Luận văn Học thuyết Tam tòng, tứ đức và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp

Tài liệu Luận văn Học thuyết Tam tòng, tứ đức và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp: LUẬN VĂN: Học thuyết “Tam tũng”, “Tứ đức”và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam là một vấn đề vẫn có ý nghĩa thiết thực trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề này đã thu hút được sự tham gia nghiên cứu của nhiều học giả và trên thực tế vẫn còn nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, đánh dấu một bước chuyển mình lớn lao của dân tộc, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới. Đổi mới là một xu hướng tất yếu của của đất nước, trên thực tế trải qua gần hai mươi năm thực hiện, nó đã tạo ra sự biến đổi mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế. Tuy nhiên, đổi mới không đơn giản chỉ là đổi mới về kinh tế mà nó kéo theo sự biến đổi toàn diện kể cả con người một cách sâu sắc, từ đó, tạo điều kiện cho sự phát triển mới về vật chất. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn xác định: Con n...

pdf78 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1178 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Học thuyết Tam tòng, tứ đức và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Học thuyết “Tam tũng”, “Tứ đức”và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam là một vấn đề vẫn có ý nghĩa thiết thực trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề này đã thu hút được sự tham gia nghiên cứu của nhiều học giả và trên thực tế vẫn còn nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, đánh dấu một bước chuyển mình lớn lao của dân tộc, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới. Đổi mới là một xu hướng tất yếu của của đất nước, trên thực tế trải qua gần hai mươi năm thực hiện, nó đã tạo ra sự biến đổi mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế. Tuy nhiên, đổi mới không đơn giản chỉ là đổi mới về kinh tế mà nó kéo theo sự biến đổi toàn diện kể cả con người một cách sâu sắc, từ đó, tạo điều kiện cho sự phát triển mới về vật chất. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn xác định: Con người là yếu tố quan trọng hàng đầu, trong đó người phụ nữ là lực lượng đông đảo, nắm vai trò to lớn trong gia đình và ngoài xã hội. Việt Nam bước sang thời kỳ đổi mới với nhiều thay đổi lớn lao trên mọi lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá,... đã dẫn đến những thay đổi về yêu cầu, những đòi hỏi, những tiêu chí đánh giá của xã hội về người phụ nữ. Người phụ nữ trong thời đại mới phải đẹp toàn diện hơn, tài giỏi hơn, tích cực tham gia các công tác xã hội, đảm đang việc gia đình.... Và bên cạnh những nét đẹp hiện đại, người phụ nữ cần phải gìn giữ những nét đẹp truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam Học thuyết "Tam tòng", "Tức đức" bên cạnh ảnh hưởng tiêu cực nó còn góp phần làm nên những nét đẹp tryền thống của người phụ nữ Việt Nam. Trong giai đoạn đất nước thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, người phụ nữ Việt Nam cần khắc phục quan niệm “Tam tòng” và tiếp thu vận dụng "Tứ đức" ("công dung - ngôn -hạnh") như thế nào là một vấn đề có ý nghĩa thiết thực. Chính vì vậy nghiên cứu vấn đề: Học thuyết “Tam tũng”, “Tứ đức”và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp sẽ góp phần vào mục tiêu xây dựng, phát huy vai trò của người phụ nữ Việt Nam hiện đại. Đây cũng chính là lý do tác giả chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề ảnh hưởng của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam ở mức độ ít nhiều trực tiếp hay gián tiếp đã được một số tác giả Nho học, triết học các nhà bình luận.... nghiên cứu từ rất sớm. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này. Điển hình là “Nho Giáo” của Trần Trọng Kim với hai tập: Quyển Thượng và Quyển Hạ; “Khổng học đăng” của Phan Bội Châu; “Chuyên khảo về Nho giáo” của Đặng Thai Mai; “Nho giáo xưa và nay” của Vũ Khiêu,... Trong tác phẩm “Nho giáo” của Trần Trọng Kim, ông đã khái quát quá trình lịch sử hình thành, phát triển của Nho giáo và các quan điểm cơ bản qua các thời kỳ. Ông đã phân tích khá sâu học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong lịch sử phát triển của Nho giáo: Nho giáo thời Xuân Thu; Nho giáo thời Lưỡng Hán; Nho giáo thời Tam Quốc; Nho giáo đời Thanh và đặc biệt là Nho giáo ở Việt Nam. Về sách, báo, tạp chí như: Báo Phụ nữ, Tạp chí Gia đình, Báo Tiền phong... phạm trù công - dung - ngôn - hạnh và đạo tam tòng cũng được bàn đến nhưng nghiên cứu dưới góc độ hẹp, đi vào từng khía cạnh nhỏ. Như vậy, nhìn chung, những công trình nghiên cứu về đề tài này đã nêu lên nội dung cơ bản của "Tứ đức" và học thuyết “Tam tòng” nhưng mới chỉ dùng lại ở mức đại cương, khái quát. Vì vậy, học thuyết này rất cần được nghiên cứu sâu hơn, mang tính hệ thống hơn nhất là sự ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay thì hầu như chưa có công trình nào đề cập đến. Bởi vậy, tôi mạnh dạn đề cập đến vấn đề hầu như vẫn còn trống vắng này. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài chỉ giới hạn ở học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo chứ không phải toàn bộ Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay. 4. Mục đích của đề tài Mục đích: - Nghiên cứu học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo. - Đánh giá ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của học thuyết này đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay. - Trên cơ sở đó, đề ra một số giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế; tiếp thu vận dụng sáng tạo giá trị tích cực của học thuyết "Tam tòng", "Tứ đức" góp phần vào việc xây dựng và phát huy vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Nhiệm vụ: - Phân tích rõ nội hàm, ngoại diên của phạm trù: Tam tòng, công - dung - ngôn - hạnh ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam. - Phân tích ảnh hưởng của học thuyết này đối với phụ nữ Việt Nam xưa (trong chế độ phong kiến), đặc biệt là đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay. - Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của học thuyết này trong quá trình xây dựng phụ nữ Việt Nam hiện đại. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về học thuyết tôn giáo nói chung và về Nho giáo nói riêng; các tác phẩm kinh điển về Nho học; các văn kiện của Đảng; những chính sách, chiến lược xây dựng con người mới của Nhà nước... Luận văn cũng sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, lôgíc, lịch sử, so sánh, thống kê, điều tra... 6. Điểm mới của luận văn Hệ thống hơn và bắt đầu đi sâu thêm nội hàm, ngoại diên của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”; trên cơ sở đó phân tích, đánh giá mặt tích cực cũng như hạn chế của học thuyết này. Phân tích ảnh hưởng của "Tam tòng", "Tứ đức" đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay. Đề xuất những giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho Hội Phụ nữ Trung ương cũng như Hội Phụ nữ tỉnh và địa phương khác, cho những người quan tâm, nghiên cứu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo phương Đông đối với con người Việt Nam hiện nay. 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 học thuyết “Tam tòng” “Tứ đức” Trong Nho giáo 1.1. Vị trí học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo 1.1.1. Một vài nét về sự hình thành và phát triển của Nho giáo Thời kỳ lịch sử Cổ - Trung đại, Trung Quốc là một trong những trung tâm văn minh lớn của thế giới. Giai đoạn này, Trung Quốc có nhiều phát minh vĩ đại như phát minh ra chữ viết, giấy, nghề in, thuốc súng, thiên văn học… Cùng với ấn Độ và các dân tộc phương Đông khác, Trung Quốc còn là quê hương của nhiều trường phái triết học lớn; là chiếc nôi của nhiều nhà tư tưởng. Trong lịch sử cũng như trong hiện tại việc đánh giá vai trò của triết học, tôn giáo Trung Quốc đối với sự phát triển của các nước chịu ảnh hưởng Hán hoá vẫn là một vấn đề được nhiều người quan tâm, bàn luận. Vào khoảng thế kỷ XVII đến thế kỷ XI (Trước Công nguyên) trên dải hoàng thổ phì nhiêu của con sông Hoàng Hà phía Bắc Trung Quốc đã xuất hiện một liên minh thị tộc lớn, một nền nông nghiệp định cư khá phát triển, chữ viết bắt đầu được sử dụng. Nhà nước với những hình thức phôi thai của nó đã xuất hiện, đó là thời Ân - Thương. Bước sang thế kỷ XI (Trước Công nguyên) bộ lạc du mục Chu từ phía Tây Bắc men theo sông Hoàng Hà tiến vào và tiêu diệt nhà Ân, lập nên nhà Chu, mở đầu thời kỳ "Văn minh dựng nước" Trung Quốc. Giai đoạn đầu của nhà Chu, sử sách gọi là Tây Chu (tức vào khoảng thế kỷ XI đến thế kỷ thứ VIII Trước Công nguyên). Căn cứ vào nguồn gốc tài liệu gián tiếp đời sau ghi chép lại đã cho chúng ta biết tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Tây Chu có những đặc điểm nổi bật: Thời kỳ này đồ sắt đã xuất hiện nhưng chưa phổ biến. Chế độ quốc hữu về tư liệu sản xuất và sức lao động được nhà Chu thực hiện rất nghiêm ngặt. Về nguyên tắc, ruộng đất, mọi thành viên trong xã hội đều thuộc quyền quản lý của vua nhà Chu. Nhà Chu còn thành lập thành thị đại quy mô. Giữa thành thị, nông thôn đã có sự phân biệt. Thành thị là nơi ở của tầng lớp quý tộc, thị tộc, của kẻ thống trị, còn nông thôn là nơi ở của người thị tộc bị nô dịch. Như vậy, Nhà Chu đã giữ lại hình thức tổ chức của thị tộc cũ, hệ quả dẫn đến là trong phân tầng xã hội chỉ có sự phân biệt người quân tử (quý tộc) và tiểu nhân (kẻ hèn kém) chứ không có sự phân biệt kẻ giàu và người nghèo trên cơ sở tài sản hoặc kẻ trí, người ngu trên cơ sở tri thức. Điều này tất yếu dẫn đến sự đối kháng, đấu tranh giai cấp giữa thành thị và nông thôn. Những đặc điểm khái quát về kinh tế - chính trị - xã hội trên đã làm cơ sở cho sự hình thành tư tưởng tôn giáo, chính trị, đạo đức thời Tây Chu. Về tôn giáo: tiếp thu truyền thống tế tổ, tiên vương của người Ân, người Chu còn thêm tư tưởng kính trời, thờ thượng đế, hợp mệnh trời, người với trời hợp nhất. Trên cơ sở quan niệm tôn giáo đó, nhà Chu xây dựng một nền văn hoá "học tại quan phủ" tức văn hoá của riêng tầng lớp quý tộc, học vấn không xuống đến nông thôn. Tư tưởng chính trị thời Chu đã được tôn giáo hoá một cách toàn diện. Mọi chính sách của nhà Chu đều được giải thích là "vâng mệnh trời", "thuận theo mệnh trời"... Bên cạnh đó, tư tưởng "trị dân" cũng là một tư tưởng chính trị quan trọng. Nó mang tính chất chuyên chính tàn khốc của giai cấp quí tộc thị tộc Chu và luôn được phủ bằng một lớp sơn tôn giáo "ý trời", "mệnh trời"… Cơ sở để hình thành những quy tắc đạo đức trong thời kỳ này chính là mối quan hệ giữa Thiên tử và muôn dân, từ đó sinh ra mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của người dân. Vì vậy, tư tưởng đạo đức thời Tây Chu luôn lấy hai chữ Hiếu và Đức làm nòng cốt. Quan niệm đạo đức này muốn tuyên truyền và củng cố địa vị của giai cấp quí tộc thị tộc, bảo vệ Nhà nước chuyên chính thị tộc. Từ thế kỷ thứ VIII (Trước Công nguyên), xã hội Tây Chu bước vào một thời kỳ có nhiều biến động lớn, toàn diện, kéo dài cho đến thế kỷ thứ III (Trước Công nguyên). Lịch sử gọi thời này là Đông Chu hay chính là thời Xuân Thu - Chiến Quốc (Năm 770 Trước Công nguyên - 221 Trước Công nguyên). Về mặt kinh tế, thời Đông Chu, đồ sắt đã được sử dụng phổ biến. Công cụ bằng sắt tham gia vào sản xuất đem lại sự phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế nông nghiệp và thương nghiệp. Đây cũng là giai đoạn khởi sắc của nền kinh tế thương nghiệp. Hiện tượng buôn bán diễn ra rất nhộn nhịp ở các nước như: Hàn, Tề, Tấn, Sở. Lĩnh vực chính trị: Sự phát triển mạnh trên lĩnh vực kinh tế đã tác động lớn đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của trật tự xã hội cũ. Trong xã hội xuất hiện một tầng lớp địa chủ mới lên, họ ngày càng giàu có và lấn át quý tộc, thị tộc cũ. Họ đòi có được quyền bình đẳng với tầng lớp quý tộc Chu. Sự phân biệt sang hèn dựa trên cơ sở huyết thống của nhà Chu tỏ ra không còn phù hợp nữa mà tình thế đòi hỏi phải dựa trên cơ sở về giá trị tài sản. Quyền sở hữu tối cao (về đất và dân) của vua nhà Chu đang bị tầng lớp địa chủ mới lên và có tiền của lấn át và chiếm lĩnh. Như vậy, địa vị chính trị, ngôi thiên tử của vua nhà Chu đang dần chỉ còn là hình thức. Khi nhà Chu lên giữ ngôi Thiên tử đã chia thiên hạ ra làm hơn 70 nước chư hầu. Khi nhà Chu còn thịnh vượng những nước chư hầu này đều được quyền tự chủ và hàng năm phải cống nạp Thiên tử nhà Chu. Khi có chinh phạt ở đâu, phải có mệnh lệnh của Thiên tử đem quân đi chinh chiến. Nhưng ở giai đoạn Đông Chu, trật tự bị đảo lộn. Nhà Chu suy nhược sau phải dời đô về phía Đông ở Lạc ấp. Mệnh lệnh của Thiên tử không ai nghe theo. Các nước chư hầu phân tán ra đến 160 nước lớn nhỏ. Chiến tranh giữa các quốc gia xảy ra liên miên và càng ngày càng khốc liệt. Nhân dân lầm than. Cương thường đổ nát. Theo sử sách Trung Quốc còn ghi có tới 36 vụ bề tôi giết vua chúa; 52 vụ bán rẻ đất nước; loạn lạc, khổ đau không sao kể xiết. Đây cũng là thời kỳ vua không ra vua, cha không ra cha, con không ra con. Nhiều người chỉ mải mê đường danh lợi mà không nghĩ đến tình người, lòng nhân ái. Lịch sử gọi thời kỳ này "Bách gia chư tử" (Trăm nhà, trăm thầy) "Bách gia tranh minh" (Trăm nhà đua tiếng). Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội thời Đông Chu lúc này giống như một bức tranh vẽ cảnh đất trời trong cơn giông bão với nhiều màu sắc và chính nó là cơ sở để nhiều khuynh hướng, tư tưởng, học thuyết, triết gia xuất hiện. Dường như tất cả đều có một mục đích: ổn định đất nước và cứu vớt thiên hạ khỏi khổ đau. Thời kỳ này, Trung Quốc có nhiều trường phái triết học, tiêu biểu là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm dương gia… Có thể khẳng định: trừ Phật giáo được du nhập từ ấn Độ, các hệ thống triết học được thành lập thời kỳ này - với những tư tưởng cơ bản của nó - còn tồn tại và ảnh hưởng sâu đậm trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Mỗi nhà tư tưởng sau này đều tự xếp mình vào một trường phái nào đó để giải thích là phát triển những quan niệm của bậc tiền bối. Nho giáo ra đời trong hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức nói trên và nó trở thành một trong sáu trường phái cơ bản của triết học Trung Quốc thời bấy giờ. Nho giáo ra đời cách đây 26 thế kỷ, tức vào khoảng thế kỷ thứ VI (Trước Công nguyên) đến thế kỷ thứ V (Trước Công nguyên). Người sáng lập ra đạo Nho có tên là Khổng Tử. Khổng Tử sinh năm 551 Trước Công nguyên mất năm 479 Trước Công nguyên, thọ 73 tuổi; tên thật là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ở Khúc Phụ, nước Lỗ trong một gia đình quý tộc nhỏ, hoàn cảnh sa sút. Quê hương nước Lỗ của ông là nơi trụ cột, nơi bảo tồn được nhiều di sản văn hoá cũ của Nhà Chu. Sử sách còn ghi: Thời nhỏ, Khổng Tử hay chơi trò bày đồ cúng tế, ham học, thích nghiên cứu thi, thư, lễ, nhạc đời trước. Điều này đã biểu hiện bản tính của Khổng Tử luôn coi trọng những điều lễ nghĩa. Năm 19 tuổi, ông thành gia thất rồi nhận chức quan coi kho, sau lại làm quan coi việc cúng tế. Do chủ trương chính trị không hợp, ông bỏ nước Lỗ đi chu du qua nước Vệ, Tống… Nhưng đường lối ông cũng không được những nước này tin dùng. Năm 70 tuổi ông trở về nước Lỗ dạy học và là người đầu tiên mở nền tư học. Học trò của ông đông đến 3000 người, trong đó có 72 người tài giỏi, nổi tiếng, được thờ cúng cùng ông. Khổng Tử là người ôn hoà, nghiêm trang, nhân hậu, ông thông minh, ham học, hết lòng lo cứu đời. Trong những năm đầu của lịch sử Trung Quốc, có ba nhà liên tiếp trị vì: Hạ Vũ: 2205 Trước Công nguyên - 1766 Trước Công nguyên Nhà Thương - Ân: 1766 Trước Công nguyên - 1027 Trước Công nguyên. Vào năm 1027 Trước Công nguyên Cơ Phát diệt nhà Ân, sáng lập nhà Chu, trị vì dài nhất (900 năm, từ 1027 Trước Công nguyên - 221 Trước Công nguyên) rực rỡ nhất trong số ba nhà (Hạ, Thương, Chu) và có công tạo nên nền văn minh Trung Quốc. Người có công lớn nhất - được nhân dân tôn là "Ông Thánh" trong thời kỳ này chính là Chu Công. Ông là em ruột của vua Võ Vương. Võ Vương chết khi con còn nhỏ. Chu Công hết lòng phụ chính, giữ ngôi cho cháu, dẹp bọn làm phản trong họ muốn cướp ngôi. Khổng Tử phục ông như vua Nghiêu, Vua Thuấn. Suốt đời Khổng Tử chỉ ao ước lập được sự nghiệp như Chu Công. Nhà Chu châm chước lễ chế của hai triều đại trước (Hạ, Ân) nên văn vẻ rực rỡ biết bao! Ta theo Chu" (Ngô Tòng Chu)…Như đã bàn ở phần trên, thời đại Khổng Tử là thời đại nhà Chu suy nhược, chư hầu lấn át, trật tự lễ pháp bị đảo lộn. Đứng trên lập trường của bộ phận cấp tiến trong giai cấp quý tộc Chu, ông đem sách thánh hiền đời trước, phát triển, lập thành một học thuyết có hệ thống; lấy nhân - nghĩa - lễ - trí dạy người, lấy cương thường hạn chế nhân dục, để giữ vững trật tự xã hội. Khổng Tử chủ trương lập lại pháp chế kỷ cương của Nhà Chu với một nội dung mới để khắc phục tình trạng xã hội hiện thời. Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn, có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hoá Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Tài liệu chủ yếu để nghiên cứu tư tưởng của ông là cuốn Luận ngữ, ghi lại lời của Khổng Tử và học trò. Bên cạnh đó còn có "Tứ Thư" và Ngũ Kinh" trong đó có bốn cuốn không phải tác phẩm ông chước tác mà do ông chỉnh lý lại, ông chỉ viết kinh “Xuân - Thu". Học thuyết của Khổng Tử được lưu truyền rộng và gây ảnh hưởng tới nhiều dân tộc á Đông trong đó có Việt Nam. Trong học thuyết Khổng Tử, người phụ nữ ít được bàn đến nhưng không phải là không có. Điều này thể hiện trong học thuyết "Tam tòng", "Tứ đức". 1.1.2. Vấn đề người phụ nữ trong Nho giáo Nho giáo là một học thuyết của xã hội phong kiến, nó đã giữ vai trò thống trị trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc qua nhiều thế kỷ. Vì vậy những quan điểm đường nối phương pháp chuẩn mực… mà Nho giáo đề ra phục vụ đắc lực cho chính xã hội sinh ra nó. Nho giáo bàn đến nhiều vấn đề như quan điểm về thế giới (đạo, thiên lý, thiên mệnh…) học thuyết về luân lý đạo đức với những nguyên lý căn bản như: nhân, lễ, dũng... trong đó chữ “Nhân" được đề cập đến với ý nghĩa sâu rộng nhất, nó được coi là nguyên lý chủ yếu quyết định bản tính con người và những quan hệ giữa con người với con người trong gia tộc đến ngoài xã hội. Bên cạnh đó, Nho giáo còn bàn về quan điểm chính trị - xã hội với phạm trù “Nhân trị", "Chính danh", “Thượng hiền”... Vấn đề con người nói chung cũng được Nho giáo bàn đến. Muốn xây dựng thành công và giữ vị trí thống trị một xã hội thì phải có con người điều hành, tổ chức xã hội đó. Điều này khiến cho vấn đề con người được xã hội phong kiến cũng như Nho giáo rất quan tâm. Con người là vấn đề trung tâm của Nho giáo nhưng không được bàn đến trong tất cả các mặt của nó mà chú trọng vào khía cạnh luân lý, đạo đức nhằm mục đích xoa dịu mâu thuẫn giai cấp và ổn định trật tự xã hội. Con người trong Nho giáo được bàn đến dưới những góc độ: nguồn gốc con người, tính người, số phận con người, mẫu người lý tưởng, đạo làm người… Trong tất cả các vấn đề nêu trên người phụ nữ ít được bàn đến vai trò của họ rất mờ nhạt. Một số vấn đề trong Nho giáo đề cập đến người phụ nữ như: Học thuyết luân lý đạo đức phong kiến; quan niệm về đạo làm vợ, đạo làm con; mối quan hệ với mọi người trong gia tộc, ngoài xã hội; quan niệm về phạm vi, lĩnh vực, công việc mà họ được phép tham gia. Nhìn chung người phụ nữ trong Nho giáo được đánh giá là một lực lượng cơ bản để xây dựng xã hội nhưng họ luôn ở vị trí phụ thuộc vào nam giới. Họ chỉ tồn tại với tư cách là một yếu tố cần, đủ cho trật tự gia đình, xã hội. Về số phận của họ cũng như số phận con người nói chung, theo Khổng Tử, con người có mệnh và họ không thể cưỡng lại mệnh (chữa được bệnh chứ không chữa được mệnh). Còn Mạnh Tử cho rằng, trời an bài địa vị xã hội của con người. Đổng Trọng Thư cho rằng, trời và người cảm thông với nhau (“Thiên nhân cảm ứng”), trời là chủ tể của việc người, người có công thì hưởng, người có tội thì phạt, bắt khổ phải khổ, cho sung sướng được sung sướng. Giống như: “Ngẫm ra muôn sự tại trời” “Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao” (Kiều) Quan điểm này được xây dựng trên lập trường của giai cấp thống trị, nó phục vụ cho mục đích của giai cấp thống trị, nó buộc con người nói chung, đặc biệt là phụ nữ vào những khuôn phép nhất định của xã hội, nó xoa dịu mâu thuẫn giai cấp, sự bất công trong xã hội, khiến cho người phụ nữ luôn cam chịu, nhẫn nhục, bằng lòng với số phận của mình. Nho giáo không tìm nguyên nhân rối loạn của xã hội ở cơ sở kinh tế mà tìm ở bản chất con người đặc biệt là ở khía cạnh đạo đức. Mạnh Tử cho rằng bản chất con người là thiện, là hiểu được các mối quan hệ vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, trên - dưới… và tự ghép được mình vào các mối quan hệ đó một cách phù hợp và theo đúng chuẩn mực. Cụ thể, trong mối quan hệ vua - tôi, tôi tự thấy mình phải có nghĩa vụ với vua; trong mối quan hệ vợ - chồng, vợ phải tự thấy khác biệt với chồng; trong mối quan hệ trên - dưới phải đảm bảo tôn ti, trật tự; trong quan hệ nam - nữ phải gìn giữ phép tắc, ranh giới. Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, quan điểm này giữ vị trí thống trị trong một thời gian dài, là cơ sở đắc lực cho giai cấp thống trị để giáo dục đạo đức cho mọi người, mà bộ phận chịu thiệt thòi nhất chính là phụ nữ. Theo Khổng Tử, con đối với cha phải lấy chữ “hiếu” làm đầu. Cha đối với con phải lấy “từ ái” làm trọng. Đạo hiếu của con đối với cha mẹ dù rất nhiều mặt nhưng cốt lõi phải ở “tâm thành kính”. Một hôm Tử Du hỏi về đạo “hiếu”, Khổng Tử nói rằng, người có hiếu trước hết phải nuôi cha mẹ. Nuôi thì phải kính, chứ không kính thì không phải hiếu “Đời nay hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là có hiếu. Nhưng loài thú vật như chó, ngựa, người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên, nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu. (Kim chi hiếu giã; thị vị năng dưỡng, chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng, bất kính hà dĩ biệt hồ) (Luận ngữ, vi chính, VII) [10]. Khi cha mẹ còn, không bao giờ làm điều gì để cho cha mẹ buồn. Bởi vậy, không nên đi đâu xa mà có đi xa thì phải nói cho cha mẹ biết chỗ đi, để cha mẹ khỏi lo và nhỡ có việc gì có thể tìm gọi được (Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương) (Luận ngữ, lý nhân, IV) [10]. Sách luận ngữ chép rằng, học trò hỏi đạo “hiếu”. Khổng Tử đáp lại rằng: “vô vi”. Phàn Trì không hiểu rõ nghĩa hai chữ đó, hỏi lại thầy. Khổng Tử giải thích rõ sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế (Sinh sự chi dĩ lễ, tử táng chi dĩ lễ, tế chi dĩ lễ) (Luận ngữ, vi chính, II) [10]. Vậy sự vô vi đó là thờ cha mẹ cho đúng lễ. Lễ là hợp nghĩa lý, là vừa phải, chứ không phải thái quá hay bất cập, miễn là “Xứng gia chi hữu vô” (vừa sức nhà nghèo, nhà giàu mà làm cho phải lẽ thường) (Lễ ký: Đàn cung thương). Có chỗ Khổng Tử lại nói rằng: lễ xa xỉ, thì thà rằng kiệm ước còn hơn, tang với nghi văn quá, thì thà rằng thương buồn còn hơn (Lễ dữ kỳ xa giã, ninh kiệm: tang dữ kỳ dị giã, ninh thích) - Luận ngữ: Bát dật, III) [10]. Theo Khổng Tử, người phụ nữ phải theo lễ để ngăn cấm đại dục. Khổng Tử, luôn lấy tình cảm làm trọng, nhưng theo Khổng Tử tình cảm của người thường không có giới hạn sẽ dẫn đến hư hỏng. Ông chủ trương dùng “Lễ” để ngăn giữ những điều xấu từ khi chưa hình thành. Cái đại dục của người ta là việc ăn uống, trai, gái, bao giờ cũng có, cái đại ố của người ta là ở sự chết chóc, nghèo khổ, bao giờ cũng có. Cho nên, dục ố là cái mối lớn của tâm vậy, người ta dấu kín cái tâm không thể dò xét được… (ẩm thực, nam nữ, nhân chi đại dục tồn yên, tử vong, bần khổ, nhân chi đại ố tồn yên. Cố dục, ố giã, tâm chi đại đoan giã, nhân tàng kỳ tâm, bất khả trắc đạc giã, mỹ ác giai tại kỳ tâm, bất kiến kỳ sắc giã. Dục nhất dĩ cùng chí, xả lễ hà dĩ tại) (Lễ ký, Lễ vận, IX) [10]. Vấn đề người phụ nữ trong Nho giáo không được bàn luận nhiều và không hệ thống. Có thể nói, trung tâm của vấn đề này chính là phạm trù "Tam tòng", "Tứ đức". Nó được coi là một chuẩn mực cơ bản để xây dựng người phụ nữ xưa. 1.2 Nội dung học thuyết “Tam tòng”, “ tứ đức” Nho giáo được chia thành ba giai đoạn chính: Nho nguyên thuỷ với đại biểu là: Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử; Hán Nho với đại biểu là Đổng Trong Thư, Dương Hùng, Vương Sung; Tống Nho với đại biểu là Chu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy. Học thuyết của Nho giáo chủ yếu bàn về các mối luân thường đạo lý trong xã hội. Phạm trù, “Tam tòng”, “Tứ đức” cũng nằm trong các mối luân thường đạo lý trong xã hội. Qua mỗi thời đại khác nhau, Nho giáo