Tài liệu Luận văn Khảo sát mạng lan với các phần mở rộng không dây: -1-
Hà Nội – 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ
DƯƠNG VIẾT HUY
KHẢO SÁT MẠNG LAN
VỚI CÁC PHẦN MỞ RỘNG KHÔNG DÂY
LUẬN VĂN THẠC SỸ
-2-
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ
DƯƠNG VIẾT HUY
KHẢO SÁT MẠNG LAN
VỚI CÁC PHẦN MỞ RỘNG KHÔNG DÂY
Ngành : Công nghệ thông tin
Chuyên ngành : Truyền dữ liệu và Mạng máy tính
Mã số : 60 48 15
LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN ĐÌNH VIỆT
Hà Nội – 2010
-1-
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................6 U
CHƯƠNG 1 - GIỚI THIỆU...........................................................................................7 U
1.1. Sự ra đời và phát triển của mạng máy tính............................................................7
1.1.1. Sự ra đời của các mạng LAN (có dây)............................................................7
1.1.2. Sự ra đời của mạng Internet...
82 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Khảo sát mạng lan với các phần mở rộng không dây, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-1-
Hà Nội – 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ
DƯƠNG VIẾT HUY
KHẢO SÁT MẠNG LAN
VỚI CÁC PHẦN MỞ RỘNG KHÔNG DÂY
LUẬN VĂN THẠC SỸ
-2-
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ
DƯƠNG VIẾT HUY
KHẢO SÁT MẠNG LAN
VỚI CÁC PHẦN MỞ RỘNG KHÔNG DÂY
Ngành : Công nghệ thông tin
Chuyên ngành : Truyền dữ liệu và Mạng máy tính
Mã số : 60 48 15
LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN ĐÌNH VIỆT
Hà Nội – 2010
-1-
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................6 U
CHƯƠNG 1 - GIỚI THIỆU...........................................................................................7 U
1.1. Sự ra đời và phát triển của mạng máy tính............................................................7
1.1.1. Sự ra đời của các mạng LAN (có dây)............................................................7
1.1.2. Sự ra đời của mạng Internet ............................................................................7
1.1.3. Sự ra đời của các mạng LAN không dây - WLAN.........................................8
1.2. Đường truyền không dây và các vấn đề phải giải quyết .....................................11
1.2.1. Đặc điểm của đường truyền không dây ........................................................11
1.2.2. Cơ chế điều khiển lưu lượng và phản ứng sai lầm của TCP.........................19
1.3. Mục đích nghiên cứu của luận văn. ....................................................................19
CHƯƠNG 2 - MẠNG WLAN VÀ VIỆC KẾT NỐI VỚI INTERNET .......................21
2.1. Giao thức MAC của mạng LAN - CSMA/CD...................................................21
2.2. Giao thức MAC của mạng WLAN - CSMA/CA. ...............................................23
2.2.1. CSMA/CD không thể sử dụng cho mạng WLAN ........................................23
2.2.2. Giao thức CSMA/CA....................................................................................24
2.2.3. Giao thức CSMA/CA + ACK .......................................................................25
2.2.4. Giao thức CSMA/CA + ACK + RTS/CTS ...................................................26
2.3. Chức năng DCF, PCF .........................................................................................27
2.3.1. Chức năng cộng tác phân tán - DCF.............................................................27
2.3.2. Chức năng cộng tác tập trung - PCF .............................................................28
2.3.3. Các giá trị SIFS, DIFS, PIFS.........................................................................29
2.4. Kết nối WLAN với Internet ................................................................................31
2.4.1. Chức năng của AP.........................................................................................31
2.4.2. Các mô hình kết nối ......................................................................................33
2.4.3. AP và kênh truyền sóng ................................................................................35
2.4.4. Vấn đề nút mạng di động. .............................................................................37
CHƯƠNG 3: CẢI TIẾN TCP CHO MẠNG HỖN HỢP .............................................43
3.1. Giao thức TCP/IP đối với mạng có đường truyền không dây ............................43
3.2. Các tiêu chí đánh giá giao thức mạng .................................................................44
-2-
3.3. Một số giao thức cải tiến TCP dùng cho mạng hỗn hợp.....................................46
3.3.1. Split TCP ......................................................................................................46
3.3.2. Snoop TCP ....................................................................................................47
3.3.3. M-TCP ..........................................................................................................51
CHƯƠNG 4 ĐÁNH GIÁ BẰNG MÔ PHỎNG HIỆU SUẤT CỦA CÁC GIAO THỨC
GIAO VẬN TRONG MẠNG CÓ PHẦN MỞ RỘNG KHÔNG DÂY........................53
4.1. Giới thiệu bộ mô phỏng mạng NS-2 ...................................................................54
4.1.1. Mô phỏng mạng LAN...................................................................................57
4.1.2. Mô phỏng WLAN .........................................................................................59
4.2. Đánh giá hiệu suất giao thức TCP, UDP trong mạng LAN............................... 68
4.3. Đánh giá hiệu suất giao thức TCP, UDP trong mạng hỗn hợp ...........................72
KẾT LUẬN ...................................................................................................................78
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................79
-3-
CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
AES Advanced Encryption Standard
AODV Ad hoc On-Demand Distance Vector
AP Access Point
BER Bit Error Ratio
BSSs Independent Basic Service Sets
CBR Constant Bit Rate
CS Carrier Sense
CSMA Carrier Sense Multiple Access
CSMA/CA Carrier Sense Multiple Access with Collision Avoidance
CSMA/CD Carrier Sense Multiple Access with Collision Detect
CTS Clear To Send
DCF Distributed Co-ordination Function
DFS Dynamic Frequency Selection
DIFS Distributed Co-ordinate Function Interframe Space
DSDV Destination-Sequenced Distance-Vector
DSR Dynamic Source Routing
DSSS Direct Sequence Spread Spectrum
E-mail Electronic Mail
ESSs Extended Service Sets
FHSS Frequency Hopping Spread Spectrum
FTP File Transfer Protocol
IAPP Inter-AP Protocol
IEEE Institute of Electrical and Electronics Engineers
IFS Interframe Spacing
ISDN Integrated Services Digital Network
ISM Industrial, Scientific and Medical
LAN Local Area Network
MAC Medium Access Control
MAN Metropolitan Area Network
-4-
Modem modulator and demodulator
NAM Network Animator
NS2 Network Simulator
AODV Adhoc On-demand Distance Vector
OFDM Orthogonal Frequency Division Multiplexing
Otcl Object Oriented Tool Command Language
PCF Point Co-ordination Function
PIFS Point Co-ordination Function Interframe Space
PSM Power Saving Mode
QoS Quality of Service
REAL Realistic and Large
RTP Real-time Transport Protocol
RTS Request To Send
RTT Round Trip Time
SIFS Short Inter-Frame Space
SW Switch
TCP/IP Transmission Control Protocol/Internet Protocol
TELNET TELecommunication NETwork
TORA Temporally ordered Routing Algorithm
TPC Transmission Power Control
UDP User Datagram Protocol
UNII Unlicensed National Information Infrastructure
VBR Variable Bit Rate
WAN Wide Area Network
WEP Wired Equivalent Privacy
WIFI Wireless Fidelity
WLAN Wireless Local Area Network
WWW World Wide Web
-5-
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Chế độ tiết kiệm năng lượng ở 802.11 ................................................14
Hình 1.2: Mô hình lỗi Markov 2 trạng thái. .........................................................15
Hình 2.1: Điều khiển truy nhập CSMA ..............................................................21
Hình 2.2: Trạm A và C được xem là "ẩn" đối với nhau......................................23
Hình 2.3: Trạm C bị lộ đối với trạm B.................................................................23
Hình 2.4: Lược đồ giao thức CSMA/CA có ACK...............................................25
Hình 2.5: CSMA/CA sử dụng RTS/CTS và ACK...............................................26
Hình 2.6: Mô hình RTS/CTS ...............................................................................27
Hình 2.7: Mô hình Root mode .............................................................................32
Hình 2.8: Mô hình AP ở chế độ Bridge mode .....................................................32
Hình 2.9: Mô hình AP ở chế độ Repeater mode ..................................................32
Hình 2.10: Mô hình mạng Ad-hoc .......................................................................33
Hình 2.11: Mô hình mạng cơ sở...........................................................................34
Hình 2.12: Mô hình mạng mở rộng......................................................................34
Hình 2.13: Mô tả các tần số 2.4GHz cho các kênh 802.11b/g.............................35
Hình 2.14: Minh họa phổ tín hiệu 802.11b .........................................................35
Hình 2.15: Chồng lấn kênh liền kề 802.11b.........................................................36
Hình 2.16: Không xảy ra hiện tượng chồng lấn kênh 802.11b ............................36
Hình 2.17: MH sẽ mất kết nối với AP khi cường độ tín hiệu thấp ......................37
Hình 2.18: Phạm vi phủ sóng của các AP chồng lên nhau. .................................38
Hình 2.19: Nhiễu do sử dụng cùng kênh truyền ..................................................39
Hình 2.20: MH di chuyển từ AP1 sang AP2 khác kênh truyền ...........................39
Hình 3.1: Mô hình Split Connection ....................................................................46
Hình 3.2: Tiến trình xử lý dữ liệu từ FH đến MH................................................48
Hình 3.3: Tiến trình xử lý ACK ...........................................................................49
Hình 3.4: MH chỉ trao đổi gói tin với Primary AP ..............................................50
Hình 3.5: Mô hình kết nối M-TCP.......................................................................51
Hình 4.1: Ánh xạ trong cùng đối tượng giữa C++ và OTCL...............................55
Hình 4.2: Tổng quan về NS dưới góc độ người dùng..........................................55
Hình 4.3: Luồng các sự kiện mô phỏng được kết xuất ra file..............................57
Hình 4.4: Minh họa ngăn xếp mạng dùng cho LAN............................................58
Hình 4.5: Thực tế kết nối và thể hiện định tuyến trên NS2 .................................59
Hình 4.6: Lược đồ của một mobile node chuẩn 802.11 của Monarch trong NS.
..............................................................................Error! Bookmark not defined.
Hình 4.7: Các vị trí chèn lỗi khi mô phỏng mạng không dây. .............................67
Hình 4.8: Mô hình khảo sát mạng LAN...............................................................68
Hình 4.9: Kết quả mô phỏng TCP trong mạng LAN ...........................................71
Hình 4.10: Tôpô mạng hỗn hợp WLAN + Internet khi truyền TCP, UDP.........72
-6-
MỞ ĐẦU
Mạng LAN nói chung (LAN có dây) có đặc điểm là tốc độ cao, tỉ suất lỗi
gói tin nhỏ, độ trễ của các gói tin truyền trong mạng nhỏ và thăng giáng độ trễ
(jitter) không quá lớn. Ngày nay việc kết nối các mạng LAN không dây
(WLAN) với mạng LAN có dây ngày càng trở nên phổ biến, các ứng dụng về
mạng hỗn hợp hai loại truyền thông này đã mang lại cho cho xã hội thêm những
mô hình kết nối mới đầy hiệu quả. Tuy nhiên, mạng WLAN có nhiều đặc điểm
ảnh hưởng xấu đến hiệu suất truyền thông, do đặc tính nhiều lỗi của đường
truyền cũng như tính có thể di động của nút mạng. Khi kết nối LAN với WLAN,
mạng tạo thành là hỗn hợp, nảy sinh nhiều vấn đề làm giảm hiệu suất truyền
thông. Chính vì lý do đó, tôi đã lựa chọn đề tài "Khảo sát mạng LAN với các
phần mở rộng không dây" để nghiên cứu.
Để thực hiện những nội dung nghiên cứu trên, luận văn của tôi gồm phần
mở đầu, 4 chương và kết luận. Nội dung của các chương được tóm tắt như sau:
Chương 1: Tìm hiểu lịch sử các mạng LAN, WLAN, Internet; đặc điểm
của đường truyền không dây và các vấn đề cần giải quyết; tóm tắt một số nghiên
cứu theo hướng cải tiến giao thức TCP để phù hợp với mạng hỗn hợp. Trên các
cơ sở đó để xác định mục tiêu của đề tài.
Chương 2: Nghiên cứu lý thuyết về mạng WLAN và các vấn đề liên quan
đến hiệu suất truyền thông khi kết nối với Internet; nghiên cứu vấn đề nút mạng
di động trong một hay nhiều vùng phủ sóng của 1 hay nhiều AP.
Chương 3: Tìm hiểu, đánh giá một số cải tiến TCP cho mạng có đường
truyền không dây, làm tiền đề cho những nghiên cứu của tôi theo hướng này.
Chương 4: Tìm hiểu các vấn đề liên quan đến mô phỏng mạng LAN,
WLAN trong NS2; viết chương trình mô phỏng và phân tích kết quả một số thí
nghiệm về các nút trong mạng hỗn hợp LAN và WLAN khi truyền ở hai hình
thức TCP và UDP.
Để hoàn thiện luận văn này, tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với
PGS.TS Nguyễn Đình Việt – là người đã giảng dạy và tận tình hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
-7-
CHƯƠNG 1 - GIỚI THIỆU
1.1. Sự ra đời và phát triển của mạng máy tính
1.1.1. Sự ra đời của các mạng LAN (có dây)
Vào thời gian trước khi những máy tính cá nhân xuất hiện, một máy tính
trung tâm chiếm trọn 1 căn phòng, người dùng truy nhập máy tính trung tâm
thông qua thiết bị đầu cuối kết nối với máy tính trung tâm bằng cáp truyền dữ
liệu tốc độ thấp. Cuối những năm 60, do nhu cầu tăng tốc độ truyền, phòng thì
nghiệm Lawrence Berkeley thuộc bộ năng lượng Mỹ đã nghiên cứu và đưa ra
báo cáo chi tiết vào năm 1970 về mạng lưới máy tính. Mạng cục bộ LAN đầu
tiên đã được tạo ra vào cuối những năm 1970 thông qua cáp truyền tốc độ cao
giữa vài máy tính trung tâm lớn đặt cùng một chỗ.
Các nhà phát triển hệ điều hành cho mạng này bắt đầu cạnh tranh nhau
trong đó Ethernet và ARCNET được biết đến nhiều nhất. Ethernet được Xerox
PARC phát triển trong giai đoạn 1973-1975 và đã được cấp bằng sáng chế năm
1976 sau khi hệ thống này đã được triển khai tại PARC đồng thời Metcalfe và
Boggs xuất bản bài báo "Ethernet: Distributed Packet-Switching For Local
Computer Networks" mở ra một hướng đi rõ ràng hơn cho mạng LAN.
ARCNET được phát triển bởi công ty Datapoint năm 1976, tháng 12 năm 1977
nó được áp dụng cho ngân hàng Chase Manhattan ở New York. Như vậy, năm
1977, công ty Datapoint đã bắt đầu bán hệ điều hành mạng của mình là
"Attached Resource Computer Network" (hay gọi tắt là Arcnet) ra thị trường.
Mạng Arcnet cho phép liên kết các máy tính và các trạm đầu cuối lại bằng dây
cáp mạng. Arcnet đã trở thành hệ điều hành mạng LAN đầu tiên. [23], [24]
1.1.2. Sự ra đời của mạng Internet
Tiền thân của mạng Internet ngày nay là mạng ARPANET, đó chính là
mạng liên khu vực (Wide Area Network - WAN) đầu tiên được xây dựng.
ARPANET thuộc bộ quốc phòng Mỹ liên kết 4 địa điểm đầu tiên vào tháng 7
năm 1969 bao gồm: Viện nghiên cứu Stanford, Đại học California, Los Angeles,
Đại học Utah và Đại học California, Santa Barbara.
Thuật ngữ "Internet" xuất hiện lần đầu vào khoảng năm 1974, lúc đó
mạng vẫn được gọi là ARPANET. Đến năm 1983, giao thức TCP/IP chính thức
được coi như một chuẩn đối với lĩnh vực quân sự Mỹ. Mạng ARPANET và giao
thức TCP/IP đã trở thành dấu mốc cho mạng Internet ra đời.
