Tài liệu Luận văn Hướng dẫn học sinh phân tích và thảo luận các tầng ý nghĩa nhân sinh trong quá trình dạy học truyện ngắn “chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
====== ======
HOÀNG THỊ HỒNG MINH
HƢỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH
VÀ THẢO LUẬN CÁC TẦNG Ý NGHĨA NHÂN SINH
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN
“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU
Chuyên ngành: Lí luận và Phƣơng pháp dạy học Văn & Tiếng Việt
Mã số: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS: NGUYỄN THANH HÙNG
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
====== ======
HOÀNG THỊ HỒNG MINH
HƢỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH
VÀ THẢO LUẬN CÁC TẦNG Ý NGHĨA NHÂN SINH
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN
“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1.Tác giả Nguy...
112 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hướng dẫn học sinh phân tích và thảo luận các tầng ý nghĩa nhân sinh trong quá trình dạy học truyện ngắn “chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
====== ======
HOÀNG THỊ HỒNG MINH
HƢỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH
VÀ THẢO LUẬN CÁC TẦNG Ý NGHĨA NHÂN SINH
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN
“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU
Chuyên ngành: Lí luận và Phƣơng pháp dạy học Văn & Tiếng Việt
Mã số: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS: NGUYỄN THANH HÙNG
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
====== ======
HOÀNG THỊ HỒNG MINH
HƢỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH
VÀ THẢO LUẬN CÁC TẦNG Ý NGHĨA NHÂN SINH
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN
“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1.Tác giả Nguyễn Minh Châu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
1.2. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
2. Lịch sử vấn đề . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu . .. .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
5. Phương pháp nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
6. Bố cục luận văn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng I: Tiền đề lý luận và thực tiễn của đề tài
1. Phương pháp phân tích và thảo luận trong quá trình dạy học tác phẩm
văn chương: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .10
Phương pháp phân tích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . 10
Phương pháp thảo luận . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 15
Mối quan hệ giữa hai phương pháp trên trong quá trình dạy học tác phẩm
văn chương. . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . .. 21
2. Các tầng ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương:. . . .. . . . . . . 26
Quan niệm về ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương .........26
Những biểu hiện cụ thể của ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. .26
Cách thức phân tích và thảo luận các tầng ý nghĩa nhân sinh trong tác
phẩm văn chương. . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 27
Tầm quan trọng của ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương và trong
việc giáo dục, đào tạo nhân cách học sinh . ...31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng II: Những biểu hiện cụ thể của các tầng ý nghĩa nhân sinh trong
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
1. Phân tích kết cấu truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa ” . .. . .. . . . . . . . ..33
Định nghĩa kết cấu tác phẩm văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 33
Kết cấu của truyện ngắn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 33
Kết cấu của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. . . . . . . . . . . 34
2. Phân tích chủ đề của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . . . 35
2.1 . Định nghĩa chủ đề . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 35
2.2. Chủ đề truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . . . . .. . . . . .35
2.3. Phân tích chủ đề truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . 36
3. Những biểu hiện cụ thể của các tầng ý nghĩa nhân sinh trong truyện ngắn
“Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 39
3.1. Những chiêm nghiệm về chân lý nghệ thuật qua hai phát hiện của
nghệ sĩ Phùng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 40
3.2. Những chiêm nghiệm về chân lý đời sống qua câu chuyện về cuộc
đời người đàn bà hàng chài .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 43
3.2.1. Ca ngợi những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người qua hình
tượng nhân vật trung tâm: người đàn bà hàng chài . .. . . . . . . . 43
3.2.2. Lên án bạo lực trong gia đình qua hình tượng nhân vật người đàn
ông hàng chài . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 52
3.2.3. Cảnh báo những nguy cơ xã hội tiềm ẩn . . . . . . . . . . . . . . . . .. 54
3.2.3.1. Hình tượng nhân vật chú bé Phác . . . . . . . . . . . . . . . . .54
3.2.3.2. Hình tượng nhân vật người con gái . . . . . . . . . . . . . .. ..55
3.2.4. Sự thức tỉnh để nhận ra chân lý mới: chân lý về nghệ thuật và
chân lý về cuộc sống . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . ..56
3.2.4.1. Đối với người chánh án . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 56
3.2.4.2. Đối với người nghệ sĩ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. 58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
3.2.4.3. Quan niệm nghệ thuật mới mẻ của Nguyễn Minh Châu về
con người và cuộc sống . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 58
3.3. Mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống . . . . . . . . .. . . . . . . . . 59
4. Mối quan hệ đa dạng và thống nhất giữa các tầng ý nghĩa nhân sinh trong
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”61
Chƣơng III: Thiết kế dạy học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
1. Thiết kế. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . … 63
2. Giải thích thiết kế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .91
3. Hướng dẫn thực hiện thiết kế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ... . . . . . . . . . 92
Phần chung của thực hiện thiết kế . . . . . . . . . . . . . … . . . . . . . . .92
Phần cụ thể: Hướng dẫn học sinh vận dụng PP phân tích và PP thảo luận
trong việc tìm hiểu các tầng ý nghĩa nhân sinh của truyện . . 95
Tự đánh giá về những ưu điểm và những bất cập của thiết kế . 99
PHẦN KẾT LUẬN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Tác giả Nguyễn Minh Châu.
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn
học hiện đại nước nhà. Sự nghiệp văn chương của ông là tấm gương phản
chiếu quá trình phát triển văn xuôi Việt Nam đương đại.
Là một nhà văn suốt đời khát khao khám phá cái đẹp và sự chân thực
trong cuộc sống, ông viết các tác phẩm với mong muốn:“Đi tìm chất ngọc ẩn
trong bề sâu tâm hồn con người”
Trước 1975, các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu mang đậm chất sử thi
và cảm hứng lãng mạn. Nguyễn Minh Châu được bạn đọc biết đến và yêu
mến qua các tiểu thuyết: Cửa sông, Dấu chân người lính và truyện ngắn giàu
chất sử thi như Mảnh trăng cuối rừng …đã góp phần dựng lên bức tượng đài
về sức mạnh và vẻ đẹp của dân tộc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Trong những tác phẩm này, ý thức cộng đồng và tình yêu Tổ quốc là một
hệ quy chiếu duy nhất và cao cả nhất để định giá mọi quan hệ từ gia đình đến
xã hội, mọi tình cảm từ riêng đến chung của con người, trong hoàn cảnh đất
nước có chiến tranh cần có sự đồng lòng nhất trí cao độ thì điều này là tất yếu.
Trong dòng chảy mãnh liệt của lịch sử thời đại chống Mỹ thì ngọn lửa kháng
chiến đã tôi luyện ngòi bút Nguyễn Minh Châu.
Sau 1975 khi hoàn cảnh xã hội thay đổi nền văn học mang âm hưởng sử
thi dần dần bộc lộ tính sơ lược công thức, có phần giản đơn phiến diện về con
người, lúc này khó có thể đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống mới với
những vấn đề phức tạp, bức xúc bộn bề. Trong cuộc đấu tranh lâu dài giữa đời
thường, bao vấn đề nhân sinh đã đặt ra cho mỗi người nói chung và cho các
nhà văn như Nguyễn Minh Châu nói riêng. Nguyễn Minh Châu đã có sự
chuyển hướng về tư duy nghệ thuật: từ cuộc “chiến đấu cho quyền sống của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
cả dân tộc”, nhà văn cùng đất nước chuyển sang cuộc “chiến đấu cho quyền
sống của từng con người” {12, 390} .
Là một nhà văn tâm huyết suốt đời trăn trở, băn khoăn như ngọn nến tự
đốt thân mình để cháy sáng; Nguyễn Minh Châu đã sớm ý thức được yêu cầu
phải đổi mới tư duy văn học và đã âm thầm tự đổi mới và tự tìm hướng đi cho
chính mình với một loạt truyện ngắn đậm chất đời tư-thế sự: Cỏ lau, Cơn
giông, Bức tranh, Bến quê…
Những tác phẩm của ông giai đoạn này hấp dẫn người đọc bởi sự giản dị
mà chứa đựng chiều sâu nhân bản. Tâm điểm khám phá nghệ thuật của ông là
những con người bình thường trong cuộc mưu sinh và trong hành trình nhọc
nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Đặc biệt những năm cuối
đời, dòng mạch văn chương của ông xót xa trầm lắng trong bến bờ sâu thẳm
của nó – nơi ông hằng ám ảnh và manh nha tìm kiếm vấn đề số phận con
người. Thực tế văn học cho thấy: quá trình đổi mới ý thức nghệ thuật của
Nguyễn Minh Châu là quá trình trở về cội nguồn chủ nghĩa nhân văn, nối lại
truyền thống văn học trung đại thấm đẫm tình người tình đời, và là sự khơi
nguồn cảm hứng nhân văn cho những sáng tác trong những thập kỷ sau này.
Đánh giá về những tác phẩm của ông được viết vào những năm đầu của
thập kỷ 80 nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét:“Nguyễn Minh Châu là một
trong những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học nước
ta thời kỳ sau 1975”.
Các tác phẩm của ông trong mấy thập kỷ qua đã thu hút sự tìm tòi, nghiên
cứu một cách khoa học, sâu sắc và khách quan của các nhà phê bình và
nghiên cứu trong nước. Đã có nhiều công trình nghiên cứu các tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu ở phương diện nội dung và nghệ thuật để thấy được
những tìm tòi đổi mới trong cách viết của Nguyễn Minh Châu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Với những đóng góp trên, nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã
được chọn để giảng dạy trong nhà trường: Mảnh trăng cuối rừng, Bến quê,
Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa. Đặc biệt là truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa” –một tác phẩm mới được chọn đưa vào dạy trong các trường
THPT. Đây là một tác phẩm đương đại, đề ra những vấn đề trong cuộc sống
hôm nay, nên không xa lạ với học sinh. Đây cũng là tác phẩm hay và khó so
với sự tiếp nhận của học sinh, vì nó chứa đựng nhiều mặt, nhiều tầng ý nghĩa
ẩn không dễ tiếp cận.
2.2. Truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa”.
Là tác phẩm độc đáo về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu cho phong
cách nhà văn Nguyễn Minh Châu, và cũng tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời
sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái nhìn hiện
thực đa chiều đã giúp ông nhận ra đời sống con người bao gồm cả những quy
luật tất yếu, lẫn những ngẫu nhiên may rủi khó bề lường hết. Ông day dứt về
việc con người phải chấp nhận những nghịch lý không đáng có. Gánh nặng
mưu sinh đã đè trĩu trên đôi vai cặp vợ chồng hàng chài, giam hãm họ trong
cảnh tăm tối đói khổ, bấp bênh. Phía sau câu chuyện buồn này, trái tim nhân
hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin yêu, sự trân trọng trước vẻ
đẹp của tình mẫu tử, sự can đảm và bao dung của người phụ nữ. Đó không
phải là kiểu vẻ đẹp chói sáng, hào hùng; mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn
trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm hay, có sức hấp
dẫn, lôi cuốn người đọc. Tác phẩm đưa ra những vấn đề nhân sinh rất gần gũi,
phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh lớp 12 - lứa tuổi gần hoàn thiện
về mọi mặt những vấn đề thường xảy ra trong cuộc sống hàng ngày để học
sinh cùng suy nghĩ, tìm cách lý giải. Để từ đó học sinh tự nhận thức, tự giáo
dục và tự phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Những đặc sắc trong đổi mới về nội dung và nghệ thuật trong cách viết
của ông đã được một số bài viết đề cập đến ở nhiều khía cạnh, nhưng phương
pháp giúp học sinh tiếp cận các tầng ý nghĩa nhân sinh của tác phẩm này thì ít
người đề cập đến và chưa được nhất trí với nhau. Thực hiện đề tài hướng dẫn
học sinh phân tích và thảo luận các tầng ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm
này, tôi mong tìm hiểu sâu sắc hơn và giúp học sinh phân tích, thảo luận các
tầng ý nghĩa nhân sinh của tác phẩm đầy đủ hơn.
2. Lịch sử vấn đề.
Là một nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, kể từ truyện
ngắn đầu tay được đăng lần đầu tiên năm 1960, cho đến khi tạ thế 1989,
Nguyễn Minh Châu đã có 30 năm hoạt động trên các lĩnh vực báo chí và văn
học nghệ thuật. Với những đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà,
Nguyễn Minh Châu đã được nhận nhiều giải thưởng có giá trị.
- Giải thưởng Bộ Quốc phòng(1984-1989) cho toàn bộ tác phẩm của ông
viết về chiến tranh và người lính.
- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam(1988-1989) cho tập truyện vừa
“Cỏ Lau”.
- Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật cho các tác phẩm:
“Dấu chân người lính, Cửa sông, Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tầu tốc
hành”.
Toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu được in trong
“Nguyễn Minh Châu toàn tập” ( 5 tập) do NXB Văn học phát hành năm
2001 đã khẳng định vị trí của ông trong nền Văn học dân tộc.
Các sáng tác của Nguyễn Minh Châu luôn gây được sự chú ý và hấp dẫn
đối với bạn đọc nói chung và giới phê bình nói riêng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Chỉ trong khoảng 5 năm từ “Cửa sông” (1967) đến “Dấu chân người
lính” (1972) đã có hơn 17 bài phê bình đăng trên các báo và tạp chí Trung
ương.
Các bài viết về con người và tác phẩm của ông được tập hợp trong
“Nguyễn Minh Châu - Con người và Tác phẩm” do Nguyễn Trọng Hoàn
giới thiệu và tuyển chọn.
Đi sâu vào tìm hiểu phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, tác
giả Tôn Phương Lan đã có công trình nghiên cứu khoa học riêng“Phong
cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu”.
Ngoài ra còn có nhiều chuyên luận, nhiều bài báo, khoá luận tốt nghiệp ,
luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ của sinh viên Đại học, Cao học và nghiên
cứu sinh về tác phẩm của Nguyễn Minh Châu.
Một số tác phẩm được chuyển thể sang kịch bản điện ảnh như:“Mảnh
trăng”,“Cỏ lau”,“Khách ở quê ra”.
