Luận văn Khảo sát nhận thức và thái độ của sinh viên trường cao đẳng kinh tế đối ngoại thành phố Hồ Chí Minh đối với một số nghề liên quan đến kinh tế và thương mại

Tài liệu Luận văn Khảo sát nhận thức và thái độ của sinh viên trường cao đẳng kinh tế đối ngoại thành phố Hồ Chí Minh đối với một số nghề liên quan đến kinh tế và thương mại: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ********************** ĐÀO THỊ QUÝ KHẢO SÁT NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI MỘT SỐ NGHỀ LIÊN QUAN ĐẾN KINH TẾ VÀ THƯƠNG MẠI Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 603180 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN LUẬN VĂN TS. NGUYỄN ÁNH HỒNG Tp. Hồ Chí Minh, năm 2010 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Ánh Hồng. Trong quá trình làm luận văn vừa qua tôi đã được cô chỉ bảo, hướng dẫn tận tình và nhờ có sự giúp đỡ của cô tôi mới hoàn thành được luận văn này. Tôi xin cảm ơn các giảng viên trong trường Đại Học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh, Phòng nghiên cứu khoa học và Sau đại học, các bạn học viên cao học lớp Tâm lý học K18 đã tận tính giúp đỡ và ủng hộ tôi trong quá trình nghiên cứu luận văn vừa qua. Tôi cũng xin cảm ơn chân thành đến ban Giám Hiệu trường CĐ Kinh Tế Đối Ngoại, Khoa Quản trị Kinh doanh, Khoa Tài chính ...

pdf78 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Khảo sát nhận thức và thái độ của sinh viên trường cao đẳng kinh tế đối ngoại thành phố Hồ Chí Minh đối với một số nghề liên quan đến kinh tế và thương mại, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ********************** ĐÀO THỊ QUÝ KHẢO SÁT NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI MỘT SỐ NGHỀ LIÊN QUAN ĐẾN KINH TẾ VÀ THƯƠNG MẠI Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 603180 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN LUẬN VĂN TS. NGUYỄN ÁNH HỒNG Tp. Hồ Chí Minh, năm 2010 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Ánh Hồng. Trong quá trình làm luận văn vừa qua tôi đã được cô chỉ bảo, hướng dẫn tận tình và nhờ có sự giúp đỡ của cô tôi mới hoàn thành được luận văn này. Tôi xin cảm ơn các giảng viên trong trường Đại Học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh, Phòng nghiên cứu khoa học và Sau đại học, các bạn học viên cao học lớp Tâm lý học K18 đã tận tính giúp đỡ và ủng hộ tôi trong quá trình nghiên cứu luận văn vừa qua. Tôi cũng xin cảm ơn chân thành đến ban Giám Hiệu trường CĐ Kinh Tế Đối Ngoại, Khoa Quản trị Kinh doanh, Khoa Tài chính Kế toán cùng toàn thể các thầy cô và các bạn sinh viên trong trường CĐ Kinh Tế Đối Ngoại đã tích cực cộng tác và giúp đỡ chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2010 Tác giả Đào Thị Quý BẢNG VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ CĐ. KTĐN Cao Đẳng Kinh Tế Đối Ngoại DNTM Doanh nghiệp thương mại ĐLTC Độ lệch tiêu chuẩn KTTM Kinh tế thương mại N Số lượng NN Nghề nghiệp TB Trung bình TM Thương mại SV Sinh viên MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Thế giới ngày càng biến chuyển về mọi mặt trong đó có nền kinh tế biến chuyển khá rõ rệt, nền kinh tế các nước đều theo một trào lưu đó là hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam cũng không ngoại lệ, ngày 07/11/2006 Việt Nam đã chính thức gia nhập vào nền kinh tế thương mại thế giới (WTO) đưa nền kinh tế nước ta phát triển lên một tầm cao mới. Để có thể hội nhập với nền kinh tế quốc tế, xã hội cần phải có đội ngũ nguồn nhân lực trí tuệ, có trình độ chuyên môn tay nghề cao và phải có tâm huyết với nghề. Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc biệt là yếu tố chủ quan của người học, yếu tố đóng vai trò quyết định. Sự ảnh hưởng của những yếu tố tâm lý nhân cách của sinh viên đến diễn biến và kết quả hoạt động học tập, trau dồi nghề nghiệp của bản thân các em, đó là nhận thức và thái độ nghề nghiệp được hiểu một cách cụ thể ở sinh viên đang học nghề. Nhận thức nghề nghiệp là sự hiểu biết đầy đủ về các thông tin liên quan đến nghề. Thái độ nghề nghiệp là sự thể hiện tình cảm yêu thích hay thờ ơ, chán ghét, có thái độ tích cực hay tiêu cực… đối với nghề, nảy sinh trên cơ sở nhận thức về nghề. Sinh viên học nghề ngay sau khi vào trường cần có sự hiểu biết nhất định về đặc điểm, nội dung, vai trò, giá trị của nghề và tình cảm tích cực đối với nghề đã chọn và đang học. Điều đó rất quan trọng bởi lẽ tình cảm nghề nghiệp sẽ tạo nên hứng thú nghề nghiệp. “Hứng thú kích thích tích cực của nhân cách, thúc đẩy con người hoạt động” học tập nỗ lực hơn và đạt kết quả tốt hơn. Sau này khi ra trường khi các em làm nghề mà mình yêu thích thì các em sẽ có tâm huyết với nghề và sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn trong công việc, sự nghiệp của mình. Như vậy, nhiệm vụ đặt ra ở đây đối với các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đối với các trường Đại học và Cao đẳng không chỉ chú trọng đào tạo chuyên môn nghề nghiệp mà còn giúp các em có nhận thức và thái độ đầy đủ, đúng mực với nghề mà các em đã lựa chọn. Cùng với sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước, trường Cao Đẳng Kinh Tế Đối Ngoại Thành Phố Hồ Chí Minh không ngừng phát triển với nhiều đóng góp lớn lao vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước. Trường đào tạo đa ngành nghề thuộc lĩnh vực kinh tế và thương mại. Trong vài năm gần đây trường Cao Đẳng Kinh Tế Đối Ngoại (CĐKTĐN) là một trong những trường cao đẳng có số lượng thí sinh đăng ký và thi vào trường nhiều nhất trong cả nước. Điều này chứng tỏ những ngành nghề thuộc lĩnh vực kinh tế và thương mại đang rất thu hút các bạn trẻ. Tuy nhiên mức độ hiểu biết, nhận thức và thái độ của các em về ngành nghề này như thế nào sau khi các em đã thi đậu và theo học trong trường? Cần làm gì để góp phần nâng cao nhận thức và thái độ nghề nghiệp, giúp các em chuẩn bị hành trang để bước vào hoạt động lao động trong xã hội?.... Từ những băn khoăn đó đã khiến chúng tôi lựa chọn đề tài: “Khảo sát nhận thức và thái độ của sinh viên Trường Cao Đẳng Kinh Tế Đối Ngoại Thành Phố Hồ Chí Minh đối với một số nghề liên quan đến kinh tế và thương mại”. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Từ kết quả nghiên cứu thực trạng nhận thức, thái độ của SV trường CĐKTĐN đối với một số nghề liên quan đến kinh tế và thương mại đề xuất một số biện pháp giúp SV có nhận thức và thái độ đúng đắn đối với nghề nghiệp của mình. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài: nhận thức, thái độ, đặc điểm tâm lý sinh viên, nghề nghiệp liên quan đến kinh tế và thương mại… Khảo sát thực trạng nhận thức và thái độ của SV CĐ.KTĐN đối với một số nghề liên quan đến kinh tế và thương mại. Đề xuất một số biện pháp tác động nhằm góp phần nâng cao nhận thức của sinh viên về nghề nghiệp các em đã chọn và có thái độ đúng đắn với các nghề này. 4. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 4.1 Khách thể nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trên 400 sinh viên khoa Quản Trị Kinh Doanh, Khoa Tài Chính Kế Toán, trường Cao đẳng Kinh Tế Đối Ngoại, TP. Hồ Chí Minh 4.2 Đối tượng nghiên cứu Nhận thức và thái độ của sinh viên trường Cao đẳng Kinh Tế Đối Ngoại đối với một số nghề liên quan đến kinh tế và thương mại. 5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU Nhận thức và thái độ của sinh viên trường CĐ.KTĐN đối với nghề nghiệp thuộc lĩnh vực kinh tế và thương mại chưa đầy đủ và phù hợp. 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 6.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận Khi nghiên cứu lý luận, chúng tôi tiến hành thu thập các tài liệu lý luận, các kết quả nghiên cứu thực tiễn (sách, luận án, tạp chí, bài báo, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước…) về các vấn đề liên quan đến đề tài. Các tư liệu trên được nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài. 6.2 Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn 6.2.1 Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi Đây là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài. Chúng tôi tiến hành xây dựng bảng hỏi dành cho 400 SV năm thứ nhất và SV năm cuối các khoa Quản trị kinh doanh và Tài chính kế toán. Việc chọn mẫu nghiên cứu được thực hiện một cách ngẫu nhiên. Bảng hỏi được thực hiện qua ba giai đoạn như sau:  Giai đoạn 1: Dựa trên những cơ sở lý luận của đề tài, chúng tôi tiến hành thiết kế bảng hỏi mở về những vấn đề liên quan đến nhận thức và thía độ của SV về NN thuộc lĩnh vực KTTM . Sau đó, phát cho 30 SV được chọn ngẫu nhiên để thu thập những thông tin cần thiết làm định hướng cho việc xây dựng bảng hỏi chính thức của đề tài.  Giai đoạn 2: Từ kết quả thu được sau khi phát bảng hỏi mở cộng với những lý luận của đề tài sẽ xây dựng bảng hỏi chính thức bao gồm các nội dung sau: - Các câu hỏi về thông tin cá nhân về khách thể nghiên cứu - Các câu hỏi nhằm khảo sát nhận thức của SV về NN thuộc lĩnh vực KTTM gồm các câu 1, 4, 10, 11, 12, 13, 14 - Các câu hỏi nhằm tìm hiển thái độ và hành động của SV đối với NN. Gồm các câu 2,3,5,6,7,8,9,15,16,17,18,19,20  Giai đoạn ba: Tiến hành phát phiếu điều tra chính thức. Kết quả thu về như sau: Số phiếu phát ra là 400 phiếu, số phiếu hợp lệ là 380 phiếu. Điều tra ở sinh viên các chuyên ngành: Quản trị DNTM (109 SV), Marketing TM (129 SV), Kế toán DNTM (120 SV), Kinh doanh (21 SV). 6.2.2 Phương pháp phỏng vấn Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn: - 20 sinh viên các khoa: Quản trị kinh doanh, khoa tài chính kế toán để tìm hiểu suy nghĩ, hiểu biết, thái độ của các em về nghề nghiệp các em đã chọn. - Trưởng khoa Quản trị kinh doanh, khao Tài chình kế toán, 5 giảng viên giảng dạy trong trường, 5 giáo viên chủ nhiệm để thu thập thông tin liên quan đến đề tài. 6.3 Phương pháp toán thống kê: Kết quả điều tra bằng phiếu hỏi được xử lý bằng phần mềm SPSS for Windows phiên bản 11.5 tính tần số, tỷ lệ phần trăm, trị số trung bình, … 7. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 7.1 Giới hạn: Nghiên cứu nhận thức và thái độ của sinh viên khoa: Quản Trị Kinh Doanh, Tài Chính Kế Toán về nghề liên quan đến kinh tế và thương mại. 7.2 Phạm vi: Nghiên cứu 400 sinh viên năm nhất và năm cuối hai khoa: Quản Trị Kinh Doanh, Tài Chính Kế Toán trường CĐ Kinh Tế Đối Ngoại 8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI 8.1 Về mặt lý luận Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ hơn lý luận về nhận thức và thái độ, mối tương quan giữa nhận thức và thái độ, những NN thuộc lĩnh vực kinh tế và thương mại cũng như nhận thức và thái độ của SV đối với NN thuộc lĩnh vực kinh tế thương mại. 8.2 Về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo cho Ban Giám Hiệu, chủ nhiệm các khoa cũng như các giảng viên trong trường CĐ. KTĐN trong việc xây dựng các biện pháp cụ thể để góp phần nâng cao chất lượng công tác hướng nghiệp cho SV trong trường. Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Vấn đề nghề nghiệp nói chung đã và đang được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. 1.1.1 Trên thế giới Xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX ở Châu Âu với sự ra đời của cuốn sách “Hướng dẫn chọn nghề” (1848), vấn đề nghề nghiệp bắt đầu được các nước công nghiệp quan tâm nghiên cứu. Từ năm 1916, những cơ quan chuyên môn về hướng nghiệp đã được thành lập ở nhiều nước như Đức, Anh, Ý…và không ngừng phát triển đến nay. Ở Liên Xô đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề nghề nghiệp từ những năm 20 của thế kỷ XX. Năm 1921, phòng thí nghiệm tâm lý chuyên nghiên cứu nhân cách học sinh phục vụ cho hướng nghiệp thành lập. Năm 1927 hội nghị toàn liên bang về tâm sinh lý lao động và tuyển chọn nghề được tổ chức tại Mátxicơva, nhiều nhà tâm lý học nổi tiếng như E.A.Climôp,V.I.Segurôva… đã đi sâu nghiên cứu về xu hướng, hứng thú nghề nghiệp quyết định hiệu quả hoạt động nghề [23, tr.52]. Ngoài ra còn có công trình nghiên cứu về mặt tâm lý của một loạt các nghề phổ biến và xây dựng những phương pháp xác định sự phù hợp về nghề nghiệp của con người. Những nghiên cứu này được tiến hành cho học sinh trước khi bước vào chọn nghề, để tránh sự lãng phí trong đào tạo khi các em lựa chọn nghề không đúng với hoàn cảnh thực tế của mình. năm thứ nhất và SV năm cuối Từ năm 1970 ở trường Lêningrat đã tiến hành nghiên cứu nhân cách của học sinh bằng cách xác định thiên hướng nghề nghiệp của các em với sự giúp đỡ của viện bội dưỡng giáo viên. Tác giả Ph.N.Gôlôbin có công trình nghiên cứu về “ Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên”. Ông đã vạch ra được những phẩm chất tâm lý chủ yếu quyết định sự thành công trong hoạt động giảng dạy của người giáo viên, qua đó đề ra những yêu cầu nghề nghiệp làm cơ sở giúp cho s inh viên, giáo viên rèn luyện và phát t riển năng lực sư phạm phù hợp [8]. 