-8-
Năm 1984, ARPANET được chia ra thành hai phần: phần thứ nhất vẫn
được gọi là ARPANET, dành cho việc nghiên cứu và phát triển; phần thứ hai
được gọi là MILNET, là mạng dùng cho các mục đích quân sự.
Vào giữa thập niên 1980 khi tổ chức khoa học quốc gia Mỹ NSF thành lập
mạng liên kết các trung tâm máy tính lớn với nhau gọi là NSFNET. Nhiều doanh
nghiệp đã chuyển từ ARPANET sang NSFNET và do đó sau gần 20 năm hoạt
động, ARPANET không còn hiệu quả đã ngừng hoạt động vào khoảng năm
1990.
Sự hình thành mạng xương sống của NSFNET và những mạng vùng khác
đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của Internet. Tới năm 1995,
NSFNET thu lại thành một mạng nghiên cứu còn Internet thì vẫn tiếp tục phát
triển.
Internet được xem là mạng của các mạng mà thực chất là mạng của các
mạng LAN thông qua các mạng WAN hoặc các mạng truyền thông khác. Các
quốc gia có kết nối mạng Internet toàn cầu thường xây dựng mạng đường trục
tốc độ cao, là một hệ thống mạng liên kết có tốc độ truyền cực cao so với tốc độ
truyền của hệ thống mạng thông thường.
Ngày nay, Internet đã trở thành mạng máy tính toàn cầu, xuất hiện trong
mọi lĩnh vực thương mại, chính trị, quân sự, nghiên cứu, giáo dục, văn hoá, xã
hội,... Mạng được kết nối với nhau dựa trên bộ giao thức trao đổi số liệu TCP/IP,
đó là ngôn ngữ chung để cho tất cả các máy tính khác nhau kết nối trên mạng có
thể "nói chuyện" được với nhau.
Các dịch vụ dựa trên nền tảng Internet ngày càng phát triển mạnh. Sản
phẩm chính mà Internet cung cấp cho người dùng là thông tin. Thông tin thường
ở dạng tệp lưu trữ trong các máy tính chủ, máy tính cung cấp dịch vụ, và có thể
trình bày bằng nhiều dạng khác nhau phụ thuộc vào loại dịch vụ của Internet
được sử dụng. Các dịch vụ trên Internet thường được tổ chức theo mô hình quan
hệ Client - Server (khách - chủ) nhằm phân phối quá trình xử lý giữa máy tính
của người sử dụng (client) và máy tính chủ (server). Một số dịch vụ chính hiện
đang được sử dụng trên Internet như: WWW, Email, FTP, đăng nhập từ xa,…
1.1.3. Sự ra đời của các mạng LAN không dây - WLAN
Công nghệ WLAN lần đầu tiên xuất hiện vào cuối năm 1990, khi những
nhà sản xuất giới thiệu những sản phẩm hoạt động trong băng tần 900Mhz.
-9-
Những giải pháp này (không được thống nhất giữa các nhà sản xuất) cung cấp
tốc độ truyền dữ liệu 1Mbps, thấp hơn nhiều so với tốc độ 10Mbps của hầu hết
các mạng sử dụng cáp hiện thời.
Mạng WLAN có 2 kiểu cơ bản đó là Ad-hoc và Infrastructure. Với kiểu
Ad-hoc thì mỗi máy tính trong mạng giao tiếp trực tiếp với nhau thông qua các
thiết bị Card mạng không dây mà không dùng đến các thiết bị định tuyến
(Wireless Router) hay thu phát không dây (Wireless Access Point). Kiểu
Infrastructure thì các máy tính trong hệ thống mạng sử dụng một hoặc nhiều
các thiết bị định tuyến hay thiết bị thu phát để thực hiện các hoạt động trao đổi
dữ liệu với nhau và các hoạt động khác. Mạng WLAN có cấu trúc kiểu
Infrastructure có thể được coi là mạng LAN có phần mở rộng không dây.
Năm 1992, những nhà sản xuất bắt đầu bán những sản phẩm WLAN sử
dụng băng tần 2.4Ghz. Mặc dù những sản phẩm này đã có tốc độ truyền dữ liệu
cao hơn nhưng chúng vẫn là những giải pháp riêng của mỗi nhà sản xuất mà
không được công bố rộng rãi. Sự cần thiết cho việc hoạt động thống nhất giữa
các thiết bị ở những dải tần số khác nhau đã dẫn đến một số tổ chức bắt đầu phát
triển ra những chuẩn mạng không dây chung.
Năm 1997, IEEE đã phê chuẩn sự ra đời của chuẩn 802.11, và cũng được
biết với tên gọi WIFI cho các mạng WLAN. Chuẩn 802.11 hỗ trợ ba phương
pháp truyền tín hiệu, trong đó có phương pháp truyền tín hiệu vô tuyến ở tần số
2.4Ghz.
Năm 1999, IEEE thông qua hai sự bổ sung cho chuẩn 802.11 là các chuẩn
802.11a và 802.11b (định nghĩa những phương pháp truyền tín hiệu). Và những
thiết bị WLAN dựa trên chuẩn 802.11b đã nhanh chóng trở thành công nghệ
không dây vượt trội. Các thiết bị WLAN 802.11b truyền phát ở tần số 2.4Ghz,
cung cấp tốc độ truyền dữ liệu có thể lên tới 11Mbps. IEEE 802.11b được tạo ra
nhằm cung cấp những đặc điểm về tính hiệu dụng, thông lượng (throughput) và
bảo mật tương đương với mạng LAN có dây.
Năm 2003, IEEE công bố thêm một sự cải tiến là chuẩn 802.11g có thể
truyền nhận thông tin ở cả hai dải tần 2.4Ghz và 5Ghz và có thể nâng tốc độ
truyền dữ liệu lên đến 54Mbps. Thêm vào đó, những sản phẩm áp dụng 802.11g
cũng có thể tương thích ngược với các thiết bị chuẩn 802.11b. Hiện nay chuẩn
802.11g đã đạt đến tốc độ 108Mbps-300Mbps.
-10-
Như vậy, chuẩn 802.11 là một chuẩn chung dành cho mạng LAN không
dây. Thực ra có nhiều chuẩn khác nhau cho mạng LAN không dây. Dưới đây là
thống kê một số chuẩn được dùng rộng rãi trong thực tế:
802.11: Ra đời năm 1997. Đây là chuẩn sơ khai của mạng không dây, nó
mô tả cách truyền thông trong mạng không dây sử dụng các phương thức như
DSSS (trải phổ chuỗi trực tiếp), FHSS (trải phổ nhảy tần), infrared (hồng ngoại).
Tốc độ hoạt động tối đa là 2 Mbps, hoạt động trong băng tần 2.4 GHz ISM.
802.11b: Đây là một chuẩn mở rộng của chuẩn 802.11, cải tiến DSSS để
tăng băng thông lên 11 Mbps, nó cũng hoạt động ở băng tần 2.4 GHz và tương
thích ngược với chuẩn 802.11. Chuẩn này trước đây được sử dụng rộng rãi trong
mạng WLAN nhưng hiện nay thì các chuẩn mới với tốc độ cao hơn như 802.11a
và 802.11g có giá thành ngày càng hạ đã dần thay thế 802.11b.
802.11a: Chuẩn này sử dụng băng tần 5 GHz UNII (Unlicenced National
Information Infrastructure) nên nó sẽ không giao tiếp được với chuẩn 802.11 và
802.11b. Tốc độ của nó lên đến 54 Mbps vì nó sử dụng công nghệ OFDM.
Chuẩn này rất thích hợp khi muốn sử dụng mạng không dây tốc độ cao trong
môi trường có nhiều thiết bị hoạt động ở băng tần 2.4 Ghz vì nó không gây
nhiễu với các hệ thống này.
802.11g: Chuẩn này hoạt động ở băng tần 2.4 GHz, sử dụng công nghệ
OFDM nên có tốc độ lên đến 54 Mbps (nhưng không giao tiếp được với 802.11a
vì khác tần số hoạt động). Nó cũng tương thích ngược với chuẩn 802.11b vì có
hỗ trợ thêm DSSS (và hoạt động cùng tần số). Điều này làm cho việc nâng cấp
mạng không dây từ thiết bị 802.11b ít tốn kém hơn. Trong môi trường vừa có cả
thiết bị 802.11b lẫn 802.11g thì tốc độ sẽ bị giảm đáng kể vì 802.11b không hiểu
được OFDM và chỉ hoạt động ở tốc độ thấp.
802.11e: Đây là chuẩn bổ sung cho chuẩn 802.11 cũ, nó định nghĩa thêm
các mở rộng về chất lượng dịch vụ (QoS) nên rất thích hợp cho các ứng dụng
multimedia như voice, video.
802.11f: Được phê chuẩn năm 2003. Đây là chuẩn định nghĩa giao thức
cho các AP giao tiếp với nhau khi một MH chuyển vùng (roaming) từ vùng này
sang vùng khác. Chuẩn này còn được gọi là IAPP. Chuẩn này cho phép một AP
có thể phát hiện được sự hiện diện của các AP khác cũng như cho phép AP
“chuyển giao” MH sang AP mới (khi roaming), điều này giúp cho quá trình
roaming được thực hiện một cách thông suốt.
-11-
802.11i: Là một chuẩn về bảo mật, nó bổ sung cho các yếu điểm của WEP
trong chuẩn 802.11. Chuẩn này sử dụng các giao thức như giao thức xác thực
dựa trên cổng 802.1X, và một thuật toán mã hóa đó là thuật toán AES, thuật toán
này sẽ thay thế cho thuật toán RC4 được sử dụng trong WEP.
802.11h: Chuẩn này cho phép các thiết bị 802.11a tuân theo các quy tắc
về băng tần 5 GHz ở Châu Âu. Nó mô tả các cơ chế như tự động chọn tần số
(DFS) và điều khiển công suất truyền (TPC) để thích hợp với các quy tắc về tần
số và công suất ở Châu Âu.
802.11j: Được phê chuẩn tháng 11/2004 cho phép mạng 802.11 tuân theo
các quy tắc về tần số ở băng tần 4.9 Ghz và 5 Ghz ở Nhật Bản.
802.11d: Chuẩn này chỉnh sửa lớp MAC của 802.11 cho phép máy trạm
sử dụng FHSS có nhằm tối ưu các tham số lớp vật lý để tuân theo các quy tắc
của các nước khác nhau nơi mà nó được sử dụng.
802.11s: Định nghĩa các tiêu chuẩn cho việc hình thành mạng dạng lưới
(mesh network) một cách tự động giữa các AP 802.11 với nhau.
1.2. Đường truyền không dây và các vấn đề phải giải quyết
1.2.1. Đặc điểm của đường truyền không dây
Vấn đề truyền thông của mạng WLAN kết nối với Internet trở thành chủ
đề của nhiều nghiên cứu. Các máy tính và thiết bị trong mạng không dây kết nối
với Internet là rất tự nhiên và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, điều đó đòi hỏi phải
mở rộng đường truyền về quy mô và đặc tính, cho phép kết nối các mạng không
dây vào Internet. Như vậy, việc kết nối từ các thiết bị không dây vào mạng
Internet trở nên không đồng nhất về phương diện các đặc tính của đường
truyền. Trong phần mạng có dây, đường truyền có độ tin cậy cao và tỉ suất lỗi
bit thấp, việc mất gói số liệu chủ yếu do tắc nghẽn trong mạng chứ không phải
do lỗi đường truyền. Phần mạng không dây, tỉ lệ lỗi cao và thất thường do biến
động về môi trường truyền sóng và sự di chuyển của các nút. Các vấn đề chính
trong việc đánh giá hiệu suất mạng WLAN được trình bày dưới đây.
Lỗi bit
Lỗi bit trong phần mạng không dây xảy ra do các nguyên nhân khác nhau
như: tạp âm, nhiễu, suy hao đường truyền, pha đinh, hiệu ứng nhiều đường và
vật cản. Các lỗi được đề cập ở trên tác động đáng kể đến tỷ lệ lỗi bit của các
kênh không dây. Với tốc độ dữ liệu và di chuyển điển hình của người dùng,
-12-
những lỗi này có thể gây nên lỗi chuỗi bit dài được gọi là bùng nổ lỗi (error
burst), do đó gây nên khó khăn cho việc sửa lỗi khi sử dụng các mã sửa lỗi
thông thường.
Ngoài ra, nhiễu vô tuyến cũng có thể gây nên gián đoạn tạm thời. Đối với
các WLAN hoạt động ở bǎng tần vô tuyến 2,4 GHz, hoạt động của các lò vi
sóng có thể là một nguồn nhiễu quan trọng. Các lò vi sóng công suất lên tới
750W hoặc cao hơn, với 150 xung trên giây, có bán kính bức xạ trong vòng
khoảng 10m, bức xạ phát ra trải từ 2,4 GHz đến 2,45 GHz. Cho dù các khối của
lò vi sóng có thể được che chắn bức xạ điện từ thì phần lớn nǎng lượng vẫn có
thể gây nhiễu tới truyền dẫn WLAN. Các nguồn nhiễu khác trong bǎng tần 2,4
GHz gồm máy photocopy, các thiết bị chống trộm, các mô tơ thang máy và các
thiết bị y tế. [23]
Một số kỹ thuật được đề xuất nhằm cải thiện chất lượng đường truyền
không dây và khắc phục ảnh hưởng của một số nguồn lỗi nghiêm trọng. Mặc dù
vậy, vẫn không thể đạt được tỷ lệ lỗi bit thấp hơn so với tỷ lệ lỗi bit trong các
mạng có dây. Tỷ lệ lỗi bit điển hình của các mạng không dây nằm trong khoảng
từ 10-2 đến 10-6 tùy thuộc vào điều kiện môi trường và các kỹ thuật mã hóa tín
hiệu truyền cũng như điều chế tín hiệu cụ thể được sử dụng. Vì vậy, các ứng
dụng và giao thức lớp cao hơn phải tính đến tỷ lệ lỗi bit cao và cần có các cơ chế
chính xác cho điều khiển chất lượng dịch vụ, nhằm cung cấp chất lượng dịch vụ
có thể chấp nhận được đến người dùng thiết bị di động.
Băng thông kênh thấp
Vì có sự hạn chế phổ vô tuyến mà mỗi mạng được phép sử dụng nên băng
thông kênh truyền không dây thường là thấp hơn so với các kênh truyền có dây.
Các mạng không dây có các ràng buộc điển hình về băng thông so với các mạng
có dây, đòi hỏi có đảm bảo khác biệt về dịch vụ. Các mạng cố định thường cung
cấp đường truyền thông với tỷ lệ lỗi bit rất thấp và tốc độ cao. Trái lại, các mạng
không dây có hiệu năng điển hình thấp hơn nhiều do tỷ lệ lỗi cao, có tính chất
bùng nổ và đường truyền thường bị đứt đoạn, dẫn đến tốc độ dữ liệu thấp và
hiệu năng của chúng phụ thuộc vào các yếu tố khác như: vị trí, môi trường
truyền của không khí, nhiễu,… Các đường truyền không dây thường tạo thành
nút cổ chai trong môi trường mạng hỗn hợp có dây và không dây.
-13-
Sự thay đổi bất thường của các luồng không dây
Kênh không dây có đặc điểm nổi bật so với kênh có dây là biến đổi theo
thời gian và có tác động đáng kể đến việc đảm bảo hiệu năng kết nối. Băng
thông của kênh không dây biến đổi theo thời gian do hiện tượng pha đinh cũng
biến đổi theo thời gian và biến động số lượng MH gây ra nguy cơ bùng nổ lỗi.
Sự thay đổi bất thường về dung lượng của kênh không dây, đặc biệt khi phía gửi
cũng như phía nhận di chuyển, dẫn đến biến đổi trễ kéo theo biến đổi thời gian
khứ hồi (RTT). Thay đổi bất thường này tác động đáng kể đến hiệu năng của các
giao thức dựa trên cơ chế báo nhận như TCP cũng như các cơ chế mới được phát
triển dựa trên nền tảng TCP.