nói chung, phạm trù "Tam tòng", "Tứ đức" nói riêng có những sự biến đổi về nội dung và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng, hành động của người phụ nữ. Vì vậy, trước hết chúng ta tìm hiểu “Tam tòng”, "Tứ đức" là gì? 1.2.1 “Tam tòng”, “Tứ đức” là gì? “Tam tòng”: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, có nghãi là ở nhà theo cha, xuất gia theo chồng, chồng chết theo con (trai trưởng). “Tứ đức”: Công, dung, ngôn, hạnh. Theo Từ điển Hán Việt: Công: khéo léo Dung: dáng mạo, gồm có: + Dung mạo: chỉ dáng điệu và sắc mặt + Dung sắc: chỉ dung mạo và nhan sắc Ngôn: lời nói Hạnh: chỉ nết na đức hạnh. + Hạnh còn là hạnh kiểm: nết na giữ gìn; hành vi theo mực thước. Theo tác giả Lê Minh Viết trong tác phẩm "Gia đình và người phụ nữ" (Nhà xuất bản Lao động, năm 2000), thì: Công: có nghĩa là công việc, biết cách làm việc một cách có trí tuệ, có tỉ mỉ, có rèn luyện đến điệu nghệ. Dung: là dung nhan, dung mạo, nghĩa là dáng dấp thể hiện ra bên ngoài qua gương mặt, qua dáng hình khi đi đứng, nói cười, ứng xử hoặc khi xử lý tình huống trong cuộc sống. Ngôn: vừa mang nghĩa "thuyết" tức là ý nghĩa, trí tuệ, vừa mang nghĩa "thoại" tức lời ăn tiếng nói. Hạnh: tức đức hạnh, phẩm giá. Trong bài "Gia huấn ca" (Dạy con cái ăn ở cho có đức hạnh) có viết về đạo “Tam tòng”, “Tứ đức” như sau: Phận con gái ở cùng cha mẹ Lòng phải chăm học khéo học khôn Một mai xuất giá hồi môn Phận bồ liễu giá trong như ngọc Khéo là khéo bánh trong bánh lọc Lại ngoan nghề dệt vóc may mền Khôn là khôn lễ phải đường tin Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi Không chẳng tưởng mưu lừa chước dối Khéo chẳng khoe mẽ lịch triều trai Xưa nay hầu dễ mấy ai Miệng khôn tay khéo cho trai được nhờ Phận làm gái nghe lời khéo khuyến Lắng tai nghe truyện cổ mới nên Hãy xem xưa những bậc dâu hiền Kiêm tứ đức Công - Dung - Ngôn - Hạnh Công là đủ mùi xôi, thức bánh Nhiệm đặt thay đường chỉ mũi kim Dung là nét mặt ngọc đoan trang Không tha thướt không chiều lả lướt Ngôn là lạy, trình, thưa, vâng, dạ Hạnh là đường ngày thảo kính tin Xưa nay mấy kẻ dâu hiền Công - Dung - Ngôn - Hạnh là tiên phàm trần! 1.2.2. " Tam tòng", “Tứ đức” trong Nho giáo nguyên thuỷ Khổng Tử - người sáng lập ra học thuyết Nho - nhà tư tưởng mở đường cho Trung Quốc trong thời kỳ cổ đại. Như đã nói, thời đại của Khổng Tử là "Bá đạo" (đạo của các nước chư hầu) đang nổi nên lấn át vương đạo (Đạo của Nhà Chu), trật tự, lễ nghĩa Nhà Chu bị đảo lộn. Trước tình hình đó, Khổng Tử than rằng, vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha không phải đạo cha, con không phải đạo con. Đứng trên lập trường của bộ phận cấp tiến trong tầng lớp quý tộc cũ, ông chủ trương lập lại kỷ cương cũ của nhà Chu. Để thực hiện mục đích đó, ông xây dựng nội dung học thuyết: Nhân - Lễ - Nghĩa - Chính danh - Hiếu đễ. Đây là những phạm trù linh hồn của học thuyết Khổng Tử. Để học thuyết của mình trở thành hiện thực, Khổng Tử tập trung xây dựng mẫu người "Quân tử" với chủ trương "Đức trị". "Quân tử" là mẫu người lý tưởng để người đàn ông trong xã hội phong kiến xưa phấn đấu và được Khổng Tử bàn đến rất nhiều. Còn về phụ nữ, Khổng Tử cũng cho rằng họ là một lực lượng đông đảo để xây dựng xã hội, sự ổn định trật tự của xã hội cũng phần nào phụ thuộc vào họ, nhưng do quan niệm bất bình đẳng nam nữ nên hầu như ông không chú tâm vào việc xây dựng mẫu người phụ nữ cụ thể cho xã hội đương thời. Có thể nói, " Tam tòng", “Tứ đức” là học thuyết cơ bản nhất về phụ nữ của ông. Lý giải vấn đề này có một lôgíc nhất định. Vì người đàn ông được coi trọng, được xem là trụ cột của gia đình, xã hội, người phụ nữ phải luôn phụ thuộc vào họ, từ đó người phụ nữ không có vai trò độc lập. Khổng Tử chỉ tập trung vào việc xây dựng những mẫu người nam giới. Nếu người đàn ông tu dưỡng đức tài trở thành những bậc: quân tử, đại trượng phu hay thánh nhân thì tất yếu người phụ nữ phải đi vào khuôn phép. Mặt khác, Khổng Tử luôn xem gia đình là một tế bào xã hội. Trong gia đình thì phụ nữ lại là nhân tố sắp đặt, lo toan công việc… Trên cơ sở những quan điểm đó, Khổng Tử đưa ra chuẩn mực về người phụ nữ (được viết trong sách "Quyển thượng" của Trần Trọng Kim), người phụ nữ trước hết phải hiểu, làm theo “Tam tòng” Tại gia tòng phụ Xuất giá tòng phu Phu tử tòng tử Có nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà thì phải nghe theo cha, lấy chồng phải theo chồng; chồng chết phải theo con, phải ở vậy "Tòng" con suốt đời, không được đi bước nữa. Phạm trù “Tứ đức”: Công - Dung - Ngôn - Hạnh. Công chỉ sự khéo léo, đảm đang trong công việc gia đình, là nữ công gia chánh; tề gia nội trợ. Dung là vẻ đẹp hình thức, thể hiện dáng vẻ tự nhiên kết hợp với trang phục, tạo nên sự đoan trang, thuỳ mị nói chung. Ngôn chỉ lời ăn tiếng nói, chỉ sự lựa chọn từ ngữ tế nhị, kín đáo, nữ tính. Hạnh chữ hạnh kiểm, đức hạnh, là lòng nhân ái, là sự tuân theo lễ nghĩa và hiếu đễ với cha mẹ, anh em… Trong bốn đức nêu trên, Khổng Tử nhấn mạnh đức "Hạnh". Theo ông, người phụ nữ đạt đến đức "Hạnh" điều căn bản là phải có tấm lòng "hiếu" nhưng phải dựa trên cơ sở "ái", "kính". Người có hiếu trước hết phải nuôi cha mẹ. Nuôi nhưng phải kính, không kính là bất hiếu. Nuôi cha mẹ cốt ở sự thành kính, dẫu phải uống nước lã, ăn gạo xấu mà làm cho cha mẹ vui - đó là hiếu. Trong đạo hiếu, Khổng Tử nhấn mạnh hai điều "Vô vi", "Vô cải". "Vô vi là cách đối nhân xử thế với cha mẹ trong hoàn cảnh bình thường thờ cha mẹ không trái lễ. "Vô cải" là cách đối xử với cha mẹ trong hoàn cảnh biến. Trong cảnh biến thì người con gái cũng không thay đổi cái đạo với cha mẹ. Hai điều này Khổng tử muốn nhấn mạnh đến sự phục tùng, đến chữ "tòng" của người phụ nữ đối với cha mẹ. Song, bên cạnh đó, ông lại có quan niệm rất tiến bộ khi cho rằng không phải phục tùng cha mẹ một cách thụ động không phân biệt phải trái, lấy lễ nghĩa mà thờ cha mẹ, không phải cha mẹ làm điều gì trái đạo cũng theo. Ông nói: thờ cha mẹ khi cha mẹ làm điều gì lầm lỗi, con phải tìm cách nhẹ nhàng mà can ngăn, không cha mẹ không nghe theo ý kiến của con thì lại kính mà không trái lễ, dẫu có phải điều đau đớn cũng không oán giận (sự phụ mẫu cơ giáo, kiến chi bất tòng, hựu kính bất vi, tạo nhi bất oán). Tuân Tử cho rằng người làm con hiếu có ba hạng: “Người con hiếu sở dĩ có ba điều không theo mệnh cha. Theo mệnh thì cha mẹ nguy, không theo mệnh thì cha mẹ yên, người hiếu tử không theo mệnh là hợp với đạo trung. Theo mệnh thì cha mẹ nhục, không theo mệnh thì cha mẹ vinh, người hiếu tử không theo mệnh là hợp với điều nghĩa. Theo mệnh là cầm thú, không theo mệnh thì làm cho cha mẹ được vẻ vang, người hiếu tử không theo mệnh là kính cha mẹ. Cho nên, điều đáng theo mà không theo là không phải đạo làm con, chưa nên theo mà đã theo, là không hợp đạo trung. Biết rõ cái nghĩ đáng theo và không đáng theo mà lại hết sức cung kính, trung tín, đoan xác, rồi cứ cẩn thận mà làm, thế gọi là đạo hiếu” (Tử - Đạo - XXIX) [10]. Như vậy, đạo “Tòng cha" là phải biết rõ điều phải trái, cái đáng làm và cái không đáng làm. Nếu không, dẫu đức hạnh có tốt đến thế nào mà người con không biết dùng cho hợp đạo lý thì cũng thành ra dở. Còn Mạnh Tử thì cho rằng thông qua ngôn ngữ giao tiếp, qua lời ăn tiếng nói hàng ngày có thể đánh giá được những hạng người khác nhau trong xã hội. Ông nói: “Nói ít thì dễ dàng mà rõ rệt, nghị luận có khuôn phép không phóng túng, như kéo thẳng cái dây - ấy là trí của kẻ sỹ và quân tử”; “ Lời nói thì siểm, việc làm thì trái với lời nói, ấy là trí của tiểu nhân”; “Thoắng thỉnh, bộp chộp mà không có thống loại; kỳ quặc, viển vông mà không dùng được; gãy gọn, nhanh nhảu, tinh tường mà không vụ lấy thiết thực, không kể đến phải trái, không bàn đến điều cong, điều thẳng, chủ ý chỉ kỳ lấy tranh thắng với người ta, ấy là cái trí của đứa phu dịch vậy” (Tính ác, XXIII). 1.2.3. " Tam tòng", “Tứ đức” trong Hán Nho Từ thời Mạnh Tử trở đi Nho giáo tồn tại ngang với Lão giáo, Mặc giáo, đến cuối thời Chiến Quốc, Nho giáo bước vào giai đoạn suy tàn. Đến thời Tây Hán, Hán Nho dần dần thịnh và chiếm vị trí độc tôn. Năm 221 TCN nhà Tần tiêu diệt Tề, kết thúc cục diện chiến quốc. Đất nước Trung Hoa lần đầu tiên được thống nhất. Nhưng sự thống nhất của nhà Tần dựa trên bạo lực, cơ sở kinh tế xã hội phong kiến còn non yếu, chính trị tàn bạo, văn hoá phản động, khởi nghĩa của nhân dân nổ ra khắp nơi. Lưu Bang giành được chính quyền lập ra nhà Hán. Trong bối cảnh đó xuất hiện nhà triết học duy tâm nổi tiếng: Đổng Trọng Thư (180 - 105 Trước Công nguyên). Dưới danh nghĩa tiếp tục tư tưởng của Nho giáo nhưng trên thực tế Đổng Trọng Thư đã tiếp thu khuyếch trương những yếu tố duy tâm, thần bí trong học thuyết của Khổng Tử. Học thuyết này được coi là hệ tư tưởng chính thống, là khuôn mẫu đạo đức xã hội cho các triều đại phong kiến Trung Quốc. Tư tưởng triết học và chính trị của ông thể hiện mục đích phục vụ vương quyền của chế độ chuyên chế phong kiến. Đổng Trọng Thư cho rằng, giữa người với người có ba mối quan hệ cơ bản: vua tôi, cha con, vợ chồng. Ông đề cập đến phạm trù "Tam tòng", “Tứ đức” nhưng đã tước đi những yếu tố nhân văn, nhân ái, tiến bộ của Khổng Tử, thay vào đó là quan niệm nghiệt ngã - một quy tắc đạo đức phi nghĩa lý: "Vua bảo tôi chết, tôi phải chết, nếu không mắc tội bất trung, cha bảo con chết, con phải chết, nếu không mắc tội bất hiếu". (Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung. Phu xử tử vong, tử bất vong, bất hiếu) Hay chồng nói, vợ tuyệt đối phải nghe theo, dù sai, dù đúng, người phụ nữ trong gia đình không có quyền tham gia hay phản kháng. Như vậy, đạo lý làm người đã trở thành quy định khắt khe, bề tôi phải trung với vua, con phải hiếu với cha mẹ, vợ phải giữ đạo tòng với chồng. Từ đó dẫn đến một lôgíc: Bề trên là chân lý, là tuyệt đối; bề dưới phải phục tùng, người phụ nữ phải phục tùng một cách tuyệt đối với cha và chồng. 1.2.4. Mối quan hệ "Tam tòng", "Tứ đức" "Tam tòng" và "Tứ đức" là hai phạm trù cơ bản, là chuẩn mực đạo đức để xây dựng mẫu người phụ nữ phong kiến của Nho giáo. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời. Điểm chung giữa hai phạm trù này đều là những quy tắc, lễ nghĩa, chuẩn mực bắt buộc đối với người phụ nữ. Cả hai đều được giai cấp thống trị phong kiến sử dụng ngày một triệt để như một công cụ đắc lực để giáo hoá người phụ nữ với mục đích: ổn định xã hội, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị và của người đàn ông. Tuy nhiên, giữa chúng cũng có nét khác biệt ở phạm vi, đối tượng đề cập. "Tam tòng" chỉ mối quan hệ giữa người phụ nữ với nam giới trong gia đình và ngoài xã hội, đó là: cha, chồng, con trai, đề cao sự phục tùng một chiều, sự chung thuỷ của họ đối với người đàn ông. Còn “Tứ đức” chú trọng vào sự tự tu dưỡng của chính bản thân phụ nữ. Tu dưỡng Công - Dung - Ngôn - Hạnh để đạt được "Tam tòng". "Tứ đức" là điều kiện để thực hiện tốt đạo tòng cha, tòng chồng, tòng con. Ngược lại “Tam tòng” chứng minh cho “Tứ đức”, cho phẩm hạnh của người phụ nữ. Trong bản thân phạm trù “Tứ đức” cũng có mối quan hệ với nhau. Đó là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Hạnh là nội dung. Công, Dung, Ngôn là hình thức. Chúng bổ sung cho nhau, thể hiện thông qua nhau. Như vậy, Nho giáo đòi hỏi ở người phụ nữ vẻ đẹp toàn diện theo một khuôn mẫu nhất định. Sâu xa hơn, là đòi hỏi sự toàn tâm, toàn ý, sự hy sinh hết mình đối với nam giới. Khi hiểu được mối quan hệ giữa các phạm trù, chúng ta tránh hiểu chúng một cách rời rạc hoặc tuyệt đối hoá một phạm trù nào và có thái độ khách quan, biện chứng khi xem xét sự ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam. Như vậy, Nho giáo có bước thăng trầm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, học thuyết " Tam tòng", “Tứ đức” không nằm ngoài bước thăng trầm đó. Có lúc nó chi phối vận mệnh người phụ nữ Việt Nam; có lúc lại mờ nhạt; có mặt tích cực, có điều hạn chế. Nó đi vào đời sống tư tưởng của nhân dân Việt Nam, đã ăn sâu bén rễ từ rất lâu. Vậy sự ảnh hưởng của nó như thế nào đối với phụ nữ Việt Nam ? 