Trong cuộc “Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn
Minh Châu” do tuần báo Văn nghệ tổ chức vào tháng 6/1985, với sự tham
gia của nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình văn học lớn và sự có mặt
của Nguyễn Minh Châu thì còn có nhiều ý kiến khác nhau về những thành
công và hạn chế trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu. Những điều đáng
chú ý là hầu hết mọi người đều thừa nhận nét mới của ông không chỉ so với
các nhà văn cùng thời, mà còn so với chính ông thời kỳ trước đó: Đó là sự
đổi mới của nhà văn về tư duy nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con
người, phương thức thể hiện…
Giáo sư Phong Lê đã thấy được ở Nguyễn Minh Châu “cái đa giọng
điệu, cái đa thanh của cuộc đời đã đi vào tác phẩm” và do nhận thức “cái
quyết định không phải là đề tài” nên Nguyễn Minh Châu đã “dần dần tạo ra
thế giới nghệ thuật của riêng mình”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Nếu những tác phẩm trước năm 1975 của Nguyễn Minh Châu đi theo
dòng chảy lịch sử giàu cảm hứng lãng mạn và đậm chất sử thi - anh hùng ca
được thể hiện qua hình tượng người lính mang trong mình những phẩm chất
cao đẹp, ý chí sức mạnh phi thường, kết tinh những vẻ đẹp tinh thần và lý
tưởng cao cả của dân tộc Việt Nam đã gây được những tiếng vang lớn (Cửa
sông, Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng); thì ở những tác phẩm viết
sau 1975, nhà văn không đi theo những khuôn mẫu định hình sẵn có trước
đây. Đổi mới tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 xuất
phát từ nhận thức sâu sắc: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm,
mà tâm điểm là con người([20,111]. Sau 1975, con người trở về với cuộc
sống đời thường, phải đối mặt với bao phức tạp trong cuộc sống thường nhật.
Bởi vậy hình tượng con người trong sáng tác của ông giai đoạn này không
còn mang vẻ đẹp lý tưởng hoàn hảo mà được khám phá trong nhiều hoàn
cảnh, với nhiều mối quan hệ phức tạp với những uẩn khúc tâm lý, những b i
kịch tâm hồn, những số phận trớ trêu qua đó thể hiện những chiêm nghiệm về
cuộc đời.
Quan tâm đến những số phận bất hạnh, lòng cảm thông thương xót của
Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở những mất mát, những số phận bi
kịch của con người trong và sau chiến tranh, mà đã tìm về cuộc sống thường
nhật trong mỗi gia đình, với tâm sự và số phận mỗi cá nhân, với niềm thao
thức thế sự. Ông luôn cảm thông chia sẻ với những bi kịch đời thường và thể
hiện niềm tin sâu sắc vào con người và cuộc sống. Quan niệm nghệ thuật về
con người và phương thức thể hiện của Nguyễn Minh Châu có nhiều đổi mới
mục đích: đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm đầy uẩn khúc với khát vọng
“Tìm ra con người trong con người” (Bakhtin). Qua việc đi sâu vào khám phá
con người cá nhân đời tư, con người bên trong không đồng nhất với chính
mình; ông thấy được trong tâm hồn mỗi con người cái cao cả và thấp hèn, lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
trí và bản năng,“rồng phượng và rắn rết”, “thiên thần và ác quỷ”; để từ đó
phát hiện ra quy luật của đời sống. Các tác phẩm được viết ở giai đoạn này đề
cập đến quyền con người, thức tỉnh ý thức cá nhân với khát vọng hoàn thiện
con người, khát vọng sống bình yên hạnh phúc và lòng cảm thương ưu ái đối
với thân phận con người. Với những thành công trên, một số tác phẩm giai
đoạn sau 1975 của ông được chọn đưa vào chương trình giảng dạy ở trường
phổ thông: Bức tranh, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn mới được đưa vào
giảng dạy ở bậc THPT, song cũng có nhiều bài báo, nhiều công trình nghiên
cứu đi sâu vào phân tích những nét đặc trưng về nội dung và nghệ thuật, tuy
nhiên về phương pháp giúp học sinh phân tích và thảo luận để tìm ra các tầng
ý nghĩa nhân sinh của tác phẩm thì chưa được đề cập đến cụ thể và đầy đủ.
Tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi muốn giúp học
sinh phân tích và thảo luận tác phẩm như là hai biện pháp dạy học phù hợp
với tác phẩm này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu các
tầng ý nghĩa nhân sinh của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn
Minh Châu.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những phương diện cơ
bản như: kết cấu, chủ đề của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, ý nghĩa
nhân sinh trong tác phẩm văn chương và các tầng ý nghĩa nhân sinh trong
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Mục đích:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
- Vận dụng hoạt động phân tích và thảo luận như những biện pháp
khám phá giá trị riêng của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” với các tầng
ý nghĩa nhân sinh của nó.
- Qua việc hướng dẫn học sinh phân tích và thảo luận, nhằm phát huy tính
tích cực, sáng tạo của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giờ học tác
phẩm văn chương.
4.2. Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu nét đặc sắc về giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật
trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, từ đó đề
xuất các biện pháp phân tích và thảo luận để học sinh phát hiện, bình giá các
tầng ý nghĩa nhân sinh của truyện.
- Thực nghiệm dạy học nhằm khẳng định tính khả thi và hiệu quả qua
việc hướng dẫn học sinh phân tích và thảo luận như là hai phương pháp chủ
yếu và có mối quan hệ với nhau để cùng giáo viên khám phá chiều sâu của tác
phẩm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động phân tích và thảo luận.
2. Nghiên cứu thực tiễn qua việc thống kê khảo sát mức độ nắm vững
những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, qua việc tìm hiểu
thực trạng việc đặt câu hỏi hướng dẫn học sinh phân tích và thảo luận, qua
quan sát tính tích cực của học sinh, nhằm đánh giá khả năng vận dụng biện
pháp phân tích và thảo luận phù hợp với nội dung của đề tài.
6. Bố cục luận văn: Luận văn gồm ba phần:
* Phần mở đầu : Luận văn trình bày các nội dung sau:
- Lý do chọn đề tài
- Lịch sử vấn đề
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu.
- Bố cục của luận văn
* Phần nội dung: Gồm ba chương:
Chương 1: Tiền đề lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Những biểu hiện cụ thể của các tầng ý nghĩa nhân sinh trong
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
Chương 3: Thiết kế dạy học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu.
* Phần kết luận:
* Danh mục các tài liệu tham khảo
B. PHẦN NỘI DUNG.
Chƣơng I: Tiền đề lý luận và thực tiễn của đề tài.
1. Phƣơng pháp phân tích và thảo luận trong quá trình dạy học tác phẩm
văn chƣơng.
1.1: Phƣơng pháp phân tích:
Phân tích: Là bước tiếp theo của cơ chế tiếp nhận văn học. Nó là hoạt
động tìm hiểu chi tiết nghệ thuật những tình huống nổi bật của tác phẩm để
đạt được sự nhận thức sâu sắc; vì tác phẩm văn chương là một văn bản thống
nhất hữu cơ giữa nhiều sự kiện, nhiều chi tiết, yếu tố hợp thành.
Theo GS.TS Nguyễn Thanh Hùng: Phân tích là hoạt động chia nhỏ đối
tượng để có cái nhìn cụ thể những yếu tố làm nên chỉnh thể sâu hơn. Đó là sự
mổ xẻ chỉnh thể tác phẩm, để khi ghép hợp lại những yếu tố đã phân tích theo
cách hoàn toàn khác thường sẽ phát hiện ra những khía cạnh bất ngờ của
chỉnh thể tác phẩm. Vì thực ra hoạt động phân tích đã bao gồm thao tác lựa
chọn và thao tác phối hợp. Ngoài việc phân tích mối liên hệ sự kiện của tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
phẩm, người viết còn phải phân tích mối quan hệ liên tưởng. Chính vì vậy, kết
quả của hoạt động phân tích chắc chắn sẽ đem lại sự phong phú và sâu sắc
hơn cho tác phẩm văn học [14, 148]
Việc phân tích tác phẩm thành nhiều yếu tố để xem xét là hoạt động rất
cần thiết để giúp người đọc không bỏ qua sự sáng tạo nào của tác giả, để có
thể nhìn tác phẩm một cách sâu hơn, kỹ hơn. Phân tích tác phẩm giống như
công việc tháo rỡ một cấu trúc để lần ra mối dây liên kết các thành phần. Từ
những nguyên liệu, bộ phận đã được tách rời ấy, người đọc bằng cảm nhận đã
sáng tạo riêng ra cấu trúc mới, điều này làm sáng tỏ nhiều ý nghĩa tiềm ẩn của
cấu trúc cũ. Nghĩa là: giữa văn bản của nhà văn và văn bản tạo lại của người
đọc không bao giờ tách nhau, nhưng cũng không bao giờ trùng khít nhau. Hai
thế giới nghệ thuật ấy sẽ soi sáng nhau, tạo nên một môi trường thẩm mỹ
dành cho độc giả.
Quá trình phân tích cũng là quá trình người đọc vừa khám phá cái đẹp của
tác phẩm bằng cách của chính mình, vừa hiểu thấu cái đẹp của sự sáng tạo,
vừa sáng tạo thêm cái đẹp cho tác phẩm. Khi phân tích tác phẩm văn học,
nhiều nhà nghiên cứu thường chú ý tìm hiểu những yếu tố ngoài văn bản như
hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Đây là định hướng ban đầu tạo điều kiện có
thể hiểu đúng, hiểu sâu tác phẩm. Song cạnh đó, khi phân tích phải đặc biệt
chú ý những yếu tố bên trong cấu trúc văn bản, bởi đây là một trong những
khâu quan trọng, có ý nghĩa quyết định.
Theo GS Trần Đăng Xuyền [34, 121] thì việc phân tích trực tiếp tác
phẩm được tiến hành theo 3 bước: Tổng – Phân – Hợp
* Bước 1: Đọc kỹ tác phẩm, cảm thụ tác phẩm qua trực giác bằng tình
cảm, lý trí trong tính chỉnh thể toàn vẹn của nó để nhận ra diện mạo, âm
hưởng, và tinh thần chung, cùng với những nét đặc sắc về nghệ thuật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Ấn tượng tổng hợp ban đầu về tác phẩm được hình thành trên cơ sở lắng
nghe tiếng nói của trực giác, của cảm xúc và sự rung cảm khi đọc tác phẩm, là
sự cảm nhận trực tiếp về vẻ đẹp và ý nghĩa hình tượng của tác phẩm. Tuy vậy
tình cảm, cảm xúc của chủ thể tiếp nhận còn dựa trên cơ sở hiểu biết khoa học
và quan niệm thẩm mỹ đúng đắn trên cơ sở của một vốn văn hoá sâu rộng và
vốn sống phong phú, chứ không phải là thứ tình cảm vu vơ. Cần tiếp nhận tác
phẩm văn học trên tổng thể, trong tính chỉnh thể của nó. Bởi mỗi tác phẩm
văn học là một chỉnh thể nghệ thuật tạo ra một xã hội riêng, một thế giới riêng
có tính hệ thống theo quy luật riêng của nó. Nên phân tích trực tiếp tác phẩm
bước đầu tiên là phải nắm bắt được chính xác tinh thần chung của tác phẩm.
Trong bước tổng hợp ban đầu cần chú ý tới đặc điểm thể loại của tác
phẩm. Thơ cần chú ý tới sự bộc lộ tình cảm của nhà thơ qua ngôn từ, hình
ảnh, nhịp điệu và nhạc điệu. Truyện cần chú ý đến cốt truyện, kết cấu, tình
huống truyện, nhân vật, nghệ thuật tự sự. Kịch cần chú ý tới xung đột kịch,
hành động của nhân vật…
* Bước 2: Phân tích chi tiết tác phẩm :
Đây là bước phân tích từng yếu tố, từng phương diện của tác phẩm qua
việc cảm thụ ở bước 1. Tìm hiểu những chi tiết, phân tích những yếu tố,
những mặt riêng biệt của tác phẩm nhằm phát hiện mối quan hệ giữa chúng để
đạt tới nhận thức chung sâu sắc hơn.
Trong một tác phẩm các yếu tố đều có mối quan hệ mật thiết với nhau
tạo nên chỉnh thể, song cần phải lựa chọn những yếu tố, tình tiết quan trọng,
kết tinh cao nhất tư tưởng và nghệ thuật tác phẩm để phân tích. Qua các chi
tiết cụ thể, có giá trị phải chỉ ra được các giá trị nội dung và nghệ thuật của
chi tiết đó.
Khi phân tích cần chú ý phân tích giá trị thẩm mỹ của tác phẩm, phân
tích hình tượng nghệ thuật và chi tiết nghệ thuật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
- Phân tích giá trị thẩm mỹ của tác phẩm:
Giá trị này thể hiện cái hay của cái đẹp của nghệ thuật, nội dung quy
định hình thức: cái độc đáo, cái đơn nhất ở phương thức trình bày nghệ thuật
thể hiện trí tuệ, tài năng và trình độ tinh nhạy của tác giả.
Nói cách khác: giá trị thẩm mỹ là cái hay, cái đẹp của tác phẩm thể hịên
ở phương tiện ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật, kết cấu, điểm nhìn, nhân vật
trữ tình…
- Phân tích hình tượng:
Nhà văn xây dựng hình tượng để khái quát hiện thực, cắt nghĩa đời sống,
thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Hình tượng nghệ thuật là bức tranh về
đời sống được nhà văn sáng tạo một cách khái quát, điển hình và là kết tinh
của những ấn tượng sâu sắc về cuộc đời đã làm nhà văn phải trăn trở, day dứt.
Nó vừa cụ thể, vừa khái quát, có đặc điểm phi vật thể; nên khi phân tích hình
tượng nghệ thuật phải chú ý mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, tránh sa
đà vào sự kiện hoặc miêu tả lại nhân vật, tường thuật lại biến cố.
Phân tích hình tượng phải nắm được phương thức tạo hình tượng của tác
giả và phải đặt hình tượng trong mối tương quan chung của toàn tác phẩm
cũng như trong bối cảnh của xã hội. Khi phân tích tránh áp đặt cứng nhắc
những kiểu ý nghĩa cho hình tượng, làm mất đi, giảm đi ý nghĩa khái quát của
hình tượng và lệch đi so với dụng ý của tác giả.
Có hai loại hình tượng nghệ thuật khi phân tích phải nắm được đặc trưng
của nó: đó là hình tượng nhân vật và hình tượng cảm xúc. Khi phân tích hình
tượng nhân vật, phải chú ý phân tích quá trình phát triển của hình tượng tính
cách, mức độ điển hình hoá và giá trị thẩm mỹ của hình tượng. Còn khi phân
tích hình tượng cảm xúc phải chú ý đến cảm xúc chủ quan của tác giả.