1.1.2 Tại Việt Nam Trong vài năm trở lại đây công tác hướng nghiệp nhằm góp phần nâng cao hiểu biết, nhận thức về nghề nghiệp cho giới trẻ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông đã trở thành mối quan tâm của toàn xã hội. Ngày 19/03/1981 hội đồng Chính phủ đã ra quyết định 126/CP về “công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông…” và từ đây hướng nghiệp đã trở thành hoạt động chính thức trong nhà trường phổ thông. Ngày 17/11/1981, Bộ Giáo dục ra thông tư số 31/TT quy định “ Để giúp HS hiểu biết các ngành nghề, các trường học tạm thời sử dụng mỗi tháng một buổi lao động, để giới thiệu, tuyên truyền, giải thích ngành nghề”. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1986) khẳng định: “Trường phổ thông phải chuyển mạnh theo hướng dạy kiến thức phổ thông cơ bản, lao động kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và dạy nghề”. Nghị quyết 23 ngày 29/03/1989 của Bộ Giáo dục cũng nhấn mạnh “Phải đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp, phát triển hệ thống dạy nghề…”. Ngày 31/03/1990 Bộ Giáo dục ban hành quyết định số 329/QĐ nói rõ nội dung sinh hoạt hướng nghiệp và quy định các lớp THPT mỗi tháng phải có một buổi sinh hoạt hướng nghiệp. Nhờ sự quan tâm sâu sát của các cơ quan chính quyền mà công tác hướng nghiệp ở trường phổ thông đã có những bước phát triển rõ rệt: các trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp được tổ chức rộng rãi, các trường phổ thông xuất hiện các phòng, góc hướng nghiệp với rất nhiều tư liệu về các ngành nghề. Bên cạnh đó nhiều tác phẩm viết về vấn đề nghề nghiệp cũng được ra đời trong thời gian gần đây như: “Định hướng NN cho giới trẻ” của tác giả Ngô Hoài Sơn. Sách có đề cập đến những con đường lập nghiệp, hướng dẫn học sinh cách chọn khối thi, ngành thi, trường thi cũng như cung cấp cho một số thông tin về xu hướng phát triển một số NN trong tương lai. [17]. Tác phẩm “Bạn sẽ chọn nghề như thế nào” của Nguyễn Minh Nhựt. Tập sách bao gồm những câu hỏi – đáp từ từ các thắc mắc của học sinh xoay quanh vấn đề tuyển sinh và được các chuyên gia giáo dục trả lời[18]. Tác phẩm “Chọn nghề chọn tương lai” của Phạm Văn Hải. Sách sưu tập những ngành nghề thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau giúp bạn trẻ tự tìm cho mình NN phù hợp với sở thích, năng lực, tính cách. Ngoài ra sách còn giới thiệu những yêu cầu cụ thể của từng nghề, môi trường làm việc, mức lương của nghề cũng như những nơi đào tạo các ngành nghề đó [26]. Sách “Tư vấn hướng nghiệp” của tác giả Quang Dương đưa ra 50 chủ đề được chắt lọc từ những tình huống đã có và tác giả tư vấn theo chủ đề đó. Ngoài ra sách còn sưu tập những bài viết đăng trên báo, tạp chí [30]. Tác phẩm “Cẩm nang hướng nghiệp” của Nguyễn Chí Thu để cập đến cách thức để bạn trẻ tự nhận biết bản thân như tính cách, khí chất, hứng thú, tố chất trước khi quyết định chọn nghề [20]. “Kiến thức và kỹ năng vào nghề” của Nguyễn Đăng Lập. Nội dung tác phẩm đề cập đến cách thức để học sinh tìm hiểu và khám phá bản thân, tìm hiểu về năng lực học tập cũng như hướng dẫn kỹ năng chọn nghề [11]. Như vậy trong những năm trở lại đây công tác hướng nghiệp cho học sinh bậc phổ thông đã có những tiến bộ rõ rệt, chủ nghề NN được xem là đề tài nóng hổi để nhiều tác giả quan tân đề cập đến. Bên cạnh đó cũng có những tác phẩm viết về công tác hướng nghiệp cho giới trẻ là SV, tuy nhiên những tài liệu này chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu thông tin NN của SV. Tác giả Nhân Văn với “Sổ tay hướng dẫn cách tìm việc”. Nội dung sách xoay quanh những vấn đề hướng dẫn bạn trẻ cách tìm việc, cách chuẩn bị bản thân để đáp ứng nhu cầu công việc, cách tìm kiếm và phát hiện những cơ hội việc làm, chuẩn bị hồ sơ xin việc và phỏng vấn [21]. “Chọn nghề và cách chiến hắng nhà tuyển dụng” của tác giả Nguyễn Ninh đã để cập đến những kiến thức cơ bản về kỹ năng chọn nghề, kỹ năng trả lời phỏng vấn, các xu hướng tất yếu phát triển của các doanh nghiệp trong tương lai [19]. Tác phẩm “Cẩm nang tìm việc” của P.H.Diệp đưa ra những lời khuyên cho bạn trẻ trước khi tìm việc như chọn kênh thông tin tìm việc, xác định lý do làm việc, những lưu ý để có việc làm thích hợp cũng như cách viết đơn xin việc, chuẩn bị hồ sơ, chuẩn bị phỏng vấn trước nhà tuyển dụng…[29] Công tác định hướng nghề nghiệp không chỉ dừng lại ở bậc phổ thông mà ngay cả sinh viên sau khi đã lựa chọn ngành nghề và theo học ở bậc đại học, cao đẳng vẫn cần được quan tâm, điều này sẽ góp phần nâng cao nhận thức và thái độ nghề nghiệp mà SV đang theo học. Như vậy quá trình hướng nghiệp là một quá trình liên tục và kéo dài cho đến những năm cuối cùng của bậc đại học, cao đẳng. Tuy nhiên trên thực tế vấn đề này rất ít được quan tâm nghiên cứu, với những công trình nghiên cứu chuyên sâu vào lĩnh vực nhận thức, thái độ của sinh viên về ngành nghề thuộc lĩnh vực kinh tế lại càng ít. Chính vì vậy, qua đề tài này chúng tôi muốn khảo sát thực trạng nhận thức và thái độ về nghề nghiệp của sinh viên đang học các ngành nghề kinh tế để từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao nhận thức về nghề nghiệp của sinh viên, giúp SV hình thành thái độ tích cực, đúng đắn đối với ngành nghề các em đang theo học. 1.2 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.2.1 LÝ LUẬN VỀ NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ 1.2.1.1 Nhận thức Khái niệm chung Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhận thức, trong chương trình tâm lý học đại cương của nhiều tác giả, khái niệm nhận thức đã được đề cập rất cụ thể với nhiều phương diện khác nhau. Theo từ điển tiếng Việt - 1992: nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy; quá trình con người nhận biết và hiểu biết thế giới khách quan, hoặc kết quả của quá trình đó [ 3, tr.689]. Theo Từ điển Triết học: nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn [32]. Từ điển Bách khoa Việt Nam: nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể [40]. Roberts Feldman cho rằng: Sự nhận thức là quá trình tinh thần bậc cao qua đó chúng ta hiểu thế giới, xử lý thông tin, phán đoán và quyết định, và chia sẻ hiểu biết với người khác [42,tr.307]. Định nghĩa này đã nói một cách rất cụ thể về nhận thức. Theo Le Ny: “nhận thức bao hàm đồng thời toàn bộ những hoạt động góp phần vào sự hiểu hiết, dù cho hoạt động đó đúng đắn và toàn bộ sản phẩm của hoạt động đó, dù đó là bản thân kiến thức, lệch lạc về kiến thức, biểu hiện và tín ngưỡng gần đúng hoặc có một phần sai lệch” [47,tr.68]. Với định nghĩa mà Le Ny đưa ra, nhận thức được xem xét một cách rất tổng quát, ở phạm vi rất rộng. Một khái niệm xem xét nhận thức ở phạm vi hẹp hơn đó là định nghĩa của Raynal và Rieunier: “Nhận thức là toàn bộ những quy trình mà nhờ đó những đầu vào cảm xúc chuyển hóa, mã hóa, cấu trúc hóa, lưu trữ, hồi cố và sử dụng” [47, tr.68]. Stephen Worchel – Wayne Shebilsue: “Nhận thức là một quá trình diễn dịch thông tin do cảm giác thu thập được”[45, tr107]. Định nghĩa này cho chúng ta thấy nhận thức ở một phạm vi rất hẹp. Nhận thức được hiểu là một sự giải mã các thông tin. Phạm Hoàng Gia cho rằng: Lĩnh vực nhận thức bao gồm cả tri thức và năng lực trí tuệ [48, tr.227]. Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: “nhận thức là hoạt động đặc trưng của con người. Trong quá trình sống và hoạt động con người nhận thức – phản ánh được hiện thực xung quanh, hiện thực của bản thân mình, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ và hành động đối với thế giới xung quanh và đối với chính bản thân mình”[43, tr.88]. Định nghĩa này xem xét nhận thức ở khía cạnh là một hoạt động của con người. Ở một khía cạnh khác, nhận thức được xem là một quá trình, đó chính là quan điểm của tác giả Nguyễn Khắc Viện: “Nhận thức là một quá trình tiếp cận, tiến gần đến chân lý, nhưng không bao giờ ngừng ở một trình độ nào, vì không bao giờ nắm hết toàn bộ hiện thực, phải thải dần những cái sai, tức không ăn khớp với hiện thực, đi hết bước này sang bước khác”[49]. Cũng xem xét nhận thức ở khía cạnh quá trình, nhưng xem xét ở những quá trình cụ thể, chia nhỏ quá trình đó thành những quá trình riêng lẻ là quan điểm của tác giả Đặng Phương Kiệt lý giải: Nhận thức là một thuật ngữ khái quát hóa mọi dạng hiểu biết. Các quá trình hiểu biết bao gồm: chú ý, ghi nhớ, suy nghĩ và giải quyết vấn đề, tri giác và nhận biết hình mẫu. [50, tr.284]. Từ các quan điểm và các góc độ tiếp cận của các nhà nghiên cứu trên, chúng tôi xác định rằng: Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào não con người, mang tính chủ thể, mang tính lịch sử xã hội và trên cơ sở nhận thức con người tỏ thái độ và hành động đối với thế giới xung quanh và với chính bản thân mình. Như vậy chúng ta nhận thấy: - Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan do đó nếu con người có nhận thức tốt tức là quá trình phản ảnh hiện thức khách quan đúng đắn, đầy đủ. - Nhận thức có mối quan hệ với tình cảm, thái độ. Tức là khi con người nhận thức tốt sẽ làm nảy sinh, định hướng, điều khiển tình cảm, thái độ và giúp con người tỏ thái độ phù hợp. - Nhận thức, thái độ có mối quan hệ với hành động. Nghĩa là nhận thức, thái độ tốt sẽ làm động lực thúc đẩy con người hành động và đạt kết quả tốt. Các giai đoạn của quá trình nhận thức Sống và hoạt động trong thế giới khách quan, con người luôn nhận thức và tỏ thái độ của mình với những sự vật hiện tượng xung quanh. Trong quá trình hoạt động, con người phải nhận thức cái bên ngoài và bản chất bên trong, cái trực quan cụ thể và cái khái quát, trừu tượng…của sự vật hiện tượng. Như vậy hoạt động nhận thức rất phức tạp, đa dạng và thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau. Hoạt động nhận thức được chia thành hai giai đoạn: Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính bao gồm hai quá trình cảm giác và tri giác. Nhận thức lý tính gồm có quá trình tư duy và tưởng tượng. Giữa cảm tính và lý tính có cấp độ trung gian, đó là trí nhớ [22, tr.88].  Nhận thức cảm tính Nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên của con người, trong đó chúng ta chỉ phản ánh được những đặc điểm bên ngoài của sự vật hiện tượng riêng lẻ khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta. Nhận thức cảm tính gồm có hai quá trình cơ bản là cảm giác và tri giác. - Cảm giác: Cảm giác là một quá trình nhận thức đơn giản nhất, phản ánh những đặc điểm riêng lẻ, bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan tương ứng của con người. Mức độ cảm giác chúng ta mới chỉ có những hiểu biết rất mơ hồ, rất chung chung về thế giới xung quanh, thậm chí cảm giác có thể không chính xác. Mặc dù cảm giác là quá trình tâm lý rất đơn giản, nhưng nó có vai trò vô cùng to lớn đối với hoạt động nhận thức nói riêng và đối với cuộc sống con người nói chung. Cảm giác đưa đến cho ta nguồn tài liệu phong phú về hiện thực khách quan, nó cung cấp nguyện liệu cho các qúa trình nhận thức cao cấp khác. “Cảm giác là những viên gạch đầu tiên từ đó dựng nên lâu đài nhận thức” (V.I.Lenin). Cảm giác là công cụ duy nhất nối liền ý thức với thế giới bên ngoài. Không có cảm giác con người không thể định hướng được trong môi trường xung quanh, không thể giao thiệp được với mọi người, không thể lao động và không thể tránh khỏi các mối nguy hiểm. - Tri giác Tri giác là một quá trình nhận thức phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta Tri giác là một quá trình nhận thức cao cấp hơn cảm giác, là sự tổng hợp một cách phức tạp của các cảm giác. Để tạo ra hình ảnh trọn vẹn về thế giới xung quanh. Quá trình tri giác có sự tham gia của kinh nghiệm, của tư duy, của ngôn ngữ và nhiều chức năng tâm lý khác nữa. Vì thế tri giác không chỉ là qúa trình tạo ra hình ảnh cảm tính về sự vật hiện tượng mà còn là một hoạt động tích cực của con người. Tuy nhiên tri giác cũng chỉ mới là cảm tính, vì vậy nó cũng thiếu chính xác và không sâu sắc.  