dân tộc trong
thơ Tố Hữu là ở sự phong phú về nhạc điệu, phong phú về vần, những phối
âm trầm bổng nhịp nhàng nên dễ ngâm dễ thuộc và đặc biệt là ngôn ngữ thơ
rất sinh động, sáng tạo. Một trong những yếu tố làm nên nét riêng đó của thơ
Tố Hữu là nhà thơ đã đƣa lớp từ ngữ địa phƣơng vào trong thơ và sử dụng
chúng có hiệu quả cao. Có thể nói từ ngữ địa phƣơng trong thơ Tố Hữu đƣợc
sử dụng nhƣ một biện pháp nghệ thuật và trở thành ngôn ngữ nghệ thuật.
Điều này không phải nhà thơ nào cũng làm đƣợc. Cho nên nghiên cứu việc sử
dụng từ ngữ địa phƣơng trong thơ Tố Hữu sẽ góp phần hiểu rõ về quan điểm
nghệ thuật và phong cách sáng tác của nhà thơ, giúp ta thấy đƣợc quy luật
tƣơng tác giữa từ địa phƣơng và từ toàn dân, cũng nhƣ giá trị của từ địa
phƣơng đối với việc biểu hiện tƣ tƣởng tình cảm của nhà thơ.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống cách dùng từ địa
phƣơng trong các sáng tác văn chƣơng nói chung vẫn chƣa đƣợc chú ý đúng
mức. Chính vì vậy mà ngƣời viết lựa chọn đề tài “Khảo sát việc sử dụng từ
ngữ địa phương trong thơ Tố Hữu”.
2. Lịch sử vấn đề
Trong suốt thời gian qua, thơ Tố Hữu luôn là đối tƣợng nghiên cứu của
các nhà nghiên cứu, phê bình trong và ngoài nƣớc. Xuất phát từ những góc
độ, khía cạnh tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đều gặp gỡ và thống
nhất trong đánh giá: Tố Hữu là một phong cách lớn trong sự phát triển của
nền văn học dân tộc. Thơ ông không chỉ đặc sắc ở nội dung, tƣ tƣởng mà còn
có giá trị đặc sắc về nghệ thuật trên các phƣơng diện về phong cách và ngôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
ngữ thơ. Chính vì thế, cho đến nay đã có rất nhiều công trình biên khảo
chuyên sâu về thơ ông. Trong đó nổi bật nhất là ba công trình: Thơ Tố Hữu
của Lê Đình Kị (1979), Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói
đồng chí của Nguyễn Văn Hạnh (1985), và Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần
Đình Sử (1987).
Nghiên cứu về thơ Tố Hữu từ phƣơng diện ngôn ngữ đã có các công
trình của tác giả nhƣ: “ Về cách dùng từ chỉ mầu sắc trong thơ Tố Hữu” của
Lê Anh Hiền (Tạp chí Ngôn ngữ số 4- 1976 ), “Tính dân tộc hiện đại của
ngôn từ thơ Tố Hữu” của Trần Đình Sử (Báo Văn nghệ số 36 – 1985), “ Nhạc
điệu thơ Tố Hữu” của Nguyễn Trung Thu (Tạp chí văn học số 6 – 1968) và
nhiều công trình khác. Đặc biệt, những nghiên cứu về việc sử dụng từ địa
phƣơng trong thơ ông thì chƣa có nhiều tác giả quan tâm. Có thể kể: “Hiệu
quả của việc dùng từ địa phương trong văn chương” của Phạm Văn Hảo (Tạp
chí Ngôn ngữ và đời sống số 3- 1998), “ Từ địa phương trong thơ Tố Hữu”
của Hoàng Thanh Vân (Luận văn tốt nghiệp Trƣờng Đại học Sƣ Phạm Thái
Nguyên – 2000), “Bước đầu khảo sát vốn từ địa phương trong thơ Tố Hữu”
của Hoàng Thị Hằng (Khoá luận tốt nghiệp Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn- 2006)… Trong những ngƣời có nhận xét về từ ngữ địa phƣơng,
đáng chú ý hơn cả là ý kiến của Phó giáo sƣ Phạm Văn Hảo nhân đọc thơ Tố
Hữu : “Nhiều khi từ ngữ địa phƣơng đƣợc dùng không nhằm thể hiện không
khí hay “phong vị quê hƣơng” mà vì mục đích khai thác cái phong phú trong
ý nghĩa của chúng … Có thể dùng các từ địa phƣơng cho các sáng tác bình
thƣờng bất kì…”[19, tr. 6].
Nhƣ vậy, có thể nói rằng việc nghiên cứu sự sử dụng từ địa phƣơng trong
thơ Tố Hữu là một vấn đề rất thú vị, hấp dẫn và có phần mới mẻ. Ngƣời viết
luận văn này với hi vọng nghiên cứu việc sử dụng từ địa phƣơng trong thơ
ông một cách hệ thống có thể thể bổ sung hiệu quả và thiết thực vào công việc
nghiên cứu phong cách nghệ thuật thơ của Tố Hữu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng luận văn nghiên cứu là việc sử dụng lớp từ địa phƣơng
trong thơ Tố Hữu qua tƣ liệu nghiên cứu đƣợc thống kê trong các tập thơ Từ
ấy, Việt Bắc, Gío lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một tiếng đờn, Ta với ta và lời
phát biểu trực tiếp hay gián tiếp của Tố Hữu về quan điểm nghệ thuật trong
quá trình sáng tác thơ ca.
4. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Khảo sát việc sử dụng từ ngữ địa phương trong thơ Tố
Hữu” luận văn hƣớng vào những mục đích cụ thể sau:
- Bằng việc thống kê các từ địa phƣơng đƣợc sử dụng trong thơ Tố
Hữu, ngƣời viết khái quát bức tranh về từ địa phƣơng đƣợc sử dụng trong thơ
Tố Hữu về các vùng miền, về các lớp từ. Trên cơ sở đó, tác giả luận văn phân
tích, nhận xét, đánh giá hiệu quả của việc sử dụng từ địa phƣơng trong thơ Tố
Hữu.
- Ngƣời viết bƣớc đầu tìm hiểu quan điểm nghệ thuật của Tố Hữu
trong việc sử dụng ngôn ngữ nói chung và việc sử dụng từ ngữ địa phƣơng cụ
thể của ông nói riêng. Điều này có ích cho việc thƣởng thức, nghiên cứu,
giảng dạy thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca Việt Nam nói chung.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn này tôi sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phƣơng pháp khảo sát thống kê: Dựa vào các tập thơ để khảo sát
các từ ngữ địa phƣơng sau đó đƣa ra bảng thông kê các từ địa phƣơng đƣợc sử
dụng theo một số tiêu chí cần thiết.
- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu: Để thấy đƣợc hiệu quả của việc
dùng từ địa phƣơng trong thơ Tố Hữu, chúng ta so sánh ngôn ngữ thơ của ông
với một số nhà thơ cùng thời theo chủ đề, đề tài nhƣ Xuân Diệu, Huy Cận.
- Phƣơng pháp phân tích văn bản nghệ thuật đƣợc đặc biệt chú ý để
tìm hiểu nội dung các văn bản và hiệu quả sử dụng các từ ngữ địa phƣơng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8
- Phƣơng pháp phân tích diễn ngôn: nghiên cứu ngôn ngữ thơ trong
mối quan hệ đa chiều với ngữ cảnh môi trƣờng giao tiếp, tác giả, độc giả.
Ngoài ra, ngƣời viết còn sử dụng một số phƣơng pháp, thủ pháp bổ
trợ khác nữa khi cần thiết nhƣ phƣơng pháp khái quát tổng hợp, mô hình
hoá…
6. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa lí luận:
Ngƣời viết thực hiện đề tài này đề cập đến một lớp từ đƣợc sử dụng
trong ngôn ngữ nghệ thuật, qua đó góp phần tìm hiểu phong cách nghệ thuật
ngôn ngữ thơ nói chung và phong cách nghệ thuật ngôn ngữ của từng tác giả
nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài làm sáng rõ về ngôn ngữ nghệ thuật thơ Tố Hữu: đó là sử
dụng ngôn ngữ đời thƣờng, sử dụng lời nói, lời đối thoại hàng ngày vào trong
ngôn ngữ nghệ thuật một cách khéo léo vừa phải, hợp lí sẽ mang hiệu quả
nghệ thuật cao. Qua việc tìm hiểu đó thấy đƣợc quan điểm nghệ thuật sử dụng
ngôn ngữ của ông trong thơ.
Đề tài nghiên cứu này sẽ có đóng góp nhất định trong việc giảng
dạy tác phẩm văn học trong nhà trƣờng nhất là ở bậc phổ thông.
7. Bố cục luận văn
- Phần Mở đầu.
- Phần Nội dung gồm ba chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lí luận và những vấn đề có liên quan.
Chương 2: Việc sử dụng từ ngữ địa phương trong thơ Tố Hữu.
Chương 3: Quan điểm nghệ thuật của Tố Hữu trong việc sử dụng từ
ngữ địa phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
- Phần Kết luận.
- Phần Thƣ mục tham khảo.
- Phần Phụ lục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp thơ Tố Hữu
1.1.1. Vài nét về cuộc đời Tố Hữu
Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4-10-1920, quê
ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Ông thân sinh là một nhà nho nghèo, tuy không đỗ đạt và phải chật vật để
kiếm sống bằng nhiều nghề nhƣng lại ham thơ và thích sƣu tầm ca dao tục
ngữ. Từ thuở nhỏ, Tố Hữu đã đƣợc cha dạy làm thơ theo những lối cổ. Bà mẹ
Tố Hữu là con một nhà nho, thuộc nhiều ca dao, dân ca xứ Huế và rất giầu
tình thƣơng con, Tố Hữu mồ côi mẹ từ năm 12 tuổi và một năm sau lại xa gia
đình vào học trƣờng Quốc học Huế.
Quê hƣơng cũng góp phần quan trọng vào sự hình thành hồn thơ Tố
Hữu. Tuy là một vùng đất nghèo nhƣng phong cảnh thiên nhiên, núi sông lại
rất nên thơ, xứ Huế còn nổi tiếng là vùng văn hoá phong phú, độc đáo, đậm
bản sắc dân tộc bao gồm cả văn hoá cung đình và văn hoá dân gian mà nổi
tiếng nhất là những điệu ca, hò nhƣ nam ai, nam bình, mái nhì, mái đẩy…
Bƣớc vào tuổi thanh niên đúng vào những năm phong trào Mặt trận Dân
chủ do Đảng Cộng sản lãnh đạo đang dấy lên sôi nổi trong cả nƣớc, mà Huế
là một trong những trung tâm sôi động nhất, tuổi trẻ của Tố Hữu đã có sự gặp
gỡ may mắn và đẹp đẽ với lí tƣởng cách mạng . Đƣợc lôi cuốn vào phong trào
đấu tranh, Tố Hữu đã trở thành ngƣời lãnh đạo chủ chốt của Đoàn thanh niên
Dân chủ ở Huế. Năm 1938, Tố Hữu đƣợc kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông
Dƣơng và từ đó ông hoàn toàn tự nguyện hiến dâng cuộc đời cho sự nghiệp
cách mạng. Đầu năm 1939, thực dân Pháp trở lại đàn áp phong trào cách
mạng ở Đông Dƣơng. Cuối tháng tƣ năm ấy Tố Hữu bị bắt, giam tại nhà lao
Thừa Thiên, rồi lần lƣợt bị giam giữ trong nhiều nhà tù ở các tỉnh miền Trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11
và Tây Nguyên. Tháng 3- 1942, Tố Hữu đã vƣợt ngục Đắc Lay (Kon Tum),
vƣợt hàng trăm cây số đƣờng rừng, thoát khỏi sự vây lùng của kẻ thù, tìm ra
Thanh Hoá, bắt liên lạc với tổ chức cách mạng và tiếp tục hoạt động. Cách
mạng tháng Tám năm 1945, Tố Hữu là Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa ở Huế,
lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố quê hƣơng,
nơi đầu não của chính quyền phong kiến.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Tố Hữu đƣợc điều động ra Thanh Hoá
một thời gian, rồi lên Việt Bắc công tác ở cơ quan Trung ƣơng Đảng, đặc
trách về văn hoá, văn nghệ. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
đế quốc Mĩ và cho đến năm 1986, Tố Hữu liên tục giữ những cƣơng vị trọng
yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc (từng là Uỷ viên Bộ Chính
trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trƣởng).
Tố Hữu mất tại Hà Nội ngày 9-12-2002 sau một thời gian lâm bệnh
nặng.
Ở Tố Hữu, con ngƣời chính trị và con ngƣời nhà thơ thống nhất chặt chẽ,
sự nghiệp thơ gắn liền vời sự nghiệp cách mạng, trở thành một bộ phận của sự
nghiệp cách mạng.
1.1.2. Khái quát về sự nghiệp thơ của Tố Hữu
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nên văn nghệ cách mạng Việt
Nam. Các chặng đƣờng thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật
những chặng đƣờng cách mạng đầy gian khổ hi sinh nhƣng cũng nhiều thắng
lợi vinh quang của dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đƣờng vận động
trong quan điểm tƣ tƣởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ.
Tập thơ Từ ấy (1937- 1946) là chặng đƣờng đầu tiên của đời thơ Tố Hữu,
đánh dấu bƣớc trƣởng thành của ngƣời thanh niên quyết tâm đi theo ngọn cờ
của Đảng. Tập thơ chia làm 3 phần. Máu lửa gồm những bài sáng tác trong
thời kì Mặt trận Dân chủ. Nhà thơ cảm thống sâu sắc với cuộc sống cơ cực
của những ngƣời nghèo khổ trong xã hội( lão đầy tớ, chị vú em, cô gái giang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12
hồ, những em bé mồ côi, đi ở, hát dạo,…), đồng thời khơi dậy ở họ ý chí đấu
tranh và niềm tin vào tƣơng lai. Xiềng xích gồm những bài sáng tác trong
những nhà lao lớn ở Trung Bộ và Tây Nguyên. Đó là tâm tƣ của ngƣời trẻ
tuổi tha thiết yêu đời và khát khao tự do, là ý chí kiên cƣờng của ngƣời chiến
sĩ quyết tâm tiếp tục cuộc chiến đấu ngay trong nhà tù. Giải phóng gồm
những bài sáng tác từ khi Tố Hữu vƣợt ngục đến những ngày đầu giải phóng
vĩ đại của toàn dân tộc. Nhà thơ nồng nhiệt ca ngợi thắng lợi của cách mạng ,
nền độc lập, tự do của Tổ quốc, khẳng địng niềm tin tƣởng vững chắc của
nhân dân vào chế độ mới.
Tập thơ Việt Bắc (1946- 1954) là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc
kháng chiến chống Pháp và những con ngƣời kháng chiến. Họ là những ngƣời
lao động rất bình thƣờng và cũng rất anh hùng. Với tấm lòng yêu nƣớc thắm
thiết và cảm phục sâu xa, Tố Hữu đã miêu tả và ca ngợi anh vệ quốc quân, bà
mẹ nông dân, chị phụ nữ, em liên lạc,…Nhà thơ ca ngợi Đảng và Bác Hồ đã
khơi nguồn và phát huy sức mạnh của quân dân ta để đánh thắng kẻ thù.
Nhiều tình cảm lớn đƣợc thể hiện sâu đậm: tình quân dân “cá nƣớc”, tiền
tuyến với hậu phƣơng, miền xuôi với miền ngƣợc, cán bộ với quần chúng,
nhân dân với lãnh tụ, tình yêu thiên nhiên, yêu đất nƣớc, tình cảm quốc tế vô
sản,… Tập thơ kết thúc bằng những bài hùng ca vang dội phản ánh khí thế
chiến thắng hào hùng, biết bao tình cảm bồi hồi, xúc động của dân tộc trong
những giờ phút lịch sử.
Bƣớc vào giai đoạn cách mạng mới, tập thơ Gío lộng( 1955-1961) dạt
dào bao nguồn cảm hứng lớn lao. Nhà thơ hƣớng về quá khứ để thấm thía
những nỗi đau khổ của cha ông, công lao của những thế hệ đi trƣớc mở
đƣờng, từ đó ghi sâu ân tình của cách mạng. Qua sự cảm nhận của Tố Hữu,
cuộc sống mới trên miền Bắc thực sự là một ngày hội lớn, nhìn vào đâu cũng
thấy tràn đầy sức sống và niềm vui. Đất nƣớc đau nỗi đau chia cắt, thơ Tố
Hữu là tình cảm thiết tha sâu nặng với miền Nam ruột thịt. Đó là nỗi nhớ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13
thƣơng quê hƣơng da diết, tiếng thét căm hận ngút trời, lời ngợi ca những con
ngƣời kiên trung, bất khuất, niềm tin không gì lay chuyển đƣợc vào ngày mai
thắng lợi thống nhất non sông.