1.3. Học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam 1.3.1. Vài nét về sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam Vị trí của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với việc nghiên cứu truyền thống tư tưởng của dân tộc cũng như sự ảnh hưởng của nó đối với người dân Việt Nam. Đạo Nho được truyền bá vào Việt Nam không bằng con đường giao lưu văn hoá; cũng không bằng con đường tìm đến của người bản xứ mà bằng con đường xâm lược của phong kiến phương Bắc vào thế kỷ thứ II Sau Công nguyên (tức vào thời Tây Hán). Sự kiện này được đánh dấu bằng việc thái thú Giao Chỉ - Tích Quang lấy nghĩa dạy dân; Thái Thú Cửu Chân - Nhâm Diên lấy lễ dạy dân. Hai Thái thú đó dựng nhà dạy dân bằng lễ nghĩa, văn phong Nho giáo của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ đó. Nho học thời kỳ đầu có lẽ là Nho Khổng Mạnh và Hán nho. Cùng với Đạo Lão, Đạo Phật, Đạo Nho cũng là công cụ của giai cấp phong kiến tiến hành đồng hoá, thống trị lâu dài dân tộc Việt Nam. Sự áp đặt đó mâu thuẫn gay gắt với thế giới quan chất phát, với truyền thống cộng đồng và ý thức độc lập tự chủ của người Việt Nam. Vì vậy, bên cạnh việc chống áp bức của bọn xâm lược, người Việt còn phải chịu sự thống trị về mặt tư tưởng. Nhìn tổng thể thời Bắc thuộc (1117 năm) phong kiến phương Bắc ra sức truyền bá đạo Nho nhưng kết quả thu được không nhiều. Nho ít đi vào xã hội bản xứ, xã hội lúc bấy giờ chưa phải là miếng đất để đạo Nho ăn sâu bén rễ. Nho giáo gắn liền với kẻ thù xâm lược, hơn nữa rất khó học vì phải biết chữ Hán, còn Phật giáo thì bình dị, đứng về phía quần chúng đau khổ nên các triều đại đầu tiên của Việt Nam độc lập, Nho thật xa lạ, Phật giáo thì được tin dùng. Nhưng tình hình đó thay đổi khi người Việt giành được chính quyền, dân tộc Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng lại đất nước. Xây dựng kinh tế phải gắn liền với việc xây dựng về văn hoá - tư tưởng và phòng thủ đất nước. Một vấn đề đặt ra đối với chính quyền mới: tiếp tục giữ đạo Nho cùng đạo Phật, đạo Lão hay xây dựng một học thuyết hoàn toàn mới. Nhưng một điều có tính quy luật là xây dựng một học thuyết mới phải dựa trên những tiền đề tư tưởng của thời đại, mà tiền đề lúc đó đã có trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Hơn nữa, Nho giáo lại là quan điểm, công cụ của giai cấp thống trị phong kiến, phục vụ đắc lực cho mục đích duy trì trật tự xã hội, củng cố địa vị của giai cấp thống trị, vì vậy chính quyền người Việt đương thời tiếp tục truyền bá đạo Nho. Triều Lý (1010 - 1225) cùng với việc tôn sùng đạo Phật đã lập văn miếu thờ Khổng Tử (1070); tổ chức thi tam giáo (1074) để chọn hiền tài; lập Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Thời Trần bắt đầu từ năm 1267, nho sĩ được nắm quyền binh. Đó là bước ngoặt lớn đối với nho sĩ nước ta. Cuối Trần, xu thế Tống Nho đã thể hiện khá rõ ở Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Trần Nguyên Đán. Thời Lê là thời kỳ đạo trị nước yên dân của Nho giáo có tính xuyên suốt, chi phối mọi hoạt động chính trị, xã hội. Người đương thời đặc biệt quan tâm đến các khái niệm đạo đức như "Trung, hiếu", "lễ nghĩa", … Những quan điểm đó vừa thuấm nhuần chủ nghĩa yêu nước, vừa mang sắc thái đạo Nho - đây là nét đặc sắc trong tư tưởng dân tộc Việt Nam. Điều này cũng gây ảnh hưởng lớn đến cuộc sống, số phận những người phụ nữ Việt Nam. Thời Lê - đặc biệt thời Lê Thánh Tông (1260 - 1497) Đạo Nho đạt đến điểm cực thịnh. Điều đó thể hiện ở tổ chức nhà nước, pháp luật, các chính sách về giáo dục, khoa cử… Nho giáo từ chỗ mới bắt đầu chiếm ưu thế hơn so với Phật giáo ở thời kỳ trước, giai đoạn này nó đã giữ vị trí độc tôn, chi phối toàn bộ tư tưởng xã hội, chấm dứt thời kỳ Tam giáo. Từ đó, Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm, trên nhiều lĩnh vực: tư tưởng, văn hoá, phong tục tập quán…Nho giáo thời này là Tống nho vì Tứ thư (Luận ngữ, Mạnh tử, Trung dung, là thuộc đời Tống) Ngũ kinh (Dịch, Thi, Thư, Lễ, Xuân Thu) sang Việt Nam và được dùng vào thi cử. Trong số những nhà tư tưởng yêu nước của nửa đầu thế kỷ XV thì Nguyễn Trãi là người xuất sắc nhất. Tư tưởng về con người của ông được bộc lộ một cách sâu sắc trong tư tưởng nhân nghĩa - đạo làm người. Ông là người thấu đạt những nguyên tắc đạo đức của Nho giáo. Chữ học ngày xưa quên hết dạng Chẳng quên có một chữ cương thường. (Nguyễn Trãi) Sang thế kỷ XVI - XVII, một thế kỷ mà xã hội Việt Nam có nhiều diễn biến phức tạp. Quan niệm về nhân sinh quan thời kỳ này không giống như các giai đoạn trước. Nho giáo ở Việt Nam không chỉ bàn đến vấn đề đạo đức mà bàn nhiều đến mối quan giữa hệ linh hồn với thể xác, thế giới con người với thế giới khác… Các luận điểm đó về cơ bản xuất phát từ quan niệm của Nho giáo về số phận con người, nhưng nội dung thì vượt xa hơn tính khuôn mẫu của nó. Vào thế kỷ XVIII - thế kỷ đánh dấu nhiều sự kiện nổi bật, đặc biệt là những biến động về chính trị, tư tưởng. Thời kỳ này Nho giáo được đề cao nhưng không tách rời Phật giáo, Đạo giáo, giữa chúng có sự nhất thể hoá. Hiện tượng "Tam giáo đồng nguyên" trên cái nền tư tưởng chi phối của Nho giáo đang là xu hướng lớn thời bấy giờ và nó tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới các bình diện tư tưởng. Về đánh giá con người thế kỷ XVIII thì Nho giáo vẫn là cơ sở nền tảng cho các chuẩn mực đạo đức đối với con người Việt Nam, phụ nữ Việt Nam. Các vấn đề "Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa"…vẫn đứng hàng đầu và là các yếu tố quan trọng nhất trong ý thức đạo đức của cá nhân và xã hội. Các nhà tư tưởng đương thời thậm chí đã nâng những vấn đề có tính chất luân lý, đạo đức lên bình diện chính trị, xã hội. Họ chủ trương theo đường lối "Đức trị", lấy nhân nghĩa, đạo đức làm cơ sở cho việc duy trì, ổn định của quốc gia đất nước. Đại biểu tư tưởng của thế kỷ này là Lê Quý Đôn. Đường lối trị nước theo ông phải là kết hợp giữ "Đức trị" và "Pháp trị". Đây là khuynh hướng tư tưởng tiến bộ, có nhiều điểm mới mẻ. Khuynh hướng này đã vượt ra khỏi giới hạn tác động chủ yếu của Nho giáo. Thế kỷ XIX, nhà Nguyễn lật đổ chính quyền Tây Sơn giành quyền thống trị, lập triều Nguyễn. Đây cũng là thời kỳ chiến tranh liên miên, kinh tế trì trệ, đời sống nhân dân cực khổ. Để duy trì bộ máy thống trị phong kiến, nhà Nguyễn đã sử dụng Nho giáo như một công cụ đắc lực. Nhà Nguyễn chủ trương độc tôn Nho giáo, nhưng lại gặp trở ngại và sự thâm nhập ngày càng mạnh mẽ của Thiên chúa giáo. Vì vậy, hiện tượng phê phán Nho giáo đã xuất hiện trong thời kỳ này. Năm 1858 - Việt Nam rơi vào tay thực dân Pháp, Nho học thời kỳ này là phương tiện thể hiện lòng yêu nước, hướng nội của các nhà nho như: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Đình Phùng…Thơ văn của các ông sục sôi một tinh thần chiến đấu cứu nước. Nhưng sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và Nho học để thực hiện giải phóng dân tộc trong lúc này không thể đi đến thành công. Nho học đã đi hết một chặng đường dài lịch sử nước ta, từ thời Bà Trưng, Bà Triệu, Đinh, Lê, Trần…Trên chặng đường đó, Nho giáo đã gây ảnh hưởng rất sâu đậm đến tư tưởng dân tộc Việt Nam. Sự ảnh hưởng đó cũng thăng trầm, có lúc nó giữ vị trí độc tôn, đóng vai trò thúc đẩy, có lúc nó bất lực, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội và con người Việt Nam, đặc biệt là phụ nữ. Dù thúc đẩy hay kìm hãm thì nó đều góp phần làm nên truyền thống tư tưởng văn hoá dân tộc Việt Nam; góp phần xây dựng người phụ nữ Việt Nam. Điều đáng chú ý là ở Việt Nam trong suốt thời kỳ phong kiến mặc dù Nho giáo chiếm vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần, tư tưởng, nhưng chưa bao giờ Nho giáo là rập khuôn, thuần tuý như trên quê hương đã sản sinh ra nó, mà nó mang màu sắc Việt Nam đậm nét. Ngày nay, chúng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho sự nghiệp xây dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nho học không còn giữ vị trí chi phối nhưng ảnh hưởng của nó trong tư tưởng của quần chúng, trong những phong tục tập quán, trong nếp nghĩ, cách làm của người dân Việt vẫn tồn tại. Cụ thể là vẫn còn ảnh hưởng của quan niệm trọng nam, khinh nữ, của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với người phụ nữ. Xuất phát từ những cơ sở trên, nghiên cứu ảnh hưởng của phạm trù 'Tam tòng", “Tứ đức” đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay chúng ta sẽ có cái nhìn tổng thể, thái độ khách quan để đánh giá về giá trị cũng như hạn chế của nó. 1.3.2. Điều kiện để học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” du nhập và tồn tại ở Việt Nam Nhìn về sự phát triển của dân tộc, chúng ta thấy mỗi thời kỳ lịch sử đều có một cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội làm nền tảng cho sự vận động và phát triển của tư tưởng. Nhìn xuyên suốt các triều đại phong kiến cho đến trước Cách mạng Tháng Tám, xã hội Việt Nam có những đặc điểm cơ bản khiến Nho giáo tồn tại. Trong tác phẩm "Sự thống trị của Anh ở ấn Độ", Mác đã chỉ ra điểm đặc trưng của xã hội ấn Độ và phương Đông là xã hội nông nghiệp với công xã nông thôn, chế độ đem lại cho mỗi làng xã một cuộc sống biệt lập. Công xã này tổ chức theo lối gia đình tự cung, tự cấp, bị trói buộc bởi những quy tắc cổ truyền, từ đó làm hạn chế con người trong những khuôn khổ chật hẹp. Xã hội truyền thống đó mang tính chất thụ động, quân bình ít thay đổi, nó kéo dài từ những thời kỳ hết sức xa xưa cho đến thế kỷ XIX. Chính xã hội "bất động”, hay "tĩnh" và sự lưu giữ những quy tắc cổ truyền, những quan niệm, những hủ tục ở Việt Nam là mảnh đất cho Nho giáo tồn tại. ở Việt Nam trước kia, ngay cả thời kỳ hưng thịnh nhất thì nền kinh tế phong kiến chưa bao giờ vượt qua khỏi khuôn khổ của một nền sản xuất nhỏ, kinh tế lạc hậu, trình độ phát triển của xã hội còn thấp, khoa học tự nhiên chưa phát triển, sự tiếp thu tôn giáo còn hạn hẹp, chỉ thông qua quân xâm lược và một số chính sách ngoại nhập. Chính vì thế sự tiếp nhận đạo Nho mới chủ yếu trên một số mặt, khía cạnh, quan điểm và không có hệ thống. Một vấn đề nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam là một nước liên tục phải đối phó với quân xâm lược, bởi vậy việc giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thường trực hàng đầu. Điều đó được thể hiện qua những cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm của dân tộc như: khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào những năm 40 - 43; khởi nghĩa Bà Triệu vào năm 248; khởi nghĩa Lý Bí vào năm 542 chống nhà Lương; khởi nghĩa Lý Tự Tiên (687); khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722); khởi nghĩa Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ chống giặc Đường; khởi nghĩa của Dương Đình Nghệ (931 - 938) chống quân Nam Hán; khởi nghĩa Lê Hoàn (981) hai lần chống quân Tống; ba lần khởi nghĩa chống quân Nguyên - Mông của Nhà Trần (1257 - 1287);30 năm chống giặc Minh của Lê Lợi (1400 - 1407); phong trào Tây Sơn (1771 - 1784) chống giặc Xiêm, Mãn Thanh. Vì vậy, vấn đề độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước luôn được đặt lên hàng đầu. Chính điều đó làm cho tư tưởng yêu nước thương nòi ở người Việt Nam sớm hình thành và mang tính đặc thù. Con người Việt Nam ít quan tâm đến vấn đề "bản chất con người", "mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác"… mà quan tâm nhiều đến số phận con người, luân lý đạo đức, đạo làm người, cách đối nhân, xử thế, về vị trí vai trò của các cá nhân trong gia đình, xã hội. Mặt khác, sự tồn tại lâu dài và bền vững của chế độ phong kiến Việt Nam cũng là một nguyên nhân khiến cho Nho giáo tồn tại và ảnh hưởng sâu sắc đến người phụ nữ. Vì Nho giáo được xây dựng trên lập trường của giai cấp quý tộc, thị tộc với mục đích xây dựng những con người phục vụ cho giai cấp phong kiến. Giai cấp phong kiến Việt Nam đã sử dụng Nho giáo như một công cụ đắc lực nhất bảo vệ quyền lợi của mình. Ngoài những nguyên nhân khách quan trên, một nguyên nhân khiến Nho giáo còn ảnh hưởng đến xã hội, phụ nữ Việt Nam ngày nay nằm ở chính bản thân Nho giáo. Song song với những yếu tố hạn chế, tiêu cực thậm chí phản động, ngu dân thì Nho giáo vẫn có những nét thâm thuý, những giá trị tích cực của nó. Vì vậy, nó đi vào lòng người dân Việt Nam và để lại dấu ấn trong tư tưởng, phong tục tập quán… rất sâu sắc. Lịch sử cho chúng ta thấy, nhiều khi tồn tại xã hội đã mất đi nhưng ý thức xã hội do nó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Điều này được thể hiện rõ nét trong những quan niệm truyền thống, tập quán, tâm lý… Lênin cho rằng sức mạnh của tập quán được tạo ra qua nhiều thế kỷ có một sức mạnh ghê gớm. Việt Nam đã đánh đổ chế độ phong