Nhận thức lý tính Là giai đoạn nhận thức cao hơn so với cảm tính, nó cho ta biết cái bên trong, cái bản chất, cái quy luật của sự vật hiện tượng. Nhận thức lý tính bao gồm 2 quá trình tư duy và tưởng tượng. - Tư duy: Tư duy là quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan, nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính. Tư duy cho ta biết những thuộc tính bản chất bên trong, những quy luật của hàng loạt sự vật hiện tượng, những cái mà bằng giác quan, bằng nhận thức cảm tính con người chưa thể phản ánh được. Tư duy nảy sinh trên cơ sở hoạt động thực tiễn, từ nhận thức cảm tính và vượt ra ngoài nhận tức cảm tính. Tư duy là quá trình tâm lý không tách rời ngôn ngữ, hình thành bởi xã hội, đi tìm cái mới cơ bản, là quá trình phản ánh gián tiếp và khái quát hiện thực. Chính vì thế tư duy cho phép ta tìm hiểu quá khứ xa xưa và cũng cho phép ta nhìn về tương lai. - Tưởng tượng: Trong thực tế, không phải bất cứ tình huống có vấn đề nào ta cũng đều giải quyết được bằng tư duy. Có nhiều trường hợp, khi đứng trước tình huống có vấn đề con người không thể dùng tư duy để giải quyết mà phải dùng một quá trình nhận thức khác gọi là tưởng tượng. Tưởng tượng là một quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có. Tưởng tượng tạo ra những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng của trí nhớ nhờ các phương thức hành động: chắp ghép, liên hợp, nhấn mạnh, mô phỏng… Các mức độ của quá trình nhận thức Đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước bàn về các mức độ của quá trình nhận thức, nhưng đề tài này chỉ tập trung nói đến quan niệm của B.S.Bloom về đánh giá các mục tiêu nhận thức. Nhận thức có nhiều mức độ khác nhau, phân loại mục tiêu nhận thức ra thành 6 mức độ từ thấp đến cao. Mỗi mức độ đặc trưng cho một hoạt động trí tuệ. Mức 1: Biết: Đưa vào trí nhớ và phục hồi lại thông tin của cùng một đối tượng nhận thức, ghi nhớ, có thể nhắc lại các sự kiện, định nghĩa các khái niệm, nội dung các định luật,… Mức 2: Hiểu: Có thể thuyết minh, giải thích, chứng minh những kiến thức đã lĩnh hội (phục hồi ngữ nghĩa thông tin trong những đối tượng khác nhau, thiết lập liên hệ ở những đối tượng khác nhau) Mức 3: Vận dụng: Có thể áp dụng kiện thức vào những tình huống mới, khác với trong bài học (sử dụng các nguyên tắc, quy tắc, những phác đồ để giải quyết một vấn đề nào đó) Mức 4: Phân tích: Biết phân chia toàn thể thành các bộ phận, một vấn đề lớn thành những vấn đề nhỏ hơn, làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các bộ phận (đồng nhất những bộ phận tạo nên cái tổng thể, từ đó phân biệt các ý tưởng trong đối tượng đó) Mức 5: Tổng hợp: Biết sắp xếp các bộ phận thành một thể thống nhất, ghép các vấn đề nhỏ thành vấn đề lớn, tạo thành một tổng thể mới (liên kết tất cả các bộ phận tạo nên tổng thể) Mức 6: Đánh giá: Có thể nhận định, phán đoán về giá trị, ý nghĩa của mỗi kiến thức (tạo thành những phán đoán về số lượng cũng như chất lượng thao tác tạo nên chất lượng của trí tuệ) Hai mức đầu là nhận thức ở mức thấp, bốn mức sau là nhận thức ở mức cao vì chúng đề cập đến các thao tác tư duy phức tạp hơn, huy đông 3 thao tác phân tích, tổng hợp, đánh giá. Tự nhận thức Tự nhận thức là thành phần của tự ý thức. Tự nhận thức được hiểu là quá trình nhận thức hướng vào chính cá nhân mình. Quá trình tự nhận thức có thể diễn ra với những mục đích khác nhau và xuất phát từ những mục tiêu, có thể xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau, động cơ khác nhau. Không nhất thiết chỉ trong hoạt động tự nhận thức con người mới có được những nhận thức về bản thân. Trong khuân khổ của những hoạt động khác, con người cũng có thể có được những nhận thức về bản thân một cách không chủ định. Điều đó xảy ra trong sự thống nhất với các quá trình ý thức khác nhau và xảy ra một cách gián tiếp. Trong quá trình tự nhận thức, cá nhân có được những nhận thức mới về bản thân. Chất lượng của những nhận thức mới đó phụ thuộc vào một loạt những điều kiện bên trong, điều kiện bên ngoài và phụ thuộc vào chất lượng của chính hoạt động mà trong đó nhận thức được hình thành. “Con người có được sự nhận thức thực sự một cách nhanh nhất và tốt nhất nếu con người hành động và tự kiểm tra mình trong những tình huống sống biến động thay cho việc chỉ tập trung vào sự quan sát” (S.L.Rubinstein)[15]. Trong quá trình tự nhận thức, cá nhận sẽ có được những quan điểm đối với bản thân và đồng thời còn có một hệ thống nhận thức tương đối bền vững về bản thân, mỗi một nhận thức mới phải được hòa nhập vào hệ thống đó. + Nếu những nhận thức mới phù hợp với hệ thống nhận thức đã có thì dẫn đến sự xác nhận cũng như củng cố thêm nhận thức đã có tạo nên sự hòa nhập. + Nếu những nhận thức mới không phù hợp với nhận thức đã có thì có sự tác động qua lại giữa thông tin mới và nhận thức đã có. Sự tác động này thường gắn với những trạng thái xúc cảm. Đặc biệt trong trường hợp này, những quá trình nhận thức mới có thể kích thích đưa đến sự cải tổ hệ thống nhận thức và hệ thống quan điểm đã có. Tự nhận thức với tư cách là thành phần của tự ý thức của nhân cách, là sự nhận thức về cái tôi riêng trong mối quan hệ với sự nhận thức thực tế khách quan, nhưng đồng thời trong sự thống nhất với những quá trình ý thức, nó có chức năng điều chỉnh hành động có ý thức. 1.2.1.2 Thái độ Khái niệm thái độ Thái độ là một thuật ngữ được sử dụng khá thường xuyên trong khoa học tâm lý và các ngành khoa học khác, tuy nhiên việc tìm một khái niệm toàn diện, đầy đủ nhất về thái độ không phải là dễ. Dưới đây là một số khái niệm tiêu biểu về thái độ Theo từ điển Tiếng việt – 1999, thái độ là tổng thể nói chung những biểu hiện ra bên ngoài (bằng nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động) của ý nghĩ, tình cảm với ai hoặc đối với sự việc nào đó. Thái độ hống hách, thái độ không bằng lòng, thái độ niềm nở, thái độ im lặng…[3] Thái độ là cách nghĩ, cách nhìn và cách hành động theo một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình hình. Xây dựng thái độ lao động mới, thái độ học tập đúng đắn, thái độ hoài nghi, thiếu tin tưởng… Theo tâm lý học xã hội: Thái độ là sự sẵn sàng ổn định của cá nhân để phản ứng với một tình huống hay một phức thể tình huống, thái độ vốn có xu hướng rõ rệt hình thành quy luật nhất quán phương thức xử thế của mỗi cá nhân [53]. Theo từ điểm tâm lý học của Nguyễn Khắc Viện – 1991: Trước một số đối tượng nhất định, như hàng hoá nào đó hoặc một ý tưởng nào đó (chính trị, tôn giáo, triết lý…) nhiều người có những phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối, như đã sẵn sàng có những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó. Từ những thái độ sẵn có, tri giác về các đối tượng cũng như tri thức bị chi phối, về vận động thì thái độ gắn liền với tưởng tượng [49]. Thái độ liên quan với động cơ và các dục vọng bản năng, nhưng khác với dục vọng là khi đã tỏ thái độ rồi, vị tất nó sẽ dịu đi như khi thoả mãn dục vọng (ghét ai, có xỉ vả rồi nhiều khi vẫn giữ thái độ như trước). Thái độ thay đổi trong quá trình hoạt động. Như vậy, theo từ điển Tiếng việt thái độ được hiểu là: cách nghĩ, cách nhìn và cách hành động theo một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình hình. Dựa trên những tư tưởng của Lazuski và xuất phát từ lập trường Mácxit, V.N.Miasixev đề ra học thuyết tâm lý về thái độ chủ quan của cá nhân, ông viết: Thái độ dưới dạng chung nhất, là hệ thống trọn vẹn các mối liên hệ cá nhân, có chọn lọc, có ý thức của nhân cách với các khía cạnh khác nhau của hiện thực khách quan. Hệ thống này xuất phát từ toàn bộ lịch sử phát triển của con người, nó thể hiện kinh nghiệm cá nhân và quy định hành động và các thể nghiệm của cá nhân từ bên trong [52]. Các nhà tâm lý học Xô viết ít dùng thuật ngữ “thái độ” trong các nghiên cứu của mình vì tính đa nghĩa của thuật ngữ này trong tiếng Nga. Cho nên khái niệm tâm thế được sử dụng nhiều hơn để nói đến thái độ chủ quan của nhân cách, được định nghĩa như sau: Tâm thế xã hội là một dạng tâm thế được xem như một yếu tố hình thành hành vi xã hội của nhân cách, xuất hiện dưới dạng các quan hệ của nhân cách với các điều kiện hoạt động của nó và của những người khác. Tác giả K.K.Platonov lại cho rằng “thái độ là một cấu thành tích cực của ý thức cá nhân và là các mối liên hệ ngược của chủ thể đối với thế giới, được phản ánh và được khách thể hóa trong tâm vận động”. Do vậy, phản ánh được hiểu không chỉ là kết quả tác động của môi trường lên con người mà là biểu hiện của sự tác động qua lại giữa chúng. Nói cách khác, bản thân phản ánh là sự tác động qua lại được thực hiện bằng phương thức thái độ có ý thức. Các nhà tâm lý học của Leninggrad thuộc Liên Xô trước đây coi thái độ là “những cơ cấu tâm lý sẵn có, định hướng cho sự ứng phó của cá nhân”. Còn dưới góc độ tâm lý học nhân cách thì Kosacowski và Lompscher đều khẳng định thái độ thuộc tính tâm lý bao gồm niềm tin, hứng thú, thái độ xã hội. Lênin định nghĩa thái độ là một bộ phận của lĩnh vực tình cảm phản ánh quan hệ của cá nhân đối với hiện thực. Nó được quyết định bởi thế giới quan của cá nhân cho nên cũng phản ánh tồn tại xã hội, chịu ảnh hưởng của ý thức giai cấp, của tâm lý xã hội, của dư luận và tập đoàn xã hội. Nó thường không phải là những đáp ứng được biểu lộ một cách rõ ràng hay trực tiếp mà là những ý nghĩ đang chuyển hoá thành hành động [52]. Các tác giả Xô viết mặc dù có các định nghĩa khác nhau nhưng đều chung một ý là: thái độ là sự phản ánh ý thức, là sự phản ánh thuộc tính cốt lõi của nhân cách và là một yếu tố định hướng hành vi xã hội của con người. Trong tâm lý học phương Tây, vấn đề thái độ được đặt ra lần đầu do hai nhà tâm lý học người Mỹ là V.I.Thomas và PH.Znanheski (1918) và được nghiên cứu mạnh mẽ vào những năm 30, 50 của thế kỷ này. Họ xem thái độ như là một trong những thuộc tính quan trọng của các vấn đề xã hội, thái độ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với một giá trị. Thái độ được hiểu là sự đáp ứng có tính cách đánh giá và đáp ứng thuộc lĩnh vực tình cảm được đặt trên cơ sở việc áp dụng một số khái niệm có tính đánh giá và chính thái độ làm nảy sinh động cơ hay các hành vi có chủ đích. Nếu vậy, thái độ nảy sinh bên trong của con người trước sau đó mới biểu hiện ra bên ngoài và thái độ là sản phẩm của sự đánh giá tâm lý và nhận thức về đối tượng xuất phát từ nhu cầu của chủ thể. Nhà tâm lý học xã hội Hoa Kỳ G.V.Onparte thì cho rằng: Thái độ là trạng thái thần kinh và tâm lý của sự sẵn sàng được tạo ra trên cơ sở kinh nghiệm nó có ảnh hưởng và điều khiển năng động đến những khách thể và tình huống gắn liền với cá nhân đó. Theo D.N.Uzanataze cho rằng ”Thái độ là một trạng thái toàn vẹn của chủ thể. Đó là sự phản ứng cơ bản đầu tiên đối với các tác động của tình huống trong chủ thể phải đặt ra và giải quyết tình huống” Qua những khái niệm trên ta thấy rõ các tác giả đều khẳng định khía cạnh tâm lý cá nhân trong thái độ, thái độ là cái rất riêng của cá nhân như là sự sẵn sàng ổn định của cá nhân hay là sự sẵn sàng của cơ thể. Thế nhưng, thái độ không chỉ đề cập đến khía cạnh tâm lý cá nhân mà phải được xem xét trong mối quan hệ với những yếu tố khác như mối quan hệ với người khác và cả trong mối quan hệ phức tạp và đa dạng của xã hội. Thực vậy, thái độ không chỉ mang tính chất cá nhân mà còn mang tính xã hội. Thông thường thái độ mang tính chất riêng tư của cá nhân vì mỗi cá nhân là một chủ thể nhất định, song chính cá nhân lại tồn tại và sống trong một xã hội nhất định cho nên xã hội đã chi phối rất rõ thái độ của con người. Thái độ phải được xem xét dưới khía cạnh xã hội. trong cuốn “Nhập môn tâm lý học xã hội Mác xít”, M.Hipso đề cập đến thuật ngữ “khuân mẫu thái độ” là một hiện tượng tâm lý xã hội với tư cách là sự sẵn sàng phản ứng nảy sinh trong những nhóm nhất định và trong những tình huống cụ thể. Nhà tâm lý học xã hội Mỹ G.W.Allport cho rằng, “Thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm, điều chỉnh hoặc ảnh hưởng năng động đến các phản ứng của cá nhân với tất cả các khách thể và tình huống mà nó có mối liên hệ” và đã tóm tắt thành năm đặc trưng của khái niệm thái độ đó là: - Trạng thái của tinh thần và hệ thần kinh - Biểu hiện sự sẵn sàng hành động - Tính tổ chức (sắp xếp theo thứ bậc, trạng thái có tổ chức) - Hình thành trên cơ sở kinh nghiệm - Gây ảnh hưởng và điều khiển hành vi Theo Y.Tamat và Znanhieuski khi nghiên cứu về sự thích ứng của người nông dân Balan di cư thì khái niệm này dùng để chỉ những đặc trưng cá nhân so với đặc trưng xã hội. Thái độ được coi là trạng thái xúc động của cá nhân đối với các giá trị, ý nghĩa, lý tưởng của đối tượng xã hội cụ thể hoặc là trạng thái ý thức của cá nhân phù hợp với một số giá trị xã hội. Nhà tâm lý học Mỹ Newcom cho rằng, thái độ là khuynh hướng hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của cá nhân với khách thể có liên quan. H.C.Trianodis coi “Thái độ là tư tưởng được hình thành từ những cảm xúc gây tác động đến hành vi nhất định ở một giai cấp nhất định trong những tình huống xã