Hai tập thơ Ra trận (1962- 1971), Máu và hoa ( 1972- 1977) âm vang
khí thế quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nƣớc và niềm vui toàn
thắng. Ra trận là bản anh hùng ca về “Miền Nam trong lửa đạn sáng ngời”
với bao hình ảnh tiêu biểu cho dũng khí kiên cƣờng của dân tộc: anh giả
phóng quân “con ngƣời đẹp nhất”, ngƣời thợ điện “dáng hiên ngang vẫn
ngẩng cao đầu”, những “em thơ cũng ngẩng cao đầu”, bà mẹ “Một tay lái
chiếc đò ngang”, anh công nhân “ lấp hố bom mà dựng lò cao”, cô dân quân
“vai súng tay cày”,… Máu và hoa ghi lại một chặng đƣờng cách mạng đầy
gian khổ, hi sinh, khẳng định niềm tin sâu sắc vào sức mạnh tiềm tàng của xứ
sở quê hƣơng, cũng nhƣ của mỗi con ngƣời Việt Nam mới, biểu hiện niềm tự
hào và niềm vui phơi phới khi “toàn thắng về ta”.
Một tiếng đờn (1992) và Ta với ta (1999) là hai tập thơ đánh dấu bƣớc
chuyển biến mới trong thơ Tố Hữu. Dòng chảy sôi động của cuộc sống đời
thƣờng với bao vui buồn, đƣợc mất, sƣớng khổ, mừng lo khơi gợi trong tâm
hồn nhà thơ nhiều cảm xúc suy tƣ. Tố Hữu tìm đến những chiêm nghiệm
mang tình phổ quát về cuộc đời và con ngƣời. Vƣợt lên bao biến động thăng
trầm, thơ Tố Hữu vẫn kiên định niềm tin vào lí tƣởng và con đƣờng cách
mạng, tin vào chữ nhân luôn toả sáng ở mỗi ngƣời.
Nhƣ vậy, thơ Tố Hữu là một thành công xuất sắc của thơ cách mạng,
và kế tục một truyền thống tốt đẹp của thơ ca Việt Nam qua nhiều thời đại.
Con đƣờng thơ của Tố Hữu là con đƣờng tìm sự kết hợp hài hoà hai yếu tố,
hai cội nguồn là cách mạng và dân tộc trong hình thức đẹp đẽ của thơ ca. Sức
hút của thơ Tố Hữu với những thế hệ bạn đọc trong suốt thời gian qua chủ
yếu ở niềm say mê lí tƣởng và tính dân tộc đậm đà trong cả nội dung và hình
thức của thơ ông. Chính vì thế, Tố Hữu đã vinh dự đƣợc nhận các giải
thƣởng: Giải Nhất Giải thƣởng văn học của Hội Văn nghệ Việt Nam (1954-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14
1955) cho tập thơ Việt Bắc, Giải thƣởng Văn học ASEAN – 1996 cho tập thơ
Một tiếng đờn và Giải thƣởng HỒ CHÍ MINH về văn học và nghệ thuật
(1996). Tố Hữu xứng đáng đƣợc coi là con chim đầu đàn vạch hƣớng cho cả
nền thơ cách mạng Việt Nam
1.2. Khái quát về phƣơng ngữ tiếng Việt
Để thực hiện đề tài này ngƣời viết thấy cần thiết phải xác định rõ một số
khái niệm liên quan sẽ đƣợc sử dụng. Trên cơ sở trình bày các ý kiến của các
tác giả đi trƣớc, ngƣời viết đi đến lựa chọn những quan niệm làm cơ sở cho
việc thực hiện đề tài này.
1.2.1. Khái niệm phương ngữ
Phƣơng ngữ (dialect) là một khái niệm phức tạp của ngôn ngữ học. Thuật
ngữ này tồn tại song song với một số từ khác ít mang tính thuật ngữ hơn nhƣ:
phương ngôn, tiếng địa phương, giọng địa phương… Trong luận văn này,
ngƣời viết dùng thuật ngữ phương ngữ.
Theo tác giả Hoàng Thị Châu phƣơng ngữ là “Biến dạng của một ngôn
ngữ đƣợc sử dụng với tƣ cách là phƣơng tiện giao tiếp của những ngƣời gắn
bó chặt chẽ với nhau trong một cộng đồng thống nhất về mặt lãnh thổ, về
hoàn cảnh xã hội, về nghề nghiệp, còn gọi là tiếng địa phƣơng”[6, tr 24]
Phƣơng ngữ đƣợc chia ra phƣơng ngữ lành thổ và phƣơng ngữ xã hội.
Phƣơng ngữ lãnh thổ là phƣơng ngữ phổ biến ở một vùng lãnh thổ nhất định.
Nó luôn là một bộ phận của một chỉnh thể của một ngôn ngữ nào đó. Phƣơng
ngữ lãnh thổ có những khác biệt trong âm thanh, từ ngữ, ngữ pháp. Những
khác biệt này trong trƣờng hợp tiếng Việt là không lớn, vì vậy những ngƣời
nói những phƣơng ngữ khác nhau của một ngôn ngữ vẫn hiểu đƣợc nhau.
Phƣơng ngữ xã hội thƣờng đƣợc hiểu là ngôn ngữ của một nhóm xã hội nhất
định. Trong tiếng Việt, loại phƣơng ngữ này bao giờ cũng có từ xã hội, làm
định ngữ, và do bộ môn Ngôn ngữ học xã hội nghiên cứu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15
Nhƣ vậy, phương ngữ là một thuật ngữ của ngôn ngữ học để chỉ sự biểu
hiện của ngôn ngữ toàn dân và là biến thể của ngôn ngữ này ở một địa
phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay
với một phương ngữ khác [ 5, tr. 29]
Sự phát triển, biến đổi của ngôn ngữ luôn diễn ra trên hai mặt cấu trúc và
chức năng. Cùng với sự phát triển chức năng nhiều mặt của ngông ngữ, sự
phát triển cấu trúc của ngôn ngữ thể hiện ở sự biến đổi về ngữ âm, từ vựng-
ngữ nghĩa, ngữ pháp. Phƣơng ngữ là nơi thể hiện kết quả của sự biến đổi ấy.
Chính vì vậy, phƣơng ngữ khác với ngôn ngữ toàn dân ở một vài khía cạnh
nào đó, nhƣng về căn bản cái mã chung- hệ thống cấu trúc ngữ pháp, từ vựng,
âm vị giữa phƣơng ngữ và ngôn ngữ toàn dân là khá tƣơng đồng. Tóm lại nói
tới phƣơng ngữ là nói tới một hiện tƣợng phức tạp của một ngôn ngữ không
chỉ về mặt hệ thống cấu trúc, cũng nhƣ phƣơng tiện thể hiện mà bản thân nó
cũng là sự phản ánh của nhiều mối quan hệ xã hội và lịch sử trong và ngoài
ngôn ngữ.
1.2.2. Đặc điểm phương ngữ tiếng Việt
Phƣơng ngữ tiếng Việt đƣợc chia thành nhiều vùng khác nhau. Có nhiều
ý kiến về số vùng phƣơng ngữ tiếng Việt. Theo Hoàng Thị Châu và nhiều
ngƣời khác, tiếng Việt có ba phƣơng ngữ: phƣơng ngữ Bắc, phƣơng ngữ
Trung và phƣơng ngữ Nam. Có thể nêu sơ lƣợc để ta hình dung chung về đặc
điểm của các phƣơng ngữ tiếng Việt nhƣ sau:
1.2.2.1. Đặc điểm về ngữ âm
Nếu ta lấy hệ thống âm vị tiếng Việt đƣợc phản ánh qua chính tả làm
chuẩn để khảo sát sự khác nhau của ba phƣơng ngữ nói trên, thì có thể nêu
những đặc trƣng ngữ âm chủ yếu nhƣ sau:
* Đặc điểm ngữ âm của phƣơng ngữ Bắc:
- Hệ thống thanh điệu: có 6 thanh, đối lập từng đôi về âm vực và âm
điệu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16
- Hệ thống phụ âm đầu: có 20 âm vị không có ngững phụ âm ghi trong
chính tả là s, r, gi, tr, tức là không phân biệt s/ x, r/ d / gi, tr/ ch. Lẫn lộn l / n
(vùng châu thổ sông Hồng và sông Thái Bình)
- Hệ thống âm cuối: có đủ các âm cuối ghi trong chính tả. Có 3 cặp âm
cuối ở thế phân bố bổ túc là:
[-nh, -ch] đứng sau nguyên âm dòng trƣớc [i,ê,e]
[-ng,-k] đứng sau nguyên âm dòng giữa [ ƣ, ơ, â, a, ă]
[-ng
m…,-kp…] đứng sau nguyên âm dòng sau tròn môi [u, ô, o].
* Đặc điểm ngữ âm của phƣơng ngữ Trung:
- Hệ thống thanh điệu có 5 thanh, khác với hệ thống thanh điệu phƣơng
ngữ Bắc cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng.
- Hệ thống phụ âm đầu: có 23 phụ âm đầu, hơn phƣơng ngữ Bắc 3 phụ
âm uốn lƣỡi [s, z, t] (chữ quốc ngữ ghi bằng s, r, tr). Trong nhiều thổ ngữ có
hai phụ âm bật hơi [ph, kh] thay cho 2 phụ âm xát [f, x] trong phƣơng ngữ
Bắc.
- Trong hệ thông âm cuối, đôi phụ âm [-ng,-k] có thể kết hợp đƣợc với
các nguyên âm trƣớc,giữa và sau. Tuy vậy trong những từ chính trị- xã hội
mới xuất hiện gần đây, vẫn có các cặp âm cuối [-nh,-ch] và [-ngm…,-kp…]
* Đặc điểm ngữ âm phƣơng ngữ Nam:
- Hệ thống thanh điệu: có 5 thanh, thanh ngã và thanh hỏi trùng làm một.
Xét về mặt điệu tính, thì đây là một hệ thống thanh điệu khác với phƣơng ngữ
Bắc và phƣơng ngữ Trung
- Hệ thống phụ âm đầu : có 23 phụ âm, có các phụ âm uốn lƣỡi nhƣ
phƣơng ngữ Trung [s,z,t] chữ viết ghi là s,r, tr. Ở Nam Bộ r có thể phát âm
rung lƣỡi [r]. So với các phƣơng ngữ khác, thì phƣơng ngữ Nam thiếu phụ âm
[v ], nhƣng lại có thêm [w] bù lại, không có âm [z] đƣợc thay thế bằng âm [j].
- Âm đệm [-u-] không gặp trong phƣơng ngữ Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17
- Mất đi rất nhiều vần so với phƣơng ngữ Bắc và phƣơng ngữ Trung.
Thiếu đôi âm cuối [-nh,-ch].
- Đôi âm cuối [-ng…, -k…] trở thành những âm vị độc lập.
1.2.2.2. Đặc điểm về từ vựng và ngữ nghĩa:
Để thấy đƣợc đặc điểm từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt ta phải phân biệt
hai lĩnh vực khác nhau là sự phát triển lịch sử ngữ âm của tiếng Việt và nguồn
gốc khác nhau của chúng. Nhữmg từ khác nhau do biến đổi ngữ âm tạo nên
những từ khác âm bộ phận. Các từ này chỉ khác nhau chỉ một hai bộ phận, có
thể ở phụ âm đầu, ở nguyên âm, ở phụ âm cuối hay ở thanh điệu. Bởi vì một
từ biến đổi về ngữ âm không phải biến đổi tất cả các bộ phận cùng một lúc mà
phần lớn mà biến đổi một trong những bộ phận này thôi, trong khi các bộ
phận kia vẫn còn nguyên, cho nên đây là cơ sở để khẳng định rằng, các bộ
phận này là âm vị, rằng âm tiết có thể phân đoạn đƣợc. Tuỳ theo bộ phận khác
âm, ta có thể chia ra những từ khác phụ âm đầu, những từ khác nguyên âm và
những từ khác phụ âm cuối, thanh điệu,….
a, Đặc điểm về từ vựng:
* Những từ cùng gốc:
- Từ thể hiện quá trình xát hoá: Biến thể cổ b, đ ở phƣơng ngữ Trung
tƣơng ứng với v, z ở phƣơng ngữ Bắc. Ví dụ :
Bui/ vui, bá/ vá, ban/ vai, bo/ vo, bƣa/ vừa…
đa/ da, đƣới/ dƣới, đao/ dao, đốc/ dốc…
- Từ thể hiện quá trình xát hoá và hữu thanh hoá. Biến thể cổ ở phƣơng
ngữ Trung tƣơng ứng với biến thể mới ow phƣơng ngữ Bắc. Ví dụ:
ph, th, kh/ v,z (d), G(g) : ăn phúng/ ăn vụng, phở đất/ vỡ đất, phổ
tay/ vỗ tay…; nhà thốt/ nhà dột, mƣa thâm/ mƣa dầm, thu/ dấu…; khải/ gãi,
khở/ gỡ, khỏ/ gõ, khót/gọt…
ch, k,/j(gi),G(g) : chi/ gì, chừ/giờ; cấu/ gạo, cỏ cú/cỏ gấu, trốc cúi/
đầu gối…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18
- Hiện tƣợng hữu thanh hoá thƣờng xảy ra cùng với việc hạ thấp thanh
điệu: thanh không thành thanh huyền, thanh sắc thành thanh nặng, thanh hỏi
thành thanh ngã. Phụ âm vô thanh đi với thanh cao ở phƣơng ngữ Trung còn
phụ âm hữu thanh đi với thanh trầm gặp ở phƣơng ngữ Bắc:
Sắc/ nặng: ăn phúng/ ăn vụng, nhà thốt/ nhà dột…
Không/ huyền: ca/ gà, chi/ gì, mƣa thâm/ mƣa dầm, …
Hỏi/ ngã: phở/ vỡ, phổ/ vỗ, khở/gỡ…
- Những từ có phụ âm đầu khác với ngôn ngữ văn học có thể tìm thấy
trong phƣơng ngữ Bắc nhƣng không nhiều hiện tƣợng nhƣ phƣơng ngữ
Trung: dăn deo/ nhăn nheo, duộm/ nhuộm, dức đầu/ nhức đầu, con nhộng/
con dộng…
- Những từ khác nguyên âm thể hiện quá trình biến đổi từ nguyên âm
đơn sang nguyên âm đôi theo hai khuynh hƣớng:
+ Nguyên âm đôi mở dần trong phƣơng ngữ Bắc và phƣơng ngữ Nam:
e/ei, a/ ƣơ, o/ uo : méng/ miếng, mẹng/ miệng, lả/ lửa, nác/ nƣớc, mạn/ mƣợn,
lái/lƣới, ló/lúa, nót/nuốt, lòn/luồn, mói/ muối…
+ Nguyên âm đôi mở dần trong các phƣơng ngữ khác: i/ iê, u/ôu: con
chí/ con chấy, ni/nầy, mi/ mầy, nu/nâu, bu/bâu, tru/ trâu, trú/ trấu …
- Những từ khác phụ âm cuối biểu hiện ở một số thổ ngữ Thanh Hoá:
phụ âm cuối -n biến đổi thành –j : cằn cấn/ cày cấy, kha cắn/ gà gáy…; cái
vắn/ cái váy, ban/ vai, con mõn/ con muỗi, cái chũn/ cái chổi….
* Từ khác gốc (không có quan hệ ngữ âm): Có những phƣơng ngữ có hai
hay nhiều từ khác hẳn nhau nhƣng lại đồng nghĩa, thí dụ trái và quả, bông và
hoa. Những từ này là do xuất phát từ những nguồn gốc khác nhau. Có thể
thấy, các từ này tập trung chủ yếu vào một từ loại là danh từ.