kiến, đánh đuổi giặc ngoại xâm, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1986 thực hiện đổi mới cho đến nay, xã hội có nhiều biến động lớn lao, nhưng ảnh hưởng của Nho giáo nói chung và “Tam tòng”, “Tứ đức” nói riêng vẫn là điều khiến chúng ta trăn trở. 1.3.3. Nội dung học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam Bắt đầu một giai đoạn mới của lịch sử, người ta phải xây dựng lại cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong công cuộc đó, vấn đề xây dựng con người là vấn đề quan trọng hàng đầu. Với Việt Nam, sau một nghìn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc, đã bắt tay vào xây dựng đất nước độc lập, tự chủ. Để giữ vững vị trí thống trị của mình, vấn đề đầu tiên mà giai cấp phong kiến Việt Nam đặt ra là xây dựng con người phục vụ cho chế độ phong kiến Việt Nam độc lập. Để thực hiện điều này, giai cấp phong kiến Việt Nam đã sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng thống trị của xã hội, làm học thuyết để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, làm công cụ giáo huấn dân sinh, lấy thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” làm chuẩn mực cho phụ nữ noi theo. Đây là điều kiện cơ bản nhất cho sự tồn tại của Nho giáo nói chung, học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” nói riêng. Tuy nhiên, điều kiện này lại chịu sự tác động của những yếu tố mang tính đặc thù. “Tam tòng”, “Tứ đức” được tiếp nhận, vận dụng một cách sáng tạo chứ không phải bê nguyên xi nội dung như trong Nho giáo của Trung Quốc. Nho giáo vào Việt Nam và đã mang một màu sắc riêng của dân tộc. Theo giáo sư Trần Văn Đoàn, Nho Việt đã tinh giản Nho giáo Trung Quốc thành một loại hình ý thức đặc thù. Nho Việt chỉ lấy một phần có giá trị thực dụng để bảo vệ Tổ quốc khỏi ách ngoại xâm, hoặc gắn kết với quyền lực của kẻ thống trị. Theo giáo sư Phan Đại Doãn các sĩ phu Việt Nam thường "Giản yếu", "lược luận", phần lớn tiếp nhận những luân lý đạo đức cơ bản của Nho giáo để áp dụng vào công cuộc xây dựng gia đình và cộng đồng. Theo phó giáo sư Nguyễn Hùng Hậu, về đại thể, chủ yếu Nho Việt đi vào những vấn đề cấp bách thiết thực do đời sống xã hội đặt ra. Khuynh hướng chủ đạo này có cái hay là lược bỏ những phần rối rắm, phức tạp; nhưng vì thế nó cũng lược bỏ những chỗ thâm sâu vi tế; làm mất tính hệ thống, thiếu cơ sở lý luận, tính nhất quán, thiếu sự chặt chẽ, lôgíc. Điều này nói lên tính thực tế của người Việt Nam. Mặt khác, nhân dân Việt Nam có truyền thống tôn trọng phụ nữ. Trong buổi bình minh của lịch sử dân tộc nào cũng trải qua thời kỳ mẫu hệ và chế độ mẫu quyền, trong đó, phụ nữ làm chủ gia đình, dòng họ, phụ nữ có vai trò lớn lao trong đời sống kinh tế, trong sinh hoạt xã hội cũng như tinh thần. Mỗi người dân Việt Nam đều ghi nhớ một huyền thoại tổ tiên, đó là: mẹ Âu Cơ, cha Lạc Long Quân là những người khai sáng ra lịch sử dân tộc. Mẹ đã đẻ ra 100 trứng, nở thành 100 chàng trai tuấn tú. Mẹ đem lên ở Tản Viên Sửa sang giềng mối, giữ gìn quy mô Bao nhiêu đồi núi đống gò Luỹ thành bày đặt, cõi bờ chia phôi. (Thiên Nam Ngữ Lục) [33, tr.9]. Còn thời vua Hùng, nàng Tiên Dung đã chủ động làm bạn trăm năm của Chử Đồng Tử sau cuộc gặp tình cờ trên bãi Màn Trò (Khoái Châu - Hải Hưng hiện nay). Trong dân gian, sử cũ có ghi: Trước Công nguyên, tháng 8, mùa thu, dân Lạc Việt mở hội vui, trai gái cùng nhau gặp gỡ hát giao duyên" ưng ý nhau thì lấy, cha mẹ không ngăn cấm" (Hán thư) [33, tr.11]. Trong truyền thuyết "Trầu cau" kể về nhà họ Lưu có người con gái, thấy hai anh em Tân, Lang đem lòng yêu mến muốn kết làm vợ chồng. Nàng bày ra cách thử (so đũa để trên mâm) xem ai là anh, ai là em, rồi xin với cha mẹ làm vợ người anh. Như vậy, sử, truyện…đều có những chi tiết phản ánh vai trò chủ động của người phụ nữ trong hôn nhân thời cổ. Thời kỳ chuyển từ mẫu hệ sang phụ hệ, suốt thời kỳ phong kiến và mãi về sau này, xã hội Việt Nam đã thừa hưởng và bảo lưu truyền thống tốt đẹp: "Tôn trọng vai trò của người phụ nữ". Truyền thống này đã trở thành đạo lý khiến cho giai cấp phong kiến Việt Nam không thể không công nhận luật pháp nhà Lê có một số điều khoản liên quan đến phụ nữ mà các triều đại phong kiến Trung Hoa không có. Sau khi Lê Lợi lên ngôi, năm 1429 ông ban hành phép quân điền (lấy ruộng công của làng xã định kỳ phân phối cho mọi thành viên trong làng xã), từ thê thiếp của các quan viên đến các bà góa, vợ con của những người phạm tội, đều được chia ruộng công… Đến luật Hồng Đức năm 1483 đã quy định con gái được hưởng quyền chia tài sản sở hữu của gia đình bình đẳng như con trai; khi đi lấy chồng, phần tài sản này vẫn là của riêng người vợ, không bị nhập vào tài sản của nhà chồng. Điều đó cho phép người vợ có quyền tự do nhất định trong gia đình nhà chồng. Gia đình nào không có con trai thừa tự thì người con gái được hưởng thừa kế ruộng, hương hoả. Về lĩnh vực hôn nhân thì trong một số trường hợp phụ nữ được quyền ưu tiên: Con gái đã đính hôn chưa làm lễ cưới, nếu chẳng may người con trai bị phạm tội, bị tàn tật, bị phá sản, người phụ nữ có quyền từ hôn bằng cách trả lại đồ sính lễ; ngược lại, người con gái bị tàn tật, bị phạm tội thì người con trai không có quyền từ hôn. Như vậy, truyền thống tôn trọng phụ nữ của dân tộc Việt Nam không chỉ là đạo lý mà còn được Nhà nước phong kiến hợp pháp hoá. Điều này khiến cho nội dung của học thuyết "Tam tòng", "Tứ đức" không còn quá khắt khe hay ép buộc mà khiến cho người phụ nữ tự nguyện hành động theo "Tam tòng", "Tứ đức". Tuy nhiên, đồng hành với truyền thống tốt đẹp trên là những quan niệm lạc hậu, cổ hủ mà giai cấp phong kiến Việt Nam muốn duy trì để phục vụ cho mục đích của mình. Những quan niệm, phong tục này có ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong xã hội Việt Nam. Ví dụ như: tư tưởng "Trai năm thế bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng", "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" (một trai cho là có, mười gái vẫn bằng không), "Phụ nhân nan hoá" (đàn bà khó dạy), "nam tôn, nữ ti" (đàn ông là trọng, đàn bà thấp kém), "nam ngoại, nữ nội" (việc đàn ông là xã hội, đàn bà lo việc nhà)… Những quan niệm này không phải do vốn có của mình mà do ảnh hưởng của Nho giáo. Xã hội phong kiến Việt Nam còn công nhận những tệ nạn xã hội như: Tảo hôn, cưỡng hôn, đa thê, thủ tiết … Trong luật của nhà Lê còn quy định trong bảy lý do cho phép người chồng bỏ vợ đó là vợ phạm vào tội "lắm lời". Những quan niệm, phong tục đó được xã hội phong kiến duy trì suốt trong quá trình tồn tại và nó thấm vào trong tư tưởng của người dân Việt Nam, không chỉ đối với phụ nữ mà còn đối với cả giới mày râu. Tất cả những điều nêu trên là điều kiện khiến cho học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” mang những nội dung mới, rất Việt Nam. "Tam tòng", "Tứ đức" trong Nho giáo vào Việt nam và thăng trầm theo lịch sử của dân tộc. Nó không chỉ là hình thức, lý luận mà nó ăn sâu bén rễ vào đời sống, vào tư tưởng của người dân đất Việt. Chương 2 Thực trạng ảnh hưởng của học thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với người phụ nữ việt nam ngày nay 2.1. Thực trạng ảnh hưởng của “Tam tòng” đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay Giai đoạn từ phong kiến Việt Nam độc lập đến 1945. Từ khi bước lên vũ đài lịch sử, giai cấp phong kiến Việt Nam rất coi trọng vấn đề gia đình và xây dựng gia đình người Việt như thế nào. Bởi trong xã hội phong kiến Việt Nam với nền sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp, mỗi gia đình là một đơn vị sản xuất khép kín … nên trách nhiệm của gia đình đối với việc truyền thụ kinh nghiệm, giáo dục, văn hoá là rất lớn. Nguyên tắc tôn ti trật tự được giai cấp phong kiến sử dụng triệt để trong việc phân định các mối quan hệ. Đẳng cấp trong gia đình có liên quan chặt chẽ đến đẳng cấp ngoài xã hội. Giai cấp phong kiến Việt Nam chủ trương duy trì đạo “Tam tòng” trong xã hội: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử". Trong Nho giáo nguyên thuỷ của Trung Hoa chỉ nói đến mối quan hệ cha - con. Cha đặt đâu con ngồi đó. Nhưng ở Việt Nam lại được đề cập dưới góc độ: cha mẹ - con cái: "cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó". ở vị trí người con (đặc biệt là con gái) phải luôn nghe theo sự dạy bảo, ý kiến, những quyết định… của cha mẹ. Trong quan hệ vợ - chồng, người chồng có quyền lớn hơn người vợ trong mọi lĩnh vực; giữa những người con với nhau thì con trai có quyền, có lợi hơn người con gái: "con gái là con người ta", "con gái cái bòn". Những người nam giới có quyền lớn hơn chưa hẳn do họ có tài năng, đức độ cao hơn mà cái quyền đó là do địa vị làm chồng, làm cha, làm người đàn ông đem lại. Điều này phục vụ đắc lực cho mục đích của giai cấp lãnh đạo xã hội phong kiến: đảm bảo tôn ti, trật tự thuận theo một chiều từ trên xuống, từ trong gia đình ra ngoài xã hội. "Tại gia tòng phụ": Người con gái chưa lấy chồng thì phải nghe, theo, tuân phục cha mẹ. Đạo tòng được xã hội phong kiến vận dụng với xu hướng tiêu cực đó là tòng một chiều, thụ động; cha mẹ bảo sao, con nghe vậy, dù đúng, dù sai. Nếu thấy cha mẹ sai mà cãi lại hoặc làm trái lời là bất hiếu. Trong hiện thực cuộc sống, có nhiều người cha không giữ đúng đạo làm cha, sa vào các tệ nạn xã hội, huỷ hoại bản thân, đạo đức kém cỏi, bất tài… nhưng với thân phận là con gái - người con không có quyền tham gia, góp ý hay khuyên bảo. Trong hôn nhân, người phụ nữ hoàn toàn không có quyền tự do tìm hạnh phúc của mình. Hôn nhân của họ được thực hiện theo nguyên tắc "cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó". Chính đạo "tòng" trong Nho giáo đã dẫn đến nhiều cuộc hôn nhân ngang trái trong xã hội như nạn tảo hôn, ép duyên làm cay đắng, ngậm ngùi bao kiếp người. Thân em mười sáu tuổi đầu Cha mẹ ép gả làm dâu nhà người Nói ra sợ chị em cười Năm ba chuyện thảm, chín, mười chuyện cay! Hay cảnh làm lẽ mọn gắn liền với áp bức giai cấp: Lấy chồng làm lẽ khổ thay Đi cấy, đi cày chị chẳng kể công! Đến tối chị giữ lấy chồng Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài Đến sáng chị gọi: "bớ Hai"! Trở dậy nấu cám, thái khoai, đâm bèo Bởi chưng bác mẹ tôi nghèo Cho nên tôi phải đâm bèo, thái khoai. Như vậy, quan niệm "Tại gia tòng phụ" chính là cơ sở đảm bảo quyền tối cao của người cha, nó hình thành cách tư duy, lối sống, tính cách gia trưởng cho người đàn ông trong gia đình. Ngược lại, điều đó dẫn đến thái độ cam chịu của người phụ nữ. Trong gia đình có nhiều mối quan hệ khác nhau, song tất cả phải tuân theo sự điều hành của người đàn ông. Nguyên tắc này đảm bảo quyền lực cao tập trung trong tay người đàn ông trong gia đình. Mở rộng ra: quyền lực tập trung trong tay vua chúa, thần dân phải "tòng" vua, phải dốc hết lòng phụng sự vua chúa phong kiến. Theo Nho giáo đạo trị nước được bền vững cốt ở sự trên- dưới thân yêu nhau. “Thượng chi thân hạ giã, như thủ tức chí ư phúc tâm; hạ chi thân thượng giã, như ấu tử chi ư từ mẫu hỷ. Thượng hạ tương thân như thử cố lệnh tắc tòng, thi tắc hành. Dân hoài kỳ đức, cận dã duyệt phục, viễn giã lai phụ, chính chi tri giã" (trên thân dưới như chân tay đối với lòng ruột, dưới thân trên như con nhỏ đối với mẹ từ. Trên dưới thân nhau như thế, cho nên trên có lệnh thì dưới theo, trên thi thố điều gì, thì dưới phụng hành. Dân mến đức người trên, kẻ gần thì vui lòng mà phục tùng, kẻ xa thì đến quy phục, thế là chính trị hay rất mực) (Khổng Tử Gia ngữ, Vương ngôn giải III) [10, tr.169]. Gia đình trật tự dẫn đến xã hội trật tự, xã hội trật tự điều đó có nghĩa là giai cấp phong kiến đạt được mục đích cao nhất của mình: Quyền lợi thống trị được đảm bảo. Điều này đã chứng minh cách thức quản lý xã hội của giai cấp phong kiến: gia đình là đơn vị điều hành căn bản của quốc gia. Như vậy, người phụ nữ trong xã hội phong kiến, ngoài việc bị áp bức về dân tộc, còn chịu áp bức về giai cấp, về giới. Họ là nô lệ của những người bị nô lệ; là nạn nhân của những hủ tục lạc hậu, đạo đức phản động. "Xuất giá tòng phu". Theo trật tự lôgíc của đạo “Tam tòng”, người phụ nữ khi đi lấy chồng tất yếu phải "tòng" chồng…. Nhân gian có câu "nhân vô thập toàn" (không ai hoàn thiện ), người đàn ông dù tài giỏi đến đâu cũng có những hạn chế nhất định. Nhưng theo quan điểm này thì người chồng dù tốt đẹp hay xấu xa, dù hay dù dở thì người vợ vẫn phải "tâm phục, khẩu phục", phải nghe, phải