- Phân tích chi tiết nghệ thuật:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Chi tiết nghệ thuật đóng vai trò hết sức quan trọng, nhất là những tác
phẩm tự sự là sự đan kết của hàng loạt chi tiết (riêng đối với những truyện
ngắn thì việc lựa chọn chi tiết càng đòi hỏi chặt chẽ)
Tuy nhiên không phải mọi chi tiết đều đem ra phân tích, mà phải phát hiện
ra những chi tiết mang chức năng nghệ thuật nổi bật, chi tiết tập trung hàm
lượng thông tin thẩm mỹ cao nhất.
Khi dạy những tác phẩm văn chương bắt buộc phải phân tích được những
chi tiết đặc sắc cơ bản của tác phẩm để nắm được chủ đề tư tưởng của tác
phẩm. Bỏ qua chi tiết quan trọng thì coi như chưa phân tích tác phẩm văn
chương.
Mỗi tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, trong đó các yếu tố,
các phương diện, chi tiết đều có mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc và chi phối
lẫn nhau; nên khi phân tích cần phải tôn trọng tính chỉnh thể của tác phẩm.
* Bước 3: Tổng hợp trên cơ sở đã phân tích các chi tiết của tác phẩm
Phân tích vấn đề nhằm nắm bắt được giá trị của tác phẩm. Đây là bước
giáo viên hướng dẫn học sinh khám phá, nắm bắt chiều sâu của tác phẩm. Giá
trị của tác phẩm do hoạt động phân tích đem lại là lượng thông tin, là cái mới,
là sự khám phá phát hiện. Không có tác phẩm nào là không có vấn đề, nhưng
khi phân tích chúng ta phải tập trung vào những vấn đề làm nên cái hay cái
đẹp của tác phẩm, bởi những vấn đề đó lôi cuốn, hấp dẫn làm người đọc phải
tò mò, tranh cãi.
Khi phân tích một tác phẩm để nắm bắt được giá trị của nó, ta cần phân
tích một số vấn đề sau:
- Phân tích một vấn đề cơ bản nào đấy về nội dung và nghệ thuật.
- Phân tích tác phẩm gắn với đặc trưng thể loại, thi pháp và phong cách
nhà văn
- Phân tích quan điểm nghệ thuật của tác giả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
- Phân tích mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tác phẩm.
Với tác phẩm tự sự cần chú ý phân tích thêm:
- Phân tích tình huống tự sự.
- Phân tích hình tượng nhân vật trung tâm.
- Phân tích phương thức kể chuyện trong tác phẩm.
Nhìn chung: Quá trình phân tích tác phẩm văn chương đòi hỏi phải linh
hoạt, sáng tạo, không thể dập khuôn máy móc; phân tích tác phẩm này không
thể giống với việc phân tích tác phẩm kia. Song ta có thể rút ra hai giai đoạn
của phân tích tác phẩm mang tính bắt buộc và tương đối ổn định là:
+ Lựa chọn các yếu tố để phân tích: Đây là giai đoạn đòi hỏi người đọc
phải tỉnh táo, tinh tế bóc tách lớp vỏ ngôn ngữ để tìm ra một loạt các mối
quan hệ chằng chịt và phát hiện được phương thức trình bày nghệ thuật của
tác phẩm.
+ Phối hợp các thao tác đã phân tích, khái quát hoá, tổng hợp để thấy được
chiều sâu của tác phẩm và dụng ý của tác giả.
Tổng hợp trên cơ sở đã phân tích các chi tiết của tác phẩm nhằm đưa
ra những tổng kết, nhận định, đánh giá khái quát, nâng cao giá trị của tác
phẩm giúp người đọc có nhận định, đánh giá đúng đắn, sâu sắc về tác phẩm
văn học hay hiện tượng văn học
Khi phân tích nên vận dụng 3 bước trên một cách linh hoạt.
1.2. Phƣơng pháp thảo luận:
Là một trong những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học theo hướng dạy học lấy hoạt động của học sinh
làm trung tâm, dạy học thông qua việc tổ chức các hoạt động nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh. Trong cách dạy học tích cực có sự giao tiếp thường
xuyên qua lại giữa thày và trò, giữa trò với trò. Bài học được xây dựng từ
những đóng góp của học sinh thông qua các hoạt động học tập do thầy tổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
chức và hướng dẫn; qua đó học sinh vừa nắm đựơc phương pháp đi tới kiến
thức. Theo phương pháp dạy học tích cực, dạy học không chỉ đơn giản là
cung cấp kiến thức mà còn phải hướng dẫn hành động.
Trong quá trình học tập, những ý nghĩ hình thành trong đầu óc học sinh
được diễn đạt thành lời dưới dạng nói thầm, nhưng vẫn chỉ là ở trạng thái tiềm
ẩn; chỉ khi chúng được đem ra trao đổi trong đối thoại, thảo luận thì chúng
mới không còn ở dạng tiềm ẩn nữa. Vì vậy trong quá trình dạy học cần tạo ra
những câu hỏi nêu vấn đề để kích thích suy nghĩ của học sinh; giáo viên
khuyến khích giúp đỡ học sinh bày tỏ ý kiến cá nhân về vấn đề đang cần được
giải quyết để học sinh tự đánh giá, trao đổi, thảo luận và đề xuất các giải
pháp. Thông qua thảo luận học sinh được bày tỏ suy nghĩ và hiểu biết của
mình trước mọi người để được chia xẻ, bổ sung, uốn nắn.
Theo GS.TS Trần Bá Hoành thì “Thảo luận là một dạng tương tác nhóm,
trong đó các thành viên hợp sức giải quyết một vấn đề đang cùng quan tâm,
nhằm đạt tới một sự hiểu biết chung về vấn đề đó. Muốn đạt được mục đích,
các thành viên trong nhóm phải mạnh dạn nói cho nhau nghe ý kiến của
mình, phải nghe lẫn nhau và có ý kiến phản hồi về những điều mình nghe
được. Phải biết lắng nghe lập luận của người khác, trung thực nói ra điều
mình cho là đúng hay sai, sẵn sàng chấp nhận những ý kiến đúng để điều
chỉnh quan điểm của mình”[13, 156-157]
Trong thảo luận, giáo viên phải là người tổ chức các tình huống dẫn tới
thảo luận, hướng sự chú ý của học sinh vào những điểm quan trọng nhằm đạt
mục đích của bài học, can thiệp khi cuộc thảo luận đi chệch hướng hoặc bế
tắc, dẫn dắt học sinh đạt được những cấp độ hiểu biết cao hơn. Vì vậy điều
khiển thảo luận là một việc khó, phải có sự chuẩn bị chu đáo, phải có kiến
thức vững. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu, có đầu óc nhạy bén
sáng tạo để có thể đóng vai trò là người gợi mở, trợ giúp, hướng dẫn, trọng tài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
trong các hoạt động độc lập của học sinh, đánh thức năng lực tiềm tàng trong
học sinh. Giáo viên phải là người có năng lực lập kế hoạch và tổ chức, đưa ra
những câu hỏi gợi mở để qua thảo luận học sinh nắm được nội dung học tập
và gắn với thực tiễn.
Học sinh thảo luận dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Học sinh biết phân
tích, biết phê phán những ý kiến khác nhau trước một chủ đề nêu ra, biết lập
luận để bảo vệ ý kiến của mình trước tập thể, có dịp suy nghĩ về một vấn đề
dưới nhiều góc độ, đưa ra những ý kiến mới mẻ. Thông qua thảo luận, tranh
luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ,
qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được
vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi học sinh và của cả lớp chứ không phải
chỉ dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của giáo viên.
Học sinh tham gia thảo luận sẽ được nâng cao dần khả năng diễn đạt ý
kiến của mình cho người khác nghe, và sau đó được tiếp nhận ý kiến phản hồi
về chất lượng ý kiến đã diễn đạt của mình. Học sinh phải tập diễn đạt ý kiến
bằng ngôn ngữ của mình thay vì nhắc lại lời trong SGK hoặc trong bài giảng
của giáo viên; học sinh phải biết sử dụng vốn từ vựng phù hợp với lĩnh vực
của vấn đề đang thảo luận, biết minh hoạ ý kiến của mình bằng các ví dụ,
hình ảnh, sơ đồ, biết tạo cơ hội cho những thành viên khác trong lớp thảo luận
nêu ra những ý kiến, hiểu biết của họ về vấn đề mình vừa mới trình bày. Tiến
hành hợp lý, sáng tạo phương pháp thảo luận sẽ lôi cuốn học sinh tham gia
tích cực vào hoạt động đánh giá và tự đánh giá.
Hoạt động thảo luận tạo ra hứng thú khám phá, đem lại niềm vui, thúc
đẩy động cơ bên trong của quá trình học tập. Qua việc thảo luận học sinh hiểu
sâu, nhớ lâu, biết vận dụng linh hoạt những kiến thức đã học, đồng thời phát
triển năng lực tư duy, năng lực giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Hoạt động thảo luận có thể tiến hành theo các bước sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
1. Gv: Nêu vấn đề (chọn một số vấn đề cơ bản có chiều sâu, mang tính gợi
mở để thảo luận) để học sinh phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh.
2. Hs: Phát biểu vấn đề, đề xuất cách giải quyết (Học sinh bộc lộ quan
niệm, thái độ, tình cảm và kinh nghiệm sống của bản thân mình trước những
vấn đề nêu ra)
Gv: Tôn trọng câu trả lời của học sinh. Lắng nghe mọi ý kiến và khéo
léo khuyến khích, gợi ý, dẫn dắt để học sinh cùng trả lời và lôi cuốn các học
sinh khác cùng tham gia. Song giáo viên phải có định hướng để điều khiển
quá trình thảo luận giúp học sinh bám sát yêu cầu đã nêu ra
Giáo viên có thể gợi ý một số giải pháp để học sinh lựa chọn.
3. Kết luận:
Hs: Thảo luận và đánh giá kết quả : Khẳng định hay bác bỏ những cách
giải quyết đã nêu ra.
Gv: Phát biểu kết luận và đề xuất những vấn đề mới.
Thực tế dạy học cho thấy: trong một lớp học có những học sinh nói quá
nhiều, ngược lại một số học sinh khác thì rất ít hoặc không nói câu nào; một
số học sinh rất thông minh, nhanh trí, ngược lại có những học sinh tiếp thu
chậm; một số học sinh rất bạo dạn trong khi nhiều em khác lại nhút nhát. Vì
vậy trong giờ học có thể chia thành những nhóm nhỏ để thảo luận, trình bày
và nhận xét những ý kiến thảo luận của nhóm khác. Cách thảo luận nhóm tạo
điều kiện chocác thành viên trong nhóm bộc lộ tính cách và năng lực, cùng
chia sẻ suy nghĩ băn khoăn, cũng như những kinh nghiệm, hiểu biết của bản
thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái độ mới trong một môi trường quen
thuộc, thân thiện, gần gũi và hợp tác. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn
nhau chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ phía giáo viên.
Trong thảo luận nhóm, mỗi thành viên trong nhóm nhỏ đều được hoạt
động tích cực không thể ỷ lại vào vài người năng động nổi trội hơn; những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
học sinh khá có thể hỗ trợ những học sinh yếu, bổ sung hiểu biết và kinh
nghiệm cho nhau. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả
học tập chung của cả lớp.
Theo GS-TS Trần Bá Hoành [13,59-60] thì hoạt động thảo luận nhóm có
thể tiến hành theo ba bước như sau:
+ Bước 1: Làm việc chung cả lớp.
Xác định nhiệm vụ nhận thức.
Tổ chức các nhóm và giao nhiệm vụ.
Hướng dẫn cách làm việc nhóm.
+ Bước 2: Làm việc theo nhóm: Phân công trong nhóm, các cá nhân làm
việc độc lập.
Trao đổi ý kiến và thảo luận trong nhóm.
Ghi lại ý kiến thống nhất và cử đại diện trình bày kết quả.
+ Bước 3: Thảo luận và tổng kết trước lớp:
Các nhóm báo cáo kết quả.
Thảo luận chung.
Đánh giá và kết luận.
Nêu ra vấn đề mới.
Ưu điểm và hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm:
* Ưu điểm:
- Giờ học sôi nổi, tạo cơ hội cho mọi thành viên trong nhóm làm quen,
trao đổi, hợp tác với nhau, bộc lộ sự hiểu biết và quan điểm của mình về nội
dung và phương pháp học tập, giúp họ có nhiều cơ hội rèn luyện kỹ năng diễn
đạt và cách tư duy của mình.
- Tạo điều kiện thuận lợi để học sinh học hỏi lẫn nhau, biết lắng nghe và
đánh giá ý kiến người khác, thể hiện quan điểm cũng như điều chỉnh suy nghĩ
của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
- Giáo viên nhận biết được những thông tin phản hồi về tri thức và kinh
nghiệm từ phía học sinh về nội dung bài học qua các phát biểu độc lập, sáng
tạo của học sinh.
* Hạn chế:
- Dù có nhiều ưu điểm, nhưng phương pháp thảo luận nhóm cũng có
những hạn chế khó khăn, nhất định.
- Để thảo luận có hiệu quả, giáo viên phải có kỹ năng chuyển tri thức
của mình thành những tình huống có vấn đề.
- Hiệu quả dạy học phụ thuộc vào tinh thần tham gia của mọi thành viên
trong nhóm.
* Để phương pháp thảo luận có hiệu quả, giáo viên phải lưu ý:
- Chia nội dung bài dạy thành những vấn đề nhỏ có kiên kết với nhau.
Mỗi vấn đề nhỏ có thể coi là một chủ đề thảo luận.
- Tại một thời điểm, có thể giao cho nhiều nhóm cùng thảo luận một chủ
đề, hoặc cũng có thể giao cho mỗi nhóm thảo luận một chủ đề. Sự liên kết
giữa các nhóm sẽ tạo sự thống nhất và kết quả chung của bài dạy.
Áp dụng phương pháp thảo luận, trong giờ học học sinh được tranh luận
một cách công bằng dân chủ để tự phát hiện ra chân lý, làm giờ học sôi nổi.
Những lập luận mà giáo viên đưa ra phải có sức thuyết phục, để học sinh tự
công nhận bằng những suy nghĩ và cảm nhận của mình, tránh sự áp đặt gò ép.