hội. Thái độ của con người bao gồm những điều người ta suy nghĩ và cảm thấy về đối tượng, cũng như thái độ xử sự của họ đối với nó.” R.Marten thì khẳng định, thái độ là xu hướng thường xuyên đối với các tình huống xã hội, nó biểu thị sự thống nhất của ý nghĩ, tình cảm và hành động. Thái độ của con người có mối quan hệ chặt chẽ với hành vi, được xác định bằng tình huống thống nhất bên trong. H.Fillmore cho rằng, thái độ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực hay tiêu cực đối với đối tượng hay các ký hiệu (biểu tượng) của môi trường…thái độ là sự định hướng của cá nhân đến các khía cạnh khác nhau của môi trường và là cấu trúc có tính động cơ. J.Traver và cộng sự định nghĩa thái độ là các cảm xúc, tư duy và hành động tương đối lâu dài đối với sự việc hay con người nào đó. Như vậy, khái niệm thái độ là một khái niệm mang tính phức tạp. Thái độ con người theo diện rộng là toàn bộ hệ thống các mối quan hệ có tính phân biệt lựa chọn, có ý thức của nhân cách đối với các mặt khác nhau của hiện thực khách quan. Hệ thống này là kết quả của toàn bộ lịch sử phát triển con người. Nó thể hiện kinh nghiệm cá nhân và mặt bên trong quy định thành hành vi, tâm trạng của con người. Đặc điểm của thái độ Đầu tiên là cảm xúc với đối tượng quen thuộc. Tuy thế, vẫn chưa đủ mà thái độ bao gồm cả ý định và hành động đối xử với một đối tượng nhất định. Đó là mặt trong, mặt chủ quan của thái độ. Mặt bên trong của thái độ không phải lúc nào cũng thể hiện một cách trọn vẹn, thẳng thắn và nguyên xi mà có thể bị giấu kín nếu như cảm thấy cần che giấu, khi đó chủ thể sẽ kìm chế, đè nén và không biểu lộ thái độ của mình. Thái độ của con người có thể biểu hiện một cách minh thị song cũng có thể được che giấu. Ngay khi thái độ được biểu hiện thì thái độ cũng có thể biểu hiện một cách chân thực, rõ ràng nhưng cũng có thể biểu hiện một cách giả dối, không chân thực. Thái độ mang tính chủ thể nhưng lại mang tính đối tượng khá rõ nét. Đối với con người bao giờ thái độ cũng là thái độ đối với một đối tượng cụ thể nhất định. Thế nhưng thái độ lại thể hiện rất rõ nét tính chủ thể vì với cùng một đối tượng nhưng mỗi người lại có thái độ khác nhau, thậm chí ngay khi con người có thái độ tương đối giống nhau thì cách thức và mức độ biểu hiện cũng khác nhau Thái độ mang tính cá nhân nhưng cũng bị chi phối bởi những yếu tố xã hội, dư luận xã hội, phong tục tập quán…trước khi tỏ thái độ con người thường xem xét những yếu tố xã hội chung quanh mình xem có cho phép hay không. Mặt khác thái độ chính là một phần trong biểu hiện tình cảm. Thái độ có thể nói là giai đoạn nảy sinh trước động cơ song chính thái độ cũng góp phần không nhỏ trong việc hình thành động cơ và chính nó là giai đoạn định hướng cho động cơ đi đến hành động. Thái độ thường được phân chia theo hai hướng khác nhau: Thái độ tích cực, thái độ tiêu cực; Thái độ đúng đắn, thái độ không đúng đắn (thái độ sai lệch). Khi đề cập đến thái độ ta thường đề cập đến những thuật ngữ như: thích hay không thích, tán thành hay không tán thành, e ngại hay tự tin…tất cả đều được hiểu là thái độ của một chủ thể đối với một đối tượng nhất định, đó là một sự vật hiện tượng hoặc một vấn đề hay một con người cụ thể nào đó. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành thái độ - Thái độ được hình thành bởi các thông tin Thông tin trên các phương tiện: báo, tạp chí, truyền hình, radio, trong đời sống hàng ngày…đều có thể ảnh hưởng đến việc hình thành thái độ của con người, như vậy khi thông tin tác động vào chúng ta thì chúng ta thường có thái độ với những thông tin đó. Hệ thống thông tin được các chủ thể tiếp nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, có thông tin làm chủ thể nhận rõ thêm bản chất của vấn đề và sau đó chủ thể dễ dàng bày tỏ thái độ… - Thái độ được hình thành trong quá trình thoả mãn nhu cầu Con người thường hình thành thái độ tích cực với những gì có lợi và hình thành thái độ tiêu cực với khách thể có hại trong tiến trình thoả mãn nhu cầu của mình. Quá trình thoả mãn nhu cầu là quá trình chủ thể nỗ lực bản thân, tìm kiếm các phương pháp phù hợp để thoả mãn các nhu cầu, sau đó cảm xúc sẽ xuất hiện và chủ thể bày tỏ thái độ một cách cụ thể. - Thái độ được hình thành qua giao tiếp nhóm Mỗi cá nhân là thành viên của nhiều nhóm khác nhau, thái độ của một người thường phản ánh giá trị, chuẩn mực, niềm tin của nhóm mà họ là thành viên. Thái độ của các nhóm khác nhau là do mục đích, tiêu chuẩn của các nhóm khác nhau. Chẳng hạn nhóm hoạt náo viên khác nhóm thổi kèn đám ma. Giá trị mà cả nhóm theo đuổi sẽ có ảnh hưởng đến việc hình thành thái độ của các thành viên trong nhóm đó. Chuẩn mực đó không chỉ xác định hành vi nào là đúng hay sai, hành vi nào là tốt hay xấu mà còn xác định xem thái độ nào là đúng thái độ nào là sai. Thông qua việc thưởng phạt và áp lực nhóm, ép cá nhân phải tuân theo. Các nhóm thường đưa ra quy chế thưởng phạt làm động cơ cho các thành viên. Ai có thái độ, hành vi tốt, đúng thì sẽ được khen ngợi, được thưởng và ngược lại thì sẽ bị lên án, bị phạt. Trong tâm lý học xã hội đề cao vai trò của nhóm, nhất là các nhóm: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…có vai trò quan trọng trong việc hình thành ý thức cá nhân. Tuy nhiên cá nhân tiếp nhận các thái độ trong nhóm một cách có lựa chọn, không tiếp nhận một cách bị động, mức độ và cách thức tiếp nhận của mỗi thành viên trong nhóm là khác nhau. - Thái độ được hình thành qua kinh nghiệm sống Kinh nghiệm trong cuộc sống sẽ hình thành nên thái độ. Người có nhiều kinh nghiệm sẽ có thái độ khác so với những người có ít kinh nghiệm mặc dù họ cùng gặp một vấn đề giống nhau. - Nhân cách cá nhân và sự hình thành thái độ Cá nhân có xu hướng tiếp nhận các thái độ phù hợp với nhân cách của mình, nhưng nhân cách của con người thì chưa hẳn là một hệ thống hoàn toàn thống nhất. Chính vì thế mà chúng ta có thể tiếp nhận các thái độ mâu thuẫn nhau, bởi sự giáo dục khác nhau. 1.2.1.3 Mối tương quan giữa nhận thức và thái độ Thái độ có liên quan chặt chẽ với nhận thức, thái độ chịu sự chi phối của nhận thức nhưng cùng lúc đó thái độ lại tác động ngược trở lại đối với nhận thức. Thông thường nếu nhận thức đúng đắn sẽ có thái độ tích cực, đúng nhưng khi con người có thái độ tích cực đối với một vấn đề cụ thể thì nhu cầu và hứng thú nhận thức của chủ thể sẽ được nâng lên. Lẽ dĩ nhiên, đây chỉ là sự tác động xuôi chiều vì nhiều khi con người nhận thức đúng nhưng không hẳn đã có thái độ tích cực và ngược lại. Nhận thức và thái độ đều phản ánh hiện thực khách quan và mang tính chủ thể sâu sắc. Tuy nhiên, giữa nhận thức và thái độ vẫn còn những đặc điểm riêng. Trong khi nhận thức phản ảnh những thuộc tính và các mối quan hệ của bản thân thế giới, thái độ thể hiện mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng với nhu cầu, động cơ của con người. Con người thường có thái độ tích cực khi có những đối tượng nào đó làm thoả mãn nhu cầu, hoặc ngược lại, con người có thái độ tiêu cực khi có những đối tượng gây trở ngại cho sự thoả mãn nhu cầu. Nhận thức và thái độ là hai yếu tố tâm lý cơ bản tạo nên cấu trúc của biểu tượng, hành vi tương ứng với những đối tượng được nhận thức. Trước khi con người có hành vi đáp lại một tác nhân kích thích nào đó, người ta phải nhận thức, và phân tích sâu sắc nhằm nhận thức được ý nghĩa, bản chất của kích thích, trên cơ sở đó mà có một phản ứng, một thái độ đáp lại một cách thích hợp. Vì vậy, ta có thể nói muốn hình thành thái độ, con người phải có nhận thức đúng. Thái độ thể hiện mối quan hệ với nhu cầu, nguyện vọng đối với đối tượng. Nếu con người có thái độ tích cực đối với đối tượng nhận thức, nghĩa là họ quan tâm, mong muốn nhận thức đối tượng một cách sâu sắc thì quá trình nhận thức sẽ diễn ra thuận lợi hơn và hiệu quả hơn. Vì thế ta có thể nhận xét rằng thái độ tích cực của cá nhân đối với một đối tượng nào đó có tác dụng thúc đẩy quá trình nhận thức của con người đối với đối tượng đó. Nhận thức và thái độ có tác động đến nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên ý thức trọn vẹn ở mỗi người. Tuy nhiên mỗi thành tố trên đều tương đối độc lập với nhau. Vì thế trong ý thức từng người, khi xảy ra mâu thuẫn giữa nhận thức và thái độ sẽ gây nên sự không nhất quán trong ý thức. Chẳng hạn, về nhận thức ta hiểu đúng ý nghĩa và sâu sắc về đối tượng nhưng về thái độ ta lại không có thái độ đúng đắn. Hoặc ngược lại, đôi khi một cá nhân ngẫu nhiên có thái độ đúng với một hiện tượng nào đó nhưng lại bị hạn chế về mặt nhận thức. Nhận thức và thái độ có vai trò quan trọng trong quá trình tự ý thức và hình thành tự ý thức. Trên cơ sở nhận thức được bản chất, con người có những thái độ trân trọng đối với những giá trị nhân cách và đồng thời có thái độ tự phê phán, tự xoá bỏ những nhược điểm về nhân cách của mình. Chính lúc này quá trình tự nhận thức phát triển thành tự ý thức 1.2.2 THANH NIÊN SINH VIÊN 1.2.2.1 Đặc điểm lứa tuổi thanh niên sinh viên Tuổi thanh niên sinh viên được xác định trong khoảng từ 18 đến 25 tuổi vì đây là độ tuổi quy định trong tuyển sinh vào cao đẳng, đại học của Bộ Giáo dục và Đào tào. Mặt khác, vì mốc bắt đầu tuổi sinh viên là 18 nên sinh viên được xếp vào tuổi thanh niên muộn hay được xem là sự bắt đầu của tuổi người lớn. Tuổi sinh viên là độ tuổi trưởng thành về mặt sinh học cũng như cả về mặt xã hội. Ở lứa tuổi này nhân cách của các em có những dấu hiệu của người trưởng thành. Sự phát triển thể chất: Do sinh viên ở trong độ tuổi chuyển tiếp từ giai đoạn cuối tuổi thanh niên sang đầu giai đoạn tuổi trưởng thành nên đây là giai đoạn phát triển ổn định, đến 24, 25 tuổi con người đang hoàn tất về sự phát triển về thể chất. Sự phát triển tâm lý: Bước sang tuổi sinh viên, các chức năng tâm lý cũng có nhiều thay đổi, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển trí tuệ, khả năng tư duy. Các công trình nghiên cứu tâm lý học cho rằng lứa tuổi thanh niên sinh viên hoạt động tư duy rất tích cực và có tính độc lập, tư duy lý luận phát triển mạnh, có khả năng khái quát các vấn đề nhờ đó mà tự mình phát hiện ra cái mới, sự phát triển mạnh của tư duy lý luận liên quan chặt chẽ với khả năng sáng tạo. Về mặt xã hội: Khi các mối quan hệ của sinh viên được mở rộng thì các em hình thành những hứng thú và thái độ mới, quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển những kỹ năng mới, cách ứng xử mới, tác phong đĩnh đạc để đối diện với môi trường xã hội ngày một mở rộng. Sinh viên là giai đoạn chuyển từ sự chín muồi về thể lực sang trưởng thành về mặt phương diện xã hội. Theo nghiên cứu của Ananhev cho thấy lứa tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất về tình cảm đạo đức và thẩm mỹ, là giai đoạn hình thành và ổn định tính cách, đặc biệt là họ có vai trò xã hội của người lớn (quyền công dân, quyền xây dựng gia đình…). Sinh viên có kế hoạch riêng cho hoạt động của mình và độc lập trong phán đoán và hành vi, đây là thời kỳ có nhiều biến đổi mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội. Họ xác định con đường sống trong tương lai, tích cực quan tâm tới nghề nghiệp và bắt đầu thể nghiệm mình trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. 