Vì đặc tính thay đổi bất thường của kênh không dây gây nên sự thay đổi
bất thường của trễ truyền từ đầu cuối đến đầu cuối nên các tính toán dựa trên trễ
như tính thời gian chờ để truyền lại (time-out) đối với TCP có thể tạo ra các giá
trị lớn, dẫn đến chu kỳ rỗi dài, nghĩa là thông lượng bị giảm đi và lãng phí băng
thông.
Sự di chuyển của người dùng thiết bị đầu cuối
Sự di chuyển của MH giữa các cell gây nên một số thách thức trong việc
đảm bảo QoS cho mạng không dây. Tuy chuẩn 802.11 không quy ước thuật toán
chuyển vùng và để dành phần "công việc" này cho nhà sản xuất card không dây.
Các yếu tố ảnh hưởng đến QoS đó là:
• Chất lượng tín hiệu sóng điện từ (cường độ tín hiệu) sẽ có xu hướng
suy hao dần khi người dùng thiết bị đầu cuối di chuyển xa dần trạm
phát (AP).
• Sự di chuyển của MH có thể dẫn đến yêu cầu chuyển giao kết nối
(hand-off) và có thể gây ra trễ bất thường và mất gói tin...Vấn đề quản
lý vị trí MH để phục vụ định tuyến sao cho kết nối là liên tục và thời
gian trễ là tối thiểu.
Các vật cản đối với sự lan truyền tín hiệu
Với mạng không dây, các thiết bị mạng trao đổi thông tin với nhau bằng
tín hiệu sóng điện từ thông qua môi trường. Do việc truyền sóng điện từ có thể
xảy ra hiện tượng phản xạ, khúc xạ, giao thoa nên độ phủ sóng của tín hiệu vô
tuyến phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện môi trường cụ thể trên đường
truyền. Các vật cản có thể là bức tường, vách ngǎn và các vật thể khác. Tín hiệu
-14-
có xuyên qua được dễ dàng hay không phụ thuộc nhiều vào chất liệu và hình
dạng của vật cản.
Nguồn năng lượng lưu trữ của MH
Thời gian hoạt động liên tục của MH phụ thuộc vào dung lượng của pin.
Các MH tiêu hao khá nhiều năng lượng trong việc thu phát sóng điện từ để nhận
và truyền tin, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu năng sử dụng đặc biệt đối
với môi trường không đồng nhất và nhiều biến động. Tuy nhiên, với chuẩn IEEE
802.11 đã định nghĩa chế độ tiết kiệm năng lượng PSM để tối ưu hóa việc sử
dụng năng lượng pin của MH trong truyền thông khi tham gia mạng không dây.
Hình 1.1: Chế độ tiết kiệm năng lượng ở 802.11
Trong chế độ PSM, MH định kỳ luân phiên giữa hai trạng thái: Active và
Sleep. MH chỉ có thể truyền và nhận tín hiệu khi ở trạng thái Active. Còn khi ở
trạng thái Sleep, MH tiêu tốn rất ít năng lượng do không phải cung cấp năng
lượng để ăng ten thu phát sóng nên có thể tiết kiệm được năng lượng đáng kể.
Các gói tin gửi đến MH khi MH đang ở trong trang thái Sleep sẽ được AP lưu
tạm ở buffer của nó và AP sẽ chờ khi MH bật sang trạng thái Active thì truyền
dữ liệu cho MH. Tuy nhiên vì MH chỉ truyền và nhận được tín hiệu khi ở trạng
thái Active, trong khi đó AP chỉ truyền gói tin tiếp theo đến MH khi nhận được
ACK từ MH đó, cho nên điều này ảnh hưởng không nhỏ đến thông lượng
(thoughput) đường truyền.
Mô hình lỗi sử dụng cho nghiên cứu đường truyền không dây
Cho đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu về lỗi trên đường truyền không
dây. Người ta đã nghiên cứu tác động đến đường truyền của các tham số khác
-15-
nhau, như tốc độ di chuyển của nút, vật cản, nhiễu đường truyền,… các tác giả
đã công bố rất nhiều kết quả cả định lượng (bằng những con số) và định tính
(các quy luật, các mô hình lỗi). Theo các phương pháp đo và tính toán khoa học
thì tỉ lệ lỗi bit (BER) trên đường truyền không dây biến đổi trong khoảng từ 10-2
đến 10-6 (so với trên đường truyền có dây như cáp quang là 10-9). Ngoài ra khi
truyền trên kênh không dây còn có hiện tượng bùng nổ lỗi (bursts). Việc tính
toán số lượng và phân bố lỗi trên đường truyền không dây có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc thiết kế và phân tích các giao thức truyền thông trong mạng
không dây. [8], [14], [17].
Mô hình lỗi Markov 2 trạng thái (Two-State Markov Error Model) cho
các kênh truyền không dây đã được các nhà nghiên cứu sử dụng rộng rãi để mô
hình hóa đặc điểm lỗi của đường truyền và áp dụng trong các kịch bản khác
nhau để phân tích và đánh giá hiệu suất các giao thức truyền thông. [17]
Hình 1.2: Mô hình lỗi Markov 2 trạng thái.
Mô hình này sử dụng chuỗi các khoảng thời gian rời rạc (Discrete Time
Markov Chain - DTMC) để mô hình hóa trạng thái lỗi đường truyền thay đổi
theo thời gian ở cấp độ bit. Trạng thái “Good” được giả định cho tình trạng
đường truyền tốt và tỉ lệ lỗi bít bằng hoặc nhỏ hơn một giá trị nhất định
(GoodBER). Ngược lại thì trạng thái “Bad” để chỉ ra tình trạng đường truyền xấu
hơn khi tỉ lệ lỗi bít lớn hơn một giá trị nhất định (BadBER). [17]
Hình 1.3: Ví dụ 1 mẩu lỗi sử dụng mô hình Markov 2 trạng thái
-16-
Hình vẽ 1.3 là ví dụ về việc sử dụng mô hình lỗi Markov 2 trạng thái để
mô hình hóa lỗi trên đường truyền. Trên mô hình có những khoảng thời gian mà
trong kênh truyền có chất lượng tốt (các khoảng Good) và những khoảng thời
gian kênh truyền có chất lượng xấu (các khoảng Bad). Với các khoảng thời gian
đường truyền ở trạng thái xấu, mô hình có thể tạo ra các hiệu ứng lỗi thường
xuất hiện ở mạng không dây thực như: hiệu ứng bùng nổ lỗi (nếu trong 1 thời
gian ngắn có nhiều lỗi nảy sinh) lỗi fading, hủy bỏ nhiều đường truyền,…
Mô hình này được đặc trưng bởi 4 tham số xác suất chuyển trạng thái theo
điều kiện, và các xác suất phân bố trạng thái ban đầu. Sự thay đổi các tham số
xác suất ở trạng thái S tại thời điểm t+1 được tính thông qua các tham số xác
suất tại thời điểm t.
Gọi S = {G(Good), B(bad)} tại thời điểm t, ta có công thức tính sau:
Trong đó
• tG,G (t) cho biết xác suất trạng thái tại thời điểm t+1 sẽ là Good nếu
biết trạng thái tại thời điểm t là Good.
• tG,B (t) cho biết xác suất trạng thái tại thời điểm t+1 sẽ là Good nếu
biết trạng thái tại thời điểm t là Bad.
• tB,G (t) cho biết xác suất trạng thái tại thời điểm t+1 sẽ là Bad nếu
biết trạng thái tại thời điểm t là Good.
• tB,B (t) cho biết xác suất trạng thái tại thời điểm t+1 sẽ là Bad nếu
biết trạng thái tại thời điểm t là Bad.
Lúc đó ma trận thay đổi trạng thái (state transition matrix) được tính:
Tại thời điểm t+k, phân bố lỗi được tính thông qua ma trận chuyển trạng
thái Tk và được tính như sau:
-17-
Với ∏t là phân bố lỗi tại thời điểm t, ∏0 là xác suất phân bố lỗi tại thời
điểm t=0, ∏0 nhận bất kỳ giá trị nào. Sự phân bố trạng thái ổn định sau đó được
tính bởi công thức:
Trong đó: πG là xác suất phân bố trạng thái tốt
πB là xác suất phân bố trạng thái xấu B
Cùng với ∏t+k với k tùy ý và t đủ lớn. Ma trận xác xuất lỗi E được tính:
Trong đó: P{C|G} là xác suất cho rằng trạng thái Good đúng (Correct)
P{M|G} là xác suất cho rằng trạng thái Good sai (Mistake)
P{C|B} là xác suất cho rằng trạng thái Bad là đúng.
P{M|B} là xác suất cho rằng trạng thái Bad là sai.
Bằng các phép nhân ma trận, các xác suất của các quyết định đúng hoặc
thực hiện một sai lầm được tính như sau:
ET là ma trận chuyển vị của ma trận E. Đây là ma trận tính toán cho hệ
thống có lỗi trong khi mạng đang ở trạng thái “Good”. Mô hình lỗi 2 trạng thái
nổi tiếng được sử dụng để tính năng lực kênh truyền có bùng nổ lỗi.
Một câu hỏi đặt ra là làm thế nào để lấy được ma trận dịch chuyển trạng
thái T và ma trận biểu diễn quá trình chuyển đổi xác suất lỗi E. Hiện nay, có 2
phương pháp để tính toán ma trận này đó là đo đạc trực tiếp ở kênh truyền hoặc
từ kết quả mô phỏng.
Một cách khác để tính toán lỗi sử dụng mô hình Markov 2 trạng thái.
Theo phương pháp này, P(Good), P(Bad) và các xác suất chuyển trạng thái của
thời gian DTMC (Discrete-Time Markov Chain) tG,B và tB,G được tính giả định
-18-
bởi 1 kênh fading giảm dần. Phương pháp tính số trung bình các tín hiệu tốt
trong 1 giây được tính như sau:
ƒm : Tần số tối đa tín hiệu lỗi (maximum Doppler frequency)
ρ : Bán kính đường bao các trạng thái kênh fading (ρ < R)
Thời gian trung bình T để tín hiệu fading dưới ngưỡng R được tính
Với các phương trình trên, P(Good) và P(Bad) được tính như sau:
Xác suất xảy ra chuyển trạng thái sau đó được tính:
Với Rt là tỷ lệ lan truyền trong 1s của các dấu hiệu nhận dạng (là tốt hay
xấu) của hệ thống truyền thông được xét.
Sử dụng các kết quả trên, tỉ lệ lỗi bít (BER) trung bình cuối cùng được
tính thông qua biểu thức sau: [17]
Như vậy, công thức này thường được sử dụng để nghiên cứu lỗi trên
đường truyền không dây khi sử dụng mô hình lỗi Markov 2 trạng thái.
-19-
1.2.2. Cơ chế điều khiển lưu lượng và phản ứng sai lầm của TCP
Khi mạng Internet mới phát triển, việc điều khiển lưu lượng trên mạng
Internet chủ yếu do giao thức TCP đảm nhiệm. Tuy nhiên trong quá trình sử
dụng và phát triển công nghệ, các thiết bị mạng với các chuẩn mới ra đời, các
loại mạng sử dụng công nghệ không dây đã dần dần được ứng dụng trên nhiều
lĩnh vực. Ngoài ra, sự kết nối giữa các loại mạng có dây, không dây tạo nên
mạng hỗn hợp. Giao thức vận chuyển dữ liệu TCP đã được thiết kế và tinh chỉnh
để có thể hoạt động đạt hiệu năng cao nhất trong môi trường mạng có dây, TCP
luôn coi sự mất gói tin là do tắc nghẽn mạng chứ không phải do lỗi đường
truyền. Trong phần mạng không dây, đường truyền có tỉ suất lỗi bit cao và thay
đổi thất thường, thỉnh thoảng bị đứt đoạn do người sử dụng di động chuyển từ tế
bào này sang tế bào khác. Do đó, tỉ lệ gói tin bị mất hoặc bị loại do lỗi đường
truyền là rất cao và thời gian khứ hồi bị thăng giáng rất mạnh. Cơ chế điều
khiển lưu lượng trong giao thức TCP sẽ phản ứng với sự mất gói tin do
đường truyền “xấu” giống như phản ứng với hiện tượng tắc nghẽn; đó là,
giảm lưu lượng đưa vào mạng và rút lui theo hàm mũ, đúng vào lúc lẽ ra phải
cố gắng phát lại các gói tin bị mất càng sớm càng tốt. Phản ứng sai lầm này
làm cho hiệu năng của TCP bị giảm rất trầm trọng [3].
Với đường truyền không dây, các gói tin bị mất chủ yếu do bị lỗi trên
đường truyền, đáng lẽ phía nguồn cần nhanh chóng phát lại khi đường truyền
chuyển sang trạng thái Good để tận dụng tối đa đường truyền thì giao thức TCP
lại chỉ hỗ trợ thuật toán phát nhanh một gói tin rồi giảm kích thước cửa sổ xuống
mức nhỏ nhất bằng 1 gói tin và áp dụng thuật tóan rút lui việc phát lại theo hàm
mũ cơ số 2 nếu xảy ra sự mất liên tiếp các gói tin.
Ngoài ra, trong môi trường mạng hỗn hợp có dây và không dây đã xuất
hiện một số thách thức tác động đến QoS cho các ứng dụng đa phương tiện thời
gian thực như: lỗi bít, độ trễ, biến động trễ (jitter) cao, bất thường trong phần
mạng không dây, sự di chuyển của người dùng thiết bị đầu cuối có thể dẫn đến
gián đoạn kết nối, băng thông kênh truyền thấp v.v.
1.3. Mục đích nghiên cứu của luận văn.
Hiện nay, các nghiên cứu cải tiến TCP/IP sử dụng cho mạng không dây nói
chung và mạng LAN có phần mở rộng không dây thường tập trung vào 2 nhóm
chính đó là chia tách mạng thành hai phần theo đường truyền là có dây hay
không dây (điển hình là Split TCP) và nâng cấp khả năng xử lý của nút mạng
(Router) nằm giữa phần có dây và không dây đồng thời giữ nguyên ngữ nghĩa
-20-
“end-to-end” của TCP (điển hình là Snoop TCP; nội dung này được trình bày kỹ
ở chương 3).
Split TCP cải tiến TCP bằng cách chia kết nối thành 2 phần có dây và
không dây, trên phần có dây sử dụng phiên bản TCP thông thường, trên phần
mạng không dây sử dụng một phiên bản TCP được sửa đổi cho thích hợp với
đặc điểm của đường truyền không dây. Do vậy, phản ứng của TCP đối với sự
mất gói tin trên đường truyền không dây là đúng đắn, đã cách ly hoàn toàn ảnh
hưởng lỗi trên phần mạng không dây lên phần mạng có dây. Tuy nhiên hạn chế
của giải pháp này là không đồng nhất trong “quá trình giao tiếp” làm cho quá
trình biên nhận gói tin có thể xảy ra lỗi, người ta gọi nhược điểm này là làm mất
ngữ nghĩa end-to-end của TCP.
Snoop TCP cải tiến TCP bằng cách tăng dung lượng bộ nhớ đệm tại AP
để AP chứa tạm và sẵn sàng gửi lại các gói tin bị lỗi khi truyền từ AP đến MH.
Khác với Split TCP thì Snoop TCP vẫn xem đường truyền không dây và có dây
là 1 thể thống nhất giữa bên gửi và bên nhận. Khi xảy ra lỗi (ở phần không dây)
thì AP sẽ tự động phát lại gói tin đó đến MH mà không cần bên gửi (ở phần có
dây) phát lại và khởi động cơ chế chống tắc nghẽn. Giải pháp này có hạn chế rất
lớn đó là yêu cầu AP phải có bộ nhớ đệm lớn để chứa các gói tin dự phòng trong
khi chờ các gói tin đó đến được đích. Ngoài ra còn có một nhược điểm lớn nữa
đó là trong khi AP đang phát lại các gói tin hộ thực thể gửi TCP thì thực thể này
đã bị time-out và cũng phát lại gói tin.
