Tài liệu Luận văn Khái niệm phủ định biện chứng trong triết học Mác – LêNin với việc phân tích đổi mới kinh tế ở Việt Nam: LUẬN VĂN:
Khái niệm phủ định biện chứng trong
triết học Mác – LêNin với việc phân tích
đổi mới kinh tế ở Việt Nam
Đặt vấn đề
Dưới ngọn cờ lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh và Bác
Hồ vĩ đại nhân dân ta đã từng đánh bại 2 đế quốc hùng mạnh nhất thế giới: Đế quốc
Pháp và đế quốc Mỹ. Ngày nay trong công cuộc xây dựng kinh tế đất nước, Đảng lại
lãnh đạo nhân dân đi hết từ thành công này đến thành công khác, mang lại sự đổi thay
từng ngày từng giờ cho nền kinh tế Việt Nam cũng như mang lại sức sống mới cho
nhân dân cả nước. Tuy rằng trước đây chúng ta đã duy trì kinh tế bao cấp, việc đó làm
trí tuệ nền kinh tế, thế nhưng Đảng ta đã nhanh chóng nắm bắt tình thế và đã vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào tình hình mới, thời đại mới, Đảng ta đã chủ trương
chuyển từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước vào năm
1986 công cuộc đổi mới đã đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng trầm trọng sang phát
triển nhanh. Từ ...
22 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1154 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Khái niệm phủ định biện chứng trong triết học Mác – LêNin với việc phân tích đổi mới kinh tế ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Khái niệm phủ định biện chứng trong
triết học Mác – LêNin với việc phân tích
đổi mới kinh tế ở Việt Nam
Đặt vấn đề
Dưới ngọn cờ lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh và Bác
Hồ vĩ đại nhân dân ta đã từng đánh bại 2 đế quốc hùng mạnh nhất thế giới: Đế quốc
Pháp và đế quốc Mỹ. Ngày nay trong công cuộc xây dựng kinh tế đất nước, Đảng lại
lãnh đạo nhân dân đi hết từ thành công này đến thành công khác, mang lại sự đổi thay
từng ngày từng giờ cho nền kinh tế Việt Nam cũng như mang lại sức sống mới cho
nhân dân cả nước. Tuy rằng trước đây chúng ta đã duy trì kinh tế bao cấp, việc đó làm
trí tuệ nền kinh tế, thế nhưng Đảng ta đã nhanh chóng nắm bắt tình thế và đã vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào tình hình mới, thời đại mới, Đảng ta đã chủ trương
chuyển từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước vào năm
1986 công cuộc đổi mới đã đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng trầm trọng sang phát
triển nhanh. Từ một nước phải nhập khẩu gạo trong những năm đầu giải phóng đất
nước, đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong 3 nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế
giới sau Mỹ và Thái Lan. Quan hệ thương mại của nước ta cũng ngày càng được mở
rộng với chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới ”. Nước
ta đã gia nhập ASEAN, AFTA... và sắp tới Việt Nam mong muốn được gia nhập WTO
– tổ chức thương mại thế giới và đến khi đó thì nền kinh tế của Việt Nam sẽ có những
bước tiến mới, hứa hẹn một sự tăng trưởng cao. Không chỉ trong lĩnh vực thương mại
mà trong những ngành khoa khọc cơ bản cũng dần dần được đầu tư thích đáng hơn và
có sự chú ý hơn của Nhà nước, bằng chứng là ngân sách Nhà nước cho những ngành
này đã tăng lên đáng kể so với những năm đầu thập kỷ 90. Trong quá trình lãnh dạo đất
nước để thực hiện mục tiêu “Dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” tiên
lên CNXH Đảng ta đã kiên định đường lối lãnh đạo, kế thừa và phát huy chủ nghĩa
Mác – Lênin và biết áp dụng thực tiễn phép biện chứng của Mác một cách linh hoạt
trong những đường lối, định hướng, chính sách hoạch định phát triển kinh tế xã hội
trong nước. Phép phủ định biện chứng với hai đặc trưng cơ bản là tính tất yếu khách
quan và tính kế thừa được thể hiện rõ trong quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam.
Đó là sự ra đời của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước phủ định lại nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù hợp trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam qua những thành tựu mà nó mang lại ta có thể khẳng định chủ
nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin luôn là nền tảng vững chắc, là kim chỉ nam dẫn
đường. Nhận thức được tầm quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin
đặc biệt là phép phủ định biện chứng đối với công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam
mà bộ môn triết học Mác – LêNin đã nâng lên thành một đề tài nghiên cứu khoa khọc
cho sinh viên, do đó em chọn đề tài “Khái niệm phủ định biện chứng trong triết học
Mác – LêNin với việc phân tích đổi mới kinh tế ở Việt Nam ” để nghiên cứu. Trong
quá trình nghiên cứu đề tài, em rất vui khi được tiếp xúc với những lý luận cơ bản cần
thiết và rất vui mứng khi đựơc nâng cao kiến thức qua việc nghiên cứu.