VD: Thuyền ở phƣơng ngữ Bắc. Lúc đầu ngƣời Việt nói nôốc
(Khơme). Từ thuyền là gốc Hán -Việt. Từ nôốc phổ biến ở phƣơng ngữ Trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19
( chủ yếu là vùng Bắc Trung Bộ từ Nghệ An đến hết Thừa Thiên Huế ). Một
vài sự so sánh khác:
PNB PNT PNN
quả dứa trấy thơm trái gai
quả roi trấy đào trái mận
bát đọi chén
thuyền nôốc ghe
cá quả cá tràu cá lóc
b, Đặc điểm về ngữ nghĩa:
Xét về mặt ngữ nghĩa thì phƣơng ngữ Bắc có ƣu điểm là ngôn ngữ đã
đƣợc thừa hƣởng truyền thống văn học viết. Ngôn ngữ văn học Việt Nam
đƣợc xây dựng trên nền tảng phƣơng ngữ Bắc. Kết quả là nó có đƣợc một vốn
từ vựng phong phú hơn các khu vực khác, ở chỗ tƣơng ứng với một từ ở
phƣơng ngữ Trung và phƣơng ngữ Nam để chỉ một trạng thái hay một tính
chất, một cảm xúc thì có cả một loạt từ. Phƣơng ngữ Nam là phƣơng ngữ mới
và những ngƣời sử dụng có nguồn gốc khác nhau ( Hoa, Khơ me).
PNN PNB
lạnh lạnh, rét, giá, buốt
ốm gầy, còm, còi, cọc
thƣơng yêu, mến thƣơng
Từ chỉ đơn vị (chỉ loại) trong phƣơng ngữ Nam dùng rất khái quát. Ở
Bắc Bộ ngƣời ta nói: miếng cơm, ngụm nƣớc, mẩu giấy, thì ở Nam bộ dùng
chung một từ “miếng”.Sự khái quát hoá về nghĩa trong phƣơng ngữ Nam
đƣợc đền bù lại bằng hàng loạt phó từ và trạng từ để tăng cƣờng sự thể hiện
mức độ cho tính từ và động từ. Ngôn ngữ văn chƣơng cần sự phân biệt tế nhị
về sắc thái từng nghĩa một, do đó dù là ngƣời địa phƣơng nào, nói nhƣ thế nào
trong sinh hoạt hàng ngày, nhƣng đã cầm bút viết, là viết trƣớc hết bằng từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20
vựng của ngôn ngữ văn học rồi sau đó mới thêm những từ địa phƣơng để tô
điểm cho ngôn ngữ nghệ thuật của mình.
1.2.2.3. Đặc điểm về ngữ pháp.
Trong tiếng Việt về mặt ngữ pháp hầu nhƣ rất ít sự khác biệt. Có chăng
những sự khác biệt ấy, thƣờng nằm ở cấp độ từ và cũng chỉ ở một số từ loại,
nhƣ đại từ, tiểu từ tình thái,… Sau đây là một vài nét khu biệt điển hình trong
các hệ thống đại từ:
* Hệ thống đại từ chỉ định và nghi vấn:
PNB PNT PNN
này ni nầy
thế này ri vầy
ấy nớ đó
kia tê đó
đâu nào mô đâu, nào
* Hệ thống đại từ xƣng hô:
PNB PNT PNN
tôi tui tui
tao tau tao, qua
chúng tôi bầy tui tụi tui
mày mi mầy
Cô ấy o nớ cổ
chị ấy ả nớ chỉ
anh ấy eng nớ ảnh
……
* Đại từ hoá danh từ:
Thêm dấu hỏi (thanh hỏi) để biến danh từ thành đại từ là một phƣơng
ngữ thức ngữ pháp sử dụng rộng rãi trong PNN. Ngoài đại từ nhân xƣng nhƣ
trên đã dẫn ra: ổng, bả, cổ chỉ, ảnh,…còn hình thành những đại từ chỉ không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21
gian: trỏng(trong ấy), ngoải (ngoài ấy), đại từ chỉ thời gian: hổm (hôm ấy),
nẳm (năm ấy)…Các biến đổi này thấy ở Thanh Hoá, và chủ yếu là từ Nam
Trung Bộ trở vào phƣơng ngữ Nam.
Những từ có tần số xuất hiện cao nhƣ ấy, với lại cũng đƣợc rút ngắn
trong PNB, nhƣng không tạo thành một phƣơng thức ngữ pháp nêu trên: “ ấy”
thành “ý”, “với” thành “mí”, “ chứ lại” thành “chứ lị”.
Tóm lại, từ ngữ địa phƣơng tiếng Việt luôn vận động và phát triển, đa
dạng và phong phú. Trong sáng tác văn học, việc sử dụng vốn từ địa phƣơng
thì dễ gặp ở nhiều tác phẩm, cả văn xuôi và thơ vì mỗi tác giả đều sinh ra và
lớn lên ở một vùng đất nhất định. Tuy vậy từ ngữ địa phƣơng khi đƣa vào tác
phẩm văn học cần phải chọn lọc vì nếu không nó sẽ gây sự khó hiểu đối với
độc giả không thuộc vùng đất ấy.
Nhà thơ Tố Hữu sinh ra ở Thừa Thiên Huế là một nhà thơ rất nhạy cảm
với các từ địa phƣơng nên trong sáng tác của mình tác giả đã đƣa từ ngữ địa
phƣơng vào trong tác phẩm mà không gây phản cảm cho ngƣời đọc. Mà
ngƣợc lại, từ địa phƣơng đƣợc Tố Hữu dụng mang hiệu quả nghệ thuật rất
cao. Điều này hẳn có những lý do nhất định mang tính nguyên tắc, điều mà
chúng ta sẽ có dịp xem xét ở các chƣơng sau.
1.3. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
1.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật
Nói đến ngôn ngữ nghệ thuật (ngôn ngữ văn chƣơng, ngôn ngữ văn
học) trƣớc hết là nói đến ngôn ngữ gợi hình, gợi thanh, nói chung là khơi gợi
đƣợc những cảm giác (gợi cảm) nơi ngƣời đọc đƣợc dùng trong văn bản nghệ
thuật.
Ngôn ngữ nghệ thuật còn đƣợc sử dụng trong lời nói nói hàng ngày và
cả trong văn bản thuộc các phong cách ngôn ngữ khác.
Ngôn ngữ trong các văn bản nghệ thuật đƣợc phân chia thành ba loại:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22
- Ngôn ngữ tự sự trong truyện, tiểu thuyết, bút kí, kí sự, phóng
sự…(văn vuôi)
- Ngôn ngữ thơ trong ca dao, vè, thơ ( nhiều thể loại khác nhau)…(
văn vần )
- Ngôn ngữ sân khấu trong kịch, chèo, tuồng,… (lời thoại mang tính
chất diễn xƣớng)
Mỗi loại trên đây lại có thể chia thành nhiều thể. Trong các thể loại này,
các phƣơng tiện diễn đạt có tính nghệ thuật đan xen lẫn nhau để ngƣời đọc
thẩm bình, thƣởng thức, giao cảm: hoặc là cái hay của âm điệu, hoặc vẻ đẹp
chân thực sinh động của tình huống giao tiếp, hoặc những cảm xúc chân thành
gợi ra những nỗi niềm vui, buồn, yêu, thƣơng trong cuộc sống.
Nhƣ thế, ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ thực hiện chức năng thông tin
mà điều quan trọng là nó thực hiện chức năng thẩm mĩ: biểu hiện cái đẹp và
khơi gợi, nuôi dƣỡng cảm xúc nơi ngƣời nghe ngƣời đọc.
Ngôn ngữ nghệ thuật tuy lấy ngôn ngữ tự nhiên hằng ngày làm chất liệu
nhƣng khác với ngôn ngữ hàng ngày ở sự gọt giũa, chọn lọc điển hình với
chức năng thẩm mĩ. Phẩm chất thẩm mĩ mà nó có đƣợc là do lựa chọn, xếp
đặt, trau chuốt, tinh luyện trong những điều kiện sử dụng nhất định theo các
mục đích thẩm mĩ khác nhau.
Tóm lại, ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác
phẩm văn chƣơng, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thoả mãn nhu
cầu thẩm mĩ của con ngƣời. Đây là ngôn ngữ đƣợc tổ chức, xếp đặt, lựa chọn,
tinh luyện, điển hình từ ngôn ngữ thông thƣờng và chức năng của nó đạt đƣợc
giá trị nghệ thuật- thẩm mĩ.
1.3.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Một số tác giả Việt Nam đã đề cập nhiều “đặc điểm tu từ” của phong
cách ngôn ngữ nghệ thuật [Cù Đình Tú- 1993, Đinh Trọng Lạc- 2000, Hữu
Đạt- 2002]. Ta có thể khái quát các đặc điểm đó trong ba đặc trƣng cơ bản của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23
phong cách ngôn ngữ này là: tính hình tƣợng, tính truyền cảm và tính cá thể
hoá. Ba đặc trƣng này làm thành các tiêu chí cùng với tiêu chí chức năng
thẩm mĩ xác định một phong cách độc lập: phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
1.3.2.1. Tính hình tượng:
Tính hình tƣợng là đặc trƣng cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật.
Ví dụ trong bài ca dao:
“ Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
nội dung tƣ tƣởng, tình cảm, cảm xúc về cái đẹp không phải đƣợc biểu hiện
trực tiếp qua từ ngữ và câu văn thông thƣờng mà qua các hình tƣợng cụ thể(
lá xanh, bông trắng, nhị vàng), và qua cả các lớp lang trong ngoài để gợi
tả,…Hơn nữa, bao trùm lên tất cả là hình tƣợng sen nhƣ là một tín hiệu thẩm
mĩ về phẩm chất thanh cao, đẹp đẽ trong tự nhiên và cả trong xã hội loài
ngƣời.
Để tạo ra hình tƣợng ngôn ngữ, ngƣời viết thƣờng dùng rất nhiều phép tu
từ: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nói quá, nói giảm nói tránh….Những phép tu từ
này đƣợc dùng sáng tạo, hoặc đơn lẻ hoặc phối hợp với nhau. Sau đây là một
số ví dụ (chúng tôi nhấn mạnh những câu có sử dụng phép tu từ ):
- So sánh:
Ta đi tới, trên đường ta bước tiếp,
Rắn như thép, vững như đồng
Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp
Cao như núi, dài như sông
Chí ta lớn như biển Đông trước mặt!
( Tố Hữu, Ta đi tới )
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24
- Ẩn dụ:
“ Nhưng cũng có những cây vượt lên được đầu người, cành lá sum sê
như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi
chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường
tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã…. Cứ thế hai ba
năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.
(Nguyễn Trung Thành, Rừng xà nu)
- Hoán dụ:
Ta đã lớn lên rồi trong khói lửa
Chúng nó chẳng còn mong được nữa
Chặn bàn chân một dân tộc anh hùng
Những bàn chân từ than bụi, lầy bùn
Đã bước dưới mặt trời cách mạng.
( Tố Hữu, Ta đi tới )
Ngoài ra còn có sự đóng góp của nhiều yếu tố ngôn ngữ khác, nhƣ yếu
tố ngữ âm cũng góp phần tạo nên hình tƣợng. Hình tƣợng âm thanh trong thơ
và văn xuôi góp phần gợi hình, gợi cảm rất hiệu quả.
Nhƣ một kết quả tất yếu của tính hình tƣợng, ngôn ngữ nghệ thuật có
tính đa nghĩa. Từ ngữ, câu văn, hình ảnh hoặc toàn bộ văn bản nghệ thuật có
khả năng gợi ra nhiều nét nghĩa, nhiều tầng nghĩa khác nhau. Một từ sáng đặt
đúng chỗ trong câu thơ “ Một tiếng chim kêu sáng cả rừng” ( Khƣơng Hữu
Dụng) vừa có khả năng tạo nên một hình ảnh cụ thể, rõ nét, vừa gợi nhiều liên
tƣởng, từ đó hàm chứa những ý sâu xa. Hình tƣợng “ bánh trôi nƣớc” trong
bài thơ cùng tên của Hồ Xuân Hƣơng không chỉ miêu tả về một món ăn dân
tộc, mà còn ngụ ý nói đến thân phận của ngƣời phụ nữ trong xã hội lúc đó,
đồng thời khẳng định vẻ đẹp bên ngoài và phẩm chất bên trong của họ. Tính
đa nghĩa của ngôn ngữ nghệ thuật cũng quan hệ mật thiết với tính hàm súc:
lời ít mà ý tình thì sâu xa, rộng lớn. Ngƣời viết chỉ dùng một vài câu( thậm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25
chí thay đổi một vài từ) mà có thể gợi ra những hình tƣợng khác nhau: hình
tƣợng bánh trôi nƣớc, hình tƣợng ngƣời phụ nữ với những phẩm chất tốt đẹp
trong cảnh “ bảy nổi ba chìm”.
Nhƣ vậy, tính hình tƣợng của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là khái
niệm chỉ ra cách diễn đạt cụ thể, hàm súc và gợi cảm trong một ngữ cảnh cụ
thể.
1.3.2.2. Tính truyền cảm:
Trong lời nói đã chứa đựng những yếu tố tình cảm, thể hiện ở sự lựa
chọn các yếu tố ngôn ngữ: từ ngữ, câu, cách nói, giọng điệu.
Tính truyền cảm trong ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện ở chỗ làm cho
ngƣời nghe (đọc) cùng vui, buồn, yêu thích,… nhƣ chính ngƣời nói (viết).
Sức mạnh của ngôn ngữ nghệ thuật là tạo ra sự hoà đồng, cuốn hút, giao cảm,
gợi cảm xúc cho ngƣời đọc.
Năng lực gợi cảm xúc của ngôn ngữ nghệ thuật có đƣợc là nhờ sự lựa
chọn ngôn ngữ để miêu tả, bình giá đối tƣợng khách quan (truyện và kịch) và
thể hiện tâm trạng chủ quan (thơ trữ tình). Ngôn ngữ thơ thƣờng giầu hình
ảnh, nhƣng có khi không có hình ảnh mà vẫn có sức hấp dẫn lạ thƣờng, do sự
cảm thông sâu sắc với số phận, hoàn cảnh của con ngƣời. Ví dụ đây là một
tiếng thốt, một lời than thở, nhƣng có sức lay động lòng ngƣời:
Đau đớn thay phận đàn bà !
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
( Nguyễn Du, Truyện Kiều)
1.3.2.3. Tính cá thể hoá:
Ngôn ngữ là phƣơng tiện diễn đạt chung của cộng đồng nhƣng khi đƣợc
các nhà văn nhà thơ sử dụng thì ở mỗi ngƣời lại có khả năng thể hiện một
giọng riêng, một phong cách riêng, không dễ bắt chƣớc, pha trộn. Chẳng hạn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26
giọng thơ Tố Hữu không giống với giọng thơ Chế Lan Viên, giọng thơ Xuân
Diệu không giống với giọng thơ Huy Cận…. Sự khác nhau về ngôn ngữ là ở
cách dùng từ, đặt câu và ở cách sử dụng hình ảnh, bắt nguồn từ cá tính sáng
tạo của ngƣời viết. Chính những biện pháp sử lí ngôn ngữ đã tạo ra giọng điệu
riêng, phong cách nghệ thuật riêng của từng nhà văn nhà thơ trong sáng tạo
nghệ thuật. Mỗi tác phẩm văn chƣơng đích thực đều có tính cá thể hoá. Điều
đó đã làm nên phong cách riêng của tác giả.
Ngôn ngữ nghệ thuật nói chung và ngôn ngữ nhà văn nói riêng phải vừa
giống mọi ngƣời vừa khác mọi ngƣời. Có giống mọi ngƣời tức có thuận theo
chuẩn mực thì mọi ngƣời mới hiểu, có khác mọi ngƣời tức có lối nói riêng thì
mới thành ra văn để mọi ngƣời thích đọc. Sự giống ngôn ngữ mọi ngƣời là cái
thuộc về điều kiện nền tảng, sự khác ngôn ngữ mọi ngƣời là cái thuộc về điều
kiện bắt buộc. Đây chính là một trong những yếu tố quan yếu, là dấu hiệu để
xác định phong cách tác giả. Nó là dấu hiệu chứ không là phong cách tác giả
bởi vì không phải hễ cứ có sự khác ngôn ngữ mọi ngƣời là có phong cách tác
giả. Sự khác ngôn ngữ mọi ngƣời này phải nhƣ thế nào thì lúc đó mới tạo
thành phong cách tác giả. Trong phong cách ngôn ngữ văn chƣơng ta vẫn thấy
hiện tƣợng chỉ có tác giả mà không có phong cách tác giả. Sê- khôp nói rất có
lí rằng: Nếu tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì ngƣời đó sẽ không
bao giờ là nhà văn cả. Cái mà Sê- khôp gọi là “lối nói riêng” chính là phong
cách tác giả.