Thực tế, để điều khiển lưu lượng hiệu quả, người thiết kế giao thức mạng
phải biết được nguyên nhân và dấu hiệu mạng tắc nghẽn, cũng như dấu hiệu
mạng sắp có tắc nghẽn xảy ra. Một số nguyên nhân dẫn đến tắc nghẽn mạng là:
lưu lượng đến trên nhiều lối vào nhưng ra ở cùng một lối, tình trạng này kéo dài
dẫn đến tắc nghẽn tại lối ra; tốc độ xử lý tại các router chậm; một số đoạn đường
truyền có băng thông thấp hoặc lỗi nhiều. Để nhận biết được tắc nghẽn mạng sắp
xảy ra, bên gửi có thể dựa vào giá trị thời gian khứ hồi - RTT khi nó tăng bất
thường.
Trong luận văn này, tôi muốn tìm hiểu sâu ảnh hưởng của lỗi trên
đường truyền không dây đến các tham số hiệu suất chính của các ứng dụng
sử dụng giao thức giao vận TCP và UDP trên mạng WLAN kết nối với
Internet. Hy vọng công trình nghiên cứu này của tôi sẽ là một đóng góp nhỏ cho
hướng nghiên cứu nêu trên. Để tiến hành các nội dung nghiên cứu đó, ngoài
phần lý thuyết, tôi sử dụng bộ mô phỏng mạng NS-2 để khảo sát.
-21-
CHƯƠNG 2 - MẠNG WLAN VÀ VIỆC KẾT NỐI VỚI INTERNET
2.1. Giao thức MAC của mạng LAN - CSMA/CD
Giao thức CSMA
Khi một trạm có dữ liệu muốn truyền, đầu tiên trạm này phải lắng nghe
kênh truyền xem có trạm nào khác đang truyền hay không. Nếu kênh truyền
đang bận thì trạm này sẽ chờ cho đến khi kênh truyền rảnh, lúc đó trạm sẽ gửi
ngay một frame. Nếu frame vừa gửi bị xung đột thì trạm sẽ chờ một khoảng thời
gian ngẫu nhiên rồi thăm dò lại kênh truyền như ban đầu. Phương pháp truyền
ngay khi kênh truyền rảnh như vậy được gọi là 1-persistent (kiên trì 1), nghĩa là
truyền với xác suất 100% khi kênh truyền rảnh.
Hiệu quả của giao thức này sẽ kém khi có nhiều trạm cùng muốn truyền.
Bởi vì, các trạm muốn truyền sẽ đồng thời lắng nghe kênh truyền khi có một
trạm khác đang truyền. Khi trạm đang truyền vừa truyền xong, các trạm đang
lắng nghe kênh truyền thấy đường truyền rảnh nên đồng thời thực hiện truyền
ngay, vì thế xung đột xảy ra. Với giao thức này, trạm muốn truyền thì phải lắng
nghe đường truyền nên không phá hỏng các gói tin đang được truyền “tốt” trên
kênh truyền.
Start
Busy?
Wait
Send Send
Conflict?
End
p=1
Yes
p<1
1-persistent none-persistent
Yes
No
No
Hình 2.1: Điều khiển truy nhập CSMA
Một đề xuất khác cho giao thức trên, trước khi truyền trạm này thực hiện
lắng nghe, nếu kênh truyền rảnh thì thực hiện truyền ngay. Nhưng nếu kênh
truyền đang bận thì trạm không tiếp tục lắng nghe như giao thức trên mà tạm
-22-
hoãn trong một khoảng thời gian ngẫu nhiên rồi mới quay lại lắng nghe kênh
truyền. Giao thức này được gọi là giao thức CSMA không kiên trì (nonpersistent
CSMA).
Một cải tiến khác, là giao thức CSMA kiên trì p (p-persistent CSMA).
Giao thức này áp dụng cho các kênh truyền được chia khe. Khi một trạm muốn
truyền, trạm sẽ lắng nghe kênh truyền, nếu kênh truyền rảnh trạm sẽ truyền với
xác suất truyền là p. Nếu không được truyền, trạm sẽ đợi cho đến khe tiếp theo.
Đến khe tiếp theo trạm cũng tiếp tục lắng nghe kênh truyền và sẽ truyền với xác
suất p. Nếu frame được truyền lên kênh truyền nhưng bị xung đột thì sẽ phải chờ
một khoảng thời gian ngẫu nhiên rồi bắt đầu lại. Quá trình trên được tiếp tục cho
đến khi frame được truyền thành công.
Giao thức CSMA/CD (CSMA có phát hiện xung đột)
Các giao thức CSMA kiên trì và không kiên trì đã cải tiến đáng kể hiệu
quả sử dụng đường truyền, bởi các giao thức này đảm bảo rằng không có trạm
nào bắt đầu truyền khi trạm khác đang truyền nhờ biết lắng nghe kênh truyền.
Giao thức CSMA/CD được cải tiến từ giao thức CSMA bằng cách thêm vào tính
năng phát hiện xung đột. Khi các trạm cùng cảm nhận kênh truyền rảnh thì đồng
thời bắt đầu truyền nên xung đột xảy ra làm cho dữ liệu thu được ở các trạm bị
sai lệch và toàn bộ các gói tin đó sẽ phải phát lại. Để tránh sự lãng phí đường
truyền này mỗi trạm đều phải có khả năng trong khi đang phát vẫn phát hiện
được sự xung đột dữ liệu vừa xảy ra và ngừng ngay việc phát. Khi phát hiện có
một sự xung đột, lập tức trạm phát sẽ gửi đi một mẫu làm nhiễu (Jamming) đã
định trước để báo cho tất cả các trạm là có sự xung đột xẩy ra và chúng sẽ bỏ
qua gói dữ liệu này. Sau đó trạm phát sẽ trì hoãn một khoảng thời gian ngẫu
nhiên trước khi phát lại dữ liệu. Sau khi phát hiện có mẫu tin làm nhiễu, các
trạm đã nhận biết được có xung đột trong khi đang truyền và lập tức ngừng
truyền ngay chứ không cần truyền hết các frame để hạn chế lãng phí thời gian và
băng thông. Giao thức này đã được sử dụng trong công nghệ mạng Ethernet, là
công nghệ mạng LAN được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Để phát hiện được
xung đột trong khi còn đang phát thì độ dài frame phải đủ lớn -[1].
Ưu điểm của CSMA/CD là đơn giản, mềm dẻo, hiệu quả truyền thông tin
cao khi lưu lượng thông tin của mạng thấp và có tính đột biến. Điểm bất lợi của
CSMA/CD là hiệu suất của mạng sẽ giảm xuống nhanh chóng khi tải đưa vào
mạng tăng lên cao.
-23-
2.2. Giao thức MAC của mạng WLAN - CSMA/CA.
2.2.1. CSMA/CD không thể sử dụng cho mạng WLAN
CSMA/CD tuy là một giao thức truy nhập đường truyền khá hiệu quả
nhưng nó không thể sử dụng được cho mạng WLAN bởi vì các nguyên nhân:
Trạm phát không phát hiện được xung đột khi đang phát bởi vì đặc thù
của thiết bị không dây trong mạng WLAN là bán song công (haft-duplex) nên
khi trạm phát đang truyền, nếu có lỗi thì nó không thể nhận được thông báo (của
trạm phát gói tin bị lỗi) về sự xung đột trên mạng.
Hiện tượng trạm ẩn (Hidden terminal): Mạng không dây có các ranh
giới mờ, đôi khi có những vị trí mà nút mạng tại đó không thể liên lạc trực tiếp
được với các nút khác trong mạng. Trong hình 2.2, trạm B có thể liên lạc với cả
trạm A và C, nhưng trạm A và C không thể liên lạc trực tiếp với nhau (có thể là
do khoảng cách giữa chúng quá xa so với nút B do đó sóng vô tuyền không thể
đến được đích). Như vậy nút A và C là các nút “ẩn” của nhau. Nếu sử dụng một
giao thức CSMA/CD, khi cả A và C đồng thời truyền đến B sẽ xảy ra hiện tượng
xung đột trên nút B mà cả A và C đều không hề hay biết. Ngoài ra trạm vẫn
thuộc vùng phủ sóng của AP nhưng chỉ "nghe" mà không phát tín hiệu gì cũng
được xem là trạm ẩn.
A CB
Hình 2.2: Trạm A và C được xem là "ẩn" đối với nhau
Hiện tượng trạm bị lộ (Exposed terminal): Khi các mạng WLAN sử
dụng nhiều AP, hiện tượng này trở nên phổ biến và giao thức CSMA/CD không
giải quyết được.
A CB D
Hình 2.3: Trạm C bị lộ đối với trạm B
-24-
Khi trạm B đang gửi dữ liệu tới trạm A và trạm C muốn gửi dữ liệu cho
cho trạm D. Theo giao thức CSMA/CD thì C phải đợi tín hiệu CS (Carrier
Sense) để được phép truy nhập đường truyền nhưng trạm A và D không nằm
trong vùng phủ sóng của nhau nên việc C đợi là không cần thiết.
2.2.2. Giao thức CSMA/CA
Bên phát sẽ lắng nghe trên môi trường truyền và khi môi trường truyền rỗi
thì nó sẽ tiến hành gửi dữ liệu ra môi trường truyền, còn không nó sẽ sử dụng
giải thuật Back-Off time để tiếp tục chờ. Thuật toán Back-Off sẽ chọn ngẫu
nhiên (Random Back-Off) một giá trị từ 0 đến giá trị CW (Contention Window).
Theo mặc định, giá trị CW có thể khác nhau tùy nhà sản xuất và nó được lưu trữ
trong card mạng không dây của máy trạm. Giá trị Back-Off tính được bằng cách
lấy một số ngẫu nhiên đã chọn ở trên nhân với Slot Time (Random Back-Off
chính là số lần Slot Time). Back-Off time là khoảng thời gian bất kỳ mà bên
phát phải đợi trước khi có thể giành quyền sử dụng đường truyền nếu phát hiện
đường truyền bận. Do Back-Off time của các máy phát là ngẫu nhiên và khác
nhau nên đã hạn chế tối đa khả năng xảy ra xung đột đường truyền ngay sau khi
đường truyền chuyển sang trạng thái rỗi.
Trường hợp 1 trạm sau khi giành được đường truyền và đã truyền gói tin
đi nhưng gói tin đó không đến đích (trạm gửi chưa nhận được ACK biên nhận),
trạm gửi sẽ cập nhật lại biến đếm Retry của nó, tăng giá trị CW lên gấp đôi và
bắt đầu tiến trình truy nhập đường truyền lại từ đầu. Cứ mỗi lần việc truy nhập
đường truyền bất thành (hoặc thành công nhưng việc truyền tin không đến được
đích như đã nói ở trên), các trạm sẽ tăng giá trị biến đếm Retry. CW tiếp tục
được tăng gấp đôi cho đến khi nó đạt giá trị lớn nhất là CWmax.
CSMA/CA tuy giải quyết triệt để vấn đề xung đột đường truyền nhưng
vẫn chưa giải quyết được vấn đề trạm ẩn. Nếu có 3 trạm A, B, C như hình vẽ
2.2. Khi A gửi cho B đồng thời C không nhận được tín hiệu "báo bận" trên môi
trường truyền, nếu C cũng gửi cho B thì xảy ra sẽ xảy ra xung đột.
CSMA/CA cũng chưa giải quyết được vấn đề trạm bị lộ vì không có có cơ
chế phát hiện và xử lý.
-25-
2.2.3. Giao thức CSMA/CA + ACK
Giao thức CSMA/CA có sử dụng ACK đã cải tiến CSMA/CA bằng cách
thêm thông báo biên nhận ACK. Tiến trình của giao thức này như sau (hình 2.4)
- Bước 1: Phía nhận sẽ gửi ACK ngay sau khi nhận được khung tin mà
không cần thăm dò đường truyền. Khung ACK được truyền sau khoảng thời
gian SIFS (Short Inter-Frame Space) (SIFS < DIFS) (xem thêm ở phần 2.3)
- Bước 2: Nếu ACK bị mất, việc truyền lại sẽ được tiến hành.
Hình 2.4: Lược đồ giao thức CSMA/CA có ACK
Cơ chế báo nhận ACK được thêm vào giao thức CSMA/CA sẽ đảm bảo
cho gói tin đến đích mà không có lỗi. Các trạm muốn phát đều phải nghe đường
truyền để phát gói tin vào các khe thời gian không giao nhau nên không thể xảy
ra xung đột. Ví dụ ở hình 2.2, nếu sử dụng CSMA/CD, trạm A và C có thể đồng
thời truyền tin đến trạm B gây xung đột nhưng với CSMA/CA có sử dụng ACK,
từng kênh truyền được hoạt động trên những khe thời gian riêng lẻ (sau những
thời gian chờ nhất đinh) nên đã giải quyết triệt để vấn đề trạm ẩn (Hidden
terminal). Tuy nhiên vấn đề Exposed terminal thì giao thức CSMA/CA + ACK
vẫn chưa giải quyết được. Ví dụ ở hình 2.3, giả sử trạm B đang truyền dữ liệu
cho trạm A, trạm C muốn truyền dữ liệu cho trạm D nên phải lắng nghe đường
truyền rỗi bằng cách chờ đợi các khoảng thời gian SIFS (trong trường hợp A, B
gửi ACK) hoặc DIFS (trong trường hợp trạm A hoặc B gửi gói tin dữ liệu), thời
gian chờ này là không cần thiết vì C có thể gửi cho D bất kỳ lúc nào (sau các
-26-
nhịp thời gian SIFS hoặc DIFS) mà không sợ bị xung đột. Hơn nữa, tuy B và C
nằm trong 1 cell (cùng kênh truyền) nhưng C và D lại khác kênh nên sự lãng phí
thời gian chờ đợi (độ trễ) càng trở nên trầm trọng.
2.2.4. Giao thức CSMA/CA + ACK + RTS/CTS
Giao thức CSMA/CA có sử dụng bản tin biên nhận (ACK) và xác lập
đường truyền (bằng các bản tin điều khiển RTS/CTS để "giữ chỗ") đã khắc phục
hoàn toàn các nhược điểm của giao thức trước đó. Tiến trình của giao thức này
được mô tả ở hình 2.5.
Hình 2.5: CSMA/CA sử dụng RTS/CTS và ACK
- Phía gửi sẽ gửi bản tin RTS sau khi đường truyền rỗi sau khoảng thời
gian lớn hơn hoặc bằng DIFS.
- Phía nhận trả lời bằng bản tin CTS sau khi đường truyền rỗi một khoảng
thời gian SIFS.
- Sau đó dữ liệu được truyền.
- Bên nhận sẽ gửi bản tin ACK sau khoảng thời gian SIFS.
Với giao thức này, RTS/CTS được sử dụng cho việc "giữ chỗ" đường
truyền vì vậy xung đột chỉ xảy ra với các bản tin điều khiển thường là bản tin
RTS. Một tình huống xung đột bản tin RTS được mô tả ở hình 2.6. Giả sử trạm
A và B đều muốn truyền dữ liệu đến AP, sau khoảng thời gian chờ đợi đường
truyền rỗi, trạm B gửi bản tin RTS để "giữ chỗ", sau đó trạm A cũng gửi RTS để
"giữ chỗ". Tuy A, B phát 2 thời điểm khác nhau nhưng do trễ lan truyền nên có
thể "va chạm" với nhau trên đường đi, xung đột xảy ra (reservation collision).
-27-
Khoảng thời gian xảy ra xung đột này rất nhỏ (có thể chấp nhận được), trong
trường hợp này, trạm A phải gửi lại RTS để tiếp tục "giữ chỗ" và truyền tin con
trạm B phải đợi đến phiên làm việc tiếp theo.