Phương pháp thảo luận theo nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy tính
tích cực, tự lực, sự tự tin cho học sinh; phát triển năng lực giao tiếp, năng lực
cộng tác làm việc, tăng cường kết quả học tập cho học sinh. Nó dạy học sinh
cách suy nghĩ, cách giải quyết vấn đề, cách học hỏi lẫn nhau trong thời đại
thông tin bùng nổ. Tuy nhiên phương pháp thảo luận bị hạn chế bởi thời gian
có hạn trong khi hoạt động thảo luận đòi hỏi phải linh hoạt về nội dung, tổ
chức, thời gian. Giáo viên quen với kiểu dạy thuyết trình, chưa có kinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
nghiệm tổ chức dạy theo nhóm. Nên giáo viên phải biết định hướng dạy học,
lựa chọn nội dung, sắp xếp thời gian và tổ chức hợp lý mới đạt hiệu quả cao.
1.3: Mối quan hệ giữa hai phƣơng pháp trên trong quá trình dạy học
tác phẩm văn chƣơng.
Mục đích quan trọng nhất của môn văn nói chung và dạy học tác phẩm
văn chương nói riêng ở nhà trường PT là góp phần hình thành và phát triển trí
tuệ, tâm hồn, thẩm mỹ, hiểu biết, năng lực và nhân cách con người mới
XHCN cho mỗi học sinh một cách cân đối, toàn diện bằng phương tiện đặc
thù của văn học.
Theo GS. Nguyễn Thanh Hùng thì việc giảng dạy tác phẩm văn trong
nhà trường có mục đích chung là: “Phát huy sức mạnh trong đặc điểm nội
dung, hình thức tác phẩm văn để đào tạo, giáo dục nhân cách học sinh; làm
cho học sinh nhận ra giá trị nghệ thuật độc đáo của cách trình bày cuộc sống
theo một quan điểm thẩm mỹ nhất định của nhà văn và tạo nên vẻ đẹp chân
chính, mới lạ của tác phẩm. Từ đó giúp học sinh tích luỹ ngày càng phong
phú kinh nghiệm nghệ thuật để họ tự đọc, tự hiểu và thưởng thức được các tác
phẩm một cách độc lập. Để thoả mãn được mục đích tiếp cận trên không có
con đường nào khác là phải tìm hiểu, phát hiện, khám phá chiều sâu của tác
phẩm văn”[16, 108].
Dạy văn và dạy học tác phẩm văn chương còn phải đạt mục đích giáo
dục phẩm chất, nhân cách con người về tư tưởng, đạo đức, tình cảm thẩm mỹ.
Qua các giờ dạy - học văn, giáo viên phải thường xuyên giáo dục học sinh và
giúp học sinh tự giáo dục bằng các tri thức tiếp nhận được từ văn học: lòng
yêu nước, tinh thần nhân văn, lý tưởng sống cao đẹp, có thị hiếu thẩm mỹ cao,
lành mạnh, có văn hoá, có cá tính tích cực để từng bước hình thành nhân cách
người lao động mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Mục đích cao nhất của việc dạy học văn trong nhà trường là phải thực
hiện tốt các chức năng của giáo dục và đào tạo con người học sinh; trong đó
chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mỹ là quan trọng
nhất, để làm sao “Mỗi học sinh phải tự mình làm việc, tự lĩnh hội tri thức kinh
nghiệm và hiểu biết chung của loài người thành phẩm chất năng lực hoạt
động của bản thân. Đó là quá trình hoá của cá nhân học sinh để tạo ra tâm lý
tri thức và nhân cách” (Phạm Minh Hạc)
Dạy học tác phẩm văn chương có khả năng và sức mạnh to lớn trong
công việc thực hiện mục tiêu giáo dục - đào tạo con người mới. Trong đó
người giáo viên văn với tư cách tổ chức, dẫn dắt định hướng và điều chỉnh
hoạt động học tập của học sinh đóng vai trò quyết định. Muốn đạt được mục
đích và nhiệm vụ trên, phải có phương pháp dạy học thích hợp đó là con
đường ngắn nhất để đi tới đích.
Trong một thời gian dài: Phương pháp dạy học trên thế giới chủ yếu là
phương pháp truyền thống - dạy học lấy giáo viên làm trung tâm. Để trang bị
cho học sinh một trình độ kiến thức nhất định, thì người giáo viên thường sử
dụng phương pháp dạy học thuyết trình, giảng giải (phân tích, bình luận) thày
nói, trò nghe ghi chép. Giáo viên chủ động tranh thủ truyền thụ những hiểu
biết và kinh nghiệm của mình. Học sinh tiếp thu thụ động cố ghi nhớ và tái
hiện thông tin. Giáo viên là người độc quyền đánh giá kết quả học tập của học
sinh thể hiện qua lượng kiến thức tái hiện được. Tuy nhiên phương pháp dạy
học này chưa phát huy được tính độc lập, sáng tạo ở học sinh, nên chỉ đào tạo
được những lớp học sinh thụ động, ỷ lại trong công việc. Như vậy yêu cầu đổi
mới Phương pháp dạy học nói chung và đổi mới Phương pháp dạy học Văn
nói riêng là một vấn đề cấp bách được đặt ra từ những năm 80 của thế kỷ XX
không chỉ đối với ngành giáo dục, mà còn là đối với toàn xã hội, nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả dạy học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Để phát huy được tính năng động, chủ động sáng tạo ở học sinh, ngành
giáo dục đã có nhiều đổi mới về phương pháp dạy học ở nhà trường phổ
thông; mà cụ thể là chuyển từ kiểu dạy học lấy giáo viên làm trung tâm, sang
kiểu dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, người giáo viên luôn tôn trọng mục
đích, nhu cầu, khả năng, hứng thú học tập của học sinh; đặc biệt chú trọng các
kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức, năng lực giải quyết các vấn đề thực
tiễn.
Phương pháp dạy học này coi trọng việc rèn luyện cho học sinh phương
pháp tự học phát huy sự tìm tòi độc lập hoặc theo nhóm, thông qua việc thảo
luận vận dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mình và tập thể học sinh vào
việc lý giải, giải quyết các vấn đề xã hội. Thông qua đó học sinh vừa tự lực
nắm các tri thức, kỹ năng mới, đồng thời được rèn luyện về phương pháp tự
học, được tập dượt về phương pháp nghiên cứu. Giáo viên quan tâm vận dụng
vốn hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân và của tập thể học sinh để xây
dựng bài học. Giáo viên là người linh hoạt tổ chức, hướng dẫn, điều khiển tiết
học với sự tham gia tích cực của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh
bộc lộ và phát triển tiềm năng của mỗi học sinh. Học sinh tự giác học tập, tự
đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Giáo viên hướng dẫn học sinh kỹ năng tự đánh
giá, khuyến khích óc sáng tạo và rèn luyện, kỹ năng phát hiện và giải quyết
những vấn đề nảy sinh trong thực tế. Giáo án được thiết kế theo kiểu phân
nhánh được giáo viên linh hoạt điều chỉnh theo diễn tiến của tiết học với sự
tham gia tích cực của học sinh, thực hiện giờ học phân hoá theo trình độ và
năng lực của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi để học sinh bộc lộ, phát triển
tiềm năng của mình.
Tuy vậy phương pháp dạy học nào cũng có những ưu và nhược điểm
nhất định. Nếu chỉ sử dụng phương pháp dạy học truyền thống- phương pháp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
phân tích sẽ tạo ra lớp học sinh thụ động, ỷ lại không biết cách tự học , thiếu
hứng thú, đam mê. Còn nếu lạm dụng sử dụng phương pháp dạy học mới
trong dạy bộ môn Văn, cạnh việc khuyến khích học sinh suy nghĩ, phát hiện
vấn đề, thảo luận (từ những câu hỏi có vấn đề đến câu hỏi khó và câu hỏi khái
quát vấn đề); giáo viên hướng học sinh tìm tòi và từng bước đi tới đích. Song
với thời gian có hạn thì việc suy nghĩ và thảo luận chỉ là hình thức; nếu chỉ
cho học sinh trao đổi, thảo luận thì học sinh sẽ không hiểu sâu hoặc hiểu rộng
vấn đề; nên giáo viên phải biết kết hợp phương pháp đọc, nêu câu hỏi dẫn dắt
học sinh, phương pháp phân tích và phương pháp thảo luận để đổi mới giờ
dạy học tác phẩm văn chương. Mà trọng tâm là giúp học sinh phân tích và
thảo luận trên lớp qua hệ thống câu hỏi chung, dựa vào kết cấu đi sâu vào hai
tầng ý nghĩa qua mạch truyện nêu bật ý nghĩa nhân sinh. Giáo viên thông qua
hoạt động học - giải thích, phân tích, giảng bình để dẫn dắt, khêu gợi, định
hướng những rung động thẩm mỹ của học sinh đối với tác phẩm. Thông qua
hệ thống câu hỏi có vấn đề; giáo viên gợi mở, dẫn dắt, tạo ra bầu không khí
trao đổi trong lớp, đưa học sinh vào việc cùng thể nghiệm, nhận thức những
vấn đề đặt ra trong tác phẩm, tự giải đáp những băn khoăn thắc mắc của bản
thân và của các bạn. Đồng thời giáo viên cũng uốn nắn những hiểu biết sai,
lệch lạc; phát triển và nâng cao năng lực tiếp nhận của học sinh nhằm mục
đích: giáo dục, giáo dưỡng và phát triển.
Như vậy phân tích và thảo luận có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: Phân
tích giúp học sinh đi sâu vào những chi tiết nghệ thuật có ý nghĩa đối với từng
khía cạnh và đối với toàn bộ tác phẩm; còn thảo luận để tạo sự đồng ý, đồng
tình và tham khảo những ý kiến khác nhau có tính sáng tạo đúng đắn.
Để phân tích được chiều sâu của tác phẩm, giáo viên có thể gặp phải
những mâu thuẫn cần giải quyết như:
+ Mâu thuẫn giữa trình độ hiểu biết của thầy và trò
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
+ Mâu thuẫn giữa trình độ nhận thức giữa các học sinh trong một lớp học cụ
thể
+ Mâu thuẫn giữa mức độ tiếp nhận của học sinh với yêu cầu cần đạt
được về kiến thức kỹ năng trong một lượng thời gian nhấn định.
Để khắc phục vấn đề này, trên lớp giáo viên phải luôn hướng dẫn điều
khiển hoạt động tiếp nhận, lĩnh hội tác phẩm văn chương bằng những thao
tác: dẫn dắt, gợi mở, thảo luận, phân tích, giảng bình, khái quát hoá hệ thống
vấn đề. Giáo viên phải phân bố hợp lý thời gian cho từng phần của bài giảng,
phải biết lúc nào cần đặt câu hỏi có vấn đề cho học sinh suy nghĩ thảo luận;
lúc nào cần tập trung vào phân tích các vấn đề trung tâm của tác phẩm.
Giáo viên cần xuất phát từ loại thể của tác phẩm văn chương để có cách
dẫn dắt thích hợp đạt hiệu quả. Với tác phẩm tự sự, giáo viên hướng dẫn học
sinh phân tích các nhân vật chính phụ, lý giải số phận nhân vật chính thông
qua hành động và xung đột. Xung đột trong các tác phẩm văn xuôi tạo nên độ
căng và tính hấp dẫn của câu truyện. Những xung đột đó thúc đẩy sự vận
động, phát triển của các số phận và cuộc sống của từng nhân vật trong tác
phẩm. Xung đột ngày càng sâu sắc, căng thẳng thì nội dung tác phẩm càng có
ý nghĩa và nó cũng góp phần làm nên kết cấu của truyện. Muốn phân tích các
xung đột và để học sinh tự lý giải các vấn đề, giáo viên phải tạo điều kiện cho
học sinh phân tích và thảo luận nguồn gốc nảy sinh xung đột, khích lệ học
sinh chủ động tìm, phát hiện xung đột và lý giải vấn đề tác giả đặt ra. Giáo
viên động viên học sinh bộc lộ thái độ chủ quan của mình (đồng tình-phản
đối) trong cách giải quyết xung đột của tác giả trong tác phẩm. Nghĩa là giáo
viên giúp học sinh hoá thân vào tác phẩm để tự giải quyết những mâu thuẫn
xung đột trong tác phẩm.
Để khám phá chiều sâu của tác phẩm phải bám sát vào các hình tượng
nghệ thuật, chi tiết nghệ thuật; qua đó thấy được những cách nhìn, cách đánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
giá mới, những phát hiện về con người và cuộc sống của mỗi tác giả. Chiều
sâu của tác phẩm chứa đựng cái chân, thiện, mĩ cũng như cái tâm, cái tài của
nhà văn.
Việc đổi mới phương pháp dạy học thực chất là đổi mới cách dạy và
cách học.Việc vận dụng phương pháp dạy học truyền thống (phương pháp
phân tích) kết hợp phương pháp dạy học mới (phương pháp thảo luận) chính
là vận dụng hài hoà, linh hoạt cách dạy của giáo viên và cách học của học
sinh trong quá trình chiếm lĩnh tác phẩm văn chương; giúp học sinh hiểu sâu,
hiểu rộng, hiểu đúng dụng ý nghệ thuật của tác giả, từ đó có thể áp dụng linh
hoạt trong cuộc sống góp phần hình thành nhân cách con người.
2. Các tầng ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chƣơng:
2.1. Quan niệm về ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chƣơng:
Theo Từ điển tiếng Việt thì nhân sinh là “Sự sống của con người.”(37, 772)
Từ điển Từ nguyên giải nghĩa - giải thích nhân sinh là “Sự sống, đời
người”(19, 222)
Còn trong Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng đã giải thích nhân
sinh là: “Cuộc sống nói từ mặt góc độ từ đó con người nhìn nó(về mặt mục
đích, lý tưởng, phương hướng, hành động, giá trị, hành vi)”(6, 590)
Và rộng hơn: Nhân sinh quan là“Hệ thống những ý nghĩ tồn tại tương
đối lâu về cuộc sống của con người”(6, 956)
Ý nghĩa là: “cái được thể hiện, được nói lên được biểu thị bằng lời,bằng
một cử chỉ hành động”(6,956)
Từ những định nghĩa trên, chúng tôi thấy ý nghĩa nhân sinh nói về cuộc
sống của con người được nhìn nhận từ phương diện các chuẩn mực đạo đức
xã hội nhằm phục vụ cho cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn. Ý nghĩa
nhân sinh có giá trị lâu dài với đời sống con người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương: là nội dung tư tưởng, ý
nghĩa xã hội của tác phẩm xuất phát từ giá trị thẩm mỹ của tác phẩm, có giá
trị thiết thực, lâu dài với đời sống con người biểu hiện qua nhiều phương diện,
nhiều khía cạnh trong đời sống con người.