Muốn hiểu khái niệm phong cách tác giả chúng ta phải căn cứ vào hai
dấu hiệu cơ bản sau đây:
- Khuynh hƣớng ƣa thích và sở trƣờng sử dụng những loại phƣơng
tiện ngôn ngữ nào đó của tác giả.
- Sự đi chệch chuẩn mực của tác giả.
Mỗi nhà văn đều có những sở trƣờng ngôn ngữ của mình. Cái sở trƣờng
ngôn ngữ này khi thành thục đƣợc thán phục và không ai theo đƣợc thì thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27
biệt tài ngôn ngữ. Chẳng hạn Nguyễn Du là một biệt tài ngôn ngữ. Sở trƣờng
ngôn ngữ của một nhà văn dẫn đến khuynh hƣớng ƣa thích lựa chọn, sử dụng
những loại phƣơng tiện ngôn ngữ nhất định , khiến cho ngôn ngữ nhà văn
khác với mọi ngƣời. Nguyễn Công Hoan “ham” dùng “mê”dùng khẩu ngữ.
Những phƣơng tiện khẩu ngữ mà ông dùng trong truyện ngắn làm cho những
cái ông kể, ông tả hệt nhƣ ngoài đời, khiến cho độc giả tấm tắc, thích thú, thán
phục. Nguyễn Tuân có thói quen không bằng lòng với những từ cũ, những lối
diễn đạt cũ vì không biểu hiện đƣợc ý ông muốn nói. Ông luôn tìm lối diễn
đạt mới, “lạ tai”, “khác ngƣời” để có thể nói thật trúng cái suy nghĩ, cái cách
thức đặt vấn đề, cái nhìn nhận của mình. Nhƣ vậy, phong cách tác giả của
ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trƣớc hết ở khuynh hƣớng ƣa thích và sở trƣờng
sử dụng phƣơng tiện ngôn ngữ.
Dấu hiệu cơ bản thứ hai để xác định phong cách tác giả của ngôn ngữ
nghệ thuật là chệch chuẩn mực. Khuynh hƣớng ƣa thích là cái thuộc về bên
ngoài, bộc lộ ra bên ngoài còn sở trƣờng ngôn ngữ của các nhà văn là cái ẩn
tàng ở bên trong. Sở trƣờng ngôn ngữ của nhà văn không chỉ bộc lộ ở khuynh
hƣớng ƣa thích sử dụng những cái đã có của xã hội mà còn thể hiện ở việc tạo
ra những cái xã hội chƣa có, cần có. Nói khác đi, sở trƣờng ngôn ngữ dẫn đến
sáng tạo ngôn ngữ. Trong sự đối chiếu với chuẩn mực thì sáng tạo ngôn ngữ
có nghĩa là tạo ra những cái đi chệch chuẩn mực ngôn ngữ. Chệch chuẩn mực
- chứ không phải chống chuẩn mực- cũng là một cái “lỗi”, nhƣng là cái “lỗi
muốn có” cái “ lỗi nên có” ở các nhà văn để tạo nên phong cách tác giả. Đã là
nhà văn, không ai không đi chệch chuẩn mực, không ai không nuôi dƣỡng ý
định chệch chuẩn mực. Có thể nói thế giới ngôn ngữ nghệ thuật là thế giới của
ngôn ngữ toàn dân đồng thời cũng là thế giới của những ngƣời ƣa thích cái sự
tƣởng nhƣ ngƣợc đời, đi chệch khỏi lối nói chung, lối nói thƣờng thấy, thƣờng
nghe, vốn dễ dẫn tới sự mờ nhạt nhàm chán.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28
Do vậy, khi sáng tác những tác phẩm thơ, Tố Hữu đã sử dụng tài tình
khéo léo từ ngữ địa phƣơng và từ ngữ địa phƣơng đã trở thành ngôn ngữ nghệ
thuật trong thơ ông. Đó là một đặc điểm riêng của thơ Tố Hữu mà không phải
nhà thơ nào cũng có đƣợc. Vậy nét đặc sắc đó đƣợc thể hiện nhƣ thế nào thì ta
cần nghiên cứu, tìm hiểu cụ thể về nhiều mặt (dùng từ địa phƣơng nào, ở
vùng nào, trong những điều kiện cụ thể ra sao…), qua từng bài thơ, tập thơ,
chặng đƣờng thơ của ông. Và từ đó có thể thấy đƣợc quan điểm của nhà thơ
khi sử dụng lớp từ ngữ địa phƣơng vào trong thơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29
CHƢƠNG 2
VIỆC DÙNG TỪ ĐỊA PHƢƠNG TRONG THƠ TỐ HỮU
2.1. Khái niệm từ ngữ địa phƣơng
Trong sự nghiệp sáng tác thơ ca phục vụ cách mạng của mình, Tố
Hữu sáng tác khá nhiều thơ. Tập thơ mới nhất, cũng là khá đầy đủ, là tập “ Tố
Hữu thơ” do Nhà xuất bản Văn học ấn hành, in năm 2005, do GS. Hà Minh
Đức viết Lời giới thiệu. Có 285 bài thơ đƣợc giới thiệu ở đây, và chúng tôi sẽ
khảo sát cách dùng từ ngữ địa phƣơng trong thơ ông qua những bài thơ trong
tập này.
Để có cơ sở làm việc, thiết nghĩ, chúng ta cần làm rõ khái niệm cơ bản là
từ ngữ địa phương, điều mà ở đâu đó chúng tôi đã có đề cập. Về định nghĩa từ
ngữ địa phƣơng, chúng ta có thể tham khảo ở nhiều sách vở, bài báo, từ điển
khác nhau. Ở khái niệm này có hai yếu tố cần chú ý là từ và ngữ. Nếu ngữ là
sự kết hợp các từ, đƣợc dùng cố định, nguyên khối trong sử dụng, chủ yếu là
thành ngữ, quán ngữ, thì từ là các đơn vị hiển nhiên có nghĩa nhất định, có
phạm vi sử dụng nhất định, đƣợc xã hội chấp nhận. Vốn từ vựng của một
ngôn ngữ gồm có từ và ngữ, gồm nhiều lớp lang, trong đó có lớp từ ngữ địa
phƣơng. Định nghĩa mà chúng tôi chọn để dựa vào đó làm việc là của GS.TS
Nguyễn Thiện Giáp: “ Từ địa phương là từ được dùng hạn chế ở một hoặc
một vài địa phương. Nói chung, từ địa phương là bộ phận từ vựng của ngôn
ngữ nói hằng ngày của bộ phận nào đó của dân tộc, chứ không phải là từ
vựng của ngôn ngữ văn học. Khi dùng vào sách báo nghệ thuật, các từ địa
phương thường mang sắc thái tu từ: diễn tả lại đặc điểm của địa phương, đặc
điểm của nhân vật,v.v…”[16, tr.292-293]. Đây là định nghĩa tuy chƣa nói rõ
đƣợc tính chất biến thể của vốn từ vựng địa phƣơng, nhƣng nêu đƣợc sắc thái
sử dụng trong phong cách của chúng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30
2.2. Thống kê phân tích các từ ngữ địa phƣơng đƣợc sử dụng trong thơ
Tố Hữu
2.2.1. Bảng thống kê chung
Theo kết quả khảo sát, qua 7 tập thơ in chung trong cuốn thơ Tố
Hữu,ngƣời viết có nhận xét cụ thể sau:
Thơ Tố Hữu đƣợc chọn và giới thiệu, nhƣ đã nêu, tất cả là 285 bài thơ in
trong tập: Từ Ấy(1937-1946), Việt Bắc(1946-1954), Gió lộng( 1955-1961), Ra
trận (1962-1971), Máu và hoa(1972-1977), Một tiếng đờn(1979-1982), Ta
với ta(1993-2002). Tác giả đã đã sử dụng tất cả là 267 từ địa phƣơng (có số
lần sử dụng 650 từ). Nhƣ vậy trung bình mỗi trang là 0,9 từ địa phƣơng. Từ
địa phƣơng sử dụng trong thơ Tố Hữu khá nhiều. Dƣới đây là kết quả thống
kê chung:
STT Các tập thơ
Số lƣợt
sử dụng
Tỉ lệ
phần
trăm
Tổng
sốtrang
Tỉ lệ từ/
trang
1 Từ ấy 305 46,3% 152 trang 2,06
2 Việt Bắc 96 14,1% 68 trang 1,41
3 Gió lộng 32 4,7% 84 trang 0,38
4 Ra trận 90 14,6% 124 trang 0,79
5 Máu và hoa 43 6,4% 51 trang 0,84
6 Một tiếng đờn 55 8,1% 123 trang 0,44
7 Ta với ta 29 5,8% 104 trang 036
Tổng
số
7 tập 650 100% 706 trang 0,9
Bảng 1- Bảng khảo sát chung
Trong mỗi tập thơ, bài thơ từ ngữ địa phƣơng đƣợc nhà thơ sử dụng
rất đa dạng, phong phú và hợp lý tuỳ thuộc vào đề tài, thời gian, hoàn cảnh
sáng tác, ngữ cảnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31
2.2.2. Từ ngữ địa phương trong từng tập thơ
Căn cứ vào số liệu thống kê và việc sử dụng từ địa phƣơng trong thơ Tố
Hữu ta có thể đƣa ra những nhận xét theo từng tập, cũng là từng giai đoạn thơ
ông.
Ở tập thơ Từ ấy Tố Hữu đã sử dụng số lƣợng từ địa phƣơng khá lớn (305
từ) chiếm tỷ lệ 46,3 % số lƣợng từ địa phƣơng đƣợc ông sử dụng. Sở dĩ có
hiện tƣợng nhƣ vậy là vì Từ ấy cái thời điểm của một tâm hồn thơ tìm đƣợc lí
tƣởng, đã đƣa dòng thơ đi về phía cuộc đời, gắn bó với những ngƣời anh em
lao khổ và tiếp nhận đƣợc sinh lực mới không bao giờ vơi cạn. Thơ ông ngay
từ dòng đầu đã hoà nhập đƣợc với cuộc đời chung, bởi lời thơ của ông mộc
mạc, giản dị, gần gũi nhƣ chính đời sống vậy. Và chính sự góp mặt của từ địa
phƣơng đã làm nên điều đó.
Việt Bắc lại là một sự hoà hợp mới. Đời sống dân tộc trong những năm
tháng chiến tranh, núi rừng và quê hƣơng kháng chiến đòi hỏi một tiếng nói
nghệ thuật thích hợp. Thơ ông trở về với cách nói gần gũi, chân tình thắm
thiết của thơ ca truyền thống. Tố Hữu sử dụng thành công hình thức thơ dân
tộc. Thể thơ lục bát đƣợc Tố Hữu nâng cao với giọng điệu thơ đằm thắm, thiết
tha mang hồn quê hƣơng, đất nƣớc trong “Bầm ơi” của Việt Bắc. Và sau này
với “Tiếng hát sang xuân”, “Bài ca quê hƣơng”, nhất là “Nƣớc non ngàn
dặm”, Tố Hữu trở thành một trong số ít những ngƣời làm thơ lục bát hay nhất
ở giai đoạn sau cách mạng. So với tập thơ đầu tay thì tập “Việt Bắc” sử dụng
từ địa phƣơng ít hơn nhƣng có hiệu quả nghệ thuật cao.
Bầm ơi có rét không bầm
Heo heo gió núi lâm thâm mưa phùn
Chỉ với một từ “Bầm” thôi nhƣng ẩn đằng sau nó là biết bao tình cảm
gần gũi thân thiết đối với mẹ. Hơn nữa, ở đây tác giả còn hiệp vần giữa từ địa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32
phƣơng với vần của từ văn hoá tạo nên âm hƣởng trầm lắng của câu thơ và
của bài thơ.
Đến Gío lộng hình thức nghệ thuật lại đƣợc mở rộng, phóng khoáng với
thơ tự do, phù hợp với cái bát ngát, tƣơi đẹp của Tổ quốc trong một thời kì
mới; có chất căm giận sôi sục của “Thù muôn đời muôn kiếp không tan”, có
điệu mƣợt mà của “Em ơi… Ba Lan”… và nhịp ngắt linh hoạt với “Tiếng chôỉ
tre”. Nên ở tập thơ này tác giả sử dụng từ địa phƣơng ít (32 từ ).
Bƣớc vào chặng đƣờng cuối của cuộc đời thơ, Tố Hữu vẫn có những hứa
hẹn riêng ở cái duyên đằm thắm và tấm lòng nhân hậu trong thơ. Đã qua
những thăng trầm, trải nghiệm trƣớc cuộc đời, nhƣ một lẽ thƣờng, nhà thơ
muốn chiêm nghiệm về cuộc sống, về lẽ đời hƣớng tới những quy luật phổ
quát và kiếm tìm những giá trị bền vững, giọng thơ vì thế thƣờng trầm lắng,
thấm đƣợm chất suy tƣ. Cho nên, càng về sau Tố Hữu càng ít đƣa từ địa
phƣơng vào trong thơ.
Nhƣ vậy, trong mỗi tập thơ Tố Hữu sử dụng từ ngữ địa phƣơng với mức
độ khác nhau. Tác giả sử dụng có sự chọn lọc và có dụng ý nghệ thuật. Từ
ngữ địa phƣơng đƣợc nhà thơ sử dụng tuỳ thuộc vào đề tài , thời gian, không
gian, hoàn cảnh trong từng giai đoạn thơ. Chính vì thế nó phát huy đƣợc “hiệu
quả kép” (giá trị miêu tả phản ánh trung tính và giá trị tu từ nâng hiệu quả
nghệ thuật câu, dòng, đoạn thơ) của từ. Tố Hữu là nhà thơ thời sự nhất nhƣng
lại sáng tạo đƣợc nhiều giá trị bền vững với thời gian; nhà thơ luôn hoà nhập
với cuộc đời chung, lại khẳng định đƣợc bản sắc riêng độc đáo. Và trong đó
có sự đóng góp không nhỏ của việc sử dụng thành công từ ngữ địa phƣơng
trong thơ.
2.2.3. Khảo sát phân tích
2.2.3.1. Số lượng, tần số xuất hiện của các từ ngữ địa phương
Từ kết quả khảo sát chung chúng ta có thể đi đến những phân tích cụ thể
sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33
Nhìn vào bảng thống kê chung ta thấy vốn từ địa phƣơng xuất hiện
trong thơ Tố Hữu khá đều đặn: 0,9từ/trang. Trong đó có một số tập có số
lƣợng từ khá nhiều: tập Từ ấy (2,06 từ/trang), tập Việt Bắc (1,41 từ/trang), tập
Ra trận (0,79 từ/trang). Điều này có thể giải thích là do hoàn cảnh lịch sử của
cuộc chiến tranh, thơ Tố Hữu cũng nhằm mục đích tuyên truyền vận động
nhân dân. Mặt khác do nhà thơ đi hoạt động và sống trong những vùng địa
phƣơng khác nhau nên sử dụng vốn từ địa phƣơng là điều dễ hiểu.
Các tập sau thì sử dụng từ địa phƣơng hạn chế hơn. Có thể là do điều
kiện sống của tác giả cũng nhƣ chủ đề thơ có sự thay đổi. Nếu nhƣ các tập
trƣớc chủ đề thơ chủ yếu hƣớng về con ngƣời trong chiến tranh, về cuộc chiến
đấu để bảo vệ đất nƣớc thì các tập sau hƣớng về công cuộc xây dựng đất nƣớc
là chủ yếu, những suy tƣ hồi tƣởng của nhà thơ về mình về cuộc chiến tranh
về các chiến sỹ… Cho nên việc sử dụng các từ địa phƣơng vào thơ là có hạn
chế và chọn lọc.
Tố Hữu là một ngƣời Huế, vì vậy mà thơ ông chiếm nhiều âm hƣởng của
đất Huế: chất dân ca ca dao xứ Huế, sự lắng đọng của những câu hò xứ
Huế,… vì vậy là thơ Tố Hữu mang đậm phong vị dân ca. Mặt khác Tố Hữu là
nhà thơ trữ tình – chính trị vì vậy việc sáng tác thơ không chỉ nhằm mục đích
nghệ thuật mà trƣớc hết nhằm mục đích tuyên truyền vận động cách mạng.
Việc sử dụng từ ngữ địa phƣơng không nằm ngoài ý nghĩa đó.