.
b. nội dung
PhầnI: Nội dung lý luận
I. Khái niệm phủ định biện chứng:
1. Định nghĩa phủ định biện chứng.
Thế giới vật chất vận động và phát triển không ngừng. Một dạng nào đó của vật
chất được sinh ra, tồn tại, rồi mất đi được thay thế bằng một dạng vật chất khác. Triết
học Mác sinh ra, tồn tại, rồi mất đi được thay thế bằng một dạng về chất, sự đấu tranh
của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi và sự vật mới
ra đời. Triết học goị sự thay thế đó là sự phủ định. Phủ định bao gồm phủ định siêu
hình và phủ định biện chứng. Trái với phủ định siêu hình làm chấm dứt sự phát triển
thì phủ định biện chứng lại tạo ra những điều kiện tiền đề cho sự phát triển hay một
thay đổi nào đó làm cho sự vật phát triển. ở đây ta chỉ nghiên cứu về phủ định biện
chứng là hình thức giải quyết các mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật bị phủ định sự
phủ định mà mỗi sự thay thế chuyển hoá làm thành một mắt khâu trong sợi dây xích
phát triển của hiện thực và của tư duy. Từ những sự nhận định trên chủ nghĩa duy vật
đã đưa ra khái niệm: Phủ định biện chứng là quá trình tự thân vận động phủ định, tự
thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn
so với cái bị phủ định.
2. Đặc điểm của phủ định biện chứng.
- Tính khách quan:
Những người theo quan điểm siêu hình coi phủ định là do những nguyên nhân
bên ngoài đưa lại, xem sự vật và hiện tượng là những cái cô lập, tách rời nhau. Phương
pháp biện chứng khẳng định cái mới ra đời thay thế cái cũ nằm ngay trong bản thân sự
vật, nó là kết quả của những mâu thuẫn được giải quyết trong bản thân mỗi sự vật.
Khi đề cập tới vấn đề này, chúng ta lưu ý rằng, mỗi sự vật có phương thức phủ
định biện chứng riêng, do đó mà có sự phát triển. Sự phủ định là kết quả hoạt động của
quy luật mâu thuẫn và quy luật lượng chất trong đó mâu thuẫn mới phủ định mâu thuẫn
cũ, chất mới thay thế chất cũ và xuất phát từ xu hướng vận động của sự vật hiện tượng,
từ chính trong nội lực của sự vật.
Ví dụ: CNXH phủ định CNTB là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản,
khách quan, vốn có trong lòng xã hội tư bản, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của
lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất được
biểu hiện về hoc thuyết khoa khọc ngày càng phát triển là kết quả của quá trình phủ
định của những tri thức đúng đắn, sâu sắc đối với những tri thức sai lầm hoặc kém sâu
sắc, không đầy đủ.
- Tính kế thừa:
Kế thừa là việc cái mới ra đời từ cái giữ lại trong đó những yếu tố tích cực tiến
bộ từ cái cũ cải tạo đi cho phù hợp. Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự thân phát
triển trên cơ sở giải quyết những mâu thuẫn vốn có của các sự vật và hiện tượng, cho
nên cái mới ra đời không thể là một sự phủ định tuyệt đối, phủ định, sạch trơn, đoạn
tuyệt siêu hình đối với cái cũ, mà là một sự phủ định có kế thừa. Để dẫn tới sự ra đời
của cái mới, quá trình phủ định biện chứng bao hàm trong đó nhân tố giữ lại những nội
dung tích cực của cái phủ định. Phủ định biện chứng, do vậy, là sự phủ định mang tính
kế thừa. Với ý nghĩa như vậy, phủ định đồng thời là khẳng định, diễn đạt tư tưởng đó,
LêNin viết:
“Không phải sự phủ định sạch trơ, không phải sự phủ định không suy nghĩ,
không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ
là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng... mà lại sự phủ định coi như là
vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”.
Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự ra
đời của cái mất. Không có cái mới nào lại ra đời từ hư vô, nhờ việc giữ lại nhân tố tích
cực của cái phủ định mà cái mới có tiền đề cho sự xuất hiện của mình.
Cái quá khứ không biến đổi đi mà không để lại một dấu vết nào trong dòng chảy
vô tận của thời gian. Thật ra, nó đã tham gia vào việc tạo ra cái hiện tại, nó tạo thành
mối liên hệ sống động trong thời gian. Một trong những hình thức quan trọng của cái
được kế thừa trong đòi sống xã hội là truyền thống. Truyền thống là cái chứa đựng
trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái mới.