2.2. Những biểu hiện cụ thể của ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm
văn chƣơng:
Mục đích của dạy học tác phẩm văn chương là góp phần hình thành và
phát triển nhân cách học sinh về, tư tưởng, đạo đức, lối sống, thẩm mỹ. Dạy
tác phẩm văn chương chính là dạy nhân cách làm người; bởi tác phẩm văn
chương là những thông điệp nghệ thuật về cách nhìn nhận con người và cuộc
đời một cách đa diện, nhiều chiều. Vì vậy dạy tác phẩm văn chương chính là
dạy nội dung ý nghĩa nhân sinh - dạy học sinh cách làm người. Dạy học sinh
nội dung ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương phải luôn gắn với
cuộc sống của con người, nhằm mục đích phục vụ cho cuộc sống của con
người tốt đẹp hơn trong hiện tại và lâu dài.
Nội dung ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương được biểu
hiện theo hướng mở như sau:
- Ca ngợi, đề cao những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người. Tôn trọng,
biểu dương con người. Đồng cảm, bênh vực những số phận khổ đau bất hạnh.
- Lên án, phê phán tố cáo những thế lực chà đạp con người.
- Dự báo, cảnh báo những nguy cơ xã hội tiềm ẩn trước mắt và lâu dài
trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với môi
trường sinh thái.
- Thức tỉnh người đọc nhận ra sự thật và chân lý mới: chân lý về hiện
thực cuộc sống, về số phận mỗi cá nhân và về nghệ thuật.
Như vậy ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương vừa vạch ra
được bản chất quy luật cuộc sống, về chân lý nghệ thuật; về cái thiện, cái ác,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
cái đẹp, cái xấu trong các quan hệ giữa con người với con người, giữa con
người với thiên nhiên. Từ đó rút ra quan niệm mới về con người và cách ứng
xử theo hướng tích cực giữa con người với con người.
2.3. Cách thức phân tích và thảo luận các tầng ý nghĩa nhân sinh
trong tác phẩm văn chƣơng:
Tác phẩm văn chương luôn hàm chứa những ý nghĩa sâu xa mà nếu chỉ
nhìn vào bề ngoài của nó người đọc không thể nào thấy hết được. Mục đích
của giờ học tác phẩm văn chương là giúp học sinh khám phá ra dược chiều
sâu đó.
Để khám phá ra chiều sâu các tầng ý nghĩa nhân sinh của tác phẩm văn
chương, chúng ta có thể kết hợp phương pháp phân tích và phương pháp thảo
luận.
Phương pháp phân tích là phương pháp dạy học truyền thống lấy giáo
viên làm trung tâm. Nhược điểm của phương pháp này là giáo viên chủ động
truyền thụ những chi thức kinh nghiệm của mình, còn học sinh thì tiếp thu thụ
động. Nhưng phương pháp này cũng có những ưu điểm nhất định không thể
phủ nhận và không thể thiếu trong dạy học tác phẩm văn chương; bởi qua
phương pháp này giáo viên là người định hướng, cắt nghĩa, giải thích và phân
tích chiều sâu các tầng ý nghĩa của tác phẩm văn chương.
Phương pháp thảo luận: là phương pháp dạy học mới nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Ở phương pháp mới này, giáo
viên là người tổ chức hướng dẫn học sinh tự chiếm lĩnh các tầng ý nghĩa nhân
sinh của tác phẩm; còn học sinh có thể đưa ra những suy nghĩ độc lập, những
chính kiến của mình trước một vấn đề dưới những góc độ khác nhau. Học
sinh biết lập luận để bảo vệ ý kiến của mình trước tập thể, biết lắng nghe và
nhận xét ý kiến người khác, biết học hỏi lẫn nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Qua thảo luận học sinh sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và biết vận dụng linh hoạt
những kiến thức đã học vào đời sống. Phương pháp này có ưu điểm; giảm bớt
thời gian giáo viên diễn giảng trên lớp, tăng thời gian tự học; học sinh có
nhiều thời gian thảo luận, trao đổi, chiếm lĩnh tri thức mới.
Tuy nhiên phương pháp thảo luận bị hạn chế bởi thời gian, bởi cách tổ
chức và lựa chọn nội dung của từng giáo viên cũng như sự hợp tác của từng
học sinh, nên suy nghĩ trong thảo luận nhiều khi chỉ là hình thức.
Qua hai phương pháp dạy học trên ta thấy: phương pháp nào cũng có
những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Nên: nếu chỉ áp dụng phương pháp
phân tích để tìm ra các tầng ý nghĩa nhân sinh trong giờ học tác phẩm văn
chương thì giờ học sẽ nhàm chán, đơn điệu bởi sự áp đặt có định hướng của
giáo viên; còn học sinh không có cơ hội phát biểu chính kiến của mình về
những vấn đề nhà văn đặt ra. Còn nếu chỉ sử dụng phương pháp thảo luận thì
thời gian bị hạn chế trong một tiết học. Nếu chỉ cho học sinh phát biểu những
ý kiến, nhận định, đánh giá của mình về một vấn đề văn học, thì giáo viên
không có thời gian đi sâu giải thích, phân tích, bình luận, nên học sinh chưa
hiểu đủ, hiểu sâu các tầng ý nghĩa của tác phẩm.
Bởi vậy, để khắc phục những nhược điểm và phát huy ưu điểm của hai
phương pháp truyền thống và hiện đại trên, chúng tôi kết hợp song song hai
phương pháp: phương pháp phân tích và phương pháp thảo luận trong quá
trình dạy học giúp học sinh chiếm lĩnh các tầng nội dung ý nghĩa nhân sinh
trong tác phẩm văn chương.
Tác phẩm văn chương không bao giờ đơn nghĩa. Tính đa nghĩa của tác
phẩm văn chương tạo nên khả năng phản ánh đa dạng, phong phú hiện thực
và tạo nên chiều sâu cho tác phẩm văn chương. Thông qua việc cắt nghĩa,
phân tích, bình giá và đặc biệt là qua hệ thông câu hỏi (câu hỏi tái hiện, gợi
mở, câu hỏi phát hiện, nêu vấn đề) giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh thảo luận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
để phát hiện cái mới, phát hiện chiều sâu các tầng ý nghĩa nhân sinh của tác
phẩm văn chương và ý đồ của nhà văn.
Cùng với việc phân tích giáo viên có thể sử dụng linh hoạt nhiều loại câu
hỏi khác nhau tạo sự sinh động, tránh nhàm chán, khơi gợi khả năng hứng thú
và sáng tạo của học sinh từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, từ cụ thể đến khái
quát. Câu hỏi được sử dụng trong giờ giảng dạy tác phẩm văn chương rất đa
dạng, phong phú; nhưng giáo viên có thể linh hoạt sử dụng kết hợp những loại
câu hỏi sau trong quá trình phân tích, thảo luận:
- Câu hỏi tái hiện: Giúp học sinh tái hiện kiến thức đã học, từ đó khái
quát, hệ thống hoá kiến thức.
- Câu hỏi gợi mở: Có thể dựa vào những vấn đề then chốt về nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm văn chương, giúp học sinh từng bước phát hiện, phân
tích, đánh giá từng bộ phận của tác phẩm.
- Câu hỏi phát hiện: Tác động vào suy nghĩ của học sinh, buộc học sinh
phải tự huy động vốn hiểu biết về tác phẩm văn chương và vốn sống của mình
để tìm tòi, phát hiện những vấn đề về nội dung và nghệ thuật, từ đó nâng cao
hứng thú và khả năng sáng tạo của học sinh.
- Câu hỏi nêu vấn đề: Có thể theo 4 mức:
+ Giáo viên đặt vấn đề và nêu các cách giải quyết vấn đề. Học sinh lựa
chọn cách giải quyết vấn đề và giải thích. Giáo viên đánh giá kết quả làm
việc của học sinh
+ Giáo viên nêu vấn đề và gợi ý giúp học sinh tìm ra cách giải quyết vấn
đề; giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
+ Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát
hiện, tự đề xuất các giả thiết và lựa chọn giải pháp giải quyết vấn đề; giáo
viên và học sinh cùng đánh giá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
+ Học sinh tự phát hiện vấn đề nảy sinh, tự lựa chọn vấn đề để giải
quyết, tự giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất lượng, hiệu quả; có ý kiến bổ
sung khi giáo viên kết thúc.
Để phối hợp hợp lý phương pháp phân tích và thảo luận trong việc tìm
hiểu các tầng ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương, giáo viên có thể
dùng biện pháp như:
- Đầu giờ: Giáo viên có thể gọi học sinh nêu những cảm nhận chung về
tác phẩm, những nhận xét sơ bộ về cuộc đời, sự nghiệp và phong cách nghệ
thuật của tác giả.
- Trong giờ: Vận dụng những câu hỏi gợi mở, tái hiện, phát hiện, giáo
viên hướng dẫn học sinh phân tích các tầng ý nghĩa nhân sinh của tác phẩm
văn chương.
Dựa vào nội dung trọng tâm bài giảng, giáo viên có thể đặt ra một vài
câu hỏi “có vấn đề” để học sinh trả lời trước lớp hoặc thảo luận trong nhóm
nhỏ và trình bày quan điểm của mình trước lớp. Có thể dừng lại vài phút
khuyến khích học sinh nêu câu hỏi qua vấn đề học sinh trình bày, hoặc để học
sinh nói lên nhận định của mình về ý chính trong đoạn vừa nghe giáo viên
phân tích, hoặc có thể cho học sinh trả lời viết trong nửa trang về một câu hỏi
được nêu ra.
- Cuối giờ: Cho học sinh phát biểu trước lớp (hoặc viết ra giấy) những
thu nhận quan trọng nhất về nội dung bài giảng.
Tuy nhiên những biện pháp trên có thể vận dụng linh hoạt trong từng tác
phẩm để đạt được hiệu quả cao nhất.
2.4. Tầm quan trọng của ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn
chƣơng, trong việc giáo dục và đào tạo nhân cách ở học sinh:
Mục đích dạy học văn trong nhà trường phổ thông là góp phần hình
thành và phát triển trí tuệ, tâm hồn, thẩm mĩ và nhân cách con người mới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
XHCN cho học sinh một cách cân đối và toàn diện. Nói khác, dạy học văn
chính là dạy học nhân cách làm người về tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thẩm
mĩ. Xã hội như thế nào thì văn học như thế ấy - văn học gắn với cuộc sống;
nên dạy văn là dạy người - dạy cách làm người.
Trong dạy học tác phẩm văn chươmg thì trọng tâm là giúp học sinh khai
thác, phát hiện, đánh giá các tầng ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm; để từ đó
hình thành và điều chỉnh nhân cách của mình. Văn học gắn với cuộc sống,
nên ý nghĩa nhân sinh trong mỗi tác phẩm cũng gắn với cuộc sống, thể hiện
quan niệm mới, cách nhìn mới về con người, về mối quan hệ giữa con người
với con người, giữa con người với thiên nhiên và mỗi người với với chính
mình. Ý nghĩa nhân sinh xuất phát từ giá trị của tác phẩm, thể hiện sự quan
tâm của xã hội đối với số phận mỗi con người, tôn trọng con người, lên án
mặt xấu, đề cao cái tốt cái thiện…góp phần quan trọng trong việc hình thành
và phát triển nhân cách học sinh, cụ thể như sau:
+ Qua việc ca ngợi những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người, đồng
cảm, bênh vực những số phận khổ đau bất hạnh, phê phán tố cáo những thế
lực vùi dập con người; giáo viên giáo dục học sinh và giúp học sinh tự giáo
dục Sự tôn trọng, tin yêu, thông cảm, bênh vực con người; đồng cảm chia xẻ
với những số phận bất hạnh, phát hiện ra bản chất tốt đẹp của con người; lên
án những thế lực vùi dập con người. Từ đó đề ra cách ứng xử giữa con người
với con người, để mọi người có thể chia sẻ, cảm thông, thấu hiểu và hoà đồng
với nhau.
+ Qua việc chỉ ra những dự báo, những nguy cơ xã hội còn tiềm ẩn; giáo
viên giúp học sinh tự đánh giá, có thái độ rõ ràng và có giải pháp phòng tránh
nguy cơ xã hội cho chính mình và cho mọi người xung quanh.
+ Qua việc tìm hiểu tác phẩm văn chương, giáo viên cần giúp học sinh
hiểu và có cái nhìn đúng đắn về chân lý cuộc sống và nghệ thuật được thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
hiện qua các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với
thiên nhiên và con người với với chính mình.
Như vậy giáo viên không chỉ giúp học sinh chiếm lĩnh được nội dung các
tầng ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương, mà người giáo viên còn
giúp học sinh tự giáo dục bằng các tri thức tiếp nhận được từ văn học: lòng
yêu nước, tinh thần nhân văn, lý tưởng sống cao đẹp, thị hiếu thẩm mỹ cao,
lành mạnh, có văn hoá, có cá tính tích cực, để từng bước hình thành nhân
cách con người.
Chƣơng II: Những biểu hiện cụ thể của các tầng ý nghĩa nhân sinh
trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
1. Phân tích kết cấu truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu:
1.1. Định nghĩa kết cấu tác phẩm văn học:
Theo Từ điển Văn học thì “toàn bộ tổ chức phức tạp, bao gồm mọi quan
hệ giữa chỉnh thể và nghệ thuật, giữa bộ phận và bộ phận trong tác phẩm văn
học được gọi là kết cấu.”[37, 56]
Như vậy kết cấu chính là sự tổ chức phức tạp và sinh động các phương
diện của tác phẩm văn học. Hiểu một cách bản chất nhất, kết cấu không phải
là bản thân các yếu tố hình tượng hay trần thuật mà là sự tổ chức các yếu tố
đó.
Trong tác phẩm văn học, không phải cứ là tổ chức thì được coi là kết cấu
tác phẩm. Chỉ được coi là kết cấu nghệ thuật những kiểu tổ chức bộc lộ được
ý đồ nghệ thuật của tác giả và thể hiện quy luật lôgíc của đời sống.
Kết cấu nghệ thuật là hư cấu, nhưng hư cấu bắt nguồn từ nhận thức và lý
giải đời sống của nhà văn. Do đó kết cấu là một yếu tố rất quan trọng của hình
thức nghệ thuật để bộc lộ tư tưởng chủ đề của tác phẩm, thể hiện tài năng, tư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
tưởng và phong cách nghệ thuật của một tác giả. Trong quá trình sáng tác,
không có kết cấu nhà văn sẽ không thể hoàn thành được tác phẩm. Kết cấu
chặt chẽ góp phần tạo nên giá trị tác phẩm.