Tố Hữu sử dụng nhiều từ ngữ địa phƣơng trong thơ, tuy nhiên để biết
đƣợc chính xác từ địa phƣơng nào xuất hiện nhiều nhất và bao nhiêu lần thì
phải đi vào thống kê cụ thể hơn. Thông qua bảng khảo sát chúng tôi thống kê
đƣợc số lần xuất hiện ít nhất của từ địa phƣơng là 1 lần, từ có số lần xuất hiện
nhiều nhất là 34 lần trên tổng số 285 bài thơ. Sau đây là danh sách của 20 đơn
vị các số lần xuất hiện từ 4 lần trở lên (theo thứ tự từ cao đến thấp):
STT
Từ ngữ địa
phƣơng
Từ toàn dân Số lần xuất hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34
1 chi gì 34
2 bay mày 32
3 má mẹ 31
4 bầm mẹ 27
5 trái quả 21
6 ngàn nghìn 18
7 kêu gọi 13
8 mi mày 15
9 trông ngóng 10
10 ngó nhìn 14
11 vô vào 14
12 chúng bay chúng mày 11
13 ca hát 8
14 chừ bây giờ 8
15 lầu tầng 8
16 dơ bẩn 4
17 bể biển 6
18 gài cài 4
19 ghe thuyền 6
20 mé mẹ 5
Bảng 2: Các từ ngữ địa phƣơng có tần suất sử dụng cao nhất
Dựa trên 285 bài thơ trong các tập thơ ngƣời viết lựa chọn trong bảng
khảo sát của mình, thấp nhất là 5 lần (từ “mé”) và cao nhất là 34 lần (từ
“chi”). Đây là một thống kê số lƣợng thuần tuý, trong đó có từ đƣợc dùng
nhiều lần, nhƣng chỉ ở một bài thơ (bầm, mé) và chúng đƣợc dùng trong giới
hạn địa lí hẹp, có từ đƣợc dùng với tần số cũng không nhiều, nhƣng có diện
phổ biến rộng, nên dễ hiểu với mọi ngƣời, đƣợc dùng trong nhiều bài (dơ, bể,
vô,…) Đến đây ta thấy rằng, Tố Hữu chủ yếu sử dụng từ địa phƣơng thuộc
các từ loại nhƣ: đại từ nghi vấn, đại từ xƣng gọi, danh từ xƣng gọi…vào trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35
thơ. Cho nên sự xuất hiện với tần số cao nằm ở các biến thể ngữ âm mang
tính khẩu ngữ: chi – gì, ngàn – nghìn, vô - vào, gài – cài trong đó “chi” có tần
xuất cao. “Chi” là đại từ nghi vấn dùng với nhiều kiểu kết hợp khác nhau: cơ
chi, kể chi, chi, phải chi, chi rứa… Dƣới đây là một vài ví dụ minh hoạ:
Ví dụ 1:
1. Nhớ làm sao bao nhiêu đèo suối
Kể làm chi, mấy tuổi đường đời
(Một danh nhân)
2. Ôi! phải chi đâu những lá vàng
Còn rơi mà nghẽn lối xuân sang
(Bài thơ đang viết)
Ví dụ 2:
1. Chân muốn vô song lại ngập ngừng
Chó nhà đâu đã của người dưng
(Ngƣời về)
2. Bữa mô mời bạn vô chơi Huế
Cồn Huế buồm giong ngược bến tuần
(Hoa tím)
Bên cạnh sự xuất hiện của các từ biến thể ngữ âm thì tần xuất còn thuộc
về các đại từ bay, má, bầm, mi là các từ xƣng gọi cũng đƣợc dùng chủ yếu
qua khẩu ngữ. Các đại từ này dùng với một tần số lớn nhƣ vậy là có mục đích
sử dụng. Với một văn bản viết về đề tài chiến tranh thì dùng từ “bay” nhiều
khi để nhấn mạnh ngôi thứ hai số nhiều có nghĩa là bọn mày, đối phƣơng
đứng ở bên kia trận tuyến, “bay” là ngôi thứ hai số nhiều có nghĩa là “bọn
mày” để nói lên một thái độ coi thƣờng với kể ngang hàng hoặc sự kinh miệt
của tác giả đối với đối tƣợng giao tiếp. Còn khi viết về ngƣời mẹ thì nhà thơ
dùng hàng loạt các từ xƣng gọi để gọi tên các bà mẹ khác nhau. Vì vậy từ chỉ
“mẹ” xuất hiện với một tần xuất lớn: 63 lần.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36
Tố Hữu đã dành những tình cảm đặc biệt cho những ngƣời mẹ Việt
Nam. Mỗi bà mẹ của từng địa phƣơng đều đƣợc tác giả sử dụng một từ địa
phƣơng phù hợp và mang giá trị nghệ thuật cao. Qua đó hiện lên hình ảnh
những ngƣời mẹ Việt Nam vừa rất thân thƣơng, gắn bó lại vừa là tƣợng trƣng
cho bà mẹ Tổ quốc, trong đau thƣơng vẫn kiên cƣờng và nhân ái.
2.2.3.2. Từ ngữ địa phương sử dụng theo vùng
Theo kết quả thống kê và khảo sát của chúng tôi thì số lƣợng từ địa
phƣơng trong thơ Tố Hữu có cả ở ba vùng phƣơng ngữ là Bắc bộ, Trung bộ,
Nam bộ. Một số từ ngữ còn tìm thấy ở khu vực nhỏ hơn, nhƣ tỉnh hoặc liên
tỉnh. Một số từ chúng tôi tra trong Từ điển tiếng Việt [39] là từ địa phƣơng
nhƣng khi tìm trong Từ điển đối chiếu phương ngữ [48] thì không tìm thấy,
chúng tôi coi là các từ chƣa rõ gốc phƣơng ngữ, vì vậy chúng tôi cho vào một
bảng khác. Dƣới đây là kết quả khảo sát.
STT Vùng
Số lƣợt
sử dụng
Ví dụ
1 Bắc 52 Bầm, bà bủ, giăng…
2 Trung 141 Tui, o, ham…
3 Bắc – Trung 17 Bể, nƣơng…
4 Trung – Nam 205 Chi, rứa…
5 Nam 176 Má. nhậu, lày sình…
6 Chƣa rõ 85 Lánh, mối, dợi…
Ghi chú: ở cột (2) ghi là Bắc – Trung có nghĩa là chúng dùng ở cả
tiếng Bắc và Trung. Trung và Nam cũng xin hiểu như vậy.
Bảng 3: Bảng thống kê theo vùng
Má- mẹ 31 lần
Bầm - mẹ 27 lần
Bà mé - mẹ 5 lần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37
Nhìn vào bảng số liệu chúng ta thấy hầu hết các từ địa phƣơng tập trung
chủ yếu vào vung Trung Bộ và Nam Bộ (522/650 từ). Số lƣợng từ ở vùng Bắc
Bộ chiếm số lƣợng nhỏ (52 từ). Điều này dễ hiểu bởi phƣơng ngữ Bắc Bộ là
phƣơng ngữ cơ sở của tiếng Việt văn hoá. Ta tìm thấy các từ chỉ dùng ở Bắc
Bộ trong thơ không nhiều.
2.2.3.3. Phân nhóm từ ngữ địa phương theo từ loại
Có nhiều quan niệm khác nhau về từ loại. Nhìn chung các quan niệm đều
thống nhất từ loại ở đặc điểm: có cùng bản chất ngữ pháp và đƣợc phân chia
dựa vào ý nghĩa, khả năng kết hợp với các từ ngữ khác trong ngữ lƣu. Quan
điểm của các tác giả Nguyễn Văn Tu: “Từ loại là một phạm trù ngữ pháp khá
quan trọng theo tiêu chuẩn ngữ pháp, các từ đều được sắp xếp thành từng
loại gọi là từ loại” [47, tr. 383].
Quan điểm của Đinh Văn Đức: “Từ loại là lớp từ có cùng bản chất ngữ
pháp, được phân chia theo ý nghĩa, theo khả năng kết hợp với các từ ngữ
khác trong ngữ lưu và thực hiện những chức năng ngữ pháp nhất định trong
câu. Khả năng kết hợp được hiểu theo nghĩa rộng là quan hệ giữa từ và từ
trong ngữ lưu” [47, tr. 385].
Dựa vào đặc điểm chung về từ loại mà ngƣời ta thống nhất có các loại
thực từ (danh từ, động từ, tính từ, phó từ) và các từ loại hƣ từ (tiểu từ, giới từ,
liên từ). Tuy nhiên trong bảng thống kê mà chúng tôi khảo sát và phân loại
chủ yếu là các thực từ (danh từ, động từ, tính từ).
Dƣới đây là bảng khảo sát của chúng tôi.
1. Danh từ
Có nhiều quan niệm khác nhau về danh từ. Hầu hết các quan điểm đều
thống nhất đặc điểm danh từ là những từ mang đặc điểm sự vật tính.
Theo kết quả khảo sát chúng tôi thống kê đƣợc 128 danh từ. Dƣới đây là
một số ví dụ: (Các danh từ còn lại xin xem thêm phần phụ lục)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38
STT
Từ ngữ địa
phƣơng
Từ toàn dân Ví dụ
1 bể biển Anh là muôn trùng sóng bể
2 bạc
tiền nói
chung
Bạc xuân trong rắc trắngmái hành lang
3 bái bụi Truông dài, bái rộng, đồng khuya
4 bộng
gốc cây đại
thụ
Đâu biết những đêm hè một mình ta
bộng si già ẩn náu
5 bƣng biền
vùng đất
trũng
Lặn lội bưng biền
6 bông hoa Bông đầy, hạt mẩy
7 bắp ngô Bắp mẩy , mía giòn
8 beo con báo
Mặc chúng nó, lũ sói beo bầm gan tím
mật
9 cồn đồi Em thì mƣa nắng mãi cồn chăn trâu
10 cồn cát
Chim kêu cành cụt chang chang nắng
cồn
11 chí chấy Mà đến loài chấy giận cũng không tha
12 heo lợn Ngoài cửa ô rác bẩn nhƣ chuồng heo
13 cƣơi sân
Chúng đứng đùa nghịch hét lớn vang
cươi
14 chột nƣa
cọng khoai
nƣa
Năm bảy cái chột nưa
15 con nhồng con yểng Có con nhồng đâu đó hót trên cao
16 đờn đàn đằm thắm bên em, một tiếng đàn
17 gianh tranh
Ngày mỗi ngày từng miếng đất cổ
gianh
18 ghe thuyền Sông rạch Mỏ Cày xím xít thuyền ghe
19 hƣờng hồng Buổi mai hường mới trắng tinh
20 hài giày Em mặc áo hoa em đi hài ám
21 giăng trăng
Ngoài sông giăng, trăng sáng biết bao
nhiêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39
22 kiểng kẻng Kiểng tù khua gắt gỏng
23 lầy sình bùn lầy Đồng chua ruộng trũng lầy sình
24 lối xóm hàng xóm Tƣởng tụi bay quên lối xóm không về
25 lon ống bơ Một quan gạo sáu lon thôi
26 lạc nhạc
Nghe lạc ngựa dừng chân bên giếng
lạnh
27 liếp luống Cột sơn đã đuổi liếp tre gầy
28 mền chăn Mền không mà chiếu cũng không
29 mả mộ Một huyệt mả chôn loài mi tất cả
30 ná nỏ
Một cây ná một cây chông cũng tiến
công giặc Mỹ
31 nhành cành Xuân bƣớc nhẹ trên nhành non lá mới
32 ổ tổ Anh lại thấy ổ nhà tranh rách rƣới
33 ống dòm ống nhòm Rút ống dòm mà ngƣớc mắt nheo
34 ruồng luỹ tre đâu ruồng tre mát thở yên vui
35 thăng đấu Giặc còn vơ vét hết nồi đến thăng
36 trái quả Mua trái chín cũng là mùa lá rụng
37 truông bãi Truông dài, bãi rộng, đồng khuya
38 tô bát Và rót một tô đầy ngọt chát
39 tơi
một loại áo
mƣa
Ngƣời ban già lại nức nở trong tơi
40 từng tầng đôi con diều sáo nhộn nhào tầng không
41 vồng luống Vun xới vồng khoai, khóm lúa này
42 xai thành tàu Một lối đi vừa rộng giữa bờ vai
… … … …
Bảng 4: Bảng danh từ
Từ việc khảo sát danh từ trong thơ Tố Hữu, chúng tôi đã phân chúng
theo nhóm, cụ thể có thể chia ra các nhóm danh từ sau:
a. Danh từ chỉ đồ vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40
STT
Từ ngữ địa
phƣơng
Từ ngữ toàn
dân
1 áo quần lam áo quần xanh
2 bạc tiền nói chung
3 cƣơi sân
4 đờn đàn
5 kiểng cảnh
6 lái lƣới
7 lon ống bơ
8 mền chăn
9 mo gà
10 nón
nón, và các loại
mũ nói chung
11 ống dòm ống nhòm
12 thăng đấu
13 tơi một loại áo mƣa
14 tô bát
15 xai thành tàu
Bảng 4.1: Bảng danh từ chỉ đồ vật
b, Danh từ chỉ con vật
STT
Từ ngữ địa
phƣơng
Từ toàn dân
1 chí chấy
2 chim cà lơi
một loại
chim
3 con nhồng con yểng
4 con chuồn cá chuồn
5 con trích cá trích
Bảng 4.2: Danh từ chỉ động vật
c, Danh từ chỉ sông nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41
STT
Từ ngữ địa
phƣơng
Từ toàn dân
1 bể biển
2 bơi chèo mái chèo
3 ghe thuyền
4 lái lƣới
Bảng 4.3: Danh từ chỉ sông nƣớc
d, Danh từ chỉ thiên nhiên:
STT Từ ngữ địa
phƣơng
Từ toàn dân
1 bái bụi
2 bƣng biền vùng đất trũng
3 cồn đồi
4 lầy sình bùn lầy
Bảng 4.4: Danh từ chỉ thiên nhiên
Nhìn chung danh từ là loại từ chiếm vị trí quan trọng, với số lƣợng khá
lớn 128 từ, chiếm gần nửa số từ địa phƣơng (tổng từ địa phƣơng là 266 từ,
nếu tính tần số lặp lại là 650 từ), Tuy nhiên ngƣời viết chỉ đƣa vào minh hoạ
45 từ (xem thêm phần phụ lục 2)
- Xét về mặt sử dụng danh từ đƣợc chia thành nhiều nhóm khác nhau.
Chẳng hạn nhƣ: danh từ chỉ đồ vật, danh từ chỉ sông nƣớc, danh từ chỉ con
vật, danh từ chỉ thiên nhiên. Ngoài ra còn có danh từ chỉ ngƣời, nhƣng số
lƣợng ít nên chúng tôi không phân thành nhóm riêng. Ví dụ nhƣ: lối xóm
(hàng xóm láng giềng)
- Xét về mặt cấu tạo thì các từ hầu hết đều là từ đơn (cươi, kiểng,
nhành, tơi,…), một số từ cấu tạo hình thức ghép (lối xóm, ống dòm,…)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42
- Xét về mặt ngữ âm ta thấy các từ địa phƣơng cũng đƣợc cấu tạo biến
âm từ ngôn ngữ toàn dân: Biến phụ âm đầu (gianh/tranh, giăng/trăng), phần
vần (hường/hồng, liếc/luống).
- Việc sử dụng các danh từ khác nhau để gọi tên các sự vật. Điều đó
cho thấy vốn từ ngữ của nhà thơ rất phong phú. Nguyên nhân có thể do Tố
Hữu sống và hoạt động ở nhiều vùng khác nhau, vì vậy mà tiếp xúc với nhiều
sự vật khác nhau. Qua đó chúng ta cũng đƣợc biết thêm về vốn từ ngữ phong
phú của tiếng Việt.
- Đó là những từ cơ bản, gần gũi với nhà thơ, nên gặp hoàn cảnh tƣơng
ứng là các từ nhƣ tự bật ra tự nhiên, nhƣ một thói quen trong tiếng thốt, trong
lời miêu tả.
2, Động từ
Động từ là một loại từ cơ bản của hệ thống từ loại. Có nhiều quan niệm
khác nhau về động từ.