Song, ngay cả đối với nhân tố tích cực của cái phủ đinh được giữ lại, nó vẫn
được duy trì dưới lớp lọc bỏ. Thực chất của sự phát triển là sự biến đổi, mà gia đoạn
sau còn bảo tồn tất cả những gì tích cực đã được tạo ra ở giai đoạn trước chẳng hạn
trong khi phủ định. Chủ nghĩa tư bản với tư cách là một chế độ lỗi thời chủ nghĩa xã
hội cũng kế thừa toàn bộ những thành quả của sự phát triển tiến bộ xã hội đã đạt được
trong chủ nghĩa tư bản, song, những yếu tố được giữ lại đó cũng phải được cải tạo,
đựơc biến đổi trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội để trở thành những
yếu tố nội tại của CNXH.
Trong quá trình đổi mới hiện nay, chúng ta phải biết kế thừa những di sản tích
cực của dân tộc cũng như của thế giới. Nhưng có lúc, có nơi đã coi nhẹ việc khai thác
vốn quý báu của dân tộc, có quan điểm phủ định sạch trơn. Ngược lại có lúc có nơi lại
phục hồi cả những phong tục tập quán đã lỗi thời, không biết đứng trên yêu cầu mới
của cách mạng mà cải biến và sử dụng những vốn cũ đó cho phủ hợp.
3. So sánh phủ định biện chứng với phủ định siêu hình để thấy nguyên
nhân, động lực của sự phát triển là gì.
Đối lập với quan điểm biện chứng, những người theo quan điểm siêu hình coi
phủ định là sự xoá bỏ hoàn toàn cái cũ là chấm dứt sự liên hệ, sự vận động, sự phát
triển của bản thân sự vật. Do đó quan điểm siêu hình không thấy được tiền đề của sự
nảy sinh ra cái mới. Mặt khác, khi nói đến kế thừa, thì họ lại hiểu kế thừa một cách
nguyên xi, không phê phán, không cải tiến cải tạo chúng hoặc lắp ghép các yếu tố của
cái cũ vào cái mới một cách đơn giản, máy móc.
Những người thuộc “Phái văn hoá vô sản” ở Nga đầu những năm cách mạng có
thái độ phủ định sạch trơn nền văn hoá quá khứ. Theo họ nền văn hoá vô sản không có
liên quan gì với nền văn hoá trước họ chủ trương xây dựng lại từ đầu nền văn hoá mới
của giai cấp vô sản. Đây là quan điểm siêu hình xem phát triển chỉ là sự phát triển tăng
lên hay giảm đi thuần tuý về lương, không có sự thay đổi về chất. Tất cả tính muôn vẽ
về chất bất biến trong toàn bộ quá trình tồn tại của nó. Sự phát triển chỉ là thay đổi số
lượng của từng loại đang có, không có sự nảy sinh những loại mới với những tính quy
định mới về chất, có thay đổi về chất chăng nữa thì đó cũng chỉ diễn ra theo một vòng
tròn khép kín.
Quan điểm siêu hình về sự phát triển cũng xem sự phát triển như là một quá
trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co phức tạp.
Như vậy, việc thừa nhận hay không thừa nhận sự phát triển vẫn không đủ căn cứ
để phân biệt một quan điểm biện chứng với một quan điểm siêu hình. Điều chủ yếu để
phân định hai quan điểm đó là phải làm rõ quá trình phát triển diễn ra như thế nào.
trong quan điểm duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái
quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn.
Theo quan điểm đó, phát triển là một trường hộp đặc biệt của sự vận động.
Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới cao hơn về chất, nhờ
vậy, làm tăng cường tính phức tạp của sự vật và của sự liên hệ, làm cho cả cơ cấu tổ
chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cùng chức năng vốn có của nó ngày
càng hoàn thiện hơn.
Trong quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi về
lượng dẫn tới sự thay đổi về chất, sự phát triển diễn ra theo đường xoay trôn ốc, nghĩa
là trong quá trình phát triển dường như có sự quay trở lại điểm xuất phát, nhưng trên cơ
sở mới cao hơn.
Với đặc điểm như vậy, phủ định biện chứng không chỉ là nhân tố khắc phục cái
cũ, mà còn là gắn liền cái cũ với cái mới, cái khẳng định với cái phủ định. Phủ định
biện chứng trở thành vòng khâu tất yếu của sự liên hệ và sự phát triển.
II. Tính đặc thù của phủ định biện chứng với đổi mới trong lĩnh vực kinh tế
xã hội.
Nền kinh tế xã hội nào cũng có những khuyết tật, những mâu thuẫn tồn tại trong
lòng nó, và một xã hội mà luôn giữ một kiểu tổ chức sản xuất, phương thức sản xuất thì
chắc chắn sẽ không thể tiến lên được. Vì vậy nền sản xuất phải luôn được đổi mới phù
hợp với phép phủ định biện chứng. Nền sản xuất lỗi thời, không còn năng động nữa sẽ
được thay thế bởi nền sản xuất tiến bộ, năng động và phát triển hơn phù hợp với thời
đại.