theo vô điều kiện. Cuộc sống phụ thuộc vào người khác đã biến người phụ nữ thành kẻ cam chịu, buông xuôi với số phận của mình. Họ không có quyền và không dám tự khẳng định mình trong hôn nhân, trong hạnh phúc hay khổ đau; họ phó thác cuộc đời mình cho sự may rủi. Ai may mắn thì lấy được người chồng tốt. Ai rủi ro thì lấy phải người chồng không xứng làm chồng. Thân em như hạt mưa sa Hạt rơi xuống giếng, hạt ra ngoài đồng (ca dao) Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ? (ca dao) Theo đạo “Tam tòng”, người vợ trong gia đình giống như một thứ công cụ để sai bảo, một kiểu nô dịch, họ không có cuộc sống cho mình, không có chính kiến của mình, họ phải hi sinh bản thân cho người khác không phải vì họ kém cả về tài năng, đức độ mà chỉ vì họ ở địa vị người phụ nữ ! Luật nhà Trần lại quy định: Người đàn bà ngoại tình xử cho về ở với chồng làm đầy tớ và chồng được tự ý đem cầm, đợ hoặc gạ bán (An Nam chí lược). Chồng phạm tội trộm cắp lấy một đền mười, không trả được thì bắt vợ xung làm nô tỳ. Vào năm 1920, có trận đói lớn, nhiều người chồng đã bán vợ với giá một người một quan tiền. Kết quả của quan niệm trọng nam khinh nữ nêu trên là rất nhiều gia đình bất hạnh. Đạo “Tam tòng” thực sự là sợi dây oan nghiệt trói chặt cuộc đời người phụ nữ. Đứng trước thực trạng đó của xã hội, nhiều người phụ nữ đã ý thức được tài năng, phẩm giá của mình; mặt khác, họ cũng nhận ra thế lực kìm hãm cuộc đời mình, họ than rằng: Em như cây quế hồng hoa Trồng nơi đất xấu không ra được chồi. (ca dao) Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn, nát mặc đầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son (Hồ Xuân Hương) "Phu tử tòng tử" Trong cuộc sống không kể hết những rủi ro, mất mát mà người phụ nữ thời phong kiến phải gánh chịu. Nhưng có lẽ sự mất mát lớn nhất đối với cuộc đời của người phụ nữ đó là sự ra đi vĩnh viễn của người chồng. Trong trường hợp này, đạo Nho cho rằng "phu tử tòng tử". Chồng chết, người vợ không được đi bước nữa, phải ở vậy nuôi con. Theo luật nhà Lê (thời Nho độc tôn): người mẹ đã tái giá thì mất luôn cả quyền làm mẹ với con chồng trước. Ruộng nương tài sản phải trả cho con chồng trước. Ai cũng biết tình thương yêu, sự nuôi nấng, dạy bảo con cái là thiên chức, là sứ mệnh, là bổn phận và cả nguyện vọng của người mẹ. Nhưng Nho giáo đã biến những điều thiêng liêng đó trở thành công cụ trói chặt người phụ nữ để thực hiện mục đích giai cấp: giữ gìn trật tự xã hội, củng cố vị trí, quyền lợi của mình, giai cấp phong kiến đã nâng chữ "tòng tử" thành một nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức để đánh giá phẩm chất của người phụ nữ. Trong thực tế đã có nhiều tấm bảng vàng trinh tiết của vua quan được trao cho những người vợ đã suốt đời thờ chồng nuôi con. Dư luận xã hội đối với những người phụ nữ đó là kính trọng, là ngưỡng mộ và điều này đã hình thành nên thói quen tâm lý rất lớn đối với người dân Việt Nam. Nhưng có ai hiểu trong lòng họ là sự hi sinh lớn lao những khát vọng hạnh phúc riêng tư, những cay đắng, ngậm ngùi …. họ là biểu tượng rõ nhất của sự cam chịu, là nạn nhân của bất công, của bất bình đẳng trong xã hội cũ. Không phải ngẫu nhiên mà giai cấp phong kiến Việt Nam xếp phụ nữ và người nghèo hèn vào một hạng. Chế độ áp bức phụ nữ gắn liền với xã hội có áp bức giai cấp. Do đó, chế độ phục tùng được phong kiến ra sức củng cố bằng pháp luật, đạo lý, dư luận xã hội phong kiến cùng nhau thắt chặt cái thòng lọng gia trưởng, phụ quyền đối với người phụ nữ - những người bị áp bức nhất trong những người bị áp bức. Tuyệt đối hoá chữ "Tòng" không nằm ngoài những mục đích trên. 1945 đến nay Xã hội Việt Nam ngày nay được xây dựng lên sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, đánh đổ chế độ thực dân xâm lược và chế độ phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, về chế độ xã hội hiện nay là không còn cơ sở để phục hồi chế độ xã hội cũ, trong đó Nho học làm nền tảng tư tưởng. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng Nho giáo nói chung và "Tam tòng", "Tứ đức" nói tiêng vẫn còn tồn tại và có thể phát huy tác dụng trong việc giáo hoá người phụ nữ trong thời kỳ mới. Sau Cách mạng Tháng Tám và sự sụp đổ của thành trì phong kiến, người phụ nữ được giải phóng. 1945 đến 1975 đất nước vẫn chìm trong chiến tranh. Đạo “Tam tòng” đối với người phụ nữ trong thời chiến đã mang những nội dung mới, nổi bật là tấm lòng chung thuỷ chờ đợi của họ. Nhiều người phụ nữ chờ chồng một năm, hai năm… mười năm… và cả cuộc đời. Sự gặp gỡ và hạnh phúc của người phụ nữ có khi chỉ tính bằng giờ. Có hàng triệu, triệu người phụ nữ đã hy sinh tất cả tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc những khát vọng của bản thân… cho sự bình yên của Tổ quốc. Những người phụ nữ yếu đuối, cam chịu, an phận xưa, nay họ trở thành những thanh niên xung phong gan dạ; mỗi phụ nữ là một chiến sĩ, mỗi làng xóm của họ là một pháo đài. Giai đoạn mới của lịch sử dân tộc đã thay đổi mục đích sống của người phụ nữ, đạo “Tam tòng” không bó hẹp trong lĩnh vực gia đình, không còn mang tính chất ép buộc mà có nội dung rộng lớn, cao cả và tự nguyện: Tòng chồng, tòng con vì đất nước. Con người là sản phẩm của hoàn cảnh. Hoàn cảnh biến đổi dẫn đến vai trò, vị trí, mục tiêu của con người cũng có biến đổi theo. Những mốc son của lịch sử dân tộc Việt Nam từ 1945 đến nay có ảnh hưởng lớn lao đến thân phận ngươì phụ nữ phải kể đến: Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đất nước hoàn toàn giải phóng, năm 1986 đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, cho đến nay đã trải qua gần 20 năm, đem lại sự phát triển nhanh trên nhiều lĩnh vực. Đất nước giành được độc lập, đặc biệt sau đổi mới, người phụ nữ Việt Nam đã thực sự có quyền bình đẳng. Quyền bình đẳng của phụ nữ được pháp luật công nhận, quan trọng hơn quyền bình đẳng đi vào cuộc sống, cách suy nghĩ, nhìn nhận của xã hội của những người đàn ông. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, phái nữ dù có cố gắng đến đâu nhưng chỉ có một mình, không có sự góp sức của nam giới thì không thể thực hiện được quyền bình đẳng. Người phụ nữ trong thời đại mới đã khẳng định được bản thân mình trong nhiều lĩnh vực cuộc sống: nghề nghiệp, tài năng, đạo đức, sắc đẹp… xã hội và gia đình tạo điều kiện để họ thực hiện, phát huy tài năng, khát vọng, mơ ước cá nhân. Vì vậy, sự phụ thuộc, cam chịu của đạo “Tam tòng”… của người phụ nữ chỉ còn là dư âm của chế hộ xã hội cũ. Nhưng như thế không đồng nghĩa với việc phụ nữ có quyền bình đẳng là phủ nhận tất cả những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp mà "Tam tòng", "Tứ đức" xây dựng. Cơ sở đánh giá một dân tộc, điều làm nên bản sắc riêng của một dân tộc chính là bề dày văn hoá truyền thống của dân tộc đó trong suốt chiều dài lịch sử. Nếu dân tộc nào phủ định sạch trơn tư tưởng, văn hoá quá khứ và xây dựng nó trên cơ sở ngoại lai thì dân tộc đó đã tước bỏ chính mình. Điều đó yêu cầu chúng ta phải đánh giá khách quan những hạn chế, giá trị tích cực của học thuyết "Tam tòng", "Tứ đức ", góp phần vào việc xây dựng người phụ nữ trong thời đại mới. Vấn đề đặt ra là phải vận dụng như thế nào với xu thế phát triển của thời đại. Không thể phủ nhận giá trị của đạo “Tam tòng”, nó hình thành trật tự gia đình và thái độ tôn trọng, kính nể nhau giữa các thành viên trong gia đình, gia tộc. Mở rộng ra là mối quan hệ trong họ hàng làng xóm và đất nước. Gia đình là một tế bào của xã hội. Tế bào khoẻ mạnh thì cơ thể xã hội cũng khoẻ mạnh, có sức "đề kháng" cao với các tệ nạn xã hội. Một gia đình nền nếp sẽ cung ứng cho xã hội những công dân có nếp sống lành mạnh và ngược lại. Trong trường hợp này, khi mỗi gia đình ổn định, các thành viên trong gia đình thống nhất được các mối quan hệ về quyền, lợi ích thì tất yếu nó là cơ sở cho sự ổn định, phồn vinh của xã hội. Hiện nay, vị trí độc quyền của người đàn ông không còn tồn tại nhưng dù ở thời đại nào thì họ vẫn đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với gia đình, xã hội. Trong gia đình, người cha là trụ cột về kinh tế, tình cảm... ảnh hưởng của người cha đối với con cái là rất lớn. Họ là nhân tố tạo nên sự êm ấm, hoà thuận, hạnh phúc trong gia đình. Ngày nay, bên cạnh mặt tích cực thì những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, của văn hoá ngoại lai…. đã thâm nhập vào từng cá nhân, gia đình người Việt Nam. Điều đó khiến người phụ nữ đã có những quan niệm về lối sống, đạo đức, mục tiêu phấn đấu khác, ít nhiều làm mai một văn hoá truyền thống. Người phụ nữ đang ngày càng có nhiều điều kiện để khẳng định mình nên nhiều người có xu hướng bất phục tùng ý kiến của cha mẹ, của người lớn tuổi trong gia đình. Quan hệ giữa cha và con gái cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng này. Cha ông ta đã tổng kết: "Cá không ăn muối cá ươn, con không nghe mẹ trăm đường con hư". Các gia đình trẻ ngày càng muốn độc lập và không muốn sống chung cùng bố mẹ. Theo họ, có một không gian riêng biệt để sinh hoạt sẽ tự do và thoải mái hơn, họ cũng không muốn phụ thuộc cha mẹ về kinh tế mà muốn có một sự độc lập tương đối. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, một cuộc điều tra cho thấy phương án lựa chọn sau kết hôn thể hiện khá rõ điều này. Bảng 2.1: Phương án lựa chọn sau kết hôn Đơn vị tính: % Phương án 300 gia đình trẻ 500 thanh niên độc thân ở chung với cha mẹ và kinh tế chung 14,94 8,2 ở chung nhưng kinh tế độc lập 6,9 5,0 ở chung nhưng chu cấp toàn bộ hay một phần theo khả năng 51,72 80,8 Hoàn cảnh tách biệt về chỗ ở và kinh tế 26,44 6,0 Nguồn: Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 2, 1991, tr.6. Không ít người phụ nữ hiện đại cho rằng: ngày nay có quyền bình đẳng nam nữ, có quy định rõ ràng về quyền của con cái, quyền của cha của mẹ trong pháp luật, như vậy sự phục tùng giữa cha mẹ và con là không cần thiết. Họ đã không thấy một điều: Cha mẹ dạy con không chỉ bằng pháp luật, con cái cũng không thể chỉ theo pháp luật đơn thuần mà trưởng thành. Cha mẹ sinh thành ra con cái, họ nuôi nấng, dạy dỗ con không chỉ bằng pháp luật mà còn bằng cả trái tim, kinh nghiệm sống có khi phải đánh đổi cả cuộc đời của họ mới có được. Vì vậy, những điều răn dạy của cha mẹ đối với con, nhất là đối với con gái vô cùng quan trọng, là những hành trang đầu tiên, quý báu trong cuộc sống đầy biến động như ngày nay. Tuy nhiên, trong gia đình Việt Nam hiện có một hiện thực: con cái trình độ cao hơn cha mẹ, hay mâu thuẫn giữa nếp nghĩ truyền thống của cha mẹ với sự hiện đại của con cái. Để giữ đúng đạo làm con trước hết ý kiến đóng góp của người sinh thành cần được tôn trọng, sau đó mới phân tích đúng sai và đưa ra sự lựa chọn thích hợp. Chúng ta biết không phải bất cứ điều gì của cuộc đời đều có trong sách vở. Không phải con cái cứ có trình độ cao, bằng cấp nhiều là có thể giải quyết được mọi điều. Có những kinh nghiệm cha mẹ truyền đạt không có trong sách vở mà là kết quả của sự trải nghiệm. Như vậy, đạo "tòng" cha mẹ nhìn dưới góc độ tích cực vẫn có yếu tố cần thiết cho cuộc sống hiện đại. Điều này lại càng quan trọng đối với người phụ nữ vì họ phải lưu giữ, kế thừa giá trị đạo đức của dân tộc. Mặt khác, ảnh hưởng tiêu cực của "Tam tòng" rất sâu đậm trong xã hội nên trong thời đại mới vẫn có những người đàn ông gia trưởng, độc quyền, ích kỷ. Có nhiều người "cha không ra cha", không giữ trọn đạo làm cha, ép buộc con làm những điều sai trái. Trong trường hợp này người con không thể nghe theo, không thể buông xuôi mà phải đấu tranh với tư cách con cái. Đấu tranh với những sai lầm của cha mẹ cũng là một nội dung mới của đạo "Tòng" trong thời đại mới. Tóm lại, trong gia đình hiện đại, sở thích khả năng cá nhân của người phụ nữ được phát huy tối đa nhưng không vì thế mà người con gái sống tự do theo tất cả những ý muốn của mình mà phải luôn rèn luyện nhân phẩm dưới sự giáo dục của cha mẹ, nhà trường, xã hội để trở thành người phụ nữ với phẩm chất đặc trưng, được xã hội thừa nhận trở thành người phụ nữ với phẩm chất đặc trưng, được xã hội thừa nhận. Xã hội phong kiến coi trọng người đàn ông. Người vợ trong cuộc đời họ chỉ là người "nâng khăn sửa túi", đàn ông có quyền "trai năm thê bảy thiếp. Gái chính chuyên chỉ có một chồng"... Xã hội hiện đại đã phê phán, lên án những quan niệm lạc hậu đó. Vậy đạo "tòng phu" còn tồn tại không? Ngày nay theo