1.2. Kết cấu của truyện ngắn:
Truyện ngắn thuộc thể loại tự sự, nên kết cấu của truyện ngắn thuộc loại
kết cấu tự sự.
Truyện ngắn có dung lượng nhỏ, nhưng phải có sức chứa tối đa. Nói như
Tô Hoài: Truyện ngắn là “cưa một khúc của đời sống” nhưng nó vẫn giúp
chúng ta hình dung được cả dòng đời. Hay như Nguyễn Minh Châu từng ví:
“thể loại truyện ngắn như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ: chỉ lướt qua
những đường vân trêncác khoanh gỗ tròn tròn kia, dù trăm măn sau vẫn thấy
cả cuộc đời thảo mộc” [5, 302]
Để có sức chứa tối đa truyện ngắn phải cô đọng, hàm súc, chặt chẽ.
Truyện ngắn tuy ngắn về dung lượng, song nội dung tư tưởng không được
đơn giản; nên kết cấu càng có vai trò quan trọng – nó thể hiện sự tìm tòi sáng
tạo của nhà văn, đòi hỏi nhà văn phải có sự cân nhắc, sắp xếp để truyện ngắn
thực sự “là tác phẩm nghệ thuật có bề sâu nhưng lại không được dài”.
(T.Capôtô- nhà văn Mỹ)
1.3. Kết cấu của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
“Chiếc thuyền ngoài xa” có kết cấu lồng với hai tuyến truyện đan cài
vào nhau: một tuyến xoay quanh nhân vật số phận - tính cách: người đàn bà
hàng chài; một tuyến xoay quanh nhân vật tư tưởng: người nghệ sĩ nhiếp ảnh,
đồng thời cũng đóng vai trò người trần thuật.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” có kết cấu luận đề về đạo đức
nhân văn, về tâm lý xã hội, bố cục được xây dựng theo 3 phần:
Phần 1:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Những chiêm nghiệm về chân lý nghệ thuật thể hiện qua hai phát hiện
của người nghệ sĩ nhiếp ảnh: : Phát hiện về một “cảnh đẹp trời cho” và một bi
kịch gia đình ẩn sau cảnh biển thanh bình, nên thơ. Qua đó toát lên những
nhận thức về hiện thực cuộc sống
Phần 2:
Những chiêm nghiệm về chân lý đời sống qua câu chuyện của người đàn
bà hàng chài ở toà án huyện. Qua đó tác giả thể hiện cách nhìn nhận về con
người và cuộc đời: cuộc đời không hề đơn giản, mà nó luôn tồn tại những
nghịch lý đa dạng và phức tạp. Phải có cái nhìn tỉnh táo, độ lượng mới hiểu và
thấy được bản chất tốt đẹp của con người
Phần 3:
Mối quan hệ mật thiết hữu cơ giữa nghệ thuật và đời sống. Qua những
điều Phùng được nghe và chứng kiến, cho ta thấy nghệ thuật và cuộc sống
không phải là một. Nghệ thuật thì đẹp trong khi cuộc sống thì đầy nhọc nhằn,
khổ cực. Bức ảnh được chọn in trong lịch ở cuối truyện là lời khẳng định:
nghệ thuật là cuộc sống, nghệ thuật bước ra từ cuộc sống; cuộc sống sinh ra
nghệ thuật, cuộc sống là linh hồn của nghệ thuật. Vì vậy nghệ thuật phải gắn
với cuộc sống và phục vụ cuộc sống. Chân lý nghệ thuật chính là giấc mơ về
chân lý cuộc sống, chân lý của cuộc sống chính là sự đúc kết thực tế cuộc đời
đa dạng, phức tạp và đầy nghịch lý thành cách ứng xử và quy luật nhân sinh.
2. Phân tích chủ đề truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”.
2.1. Định nghĩa chủ đề:
“Là một số nét tư tưởng lặp đi lặp lại trong tác phẩm của nhà văn…Chủ
đề thể hiện bản sắc tư duy, chiều sâu tư tưởng, khả năng thâm nhập vào bản
chất của đời sống”. Chủ đề của tác phẩm lớn thường là những vấn đề khái
quát vượt lên trên những vấn đề cụ thể. Chủ đề đóng vai trò rất lớn trong việc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
làm cho tác phẩm trở nên quan trọng và có ảnh hưởng sâu rộng”.[32, 125-
126-127]
Truyện ngắn hiện đại chủ đề thường khái quát vượt lên trên những đề tài
cụ thể. Một truyện ngắn hay có thể có nhiều chủ đề đòi hỏi người đọc phải “
nhập cuộc” thực sự mới phát hiện ra được.
2.2. Chủ đề truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”:
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” toát lên hai chủ đề cơ bản:
- Chủ đề về quan niệm nghệ thuật: : Sáng tạo nghệ thuật là một quá trình
gian nan, khổ ải nhọc nhằn; người nghệ sĩ phải có tâm huyết và sự đam mê.
Nghệ thuật không chấp nhận sự sao chép đại khái.
- Chủ đề về chân lý đời sống: Cuộc đời không hề đơn giản mà luôn tồn
tại những nghịch lý; phải có cái nhìn tỉnh táo, độ lượng mới hiểu và thấy được
bản chất tốt đẹp của con người.
2.3. Phân tích chủ đề truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”:
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”toát lên hai chủ đề cơ bản:
- Chủ đề về quan niệm nghệ thuật: Sáng tạo nghệ thuật là một quá trình
gian nan, khổ ải nhọc nhằn; người nghệ sĩ phải có tâm huyết và sự đam mê.
Nghệ thuật không chấp nhận sự sao chép đại khái.
Chủ đề này được thể hiện qua cuộc hành trình đi tìm cái đẹp của người
nghệ sĩ tên Phùng.Theo yêu cầu của người trưởng phòng giao cho: Muốn có
một cuốn lịch 12 tháng về chuyên đề “Thuyền – Biển”mà phải là tĩnh vật hoàn
toàn. Với lòng yêu nghề, say mê công việc, khát khao được sáng tạo, anh đã
vượt 600 km đến vùng biển để phục cảnh biển trong sương. Sau nhiều ngày
chọn lựa vào các thời điểm, anh vẫn không tìm được bức ảnh ưng ý. Ngẫu
nhiên anh chụp được một cảnh đắt trời cho – một cảnh đẹp toàn bích, có
thuyền – biển – sương. Phùng đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc, đã
chụp được những bức ảnh tuyệt đẹp đầy chất nghệ thuậtmà chính anh cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
phải sững sờ, ngỡ ngàng, xúc động trước vẻ đẹp tuyệt đỉnh của nó. Đặc biệt là
bức ảnh “đắt” nhất đẹp như là “một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời
cổ” “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích” miêu tả cảnh một chiếc thuyền
ngư phủ huyền ảo giữa trời nước mênh mông “in một nét mơ hồ loè nhoè vào
bầu trời sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời
chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên
chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy được
nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra
dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét
đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”.
Bức ảnh đẹp đến nỗi:“Đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong tim như có cái
gì bóp thắt vào”.
Người nghệ sĩ chân chính hài lòng và tâm đắc với bức ảnh, anh xem nó
là sự “toàn bích”, “toàn thiện”, là cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh. Toàn bộ
khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một cái đẹp gợi ra
sự thơ mộng và bình yên của cuộc sống. Qua đó thể hiện quan niệm: Sự toàn
vẹn của cái đẹp nghệ thuật là cái đẹp hài hoà giữa cái đẹp, cái thơ của thiên
nhiên với cuộc sống lao động và con người trong sự bình yên thanh thản.
Tuy nhiên những bức ảnh này trở nên vô nghĩa khi người nghệ sĩ được
chứng kiến những gì đằng sau nó: ẩn đằng sau bức tranh mù sương mờ ảo kia
là một bi kịch gia đình; từ đó toát lên chủ đề thứ hai.
- Chủ đề về chân lý đời sống: Qua việc chứng kiến bi kịch của một gia
đình làng chài; ta thấy: Cuộc đời không hề đơn giản mà luôn tồn tại những
nghịch lý; phải có cái nhìn tỉnh táo, độ lượng mới hiểu và thấy được bản chất
tốt đẹp của con người.
Mải mê trong hành trình kiếm tìm cái đẹp của nghệ thuật, người nghệ sĩ
chụp ảnh đã nhận thấy thiên nhiên và cuộc sống của con người vùng biển lúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
mạnh mẽ hoành tráng, lúc nhộn nhịp khẩn trương, lúc êm ả thanh bình. Cuộc
sống của bà con vạn chài thật phẳng lặng qua cái nhìn của người nghệ sĩ. Tình
cờ ngẫu nhiên anh được chứng kiến một nghịch lý đời thường: từ chính trên
chiếc thuyền đã làm nên bức tranh mê hồn là cuộc sống gia đình hàng chài vô
cùng đau khổ và đáng sợ: người chồng đang tâm đánh đập vợ tàn nhẫn, người
vợ thương con nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi của người chồng mà không
biết đã làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ dại. Cậu bé yêu mẹ, thương mẹ
thành ra thù địch với cha. Một sự thật khó tin vì nó ghê rợn quá, nhưng đó
không phải là chuyện riêng của một gia đình, mà “Đàn ông vạn chài ai cũng
thế” (Lời cô y tá)
Không chỉ “vỡ lẽ” về cuộc sống: cuộc sống không giản đơn thuận chiều
mà chứa đựng nhiều nghịch lý; người nghệ sĩ còn phát hiện ra được “con
người bên trong con người” qua câu truyện về cuộc đời đầy uẩn ức của người
đàn bà vùng biển. Lúc đầu Phùng và Đẩu –người cán bộ toà án – chỉ thấy chị
thật đáng thương. Nhưng qua những lời tâm sự giản dị, chân tình anh mới
hiểu: ẩn sau hình hài thô kệch lam lũ, sau dáng vẻ nhẫn nhục cam chịu là một
tâm hồn am hiểu lẽ đời, sống có khát vọng, có mục đích; một trái tim nhân ái
giàu lòng vị tha của một người đàn bà giàu nghị lực, một người mẹ hết lòng
yêu thương các con, giữ gìn mái ấm gia đình, có cách ứng xử thấu tình đạt lý.
Qua số phận éo le của người phụ nừ, các anh mới hiểu rõ hơn về cuộc
sống lao động của người dân trên biển: họ vừa phải chèo chống với phong ba
bão táp để mưu sinh, vừa phải chèo chống với đói nghèo lạc hậu…để bảo vệ
gia đình.
Những điều Phùng được chứng kiến giúp anh nhận ra chân lý của nghệ
thuật và mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Đó là: Nghệ thuật và cuộc
sống không phải là một, và không bao giờ trùng khít lên nhau. Bên trong nghệ
thuật có chân lý cuộc đời và bên trong cuộc đời có chân lý nghệ thuật. Nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
thuật không phải lúc nào cũng phát hiện được mặt trái của hiện thực. Nghệ
thuật thì đẹp trong khi cuộc sống thì đầy những nghịch lý bất ngờ không thể
đoán trước, không dễ lý giải cắt nghĩa được. Điều cốt yếu của người làm nghệ
thuật là không cho phép mình tự bằng lòng với bề ngoài của cuộc sống, mà
phải đi sâu vào khám phá, phát hiện được bản chất đích thực của cuộc sống
bộn bề đầy phức tạp để có cái nhìn đúng đắn, sâu sắc hơn đối với con người,
với cuộc đời góp phần làm chuyển biến cuộc sống, đưa xã hội phát triển.
Từ đó thể hiện một quan điểm mới mẻ của nhà văn Nguyễn Minh Châu
về trách nhiệm của người nghệ sĩ: người nghệ sĩ chân chính phải bám sát vào
đời sống xã hội, hiểu rõ bản chất của người dân lao động; nếu xa rời cuộc
sống, người nghệ sĩ chỉ phản ánh được bề ngoài của nó mà thôi. Từ một tình
huống trong đời thường, Nguyễn Minh Châu đã khéo léo gợi mở nhiều vấn đề
về nguyên tắc nghệ thuật và triết lý nhân sinh. Qua đó ngầm phê phán cách
nhìn cuộc sống đơn giản một chiều, đồng thời đặt ra trách nhiệm của nghệ
thuật là đào sâu, khám phá bề sâu, bề xa của hiện thực, khám phá vẻ đẹp
khuất lấp, bình dị trong đời sống hàng ngày.
Nhân vật tôi trên hành trình đi tìm chân lý nghệ thuật đã phát hiện ra
chân lý đời sống, đây là hai vòng tròn đồng tâm có tâm điểm là con người.
Văn học hôm nay tập trung vào đời tư con người - những con người cá nhân
bé nhỏ để khám phá đời sống tâm hồn và những quy luật vĩnh hằng của giá trị
nhân bản. Nghệ thuật chân chính phải bắt nguồn từ hiện thực trần trụi, khốc
liệt đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Bức ảnh lịch ở cuối truyện là lời khẳng
định: Nghệ thuật là cuộc sống và cuộc sống là linh hồn của nghệ thuật.
Câu chuyện giản dị nhưng chất chứa những chiêm nghiệm sâu xa, những
triết lý về con người, cuộc đời và thiên chức làm mẹ, làm vợ.
3. Những biểu hiện cụ thể của các tầng ý nghĩa nhân sinh trong
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Các tầng ý nghĩa nhân sinh trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
được biểu hiện cụ thể qua kết cấu truyện và đặc biệt là qua việc phân tích hệ
thống nhân vật trong truyện với những mối quan hệ trong gia đình và những
quan hệ ngoài xã hội.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” có kết cấu luận đề với 3 phần thể
hiện 3 tầng ý nghĩa nhân sinh của truyện.
- Phần 1:
Những chiêm nghiệm về chân lý nghệ thuật qua hai phát hiện của nghệ sĩ
Phùng: Phát hiện về một “cảnh đẹp trời cho”và một bi kịch gia đình ẩn sau
cảnh biển thanh bình, nên thơ. Qua đó toát lên những nhận thức về hiện thực
cuộc sống: Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch
lý; cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn: đẹp - xấu,
thiện - ác…mà đôi khi cái đẹp chỉ là vỏ bọc bên ngoài che giấu bản chất thực
của đời sống bên trong.
- Phần 2:
Những chiêm nghiệm về chân lý đời sống. Qua câu chuyện của người
đàn bà hàng chài, tác giả thể hiện cách nhìn nhận về con người và cuộc đời:
không thể nhìn đời, nhìn người một cách giản đơn; mà cần phải nhìn nhận
cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều mới thấy được những
giá trị đạo đức tốt đẹp của con người cũng như những nguy cơ xã hội tiềm ẩn.