1.2.2.2 Các hoạt động cơ bản của thanh niên sinh viên Đặc điểm hoạt động học tập Hoạt động học tập của sinh viên hướng vào việc hình thành và phát triển hoàn thiện nhân cách người học trong các lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng. Vì vậy học tập của sinh viên mang tính đặc trưng của hoạt động nghề nghiệp tương lai. Trình độ học vấn của của sinh viên được xác định là trình độ chuyên môn nghề nghiệp. Việc học tập trong trường có một ý nghĩa rõ rệt, cụ thể xem như một dạng hoạt động lao động. Mục đích học tập chuyên nghiệp của sinh viên là chiếm lĩnh hệ thống các kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp nhằm hình thành những phẩm chất của người chuyên gia tương lai. Vì vậy trong qúa trình học tập, sinh viên phải xây dựng cho mình vốn hành trang trí tuệ và nhân cách đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp sau này. Tính độc lập cao trong học tập: Do yêu cầu của việc đào tạo nên việc học tập của sinh viên đòi hỏi mức độ độc lập trí tuệ cao. Sinh viên phải tự ý thức đầy đủ về hoạt động học tập của bản thân, là sự giác ngộ bản thân về mục đích học tập cũng như định hướng rõ vị trí của mình trong thế giới người lớn do đó sinh viên phải là chủ thể của hoạt động học tập, là người tổ chức, định hướng và kiểm tra quá trình học tập đồng thời cũng là một chủ thể có trách nhiệm của các hoạt hộng xã hội với tư cách là một công dân. Quá trình học tập của sinh viên nhằm xây dựng phương pháp học tập nghiên cứu khoa học độc lập, tự chủ. Sở dĩ sinh viên có khả năng độc lập cao trong hoạt động học tập là do kết quả phát triển tương đối hoàn thiện của các chức năng tâm sinh lí của lứa tuổi này. Sự trưởng thành về trí tuệ, tư duy logic, thế giới quan và nhân sinh quan là cơ sở của sự phát triển độc lập cao ở sinh viên Tính sáng tạo: Sinh viên được lĩnh hội một khối lượng kiến thức rất lớn bao gồm các kiến thức về lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành và kiến thức khoa học cơ bản nên đòi hỏi rất cao ở tính sáng tạo của sinh viên. Sinh viên phải tự chủ trong việc tổ chức các hoạt động tự học, tự nghiên cứu của mình cũng như tự hình thành những phương pháp học tập tích cực sáng tạo để chiếm lĩnh tri thức và kinh nghiệm làm hành trang cho tương lai khi gia nhập vào hoạt động nghề nghiệp. Hoạt động học tập của sinh viên hiện nay được đặt ở vị trí rất quan trọng theo yêu cầu của Luật Giáo Dục “Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ đông, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, say mê học tập với ý trí vươn lên”[21, tr.9] Tính thực tiễn: Trong bối cảnh xã hội hiện nay, những yêu cầu của giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên, đào tạo cho sinh viên có thái độ học tập với tính năng động, sáng tạo cao. Mặt khác để đáp ứng đòi hỏi thực tiễn, sinh viên phải chủ động nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học…để trang bị kiến thức làm hành trang cho nghề nghiệp tương lai. Sinh viên phải học cách học, làm chủ qúa trình tự học của bản thân, nghiên cứu khoa học…làm cơ sở tiền đề của việc học suốt đời của mỗi cá nhân. Trong xu thế thời đại ngày nay, sinh viên thực sự học tập vì cuộc sống, vì nghề nghiệp tương lai của bản thân. Sinh viên tự điều khiển quá trình học tập, biến qúa trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, biết kết hợp quá trình cá nhân hóa với qúa trình xã hội hóa trong học tập của bản thân nhằm đạt tới việc đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp, nhạy bén với thị trường, chủ động gia nhập vào các hoạt động nghề nghiệp với những công việc làm thêm bước đầu tích lũy kinh nghiệm gia nhập vào thị trường lao động trong tương lai. Một số hoạt động khác của sinh viên Hoạt động chính trị - xã hội: Đây là hoạt động đặc trưng của sinh viên, sinh viên là những người có trí tuệ nhạy bén, mẫn cảm đối với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia, quốc tế. Sinh viên cũng là những người tích cực tham gia vào các hoạt động khác mang tính chất giải trí, vui chơi phù hợp với năng khiếu và sở thích cá nhân như các câu lạc bộ văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao, câu lạc bộ ngoại ngữ…hay các cuộc thi về nghiệp vụ nghề nghiệp được Đoàn trường và các cơ quan tổ chức cũng luôn hấp dẫn và lôi cuốn sự tham gia của nhiều sinh viên. 1.2.2.3 Một số phẩm chất nhân cách của sinh viên Sinh viên là lứa tuổi đẹp nhất trong đời người, có sức khỏe, có khả năng sáng tạo và có tính độc lập cao. Trong những năm học ở trường được xem là thời kỳ chuyển tiếp cho việc chuẩn bị độc lập tham gia vào các cộng đồng xã hội và hoạt động nghề nghiệp ổn định trong tương lai, do đó các em vẫn còn chịu sự tác động giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội, mặt khác ở bản thân các em cũng cần có sự tự giáo dục và rèn luyện nhân cách bản thân để đáp ứng các yêu cầu nghề nghiệp trong tương lai. Sinh viên chưa có vị trí độc lập chính thức trong các tổ chức lao động xã hội, các em đang tích cực rèn luyện cả về phẩm chất và năng lực nghề nghiệp bằng cách tự rèn luyện, nỗ lực học tập dưới sự hướng dẫn của giảng viên và bước đầu các em cũng trải nghiệm qua hoạt động thực tiễn như tham gia các cuộc thi nghiệp vụ chuyên môn hoặc làm thêm để tiếp cận dần với nghề nghiệp qua công tác thực tế chứ không phải là chỉ dừng ở việc học lý thuyết suông. Nhân cách của sinh viên phát triển khá toàn diện và phong phú với những đặc điểm, đặc trưng như sau: Đặc điểm về tự đánh giá, tự ý thức, tự giáo dục của sinh viên: Tự đánh giá là một trong những phẩm chất quan trọng, một trình độ phát triển cao của nhân cách. Tự đánh giá có ý nghĩa định hướng, điều chỉnh hoạt động, hành vi của chủ thể nhằm đạt mục đích, lý tưởng sống một cách tự giác. Tự đánh giá ở lứa tuổi sinh viên là một hoạt động nhận thức, trong đó đối tượng nhận thức chính là bản thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu thập, xử lý thông tin về chính mình, chỉ ra những tồn tại ở bản thân từ đó có thái độ, hành vi, hoạt động phù hợp nhằm tự điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện và phát triển nhân cách. Đặc điểm tự đánh giá của sinh viên mang tính chất toàn diện và sâu sắc, biểu hiện cụ thể của nó là sinh viên không chỉ đánh giá hình ảnh bản thân mình ở hình thức bên ngoài mà còn đi sâu vào các phẩm chất, các giá trị của nhân cách. Tự đánh giá của họ không chỉ trả lời câu hỏi: Tôi là ai? Mà còn đi sâu vào các nội dung liên quan đến bản thân họ như: Tôi là người như thế nào? Tôi có những phẩm chất gì? Tôi có xứng đánh không?...Hơn thế họ còn có khả năng lý giải và trả lời câu hỏi: Tại sao tôi là người như thế? Những cấp độ ở trên mang yếu tố phê phán, phân tích rõ rệt. Vì vậy tự đánh giá của sinh viên có ý nghĩa tự ý thức và tự giáo dục cao. Tự ý thức là một trình độ phát triển cao của ý thức, nó giúp sinh viên có hiểu biết về thái độ, hành vi cử chỉ của mình để chủ động hướng hoạt động của mình đi theo những yêu cầu đòi hỏi của tập thể, của cộng đồng xã hội. Tự giáo dục là mức độ phát triển cao trong nhận thức của sinh viên nhằm rèn luyện mình theo những mục đích và kế hoạch cuộc đời. Nghiên cứu tự đánh giá, tự ý thức của sinh viên cho thấy mức độ phát triển của những phẩm chất nhân cách này có liên quan đến trình độ học lực, hình ảnh cái tôi cũng như kế hoạch sống tương lai của sinh viên. Việc khám phá hình ảnh cái tôi không đơn giản chỉ phụ thuộc vào trình độ nhận thức của sinh viên mà còn là tâm thế xã hội, thái độ của cá nhân đối với chính bản thân mình, bao gồm 3 yếu tố phụ thuộc lẫn nhau đó là: Nhận thức, xúc cảm và hành vi. Nhận thức về hình ảnh cái tôi chính là hiểu biết về bản thân, biểu tượng về những phẩm chất và thuộc tính của mình. Xúc cảm về cái tôi thể hiện ở sự đánh giá về những phẩm chất và lòng tự ái có liên quan tới những đánh giá ấy, lòng tự trọng và tình cảm khác. Hành vi là thái độ thực tế đối với bản thân xuất phát từ hai yếu tố nói trên. Như vậy những phẩm chất nhân cách như tự đánh giá, lòng tự trọng, tự tin, tự ý thức đều phát triển mạnh mẽ ở tuổi sinh viên. Những phẩm chất nhân cách bậc cao này có ý nghĩa lớn đối với việc tự giáo dục, tự rèn luyện và hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực của những trí thức tương lai. 1.2.2.4 Nhận thức và thái độ của sinh viên đối với nghề nghiệp  Nhận thức, thái độ của SV đối với NN Với sinh viên, những ước mơ, hoài bão, những lý tưởng của tuổi thanh xuân dần được hiện thực hóa, được điều chỉnh trong quá trình học tập ở trường. Tính viển vông, viễn tưởng của những điều trừu tượng, xa vời trước đây nhường chỗ cho những kế hoạch đường đời cụ thể. Do việc học ở cao đẳng, đại học để trở thành người có nghề nghiệp đã được xác định rõ ràng. Ý thức sau này sẽ làm việc ở đâu? làm như thế nào? triển vọng phát triển của nghề ra sao?…là những điều SV phải lưu tâm. Các em cũng nhìn nhận các vấn đề của cuộc sống tích cực và thực tế hơn, thừa nhận thành công trong cuộc sống là do sự nỗ lực của bản thân hơn là sự phụ thuộc hay do số phận may rủi nào đó. Họ không chỉ đặt ra kế hoạch đường đời của mình mà còn tìm cách để thực thi kế hoạch đó theo những cách thức nhất định. Nhiều sinh viên ngay khi còn ngồi trên ghế giảng đường đã có kế hoạch riêng để đạt được mục đích đời mình. Họ không ngần ngại tìm những việc làm thêm để có cơ hội va chạm cuộc sống thực tế, tích lũy kinh nghiệm để tạo điều kiện thuận lợi cho nghề nghiệp của mình sau này. Xem xét một số định hướng nghề nghiệp của sinh viên cho thấy, động cơ chọn nghề của sinh viên trong vài năm gần đây rất thực tế và lành mạnh. Như vậy sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người, họ là lớp người giàu nghị lực, ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không đồng đều về mặt tâm lý, do những điều kiện và hoàn cảnh sống, điều kiện giáo dục không giống nhau nên không phải bất cứ sinh viên nào cũng phát triển ở mức tối ưu. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào những tình huống đúng đắn cũng như tính tích cực hoạt động của bản thân mỗi sinh viên. Các em chịu sự chi phối của thế giới quan và nhân sinh quan rất rõ nét.  Mối tương quan giữa nhận thức, thái độ và hành động của SV đối với NN Nhận thức, thái độ là cơ sở và điều kiện để SV học tập và rèn luyện phẩm chất đạo đức chuẩn bị cho NN tương lai. Trong đời sống tâm lý của con người, nhận thức, thái độ, tình cảm là những hiện tượng tâm lý có vai trò rất lớn ảnh hưởng đến hành động, định hướng và điều khiển hành động của con người phù hợp với yêu cầu, động cơ, và mục đích, phù hợp với điều kiện môi trường sống của họ. Muốn cải tạo và biến đổi thế giới khách quan, trước hết con người phải nhận thức về nó, hiểu biết bản chất của sự vật, hiện tượng, hình thành thái độ, tình cảm với đối tượng, từ đó xuất hiện hành động để chiếm lĩnh đối tượng. Nhận thức được xem là nguồn khởi đầu mọi hoạt động của con người. Nếu con người nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng, hiểu được ý nghĩa, mục đích của nó sẽ nảy sinh, hình thành tình cảm đúng. Thái độ và tình cảm đúng đắn là cơ sở và là động lực thúc đẩy con người nhận thức và hành vi đúng là cơ sở để hình thành và củng cố niềm tin vững chắc của con người đối với thế giới khách quan một cách khoa học. Nếu không có nhận thức đúng đắn và đầy đủ, không hiểu biết bản chất ý nghĩa của sự vật, hiện tượng thì không thể có tình cảm, thái độ đúng và hệ quả tất yếu sẽ hành động sai lầm, dẫn tới sự phá vỡ niềm tin của con người. Thực tế cuộc sống chứng minh rằng, nhiều vấn đề trong cuộc sống được thực hiện thắng lợi, được nhiều người hưởng ứng và tham gia tích cực, và đạt kết quả tốt là do họ nhận thức được, có tình cảm đúng. Trong quá trình SV học tập tại trường, để SV có kết quả học tập tốt, nắm vững kiến thức chuyên môn NN thì bản thân SV phải nhận thức được tầm quan trọng của NN và có thái độ tích cực, đúng đắn với con đường lập nghiệp trong tương lai - Nhận thức làm cơ sở định hướng cho hành động Không có nhận thức thì hành động chỉ là mò mẫm, không có mục tiêu, phương hướng và vì thế không thể đạt được kết quả cao. Chỉ có trên cơ sở nhận thức đúng đắn, sâu sắc về NN tương lai, SV mới có thể vạch ra mục tiêu, chương trình, kế hoạch hành động nhằm chuẩn bị kiến thức chuyên môn của NN cũng như những phẩm chất tâm lý mà NN đòi hỏi. Ngược lại, nếu SV nhận thức hời hợt, nông cạn hoặc sai lệch, không phản ánh đúng thông tin NN thì các em sẽ không thể tránh khỏi sai lầm không biết, hoặc không biết cách để rèn luyện tốt những yêu cầu mà NN đòi hỏi. - Nhận thức là cơ sở của thái độ Thái độ của con người được xây dựng dựa trên nhận thức. Nhận thức là cái lý của thái độ. Nếu thái độ không được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn thì nó sẽ thiếu đi sự sáng suốt, thái độ sẽ mất phương hướng dẫn đến việc bày tỏ thái độ không phù hợp. Vì vậy, để có thái độ đúng đắn và tích cực đối với công việc, NN sau này thì SV phải hiểu, nhận thức đúng, sâu sắc về thông tin của ngành nghề mà các em đang theo học. 1.2.3 NGHỀ NGHIỆP THUỘC LĨNH VỰC KINH TẾ VÀ THƯƠNG MẠI 1.2.3.1 Nghề nghiệp Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nghề nghiệp. Theo từ điển đối chiếu Anh – Nga về giáo dục của UNESSCO thì nghề lại được hiểu như là “ một công việc bất kỳ tạo ra phương tiện để tồn tại cho mỗi cá nhân trong cộng đồng” [12] Một cách hiểu khác, nhà nghiên cứu người Nga E.A.Klimov cho rằng “Nghề là nhóm các chuyên môn gần nhau”. Trong đó chuyên môn được hiểu là “một dạng hoạt động mà trong đó con người dùng trí lực và thể lực của mình tạo ra những phương tiện cần thiết cho xã hội tồn tại và phát triển” [2] Ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Như Ý định nghĩa nghề trong Đại từ điển tiếng Việt là “Công việc chuyên làm theo phân công của xã hội” [33] còn nghề nghiệp là nghề nói chung. Như vậy, khái niệm nghề nghiệp ở đây gắn liền với chuyên môn và có điểm mới là làm theo phân công lao động xã hội. Chữ “nghiệp” theo văn hóa phương Đông còn được hiểu là định mệnh, là cái gắn