nghĩa đen, người phụ nữ lấy chồng vẫn phải theo chồng. ở một số trường hợp nhất định người chồng có thể "theo" vợ. Người vợ không còn phải phục tùng chồng một cách tuyệt đối. Hạnh phúc và sự thịnh vượng của gia đình đòi hỏi những phẩm chất tốt, những chuẩn mực đạo đức được xây dựng từ cả hai vợ chồng. Chữ " tòng " được cả hai cùng thực hiện trên cơ sở bình đẳng giới: Vợ nghe chồng, chồng nghe vợ. Thuận vợ, thuận chồng, tát bể đông cũng cạn. (ca dao) Hay Râu tôm nấu với ruột bầu Chồng chan, vợ húp, gật đầu, khen ngon ! (ca dao) Để đạt điều đó, vợ - chồng không chỉ yêu thương đơn thuần, mà phải thực sự hiểu nhau, tôn trọng nhau, sẵn sàng chia sẻ niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống. Trong xã hội truyền thống, nhiều cuộc hôn nhân là những cuộc trao đổi, "mua bán", được thực hiện trên khía cạnh quyền lợi của đôi bên gia đình, dòng tộc, quốc gia. Thực tế gần đây cho thấy, quyền lợi cộng đồng không còn là tiêu chí đầu tiên để áp đặt con cái nữa. Nam - nữ hiện đại tự chọn lấy bạn đời xuất phát từ tình yêu, sự đồng điệu giữa hai tâm hồn. ý thức tự quyết định của họ ngày một cao khi được hỏi về tác nhân tham gia vào hôn nhân: Bảng 2.2: Tác nhân trước hôn nhân Tác nhân Tỷ lệ % ý kiến của cha mẹ 25,6 Sự tác động của bạn bè 9,85 Tùy thuộc vào số phận 8,84 Tự bản thân quyết định 55,71 Nguồn: Lê Đức Quý, Người phụ nữ trong văn hóa gia đình đô thị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.102. Bên cạnh những yêu cầu về mặt tình cảm, thì trong cuộc sống thời kinh tế thị trường, người ta còn đòi hỏi những điều kiện khác trước khi quyết định hôn nhân. Một trong những điều kiện được lớp trẻ quan tâm nhất là điều kiện kinh tế. "Đối tác" phải có một nghề, một việc làm ổn định, có thu nhập ổn định, có một nơi ở hoặc điều kiện để có thể an cư. Như vậy, nội dung cơ bản của mối quan hệ vợ - chồng ngày nay là: Vợ - chồng cùng xây dựng kinh tế, tổ chức cuộc sống gia đình, nuôi dạy con cái thành người có ích cho xã hội. Người phụ nữ đã được giải phóng khỏi những hủ tục, kìm hãm con người. Nhưng trên thực tế, trong yếu tố tâm lý, ý thức xã hội điều này vẫn chưa hoàn toàn bị bác bỏ trong cuộc sống vẫn có những phụ nữ khi chồng chết đi, chấp nhận khi sống cảnh goá bụa vì họ đứng giữa một bên là đạo lý truyền đời, một bên là khát vọng hạnh phúc. Nguyên tắc "tòng tử" không còn bó hẹp trong phạm vi "không tái giá". Điều chủ yếu trong quan niệm về vai trò của người mẹ hiện đại là: chăm con khoẻ, dạy con ngoan trở thành người tốt. Pháp luật, dư luận xã hội tạo điều kiện cho người mẹ tái giá khi chồng không còn, khi hạnh phúc tan vỡ nhưng như thế không có nghĩa là họ không còn trách nhiệm với con cái. Tái giá vẫn thực hiện đạo của người mẹ! quan tâm, chăm sóc, dạy bảo con... Vấn đề xã hội hiện đại lên án không phải là sự tái giá mà là sự thiếu trách nhiệm của người mẹ đối với con. Dưới sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, đã có nhiều người phụ nữ vì mải chạy theo danh vọng, tiền bạc, ái tình... mà không làm trọn đạo làm mẹ. Hậu quả của sự vô trách nhiệm đó là đem lại cho xã hội những thành viên hư hỏng, chúng nhanh chóng bị cám dỗ bởi các tệ nạn xã hội. Khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, xã hội ngày càng hiện đại hơn, con người đã có thể thực hiện nhiều ước mơ mà những thế kỷ trước tưởng như hoang đường. Nhưng dù khoa học, xã hội tiến tới đâu chăng nữa cũng không có một cái gì có thể thay thế được vai trò, trái tim của người mẹ đối với con. Bên cạnh nghĩa vụ công dân, phụ nữ hiện đại vẫn đấu tranh làm tròn trách nhiệm đối với gia đình. Nghị quyết 04/NQ - TW của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: " Phụ nữ vừa là người lao động, người công dân, vừa là người mẹ, là người thầy đầu tiên của con người ". Người thầy đầu tiên ở sự truyền nối, tạo dựng nền văn hoá để hình thành tâm hồn, tư duy, nhân cách cho con người. Như vậy, đạo "tam tòng" cùng Nho giáo đã tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam từ thời Bắc Thuộc. Đến nay, nhìn chung nó chỉ còn là dư âm của xã hội cũ, những tác động tiêu cực của nó đã bị pháp luật dư luận xã hội và chính bản thân phụ nữ bác bỏ. Với quan điểm kế thừa, những giá trị còn lại của "tam tòng" vẫn còn ý nghĩa sâu sắc đối với việc xây dựng người phụ nữ Việt Nam hiện đại. 2.2. thực trạng ảnh hưởng của “Tứ đức” đối với người phụ nữ việt nam ngày nay 2.2.1. "Công" "Công" theo quan niệm của chế độ phong kiến là nữ công gia chánh, tề gia nội trợ, may vá thêu thùa, dạy bảo con cái theo những nguyên tắc của chế độ phong kiến. Vá may giữ nếp đàn bà Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công (Gia Huấn Ca) Như vậy, theo "Tứ đức" của Nho giáo, đức "Công" giới hạn về nội dung và về phạm vi công việc mà người phụ nữ được quyền tham gia đó là gia đình. Một người vợ mẫu mực trong xã hội phong kiến phải là người phụ nữ hiền thục, chăm chỉ, lo toan việc nhà. Công việc ngoài xã hội không thuộc quyền, trách nhiệm của họ mà thuộc về người nam giới. Mục đích của chế độ phong kiến khi sử dụng "Tứ đức" làm chuẩn mực cho phụ nữ là muốn tạo ra những con người an phận, cam chịu để giữ gìn trật tự xã hội. Người phụ nữ với những đặc điểm về hình thể, tính cách, tâm hồn… rất phù hợp với công việc gia đình. Nhưng khi xã hội phong kiến chỉ lấy đó làm chuẩn mực để đánh giá toàn diện về người phụ nữ thì thật bất công. Tuy nhiên, đó là quan niệm, còn trong thực tiễn cuộc sống sinh hoạt, đấu tranh của người dân Việt Nam thì phạm trù " Công " không còn nguyên nghĩa mà được biến tấu một cách linh hoạt, phù hợp với đời thường. Nội dung của chữ " Công " không bị bó hẹp, đơn thuần mà mở rộng trong lĩnh vực xã hội, trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Trong đời sống vật chất của gia đình người Việt truyền thống phụ nữ đóng góp rất nhiều sức lực từ công việc đồng áng, chợ búa đến hàng loạt công việc không tên khác: Vì chồng nên phải gắng công Nào ai xương sắt da đồng chi đây (ca dao) Họ hy sinh bản thân, tuổi xuân của mình: Một ngày hai bữa cơm đèn Còn đâu má phấn răng đen hỡi chàng. (ca dao) Họ là những người tạo tiền của cho chồng "của chồng, công vợ". Họ là người gìn giữ, xây dựng, bảo vệ đời sống vật chất của gia đình "chồng như giỏ, vợ như hom" hay "tay hòm chìa khoá" … Trong đời sống tinh thần, trong hôn nhân: Quan hệ vợ chồng là tiền đề nảy sinh các quan hệ gia đình và đảm bảo sự tồn tại hay tan vỡ của nó. Theo Nho giáo Trung Quốc, quan hệ hôn nhân được sắp đặt theo một trật tự nhất định, yếu tố trước quyết định yếu tố sau: "Phu - Phụ" (chồng - vợ). Nhưng theo tập quán Tiếng Việt, trật tự đó bị đảo lộn thành: "phụ - phu" (vợ - chồng). Trong thực tế của cuộc sống cũng cho thấy vai trò của người vợ trong hôn nhân và đời sống tinh thần là hết sức quan trọng. Người vợ là người bạn đời, người chia sẻ trách nhiệm, nghĩa vụ, niềm hạnh phúc, sự khổ đau với chồng, là người nâng đỡ, là chỗ dựa tình cảm, là nguồn động viên khích lệ chồng: Chồng em áo rách em thương Chồng người áo gấm xông hương mặc người. (ca dao) Sự thành đạt của chồng trong học hành, thi cử đều có sự đóng góp lớn lao của vợ. Một quan là sáu mươi đồng Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi (ca dao) Hay khích lệ: Anh về mau học chữ Nhu Chín trăng em đợi, mười thu em chờ (ca dao) Để bảo vệ sự yên ấm trong gia đình, người vợ nhẫn nhục" "Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng" chịu đựng khuôn phép nhà chồng. Lấy chồng theo thói nhà chồng Thôi đừng theo thói cha ông nhà mình (ca dao) Hay nín nhịn: "Cơn chẳng lành, canh chẳng ngọt" Người vợ còn biết làm đẹp, làm sang cho chồng thông qua đạo " "hiếu khách"; "trọng khách". Để giữ gìn quan hệ của chồng, người vợ niềm nở, chu đáo: Làm cơm đãi khách ở nhà Là cơm dành để chồng ta ăn đường. (ca dao) Như vậy, người vợ cùng chồng thực hiện tất cả các chức năng của gia đình: Kinh tế, xã hội, giao tiếp, ứng xử… Bên cạnh đó, còn có công việc người phụ nữ phải gánh vác một mình "mang nặng đẻ đau" đó là chức năng duy trì nòi giống. Phụ nữ Việt Nam còn có truyền thống vẻ vang trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm; tham gia vào lĩnh vực chính trị. ý thức về tự do của họ đã được nuôi dưỡng và lưu truyền ngay từ những ngày đầu dựng nước: Phụ nữ không thể giành được tự do khi dân tộc còn bị áp bức, nô lệ. Tự do của phụ nữ Việt Nam đã gắn liền với tự do dân tộc. Vận mệnh của dân tộc gắn liền với số phận của phụ nữ. Và chỉ trong tự do dân tộc phụ nữ Việt Nam mới được phát triển và bộc lộ hết tài mưu lược, sức sáng tạo đức độ và vị trí đích thực của mình. Tham gia vào cuộc đấu tranh chống quân xâm lược từ thời Bắc thuộc đã xuất hiện biết bao phụ nữ ưu tú mà tên tuổi của họ đã trở thành niềm tự hào của dân tộc, của giới phụ nữ. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của hai nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử dân tộc đã cùng ba sáu nữ tướng đứng lên chống quân Nam Hán vào năm 34 (Trước Công nguyên): Trưng Trắc, Trưng Nhị. Tinh thần chống giặc của các bà được tập trung trong lời thề trên sông Cửa Hát. Một, xin rửa sạch mối thù Hai, xin đem lại nghiệp xưa Vua Hùng… Bà Triệu đánh giặc Đông Ngô năm 248 "Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn cởi ách lô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta"; hay nữ tướng anh dũng của đội quân Tây Sơn - Bùi Thị Xuân. Sang thế kỷ XIX, chống lại triều đại phong kiến nhà Nguyễn, Bà Ba Cai Vàng chỉ huy cuộc nổi dậy đánh chiếm thị trấn Lạng Giang, Văn Giang, Bắc Ninh: Khen cho trí lự đàn bà, Bắc Ninh tài tướng vợ ba Cai Vàng. (Vè bà Ba Cai Vàng) Và bà Đinh Phu Nhân, mười năm hoạt động trong phong trào Duy Tân, bà nổi tiếng với bài thơ tuyệt mệnh được viết bằng máu trên tường nhà ngục thực dân: "Tôi ước mong sau khi chết được làm người thần. Người thần này sẽ có một ngàn cánh tay và thế là có một nghìn ngọn giáo để chống giặc". Bên cạnh các vị tướng lĩnh là phụ nữ, lịch sử còn ghi lại tên tuổi các vị chấp chấp chính tài ba. Nguyên Phi ỷ Lan, Thái Hậu Dương Vân Nga… những vị nữ thần, nữ tổ của các nghề, nay vẫn được nhân dân thờ phụng tại các ngôi đình, các ngôi chùa như chùa Bà Dâu, bà Đậu, Bà Nành… Vào năm 1069, Lý Thánh Tông cùng Lý Thường Kiệt cất quân đi đánh giặc ở phương xa. ỷ Lan thay vua cầm quyền trị nước. Sử cũ chép rằng: Bà nguyên phi ỷ Lan trị nước rất giỏi, khiến cho dân tâm hòa hợp, cõi nước thanh bình. Dân gian sùng Phật, tôn bà là Quan Âm nữ. Lý Thanh Tông đánh giặc lâu không thắng, quay trở về đến Châu Cư Liên (Tiên Lữ - Hải Hưng) vua hỏi thăm nhân dân, thấy nhân dân hết lời ca ngợi tài trị nước của ỷ Lan. Vua thở than "người ta là đàn bà, còn giỏi như vậy. Ta là đàn ông, lại tầm thường thế này sao?" và ông lại quay đi đánh giặc, lần này thắng lớn. Hai lần chống quân xâm lược Tống (1075-1077) vua Lý Nhân Tông còn bé (lên 10). Lý Thường Thường Kiệt điều binh khiển tướng ngoài chiến trường. ỷ Lan cùng Lý Đạo Thành dốc sức lo việc triều đình, hậu phương. Riêng việc đó cũng chứng tỏ tài năng hoạt động chính trị của phụ nữ Việt Nam xưa. Chế độ phong kiến đã cố tình gạt phụ nữ ra khỏi đời sống chính trị, nhưng một khi được cầm quyền trị nước, họ cũng quản lý nhà nước khéo léo, giỏi giang không kém gì nam giới. Chẳng những giỏi giang việc chính trị, chăm sóc kinh tế, đời sống xã hội của nhân dân, ỷ Lan còn ham học hỏi nên hiểu biết nhiều. Như vậy chữ "Công" xét theo góc độ là quan niệm, quan điểm giáo hoá mà Nho giáo và xã hội phong kiến đưa ra là phiến diện, khuôn sáo, có nhiều hạn chế. Điều đó xuất phát từ sự đánh giá không công bằng về vai trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Những quan niệm này có ảnh hưởng sâu sắc đến thân phận người phụ nữ, khiến cho chức năng của phụ nữ đối với xã hội rất mờ nhạt. Xã hội cũng như gia đình chỉ cần phụ nữ ở vị trí hậu cần cho chồng, cho con - một lực lượng chủ chốt của xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống đã có nhiều người phụ nữ dũng cảm, tài năng vươn lên, bứt phá khỏi sự chi phối của những quan niệm, hủ tục lạc hậu, họ đã khẳng định được vai trò của mình không chỉ trong gia đình mà còn ngoài xã hội và trong công việc đại sự của quốc gia… Từ 1945 đến 1975 là giai đoạn có nhiều biến động lớn lao của lịch sử dân tộc, cuộc sống của người phụ nữ cũng vì thế mà có nhiều đổi thay. Cách mạng Tháng Tám thành công, tiếp đến là hai cuộc kháng chiến