Hình 2.6: Mô hình RTS/CTS
Như vậy giao thức CSMA/CA + ACK + RTS/CTS là phương thức truyền
tin thông qua việc bắt tay 4 bước truyền RTS/CTS – DATA – ACK. Tuy vẫn có
thời gian “rỗi” (thực chất là trễ lan truyền) trong quá trình bắt tay nhưng về cơ
bản giao thức này đã giải quyết được vấn đề xung đột dữ liệu trên đường truyền
(do trước khi truyền bên gửi đã gửi tín hiệu RTS và bên nhận đã phản hồi tín
hiệu CTS thì mạng hoàn toàn không thể có xung đột). Vấn đề Hidden terminal
và Exposed terminal cũng đã được giải quyết.
2.3. Chức năng DCF, PCF
2.3.1. Chức năng cộng tác phân tán - DCF
DCF là một phương pháp truy cập được chỉ rõ trong chuẩn 802.11 cho
phép tất cả các client trong WLAN đấu tranh đề giành quyền truy cập đường
truyền dùng chung là sóng vô tuyến RF (Radio Frequency) sử dụng giao thức
CSMA/CA. Trong trường hợp này, môi trường truyền là một phần của băng tần
sóng vô tuyến mà WLAN sử dụng để truyền dữ liệu. Các mô hình WLAN (sẽ
-28-
nói kỹ ở phần 2.4.2) đều có thể sử dụng chế độ DCF. AP trong trường hợp này
hoạt động tương tự như HUB trong môi trường Ethernet để truyền dữ liệu của
chúng (DCF là chế độ trong đó AP gửi dữ liệu).
Tiến trình hoạt động của WLAN trong DCF mô tả như sau:
Bước 1: Các trạm đợi cho đến khi DIFS kết thúc
Bước 2: Ngay sau khi DIFS kết thúc, các trạm tính toán thời gian Random
Back-Off dựa trên một số ngẫu nhiên nhân với Slot Time đồng thời đếm lùi
(từng Slot Time) khoảng thời gian Random Back-Off của chúng và kiểm tra
đường truyền sau mỗi Slot Time.
Bước 3: Khi đường truyền rỗi, trạm nào có khoảng thời gian Random
Back-Off ngắn nhất sẽ giành được đường truyền trước tiên, trạm đó sẽ bắt đầu
gửi dữ liệu.
Bước 4: Trạm nhận nhận được dữ liệu và đợi 1 khoảng SIFS trước khi
đáp lại frame ACK cho trạm truyền.
Bước 5: Trạm truyền nhận được ACK và tiến trình bắt đầu lại từ đầu với
một DIFS mới.
Kỹ thuật DCF thực hiện việc truyền dữ liệu bằng giao thức CSMA/CA có
sử dụng bản tin ACK trả lời từ phía nhận nên sẽ tránh được xung đột dữ liệu và
giải quyết được vấn đề trạm ẩn nhưng chưa giải quyết được vấn đề trạm lộ (như
đã nói ở mục 2.2.3). Ngoài ra, phương thức truy nhập đường truyền DCF sẽ tồn
tại một khe thời gian giữa 2 khung truyền liên tiếp gây trễ tuy rất nhỏ nhưng vẫn
gây ra sự lãng phí đường truyền.
2.3.2. Chức năng cộng tác tập trung - PCF
PCF là chế độ truyền cho phép các frames trên WLAN được truyền không
xảy ra đụng độ (không cần phải đấu tranh giành lấy quyền truy cập như ở trong
chế độ DCF) bằng cách sử dụng cơ chế hỏi vòng. Điểm thuận lợi của PCF là nó
bảo đảm một độ trễ xác định trước, vì thế các ứng dụng đòi hỏi chất lượng dịch
vụ như âm thanh, hình ảnh … có thể sử dụng ở chế độ này. Khi sử dụng PCF,
AP thực hiện việc hỏi vòng (polling). Vì lý do này mà mạng Ad-hoc không thể
sử dụng chế độ PCF, bởi vì mạng Ad-hoc không có AP để thực hiện việc hỏi
vòng.
-29-
Tiến trình PCF được thực hiện như sau:
Bước 1: Các trạm phải thông báo với AP là nó có khả năng trả lời trong
quá trình hỏi vòng.
Bước 2: AP sẽ hỏi lần lượt từng trạm xem chúng có dữ liệu cần truyền
hay không. PCF sẽ phát sinh một lượng “chi phí” (overhead) khá lớn cho việc
hỏi vòng này.
Bước 3: AP xác định và thông báo cho trạm đó sẽ được truyền.
DCF có thể sử dụng mà không cần PCF nhưng PCF không thể sử dụng
nếu thiếu DCF. Chúng ta sẽ giải thích việc 2 chế độ này cùng tồn tại như thế nào
trong phần sau. DCF có thể mở rộng được vì nó được thiết kế dựa trên việc đấu
tranh, trong khi PCF giới hạn khả năng mở rộng bởi vì nó phát sinh nhiều chi
phí cho các frames bầu chọn.
2.3.3. Các giá trị SIFS, DIFS, PIFS
Để tìm hiểu các giá trị SIFS, DIFS, PIFS thì việc đầu tiên là phải tìm hiểu
IFS (Interframe Spacing). Các trạm trong WLAN đều được đồng bộ với nhau về
thời gian (sử dụng gói tin beacon). IFS là một thuật ngữ dùng để đề cập đến việc
chuẩn hóa các khoảng thời gian được sử dụng trong WLAN.
Có bốn loại IFS là: SIFS, PIFS, DIFS, EIFS nhưng trong WLAN thường
chỉ sử dụng 3 loại IFS chính: SIFS, PIFS và DIFS. Mỗi kiểu được các trạm sử
dụng để gửi các kiểu messages nào đó trên mạng hay quản lý các khoảng thời
gian trong việc điều khiển các trạm đấu tranh giành quyền truy cập.
Bảng Quy ước thời gian IFS ứng với các phương thức truyền tin
Đơn vị: μS (microSeconds)
Loại IFS Trải phổ chuỗi
trực tiếp (DSSS)
Trải phổ nhảy tần
(FHSS)
Hồng ngoại
(Infrared)
SIFS 10 28 7
PIFS 30 78 15
DIFS 50 128 23
-30-
Các giá trị IFS được sử dụng để trì hoãn việc truy cập đường truyền của
một trạm nào đó hay được dùng để cung cấp các mức ưu tiên khác nhau. Trong
một mạng không dây, các thiết bị đều được đồng bộ, các trạm và AP sử dụng
các khoảng cách thời gian chuẩn để thực hiện các tác vụ khác nhau. Các trạm
đều biết các khoảng thời gian này và sử dụng chúng một cách thích hợp. Một tập
các khoảng thời gian chuẩn được định nghĩa cho FHSS, DSSS và Infrared (hồng
ngoại). Bằng cách sử dụng các khoảng thời gian này, mỗi trạm đều biết khi nào
và liệu chúng có được phép thực hiện một hành động nào đó trên mạng hay
không.
- SIFS: Là IFS cố định và ngắn nhất. SIFS là khoảng thời gian trước và
sau khi các loại messages sau được gửi đi (đây không phải là danh sách đầy đủ):
RTS: Được các trạm gửi để yêu cầu giành quyền sử dụng đường truyền.
CTS: Được sử dụng bởi trạm nhận để hồi đáp lại RTS frame của máy
trạm, điều này đảm bảo tất cả các trạm khác tạm dừng việc truyền của mình lại
để nhường cho trạm đã gửi RTS.
ACK: Được sử dụng để thông báo cho trạm gửi gửi rằng dữ liệu đã được
nhận đầy đủ ở dạng đọc được.
SIFS cung cấp mức ưu tiên cao nhất trên một mạng WLAN. Lý do SIFS
có mức ưu tiên cao nhất là các trạm thường xuyên lắng nghe đường truyền
(carrier senses) đợi cho đường truyền rỗi. Một khi đường truyền đã rỗi, mỗi
trạm phải đợi một khoảng thời gian trước khi thực hiện việc truyền. Khoảng thời
gian một trạm phải đợi được xác định bởi việc mà trạm đó muốn thực hiện. Mỗi
việc trên mạng không dây đều được xếp vào một loại IFS nào đó. Các tác vụ có
độ ưu tiên cao rơi vào SIFS. Nếu một trạm chỉ phải đợi một khoảng thời gian
ngắn sau khi đường truyền rỗi để thực hiện việc truyền thì nó sẽ có độ ưu tiên
cao hơn các trạm phải đợi một khoảng thời gian dài hơn. SIFS được sử dụng cho
các công việc đòi hỏi một khoảng thời gian rất ngắn có nghĩa là cần độ ưu tiên
cao để hoàn thành công việc.
PIFS là interframe cố định nhưng không phải là ngắn nhất hay dài nhất,
vì thế, nó có độ ưu tiên cao hơn DIFS nhưng thấp hơn SIFS. AP sử dụng PIFS
chỉ khi mạng đang ở trong chế độ PCF (Point Co-ordination Function). PIFS có
khoảng thời gian ngắn hơn DIFS và dài hơn SIFS, vì thế, AP sẽ luôn luôn chiếm
quyền điều khiển đường truyền trước khi các trạm bắt đầu đấu tranh giành
quyền truy cập trong chế độ DCF. PCF chỉ làm việc với DCF, nó không phải là
-31-
một chế độ hoạt động độc lập, vì thế, một khi AP kết thúc việc bầu chọn, các
trạm khác có thể tiếp tục đấu tranh giành quyền truy cập đường truyền trong chế
độ DCF.
DIFS là interframe cố định và dài nhất, nó được sử dụng mặc định ở các
trạm (tương thích với chuẩn 802.11) đang ở trong chế độ DCF. Mỗi trạm trên
mạng sử dụng chế độ DCF đều phải đợi cho đến khi DIFS trôi qua trước khi có
thể truyền dữ liệu. Tất cả các trạm hoạt động dựa trên chế độ DCF sử dụng DIFS
để truyền các frame dữ liệu hoặc frame điều khiển. Khoảng thời gian DIFS này
làm cho việc truyền các frame sẽ có độ ưu tiên thấp hơn các frame trong chế độ
PCF. Thay vì tất cả các trạm đều cho rằng đường truyền đang rỗi và tùy ý bắt
đầu việc truyền frame đồng thời ngay sau khi khoảng thời gian DIFS vừa kết
thúc (điều này sẽ gây nên xung đột), mỗi trạm đều sử dụng 1 thuật toán gọi là
Random Back-Off để xác định phải đợi thêm bao lâu trước khi bắt đầu việc
truyền dữ liệu của nó.
2.4. Kết nối WLAN với Internet
2.4.1. Chức năng của AP
AP là thiết bị phổ biến nhất trong WLAN, AP cung cấp cho các MH một
điểm truy cập vào mạng. AP là là thiết bị trung gian cho phép trao đổi dữ liệu
giữa MH và AP thông qua môi trường không khí (môi trường sóng vô
tuyến) để truy cập vào mạng có dây bình thường; sau khi kết nối thì có thể
xem MH là thành viên của một mạng LAN dùng dây. AP là một thiết bị bán
song công (half-duplex) có mức độ thông minh tương đương với một bộ chuyển
mạch Ethernet phức tạp.
AP có thể liên kết với các MH, với một mạng LAN sử dụng cable
Ethernet hoặc với những AP khác. Chức năng của AP thể hiện qua các chế độ
làm việc như sau:
Root mode (chế độ gốc) sử dụng khi AP được kết nối với mạng backbone
có dây (thường là cổng Ethernet). Khi một AP được kết nối với phân đoạn có
dây thông qua cổng Ethernet của nó, nó sẽ được cấu hình để hoạt động trong
root mode (là chế độ mặc định của mọi AP). Ở chế độ này, các AP được kết nối
với phần có dây và có thể "nói chuyện" được với các MH khác hoặc nút mạng
khác của phần có dây. Các MH không dây có thể giao tiếp với các MH không
dây khác nằm trong cell khác nhau thông qua AP tương ứng mà chúng kết nối
vào, sau đó các AP này sẽ giao tiếp với nhau thông qua kết nối có dây.
-32-
Hình 2.7: Mô hình Root mode
Bridge mode
Trong chế độ bridge
Mode (cầu nối), AP hoạt
động hoàn toàn giống với
một cầu nối nhưng liên kết
giữa các AP này bằng
đường truyền không dây.
Hình 2.8: Mô hình chế độ Bridge Mode
Repeater mode (chế độ lặp): Ở chế độ này, AP có khả năng cung cấp một
đường kết nối không dây upstream vào mạng có dây thay vì một kết nối có dây
bình thường. Trong hình 2.9, AP1 kết nối với các MH như một AP Root mode
và AP2 hoạt động như một Repeater không dây. Có thể xem AP1 kết nối với
AP2 như là một MH.
Hình 2.9: Mô hình AP ở chế độ Repeater mode
-33-
AP sử dụng PCF để thực hiện hỏi vòng trong việc chọn MH được truy
cập đường truyền. PCF làm việc tương tự như cơ chế truy cập đường truyền của
mạng Tokenring. Theo cơ chế này, bộ điều khiển trung tâm - PC (Point
Controller) tích hợp trong AP làm nhiệm vụ hỏi lần lượt các trạm theo 1 lịch
định trước để thăm dò yêu cầu truyền, chỉ có trạm nào được AP hỏi thì mới được
phép truyền. Cơ chế này thích hợp cho các ứng dụng đòi hỏi tính thời gian thực
cao bởi vì nó sẽ làm cho các trạm khi tham gia vào mạng chúng đều có cơ hội sử
dụng môi trường truyền như nhau.
2.4.2. Các mô hình kết nối
Mạng WLAN dựa trên các chuẩn của 802.11 nên việc kết nối rất linh
hoạt. Hiện nay, có 3 mô hình kết nối mạng chủ yếu sau:
Mô hình mạng độc lập hay còn gọi là mạng Ad-hoc
Hình 2.10: Mô hình mạng Ad-hoc
MH (có hỗ trợ card mạng không dây) tập trung lại trong một không gian
nhỏ để hình thành nên kết nối ngang cấp (peer-to-peer) giữa chúng. Có nghĩa là
nếu các MH có card mạng wireless thì chúng có thể trao đổi thông tin với nhau
một cách trực tiếp hoặc thông qua một số nút trung gian đóng vai trò như các
router, không cần phải qua 1 thiết bị xử lý trung tâm nào. Vì mô hình mạng Ad-
hoc này có thể thực hiện nhanh và dễ dàng nên rất thích hợp để sử dụng trong
các ứng dụng nhỏ như hội nghị, các nhóm làm việc tạm thời. Tuy nhiên chúng
có hạn chế về vùng phủ sóng và phải sử dụng các thuật toán routing khá phức
tạp.
Mô hình mạng cơ sở (BSSs)
Mô hình này bao gồm điểm truy nhập (AP) gắn với mạng có dây và giao
tiếp với các MH trong vùng phủ sóng của AP đó (gọi là cell). AP đóng vai trò
-34-
điều khiển cell và điều khiển lưu lượng vào mạng. Các MH không giao tiếp trực
tiếp với nhau mà phải thông qua AP.
Hình 2.11: Mô hình mạng cơ sở
Các cell có thể chồng lấn lên nhau khoảng 10-15 % để cho phép các MH
ó thể
mạng mở rộng (ESSs)
c di chuyển từ cell này qua cell khác mà không bị mất kết nối vô tuyến. Các
MH sẽ phải chọn AP tốt nhất để kết nối. AP có thể điều khiển và phân phối truy
nhập đường truyền cho các MH có tranh chấp lúc truyền/nhận dữ liệu phù hợp
với đường truyền có dây từ AP ra bên ngoài, ấn định các địa chỉ và các mức ưu
tiên, giám sát lưu lượng mạng, quản lý các gói và duy trì theo dõi cấu hình
mạng. Tuy nhiên mô hình đa truy nhập tập trung này không cho phép các MH
truyền dữ liệu trực tiếp tới nút khác trong cell như trong cấu hình mạng WLAN
độc lập. Trong trường hợp này, mỗi gói sẽ phải được phát đi 2 lần (từ MH đến
AP và từ AP đến đích), quá trình này sẽ làm giảm hiệu quả truyền dẫn và tăng
trễ truyền dẫn.