Theo Nguyễn Tài Cẩn trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt”: “Động từ là từ
loại nói chung dùng để chỉ hành động” [47, tr 96]. Đinh Văn Đức cho rằng:
“Cùng với danh từ, động từ là một trong hai loại từ cơ bản (…) động từ thì
gắn với các khái niệm thuộc phạm trù vận động” [47,tr.96]
Nhìn chung các tác giả đều thống nhất ở đặc điểm là các từ ấy chỉ hành
động, hoạt động. Chúng tôi cũng theo một hƣớng nhìn nhƣ vậy để phân chia
từ loại cho hành động
Qua bảng khảo sát chung, chúng tôi đã thống kê đƣợc bảng từ loại động
từ. Cũng nhƣ bảng từ loại danh từ, ở đây chúng tôi chỉ đƣa ra một số từ mang
tính chất minh hoạ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43
STT
Từ ngữ
địa
phƣơng
Từ ngữ
toàn
dân
Ví dụ
1 bu bâu Ghèn nhầy nhụa, ruồi bu trên môi tím
2 coi xem Đó anh coi… giống bò này Hà Lan, Thuỵ sỹ
3 cổi cởi Rồi một hôm nào cổi áo xanh
4 chuồi luồn Tôi chẳng nói, chuồi tay qua cửa sổ
5 dòm nhìn Dòm qua qua lỗ cửa âm thầm
6 gởi gửi Mênh mông nhớ bạn, gởi tình trăm phƣơng
7 giong giăng Cồn Hến buồm giong ngƣợc bến tuần
8 gài cài Chết dƣới chân bay vạn bẫy gài
9 hè hợp sức Mà muỗi rệp cũng hè nhau đốt cắn
10 găng gắng Phải găng lên, mỗi đứa chúng mình ơi
11 khơi khêu Dẫu không hơi sức khơi dòng thẳng
12 la gọi Bỡ ngỡ rồi la “cha! Cha ơi”
13 lùa dồn Lùa bung vác đất đắp dày đƣờng cao
14 lãnh lĩnh Mỗi ngƣời đi khi lãnh vè vào toa
15 len chen Trăng khuya len xuống rừng già
16 mối nối Thì mau lên, siết chặt mối ngàn dây
17 mê mơ Hỡi nàng công chúa nằm mê
18 ngó nhìn Má già đứng đâyngó vào thằng tây
19 năn nì năn nỉ Cái bụng cứ năn nì
20 nhả thả Đâu đó cồn thơm đất nhả mùi
21 nhẩy nhảy Giật thanh đao, khẩu súng nhẩy ra ngoài
22 nói giùm
nói giúp
hộ
Và con sẽ nói giùm với mẹ
23 nhậu
uống
rƣợu
Hàng quán lai rai nhậu rƣợu tây
24 nhủ bảo Mỗi đêm, nhìn lại nhủ mình
25 ruổi đuổi Hãy cho hồn ta ruổi ruổi theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44
26 ruồng càn quét Giặc đi ruồng bố suốt đêm ngày
27 rành rõ Thật giả không rành, bụng cứ lo
28 rảo bƣớc đi Ngƣời đi qua rảo gót lặng thinh
29 ráng gắng, cố Nhƣng phải ráng cầm hơi
30 rạp cúi Phải rạp đầu trong máu bụi tro tàn
31 riết xiết Riết chặt những bầu tim
32 trông mong Có hay cây quế đợi trông tháng ngày
33 triển lên Triển gân lên, rung chuyển cả dây xiềng
34 trƣơng giƣơng Lão trương hai bàn tay
35 vô vào Chân muốn vô song lại ngừng
Bảng 5: Bảng động từ
Qua bảng khảo sát động từ chúng ta có nhận xét:
Động từ chiếm số lƣợng ít hơn so với danh từ. Các động từ này đều nằm
ở cả ba vùng phƣơng ngữ Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ (xem thêm phần phụ
lục). Có ít từ gặp trong văn viết, có lẽ chỉ đƣợc dùng ở một vùng hẹp: triển,
trương (từ 33,34 trong bảng 5)
- Xét về cấu tạo, các động từ đƣợc cấu tạo là từ đơn tiết (bu, nhòm, triển,
vô, …) Tuy nhiên vẫn có số lƣợng nhỏ từ đa tiết (nằn nì, nói giùm, ruổi
ruổi,…).
- Xét về mặt ngữ âm, một số động từ có cấu tạo biến âm từ từ toàn dân:
các từ vừa có cấu tạo biến âm theo phần vần (mê/mơ, mối/nối,…) và có biến
âm phụ âm đầu (trương/giƣơng, riết/xiết,…).
- Xét về phƣơng ngữ động từ chủ yếu gặp ở phƣơng ngữ Trung, số ít ở
phƣơng ngữ Nam.
3. Tính từ
Tính từ là một loại từ cơ bản trong hệ thống thực từ. Cùng với danh từ và
động từ thì tính từ chiếm số lƣợng lớn trong hệ thống từ địa phƣơng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45
Theo quan niệm cuả tác giả Đinh Văn Đức thì “Tính từ là từ loại có vị trí
quan trọng trong các thực từ, sau danh từ và động từ. Tính từ có một số lƣợng
lớn và nhƣ lệ thƣờng, đƣợc coi là từ loại có ý nghĩa chỉ tính chất, rộng hơn, là
chỉ các đặc trƣng nói chung” [47, tr.302].Theo quan niệm của tác giả Trƣơng
Dĩnh: “Tính từ là từ để chỉ đặc điểm bề ngoài hoặc chỉ đặc điểm phẩm chất có
thể trực tiếp làm vị ngữ và có thể kết hợp với các từ chỉ mức độ nhƣ: rất, hơi,
… ở trƣớc nó” [ 47, tr. 301].
Nhìn chung tính từ có đặc đặc điểm chung là chỉ tính chất của sự vật
rộng hơn là chỉ các đặc trƣng nói chung. Qua khảo sát chúng tôi đã đƣa ra
một bảng các tính từ. Mặc dù không nhiều nhƣ danh từ và động từ nhƣng
lƣợng từ chỉ tính chất vẫn bổ sung cho vốn từ địa phƣơng trong thơ Tố Hữu
một số lƣợng phong phú.
Dƣới đây là bảng thống kê của chúng tôi.
STT
Từ ngữ
địa
phƣơng
Từ toàn
dân
Ví dụ
1 bợn bẩn Lòng không bơn chút bùn dơ
2 báu quí Với tất cả bao nhiêu tình ngọc báu
3 bao đồng lan man Suy nghĩ chuyện bao đồng
4 chóng nhanh
Ngày đi chóng bởi không chờ, tháng
chậm
5 dầy dành Dầy chai lấm mỡ
6 dịu huyền Dịu hiền Ôi những sắc diụ huyền gây phấn khởi
7 dơ bẩn Rũ bùn dơ, mặt đất sẽ thanh tân
8 đói lả
đói kiệt
sức
Cháu thơ đói lả ôm bà
9 đỏ chạch cực đỏ Chao hui quạnh trên vùng khô đỏ chạch
10 đoạ đầy đoạ đày Mà khốn khổ vẫn đoạ đầy xác héo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46
12 lạt nhạt Đời lát mùi và đau đớn bất công
14 lƣng lẽo vơi Tôi chất cả vào rƣơng còn lƣng lẽo
15 lạt lẽo
nhạt
nhẽo
Ôi lạt lẽo là những ngày lạnh lẽo
17 nhám ráp Ngón tay gân guốc nhám chai da
18 ngái xa Đi mô cho ngái cho xa
19 rần rần rầm rập Rất vô tƣ hát nhảy rần rần
21 rởm dởm Văn chƣơng bút bẩn, bao hàng rởm
23 sây sai Đang hút mật của đời sây hoa trái
24 se sẽ khe khẽ Tôi nhổm dậy, tới gần se sẽ đáp
25 thiệt thật Gặp anh, mừng thiệt là mừng
26 tƣơm bƣơm Và anh hàng ngày quần áo rách tươm
27 ỏ rõ Tỏ mờ nghe gió hú luông quanh
28 rỗ rộp Gót rỗ hằng quen dẫm bƣớc gai
Bảng 6: Bảng tính từ
Qua bảng khảo sát tính từ trên chúng ta có những nhận xét cụ thể sau:
- Xét về mặt số lƣợng thì tính từ có số lƣợng ít hơn so với danh từ và
động từ. Tuy nhiên nó cũng là loại từ có số lƣợng khá lớn bổ sung vào vốn từ
địa phƣơng trong thơ Tố Hữu.
- Xét về mặt cấu tạo, các tính từ hầu hết có cấu tạo là đơn tiết (bợn,
tươm, rỗ, tỏ,…). Tuy nhiên một số từ song tiết vẫn chiếm số lƣợng lớn(le te,
nhún nhẩy, mệt lử,…). Đặc biệt là có một số từ cấu tạo hình thức láy, và chủ
yếu là từ láy phụ âm đầu (lưng lẻo, nhún nhẩy, rần rật), có từ đƣợc cấu tạo là
láy vần (le te, se sẽ), duy chỉ có trƣờng hợp “rần rần” là láy hoàn toàn. Trong
thơ từ láy có giá trị phản ánh về âm, nghĩa rất đắc dụng.
- Xét về cấu tạo ngữ âm, một số tính từ địa phƣơng cũng đƣợc cấu tạo
biến âm về mặt ngữ âm từ ngôn ngữ toàn dân: Biến âm phụ âm đầu (nhạt
nhẽo/lạt lẽo, se sẽ|khe khẽ, tươm/bƣơm, …), biến âm phần vần (thối/thúi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47
nhún nhẩy/nhún nhảy, thiệt/thật,…), biến âm phần thanh điệu (tỏ/rõ…) Trong
đó biến âm phần vần là chủ yếu.
- Xét về miền sử dụng: Tính từ Trung và Nam đƣợc sử dụng chủ yếu
còn tính từ Bắc đƣợc sử dụng ít hơn
Với một số lƣợng tính từ khiêm tốn nhƣng chúng cũng đủ để tác giả nêu
đặc trƣng riêng về cách thể hiện lời nói của ngƣời địa phƣơng, chẳng hạn nhƣ:
“Ôi lạt lẽo là những ngày lạnh lẽo”, “Áo quần dơ, cắp chiếc nón le te” thì tạo
nên nét đặc trƣng riêng của từng vùng.
4, Đại từ
Trong hệ thống từ loại thì đại từ cũng là một trong những loại từ cơ bản
trong hệ thống thực từ. Có nhiều quan niệm khác nhau về đại từ, nhƣng có thể
hiểu “Đại từ là những từ để trỏ sự vật, để xƣng hô, để thay thế cho danh từ,
động từ, số từ và cụm từ trong câu”. [47 tr.87]
Theo truyền thống ngữ pháp tiếng Việt, ta có nhiều nhóm đại từ: địa từ
nhân xƣng, đại từ chỉ định, đại từ nghi vấn.Bảng dƣới đây ngƣời viết thống kê
đại từ nhân xƣng.
Qua việc khảo sát chúng tôi đƣa ra bảng đại từ nhƣ sau:
Đại từ nghi vấn Đại từ nhân xƣng Đại từ chỉ định
Từ địa
phƣơng
Từ toàn
dân
Từ địa
phƣơng
Từ toàn
dân
Từ địa
phƣơng
Từ toàn
dân
Chi Gì Ba cha Rày nay
Mô Đâu Bay Chúng mày
Bầm mẹ
choa tôi
Má mẹ
Mi mày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48
me mẹ
Thày Thầy
tui Tôi
Bảng 7 : Bảng đại từ nhân xƣng
Nhƣ vậy, đại từ trong thơ Tố Hữu chủ yếu là đại từ nhân xƣng đƣợc
dùng để xƣng hô. Ngoài ra còn sử dụng đại từ chỉ định “rày” (chỉ thời gian
gần với thời gian hiện tại), đại từ nghi vấn (chi, mô). Trong các đại từ xƣng
gọi ta gặp các từ địa phƣơng gọi các bà mẹ đƣợc sử dụng nhiều.
Nhìn chung, qua bảng khảo sát từ địa phƣơng trong thơ Tố Hữu thì thực
từ là chủ yếu trong đó có danh từ, động từ, tính từ và đại từ chiếm số lƣợng
không nhỏ. Các đại từ nghi vấn, đại từ xƣng gọi, đại từ chỉ định đƣợc sử dụng
linh hoạt. Chúng đều là các từ khẩu ngữ có tần số sử dụng cao. Các loại từ
khác ít đƣợc dùng hơn. Riêng danh từ chỉ sản vật địa phƣơng thì đƣợc chú ý
khai thác.
2.2.3.4. Đề tài, thời gian, không gian với vấn đề sử dụng từ ngữ địa
phương
Đề tài, không gian và thời gian trong thơ Tố Hữu gắn bó khăng khít với
nhau, chi phối lẫn nhau Thơ Tố Hữu phản ánh chân thực cuộc đấu tranh cách
mạng của dân tộc ta. Cho nên có nhiều đề tài khác nhau, gắn với không gian
và thời gian không giống nhau. Với bảy tập thơ sáng tác liên tục từ 1937 đến
năm 2001, Tố Hữu, thông qua cảm xúc của mình, đã giúp cho độc giả hình
dung những bƣớc chuyển mình lớn lao của dân tộc. Mỗi tập thơ mang một đề
tài, một nội dung, trong một hoàn cảnh riêng. Con đƣờng thơ của Tố Hữu có
thể chia thành bốn chặng:
Giai đoạn mở đầu là thời kì trƣớc cách mạng với tập thơ “ Từ ấy”.“Từ
Ấy” (1937-1946) là tập thơ đầu tay của tác giả, phản ánh thời kỳ lịch sử sôi
động của phong trào cách mạng giành độc lập dân tộc. Đây cũng là tiếng reo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49
nồng nhiệt của một thanh niên bắt gặp lí tƣởng cộng sản, cảm nhận thấy tâm
hồn của mình đƣợc “mặt trời chân lý chói qua tim” và từ đó tự “buộc lòng với
mọi người, để tình trang trải khắp trăm nơi”. Và vì vậy, qua những bài thơ
trong “Từ ấy” chúng ta gặp đề tài viết cụ thể về những con ngƣời lao khổ
thuộc các tầng lớp khác nhau: em bé mồ côi, cô gái giang hồ, chị đi ở và bản
thân tác giả phải chịu tù đày, phải đấu tranh với kẻ thù với sự cám dỗ vật chất
tầm thƣờng ở con ngƣời mình,… Do vậy ngôn ngữ thơ Tố Hữu, trong đó ta
gặp nhiều từ địa phƣơng phản ánh khắc hoạ một cách sinh động nhƣng chi tiết
của bức tranh cuộc sống hiện thực của lớp ngƣời cần lao khi đó.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp Tố Hữu sáng tác tập thơ
“Việt Bắc”(1946-1954). “Việt Bắc” là bản anh hùng ca ca ngợi cuộc kháng
chiến thần thánh của dân tộc. Thiên nhiên và con ngƣời thuộc đủ các vùng
miền khác nhau hiện lên trong Việt Bắc với nét chân thực, cụ thể nhờ những
giá trị tích cực của từ địa phƣơng.
Sang đến những năm hoà bình lập lại ở miền Bắc và cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nƣớc ở miền Nam, rồi lan toả ra cả nƣớc Tố Hữu có ba tập thơ
Gío lộng, Ra trận và Máu và hoa .“Gió lộng” (1955-1961) cho chúng ta thấy
hiện thực đất nƣớc và tâm hồn tác giả trong những năm tháng Tổ quốc ta bị
chia cắt, “nửa công trường, nửa chiến trường xôn xao”.
“Ra trận” (1962- 1971)và “Máu và hoa” (1972- 1977) là giai đoạn đầu
xây dựng CNXH ở miền Bắc, giai đoạn đầu của cuộc đấu tranh thống nhất Tổ
quốc. Đây là tiếng thơ ca ngợi cuộc chiến đấu trong đó “Tất cả nhân dân đều
là dũng sĩ ”, từ đỉnh cao của nền văn minh tích tụ từ hàng thế kỉ, chiến đấu
chống lại kẻ thù độc ác nhất trong lịch sử loài ngƣời.
“Một tiếng đờn”(1979-1992) ngân vang một âm hƣởng mới, lòng ngƣời
lắng xuống với những suy nghĩ về nhân tình, về trách nhiệm của mỗi con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50
ngƣời trong công cuộc xây dựng xã hội văn minh hiện đại. Đề tài thơ có sự
thay đổi.
“Ta với ta” (1993-2001) là tập thơ thâu nhận và chứng kiến một thế kỉ
nhiều biến động. Đó là tập thơ mang nặng tình đời, tình cảm với đất nƣớc với
nhân dân và tràn ngập niềm vui. Tập thơ biểu thị sự thấu hiểu tình đời, lẽ đời
của một tâm hồn thơ đẹp, giầu nhân bản, đề tài có khác các giai đoạn trƣớc.