bó lâu dài và quan hệ chi phối của nghề đối với con người [26] Nghề theo nghĩa Latinh có nghĩa là công việc chuyên môn được hình thành một cách chính thống, là dạng lao động đòi hỏi một trình độ học vấn nào đó, là cơ sở hoạt động cơ bản nhất giúp con người tồn tại. Nghề là sự tổ hợp những chuyên môn có quan hệ cùng loại. Ở bất kỳ quốc gia nào cũng tồn tại hai loại nghề: nghề được đào tạo và nghề không được đào tạo. Nghề không được đào tạo là nghề được hình thành tự phát do nhu cầu của xã hội, do tích luỹ kinh nghiệm hoặc do sự truyền nghề từ người này sang người khác, từ đời này sang đời khác mà có. Nghề được đào tạo là trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà con người cần đạt được nhờ quá trình đào tạo dài hạn hoặc ngắn hạn nhằm tạo ra sản phẩm để trao đổi trên thị trường và được con người gắn bó lâu dài với hoạt động đó như là lẽ sống của mình. Nói tóm lại, nghề nghiệp là một dạng lao động đòi hỏi ở con người một quá trình đào tạo chuyên biệt, có những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nhất định. Nhờ quá trình lao động nghề nghiệp, con người có thể tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Dưới đây là một số nghề thuộc lĩnh vực kinh tế và thương mại liên quan đến đề tài nghiên cứu. 1.2.3.2 Một số nghề thuộc lĩnh vực kinh tế và thương mại Quản trị doanh nghiệp thương mại [15] Để tiến hành những hoạt động kinh doanh có hiệu quả trong điều kiện làm việc tập thể ( nhóm hay tổ chức ), nhất thiết phải thực hiện quản trị các hoạt động đó. Công việc này được gọi là quản trị kinh doanh. - Mục tiêu của quản trị kinh doanh Mục tiêu chung của quản trị kinh doanh là duy trì và thúc đẩy hoạt động kinh doanh nhằm đảm bảo sự tồn tại và vận hành của toàn bộ doanh nghiệp, hướng vào thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Điều kiện làm việc và cơ hội nghề nghiệp Thu nhập cao, môi trường làm việc năng động và cơ hội thăng tiến nhanh là những lý do khiến ngành này đang thu hút nhiều bạn trẻ. Bạn là người say mê kinh doanh, yêu thích các công việc đòi hỏi đầu óc tổ chức, quản lý, bạn có thể nhanh chóng thích nghi với môi trường công việc. - Phẩm chất và kỹ năng cần thiết: o Kiến thức tự nhiên và xã hội, kiến thức về kinh doanh vững vàng o Thành thạo ngoại ngữ và tin học o Có khát vọng làm giàu chính đáng o Sáng tạo và đổi mới, tầm nhìn xa trông rộng o Có năng lực tổ chức và quản lý, tự tin, biết cách khắc phục rủi ro o Có đạo đức kinh doanh Marketing thương mại [13] Marketing là việc nghiên cứu và tiếp cận thị trường, phát hiện ra các cơ hội kinh doanh và khai thác chúng một cách có hiệu quả. Cơ hội kinh doanh chính là các nhu cầu và ước muốn của khách hàng cần được thỏa mãn. Marketing tìm cách trả lời cho câu hỏi: Khách hàng cần gì? Khi nào? Ở đâu? và sẵn sàng chi trả bao nhiêu cho nó?... Chức năng chủ yếu của marketing là thu hút và gìn giữ khách hàng, đánh bại đối thủ cạnh tranh thông qua chiến lược marketing bao gồm nhiều hoạt động kế tiếp và có liên quan chặt chẽ với nhau. - Phẩm chất và kỹ năng cần thiết: o Tính kiên trì o Sự tự tin, dám mạo hiểm và chấp nhận rủi ro. o Sự năng động, linh hoạt và sáng tạo. o Khả năng giao tiếp, chuyển giao thông tin cũng như tình cảm và sự nhiệt thành o Những kỹ năng cần có: Kỹ năng quản lý, kỹ năng lắng nghe hiệu quả, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng xử lý thông tin hiệu quả. Kế toán doanh nghiệp thương mại [12] Kế toán là công việc ghi chép, thu thập, xử lý và cung cấp các thông tin về tình hình hoạt động kinh tế tài chính của một tổ chức. Mục đích của kế toán là cung cấp thông tin về tình hình kinh tế, tài chính của đơn vị cho người lãnh đạo. Kế toán là bộ phận không thể thiếu ở tất cả các đơn vị tổ chức. Vì vậy thị trường việc làm của nghề này rất rộng lớn. Nghề này đòi hỏi bạn phải trung thực, cẩn thận, năng động, sáng tạo... Mỗi đơn vị, tổ chức trong xã hội đều phải có một lượng tài sản nhất định để tiến hành các hoạt động. Trong quá trình hoạt động, đơn vị thực hiện các hoạt động như: trả lương, mua hàng, bán hàng, sản xuất, vay vốn đầu tư... Các hoạt động đó gọi là hoạt động kinh tế tài chính. - Để làm nghề kế toán cần những phẩm chất o Trung thực: Kế toán viên phải cung cấp các thông tin trung thực về hoạt động tài chính của đơn vị để đối tượng sử dụng thông tin đề ra quyết định đúng đắn. o Cẩn thận: Nghề này luôn gắn liền với tài liệu, sổ sách, giấy tờ trong đó chứa đựng những con số “biết nói” về tình hình tài chính của đơn vị vì vậy kế toán viên phải cẩn thận trong việc giữ gìn tài liệu cũng như tính toán những con số để làm sao chúng “nói” đúng nhất với người sử dụng thông tin. o Ngoài ra nghề này vẫn đòi hỏi có sự năng động, sáng tạo, có kiến thức tổng hợp để phân tích đánh giá tham mưu cho người sử dụng thông tin đề ra các quyết định đúng đắn. Kinh doanh [14] Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Kinh doanh là hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh doanh trên thị trường nhằm mục tiêu lợi nhuận. Kinh doanh được phân biệt với các hoạt động khác bởi các đặc điểm sau: o Kinh doanh phải do một chủ thể thực hiện được gọi là chủ thể kinh doanh. Chủ thể kinh doanh có thể là cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp. o Kinh doanh phải gắn với thị trường, thị trường là nơi diễn ra hoạt động kinh doanh, kinh doanh sẽ làm nên sự sôi động và hấp dẫn của thị trường. o Kinh doanh gắn với những nguồn lực: Nguồn nhân lực, tài lực, thương hiệu, khoa học công nghệ, năng lực quản lý… - Mục tiêu của kinh doanh o Lợi nhuận: lợi nhuận là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. o Lưu thông hàng hóa, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội. o Phát triểm mở rộng thị trường và gia tăng thị phần. o Tham gia giải quyết các vấn đề xã hội. 1.2.4 NGHIÊN CỨU NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CĐ. KTĐN ĐỐI VỚI NGHỀ NGHIỆP 1.2.4.1 Nhận thức của sinh viên về nghề nghiệp Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu nhận thức của SV về NN thuộc lĩnh vực KTTM ở các khía cạnh sau:  Nhận thức của SV về tầm quan trọng của NN đối với bản thân Nhận thức của SV về NN trước hết là nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của NN đối với con đường lập nghiệp sau này của các em. Khi SV nhận biết được tầm quan trọng của NN thì các em sẽ có ý thức học tập nghiêm túc, tích cực rèn luyện phẩm chất, năng lực NN để chuẩn bị hành trang cho con đường hành nghề sau này của mình.  Nhận thức của SV về thông tin NN Nhận thức của SV về thông tin NN đó là nhận thức về giá trị kinh tế, xã hội của nghề hay tính hữu ích của nghề; nhận thức về nhu cầu lao động của nghề trong xã hội có nghĩa là SV phải nhận biết được tình hình kinh tế xã hội của đất nước, nắm được nhu cầu của đất nước đối với nghề mà các em đã lựa chọn để chuẩn bị tâm thế sẵn sàng tham gia vào hoạt động NN. Ngoài ra SV cần nắm bắt được đặc điểm chuyên môn, lao động của nghề; những yêu cầu tâm, sinh lý, phẩm chất, năng lực… mà nghề đòi hỏi. Nhận thức về thông tin NN còn đòi hỏi SV phải nhận biết được những điều kiện làm việc trong nghề; chế độ đối với người hành nghề cũng như triển vọng phát triển của nghề để có sự tin tưởng, lạc quan và phấn đấu cho NN sau này.  Nhận thức của SV về khả năng phát triển của nghề, nhu cầu của xã hội đối với nghề cũng như thu nhập mà nghề mang lại SV phải nhận biết được xu thế phát triển của NN thuộc lĩnh vực KTTM trong tương lai, mức độ cần thiết của các nghề này trong xã hội như thế nào cũng như nhận biết được khả năng thu nhập của nghề để có định hướng cho tương lai.  Nhận thức của SV về tầm quan trọng của các yếu tố thuộc năng lực và phẩm chất NN để thành công trong công việc sau này SV phải nhận thức được những yếu tố thuộc năng lực và phẩm chất NN cũng như tầm quan trọng của những yếu tố đó để có sự định hướng, phấn đấu, rèn luyện bản thân.  Kênh thông tin ảnh hưởng đến nhận thức về NN của SV Kênh thông tin cung cấp kiến thức NN giúp SV nâng cao được nhận thức về NN cho bản thân.  Lý do chọn nghề của SV Lý do chọn nghề của SV ảnh hưởng rất lớn đến ý thức học tập, phấn đấu sau này của các em. 1.2.4.2 Thái độ đối với nghề nghiệp của sinh viên Việc nghiên cứu thái độ của SV về NN trong phạm vi của đề tài được khai thác sâu vào các khía cạnh sau:  Thái độ của SV với NN thuộc lĩnh vực KTTM Thái độ của SV đối với NN được thể hiện ở việc SV có thái độ tích cực hay tiêu cực với NN. Khi SV có thái độ tích cực với ngành nghề các em đã chọn thì đó là nguồn động lực giúp các em vượt qua được những trở ngại, khó khăn và nỗ lực hết mình trong quá trình học tập cũng như quá trình làm việc sau này. Ngược lại nếu SV luôn có thái độ tiêu cực với NN thì các em sẽ bi quan, chán nản, hoang mang và giao động trong học tập cũng như sau này ra trường làm việc. Điều này sẽ làm cho hiệu suất công việc không cao, có khi dẫn đến bỏ nghề.  Thái độ của SV đối với NN đang theo học Thái độ đối với NN còn thể hiện qua sự hài lòng hay không hài lòng với ngành nghề SV đang theo học, có thích làm nghề đó không? Mong muốn ở đây được thể hiện dưới góc độ khuynh hướng và hứng thú, nếu làm việc nào đó không mà không phù hợp với khuynh hướng và hứng thú cá nhân thì sẽ không phát huy được hết năng lực của bản thân. Nếu SV hài lòng với ngành nghề đã chọn thì các em sẽ luôn tin tưởng vào nghề, kiên trì phấn đấu để chuẩn bị hành trang tốt nhất cho NN mai sau cũng như luôn có ý thức học tập để phát triển NN sau này.  Thái độ của SV trong quá trình học tập Thái độ của SV đối với NN cũng được thể hiện qua ý thức học tập của SV, qua việc SV có hứng thú hay không hứng thú, tích cực hay không tích cực với việc học tập. Nếu SV hài lòng với NN đã chọn các em sẽ tích cực, chủ động trong việc học tập, thường xuyên nghiên cứu tài liệu, đào sâu, mở rộng kiến thức chuyên môn. Ngoài kiến thức chuyên ngành, SV còn chịu khó học các môn bổ trợ cho NN sau này cũng như tích luỹ kinh nghiệm NN thực tế để chuẩn bị hành trang cho NN sau này.  Ý thức tham gia một số hoạt động bổ trợ cho NN sau này của SV Nhận thức, thái độ của SV đối với NN sẽ ảnh hưởng đến hành động, hoạt động của SV. Cụ thể là nếu SV có nhận thức và thái độ đúng đắn và tích cực với NN thì các em sẽ chủ động tham gia học những môn bổ trợ cho NN sau này của mình, tích cực tham gia các hoạt động NN ngoài xã hội ngay khi còn ngồi trên ghế giảng đường nhằm tích lũy kinh nghiệm NN thực tế để chuẩn bị cho con đường lập nghiệp sau này…  Mức độ hài lòng của SV đối với hoạt động hướng nghiệp trong trường CĐ.KTĐN Thông qua mức độ lài lòng của SV đối với hoạt động hướng nghiệp trong trường CĐ.KTĐN sẽ phản ánh được hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường đã được quan tâm một cách thích đáng chưa và SV có mong muốn gì với nhà trường trong việc góp phần nâng cao nhận thức, thái độ NN của các em. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ĐỐI VỚI MỘT SỐ NGHỀ THUỘC LĨNH VỰC KINH TẾ THƯƠNG MẠI 2.1 THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN VỀ NGHỀ NGHIỆP THUỘC LĨNH VỰC KINH TẾ THƯƠNG MẠI Để khảo sát nhận thức của SV về NN, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:  Nhận thức về tầm quan trọng của NN đối với bản thân  Nhận thức về thông tin nghề SV đang theo học  Nhận thức của SV về khả năng phát triển của nghề, nhu cầu của XH đối với nghề cũng như thu nhập mà nghề mang lại  Nhận thức của SV về tầm quan trọng của các yếu tố thuộc năng lực và phẩm chất NN để thành công trong công việc sau này.  