Mô hình
Hình 2.12: Mô hình mạng mở rộng
-35-
Mô hình này cho phép MH mở rộng phạm vi di động từ 1 BSSs này sang
BSSs khác trong cùng ESSs. Một ESSs là một tập hợp các BSSs, nơi mà các AP
giao tiếp với nhau để có thể chuyển dữ liệu và lưu lượng của MH từ một BSSs
này đến một BSSs khác nhằm làm cho việc di chuyển của các MH trong các cell
của các AP được dễ dàng. AP thực hiện việc giao tiếp thông qua hệ thống phân
phối được cấu hình trong mỗi AP. Hệ thống phân phối này sẽ gửi toàn bộ thông
tin của MH cần di chuyển đến AP đích (trong ESSs đó) hoặc thông qua một
mạng có dây để tới đích không nằm trong ESSs.
2.4.3. AP và kênh truyền sóng
Trên các AP có 11 kênh thuộc dải tần 2,4GHz (được sử dụng bởi các
thiết bị chuẩn 802.11b, 802.11g và 802.11n), được minh họa trên hình 2.13.
Hình 2.13: Mô tả các tần số 2.4GHz cho các kênh 802.11b/g
Về nguyên tắc thì lúc sử dụng có thể chọn bất cứ kênh nào trong số những
kênh trên, tuy nhiên trong thực tiễn, người sử dụng chỉ nên sử dụng các kênh 1,
6 hoặc 11. Lý do cho sự hạn chế này là sự chồng lấn giữa các kênh. 802.11b và
802.11g sử dụng 11 kênh trong băng tần 2.4GHz, mỗi một kênh được phân chia
cách nhau 5MHz. Do độ rộng của mỗi một kênh thường ở 22MHz đối với
802.11b và 20MHz đối với 802.11g, nên cả 802.11b và 802.11g đều có ba kênh
không bị chồng lấn đó là 1, 6 và 11.
Nếu tất cả năng lượng tín hiệu phát đi được chứa bên trong băng tần
20MHz (hoặc 22MHz), thì khái niệm về hiện tượng không chồng kênh sẽ đơn
giản hơn. Tuy nhiên sự thực lại phức tạp hơn do phổ tín hiệu có tính mờ.
Hình 2.14: Minh họa phổ tín hiệu 802.11b
-36-
Giả sử có 2 AP có vùng phủ sóng giao nhau và chúng sử dụng 2 kênh liên
tiếp nhau (ví dụ kênh 1 và 2) theo chuẩn 802.11b. Do 2 kênh truyền này có tần
số cách nhau 5MHz nên nếu chúng được xếp bên cạnh nhau thì sẽ xuất hiện sự
chồng lấn gây nhiễu lẫn nhau. (Hình 2.15)
Hình 2.15: Chồng lấn kênh liền kề 802.11b
Nhưng với cùng tham số như ở hình 2.15 nhưng được phát trên các kênh
1, 6, 11 thì sẽ hiệu quả hơn vì hầu như không có chồng lấn (hình 2.16)
Hình 2.16: Không xảy ra hiện tượng chồng lấn kênh 802.11b
Hình này có cùng tham số đo như trong hình 4 nhưng các tín hiệu trong
các kênh không bị chồng lấn 1, 6 và 11. Tuy nhiên, do công suất từ mỗi tín hiệu
không ngắt hẳn tại đường biên 22MHz của kênh nên vẫn có sự chồng lấn giữa
các kênh. Trong trường hợp này, vùng chồng lấn giữa kênh 6 và 11 có công suất
thấp hơn khoảng 1000 lần so với công suất đỉnh của kênh 11 nên hầu như không
có khả năng gây nhiễu đến mức làm sai lệch tín hiệu.
Các kênh 1, 6 và 11 được coi như các kênh không chồng lấn (non-
overlapping) vì số lượng công suất bị chồng lấn nhỏ nên không ảnh hưởng đến
hoạt động của các kênh còn lại (trong 3 kênh 1, 6, 11). Các mạng WLAN hiện
nay sử dụng 1 trong 3 kênh là 1, 6 hoặc 11.[23]
-37-
2.4.4. Vấn đề nút mạng di động.
Đối với mạng WLAN, tính di động của các trạm là một trong những ưu
điểm vượt trội so với các loại mạng có dây khác. Việc nút mạng vừa trao đổi dữ
liệu vừa di chuyển (tạm gọi là Mobi Host - MH) trong 1 hay nhiều vùng phủ của
1 hay nhiều AP là điều rất tự nhiên. Khi MH di chuyển trong vùng phủ sóng đó,
các cơ chế tương tác giữa AP và MH được đặt ra để đảm bảo chất lượng dịch
vụ. Trong phần này, tôi sẽ phân tích một số vấn đề chính như: sự di động của
nút mạng trong vùng phủ sóng của một AP, chuyển vùng của nút mạng
(roaming) và ảnh hưởng của việc di chuyển đến hiệu suất truyền thông trong
mạng WLAN.
2.4.4.1. Nút mạng di động trong vùng phủ sóng của một AP
Một AP có thể cung cấp kết nối WLAN đến các MH chỉ trong tầm vực phát
sóng của nó. Phạm vi tín hiệu có thể được định nghĩa một cách tương đối bởi
loại ăng ten đang được dùng cho AP. Trong môi trường không khí và lý tưởng,
phạm vi này là một hình cầu bao bọc xung quanh một ăng ten đẳng hướng,
phạm vi phủ sóng là ba chiều, trên mặt phẳng phạm vi phủ sóng là một vòng
tròn có tâm là vị trí của AP.
Hình 2.17: MH sẽ mất kết nối với AP khi cường độ tín hiệu thấp
Trong mạng WLAN, AP thường được đặt cố định và được tính toán kỹ
lưỡng sao cho phạm vi phủ sóng đạt được mức tốt nhất. Tuy nhiên, hoạt động
thật sự của WLAN sẽ luôn trong tình trạng thay đổi do các MH không dây có
thể thay đổi vị trí thường xuyên.
-38-
Vấn đề di chuyển của các MH làm cho khả năng phủ sóng của AP để đáp
ứng cho MH có thể trở nên khó khăn hơn dự kiến. Các MH di chuyển vòng
quanh và phía sau những vật cản như trong một phòng, phía sau tường, cửa…
những vật cản bằng vật chất thật này gây ảnh hưởng lên hoạt động truyền tín
hiện sóng điện từ của AP và MH.
Phạm vi phủ sóng của một AP được gọi là một cell. Các MH trong một cell
có thể kết hợp với AP để trao đổi với MH khác hoặc truy cập mạng bên ngoài.
Giả sử một AP có bán kính phủ sóng là R (nếu xét trong mặt phẳng chứa MH)
thì MH có thể di chuyển thoải mái bên trong phạm vi (cell) đó và truy cập mạng
không dây qua AP từ bất kỳ vị trí nào, trường hợp lý tưởng nếu MH càng gần
AP cường độ tín hiệu càng mạnh đồng nghĩa với hiệu suất truyền thông giữa AP
và MH là tốt nhất. Khi MH di chuyển đến những vị trí biên (là những vị trí
cường độ tín hiệu bằng ngưỡng) thì MH vẫn còn có thể kết nối được với AP
(như vị trí A, B) còn những điểm mà tại đó cường độ tín hiệu thấp hơn ngưỡng
chấp nhận được (vị trí C) thì MH đó sẽ bị mất liên lạc với AP (Hình 2.17)
2.4.4.2. Nút mạng di động trong nhiều vùng phủ sóng khác nhau.
Một trong các yếu tố gây ảnh hưởng đến hiệu năng của mạng WLAN
đó là cường độ tín hiệu tỉ lệ nghịch với khoảng cách từ MH đến AP. Điều
này có nghĩa là, trong phạm vi rộng, một AP khó có thể đáp ứng được chất
lượng dịch vụ cho MH khi nó ở các vị trí tiệm cận với ngưỡng tín hiệu
chấp nhận được, đặc biệt trong các không gian có nhiều vật cản. Để giải
quyết vấn đề này cần mở rộng phạm vi phủ sóng của WLAN bằng cách thêm
các AP. Thông thường, các AP được đặt sao cho các cell bao phủ mọi không
gian (theo yêu cầu) để MH có thế kết nối được với mạng ở mọi vị trí bất kỳ
trong không gian đó. Tuy nhiên, giải pháp này nảy sinh vấn đề chồng lấn vùng
phủ sóng của các AP. (hình 2.18)
Hình 2.18: Phạm vi phủ sóng của các AP chồng lên nhau.
-39-
Như đã phân tích ở mục 2.4.3, trên các AP chuẩn 802.11 được hỗ trợ 11
kênh. Khi 2 AP liền kề nhau (vùng phủ sóng giao nhau) sử dụng cùng kênh
truyền, tín hiệu của AP này sẽ bị nhiễu bởi tín hiệu của AP còn lại và nhiễu này
sẽ đạt cực đại tại vùng giao của 2 vùng phủ sóng của 2 AP. (Hình 2.19)
Hình 2.19: Nhiễu do sử dụng cùng kênh truyền
SW
Hình 2.20: MH di chuyển từ AP1 sang AP2 khác kênh truyền
-40-
Khi 2 AP liền kề sử dụng 2 kênh truyền có dải tần không giao nhau, tại
vùng phủ sóng giao nhau, tín hiệu của 2 AP này không gây nhiễu cho nhau và
việc thực hiện chuyển vùng sẽ thuận lợi hơn. (Hình 2.20)
Khi một MH đã kết nối đến một AP, nó có thể tự do di chuyển xung quanh
không gian AP đó kiểm soát. Nếu MH di chuyển từ một cell của AP này sang
một cell của AP khác (không cùng kênh truyền), việc chuyển vùng (roaming) sẽ
diễn ra.
Với MH, khi di chuyển thường có 2 chế độ quét để tìm AP. Quét chủ động
(Active scanning) và quét thụ động (Passive scanning). Quét chủ động là MH
quét những kênh khác nhau và gửi yêu cầu thăm dò (probe request) để "chất
vấn" các AP mà nó tìm được (available AP). Quét bị động thì MH chỉ lắng nghe
tín hiệu từ các AP mà nó dò được.
Hình 2.20 minh họa MH sẽ được chuyển vùng khi di chuyển từ cell này
sang cell không cùng kênh truyền, MH muốn di chuyển từ A đến C và được
chuyển vùng. Tại điểm A, MH kết nối với AP1 mà không có bất kỳ tín hiệu nào
được gửi đến AP2 (vì AP1 và AP2 khác kênh nhau). MH di chuyển đến điểm B,
tại đây tín hiệu của AP1 bị suy giảm, MH bắt đầu tiến hành quét chủ động để dò
tìm AP khác có tín hiệu tốt hơn và tìm thấy AP2. Sau khi thỏa thuận xong với
AP2, MH gửi thông điệp "disassociation" với AP1 để kết nối với AP2. Tại điểm
C, MH hoàn toàn "giao tiếp" với AP2.
Hiện nay thuật toán chuyển vùng không được định nghĩa trong 802.11, nên
nhà sản xuất tùy ý cài đặt, do vậy có thể nó trở thành bí mật kinh doanh của các
nhà sản xuất vì tùy thuật toán mà tính ưu việt của việc chuyển vùng sẽ khác
nhau.
Tuy nhiên, chuyển vùng của MH giữa 2 AP thường có những bước chính
nhất định. Giả sử một MH cần chuyển vùng từ AP1 sang AP2 có kênh truyền
khác của AP1, tiến trình chuyển vùng được thực hiện trên lớp 2 của mô hình
TCP/IP. Các bước chuyển vùng được thực hiện như sau:
Bước 1: AP1 phải xác định rằng MH đã đi ra khỏi vùng phủ sóng của nó.
Bước 2: AP1 sẽ lưu lại tất cả những dữ liệu gửi đến MH đang muốn chuyển
vùng (không bắt buộc vì nó không được định nghĩa trong 802.11).
Bước 3: AP2 sẽ thông báo cho AP1 rằng MH đã chuyển vùng thành công
(tức là MH đã nằm trong vùng phủ sóng và kết nối với AP2). Bước này thường
xảy ra thông qua 1 gói tin unicast hoặc multicast từ AP2 gửi tới AP1 trong đó
-41-
địa chỉ MAC nguồn là của MH (không bắt buộc vì nó không được định nghĩa
trong 802.11).
Bước 4: AP1 sẽ gửi các dữ liệu đã lưu cho MH đó đến AP2 thông qua các
chuyển mạch SW (AP1 sẽ gửi dữ liệu cho SW, SW sẽ forward cho AP2)
Bước 5: AP1 phải xác định 1 lần nữa rằng MH đã rời khỏi nó rồi xóa dữ
liệu của MH đang lưu trong buffer của AP1.
Bước 6: AP2 sẽ cập nhập bảng địa chỉ MAC trên các bộ chuyển mạch trung
gian để ngăn ngừa việc mất dữ liệu (do AP1 không còn lưu dữ liệu nữa). Sau
bước này, AP2 sẽ điều khiển để đảm bảo việc trao đổi dữ liệu của MH.
Như vậy, khi MH di chuyển, có thể nó đi qua vùng phủ sóng của 1 vài AP
nhưng cuối cùng MH sẽ chọn 1 AP thích hợp nhất; tại một thời điểm, bất kỳ MH
nào khi thực hiện kết nối thì chỉ thông qua một AP, điều này cũng giảm thiểu
khả năng mất dữ liệu đang gửi hoặc đang nhận khi quá trình roaming diễn ra.
Trong thực tế, khi một AP được cấu hình để bao phủ một vùng rộng lớn, nó
cũng tiềm tàng một khả năng là có quá nhiều MH kết nối vào. Do trong một cell,
môi trường dùng chung được chia sẻ cho tất cả các MH trong vùng phủ sóng
theo chế độ bán song công (half duplex) nên khi số lượng MH kết nối vào AP
tăng lên, tổng số băng thông và thời gian cho mỗi máy sẽ giảm xuống. Để khắc
phục vấn đề này, cần điều chỉnh công suất phát sao cho phù hợp giữa số lượng
MH cần kết nối và băng thông của WLAN. Với những ứng dụng cần đáp ứng
trong thời gian thực như Voice, Video vấn đề băng thông rất quan trọng, đòi hỏi
sự cân đối giữa công suất phát và kích thước cell để hiệu suất của hệ thống đạt
kết quả cao nhất.
2.4.4.3. Nút mạng di động và hiệu suất truyền thông
Sự di chuyển của MH trong cell gây nên một số thách thức trong việc đảm
bảo QoS. Các yếu tố cần được xem xét đó là:
Công suất tín hiệu của phía nhận bị biến đổi theo vị trí và thời gian do
các hiệu ứng bóng, che khuất và pha đinh nhiều đường, sự thay đổi bất thường
ngẫu nhiên của các luồng không dây dẫn đến tỷ lệ lỗi bit cao. Những đặc điểm
này gây nhiều khó khăn trong việc đảm bảo độ tin cậy của kết nối cũng như cho
dự báo tốc độ dữ liệu, trễ và mất gói tin để hệ thống có những động thái kịp thời
thích ứng nhằm khắc phục lỗi.