Công cụ sản xuất bằng cơ khí ra đời thay thế công cụ sản xuất bằng lao động thủ
công là một tất yếu. Đến lượt nó sản xuất tự đồng hoá ra đời thay thế công cụ bằng cơ
khí của quá trình sản xuất cũng là một tất yếu. Nguyên nhân của quá trình thay thế này
là do những động lực tự thân của nền sản xuất xã hội quy định, do những nhu cầu
không ngừng biến đổi và phát triển của con người. Sự thay thế đó không phải là vứt bỏ,
phủ định sạch trơn phương thức sản xuất cũ mà chúng vẫn đựơc giữ lại, tồn tại song
song với phương thức sản xuất mới và trở thành các ngành, các phương thức sản xuất
truyền thống đôi khi chúng rất cần đối với nền kinh tế của một số nước.
Phần II: Phép phủ định biện chứng đối với quá trình đổi mới kinh tế Việt
Nam
I. Tính khách quan tất yếu của sự ra đời nền kinh tế hh có sự quản lý của
Nhà nước, phủ định lại nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù
hợp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tự
cung tự cấp ở Việt Nam.
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước
ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu
công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nổ lực của nhân dân ta và sự giúp đỡ tận tình của
các nước XHCN khác mô hình kinh tế kế hoạch hoá đã phát huy đựơc tính ưu việt của
nó, từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá Nhà nước đã tập
trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để
ổn định và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phủ
định, nó đã tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời
nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng việc tạo ra
chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và Nhà nước huy động ở mức độ
cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Nhưng sai giải phóng Miền Nam, bức tranh toàn cảnh về hiện trạng kinh tế đã
có nhiều thay đỏi to lớn. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả 3 loại hình kinh
tế tự cấp, tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hh. Đó là thực tế
khách quan tồn tại sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng
kinh tế chỉ huy như ở Miền Bắc trước đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất
nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất
hiện hàng loạt các hiện tượng tiêu cực.
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một cách mạnh
mẽ mọi sản phẩm lao động, giá cả thì bị ấn định trước theo những chỉ tiêu của Nhà
nước, điều này dẫn đến việc những quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá cả,
quy luật cung cầu, quy luật giá trị bị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu
thông tiền tệ, giá cả bị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu thông tiền tệ , giá
cả không kiểm soát được, đặc biệt là trong những năm 80, lạm phát của nước ta đã lên
đến 3 con số làm cho đời sống nhân dân vô cùng khó khăn và tình hình kinh tế nước ta
lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nền sản xuất kém phát triển được sự bảo hộ của Nhà
nước lại càng trở nên trì trệ. Bộ máy quản lý doanh nghiệp không hiệu quả, cồng kềnh,
có nhiều cấp trung gian và không năng động, phong cách thì cửa quyền dưới chính
sách bù lỗ của Nhà nước ngày càng không đem lại bất cứ một hiệu quả kinh tế nào.
Đồng thời do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phủ hợp của cơ chế
quản lý kinh tế, chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất
của đất nước, trái lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các
nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản
xuất kém hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những việc đó gây ra rất
nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản
phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nền, thu nhập từ nền kinh tế
không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có vốn đầu tư chủ yếu vào vay
và viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng
kinh tế đi liều với lạm phát cao đã làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một
số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự xuy thoái nền kinh tế ở
nước ta là do đã áp dụng dập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu
quả.
Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng như trên, thêm vào đó viện trợ nước
ngoài bị giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta với sự bức bách đòi hỏi phải đổi mới. Đổi
mới để thoát khỏi khủng hoảng và phát triển đi lên.
2. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của
Nhà nước là một xu hướng phát triển tất yếu khách quan.
Trước những tồn tại và bất cập trên của nền kinh tế chỉ huy, tại Đại hội Đảng VI
(1986) đã chủ chương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực
hiện hạch toán kinh doanh XHCN. Đến Đại hôi Đảng VII Đảng ta xác định rõ
việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đã diễn
ra ở đó, tức là chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức
có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên
mặt trận làm kinh tế. Xét dưới góc độ triết học, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường
là đúng đắn và phù hợp với quy luật phủ định của phủ định và xu thế của thời đại.
Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không
thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng
sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ được thực hiện cơ chế kinh
tế cũ cho dù chúng ta liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nhưng hiệu
quả đạt được của nèn sản xuất xã hội rất thấp sản xuất không đáp ứng được nhu cầu
tiêu dùng xã hội tích luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn làm vào cả vón vay nước
ngoài.
Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung còn rất cứng nhắc nên nó chỉ có
tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển
nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó
không những không có tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất mà nó
còn sản sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất lượng và hiệu quả
sản xuất.
Thứ ba, xét về những nhân tố của kinh tế thị trường. Về vấn đề này có rất nhêìu
ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị trường nước ta là thị trường mới
hình thành còn non yếu và là thị trường sơ khai. Thực tế thị trường đã hình thành và
phát triển được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng
bằng ven biển. Thị trường trong nước đã được thông suốt và vươn tới những vùng hẻo
lánh xa xôi và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta
phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao
động, thị trường vốn và thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ
can thiệp của Nhà nước còn tất thấp, chưa có sự quản lý chặt chẽ sự hệ thống và liên
kết các thị trường một cách đồng bộ theo pháp luật.