Kênh thông tin ảnh hưởng đến nhận thức về NN của SV  Lý do chọn nghề của SV 2.1.1 Nhận thức về tầm quan trọng của nghề nghiệp đối với bản thân Nhận thức của SV về NN trước tiên các em phải nhận biết và đánh giá được vai trò quan trọng của NN đối với bản thân các em. Để khai thác khía cạnh này chúng tôi đã đặt câu hỏi: Theo bạn, nhận thức về nghề nghiệp có quan trọng đối với bản thân không ? Kết quả thể hiện trong bảng 2.1 như sau: Bảng 2.1: Nhận thức về tầm quan trọng của nghề nghiệp với bản thân Mức độ N % Rất quan trọng 275 72,4 Quan trọng 100 26,3 Phân vân 3 0,8 Không quan trọng 2 0,6 TB: 3,70 ĐLTC: 0,52 Kết quả bảng 2.1 trên cho thấy: Sinh viên cho rằng nhận thức về NN là rất quan trọng đối với bản thân chiếm tỷ lệ cao nhất 72,4%, tiếp đến là quan trọng chiếm 26,3%. Như vậy đa phần SV đã khẳng định NN có vai trò quan trọng đối với bản thân các em. Đây là thông tin đáng mừng vì khi SV nhận thức được tầm quan trọng của NN thì các em sẽ có sự đầu tư, nỗ lực hơn trong việc học tập để trang bị kiến thức chuyên môn cũng như những kiến thức bổ trợ cho NN sau này, tích cực tìm hiểu những thông tin liên quan đến nghề. Trên cơ sở nhận thức đầy đủ về nghề SV sẽ có thái độ đúng đắn về nghề. Đây là cơ sở để SV làm tốt hơn công việc của mình sau này. Bên cạnh đó vẫn còn 0,8% SV còn phân vân, chưa có câu trả lời và 0,6% SV cho rằng nhận thức về NN là không quan trọng. Số lượng này không nhiều tuy nhiên đây cũng là điều đáng băn khoăn vì nếu SV chưa xác định được hoặc cho rằng nhận thức về NN không quan trọng thì đồng nghĩa với việc các em không xem trọng việc học tập, không có sự phấn đấu trong học tập, có thái độ thờ ơ với NN và đây là điều bất lợi cho các em sau này khi ra trương và đi làm. Kết quả xử lý theo trị trung bình (TB) chung cho thấy ý kiến đánh giá về tầm quan trọng của NN đối với bản thân SV ở mức độ tốt (TB: 3,70). Đây là thông tin đánh giá tích cực đầu tiên của SV về NN. Tuy nhiên để khảo sát về nhận thức của SV đối với NN, chúng tôi còn tìm hiểu mức độ hiểu biết của SV về các thông tin NN các em đang theo học. Kết quả được trình bày ở bảng 2.2 như sau: 2.1.2 Nhận thức của sinh viên về thông tin nghề nghiệp Để khảo sát nhận thức của SV về thông tin nghề thuộc lĩnh vực kinh tế thương mại (KTTM) mà các em đang theo học, chúng tôi đưa ra 7 thông tin cơ bản của NN và chia ra làm 3 mức độ hiểu biết: Biết rõ, biết chút ít, không biết, kết quả thu được thể hiện ở bảng 2.2 như sau: Bảng 2.2. Mức độ hiểu biết về thông tin nghề sinh viên đang theo học Thông tin nghề về Biết rõ Biết chút ít Không biết Giá trị KT – XH của nghề N 140 226 11 % 36,8 59,5 2,9 Nhu cầu lao động của nghề N 165 204 10 % 43,4 53,7 2,6 Đặc điểm chuyên môn, lao động của nghề. N 155 198 22 % 40,8 52,1 5,8 Các yêu cầu tâm sinh lý người hành nghề N 118 213 46 % 31,1 56,1 12,1 Điều kiện làm việc trong nghề N 131 202 46 % 34,5 53,2 12,1 Chế độ đối với người hành nghề N 41 221 115 % 10,8 58,2 30,3 Triển vọng phát triển trong nghề N 118 222 38 % 31,1 58,4 10,0 Kết quả bảng 2.2 cho thấy: Thông tin về “Nhu cầu lao động của nghề” SV biết chút ít chiếm tỉ lệ cao nhất 53,7%. SV biết rõ là 43,4%, đây là thông tin SV trả lời biết rõ chiếm tỉ lệ cao nhất trong các thông tin nêu ra. Điều này cũng rất dễ hiểu vì xã hội ngày càng phát triển thì những ngành nghề thuộc lĩnh vực KTTM ngày càng lên ngôi, nhu cầu lao động đối với những nghề này ngày càng nhiều. Thông qua những phương tiện truyền thông cũng như diễn biến cuộc sống xung quanh đã giúp SV nhận thức tương đối tốt nhu cầu của xã hội đối với các ngành nghề các em đang theo học. Bên cạnh đó vẫn còn 2,6% SV trả lời không biết thông tin này và trên 50% biết chút ít. “Đặc điểm chuyên môn, lao động của nghề” có 52,1% SV biết chút ít về thông tin này, tỉ lệ SV biết rõ chiến 40,8% và có đến 5,8% SV nhận thấy không biết gì về đặc điểm chuyên môn của nghề. Thông tin về đặc điểm chuyên môn, lao động của nghề được trang bị cho SV thông qua các môn học chuyên ngành, qua các nguồn tài liệu chuyên môn…nên SV biết rõ chiếm đến 40,8%. Tuy nhiên lượng SV chỉ biết chút ít về thông tin này chiếm đến trên 50% và vẫn còn SV không biết gì 5,8%. Như vậy nhận thức của SV về đặc điểm chuyên môn NN mà các em đang theo học đa phần chỉ biết chút ít, biết một phần nào đó. Thông tin về “ Các yêu cầu tâm sinh lý người hành nghề” SV biết chút ít chiếm tỉ lệ cao nhất 56,1%, còn lại là biết rõ 31,1% và không biết là 12,1%. Như vậy tỉ lệ SV biết chút ít và không biết về yêu cầu tâm sinh lý đối với người hành nghề chiếm tỉ lệ khá cao. Đặc điểm tâm sinh lý mà NN đòi hỏi phải được SV nhận biết trước khi các em đăng ký thi vào các trường chuyên nghiệp trên vì có biết thì các em mới có thể đối chiếu xem bản thân có phù hợp để làm ngành nghề đó không. Tuy nhiên sự hiểu biết của SV về thông tin này không tốt lắm, chủ yếu là biết một phần nào đó. Về “Điều kiện làm việc trong nghề” SV đánh giá biết chút ít chiếm tỉ lệ cao nhất 53,2%, SV nhận thấy biết rõ là 34,5% và 12,1% SV cho rằng không biết gì về thông tin này. Mặc dù SV chưa trải qua quá trình làm việc trong nghề nhưng bản thân các em cũng phải nhận biết được điều kiện, môi trường làm việc sau này như thế nào để có sự chuẩn bị cho bản thân tuy nhiên mức độ hiểu biết phần nào, biết chút ít vẫn chiếm tỉ lệ khá cao ở SV. Thông tin “Chế độ đối với người hành nghề” có số lượng SV trả lời không biết chiếm tỉ lệ cao nhất trong số các thông tin nêu ra 30,3% và tỉ lệ SV biết rõ thấp nhất là 10,8%, mức độ biết chút ít là 58,2%. Như vậy chế độ được hưởng khi đi làm là thông tin gắn liền với quyền lợi của SV sau này khi tham gia vào hoạt động NN. Tuy nhiên các em chưa thực sự lưu tâm tìm hiểu, mức độ hiểu biết về thông tin này đa phần vẫn là biết chút ít và không biết 85,5%. Thông tin về “Triển vọng phát triển trong nghề” SV đánh giá biết chút ít vẫn chiến tỉ lệ cao nhất 58,4%, biết rõ là 31,1% và không biết là 10,0%. Nhận thức được tiềm năng phát triển của nghề sẽ giúp SV có động lực phấn đấu, giúp các em lạc quan, tin tưởng vào lương lai nhưng phần đông SV nhận biết của về thông tin này còn chưa được đầy đủ. Kết quả bước đầu nghiên cứu nhận thức của SV về những thông tin liên quan đến chuyên môn, lao động của nghề, yêu cầu tâm sinh lý với người hành nghề, chế độ, triển vọng phát triển của nghề… cho thấy: đa phần SV chỉ biết một phần nào đó, biết chút ít mà thôi và vẫn còn một bộ phận SV nhận thấy không biết gì về những thông tin này. Điều này sẽ là một bất lợi cho các em sau này ra trường làm việc. Mặc dù SV đang trong giai đoạn còn ngồi trên ghế giảng đường, bản thân các em chưa tham gia chính thức vào hoạt động NN thực tế nhưng những thông tin liên quan đến NN cũng cần các em phải chủ động tìm hiểu và nắm rõ có như vậy khi bước vào thị trường lao động các em sẽ không ngỡ ngàng nhưng sẽ nhanh chóng thích nghi và làm tốt công việc được giao. Để so sánh giữa SV năm cuối và SV năm nhất có sự khác biệt hay không về mức độ hiểu biết thông tin NN, chúng tôi tiến hành kiểm nghiệm Chi bình phương, kết quả thu được trong bảng 2.3  So sánh hiểu biết của SV năm nhất và năm cuối về thông tin nghề nghiệp Bảng 2.3 So sánh hiểu biết của SV năm nhất và năm cuối về thông tin NN Thông tin nghề về Sinh viên năm 1 Sinh viên năm 3 X2 df=3 P Biết rõ Biết chút ít Không biết Biết rõ Biết chút ít Không biết Giá trị KT – XH của nghề 5 70 32 6 156 108 4,42 6 0,109 4,7% 65,4% 29,9% 2,2% 57,8% 40,0% Nhu cầu lao động của nghề 34 68 5 131 136 5 9,69 5 0,008 31,8% 63,6% 4,7% 48,2% 50,0% 1,8% Đặc điểm chuyên môn, lao động của nghề. 32 64 10 123 134 12 9,25 3 0,010 30,2% 60,4% 9,4% 45,7% 49,8% 4,5% Các yêu cầu tâm sinh lý người hành nghề 14 60 31 32 153 87 0,31 0 0,856 13,3% 57,1% 29,5% 11,8% 56,3% 32,0% Điều kiện làm việc trong nghề 15 49 43 31 153 88 3,37 3 0,185 14,0% 45,8% 40,2% 11,4% 56,3% 32,4% Chế độ đối với người hành nghề 32 60 15 83 161 26 1,54 0 0,463 29,9% 56,1% 14,0% 30,7% 59,6% 9,6% Kết quả kiểm nghiệm Chi bình phương so sánh nhận thức của SN năm nhất và SV năm cuối về thông tin NN trong bảng 2.3 cho thấy: có sự khác biệt ý nghĩa về nhận thức “Nhu cầu lao động của nghề” giữa SV năm nhất và năm cuối. SV năm cuối biết rõ nhu cầu của xã hội đối với nghề chiếm 48,2% trong khi đó SV năm nhất biết rõ chiếm tỉ lệ nhỏ hơn 31,8%. Tuy nhiên SV năm nhất biết chút ít (63,6%) về nhu cầu của XH đối với nghề lại chiếm tỉ lệ cao hơn SV năm cuối là 50,0%. Như vậy, SV năm cuối là giai đoạn các em sắp bước vào hoạt động NN thực tế do đó việc nắm bắt nhu cầu lao động của thị trường để chuẩn bị xin việc khi ra trường là điều các em luôn lưu tâm tìm hiểu do đó SV năm cuối biết rõ về thông tin này tốt hơn so với SV năm nhất là điều hợp lý. Bên cạnh đó kết quả so sánh cũng cho thấy cả SV năm cuối và SN năm nhất biết chút ít về nhu cầu của thị trường đối với NN chiếm tỉ lệ khá cao, trong đó SV năm nhất biết chút ít chiếm tỉ lệ cao hơn SV năm cuối. Như vậy đa phần SV năm nhất nhận biết về thông tin NN ở mức độ sơ đẳng, một phần nào đó. Ngoài ra cũng còn một bộ phận SV năm nhất không biết (4,7%) về thông tin này chiếm tỉ lệ cao hơn so với SV năm cuối (1,8%). “Đặc điểm chuyên môn, lao động của nghề” giữa SV năm nhất và SV năm cuối cũng có sự khác biệt. SV năm cuối biết rõ (45,7%) về thông tin này cao hơn so với SV năm nhất (30,2%). Ngoài sự hiểu biết về thị trường lao động, SV còn phải nhận thức được đặc điểm chuyên môn trong nghề sẽ làm gì, làm như thế nào, nghề cần những năng lực gì… để các em chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho NN sau này. SV năm cuối biết rõ về đặc điểm chuyên môn, lao động của nghề tốt hơn SV năm đầu vì các em đã có một thời gian dài được trang bị kiến thức chuyên môn NN trong quá trình học tập, chỉ còn một vài tháng nữa là các em bước vào thị trường lao động để thực hành NN đã được đào tạo. Ngoài ra tỉ lệ SV năm nhất biết chút ít (60,4%) về đặc điểm chuyên môn, lao động của nghề cao hơn SV năm cuối (49,8%). Lại một lần nữa đa phần SV năm nhất mới chỉ nhận biết một phần nào đó về đặc điểm chuyên môn của nghề. Tỉ lệ SV không biết về thông tin này ở SV năm nhất (9,4%) cao hơn SV năm cuối (4,5%). Điều này cho thấy nhận thức của SV năm nhất về thông tin NN chưa được tốt lắm do đó công tác hướng nghiệp cho các bạn trẻ trước khi bước vào giảng đường cao đẳng, đại học là điều cần được quan tâm đẩy mạnh hơn nữa. Như vậy, qua kết quả so sánh trên cho thấy SV năm nhất và SV năm cuối có sự khác biệt. SV năm cuối biết rõ về về nhu cầu lao động của nghề cũng như đặc điểm chuyên môn, lao động của nghề tốt hơn SV năm nhất. Tuy nhiên SV năm nhất nhận biết một phần nào đó về những thông tin NN chiếm tỉ lệ khá cao. Điều này cho thấy trước khi thi vào các trường chuyên nghiệp, các em đã ít nhiều tìm hiểu thông tin NN các em có nguyện vọng thi vào. Ngoài ra không có sự khác biệt giữa SV năm cuối và năm nhất về mức độ hiểu biết các thông tin: Giá trị KT – XH của nghề; Các yêu cầu tâm sinh lý người hành nghề; Điều kiện làm việc trong nghề; Chế độ đối với người hành nghề. Để khảo sát nhận thức của SV về những ngành nghề cụ thể thuộc lĩnh vực KTTM (Quản trị DNTM, Marketing TM, Kế toán DN, Kinh doanh) ở các khía cạnh khác như: Khả năng phát triển của nghề, nhu cầu của xã hội đối với nghề và mức độ thu nhập của các ngành nghề mang lại, chúng tôi thu được kết quả được trình bày ở bảng 2.4: 2.1.3 Nhận thức của sinh viên về khả năng phát triển của nghề, nhu cầu của xã hội đối với nghề và thu nhập của nghề thuộc lĩnh vực kinh tế thương mại. Bảng 2.4: Nhận thức về khả năng phát triển, nhu cầu của xã hội và thu nhập của nghề Nghề Khả năng phát triển Nhu cầu của xã hội Thu nhập Rất phát triển Phát triển Không phát triển Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết Cao Trung bình Thấp Quản trị DNTM N 6 249 116 2 222 135 1 61 306 % 1,6 65,5 30,5 0,5 58,4 35,5 0,3 16,1 80,5 Marketing TM N 0 150 223 2 173 181 0 128 239 % 0 39,5 58,7 0,5 45,5 47,6 0 33,7 62,9 Kế toán DNTM N 30 277 61 1 215 143 17 247 103 % 7,9 72,9 16,1 0,3 56,6 37,6 4,5 65,0 27,1 Kinh doanh N 3 130 239 2 149 203 2 61 303 % 0,8 34,2 62,9 0,5 39,2 53,4 0,5 16,1 79,7 Kết quả bảng 2.4 cho thấy: SV đánh giá khả năng rất phát triển và phát triển của nghề kế toán DNTM chiến tỉ lệ cao nhất (rất phát triển: 7,9%, phát triển 72,9%) và do đó nghề kế toán cũng được nhận định là nghề cho thu nhập cao chiến tỉ lệ cao nhất 4,5%. Kế toán là nghề có lịch sử lâu dài và phổ biến trên thế giới cũng như ở nước ta. Nhân viên kế toán có thể không nổi danh nhưng họ là những người không thể thiếu ở bất kỳ cơ quan, tổ chức, công ty nào. Mặc cho sự xuất hiện và nổi danh không ngừng của các loại ngành nghề mới nhưng nghề kế toán theo các chuyên gia quốc tế đánh giá vẫn là một trong 10 nghề đắt giá nhất trong những năm tới. Tại trường CĐ KTĐN hàng năm số lượng SV học ngành kế toán chiến tỉ lệ rất cao trong trường (chiến ¼ SV toàn trường). Như vậy nghề kế toán đang được xem là nghề rất hấp dẫn với SV vì sự phát triển của nghề, nhu cầu cao của XH đối với nghề cũng như mức thu nhập hấp dẫn do nghề mang lại. Ngành quản trị DNTM được nhận định là ngành có khả năng rất phát triển và phát triển chiến tỉ lệ thứ 2 (rất phát triển 1,6%, phát triển 65,5%). Ngành này cũng được cho là ngành xã hội có nhu cầu ở mức độ cần thiết chiến tỉ lệ cao nhất 58,4%. Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, những thành tựu do nền kinh tế mang lại tạo nên một diện mạo mới cho đất nước ta. Hàng nghìn doanh nghiệp mới được thành lập, trong đó chủ yếu là những công ty cổ phần, công ty TNHH, côn ty tư nhân…do đó nhu cầu về những nhà quản trị viên giỏi, nhạy bén vì thế rất lớn. Một ngành nghề cho thu nhập cao, môi trường làm việc năng động, cơ hội thăng tiến nhanh, hiện nay ngành này đang được nhiều bạn trẻ lựa chọn. Nghề marketing TM được đánh giá là nghề có khả năng phát triển chiếm tỉ lệ cao ở mức thứ 3 (39,5%), mức độ cần thiết của xã hội với nghề này là 45,5% và nghề cho thu nhập trung bình cao thứ 2 sau nghề kế toán DNTT (33,7). Tuy nhiên thực tế nghề marketing có khả năng phát triển hơn nhiều, nhu cầu của xã hội đối với nghề này rất lớn. Theo một thống kê, có đến 49% bản tin tuyển dụng ở Việt Nam hiện nay dành cho nhưng vị trí thuộc lĩnh vực marketing. Con số này không ngừng được tăng lên vì các doanh nghiệp đang ra sức tìm kiến những chuyên gia giỏi về marketing. Như vậy nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng phong phú, áp lực cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì càng cần đến hoạt động marketing. Do đó nghề này được xem là nghề đem lại thu nhập rất cao và có nhiều cơ hội thăng tiến. Nghề kinh doanh SV đánh giá khả năng phát triển chiến tỉ lệ thấp nhất (34,2%), không phát triển chiển tỉ lệ cao nhất (62,9%), đây cũng là nghề bị đánh giá là có mức thu nhập thấp chiếm tỉ lệ 79,7%. Tuy nhiên thực tế ở nước ta hiện nay hoạt động kinh doanh rất phổ biến trong đời sống. Nó diễn ra ở khắp mọi nơi xung quanh chúng ta, lĩnh vực và quy mô của hoạt động kinh doanh cũng vô cùng phong phú và đa dạng. Chưa bao giờ kinh doanh, doanh nghiệp và doanh nhân ở Việt Nam phát triển mạnh như ngày nay. Tất cả đang tạo nên một bức tranh rất lạc quan và đầy triển vọng cho nghề kinh doanh cũng như những nhu cầu về nguồn lao động của nghề này là rất lớn. Đây cũng là nghề mang lại lợi nhuận rất cao tuy nhiên đánh giá của SV về khả năng thu nhập, triển vọng phát triển và nhu cầu của XH đố với nghề này chưa đúng với thực tế đang diễn ra. Như vậy nhận thức của SV về mức độ phát triển của nghề, nhu cầu của xã hội với nghề và thu nhập do các nghề KTTM mang lại còn một số điều chưa hợp lý với thực tế ở chỗ: Những ngành nghề như: Marketing TM, kinh doanh, quản trị DNTM hiện tại và trong tương lai là những nghề rất có triển vọng phát triển và cho thu nhập cao nhưng tỉ lệ SV đánh giá ở mức đô này rất thấp, thậm chí nghề Marketing SV đánh giá tỉ lệ là 0% về khả năng phát triển và thu thập cao của nghề. SV đánh giá nhu cầu của xã hội với những ngành nghề KTTM là không cần thiết cũng chiếm tỉ lệ khá cao (VD: nghề kinh doanh 53,4%, marketing 47,6%). Những đánh giá về thu nhập thấp của các ngành nghề KTTM cũng cho thấy một điều không hợp lý, quản trị DNTM thu nhập thấp chiếm 80,5%, kinh doanh 79,5%. Điều này trái với thực tế đang diễn ra trong xã hội ta do đó nhận thức của SV về khía cạnh này chưa tốt lắm, chưa hợp lý, có sự mâu thuẫn với thực tế đang diễn ra. Nhận thức của SV về NN còn đòi hỏi SV phải nhận biết được tầm quan trọng của những yếu tố thuộc năng lực và phẩm chất mà NN yêu cầu, để từ đó biết định hướng và phấn đấu để hoàn thiện bản thân cho phù hợp với đòi hỏi mà NN đặt ra. 2.1.4: Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của các yếu tố thuộc năng lực và phẩm chất NN để thành công trong công việc Để khảo sát khía cạnh này, chúng tôi nêu ra các yếu tố thuộc về năng lực và phẩm chất mà NN thuộc lĩnh vực KTTM để SV đánh giá. Kết quả được phân tích theo thứ bậc xếp hạng về tầm quan trọng của các yếu tố thuộc năng lực và phẩm chất NN trong bảng 2.5. Các yếu tố thuộc năng lực và phẩm chất NN sẽ được tách riêng để phân tích trong bảng 2.6 và 2.7 dưới đây. 2.1.4.1 Nhận thức của sinh viên về các yếu tố thuộc năng lực và phẩm chất NN để thành công trong công việc thuộc lĩnh vực kinh tế thương mại Bảng 2.5: Nhận thức về các yếu tố thuộc năng lực và phẩm chất NN để thành công trong công việc thuộc lĩnh vực KTTM Yếu tố TB ĐLTC Thứ bậc Năng lực chuyên môn 4,55 0,70 1 Khả năng giao tiếp và đàm phán 4,46 0,78 2 Đạo đức kinh doanh 4,38 0,81 3 Trung thực, coi trọng chữ tín 4,37 0,73 4 Kiên trì, tự tin, năng động, sáng tạo 4,33 0,80 5 Thành thạo ngoại ngữ, tin học 4,33 0,78 5 Cẩn thận, khách quan, thận trọng, có tính bảo mật 4,23 0,86 7 Kỹ năng lắng nghe hiệu quả, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng xử lý thông tin 4,18 0,89 8 Tính hòa đồng, tôn trọng mọi người, công bằng trong đánh giá 4,18 0,72 9 Năng lực quan sát,phân tích,tổng hợp,khả năng diễn đạt 4,11 0,93 10 Hiểu biết thị trường, hàng hóa, khách hàng, đối thủ cạnh tranh 4,10 1,02 11 Năng lực tổ chức, lãnh đạo 4,08 1,00 12 Chịu đựng những áp lực công việc 4,08 0,83 12 Có bản lĩnh, ý chí 4,07 0,87 14 Hiểu biết tâm lý khách hàng và đối tác 4,06 1,05 15 Hiểu biết luật kinh doanh 4,04 0,83 16 Có tính độc lập cao trong công việc, đồng thời phải có tinh thần tập thể 4,03 0,88 17 Có hoài bão, khát vọng làm giàu chính đáng 4,01 0,88 18 Say mê lãnh đạo 4,00 0,98 18 Hiểu biết tâm lý con người, biết dùng người 3,96 1,05 20 Có tư duy kinh doanh 3,95 0,98 21 Khả năng nghiên cứu thị trường, khuếch trương sản phẩm, kỹ năng bán hàng 3,77 1,13 22 Kỹ năng ghi chép, thu thập, xử lý và cung cấp các thông tin 3,75 1,03 23 Dám mạo hiểm, quyết đoán, chấp nhận rủi ro 3,61 1,06 24 Yêu thích những con số 3,05 1,16 25 Kết quả bảng 2.5 cho thấy: SV đánh giá để thành công trong hoạt động KTTM trước tiên người làm trong lĩnh vực này cần phải giỏi về “Năng lực chuyên môn” (thứ bậc 1) và có “Khả năng giao tiếp và đàm phán” (thứ bậc 2). Tiếp đó phải có “Đạo đức kinh doanh, trung thực coi trọng chữ tín” (thứ bậc 3 và 4). Ngoài ra các yếu tố từ thứ bậc 5 đến 23 luôn có sự đan sen khi đánh giá về tầm quan trọng của các yếu tố thuộc năng lực và phẩm chất NN để thành công trong công việc sau này. Đánh giá của SV về những yếu tố có điểm TB thấp nhất là yếu tố thuộc phẩm chất NN, đó là “Dám mạo hiểm, quyết đoán, chấp nhận rủi ro” (thứ bậc 24) và “Yêu thích những con số” (thứ bậc 25) Như vậy căn cứ vào thứ bậc đánh giá của SV về các yếu tố thuộc năng lực và phẩm chất NN ở tốp đầu và tốp cuối xếp hạng cho thấy: SV xem trọng và đánh giá cao những yếu tố thuộc năng lực NN hơn so với những yếu tố thuộc phẩm chất NN. Theo các em để làm được việc và gặt hái được nhiều thành công trong công việc của mình thì trước tiên phải có năng lực và nghiệp vụ chuyên môn sau mới quan tâm đến yếu tố phẩm chất, đạo đức NN. Tuy nhiên trong hoạt động KTTM thực tế cho thấy những yếu tố thuộc phẩm chất NN ngày càng trở nên vô cùng quan trọng ở các đơn vị sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp…vì chỉ khi các đơn vị sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cũng như những người làm trong lĩnh vực này xem trọng yếu tố phẩm chất, đạo đức kinh doanh, đạo đức NN thì mới tạo được chữ tín, niềm tin, tạo nên được thương hiệu cho đơn vị và khi đó đơi vị mới tồn tại lâu dài được. Để tìm hiểu một cách cụ thể về nhận thức của SV về những yếu tố thuộc năng lực và phẩm chất NN, chúng tôi tiến hành tách riêng những yếu tố này và xếp theo thứ bậc từ cao xuống thấp theo điểm TB. Kết quả thu được ở bảng 2.6 và bảng 2.8 như sau: 2.1.4.2 Nhận thức của sinh viên về những yếu tố thuộc năng lực NN để thành công trong công việc. Để làm tốt công việc của mình sau khi ra trường đòi hỏi SV phải nhận thức được những yếu tố thuộc năng lực NN đòi hỏi để từ đó SV biết trang bị, rèn luyện cho mình những năng lực cần thiết. Dưới đây là đánh giá của SV về mức độ quan trọng của các yếu tố thuộc năng lực NN thể hiện cụ thể trong bảng 2.6 Bảng 2.6: Nhận thức về các yếu tố thuộc năng lực NN Yếu tố thuộc năng lực NN TB ĐLTC Thứ bậc Năng lực chuyên môn 4,55 0,70 1 Khả năng giao tiếp và đàm phán 4,46 0,78 2 Thành thạo ngoại ngữ, tin học 4,33 0,78 3 Kỹ năng lắng nghe hiệu quả, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng xử lý thông tin 4,18 0,89 4 Năng lực quan sát, phân tích, tổng hợp, khả năng diễn đạt 4,11 0,93 5 Hiểu biết thị trường, hàng hóa, khách hàng, đối thủ cạnh tranh 4,10 1,02 6 Năng lực tổ chức, lãnh đạo 4,08 1,00 7 Hiểu biết tâm lý khách hàng và đối tác 4,06 1,05 8 Hiểu biết luật kinh doanh 4,04 0,83 9 Hiểu biết tâm lý con người, biết dùng người 3,96 1,05 10 Có tư duy kinh doanh 3,95 0,98 11 Khả năng nghiên cứu thị trường, khuếch trương sản phẩm, kỹ năng bán hàng 3,77 1,13 12 Kỹ năng ghi chép, thu thập, xử lý và cung cấp các thông tin 3,75 1,03 13 Kết quả bảng 2.6 cho thấy: SV đánh giá những yếu tố “Năng lực chuyên môn” và “Khả năng giao tiếp và đàm phán” có điểm TB đạt mức tốt (4,55 và 4,46). Những ngành nghề KTTM cũng như bất kỳ nghề nào khác nếu muốn làm được việc thì người đó trước tiên phải có năng lực chuyên môn, ngoài ra để thực hiện được hoạt động kinh doanh thì cần phải trao đổi và tiếp nhận thông tin từ thị trường, từ khách hàng, từ các đối tác…do đó khả năng giao tiếp và đàm phán là cơ sở quan trọng tạo nên thành công cho hoạt động KTTM Những yếu tố thuộc năng lực NN có điểm TB xếp ở mức khá: “Thành thạo ngoại ngữ, tin học (4,33); Kỹ năng lắng nghe hiệu quả, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng xử lý thông tin (4,18); Năng lực quan sát, phân tích, tổng hợp, khả năng diễn đạt (4,11); Hiểu biết thị trường, hàng hóa, khách hàng, đối thủ cạnh tranh (4,10); Năng lực tổ chức, lãnh đạo (4,08); Hiểu biết tâm lý khách hàng và đối tác (4,06); Hiểu biết luật kinh doanh (4,04); Hiểu biết tâm lý con người, biết dùng người (3,96); Có tư duy kinh doanh (3,95); Khả năng nghiên cứu thị trường, khuếch trương sản phẩm, kỹ năng bán hàng (3,77); Kỹ năng ghi chép, thu thập, xử lý và cung cấp các thông tin (3,75)” Ngành nghề KTTM không chỉ đòi hỏi người hành nghề có năng lực chuyên môn, khả năng giao tiếp và đàm phán giỏi mà cần có sự thành thạo về ngoại ngữ, tin học, đây là công cụ quyết định thành công của người làm ở lĩnh vực KTTM trong môi trường kinh doanh quốc tế. Hoạt động KTTM có đối tượng phục vụ chủ yếu là con người: Khách hàng, đối tác, nhà cung ứng…do đó đòi hỏi người làm nghề này phải có kỹ năng mềm (Kỹ năng lắng nghe hiệu quả, kỹ năng thuyết phục, Kỹ năng xử lý thông tin; năng lực quan sát, phân tích, tổng hợp, khả năng diễn đạt; Kỹ năng ghi chép, thu thập, xử lý và cung cấp các thông tin …) đây là công cụ để người làm KTTM hiểu biết thị trường, hàng hóa, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, biết được tâm lý con người…hiểu biết về luật kinh doanh vá có tư duy kinh doanh cũng là yếu tố không thể thiếu của người làm trong môi trường KTTM. Kinh doanh phải hợp pháp thì mới tồn tại lâu dài hơn nữa để tiến hành những hoạt động kinh doanh có hiệu quả trong điều kiện làm việc tập thể (nhóm hay tổ chức), nhất thiết phải thực hiện quản lý các hoạt động đó và do đó “Năng lực tổ chức, lãnh đạo” cũng là yếu tố rất quan trọng trong hoạt động KTTM. Để tìm hiểu về việc SV đánh giá vai trò quan trọng của các yếu tố năng lực NN tương ứng với từng ngành nghề thuộc lĩnh vực KTTM như thế nào, chúng tôi tiến hành kiểm nghiệm Chi bình phương. Kết quả được thể hiện ở bảng 2.7 như sau:  So sánh đánh giá của sinh viên về các yếu tố thuộc năng lực giúp thành công trong công việc thuộc lĩnh vực KTTM Bảng 2.7: So sánh đánh giá của sinh viên về các yếu tố thuộc năng lực giúp thành công trong công việc theo ngành nghề Yếu tố thuộc năng lực nghề nghiệp Ngành nghề F P Quản trị DNTM Marketin g TM Kế toán DNTM Kinh doanh TB ĐL TC TB ĐL TC TB ĐL TC TB ĐL TC Năng lực chuyên môn 4,4 2 0,7 6 4,5 6 0,6 4 4,6 3 0,7 3 4,6 1 0,4 9 1,8 4 0,13 Khả năng giao tiếp và đàm phán 4,5 5 0,5 9 4,8 0 0,4 5 3,9 5 0,9 8 4,7 1 0,5 6 32, 06 0,00 Thành thạo ngoại ngữ, tin học 4,2 5 0,6 8 4,4 6 0,7 0 4,2 5 0,9 4 4,4 2 0,5 9 2,0 4 0,10 Kỹ năng lắng nghe hiệu quả, 4,3 0,7 4,5 0,5 3,6 1,0 4,3 0,8 33, 0,00 kỹ năng thuyết phục, kỹ năng xử lý thông tin 1 4 9 9 0 1 8 0 76 Năng lực quan sát, phân tích, tổng hợp, khả năng diễn đạt 4,1 1 0,8 4 4,4 0 0,7 2 3,7 8 1,1 1 4,1 9 0,8 7 9,8 1 0,00 Hiểu biết thị trường, hàng hóa, khách hàng, đối thủ cạnh tranh 4,3 5 0,7 2 4,5 6 0,5 9 3,2 8 1,1 7 4,7 1 0,4 6 56, 34 0,00 Năng lực tổ chức, lãnh đạo 4,5 8 0,6 4 4,2 4 0,7 9 3,4 0 1,1 3 4,4 2 0,8 1 38, 46 0,00 Hiểu biết tâm lý khách hàng và đối tác 4,1 9 0,8 9 4,6 0 0,6 6 3,2 9 1,1 4 4,4 2 0,7 4 46, 03 0,00 Hiểu biết luật kinh doanh 4,0 3 0,7 3 3,9 9 0,8 6 4,0 5 0,9 1 4,3 3 0,7 3 1,0 0 0,39 Hiểu biết tâm lý con người, biết dùng người 4,1 7 0,8 8 4,4 5 0,7 3 3,2 0 1,1 1 4,0 4 0,8 6 41, 97 0,00 Có tư duy kinh doanh 4,3 1 0,8 0 4,1 0 0,8 5 3,3 7 1,0 6 4,4 7 0,6 7 25, 51 0,00 Khả năng nghiên cứu thị trường, khuếch trương sản phẩm, kỹ năng bán hàng 3,8 8 0,8 7 4,4 5 0,7 5 2,8 4 1,1 0 4,2 8 0,8 4 67, 46 0,00 Kỹ năng ghi chép, thu thập, xử lý và cung cấp các thông tin 3,3 4 0,9 6

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVTLH020.pdf
Tài liệu liên quan