Nhƣ vậy, sự gắn bó sâu sắc giữa cái riêng và cuộc đời chung là đặc
điểm xuyên suốt trong thơ Tố Hữu. Cái tôi của tác giả bộc lộ rõ hơn cả ở tập
thơ đầu tay Từ ấy và tập thơ ở chặng đƣờng cuối Một tiếng đờn. Từ ấy có lòng
cảm thƣơng da diết của ngƣời thanh niên với những ngƣời nghèo khổ, có tâm
trạng xót xa cho quê hƣơng tƣơi đẹp còn chìm trong đau thƣơng của cuộc đời
cũ. Nổi lên hơn cả là tuổi trẻ hiến dâng, sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách và
đấu tranh cho lí tƣởng cách mạng. Ngƣời thanh niên trí thức, khi tâm hồn
bừng sáng lý tƣởng cách mạng, đã nhìn cuộc đời từ nhiều phía, trong tầm xa
và chiều sâu, trong quan hệ giữa cái riêng và cái chung, dân tộc và thời đại, sự
sống và cái chết, hạnh phúc và hi sinh… Từ ấy mang theo cái không gian,
thời gian, cái hơi thở và máu thịt của cuộc đời chung, nhƣng trƣớc hết là của
tác giả: sôi nổi, trẻ trung. Từ ấy có phần là tiếng hát, có phần là nỗi niềm tâm
sự và có cả tiếng nói quyết tâm của ý chí trên con đƣờng đấu tranh. Cái tôi
của một ngƣời cộng sản trẻ tuổi ghi dấu ấn đậm nét.
Nửa thế kỉ sau, cái tôi của tác giả lại có dịp bộc lộ trong một tập thơ tâm
tình: Một tiếng đờn. Sự sôi nổi, trẻ trung đã bớt đi thay vào là những chiêm
nghiệm và suy nghĩ sâu sắc trƣớc cuộc đời. Mọi suy nghĩ về cuộc đời trong
chặng đƣờng cuối thƣờng mang tâm trạng buồn rất khác với các giai đoạn
đầu. Tố Hữu cùng không ở ngoài quy luật của thơ ca cổ kim. Nhƣng chỗ khác
là tác giả vẫn giữ vững niềm tin vào lẽ sáng của con đƣờng đi mà suốt cuộc
tác giả đã gắn bó. Qua tập thơ này, chúng ta bắt gặp tâm tình riêng tuy mang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51
dấu ấn của thời gian nhƣng vẫn còn sự trẻ trung trƣớc cuộc đời và thiên nhiên
tạo vật. Rất khó phân biệt ở Tố Hữu giữa cái chung và cái riêng. Phần riêng tƣ
không nhiều nhƣng vẫn đậm nét, có bản sắc và gây ấn tƣợng. Cái chung đƣợc
miêu tả nhƣ có tiếng reo vui của tấm lòng tác giả trƣớc niềm vui lớn của dân
tộc, và nỗi đau riêng trƣớc những tổn thất đau khổ của cuộc đời. Cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mĩ, hai bản anh hùng ca của dân
tộc đã đƣợc Tố Hữu miêu tả với biết bao cảm xúc trân trọng, cảm phục. Quần
chúng nghèo khổ,những cuộc đời lam lũ trƣớc đây đi theo Đảng đã vụt trỗi
dậy thành những nhân vật anh hùng làm nên bao kì tích suốt trong nửa thế kỉ
đấu tranh. Tố Hữu là nhà thơ nói đƣợc sâu sắc niềm vui, nỗi buồn của dân tộc
qua những chạng đƣờng dài lịch sử.
Thật vậy, đọc thơ ông, ta thấy hình ảnh đất nƣớc, thiên nhiên, con ngƣời
Việt Nam hiện lên sinh động qua mỗi thời kỳ, qua mỗi khung cảnh thực của
cuộc sống thể hiện qua đề tài thơ, với không khí sôi nổi riêng biệt của từng
thời kì, nhƣng ta vẫn thấy một điều bất biến trong ông: một tâm hồn nhiệt tình
sôi nổi của một thanh niên yêu nƣớc, một chiến sỹ cách mạng trƣớc hiện thực
hào hùng của một dân tộc làm nên những thắng lợi vang dội của thời đại ngày
nay. Góp phần khắc hoạ bức tranh lịch sử vừa khái quát vừa cụ thể sinh động
ấy, chúng ta thấy có các từ địa phƣơng đƣợc nhà thơ sử dụng một cách có ý
thức và trao cho chúng những chức năng nghệ thuật nhất định.
2.2.3.5 Các lớp từ
1, Lớp từ khẩu ngữ
Khẩu ngữ bao giờ cũng là lớp từ chiếm vị trí quan trọng trong mọi
phƣơng ngữ. Từ đƣợc dùng trong khẩu ngữ là biến thể phong cách của ngôn
ngữ đặc trƣng cho dạng nói. Với một phong cách thơ điệu nói thì việc đƣa lớp
từ khẩu ngữ vào trong thơ là hết sức cần thiết. Tất nhiên khi nó đã sử dụng
hợp lý thì tự nó sẽ bộc lộ sắc thái vùng miền.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52
Ví dụ tiếng Huế( phƣơng ngữ Trung) thể hiện rõ âm sắc quê hƣơng ông
trong các vần thơ sau:
Có con chim nhảy nhót hót chơi
Ha! Nó hót cái gì vui vui nghe thiệt ngộ!
Gió gió ơi! Hãy làm giông làm tố.
Cuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tƣơi
(Huế Tháng Tám)
Tuổi mƣời bốn những ƣớc ao
Buổi đầu cầm súng biết bao là mừng…
Mẹ ơi, súng đẹp quá chừng!
Con đi đánh giặc mẹ đừng lo chi
Mẹ cƣời: Thiệt giống cha mi
Chẳng ăn chi cả cứ đi đánh hoài!
(Chuyện Em)
Qua khảo sát chúng tôi đã thống kê đƣợc các từ mang tính khẩu ngữ
dƣới đây:
STT
Từ ngữ địa
phƣơng
Từ ngữ
toàn dân
STT
Từ ngữ địa
phƣơng
Từ ngữ
toàn dân
1 bên ni bên này 37 loài bay bọn bay
2 bé nhỏ 38 le te
tả tơi, rách
rới
3 bữa ni hôm nay 39 má mẹ
4 bữa mô bữa nào 40 mi mày
5 bộng hang 41 me mẹ
6 bây chừ bây giờ 42 mò nào, đâu
7 bay mày 43 mé phía bên
8 bầm mẹ 44
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53
9 bợm bẩn 45 ná nứa
10 báu quý 46 nhấp nhánh lấp lánh
11 bu bâu 47 năn nỉ năn nỉ
12 chốc lát sau 48 nầy này
13 chúng bay chúng mày 49 nhả thả
14 chi gì 50 nhẩy nhảy
15 chầu lần, dịp 51 nói giùm nói giúp
16 cớ răng
vì sao, làm
sao
52 ngột ngạt
17 chửa chƣa 53 nhọc mệt
18 chừ bây giờ 54 o cô
19 có chi làm sao 55 ống dòm ống nhòm
20 chi rứa gì thế 56 ối ứ đọng
21 coi xem 57 Oà ùa
22 chóng nhanh 58 Rành Rõ
23 choa chúng tôi 59 Rần rần Rầm rập
24 có hề chi
không can
gì
60 rởm rởm
25 dòm nhìn 61 Nầy này
26 đanh đinh 62 rứa thế
27 đói lả
đói kiệt
sức
63 tui tôi
28 đỏ chạch cực đỏ 64 tụi bay bọn bay
29 đi rỏn đi tuần 65 thiệt thật
30 đôi hôm vài hôn 66 thày bố
31 đôi kẻ vài ngƣời 67 trông Mong
32 gianh tranh 68 tha kéo
33 kiểng kẻng 69 van Kêu, xin
34 kể chi kể gì 70 vần công đổi công
35 khỏi lo không cần 71 xà linh xà lim
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54
36 lối xóm hàng xóm
Bảng 8: Bảng từ khẩu ngữ
Lớp từ khẩu ngữ là lớp từ dễ biểu hiện sắc thái địa phƣơng nhất. Bởi vì
đây là lời ăn tiếng nói hàng ngày của ngƣời dân địa phƣơng và nếu sử dụng
một cách tự nhiên hợp lí vừa phải thì chúng sẽ đƣa ta về với các vùng đất của
quê hƣơng. Vì vậy mà đƣa các từ khẩu ngữ vào trong tác phẩm văn học sẽ
biểu hiện đƣợc sắc thái vùng, miền một cách rõ nét.
2, Lớp từ xưng gọi
Theo quan niệm của Lê Thanh Kim (2002) “Từ xƣng hô bao gồm những
từ dùng để xƣng (tự xƣng) hoặc để hô (gọi) một ngƣời nào đó ở một ngôi tiếp
nhất định” [30]. Đây có thể coi là các đại từ nhƣ đã xem xét trên nhƣng cũng
có thể coi là một lớp từ riêng, với cách sử dụng rất phong phú trong tiếng
Việt, cả ở các phƣơng ngữ
STT
Từ ngữ địa
phƣơng
Từ ngữ toàn
dân
Thí dụ
1 ả chị Vợ ta chết? Nhƣng sống muôn em ả
2 bay bọn mày
Bay coi Tây – Nhật là cha
Sƣớng chi bay hại nƣớc nhà, bà con
3 tụi bay bọn mày
Má hét lớn tụi bay đồ chó
Cƣớp nƣớc tao cắt cổ dân tao
4 Choa
Bọ tôi, chúng
tôi
Chém cha ba đứa đánh phu
Choa đói choa rét, bay thù gì choa
5 má mẹ
Có ai biết trong tro còn lửa
Một má già lần nữa không đi
6 mi mày
Thấy chƣa mi cả Trung Hoa đoàn kết
Đã xô nhào mộng ác của mi
7 me mẹ
Ồ lạ chửa đứa xinh trong mủn mĩn
Cƣời trong chăn và nũng nụi nhìn me
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55
8 Ngƣời hàng xứ Ngƣời tù
Người hàng xứ về lao đi lải rải
Áo quần lam rách rới dáng bơ phờ
9 dì chị
Thƣơng các cậu các dì chụi khảo tra
không nói
Đào hầm nuôi các bộ tháng năm
trƣờng
10 bầm mẹ
Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí
Bầm quí con, bầm quí anh em
11 ba bố
Những mẹ đƣa con
Ba bận lên đƣờng
12 mụ bà
Coi chừng sóng lớn gió to
Màn xanh đây mụ, đắp cho kín mình
13 O Cô
O du kích nhỏ giƣơng cao súng
Thằng Mỹ lênh khênh bƣớc cúi đầu
14 Bà bủ Bà cụ
Bà bủ nằm ổ chuối khô
Nửa đêm thức giấc bà lo trơi bời
15 Mống nào đứa nào
16 mé mẹ
Phên lan gió lọt lạnh lùng
Ngọn lửa bập bùng mé khóc rƣng
rƣng
17 hĩm Bố đi đâu, hĩm, mẹ đâu nao?
18 Thày Thầy(bố) Mai sau con lớn hơn thày
19 Tui Tôi Tui già rồi, có chết khỏ lo
Bảng 9: Lớp từ xƣng gọi
Qua khảo sát chúng tôi thấy rằng lớp từ xƣng gọi là chiếm số lƣợng khá
nhiều trong hệ thống đại từ. Tuy nhiên chúng tôi vẫn tách riêng nhóm từ này
để nhận xét bởi chúng tôi thấy lớp từ này có một vị trí quan trọng trong hệ
thống từ địa phƣơng mà nhà thơ đã sử dụng.
Dựa vào bảng khảo sát ta thấy các từ xƣng gọi sử dụng có số lƣợng
không nhiều, nhƣng có tần số sử dụng cao nhƣ: má (mẹ), bay (mày), chúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56
bay (chúng mày, mi, mày)... Trong số đó, cũng có những từ ít sử dụng, chỉ
dùng một lần duy nhất nhƣ: hĩm, mụ. Số còn lại, ta có gặp nhiều hơn. Dựa vào
bảng lớp từ xƣng gọi chúng tôi có những nhận xét sau:
a. Đối với các nhóm từ chỉ mẹ: Bà bầm, mẹ, bà bủ, bà mé, má
Từ địa phƣơng chỉ mẹ khá phong phú đặc sắc, có cả ba vùng phƣơng
ngữ: phƣơng ngữ Bắc (bà bầm, bà bủ, bà mé), phƣơng ngữ Trung (me),
phƣơng ngữ Nam (má). Riêng ở phƣơng ngữ Bắc, còn có một số từ chỉ ngƣời
mẹ nữa, nhƣng ta chƣa có dịp thấy chúng trong thơ Tố Hữu: ( cậu/ mợ). Qua
đó thấy đƣợc sự thân thiết gắn bó của nhà thơ với những với những vùng đất
khác nhau và dành tình cảm đặc biệt cho mẹ.
b. Đối với các từ có cách mở rộng từ cách xƣng hô trong quan hệ thân
tộc ra ngoài xã hội, hàm ý tỏ thân mật: từ O(cô) và từ dì (em mẹ, cô). Cách
gọi này làm cho từ trở thành mở rộng nghĩa, trong từ điển gọi là từ đa nghĩa.
c. Trong các đại từ xƣng gọi thì phần lớn tác giả sử dụng nhóm từ
phƣơng ngữ Trung: hĩm, ả, choa, tui, bay, mụ, o.
d. Nhìn vào 19 đơn vị từ xƣng gọi mà nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng, có thể
phân chia nhƣ sau:
d.1 Các từ xưng hô trong gia đình
Trong gia tộc, xƣng hô thể hệ sự tôn ti về mặt huyết thống, thái độ ứng
xử giữa ngƣời với ngƣời có quan hệ trực tiếp huyết thống trực tiếp và gián
tiếp. Nhìn chung, nguyên tắc xƣng hô trong gia tộc ngƣời Việt là chặt chẽ
nghiêm khắc và ổn định. Trong phạm vi này, các từ xƣng hô có nguồn gốc là
danh từ thân tộc đƣợc dùng là từ xƣng hô nhiều hơn cả. [30,Tr68]
Từ quan niệm đó chúng tôi có nhận xét nhƣ sau:
O, dì, ả,me – ngôi thứ ba số ít. Ngoài ra cách xƣng gọi là cơ bản còn
mang tính đặc trƣng giới tính hĩm (nói về gia đình có đứa con gái đầu lòng:
mẹ hĩm, bố hĩm),mang đắc trƣng phƣơng ngữ Trung Bộ.
Ba, má đặc trƣng phƣơng ngữ Nam Bộ (ngôi thứ ba, số ít).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57
Bầm, mé, bà bủ – ngôi thứ ba, mang đặc trƣng phƣơng ngữ Bắc.
Nhìn vào hệ thống từ xƣng gọi trong gia đình, chúng tôi nhận thấy các từ
xƣng gọi này hầu hết là để gọi tên những ngƣời phụ nữ trong gia đình.
d.2 Các từ xưng gọi ngoài xã hội
Trong giao tiếp xã hội, xƣng hô đóng vai trò rất quan trọng. Xƣng hô
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó ngƣời xƣng sử dụng từ nào là phụ thuộc
vào vị thế của mình và đối tƣợng để lựa chọn từ và cách xƣng phù hợp. Trong
các phƣơng ngữ trên, có một nét đặc trƣng chung: dùng các từ chỉ quan hệ
thân tộc là lời xƣng gọi.
Tiểu nhóm đại từ nhân xƣng:
Số ít: tui (ngôi thứ nhất)
Số nhiều: choa (tôi, chúng tôi), tụi tui, bon tui (ngôi thứ nhất). Cũng
có khi dùng với nghĩa số ít.
Số ít: mi (ngôi thứ hai)
Số nhiều: bay, tui bay (bọn mày – ngôi thứ hai)
Nhìn vào nhóm đại từ nhân xƣng này, ta thấy từ “choa” là đai từ lƣỡng
số ngôi thứ nhất, Choa có nghĩa là “tôi, chúng tôi”.
Nhà thơ Tố Hữu đã xử dụng các từ xƣng gọi chủ yếu của phƣơng ngữ
Trung với những nét đặc trƣng riêng. Các từ ấy biểu hiện vừa dân dã, chân
chất thân thiện. Nghe vừa giản dị và mộc mạc nhƣ chính cuộc sống của cuộc
đời thƣờng.