Thứ tư, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang
hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư
trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gủi hơn với
nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá quốc tế.
Thứ năm, xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế
của mỗi nước không thể tách rời với sự phát triển hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa
các quốc gia đã làm thay đổi hẳn về chất, không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân
đội mạnh mà là tiền lực kinh tế. Mục đích của các quốc gia là tạo ra được nhiều của cải
vật chất trong quốc gia của mình đạt tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân
được cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu vai trò
và sức mạnh của mỗi dân tộc là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh
của các Đảng cầm quyền. Vì vậy chúng cần phải đổi mới để phát triển kinh tế cũng
như những mặt xã hội khác để khẳng định vị trí của Đảng của dân tộc mình trên trường
quốc tế.
Thứ sáu, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể
nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế và bản thân đời sống kinh tế- xã hội
đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp lạm phát khủng hoảng, ô nhiễm môi trường, sự
bùng nổ dân số cũng như những hiện tượng xã hội khác. những tình trạng và hiện
tượng trên ở mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đều có tác dụng ngược trở lại
làm cản trở sự phát triển bình thường của xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá
nói riêng, vì vậy, sự tác động của Nhà nước một chủ thể có khả năng nhận thức và vận
dụng các quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế
xã hội.
Như vậy, nhìn lại ta thấy, Việt Nam trong thời kỳ dài tiến hành xây dựng nền
kinh tế cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phủ định “bàn tay vô hình” của thị trường, cơ
chế này đã có một vai trò lịch sử trong những năm 1950-1979 và đã có tác dụng đáng
kể trong việc tập trung các nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước. Song cơ chế này đã được duy trì quá lâu, làm cho từ tập trung
ở mức cần thiết chuyển sang tập trung cao độ, phát sinh quan liêu bao cấp kìm hãm và
cản trở sự phát triển kinh tế trong thời bình. Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, khi
thay đổi, đồng thời nhận thức sâu sắc phép phủ định biện chứng là cái mới sẽ tất yếu
khách quan ra đời thay thế cho cái cũ không còn phù hợp nữa, vì vậy, trong Đại hội lần
thứ IV của Đảng (1986), Đảng và Nhà nước ta đã mạnh dạn đưa ra đường lối đổi mới,
điều chỉnh cơ cấu kinh tế để chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, công nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân
và có những chính sách mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đưa nền kinh tế nước ta dần dần
hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý
đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại hội VII Đảng khẳng định:
“Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành
có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ”.
2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung qua liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam.
Trước đây do chủ quan nóng vội muốn xây dựng một nền kinh tế thuần khiết
XHCN, Nhà nước ta đã xây dựng mọt nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung cao độ với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu mà không chú
ý tới yếu tố thị trường, hàng hoá sản xuất ra được định giá sẵn và không tuân theo
những quy luật của thị trường. Trên thực tế, cơ chế kinh tế đó đã là vật cản đối với sự
phát triển kinh tế. Do đó nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ra đừi mang tính khách
quan nó là kết quả của giải quyết mâu thuẫn tự có của nền kinh tế tự cung tự cấp. Tuy
nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không có nghĩa là phủ
định sạch trơn tất cả những gì của nền kinh tế cũ mà là một sự chuyển đổi có tính chất
kế thừa, trên cơ sở khắc phục, sửa đổi những tồn tại, sai lầm vốn có và phát huy những
mặt tốt, mặt tích cực của nó, điều này được thể hiện như sau:
Trước hết đó là việc công nhấn sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác bên
cạnh hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay ở Việt Nam gồm các thành
phần kinh tế: Thành phần kinh tế quốc doanh, thành phần kinh tế tập thể, thành phần
kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân..... Như vậy mặc dù đã phủ định loại bỏ những
mặt yếu kém của nền kinh tế cũ nhưng nền kinh tế mới đã biết kế thừa những yếu tố
tích cực của nền kinh tế trước và phát triển nó một cách toàn diện tốt hơn. Hai thành
phần kinh tế quốc doanh và thành phần kinh tế tập thể vẫn giữ vai trò chủ đạo trong
đường lối phát triển kinh tế. Những bước đổi mới quan trọng của Đảng của Nhà nước
là việc thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác như kinh tế ư bản tư nhân.
Với sự chuyển đổi đó, phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản
xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, trái lại ngày càng phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu.
ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề mới ra đời và phát triển. bên cạnh
những ngành nghề mới ra đời và phát triển đó, những ngành nghề cổ truyền có tiếng
không chỉ trong nước mà cả thế giới, có tiềm năng lớn mà trước đây bị cơ chế kinh tế
cũ làm mai một nay được phục hồi và phát triển. Trong nội bộ từng khu vực, từng
ngành, địa phương, phân công lao động ngày càng chi tiết hơn. Điều đó được phản ánh
ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng cao hơn của sản phẩm lao động đưa ra trên thị
trường. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia trở
thành quốc tế.