Vấn đề quản lý vị trí MH và định tuyến nhằm đảm bảo tính liên tục của
kết nối truyền thông. Đa số phần mạng không dây được tổ chức theo cấu trúc tổ
-42-
ong. Sự di chuyển của MH từ ô này sang ô khác được gọi là chuyển giao
(handover, handoff). Khi người dùng chuyển vào một ô mới, mạng không dây
cần một thời gian cho công việc quản trị (xác thực, tính thời gian) và tính toán
lại cho tuyến mới nên không tránh khỏi xảy ra trễ. Ngoài ra, trong khi chuyển
giao, việc trao đổi tín hiệu có thể bị gián đoạn trong khoảng thời gian ngắn và
một số gói có thể bị mất. Các ứng dụng chất lượng cao hơn phải có khả năng
thích ứng với trễ này và cần các cơ chế để giảm ảnh hưởng của chuyển giao.
MH di chuyển vào một cell đang có tải cao, thủ tục chuyển giao có thể bị
hỏng và kết nối bị ngắt nếu không còn kênh khả dụng (nói chung, không còn tài
nguyên khả dụng) trong cell mới. Để giải quyết vấn đề này, về nguyên lý có thể
áp dụng hai kỹ thuật đó là dành sẵn trước (reservation in advance) và mượn
kênh (channel borrowing). Với kỹ thuật mượn kênh, người dùng có thể sử dụng
một phần dung lượng của cell của AP bên cạnh (nếu còn kênh khả dụng) và
chuyển vùng mềm có thể được hỗ trợ. AP này cấp phát dung lượng phù hợp cho
cell hiện thời của nó. Tuy nhiên, đây là một bài toán khá phức tạp mà AP khó có
thể giải quyết được để cân đối đảm bảo hiệu quả sử dụng tài nguyên cho các
MH hiện thời của nó và các MH mượn kênh.
Dịch vụ liên tục (seamless service) luôn mong muốn đảm bảo QoS cho
MH khi di chuyển giữa các cell khác nhau. Tuy nhiên, các MH khi di chuyển có
thể phải chịu các tỷ lệ lỗi kênh khác nhau. Vấn đề này rất nghiêm trọng trong
khi chuyển giao, khi MH đi vào một ô có tỷ lệ lỗi bit, độ trễ cao hơn ô trước đó.
Đây cũng là một bài toán cần tính đến trong thủ tục chuyển giao.
-43-
CHƯƠNG 3: CẢI TIẾN TCP CHO MẠNG HỖN HỢP
3.1. Giao thức TCP/IP đối với mạng có đường truyền không dây
Các giao thức áp dụng cho việc truyền tin dạng End-to-End có độ tin cậy
như TCP làm việc tốt với mạng có dây nhưng với mạng hỗn hợp có dây và
không dây thì giao thức TCP đã bộc lộ nhiều nhược điểm ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu suất của nó. Một trong những nhược điểm đó là cơ chế truyền lại gói tin và
khôi phục lỗi mất gói tin. Với mạng hỗn hợp đường truyền trở nên không đồng
nhất dẫn đến việc quản lý các tác vụ khi truyền tin End-to-End (từ phía có dây
sang không dây hoặc ngược lại) trở nên khó khăn hơn (so với mạng có dây). Các
vấn đề về cái tiến giao thức TCP nhằm nâng cao hiệu quả truyền tin trong các
mạng hỗn hợp đã được nghiên cứu trong những năm gần đây và nhiều sửa đổi
khác nhau đối với TCP đã được đề xuất đồng thời các ứng dụng đa phương tiện,
các giao thức không tin cậy như UDP, RTP cũng đã được nghiên cứu. Tuy
nhiên, các giao thức này làm việc tốt như thế nào trong môi trường mạng hỗn
hợp vẫn là một vấn đề quan trọng cần tiếp tục được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn.
Một vấn đề khác là đặc tính không đối xứng băng thông của đường truyền
theo hai hướng [3]. Đó là vấn đề không tương thích về băng thông giữa hai vùng
của phần mạng có dây và không dây. Băng thông khả dụng theo hướng từ máy
chủ trên mạng cố định đến đầu cuối di động thường lớn hơn băng thông theo
chiều ngược lại. Kết quả là gây ra trễ không đối xứng giữa các hướng ngược
nhau (đi và về).
Đối với mạng LAN có phần mở rộng không dây, tuy giao thức TCP vẫn có
thể phát huy hiệu quả điều khiển mạng nhưng giao thức này đã bộc lộ 3 nhược
điểm chính như sau:
Thứ nhất: Trong 1 luồng TCP vẫn có sự tranh giành đường truyền giữa các
gói tin dữ liệu và ACK có thể “hủy hoại” tổng thể toàn bộ đường truyền.
Thứ hai: Khi trạm gửi phát hiện có mất gói tin, TCP sẽ phản ứng với sự
kiện này bằng cách lập tức điều khiển trạm gửi khởi động chế độ phòng tránh
tắc nghẽn mà không phân biệt được nguyên nhân gây lỗi gói tin đó là do tắc
nghẽn hay bị lỗi do nhiễu hay khi chuyển vùng trên đường truyền không dây.
TCP sẽ phản ứng sai lầm bằng cách thực hiện thuật toán Slow-start - giảm kích
thước cửa sổ truyền xuống mức thấp nhất (bằng 1) sau đó tăng từ từ kích thước
cửa sổ để dò tìm băng thông của đường truyền. Do mạng hỗn hợp gồm đường
-44-
truyền có dây và không dây nên nhìn chung chất lượng đường truyền trên 2
chặng này là khác nhau; TCP sẽ mất nhiều thời gian để đạt thông lượng cực đại
của đường truyền (từ trạm nguồn đến trạm đích) điều này sẽ gây nên sự lãng phí
đường truyền và tăng độ trễ của gói tin. Ngoài ra, ngay cả khi mạng hoạt động
tốt (không có tắc nghẽn và mất gói tin) thì vẫn có những khoảng thời gian lãng
phí do thời gian chờ bản tin ACK của trạm đích gửi trạm nguồn; lẽ ra phải tận
dụng thời gian chờ đợi này để thể tham gia những giao tác khác.
Thứ ba: Trong chuẩn IEEE 802.11 có chế độ tiết kiệm năng lượng - PSM.
Chế độ PSM có thể làm giảm hiệu quả điều khiển lưu lượng của giao thức TCP.
Khi PSM của một trạm đã được kích hoạt, nếu AP cần trao đổi dữ liệu đến trạm
đó thì phải chờ đến beacon tiếp theo, điều này sẽ làm tăng thời gian trễ.
Như vậy, giao thức TCP/IP chỉ tốt với mạng có đường truyền có dây
(không có lỗi bit); trong khi trên thực tế mạng hỗn hợp có dây và không dây
ngày càng trở nên phổ biến. Chính vì những lý do đó mà nhiều nhóm giải pháp
cải tiến giao thức TCP/IP nhằm giải quyết vấn đề điều khiển lưu lượng và phòng
chống tắc nghẽn đã được đề xuất. Các cải tiến TCP trước hết nhằm làm cho TCP
phản ứng đúng với sự mất gói tin sau đó là nâng cao hiệu suất của mạng thông
qua các độ đo hướng đến hệ thống như băng thông, thông lượng, độ trễ,…
3.2. Các tiêu chí đánh giá giao thức mạng
Các giao thức cải tiến TCP đều được phát triển dựa trên nền tảng chồng
giao thức TCP/IP nhưng có thay đổi trên những công đoạn cụ thể tùy thuộc vào
hạ tầng mạng, điều này có nghĩa là giao thức TCP đó có thể sử dụng tốt trong
loại mạng này nhưng chưa chắc sử dụng tốt cho mạng kia. Do vậy rất khó để có
thể nói giải pháp cải tiến nào tốt nhất cho mọi trường hợp. Điều khiển lưu lượng
và phòng chống tắc nghẽn là hai vấn đề khác nhau. Tuy nhiên trong các cải tiến
TCP, hai vấn đề này đã được nhập lại thành một và được thể hiện trong cùng 1
thuật toán. Để đánh giá một thuật toán điều khiển lưu lượng và phòng chống tắc
nghẽn, người ta đã đưa ra một số tiêu chí chính như sau: [7]
- Tính hiệu quả (Efficiency): Được định nghĩa là tỉ số giữa tổng tài nguyên
phân phối cho các ứng dụng và tổng tài nguyên mà hệ thống mạng có tại mốc
thời gian trước thời điểm mạng xảy ra bão hòa (do có sự can thiệp của thuật
toán). Một thuật toán được xem là hiệu quả nếu tỉ số này tiệm cận giá trị 1.
- Tính bình đẳng (Fairness): Khi nhiều yêu cầu chia sẻ tài nguyên bao gồm
tài nguyên mạng và QoS cho các dịch vụ và tất cả những yêu cầu đó thuộc cùng
-45-
một lớp (tùy theo cách phân lớp), thì các tài nguyên phải được chia sẻ như nhau
và với cùng mức độ đảm bảo QoS.
- Tính hội tụ (Convergence): Sự hội tụ được đánh giá bởi thời gian cần để
hệ thống đạt đến trạng thái mong muốn từ một trạng thái xuất phát bất kỳ. Một
cách lý tưởng, hệ thống đạt tới trạng thái đích nhanh và có biên độ dao động rất
nhỏ xung quanh nó. Như vậy, nếu gọi Xgoal biểu thị mức lưu lượng mong muốn
đưa vào mạng tại thời điểm xét thì tính hội tụ được đánh giá qua 3 yếu tố: Trạng
thái cân bằng tiệm cận với Xgoal ; thời gian cần thiết để thuật toán hội tụ đến Xgoal
và biên độ của dao động xung quanh giá trị Xgoal nhỏ dần về giá trị 0.
- Thời gian đáp ứng nhỏ (Small response time): Thuật toán phải nhanh
chóng phát hiện được tắc nghẽn và thời gian kể từ khi phát hiện tắc nghẽn đến
khi có tác động của điều khiển chống tắc nghẽn phải càng nhanh càng tốt. Nếu
gọi Tresp là thời gian phản ứng kể từ khi phát hiện tắc nghẽn đến khi tắc nghẽn đó
được xử lý, Tgoal là thời gian cần thiết tính từ lúc cần giải quyết tắc nghẽn đến
khi vấn đề tắc nghẽn được giải quyết thì Tresp ≤ Tgoal. Trong đó Tgoal là cơ sở để
so sánh các thuật toán điều khiển, Tresp càng nhỏ càng tốt.
- Độ mịn trong điều khiển (Smoothness): Trong thực tế, tác động của mọi
thuật toán điều khiển không thể đưa hệ thống đến trạng thái mong muốn ngay
lập tức. Vì vậy, các thuật toán điều khiển chống tắc nghẽn phải thiết kế sao cho
tác động điều khiển có độ mịn cần thiết, tránh đưa hệ thống vào trạng thái mất
ổn định thêm. Đại lượng để đo độ mịn có thể là hiệu số giữa lưu lượng tại 2 thời
điểm điều khiển liên tiếp t1 và t2: |Xi(t2) – Xi(t1)| (với i = 1..n là số lần điều
khiển) hoặc hiệu số giữa tổng lưu lượng mạng tại 2 thời điểm điều khiển liên
tiếp t1 và t2: |X(t2) – X(t1)|.
- Tính phân tán (Distributedness): Đây là tiêu chí rất cần thiết đặc biệt
trong các mạng cỡ lớn khi hệ thống các đường truyền trong mạng là hỗn hợp,
băng thông, thông lượng, độ trễ trên các chặng khác nhau. Có thể khi thuật toán
được áp dụng cho một mô hình tập trung với các thông số đầy đủ về trạng thái
của mạng cũng như là luồng riêng lẻ nhưng chưa hẳn đã đúng khi áp dụng thuật
toán đó cho một mạng lớn hơn (về quy mô cũng như tính chất); điều này có thể
gây nên những phản ứng không đồng bộ đồng thời sự lan tỏa của các giao tác
của thuật toán cũng không hiệu quả trong toàn mạng.
-46-
3.3. Một số giao thức cải tiến TCP dùng cho mạng hỗn hợp
Với mạng có phần mở rộng không dây, có rất nhiều nghiên cứu cải tiến
TCP/IP để phù hợp với đặc thù đường truyền và dạng tín hiệu. Trong đó, các
nghiên cứu cải tiến TCP/IP sử dụng cho mạng hỗn hợp nói chung và mạng LAN
có phần mở rộng không dây nói riêng thường tập trung vào 2 nhóm chính đó là
chia tách phương diện đường truyền và nâng cấp khả năng xử lý của Router giữa
phần có dây và không dây. Một số thuật toán điển hình cho 2 hướng nghiên cứu
này như sau:
3.3.1. Split TCP
Split TCP (hay Split Connection) được triển khai tại Đại học Rutgers trong
một phần của dự án Dataman. Đây là một trong những cải tiến TCP sớm nhất để
tăng thông lượng TCP qua mạng không dây theo hướng chia đôi kết nối. [11]
FH MH
Hình 3.1: Mô hình Split Connection
Split TCP chia mỗi kết nối TCP trong mạng hỗn hợp LAN, WLAN thành 2
kết nối: Một kết nối TCP trên phần mạng có dây giữa Server/Fixed Host (gọi
chung là FH) với AP và một kết nối TCP trên phần mạng không dây giữa AP
với MH. Trên mỗi phần cần sử dụng giao thức TCP phù hợp với tính chất đường
truyền để đạt được hiệu suất tốt nhất (Hình 3.1).
Với giải pháp theo hướng chia kết nối này, dữ liệu từ FH muốn gửi đến
MH, trước tiên FH phải được nhận bởi AP bằng đường truyền có dây với giao
thức truyền TCPI. Sau khi nhận được dữ liệu, AP sẽ biên nhận với FH rồi gửi
dữ liệu đó đến MH bằng đường truyền không dây, giao thức TCPII.
-47-
Giải pháp Split Connection có các ưu điểm như:
- Cách ly hoàn toàn trường hợp mất gói tin trên đường truyền không dây và
đường truyền có dây.
- Giao thức truyền tin riêng giữa AP và FH có thể hỗ trợ tốc độ truyền cao
hơn để hỗ trợ phần không dây trong việc tăng số lượng MH cũng như đảm bảo
QoS cho dịch vụ.
- Tại các MH, chỉ cần sử dụng 1 giao thức đơn giản chỉ để giao tiếp với AP.
Nhược điểm của giải pháp Split Connection:
- Việc tách 1 kết nỗi TCP thành 2 kết nối làm cho quá trình biên nhận không
còn mang tính chất “end-to-end” vì có thể xảy ra các tình huống FH nhận được
ACK từ AP nhưng MH chưa nhận được gói tin đó.
- Do MH chỉ cần sử dụng giao thức đơn giản chỉ để giao tiếp với AP, AP
phải quản lý và điều khiển các MH của nó nên AP phải có cấu hình mạnh, buffer
đủ lớn.
- Khi chuyển giao: AP phải truyền tất cả các thông tin trạng thái và dữ liệu
của MH tại buffer của nó sang AP mới đồng thời AP mới phải thiết lập kết nối
mới với MH để tiếp tục trao đổi dữ liệu. Điều này làm tăng độ trễ đáng kể.
- Ngoài ra, với những mạng hỗn hợp có quy mô lớn (nhiều AP hay cell),
việc điều các MH (đặc biệt khi chuyển vùng) sẽ có thêm một trung tâm xử lý
chung gọi là SuperHost (SH), SH điều khiển các AP để chuyển vùng và định
tuyến cho các MH trong nó. Do vậy, khi chuyển giao, thông tin khiển khiển sẽ
qua ít nhất 2 chặng không dây (từ MH đến AP và từ AP đến SH) nên khả năng
trễ và lỗi gói tin rất cao.
3.3.2. Snoop TCP
Khác với Split TCP sử dụng AP để chia kết nối TCP giữa FH và MH thành
2 kết nối độc lập, Snoop TCP duy trì 1 kết nối và sử dụng cơ chế nhớ đệm tại
AP để duy trì “ngữ nghĩa end-to-end” của TCP ban đầu và tăng thông lượng của
kết nối [14]. Tại AP sẽ nhớ đệm (buffer) tất cả các gói tin được gửi từ FH đến
-48-
MH qua AP mà AP chưa thấy biên nhận (ACK) từ MH gửi trở về FH. Khi có
gói tin bị mất trên đường truyền không dây, AP sẽ nhận được Dupble ACK từ
MH và gửi lại gói tin bị mất (bản dự phòng trong buffer của AP) mà không cần
FH gửi lại và khởi động cơ chế chống tắc nghẽn. Vì vậy thông lượng TCP vẫn
được đảm bảo.