Qua đó thức tỉnh người đọc có cách sống mới, cách ứng xử mới giữa con
người với con người một cách nhân đạo hơn.
- Phần 3:
Mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống: Từ bức ảnh lịch cuối truyện và
hình ảnh người đàn bà bước ra khỏi bức ảnh, tác giả muốn nói: Nghệ thuật
chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời, nghệ thuật chân chính phải luôn
gắn với cuộc đời và phải luôn vì cuộc đời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
3.1. Những chiêm nghiệm về chân lý nghệ thuật qua hai phát hiện
của nghệ sĩ Phùng:
Nhân vật Phùng - người nghệ sĩ nhiếp ảnh - trong chiến tranh anh là một
người lính, khi chiến tranh kết thúc anh trở thành một nghệ sĩ nhiếp ảnh.
Theo yêu cầu của người trưởng phòng, Phùng đã tìm đến vùng phá nước
miền Trung cách Hà Nội 600 km để chụp một bức ảnh tĩnh vật về thuyền và
biển cho bộ lịch năm mới. Tại đây anh phải thức khuya, dậy sớm để kiếm tìm,
lựa chọn cho được một bức ảnh ưng ý. Điều này chứng tỏ anh không chỉ là
một người yêu nghề, khát khao khám phá, sáng tạo; mà ta còn thấy: Sáng tạo
nghệ thuật là một quá trình gian nan, vất vả đòi hỏi phải có tâm huyết và trách
nhiệm.
Cũng tại vùng phá nước này, anh có hai phát hiện về thiên nhiên và cuộc
sống con người nơi đây:
* Phát hiện ra một cảnh tượng tuyệt đẹp – một bức tranh tuyệt mỹ –
một bức hoạ diệu kỳ mà thiên nhiên và cuộc sống đã ban tặng cho con người
nơi đây. Đó là một cảnh đắt trời cho mà cả đời bấm máy, người nghệ sỹ chỉ
diễm phúc bắt gặp một lần. Đó là “một bức tranh mực tàu của một danh hoạ
thời cổ” “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp,
một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích”, trên nền bức tranh thiên nhiên đó là hình
ảnh con người “vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc trên
mui khum khum” khiến cho bức ảnh sinh động, có hồn. Tất cả tạo nên một nét
“mơ hồ, loè nhoè”- một vẻ đẹp huyền ảo bất ngờ đối với người nghệ sĩ. Qua
đó ta thấy con người luôn là đối tượng khám phá, là trung tâm của nghệ thuật.
Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác của tạo hoá, tâm hồn
người nghệ sĩ rung động thực sự, anh bỗng trở nên “bối rối” “trong tim như
có cái gì bóp thắt vào”. Trong giây lát, người nghệ sĩ còn “khám phá thấy cái
chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy khoảnh khắc trong ngần của tâm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
hồn”. Trong giây phút cảm xúc thăng hoa, anh phát hiện ra sự toàn vẹn của
cái đẹp nghệ thuật là cái đẹp hài hoà giữa con người và thiên nhiên một cách
thơ mộng, cái đẹp ấy sẽ đẹp hơn nếu gắn với con người và cuộc sống lao
đọng.
Không chỉ bất ngờ chụp được một “cảnh đắt trời cho”– một chiếc thuyền
đẹp như mơ - một cảnh tượng mà cả cuộc đời người nghệ sĩ hiếm khi bắt gặp;
Phùng còn được chứng kiến một bi kịch gia đình ẩn sau bức tranh thiên nhiên
tuyệt mĩ mờ sương hư ảo kia.
* Phát hiện ra một bi kịch gia đình:
Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là một người đàn bà có
ngoại hình thô kệch, xấu xí lam lũ; khuôn mặt mệt mỏi tái ngắt; một người
đàn ông dữ dằn bước xuống bãi xe tăng hỏng. Một cảnh tượng tàn nhẫn:
người chồng đánh đập người vợ một cách dã man; người vợ nhẫn nhục cam
chịu. Đứa con vì thương mẹ, muốn bảo vệ mẹ nên đã đánh lại bố để rồi nhận
lấy hai cái bạt tai của bố. Người mẹ ôm con khóc và vái con, rồi lại buông con
đuổi theo người chồng trở về chiếc thuyền, để lại sau lưng bãi cát mênh mông
và hoang sơ.
Chứng kiến những cảnh tượng đó nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến sững sờ
“trong mấy phút đầu tôi đứng há mồn ra mà nhìn”. Người nghệ sỹ như chết
lặng không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. Anh hoàn toàn bất ngờ
khi thấy đằng sau cảnh đẹp mê hồn của tạo hoá kia vừa làm anh ngây ngất lại
chứa đựng cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Bức ảnh nghệ thuật “toàn
bích ” mà Phùng đã bất ngờ chụp được hoàn toàn trái ngược với sự thực về
gia đình làng chài trong bức ảnh của anh. Hoá ra những gì đẹp đẽ mà bức ảnh
của anh ghi lại được chỉ là vẻ đẹp bề ngoài giả tạo mà thôi; đó chỉ là một lớp
vỏ bọc che phủ một cuộc sống vô cùng tối tăm, lam lũ, khổ đau và bất hạnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
Cái nghèo đói, tăm tối; cuộc sống tù túng lạc hậu vẫn ngày đêm đe doạ cuộc
sống con người.
Là người lính giải ngũ, anh cứ nghĩ: chiến tranh kết thúc là hết cái ác, hết
cảnh đau thương, con người sẽ được sống hạnh phúc. Nhưng hoá ra không
phải vậy, khổ đau vẫn còn, cái ác vẫn ẩn nấp và hiện hình trong cuộc sống
tưởng như bình lặng.
Sự thật nghiệt ngã và phũ phàng mà Phùng được chứng kiến đã xé
toang màn sương mờ ảo che phủ con thuyền ngoài xa, xua đi vẻ đẹp lãng mạn
hư ảo trong bức ảnh, và làm đổ vỡ cái nhìn duy mỹ trong quan niệm về nghệ
thuật của nghệ sĩ Phùng. Bức ảnh rất đẹp, nhưng nó chỉ là nghệ thuật thuần
tuý chứ chưa phải là cuộc sống. Hoá ra cuộc sống vô cùng phức tạp và chứa
đựng nhiều nghịch lý chứ không hề đơn giản, xuôi chiều. Cuộc sống luôn tồn
tại những mặt đối lập: thiện - ác, đẹp – xấu.
Qua hai phát hiện trái ngược nhau của nghệ sĩ Phùng, nhà văn
Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến người đọc một thông điệp: Đừng vội vàng
đánh giá sự vật và con người ở dáng vẻ bề ngoài, phải phát hiện ra bản chất
thực sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng. Phải có cái nhìn tỉnh táo đa chiều ta
mới thấy bản chất “ngổn ngang bề bộn”, những “biến động”, những “bất
ngờ” của nó. Cuộc sống không ngừng vận động; cùng với cái đẹp, cái tốt thì
lúc nào, bao giờ cái ác cũng tồn tại; ta không nên chỉ nghĩ đến việc tiêu diệt
nó mà còn cần phải ngăn chặn, cảnh báo và cải tạo. Đây chính là tầng ý nghĩa
nhân sinh thứ nhất của truyện
3.2. Những chiêm nghiệm về chân lý đời sống qua câu chuyện về
cuộc đời ngƣời đàn bà hàng chài:
3.2.1. Ca ngợi những giá trị đạo đức tốt đẹp của con ngƣời qua hình
tƣợng nhân vật ngƣời đàn bà hàng chài:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài tiêu biểu cho nghệ thuật xây
dựng nhân vật của nhà văn xuất phát từ quan niệm nghệ thuật mới về con
người. Người đàn bà này có những nét khác biệt, độc đáo, mang khả năng
khái quát sâu sắc về một cuộc đời, một số phận. Chính vì vậy mà nhân vật để
lại những ấn tượng khó quên.
Nhân vật được khắc hoạ từ nhiều phương diện trở nên sống động, gần
gũi, bình dị như bao con người lao động khác mà ta vẫn thường gặp trong
cuộc sống. Chị không giống như phần đông các nhân vật nữ trong văn học
trước năm 1975 nói chung và trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu nói
riêng thường mang một vẻ đẹp dịu dàng quyến rũ. chị tiêu biểu cho những
người phụ nữ lam lũ, vất vả nhọc nhằn trong cuộc sống đời thường đầy gian
truân. Nhân vật người đàn bà vùng biển là một con người vô danh. chị không
có tên tuổi, lai lịch. Chị là người đời thường như biết bao người đến lại đi
trong cuộc đời với hính bóng mờ nhạt, nhưng trong trang viết của Nguyễn
Minh Châu, người đàn bà vùng biển lam lũ cực nhọc ấy vẫn để lại bao trăn trở
day dứt trong lòng người đọc.
- Ngoại hình: thô kệch, xấu xí, lam lũ. Cái khổ và số phận như chạm
khắc lên ngoại hình của chị:“Trạc ngoài bốn mươi…thân hình cao lớn với
những đường nét thô kệch…rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi…tái ngắt,…tấm lưng
áo bạc phếch, rách rưới”
Chỉ qua vài chi tiết miêu tả ngoại hình chân thực tác giả đã hé mở cho
thấy bao dự cảm về số phận và tính cách nhân vật: Đó là một người đàn bà
chịu nhiều đau khổ, thiệt thòi cả về vật chất lẫn tinh thần. Trước hết, đây là
một người đàn bà kém nhan sắc, không một nét nào ở chị gợi lại một thời
thiếu nữ tươi đẹp. Năm tháng và cuộc sống mưu sinh vất vả nhọc nhằn càng
làm cho chị thay đổi. Dường như cuộc sống khắc nghiệt vẫn đang đeo bám và
cố vắt kiệt sức sống của chị.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
Nhưng từ thân hình của người đàn bà vẫn toát lên sức sống dẻo dai, bền
bỉ như để thích nghi với hoàn cảnh, để tồn tại. Tấm áo của chị như mách bảo
sự thiếu thốn đói nghèo: nó “bạc phếch” vì dầm mưa dãi nắng, nó “rách
rưới” vì làm cật lực mà vẫn chẳng đủ ăn, đói nghèo cứ đeo bám mãi.
Ngoại hình người đàn bà đã gợi ra một số phận nghèo khổ, vất vả, nhọc
nhằn; một nét tính cách: cần cù, nhẫn nại, cam chịu. Đây là hình ảnh sống
động tiêu biểu cho những kiếp người luôn phải gồng mình lên để chống chọi,
để mưu sinh, để tồn tại.
- Qua bi kịch gia đình mà Phùng được chứng kiến anh cảm nhận được:
+ Chị là người vợ chịu nhiều thiệt thòi bất hạnh, tự mình chấp nhận và nén
chịu mọi đau khổ để giữ gìn mái ấm gia đình.
Vì cuộc sống mưu sinh chị đã phải thức suốt đêm để kéo lưới, để chèo chống
con thuyền gia đình bình yên nơi biển cả đầy bất trắc. Không chỉ vậy chị còn
tự nguyện gồng mình chịu đòn roi của chồng, chịu nỗi đau thể xác mà không
oán thán “không kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn”
để mong vừa giải toả được cơn giận của người chồng, vừa bảo vệ được mái
ấm gia đình. Dường như mọi cảm xúc của chị đã chai lỳ qua các trận đòn.
Nhưng khi thấy đứa con trai chạy đến chống trả lại bố nó, thì tất cả những gì
chị đang dồn nén, kìm giữ như vỡ oà ra: “Người đàn bà dường như lúc này
mới cảm thấy đau đớn- vừa đau đớn vừa vô cùng nhục nhã…Miệng mếu máo
gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại
buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy”. Bao tủi hờn cay đắng,
thương mình, thương con ở người đàn bà khốn khổ như tan thành nước mắt.
Chị khóc lặng lẽ trong chua xót, đau đớn, tủi nhục; vì dù cố gắng giữ gìn
không muốn để các con trông thấy cảnh bạo lực trong gia đình mà không
được. Những đứa con cuối cùng vẫn biết sự thật khiến chị “vừa đau đớn, vừa
vô cùng tủi hổ, nhục nhã”. Đứa con – thằng Phác – vì yêu mẹ, thương mẹ mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
trở nên căm ghét bố. Nó xông vào đánh bố cũng là để bảo vệ mẹ, để bố không
đánh mẹ. Chứng kiến cảnh đó chị khóc và “vái lấy vái để” đứa con như là để
“tạ lỗi” với nó, như là cầu xin nó đừng căm thù bố nó. Để rồi sau đó chị
buông đứa con và đuổi theo người đàn ông vừa đánh mình. Người mẹ thương
con nhưng không thể bỏ chồng dù người chồng đó tàn bạo. Qua đó ta thấy
cuộc sống là những mối dây ràng buộc vô hình, phức tạp không dễ gì cởi bỏ.
Họ –ba con người: người mẹ tội nghiệp đáng thương, người bố độc ác, tàn
nhẫn và đứa trẻ hồn nhiên ngây thơ sẽ chẳng rời xa nhau được. Họ sẽ còn luẩn
quẩn giữa yêu thương, thù hận và hành hạ lẫn nhau. Họ gieo vào lòng người
đọc bao băn khoăn trăn trở: cuộc sống và số phận của họ rồi sẽ ra sao ?
Cảnh bạo lực không chỉ dừng ở đó mà vẫn tiếp diễn “ba ngày một trận
nhẹ, năm ngày một trận nặng” khiến người can thiệp không chỉ là thằng Phác
mà là cả những người ngoài cuộc với mọi giải pháp tích cực có, tiêu cực cũng
có: nghệ sĩ Phùng thì can thiệp bằng nắm đấm nện cho lão chồng độc ác một
trận, chánh án Đẩu thì khuyên chị bỏ chồng…mong giúp chị thoát khỏi số
phận. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là chị kiên quyết chối từ. Chị đã lý giải lý
do của mình qua câu chuyện cởi mở chân thành với Đẩu và Phùng ở toà án
huyện.