Cùng với việc công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau là sự
đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động như sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá thhể của những người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, sở hữu hỗn hợp khác: tư bản Nhà nước, Công ty cổ
phần.
Đây cũng là một bước ngoặt quan trọng để giải phóng sức lao động, tạo điều
kiện cho quan hệ sản xuất phát triển phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và
phù hợp với yêu cầu phát triển của thời đại.
Ngoài việc chuyển đổi tư tưởng mạnh mẽ về việc đa dạng hoá các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế, tính kế thừa trong công cuộc đổi mới ở nước ta còn được
thể hiện trong việc tiếp tục duy trì và phát huy công cụ kế hoạch hoá một cách linh hoạt
bằng việc kết hợp “bàn tay vô hình” với “bàn tay hữu hình”. Nền kinh tế nước ta, từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung phụ thuộc hoàn toàn vào sự quản lý của Nhà nước
đã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tôn trọng những quy luật khách
quan của thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... nhưng
không phải để cho những quy luật này tự do chi phối điều tiết thị trường mà ở đây có
sự can thiệp của Nhà nước. Nhà nước xuất hiện vừa với tư cách là một chủ thể kinh tế
hoạt động kinh doanh trên thị trường, vừa với tư cách là một chủ thể quản lý, bằng
những chính sách linh hoạt của mình để điều tiết hoạt động của thị trường. Nhà nước
không còn đưa ra kế hoạch sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu mà vấn đề này sẽ được
thực hiện bởi thị trường. Nhà nước can thiệp với tư cách định hướng, điều tiết trên cơ
sở đưa ra các kế hoạch dài hạn.
Như vậy nền kinh tế mới không thổi phồng, tuyệt đối hoá vai trò kinh tế của
Nhà nước tới mức phủ nhận thủ tiêu vai trò chủ thể kinh tế của các Công ty, Xí nghiệp,
các tổ chức sản xuất kinh doanh độc lập. Thực hiện quản lý kinh tế của Nhà nước trong
cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp là sai lầm. Trái lại vịn vào việc xây dựng và
phát triển vận động của các quy luật khách quan mà lại bỏ vai trò quản lý kinh tế của
Nhà nước cũng không đúng. ở Việt Nam hiện nay để xây dựng và phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN tức
là một mặt phải tiếp tục củng cố lại nền kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước,
mặt khác phải không ngừng phát huy vai trò của Nhà nước, của Đảng, luôn bảo đảm
niềm tin của người lao động.
Hơn nữa, cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế nước ta. Việc bổ sung pháp luật
tiếp tục đổi mới cơ chế và ngân sách về kế hoạch hoá, về giá, tỷ giá, tài chính, Ngân
hàng, lao động, tiền công, đất đai... đang tạo môi trường thuận lợi cho các doanh
nghiệp phát huy tính năng động tự chủ tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
3. Những thành tựu của công cuộc đổi mới.
Với sự chuyển đổi sâu sắc trong đường lối phát triển kinh tế, chúng ta đã đạt
giải quyết được hàng loạt các vấn đề kinh tế cơ bản như:
- Thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công lao
động, chuyên môn sản xuất cũng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề cho sự hợp tác lao
động ngày càng chặt chẽ.
- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế hàng hoá sự
tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu buộc người sản
xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, cải
tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu xã hội, tìm
mọi cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu người tiêu
dùng .... kết quả là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển gắn sản xuất với thị trường.
- Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giai lưu kinh tế trong
nước và hoà nhập nền kinh tế thế giới.
- Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản xuất khép
kín với kìm hãm sự phát triển cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế phát triển ở
trình độ cao thực hiện với hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta sau công cuộc đổi mới không những vững
mà còn đạt được những thành tựu nổi bật, khắc phục nhiều mặt đình đốn, suy thoái, tốc
độ tăng trưởng khá và liên tục, điển hình là: Lạm phát được đẩy lùi từ 67% năm 1991
xuống 17,5% năm 1992 và còn 5,2% năm 1993. Đến nay lạm phát của nước ta chỉ còn
0,1%. Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm 7,2%. Sản xuất Nông
nghiệp phát triển tương đối toàn diện, vấn đề lương thực được giải quyết tốt, sản lượng
lương thực năm 1993 xấp xỉ 25 triệu tấn, vượt mức đề ra trong năm 1995. Hiện nay,
nước ta đã vươn lên là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới. Sản xuất công
nghiệp đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm 13% cao hơn chỉ tiêu đề ra cho kế
hoạch. Năng lực sản xuất một số ngành và sản phẩm quan trọng như: điện, dầu, dầu
thô, thép, xi măng .... được tăng thêm. Hệ thống thông tin liên lạc mở rộng nhanh với
thiết bị công nghệ mới. Các ngành xây dựng, vận tải, thương nghiệp dịch vụ khác đều
phát triển. Cơ cấu kinh tế đang biến đổi, một số ngành sản xuất kinh doanh mới xuất
hiện. Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương
hoá. Đã khắc phục được hầu hết hậu quả do thị trường truyền thống bị giảm sút đột
ngột: mở rộng giao lưu với nhiều bạn hàng mới, tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm
xấp xỉ 20%. Tính đến năm 1993 đã cấp 836 giấy phép đầu tư nước ngoài với tổng số
vốn đầu tư đăng ký là 7,5 tỷ USD nhưng tới năm 1996 đã cấp 16454 giấy phép đầu tư
nước ngoài với tổng số vốn đăng ký đã là 21,8 tỷ USD, bước đầu thu hút thêm viện trợ
phát triển và vốn vay ưu đãi từ các Chính phủ: lập lại quan hệ bình thường với các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc gia.