3, Lớp từ chỉ sản vật địa phương
Việt Nam là vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm nhiệt đới gió mùa, quanh
năm cây cối tƣơi tốt ra hoa kết trái. Ở Việt Nam có nhiều sản vật khác nhau,
nhiều mầu sắc, hƣơng vị khác nhau của cỏ cây hoa lá. Nhà thơ Tố Hữu là một
ngƣời từng trải, đi bôn ba khắc mọi miền đất nƣớc và có những thời gian dài
sống hoạt động ở nhiều vùng đất khác nhau nhƣ: Thanh Hoá, Quảng Bình,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58
Tây Nguyên, Đồng Tháp Mƣời, Việt Bắc, Tây Bắc… Cho nên ta không lạ khi
tìm thấy trong thơ ông một loạt các sản vật địa phƣơng. Ví dụ:
STT
Từ ngữ địa
phƣơng
Ví dụ hoặc chú thích
1 bắp Ngô, bắp vàng vàng hạt đầy sân nắng vàng
2 cây đào Cây mận ở miền Nam, cây roi ở miền Bắc
3 cây chuối mật Chuối tây
4 xoài cát Xoài quả to hơi tròn, thịt thơm ngon
5 môn Khoai sọ
6 kè Một loại cây cọ trên rừng
7 thơm Dứa
8 môn vót Một loại khoai ngứa trên rừng
9 bẹ Ngô
10 bụt mọc Một loạ cây bên hồ, có rễ dài mọc bên sát mặt nƣớc
11 hoa sở Hoa mảnh
12 sầu riêng Một loại trái cây ở Nam Bộ
13 lá buông Một loại lá phơi khô ngả màu trắng
14 lá trung quân Lá dùng lợp nhà đột không cháy
15 bằng lăng Cây săng lẻ
16 con chuồn Cá chuồn
17 con trích Cá trích
18 lòn bon
Trái đặc sản vùng núi Hiên, Giàng, cong gọi là “nan
trân” (giống bòn bon) cây ăn quả, lá kép lẻ, quả tròn
thành chùm, có 5 múi, có 5 vách ngăn cùi ngọt.
19 chột nƣa
Cọng khoai nƣa, một loại khoai họ khoai sọ trồng
can ở miền Trung
Bảng 10: Lớp từ chỉ sản vật địa phƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59
Ngoài bảng trên thì có nhiều từ địa phƣơng chỉ các sản vật, cây trái hoa
quả: chôm chôm, tràm, đƣớc,… hiện nay các từ này trở nên quen thuộc với
nhân dân cả nƣớc và một số từ trong chúng đã nhanh chóng trở thành từ ngữ
toàn dân: đước, sầu riêng, chôm chôm…
4, Lớp từ chỉ thời gian
Nhóm từ chỉ thời gian cũng mang các đặc điểm riêng của từng vùng
phƣơng ngữ. Mặc dù số lƣợng không nhiều nhƣng đây cũng là lớp từ biểu
hiện lối nói địa phƣơng rất rõ, mà khi đọc lên nói lên chúng ta biết ngƣời đó ở
miền nào.
STT
Từ ngữ địa
phƣơng
Từ toàn dân
1 Bữa ni Hôm nay
2 Bữa mô Bữa nào
3 Bữa qua Hôm qua
4 Rày Nay
5 Bây chừ Bây giờ
6 Chốc Lát sau
7 Chừ Bây giờ
8 Chầu Lần dịp
Bảng 11: Từ ngữ chỉ thời gian
Qua bảng từ chỉ thời gian trên, nhận thấy hầu hết các từ chỉ thời gian đó
thuộc phƣơng ngữ Trung. Đặc biệt có từ đặc trƣng tiếng Huế “chừ, bây chừ”.
Đây có thể là thói quen sử dụng từ ngữ địa phƣơng Huế của nhà thơ hoặc là
nhà thơ đƣa vào để viết về Huế cốt để phù hợp với thi cảnh.
2.3. Tiểu kết:
Nhƣ vậy, qua kết quả khảo sát và phân tích ở trên, ngƣời viết rút ra những
nhận xét cơ bản sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60
1. Trong bảy tập thơ, Tố Hữu dùng 650 lƣợt từ ngữ địa phƣơng. Các từ
này chủ yếu gặp ở ba tập: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận. Các tập còn lại có số
lƣợng từ ít hơn.
2.Từ địa phƣơng tập trung nhiều nhất ở hai vùng phƣơng ngữ là Trung
Bộ và Nam Bộ. Điều này dễ hiểu bởi Tố Hữu là ngƣời Huế, và đề tài thơ về
con ngƣời ở các vùng đất này trở đi trở lại trong thơ ông
3. Trong những từ địa phƣơng mà Tố Hữu sử dụng, có những từ có tần
số xuất hiện nhiều nhƣ: chi (34 lần), bay (32 lần)…các từ này chủ yếu là đại
từ xƣng gọi thuộc lớp từ khẩu ngữ. Có từ địa phƣơng khác xuất hiện ít, đặc
biệt có từ chỉ xuất hiện một lần duy nhất.( o, hĩm, bầm…)
4. Khi sử dụng từ địa phƣơng Tố Hữu sử dụng nhiều từ loại khác nhau
rất phong phú và đa dạng: danh từ, động từ, tính từ,đại từ. Trong đó danh từ
còn chia làm nhiều nhóm nhỏ khác nhau: danh từ chỉ đồ vật, danh từ chỉ con
vật, danh từ chỉ sông nƣớc, danh từ chỉ thiên nhiên.
5. Ngƣời viết nghiên cứu một số lớp từ đƣợc sử dụng trong thơ Tố Hữu
nhƣ lớp từ khẩu ngữ, lớp từ xƣng gọi, lớp từ chỉ thời gian, lớp từ chỉ sản vật
địa phƣơng. Những lớp từ này phản ánh tinh tế, rõ ràng lối nói của nhân dân
từng vùng, đặc biệt là trong thơ có lời đối thoại, miêu tả.
6. Nhìn chung trong từng tập thơ, từng giai đoạn từ địa phƣơng đƣợc tác
giả sử dụng với mức độ khác nhau.Tố Hữu dùng nó có sự lựa chọn để phù
hợp với hoàn cảnh, không gian, đối tƣợng và mục đích sáng tác trong mỗi tác
phẩm. Do vậy, từ địa phƣơng trong thơ Tố Hữu có hiệu quả nghệ thuật.
CHƢƠNG 3:
QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TỐ HỮU
TRONG VIỆC SỬ DỤNG TỪ NGỮ ĐỊA PHƢƠNG
3.1. Quan điểm về thơ và và ngôn ngữ thơ của Tố Hữu
Tố Hữu có quan điểm nghệ thuật khá rõ ràng và nhất quán trong sự
nghiệp sáng tác thơ ca. Qua những ý kiến Tố Hữu phát biểu về thơ ca, từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61
những câu chuyện về thơ, những lời tâm sự làm thơ của ông, cũng nhƣ từ
cách ông đánh giá về thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Phan Bội Châu…và từ
thực tiễn sáng tác tác phong phú của nhà thơ, chúng ta có thể nhận thức đƣợc
một cách rõ ràng quan điểm của Tố Hữu về thơ.
Từ khi đƣợc "Mặt trời chân lý chói qua tim" Tố Hữu đã có quan niệm
khá chính xác về thơ. Đứng trên cƣơng vị của ngƣời chiến sĩ cách mạng, ông
luôn yêu cầu thơ trƣớc hết phải là thơ có tác dụng đóng góp cho việc cải tạo
xã hội, chứ không phải mang một mục đích tự thân. Tố Hữu nói với các thi sĩ,
để tự nhắn nhủ mình và cũng là để phê phán quan điểm nghệ thuật yếu đuối
tiêu cực, u buồn của cả một thế hệ đƣơng thời
Thi sĩ hỡi, đi tìm chi vơ vẩn
Trong hồn già đã chết những yêu mơ
…Hãy cắt đứt những dây đàn ca hát
Những sắc tàn vị nhạt của ngày qua
Nâng đón lấy màu xanh hương bát ngát
Của ngày mai muôn thuở với muôn hoa
(Tháp đổ)
Theo Tố Hữu thơ phải đƣợc bắt dễ sâu xa từ trong đời sống của quần
chúng cần lao:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
(Từ ấy)
Phải thực sự sống trong sự đùm bọc của quần chúng “Tháng ngày chát
cổ cơm khoai sắn - Rách rƣới lều che tạm gió sƣơng" phải thực sự là "con của
vạn nhà" là "em của vạn kiếp phôi pha" là "anh của vạn đàn em nhỏ" thì
ngƣời làm thơ mới mong muốn nói đƣợc điều gì có ý nghĩa. Khi Tố Hữu chọn
chỗ đứng của mình ở phía những con ngƣời thuộc giai cấp cần lao: những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62
đứa trẻ mồ côi sống nay đây mai đó, những chị vú em, những ngƣời lính phải
buồn đau, những ngƣời mà ông gắn bó, và hơn thế ông muốn bảo vệ che chở,
cũng chính là khi ông đã đạt tới những thành công trong sáng tạo nghệ thuật
của mình. Phải từ cuộc sống, cuộc đấu tranh ấy, ông mới có đƣợc thơ ấy, mới
có đƣợc Từ ấy, những bài thơ giục giã ngƣời ta lên đƣờng chiến đấu. Đối với
Tố Hữu thơ phải có tác dụng thực sự trong đời sống, trong đấu tranh cách
mạng, phải nâng ngƣời ta lên, cuốn ngƣời ta theo, dẫn ngƣời ta về phía trƣớc.
Sau Từ ấy, tập thơ Việt Bắc đã đánh dấu một giai đoạn mới trong sự
nghiệp thơ ca, cũng nhƣ trong quan niệm thơ của Tố Hữu. Quan điểm thơ của
Tố Hữu đƣợc bộc lộ qua sáng tác của ông và qua những bài lý luận, qua việc
ông phê phán những khuynh hƣớng sai lầm trong văn học nghệ thuật, thời ấy
ông khẳng định : "Chúng ta phải chống khuynh hƣớng tách rời văn nghệ và
chính trị tách rời sáng tác và sáng tác, khuynh hƣớng chia đôi con ngƣời văn
nghệ thành con ngƣời công dân và con ngƣời nghệ thuật, khuynh hƣớng tôn
sùng bản năng, khinh thƣờng trí tuệ, khuynh hƣớng cho rằng kỹ thuật quyết
định hết thảy, kỹ thuật là một cái gì vĩnh viễn, tuyệt đối, khuynh hƣớng công
thức hoá những nguyên tắc, khiến cho những nguyên tắc hoá thành những dây
trói buộc nghệ thuật. Chúng ta còn phải chống khuynh hƣớng bảo thủ, nệ cổ
cũng nhƣ khuynh hƣớng tách rời truyền thống, tách rời thực tế của đất nƣớc.
Và phải bài trừ thái độ miệt thị quần chúng, cho rằng quần chúng không thể
hiểu nghệ thuật…phải kịch liệt đả phá thái độ của một số ngƣời văn nghệ
bàng quan với cuộc sống, đối với dân tộc, nhân dân, khiến cho văn nghệ biến
thành một trò chơi thú vị riêng của một bọn ngƣời vị kỷ”[28, tr 35-36]
Đối với Tố Hữu, văn nghệ phải "mang lại sự phấn khởi tƣơi vui, làm cho
cuộc đời khỏe để chiến đấu" mỗi một văn nghệ sĩ "phải là một bàn tay đẩy
mạnh đà chiến thắng, dùng văn nghệ làm lợi khí chiến đấu sắc bén". Và nhƣ
vậy, quan hệ giữa văn nghệ và cuộc sống đƣợc đặt ra một cách sâu sắc, cụ thể
hơn trƣớc rất nhiều, văn nghệ phải phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, nội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63
dung của tác phẩm văn nghệ phải có quan hệ đến vận mạng của quần chúng"
phải nối đời sống với những đau khổ, sung sƣớng căm thù, mong ƣớc của họ
và hình thức của tác phẩm phải phù hợp với trình độ cảm hiểu của họ”[28,tr
31]
Đến Việt Bắc, quan niệm của ông đã có cơ sở thực tế vững vàng, đƣợc
cụ thể sáng rõ hơn nhiều. Tố Hữu đặc biệt chú ý đến tính nội dung của thơ ca.
Khái niệm tính nội dung ở thơ ông trở lên phong phú, sâu sắc và đƣợc quán
triệt trên cả hai phƣơng diện nội dung và hình thức. Nội dung bây giờ là
những con ngƣời mới, dƣới vị lãnh tụ của Đảng đang hăng hái kháng chiến
chống thực dân Pháp. Đề tựa cho tập thơ Việt Bắc Tố Hữu viết:
Nhân dân là bể
Nghệ thuật là thuyền
Thuyền xô sóng dậy
Sóng đẩy thuyền lên
Thuyền ra khơi xa
Gió căng buồm lộng
Buồm là lao động
Gió là Đảng ta
Đúng nhƣ Tố Hữu nói ở đây có một mối quan hệ rất biện chứng phải có
sự nghiệp cách mạng của quần chúng thì mới có thơ, và thơ có ra đời trên cơ
sở ấy mới là thiết thực, có tác dụng thực sự đối với quần chúng, đối với cách
mạng.
Tố Hữu đặc biệt quan tâm đến tính chân thực của văn nghệ xã hội. Ông
khẳng định: “ nền văn nghệ của chúng ta phải là nền văn nghệ của nhân dân
lao động, văn nghệ sĩ chúng ta phải là những ngƣời nói lên cuộc đời và tâm
trạng của công nông, trả lời đƣợc những vấn đề của cuộc sống cách mạng đặt
ra”[ 28, tr 331]. Từ đó, tính chất thiết thực, tính chất chiến đấu, tính nhân dân
của thơ vốn đƣợc ông chú ý từ trƣớc, giờ đây càng đƣợc ông quan tâm hơn:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64
"Ta chỉ yêu thơ nào cho ta hiểu sâu xa cuộc sống, yêu cuộc sống của ta hơn,
cho ta thêm sức sống, sức chiến đấu cho hạnh phúc của con ngƣời, văn nghệ
nói chung là vậy thơ lại càng nhƣ vậy”[28, tr 441]
Theo Tố Hữu, thơ chỉ thực sự là vũ khí cách mạng khi nó gắn hồn đƣợc
làm một với tƣ tƣởng và tình cảm của quần chúng cách mạng, với lý tƣởng
của Đảng. Ông tâm sự: Chính vì lý tƣởng cuộc sống, và sự nghiệp vĩ đại của
Đảng mà tôi yêu thơ.
Có thể nói rằng một trong những đặc sắc của thơ Tố Hữu là một sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa lý trí cách mạng rất sáng suốt và tình cảm cách mạng
sâu xa từ trong máu thịt. Chính sự gắn hoà ấy là điều kiện thiết yếu để thơ
thực sự là vũ khí chiến đấu sắc bén.
Muốn thực sự là một vũ khí đấu tranh cách mạng thơ không thể không đi
sâu vào cuộc sống, trong cuộc sống. Mối quan hệ giữa thơ và cuộc sống vốn
là điều Tố Hữu hết sức quan tâm. Tách rời khỏi thực tế quần chúng thì thơ ca
sẽ nhƣ "cây nhổ khỏi đất","cá ra khỏi ngòi".
Thơ là hình ảnh và nhịp điệu, đó là điều ai cũng biết, những khi Tố Hữu
yêu cầu hình ảnh và nhịp điệu trong thơ "lại là hình ảnh và nhịp điệu của bản
thân cuộc đời kia ở nơi nào, ở lúc nào có bộc lộ ra đƣợc cái bản sắc, cái mới
tƣơi của nó” [28, tr.449] thì chính là lúc ông đang khẳng định cuộc sống là cõi
nguồn của thơ ca. Ông nói đến " những dòng thơ tƣơi xanh", “những dòng thơ
lửa cháy” để nói sự gắn bó ấy giữa thơ và đời. Nhà thơ phải làm sao cho thơ
mình thật sự “mang cánh lửa” bay hồn vào cuộc sống chung. Tố Hữu quan
niệm "thơ là cái nhuỵ của cuộc sống" và do vậy"muốn thơ có nhuỵ thì vấn đề
trƣớc hết là chính mình phải hút đƣợc cái nhuỵ của cuộc sống, phải cố gắng
phấn đấu cho cuộc đời có nhụy thật”[ 28, tr.423].
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG THƠ TỐ HỮU.pdf