* Câu chuyện về cuộc đời người đàn bà hàng chài:
Theo lời mời của Đẩu, người đàn bà hàng chài đến toà án huyện để giải
quyết việc gia đình. Tuy không phải lần đầu đến đây, nhưng chị vẫn mang
dáng vẻ “lúng túng, sợ sệt” đáng thương đến tội nghiệp, chị dường như cố tìm
cách thu mình lại. Cách xưng hô của một người quen cúi đầu nhẫn nhịn: “con
– quý toà”, nó cũng thể hiện khoảng cách giữa con người trong xã hội: giữa
cá nhân chị và người đại diện công lý. Thật là bất ngờ: những lời đầu tiên của
chị ở chốn công đường lại là những lời lạy lục van xin khẩn thiết: Xin toà
đừng bắt bỏ chồng dù đó là người chồng cục súc vũ phu luôn hành hạ, đày ải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
mình. Người đàn bà hàng chài đã từ chối lời đề nghị giúp đỡ của chánh án
Đẩu, nghệ sĩ Phùng. Chị đau đớn đánh đổi bằng mọi giá để không phải bỏ
người chồng vũ phu “Con lạy quý toà…Quý toà bắt tội con cũng được, phạt
tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Sau hiểu lời khuyên đầy thiện ý của
chánh án Đẩu, thái độ của chị đột ngột thay đổi, cách xưng hô cũng thay đổi:
“chị - các chú”; vẻ lúng túng sợ sệt vẫn còn nhưng dường như tự tin hơn.
Người phụ nữ giải thích“Các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các
chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc…”. Sau đó
chị thân tình kể lại câu chuyên về cuộc đời mình với mong muốn được chia
sẻ, cảm thông; qua đó gián tiếp đưa ra lý do vì sao chị nhất quyết không chịu
bỏ người chồng vũ phu.
Trước đây chị không phải là người vùng biển. Chị là con một gia đình
khá giả trên phố “Từ nhỏ tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một
bận lên đậu mùa…Cũng vì xấu mà trong phố không ai lấy, tôi có mang với
một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan
lưới”. Một điều dễ thấy: một người như chị thì việc mong ước có được một
gia đình thật khó mà thực hiện được; trong khi khát vọng về hạnh phúc, về
mái ấm gia đình lại là khát vọng bình dị muôn đời của tất cả những người phụ
nữ. Chị tự biết mình xấu nên đã cố vuợt qua cái thua thiệt về hình thức của
mình; việc chị tự nguyện lấy một anh con trai chuyên nghề chài lưới nghèo
khó, sống vất vả lam lũ, là chị đã chấp nhận tất cả, là thách thức và vuợt lên
số phận của chính mình. Nhưng số phận đã không mỉm cười với chị: cuộc đời
chị từ đó nỗi buồn nhiều hơn niềm vui; bởi cuộc sống mở ra bao éo le, khắc
nghiệt, còn con người thì không thể dửng dưng khi cái nghèo cái khó đang
từng ngày, từng giờ tác động vào gia đình, con cái và chính bản thân mỗi
người. Người chồng vì khổ quá, vì dồn nén những uất ức, ức chế với cuộc đời
mà không biết chia sẻ cùng ai, anh ta chỉ biết dồn lên đầu vợ những trận đòn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
tàn nhẫn. Người chồng trở thành người như vậy do nghèo khổ, túng quẫn, con
đông, thuyền chật. Như vậy hoàn cảnh đã và đang làm con người tha hoá
nhân phẩm, huỷ hoại nhân tính. Người vợ rất hiểu điều đó:“Lão chồng tôi khi
ấy là anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”,
còn bây giờ thì “bất kỳ lúc nào lão thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng
như đàn ông thuyền khác uống rượu, giá như mà lão uống rượu…thì tôi còn
đỡ khổ”, “Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ
mà đánh”. Sống vì con, chị âm thầm nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi thô
bạo, vũ phu của chồng. Chị xin chồng cho lên bờ đánh tránh để con nhìn thấy
cảnh nghiệt ngã ấy, tránh những ấn tượng xấu, chị muốn giữ lại trong con
những hình ảnh tốt đẹp nhất về cha mẹ. Không một lời lẽ căm thù, oán hờn;
chị giãi bày tâm sự, có trách móc nhưng vẫn “minh oan” cho cái dữ tợn, vũ
phu, tàn bạo của hành động đánh vợ. Chị hiểu nguyên nhân sâu sa của hành
động đánh vợ:
+ Vì công việc, nghề nghiệp: cuộc sống trôi nổi bấp bênh của nghề chài
lưới trên sông nước, làm ăn vất vả cực nhọc mà vẫn nghèo khổ; mọi sinh hoạt
của cả gia đình chỉ trong một chiếc thuyền chật hẹp, tù túng.
+ Vì trình độ học vấn thấp nên đẻ nhiều, đông con:“Nhưng cái lỗi chính
là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật” . Chị nhận cả phần
trách nhiện và lỗi về mình.
+ Vì nghèo khổ, túng đói: “Ông trời làm động biển suốt hàng tháng,cả
nhà vợ chồng, con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”.
+ Vì phong tục, tập quán để lại: “Đàn ông vạn chài ai cũng thế” (Lời cô
y tá). Điều đó cho ta thấy đây không chỉ là chuyện riêng của một gia đình.
Qua những lý do trên ta thấy: chị thấu hiểu, tha thứ, cảm thông, chia sẻ
với chồng những điều không dễ gì nói ra được. Thì ra lúc nào con người cũng
dễ dàng kết tội được cho nhau khi họ không chịu hiểu nhau; chỉ có cảm thông,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
chia sẻ, thấu hiểu con người mới nâng đỡ được con người để cùng sống trong
cuộc đời còn nhiều đau khổ và khó khăn này. Và nếu chỉ đứng từ xa quan sát
thì cho dù có được chứng kiến tận mắt cũng không dễ hiêủ ra vấn đề khuất
lấp đằng sau sự việc đánh vợ kia.
Chị - người đàn bà miền biển lam lũ, thất học, suốt đời vật lộn với sóng
nước mặn mòi, bươn chải để kiếm sống đã làm cho người đọc ngạc nhiên hơn
khi gián tiếp đưa ra những lí do để giải thích vì sao chị nhất quyết không bỏ
người chồng vũ phu đó là:
+ Người chồng là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời những người đàn bà
hàng chài như chị, nhất là những khi biển động phong ba. Vì trong cuộc sống
lam lũ còn nhiều thử thách, dường như người đàn ông và người đàn bà phải
nương tựa vào nhau để duy trì sự sống.
+ Chị cần có người đàn ônglàm trụ cột, làm chỗ dựa, gánh vác sự sống
của cả gia đình. Bởi: chị còn phải nuôi những đứa con, chị đâu có thể chỉ sống
cho riêng mình mà còn phải sống vì con nữa.
+ Trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng con cái sống hoà thuận, vui
vẻ và vui nhất là lúc được nhìn đàn con ăn no.
Phải chăng vì trách nhiệm làm mẹ, làm vợ mà chị phải chấp nhận số
phận, chấp nhận tình trạng bị hành hạ để gia đình chị luôn có một người đàn
ông làm trụ cột chèo lái con thuyền gia đình giữa cuộc đời đầy sóng gió. Bởi
số phận gia đình chị, đàn con của chị và bản thân chị sẽ ra sao nếu chị chấp
nhận bỏ chồng? Qua đó ta thấy nếu chỉ giải quyết được bi kịch này, thì hàng
loạt bi kịch khác lại từ đó nảy sinh. Cuộc sống không chỉ đơn giản như ta nghĩ
và ta muốn, mà nó có những quy luật riêng buộc chúng ta phải thừa nhận.
Hành trình đi tìm hạnh phúc nhỏ nhoi, bình dị của những người đàn bà hàng
chài kia vẫn đầy chông gai ở phía trước và có thể còn nảy sinh những bi kịch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
đau đớn hơn. Con người luôn đứng trước sự lựa chọn và có lẽ chưa có sự lựa
chọn hoàn mĩ nào cho những người nghèo khổ đáng thương.
Đến đây ta thấy thái độ cam chịu đầy nhẫn nhục của người đàn bà hàng
chài không còn làm ta kinh ngạc vì thực chất đó là sự lựa chọn bất đắc dĩ
được suy tính kỹ lưỡng, sâu sa từ trước. Trong hoàn cảnh đông con mà cuộc
sống trên mặt nước lại đầy nhọc nhằn bất trắc, nỗi lo cơm áo không lúc nào
buông tha, người đàn bà ấy chỉ còn cách lựa chọn duy nhất là cam chịu nhẫn
nhục để bảo vệ hanh phúc gia đình.
Từ những nghịch lý trong bi kịch gia đình chị, chúng ta thấy: ẩn sau hình
hài thô kệch lam lũ, trong dáng vẻ nhẫn nhục cam chịu là vẻ đẹp tâm hồn của
người phụ nữ hàng chài:
+ Một người vợ luôn thấu hiểu, cảm thông và chia xẻ mọi khó khăn
trong cuộc sống với chồng. Bởi chồng chị vốn là “Một anh con trai cục tính
nhưng hiền lành lắm…không bao giờ đánh đập” vợ. Chỉ vì :“nghèo khổ túng
quẫn vì đi trốn lính”, vì quá đông con mà anh trở nên vũ phu, tàn nhẫn. Trong
con mắt chị, anh chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Chị nhận cả
phần trách nhiệm và phần lỗi về mình :“Giá tôi đẻ ít đi…” “lỗi chính là đám
đàn bà đẻ quá nhiều…”.
Một trái tim nhân hậu giàu lòng vị tha: Để vừa chèo chống con thuyền gia
đình được bình yên trên biển cả đầy phong ba bão táp, vừa chèo chống với đói
nghèo, lạc hậu, tù túng; chị không chỉ phải thức suốt đêm kéo lưới mà còn
phải nhẫn nhục cam chịu những trận đòn vô cớ của chồng. Dù bị đánh đập tàn
nhẫn, nhưng chị vẫn không oán trách chồng vì chị thấu hiểu nguyên nhân sâu
sa (nỗi khổ và sự bế tắc) làm người chồng thay đổi. Đặc biệt trong những đứa
con của mình, chị yêu nhất là thằng Phác – một thằng bé yêu mẹ vô cùng –
một thằng bé có ngoại hình và tính cách giống hệt bố. Điều đó chứng tỏ chị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
vẫn yêu chồng, cần chồng bởi cũng có những lúc gia đình chị được hạnh
phúc.
+ Một người phụ nữ với những khát khao cháy bỏng về hạnh phúc gia
đình - Một người mẹ hết lòng yêu thương các con, sẵn sàng chấp nhận mọi
thiệt thòi để bảo vệ giữ gìn mái ấm gia đình. Chị thà chịu những trận đánh
triền m chứ nhất định không chịu ly hôn, vì không muốn các con mất bố, gia
đình không có người đàn ông làm trụ cột để chèo chống giữa cuộc đời. Chị
không sống cho riêng mình mà sống vì gia đình, vì các con. Đàn con là nỗi
đau, là hạnh phúc, là mục đích sống có ý nghĩa nhất của chị. Niềm hạnh phúc
lớn nhất của chị là được nhìn thấy đàn con được ăn no. Chị luôn ý thức được
thiên chức làm mẹ, làm vợ của mình không gì đánh đổi đư. Những câu nói
trên như được chắt lọc từ cuộc đời nhiều nỗi nhọc nhằn, uẩn ức của chị đã gói
gọn tình cảm và khát vọng sâu thẳm của người mẹ. Những câu nói trên không
phải là để thở than hay oán trách số phận, mà là sự tự ý thức về bổn phận
người đàn bà sinh ra trên cõi đời này là để cho, để che chở. Chị nói ra để chia
sẻ với người chánh án, với người thợ chụp ảnh và cũng là để tự nói với mình;
sâu sắc, bình tĩnh lý giải những khúc mắc, những bi kịch của số phận mình.
Câu nói của chị trước toà chẳng có gì to tát, nó bình dị như chính cuộc sống
lam lũ, nhọc nhằn của chị. Nó thấm cái chát mặn của mồ hôi và nước mắt của
một đời người. Nhưng đằng sau đó là một trái tim nhân hậu muôn thuở của
một người đàn bà với thiên chức làm mẹ, làm vợ.
Người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác để rồi cuối cùng
phải sửng sốt, bàng hoàng, cảm phục trước trái tim người mẹ thăm thẳm bao
la, trước vẻ đẹp mẫu tính ngàn đời: Để gia đình luôn có một người đàn ông
chèo lái con thuyền, để đàn con được ăn no, người mẹ ấy phải chấp nhận tình
trạng bị hành hạ thường xuyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
Hình ảnh người đàn bà hiện lên trong tác phẩm với những nét tính cách
vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất: Chị vừa yếu đuối tội nghiệp, lại vừa mạnh mẽ
đầy cảm phục, vừa đơn giản lại vừa sâu sắc, chất phác mộc mạc nhưng cũng
rất sắc sảo. Chị một người đàn bà vùng biển thất học nhưng lại có cách ứng
xử thấu tình đạt lý, hiểu sâu sắc lẽ đời. Chị hoàn toàn ý thức được việc mình
làm và không có ý định chạy trốn số phận, hay đổ lỗi cho cuộc đời. Dù cuộc
đời còn nhiều nhọc nhằn lam lũ nhưng chị biết chắt chiu, nâng niu hạnh phúc
đời thường. Những ước mơ, tâm niệm hạnh phúc giản dị đơn sơ của chị là
chất thơ của cuộc sống, nó làm vơi đi những lam lũ khổ cực của hiện thực bên
ngoài.
Câu chuyện về số phận éo le của người đàn bà hàng chài để lại cho người
đọc nhiều cảm phục tin yêu và cũng nhiều nghĩ suy day dứt; và đặc biệt hơn
là nó mở ra những triết lý mới mẻ mà sâu sắc về con người và cuộc sống
quanh ta:
+ Con người ẩn chứa trong mình những phẩm chất tuyệt vời biết bao,
hạnh phúc mà họ có được nhọc nhằn làm sao; để có nó con người nhiều khi
phải trả giá quá đắt.
+ Quan niệm về hạnh phúc của con người nhiều khi thật bình dị, giản
đơn; khát vọng về hạnh phúc thật nhỏ bé mà sao cũng thật khó với tới.
+ Cuộc sống mưu sinh của bao gia đình, bao người đàn bà trên sông
nước thật, nhọc nhằn vất vả. Sự tồn tại và hạnh phúc của họ không chỉ đánh
đổi được bằng mồ hôi, mà nhiều khi bằng cả máu và nước mắt.
Hình ảnh người đàn bà hàng chài chất phác giản dị như từ cuộc sống
bước vào trong trang sách. Người đàn bà vô danh đó có số phận tiêu biểu cho
bao số phận những người phụ nữ đã, đang và sẽ còn phải chịu nhiều khổ đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_08_SP_VH_HTHM.pdf