Tuy vậy theo nhận định của Đảng ta thì cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang
trong gia đoạn hình thành, các doanh nghiệp Nhà nước bước đầu được sắp xếp và đăng
ký lại. Đã giảm bớt một số lượng lớn những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Số
đơn vị kinh doanh có hiệu quả tăng lên. Khu vực kinh tế Nhà nước nhìn chung vẫn
phát triển, nắm những lĩnh vực then chốt và giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc
doanh, tỷ trọng GDP tăng từ 34% năm 1990 lên 39,9% năm 1992. Hợp tác xã Nông
nghiệp có phương hướng đổi mới rõ hơn kể từ đại hội Trung ương Vi vai trò tự chủ của
các hộ nông dân được khẳng định. Một số loại hình kinh tế hợp tác xã mới xuất hiện.
Luật đất đai chính thức giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài cho dân. Đã giúp
kinh tế hộ nông dân có thêm động lực phát triển mới. Kinh tế cá thể và kinh tế tư bản
tư nhân phát triển đáng kể. Doanh nghiệp cổ phần và liên doanh thu hút vốn đầu tư
thuộc nhiều hình thức sở hữu xuất hiện ngày càng nhiều.
Phần III: Xu hướng của nền kinh tế và một số giải pháp
Tại đại hội VIII Đảng ta đã xác định rõ “Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, đối với tăng cường vai trò quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN”
Định hướng XHCN là sự lựa chọn về mục tiêu, con đường tiến lên CNXH của
một quốc gia, dân tộc dựa trên những điều kiện khách quan cho phép và bao hàm một
nội dung kinh tế, chính trị xã hội rộng lớn (Liên hệ định hướng XHCN nhìn từ góc độ
triết học – tạp chí triết học số 4 (116) tháng 8-2000 trang 62)
Như vậy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có đặc điểm
mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, nền kinh tế ấy lấy các thành
phần kinh tế dựa trên sở hữu xã hội và sở hữu tập thể làm nền tảng, lấy kinh tế Nhà
nước làm chủ đạo, lấy việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng
văn minh làm mục tiêu.
Muốn vậy nền kinh tế ấy phải đảm bảo:
- Có tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, ổn định
- Lấy việc giải phóng sức lao động làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu
thành phần kinh tế, hình thức sở hữu
- Làm cho nền kinh tế Nhà nước phát triển trước hết về chất để nắm vai trò chủ
đạo kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng.
- Xác định và cũng cố nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền
kinh tế thị trường, giải quyết vấn đề công bằng xã hội phù hợp từng bước với sự tăng
trưởng kinh tế.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối:
Do đó để thực hiện chủ trương của Đảng đề ra: “Phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN cần có các giải pháp thực hiện”.
Các giải pháp thực hiện.
Theo phương diện triết học khi chuyển đổi sang nền kinh tế cơ chế thị trường
với ự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, để đạt được một nền kinh tế vững
mạnh thì trước hết phải tìm ra con đường nhanh nhất để thực hiện đồng bộ cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
- Đẩy mạnh cách mạng khoa khọc – công nghệ nhằm phát triển nền kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Đảng ta đã xác định muốn phát triển kinh tế thì
phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học – công nghệ vào sản xuất và lưu thông,
đảm bảo cho nền kinh tế hàng hoá đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
- Nhà nước cần chỉ đạo xây dựng đúng đắn quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội
của các vùng, các tỉnh trở thành vùng, tỉnh khá giàu có. ưu tiên tập trung đầu tư ngân
sách Nhà nước đ phát triển nhanh kinh tế xã hội của các tình khó khăn theo quy hoạch
phát triển đã được duyệt.
- Mở rộng phân công lao động, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả
nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
phân công lại lao động giữa các ngành theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá, lao
động công nghiệp và dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối.
- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại: Ta phải đa dạng hoá hình thức, đa phương
hoá đối tác phải quán triệt nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Phải triệt để khai thác lợi thế
của đất nước trong quan hệ kinh tế quốc tế nhằm khai thác tiềm năng lao động, tài
nguyên thiên nhiên của đất nước, thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh
nghiệm quản lý của các nước khác.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi phù hợp với
yêu cầu của kinh tế thị trường.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp
Nhà nước.
- Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần coi đây là điều kiện
cơ sở, để thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức
mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế huy động những tiềm năng to lớn còn bị
phân tán của xã hội và phát triển sản xuất.
- Giữ vững ổn định chính trị hoàn thiện về hệ thống pháp luật đổi mới các chính
sách tài chính tiền tệ, giá cả.
Quá trình vận động của lịch sử nhân loại chỉ thấy mặt lý luận, mặt tư tưởng
khoa khọc hoặc đường lối hay mãi mãi chỉ là lý thuyết tồn tại trên giấy tờ nếu chúng
không được thể chế hoá thành hiến pháp, pháp luật, thành cơ chế chính sách của Nhà
nước chỉ có bằng sức mạnh của hiện pháp, pháp luật chính sách của Nhà nước, định
hướng XHCN mới có thể đi vào cuộc sống nhờ đó các năng lực sản xuất hiện có trong
xã hội ta mới được giải phóng, được cởi bỏ những xiềng xích của chế độ cũ, những tập
quán, lề lối làm ăn, lạc hậu. Nhờ đó chúng ta mới lập được nền kinh tế thị trường đồng
bộ, mới có khả năng khai thác được các lợi thế cạnh tranh thúc đẩy nền kinh tế phát
triển với nhịp điệu nhanh mạnh và vững chắc.
Kết luận
Khi xem xét sự phát triển có một vấn đề được đặt ra là sự phát triển diễn ra theo
chiều hướng nào? Quan điểm duy vật biện chứng, triết học Mác đã mang lại câu trả lời
cho vấn đề trên ở chỗ: Từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, sự
đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự
vật mới ra đời. Sự ra đời đó là một mắt xích trong sợi dây xích phát triển và là kết quả
của sự phủ định cái cũ, cái lỗi thời trên cơ sở kế thừa, lặp lại nhưng không quay trở lại
mà có tính chất tiến lên của sự phát triển.
Nhìn vào quá trình phát triển nền kinh tế nước ta, chúng ta thấy việc chuyển đổi
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN là một tất yếu khách quan phù hợp với quy luật phát
triển. Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, chúng ta đã xoá bỏ và khắc phục được
những khuyết, hạn chế của nền kinh tế mới phù hợp với xu hướng phát triển tất yếu của
nền kinh tế thế giới. Đây là bước phát triển cao hơn so với nền kinh tế cũ nhưng chúng
ta cần phải nhận thức sâu sắc rằng đây không phải là sự phát triển cao nhất bởi mọi sự
vật hiện tượng đều tồn tại trong lòng nó những mâu thuẫn, và cái mới sẽ ra đời để thay
thế cái cũ. Chính vì vậy mà trên con đường phát triển kinh tế của mình, chúng ta luôn
phải nghiên cứu tìm tòi ra những giải pháp nhằm đạt được những bước phát triển cao
hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác – LêNin – NXB Chính trị quốc gia – Tập II
2.Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
3. Văn Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII
4.Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII
5.Tạp chí triết học, số 1 (101), tháng 2 - 1998.
7. Tạp chí triết học số 4 (116) tháng 8-2000
Mục lục
A. Đặt vấn đề ....................................................................................................................... 1
B. Nội dung .......................................................................................................................... 3
PhầnI: Nội dung lý luận .................................................................................................... 3
I. Khái niệm phủ định biện chứng: ............................................................................. 3
1. Định nghĩa phủ định biện chứng. ........................................................................... 3
2. Đặc điểm của phủ định biện chứng. ....................................................................... 4
3. So sánh phủ định biện chứng với phủ định siêu hình để thấy nguyên nhân, động
lực của sự phát triển là gì. ........................................................................................... 6
II. Tính đặc thù của phủ định biện chứng với đổi mới trong lĩnh vực kinh tế xã
hội. .................................................................................................................................... 7
Phần II: Phép phủ định biện chứng đối với quá trình đổi mới kinh tế Việt Nam ... 8
I. Tính khách quan tất yếu của sự ra đời nền kinh tế hh có sự quản lý của Nhà
nước, phủ định lại nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù
hợp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. .................................................... 8
1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tự cung tự
cấp ở Việt Nam. ........................................................................................................... 8
2. Sự ra đời của nền kinh tế hh nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước là
một xu hướng phát triển tất yếu khách quan.............................................................. 9
2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung qua liêu bao cấp sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam. .............................................. 12
3. Những thành tựu của công cuộc đổi mới. ............................................................ 14
Phần III: Xu hướng của nền kinh tế và một số giải pháp .......................................... 17
Kết luận .............................................................................................................................. 20
Tài liệu tham khảo ............................................................................................................ 21
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Khái niệm phủ định biện chứng trong triết học Mác – LêNin với việc phân tích đổi mới kinh tế ở Việt Nam.pdf