Hình 3.2: Tiến trình xử lý dữ liệu từ FH đến MH
Giải pháp Snoop cần có 2 module: Snoop_Data và Snoop_ACK
Snoop _Data: Xử lý các gói tin từ FH gửi đến MH (Hình 3.2)
- Nếu gói tin mới đến đúng thứ tự thì AP lưu gói tin vào buffer của nó (có
thể xem là bộ nhớ tạm của Snoop agent (Snoop cache)
- Khi gói tin đến không đúng thứ tự và đã được lưu vào Snoop cache thì
có xem xét nếu trường ACK number trong gói tin này lớn hơn gói tin đã được
cached trước đó thì AP chuyển tiếp gói tin này đến MH.
- Nếu gói tin đến không đúng thứ tự và chưa được lưu vào Snoop cache
(có thể do gói tin đến không đúng thứ tự hoặc bị mất trên đường truyền có dây
giữa FH và AP) thì AP sẽ thêm gói tin này vào Snoop cache rồi gửi đến MH
đồng thời gói tin này được đánh dấu là đã được FH truyền lại. Thông tin này
được Snoop_ACK sử dụng để xử lý các ACK nhận được từ MH.
-49-
Hình 3.3: Tiến trình xử lý ACK
Snoop_ACK: Xử lý các gói tin ACK nhận được từ MH.
- ACK mới: Đây là trường hợp bình thường, thông tin từ ACK này được
sử dụng để loại bỏ các gói tin đã được buffer trong Snoop cache. Đồng thời nếu
gói tin được biên nhận không phải là gói tin được truyền lại thì sẽ cập nhật giá
trị RTT.
- Spurious ACK: Đây là trường hợp thông báo gói tin có ACK này bé hơn
gói tin có ACK cuối cùng đã nhận được trước đó, do vậy gói tin có ACK bé hơn
sẽ bị loại bỏ.
- Dup ACK: Nếu gói tin chưa được buffer trong Snoop cache, Dup ACK
này sẽ được gửi tới FH và FH sẽ sử dụng cơ chế chống tắc nghẽn. Ngược lại,
khẳng định rằng gói tin đã bị mất do lỗi trên đường truyền không dây nên AP sẽ
gửi lại gói tin đó hiện có trong buffer của Snoop cache.
Để xử lý quá trình chuyển giao MH giữa các AP, Snoop sử dụng Mobile
IP và cơ chế truyền multicast. Tại cùng một thời điểm sẽ có nhiều AP lưu các
gói tin gửi đến MH, nhưng chỉ có 1 AP gửi gói tin đến cho MH (gọi là Primary
AP). Các AP còn lại là các AP láng giềng xung quanh vị trí mà tiếp theo MH có
-50-
thể di chuyển đến (gọi là Nearby AP). Các AP này được nhóm lại thành 1 nhóm
multicast cùng với MH. Khi MH di chuyển sang 1 cell mới MH gửi tới AP của
cell mới này để yêu cầu AP này làm Primary AP đồng thời thông báo với AP cũ
yêu cầu dừng việc chuyển tiếp gói tin đến nó.
Hình 3.4: MH chỉ trao đổi gói tin với Primary AP
Tóm lại, giải pháp Snoop tuy giải quyết được vấn đề minh bạch trong biên
nhận giữa MH và FH nhưng có những mặt hạn chế như: buffer tại các AP phải
đủ lớn để chứa các gói tin mà MH chưa gửi biên nhận; lượng thông tin mà các
AP phải chuyển cho nhau khi MH chuyển vùng có thể rất lớn hoặc thậm chí bị
mất. Ngoài ra, một hạn chế nữa của snoop TCP đó là việc phát lại của AP có
thể đụng độ với cơ chế phát lại của TCP. Khi AP chưa nhận được ACK của
MH, lúc này đương nhiên FH vẫn chưa nhận được ACK đó, cả 2 giao thức TCP
của FH và cơ chế Snoop TCP trên AP có thể đồng thời phản ứng đối với việc mà
chúng xem là mất gói tin này do vậy khả năng đồng thời phát lại gói tín sẽ rất
cao. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu suất của mạng.
-51-
3.3.3. M-TCP
M-TCP cũng sử dụng giải pháp chia kết nối và được minh họa trên Hình
3.5.
Hình 3.5: Mô hình kết nối M-TCP
- 1 kết nối không dây từ MH tới Supper Host (SH) - với SH là đầu mối
quản lý và điều khiển các AP (mỗi AP có vùng phủ sóng là 1 cell) Như vậy, kết
nối này gồm 2 chặng không dây (từ MH - AP và AP - SH)
- Một kết nối có dây từ SH đến FH.
Với giải pháp này, giao tiếp mức thấp nhất là giữa MH và AP (trong mỗi
Cell), mức tiếp theo là giữa AP với SH. SH được được kết nối với mạng cố định
thông qua đường truyền có dây để xử lý việc định tuyến, chuyển vùng tất cả các
kết nối của MH do vậy sẽ không cần thao tác chuyển trạng thái kết nối khi MH
di chuyển giữa các Cell. Vì vậy với mỗi kết nối TCP, trên SH sẽ luôn có 2 tiến
trình chạy song song để quản lý đó là SH-TCP và M-TCP.
SH-TCP nhận dữ liệu từ FH và khởi động tiến trình M-TCP để chuyển
tiếp đến MH. Khác với I-TCP, SH-TCP không tạo ACK để gửi trả về FH mà chỉ
nhận ACK từ MH. Tuy nhiên, để đề phòng FH không khởi động cơ chế chống
tắc nghẽn khi chưa nhận được ACK phản hồi (có thể do MH bị disconnected
tạm thời hoặc chưa nhận được dữ liệu), M-TCP điều khiển SH gửi gói tin "giả"
với giá trị trường cửa sổ nhận 0 nhằm chuyển FH sang chế độ "đóng băng"
-52-
(Persist mode). Sau khi MH đã biên nhận và gửi ACK cho SH, SH gửi ACK này
đến FH với giá trị trường cửa sổ nhận bằng giá trị như trước lúc FH chuyển sang
chế độ "đóng băng".
M-TCP nhận các gói tin ACK từ MH và truyền nó tới SH-TCP để chuyển
tới FH. Kết nối M-TCP giữa SH và MH có một điểm khác biệt với TCP chuẩn
đó là bổ sung thêm tính năng thông báo trạng thái kết nối theo từng thời điểm
của MH với SH đang như thế nào (connecting/connected/disconnected). Nếu
MH tạm thời mất kết nối (disconnected), M-TCP thông báo điều này cho SH-
TCP để SH-TCP gửi gói tin "giả" như đã nói ở trên. Khi MH kết nối lại thành
công (reconnected), M-TCP thông báo cho SH-TCP để SH-TCP cập nhật lại
kích thước cửa sổ nhận rồi gửi tới FH. Mọi kết nối trở lại bình thường như lúc
ban đầu.
Như vậy, giao thứ M-TCP sẽ ổn định được thông lượng khi MH tạm thời
bị mất kết nối và không cần chuyển giao khi MH di chuyển từ cell này sang cell
khác. Tuy nhiên, giải pháp này chỉ phù hợp với các mạng không dây quy mô lớn
nhiều cell và cấu trúc riêng biệt đòi hỏi khả năng xử lý trên SH rất lớn.
-53-
CHƯƠNG 4 ĐÁNH GIÁ BẰNG MÔ PHỎNG HIỆU SUẤT CỦA CÁC
GIAO THỨC GIAO VẬN TRONG MẠNG CÓ PHẦN MỞ RỘNG
KHÔNG DÂY
Nói chung, hiệu suất là một trong hai nhân tố chính xác định năng suất
tổng cộng của một hệ thống, phản ánh khả năng khai thác tài nguyên của hệ
thống. Đối với một hệ thống tính toán, đánh giá hiệu suất (performance
evaluation) là xác định về mặt định tính và định lượng chất lượng phục vụ của
hệ thống tính toán đó với một loại bài toán nhất định. Đối với giao thức, đánh
giá hiệu suất là xác định về mặt định tính và định lượng chất lượng truyền tải đối
với một lưu lượng số liệu nhất định.
Hiệu suất mạng chủ yếu được xác định bởi các nhân tố: tính sẵn sàng để
dùng (availability), thông lượng (throughput), thời gian đáp ứng (response
time), thời gian trễ (delay), độ tin cậy (reliability), tỉ suất lỗi (error rate) và hiệu
suất của ứng dụng. Tùy thuộc vào từng loại hệ thống và mục đích sử dụng mà
người ta có thể sử dụng các độ đo trên hoặc là sự kết hợp của một vài trong số
đó. Người ta thường phân chia độ đo hiệu suất làm hai loại, đó là: Độ đo hướng
đến người sử dụng và độ đo hướng tới hệ thống. [2]
Các độ đo hướng tới người sử dụng:
- Response time: Là khoảng thời gian từ khi có một yêu cầu (request) đến
hệ thống cho đến khi nó được hệ thống thực hiện xong; thường được sử dụng
trong các hệ thời gian thực hoặc các môi trường hệ thống tương tác.
- System reaction time: Là khoảng thời gian tính từ khi input đến hệ thống
cho đến khi yêu cầu chứa trong input đó nhận được khe thời gian (slice time)
phục vụ đầu tiên; thường được sử dụng trong các hệ thống tương tác, thay cho
response time. Độ đo này đo mức độ hiệu dụng của bộ lập lịch của hệ thống
trong việc nhanh chóng cung cấp dịch vụ cho một yêu cầu mới đến.
Trong mạng máy tính, các đại lượng trên đều được xem là các biến ngẫu
nhiên, vì vậy người ta thường nói về phân bố, kỳ vọng, phương sai... của chúng.
Các độ đo hướng tới hệ thống:
- Throughput: Là số đơn vị thông tin tính trung bình được vận chuyển qua
mạng trong một đơn vị thời gian. Đơn vị thông tin ở đây có thể là bit, byte hay
gói số liệu,... Nếu các đơn vị thông tin đi vào mạng theo một cơ chế độc lập với
trạng thái của mạng thì thông lượng cũng chính bằng tốc độ đến trung bình nếu
-54-
mạng vẫn còn có khả năng vận chuyển. Một số trường hợp người ta sử dụng đại
lượng không thứ nguyên Hệ số sử dụng đường truyền (Line Utilization) hay còn
gọi thông lượng chuẩn hoá, đó là tỉ số của thông lượng trên năng lực vận chuyển
của đường truyền (line capacity).[2]
- Transfer delay: Là thời gian trung bình để vận chuyển một gói số liệu
qua mạng, từ nguồn tới đích. Người ta cũng có thể dùng thời gian trễ chuẩn hóa,
là tỉ số của thời gian trễ trên một tham số thời gian nào đó, thí dụ như thời gian
cần thiết để truyền một gói tin lên đường truyền (packet transmission time).
- Tỉ lệ lỗi truyền số liệu: Là số lượng số gói tin bị lỗi trên tổng số gói tin
được đưa lên đường truyền.
- Thời gian xử lý, khắc phục lỗi,…
Các phương pháp đánh giá hiệu suất của hệ thống mạng
Có nhiều phương pháp đánh giá hiệu suất mạng máy tính, mỗi phương pháp
có các thế mạnh riêng phụ thuộc vào mục tiêu nghiên cứu cụ thể, điều kiện và
khả năng của người sử dụng. Người ta chia các phương pháp đánh giá hiệu suất
mạng làm ba loại [3]: mô hình Giải tích (Analytic Models), mô hình Mô phỏng
(Simulation Models) và Phương pháp Đo (Measurement). Trong đó, phương
pháp mô hình Mô phỏng có nhiều ưu điểm vượt trội so với hai phương pháp còn
lại, đó là chi phí thấp, nhanh chóng và chính xác. Phương pháp mô hình Giải
tích bảo đảm hiệu quả, dễ thay đổi với chi phí thấp. Tuy nhiên, phải cụ thể hóa
các mối quan hệ trên mạng thông qua các hàm số với nhiều tham số rồi giải,
việc này đòi hỏi khả năng Toán học tốt. Phương pháp Đo trên mạng thực cho kết
quả chính xác nhưng thường có chi phí cao về thiết bị, thời gian và khó có khả
năng thực hiện hơn vì vấn đề sở hữu đối với hệ thống mạng muốn đo.
4.1. Giới thiệu bộ mô phỏng mạng NS-2
NS (Network Simulator) là một phần mềm mô phỏng mạng, được Bộ Quốc
phòng Mỹ phát triển từ bộ mô phỏng REAL (Realistic and Large) của S.Keshav
năm 1989. Các phiên bản 2.xx của NS ra đời sau năm 1997, từ đó người ta
thường gọi là bộ mô phỏng NS-2. Bộ mô phỏng được vận hành theo cơ chế sử
dụng các sự kiện rời rạc, có thứ tự. Người sử dụng có thể thay đổi cấu hình và
mở rộng mô hình mạng rất dễ dàng bằng cách lập trình thêm vào một số modul
chương trình.
-55-
NS là bộ mô phỏng hướng sự kiện viết bằng C++, với một trình thông
dịch OTCL giao tiếp với người sử dụng. Những đối tượng được biên dịch này sẽ
được kết nối tới bộ thông dịch OTCL qua trình liên kết OTCL. Các đối tượng
OTCL tương ứng với mỗi đối tượng trong C++ và ngược lại các hàm và biến
trong đối tượng C++ chuyển thành các hàm và biến trong đối tượng OTCL
tương ứng.
Hình 4.1: Sự kết hợp giữa C++ và OTCL trong NS
NS có thể mô phỏng các mạng LAN, mạng không dây, mạng hỗn hợp (có
dây và không dây), mạng vệ tinh. NS thực thi các giao thức mạng như TCP,
UDP; các nguồn sinh lưu lượng của các ứng dụng như FTP, Telnet, Web, với
tốc độ bit cố định (CBR) và Tốc độ bit thay đổi (VBR); các kỹ thuật quản lý
hàng đợi như Vào trước Ra trước (FIFO / Drop Tail), loại bỏ sớm ngẫu nhiên
(RED) và phục vụ theo mức ưu tiên dựa trên việc phân lớp - CBQ; các thuật
toán định tuyến như Dijkstra… NS cũng thực thi phương thức đánh địa chỉ
multicasting và vài giao thức lớp Điều khiển truy cập đường truyền (MAC) đối
với mô phỏng LAN.
Hình 4.2: Tổng quan về NS dưới góc độ người dùng
− OTcl Script Kịch bản OTcl
− Simulation Program Chương trình Mô phòng
− OTcl Bộ biên dịch Tcl mở rộng hướng đối tượng
− NS Simulation Library Thư viện Mô phỏng NS
-56-
− Event Scheduler Objects Các đối tượng Bộ lập lịch Sự kiện
− Network Component Objects Các đối tượng Thành phần Mạng
− Network Setup Helping Modules Các mô đun Trợ giúp Thiết lập Mạng
− Plumbling Modules Các mô đun Plumbling
− Simulation Results Các kết quả Mô phỏng
− Analysis Phân tích
− NAM Network Animator Minh họa Mạng NAM
Trong hình trên, NS là Bộ biên dịch Tcl mở rộng hướng đối tượng; bao
gồm các đối tượng Bộ lập lịch Sự kiện, các đối tượng Thành phần Mạng và các
mô đun Trợ giúp thiết lập mạng (hay các mô đun Plumbing).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-KHẢO SÁT MẠNG LAN VỚI CÁC PHẦN MỞ RỘNG KHÔNG DÂY.pdf