trường kỳ đã cuốn hút hàng triệu triệu phụ nữ đảm nhiệm những hoạt động xã hội. Từ những phụ nữ phong kiến với tư duy, thói quen, nếp sống, quan niệm… phong kiến thấm vào máu thịt của họ, nhưng đứng trước cách mạng dân tộc nhiệm vụ của tổ quốc, họ đã đảm nhận rất nhiều nhiệm vụ xã hội. Chuẩn mực xây dựng người phụ nữ trong giai đoạn này chủ yếu vẫn là: Trung hậu, đảm đang. Trung với nước, với nhà, với chồng con đi xa, với nhân dân, đồng bào. Những người chồng, người con đi chiến đấu, người phụ nữ một mình ở lại hậu phương gánh trên vai trách nhiệm và công việc của người chồng, người mẹ, người con. Ví dụ: "Người con Nam Định": "Anh đi, việc nhà em đảm, việc nước, việc làng em lo; Anh đi, bát cơm chia năm, sẻ bảy...", đã ngợi ca về người phụ nữ lo toan toàn bộ công việc trong gia đình: làm kinh tế, duy trì niềm tin, tình yêu thương giữa các thành viên, thắt chặt tình nghĩa xóm làng, truyền thụ văn hoá dân tộc… Họ còn dũng cảm cầm súng chiến đấu "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh" hay "con cái nai quần cũng đánh!" Như vậy, trong thời kỳ này, chuẩn mực "Công" theo quan niệm cũ không còn ảnh hưởng nặng nề đối với phụ nữ. Điểm nổi bật là, sự phân biệt lĩnh vực hoạt động công việc của người phụ nữ không còn, nước và nhà hoà làm một. Nghĩa vụ đối với đất nước cũng là tình nghĩa sâu nặng đối với chồng, với con đang chiến đấu ngoài mặt trận. Đó là đạo lý truyền thống của người phụ nữ Việt nam, là nét đẹp của người phụ nữ trong quá trình phát triển lịch sử dân tộc và phát triển giới nữ. Đạo lý đó cho đến bây giờ vẫn là nền tảng để xây dựng con người, nhất là với người phụ nữ - người mẹ. Đời sống, xã hội có những bước phát triển mạnh, điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi con người, mỗi gia đình. Hiện nay ở nước ta kiểu gia đình hạt nhân vẫn chiếm tỷ lệ cao; văn hoá, đời sống tâm lý truyền thống vẫn còn níu kéo, bảo vệ cho các gia đình cổ truyền. Nhưng trong tương lai, sự nghiệp CNH, HĐH thành công, cùng với xu thế toàn cầu hoá, hiện đại hoá lối sống nhân loại… sự thay đổi lớn về kinh tế, sản xuất ít nhiều sẽ làm đảo lộn đời sống gia đình. Do vậy, trách nhiệm của người phụ nữ hiện đại lại càng lớn lao. Họ không chỉ duy trì đơn thuần sự tồn tại của gia đình mà còn phải sắp xếp khoa học công việc xã hội và công việc gia đình. Họ không thể chú trọng cái này, lãng quên cái kia, cả hai đều yêu cầu sự toàn tâm toàn ý của họ. Quan niệm về nội dung, tính chất công việc của người phụ nữ trong thời đại mới được nhìn nhận ở hai phương diện: 1. Bằng năng lực của mình tham gia vào công việc xã hội để tạo ra của cải vật chất cho gia đình. 2. Đảm đang công việc gia đình, tổ chức đời sống vật chất và tinh thần một cách hợp lý. Nền văn minh công nghiệp ra đời cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp, công nghệ kỹ thuật, những đô thị lớn… đã tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia trực tiếp vào lao động sản xuất, các ngành dịch vụ xã hội và một số công việc có thu nhập. Đã có nhiều phụ nữ thành đạt quản lý các doanh nghiệp lớn, làm kinh tế tư nhân… Nhiều gia đình trở thành những đơn vị kinh tế có khả năng thích ứng cao với cách làm ăn mới tạo ra những hiệu quả kinh tế thiết thực. Cũng có nhiều phụ nữ ngoài giờ lao động ở cơ quan còn tham gia làm thêm để tăng thu nhập … Như vậy, phụ nữ trong thế kỷ mới đã tích cực tham gia vào hoạt động sản xuất và các hoạt động xã hội khác. Có nhiều phụ nữ rất năng động, linh hoạt trở thành người kiếm ra nhiều tiền, làm kinh tế chính trong gia đình. Do có địa vị trong lĩnh vực kinh tế, phần lớn phụ nữ ngày nay đã ý thức được vị trí vai trò của mình và họ rất tự tin, có bản lĩnh trong nhiều lĩnh vực. Theo số liệu của Sở Lao động Thương binh và Xã hội thành phố Hồ Chí Minh (sách đã dẫn số liệu thống kê năm 2003) có 1.392.524 lao động nữ chiếm 48% so với tổng số lao động của thành phố. Trong đó có 835.047 chị đang có việc làm ổn định chiếm 60%. Có việc làm tức là có thu nhập, như vậy từ chuẩn mực "tề gia nội trợ", "nữ công gia chánh"; từ địa vị ăn theo, phụ thuộc, người phụ nữ đã và đang thực sự trở thành lực lượng lao động chính có những đóng góp lớn cho kinh tế gia đình và xã hội. Theo kết quả điều tra của phường Thịnh Liệt - thành phố Hà Nội về mức đóng góp của nam và nữ đối với gia đình có sự chênh lệch không đáng kể. Bảng 2.3: Vai trò kinh tế giữa nam - nữ trong gia đình Đơn vị tính: % Ước tính đóng góp của bản thân Nam Nữ Người làm chủ yếu 10,3 9,8 Người đóng góp hơn 1/2 21,3 13,0 Người đóng góp 1/2 đến 1/3 32,3 35,6 Dưới 1/3 17,1 21,9 Không đáng kể 18,9 19,7 Tổng 48,66 51,34 Nguồn: Lê Đức Quý, Người phụ nữ trong văn hóa gia đình đô thị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.171. Sự đóng góp của người phụ nữ vào kinh tế gia đình là yếu tố quan trọng để nâng cao mức sống cho các thành viên trong gia đình, về các điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần như: nhà cửa, tiện nghi, chi phí cho con cái, các dịch vụ y tế, các quan hệ xã hội, quan hệ gia tộc … hiện nay. Để tạo lập được vai trò vị trí trong xã hội, người phụ nữ phải đầu tư rất nhiều công sức, thời gian cho việc học tập, nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ… Sự biến động đến chóng mặt của nền kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay, sự thay đổi liên tục của công nghệ sản xuất, của khoa học kỹ thuật, đòi hỏi người phụ nữ phải nhạy bén, tầm nhìn không chỉ giới hạn trong công việc gia đình mà phải vươn ra những vấn đề trong nước, quốc tế… Mặt khác, họ phải luôn trau dồi để có một tiềm lực văn hoá lớn (tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm) nghệ thuật kinh doanh… Phạm vi công việc được mở rộng, đòi hỏi của công việc ngày một cao, vì vậy, người phụ nữ hiện đại không chỉ cần mẫn, khéo léo hay có sức mạnh cơ bắp là đủ mà cần phải phấn đấu về mặt trí tuệ, tài năng. Cuộc sống hiện đại vô cùng phức tạp, thị trường kinh tế biến hoá thất thường… có nhiều rủi ro không thể lường trước; người phụ nữ ngày nay cũng cần phải có một nghị lực phi thường, một tinh thần lạc quan để đối mặt với những thất bại đó. Hiện nay, gia đình và xã hội đang ngày càng tạo nhiều điều kiện thuận lợi để phụ nữ tích cực tham gia xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, các hoạt động chống tiêu cực, ngăn chặn mặt trái của nền kinh tế thị trường, các tai tệ nạn xã hội…. Và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc như: "Nước nhà là một", "Bầu ơi thương lấy bí cùng", Đây là một chuẩn mực rất mới và rất cần thiết để ngăn ngừa những mặt trái của văn hoá, xã hội, đạo lý do sự phát triển nhanh chóng về mặt kinh tế. Chuẩn mực này còn là ngưỡng an toàn bảo vệ hạnh phúc gia đình của mỗi người phụ nữ vì xã hội an toàn chính là cơ sở, là cái nôi nuôi dưỡng mỗi con người phát triển.. Phụ nữ hiện đại tham gia vào công việc trong xã hội với rất nhiều ngành nghề trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong đó, nữ công nhân viên chức nhà nước là lực lượng nòng cốt. Họ có mặt trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, văn hoá, xã hội, chiếm tới 47% lao động của xã hội trong khu vực nhà nước; 51,5% trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các ngành lao động nữ chiếm số đông như: giáo dục, y tế, thương mại, công nghiệp nhẹ… (60%->70%) ở một số lĩnh vực đang phát triển mạnh như: Du lịch, Ngân hàng, Bưu điện… lao động nữ chiếm khoảng 50% (Trích dự án điều tra về gia đình và vai trò phụ nữ trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Đỗ Thị Bình). Trong các hoạt động mới, tính chất công việc phức tạp, yêu cầu cao như: Nghiên cứu khoa học, ngoại giao, quản lý nhà nước… tỷ lệ nữ đang có chiều hướng tăng, chiếm khoảng 30%. Phụ nữ là nông dân ở Việt Nam chiếm tới 70% lao động nữ trong cả nước, họ là lực lượng có vai trò đặc biệt quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn trong thời kỳ đổi mới [18, tr.54]. Đa số họ đã có ý thức chủ động tiếp nhận, thích nghi với việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất và thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Những năm gần đây một số nữ nông dân đã trở thành nhà doanh nghiệp trong khu vực sản xuất nông nghiệp ở nông thôn. Họ là người đi đầu trong phong trào nữ nông dân thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và xây dựng đời sống nông thôn mới… Đội ngũ trí thức trong lao động nữ tuy số lượng chưa lớn nhưng lại đóng một vai trò rất quan trọng và đang phát triển nhanh về số lượng. Những công việc phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt vật chất, nhu cầu sinh hoạt tinh thần trong gia đình là những việc "nội trợ", "nữ công gia chánh", là những việc chỉ do phụ nữ đảm nhiệm. Ngày nay, không ít người đàn ông (thậm chí có cả phụ nữ chấp nhận và cho điều đó là hợp lý, hợp lẽ) vẫn giữ quan nguyên quan điểm này. Thậm chí có người cho rằng đó chỉ là những việc vặt trong gia đình. Nhưng thực chất, nó lại đóng một vai trò rất thiếu yếu là tiêu tốn rất nhiều thời gian, sức lực của người phụ nữ. Trong nền văn minh ngày nay, người phụ nữ được giảm nhẹ công việc gia đình bởi một số lý do cơ bản: 1. Sự xuất hiện những đồ gia dụng, tiện nghi hiện đại. 2. Nhiều người chồng đã có ý thức chia sẻ công việc nhà cùng vợ. 3. Một số gia đình đã thuê người giúp việc 4. Dịch vụ xã hội phục vụ cho đời sống phát triển. Những chuyển biến tích cực trong gia đình dẫn đến chức năng của gia đình được chuyển dần một phần cho xã hội, một phần được người chồng chia sẻ, nhưng nhìn chung, người phụ nữ vẫn đóng vai trò chính. Theo nguồn của "Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ" phụ nữ trong công việc nấu ăn chiếm 74,3%; mua thực phẩm 80,9%; giặt quần áo 56,9%; chăm sóc con cái 31,3%. Xin tham khảo thêm bảng thống kê dưới đây: Bảng 2.4: Người đóng góp nhiều công sức nhất cho gia đình theo vùng điều tra Đơn vị tính: % Vùng điều tra Người đóng góp Thành phố Đồng bằng Trung du miền núi Chung Vợ 65,1 65,8 62,1 64,5 Chồng 30,2 30,6 31,4 30,8 Con gái 0,3 1,6 1,3 1,3 Con trai 1,7 1,6 4,0 2,4 Bà 1,0 0,1 0,2 0,3 Ông 0 0,1 0 0,1 Nguồn: Lê Đức Quý, Người phụ nữ trong văn hóa gia đình đô thị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Chữ "công" ngày nay còn thể hiện: Người phụ nữ có chức năng quản lý tài chính của gia đình và sử dụng nó một cách hợp lý, khoa học. Tham khảo bảng người quản lý tài chính gia đình theo vùng điều tra. Bảng 2.5: Bảng tham khảo người quản lý tài chính gia đình theo vùng điều tra Đơn vị tính: % Vùng điều tra Người quản lý Thành phố Đồng bằng Trung du miền núi Chung Vợ 66,2 55,3 68,5 61,5 Chồng 3,7 9,6 10,3 8,6 Cả 2 27,1 30,5 18,7 26,3 Của ai tự quản 2,0 2,0 1,3 1,8 Nguồn: Lê Đức Quý, Người phụ nữ trong văn hóa gia đình đô thị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Chức năng "tay hòm chìa khoá" của phụ nữ ngày nay không đơn thuần như một người thủ quỹ thực hiện sự quản lý tài chính mà đòi hỏi sử dụng như thế nào cho hợp lý. Cụ thể: phải tính toán, tổ chức, thực hiện vấn đề chi tiêu trong gia đình một cách hợp lý, khoa học, hiệu quả. Việc mua sắm chi tiêu trong gia đình là một bài toán khó mà người phụ nữ vừa phải tỉ mỉ, cẩn thận nhưng cũng phải nhạy bén, tinh tường trước sự "đỏng đảnh" của thị trường. Người phụ nữ biết lo chu toàn mọi việc không chỉ là mua sắm vật dụng phù hợp, tiện lợi để phục vụ cho tiêu dùng, sinh hoạt hàng ngày mà còn phải biết tiết kiệm để luôn có một khoản nhất định phòng khi có chuyện bất thường trong cuộc sống. Đảm bảo cuộc sống vật chất phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình là sự đóng góp hữu hình của người phụ nữ vào đời sống vật chất của gia đình một cách có văn hoá. Là người nội trợ, đảm nhận phần lớn công việc bếp núc - người phụ nữ có công lớn đối với gia đình. Không chỉ đơn giản là "cơm chín, nước sôi" yêu cầu của gia đình hiện đại với người phụ nữ phải có sự hiểu biết, cân nhắc ngay trong một bữa ăn sao cho đủ chất, ngon miệng, phù hợp với thu nhập. Hiện nay trong cuộc sống hiện đại, với nhịp sống hối hả của cơ chế thị trường, nguy cơ thương mại hoá trên các lĩnh vực đời sống xã hội đang hàng ngày, hàng giờ tác động vào các gia đình, phần nào làm mai một nền nếp văn hoá truyền thống. Tình trạng tiệc tùng, "cơm bụi", "cơm công nghiệp", "cơm hộp" đã bị lạm dụng quá mức, đang có xu hướng thay thế dần cho những bữa ăn sum họp của gia đình. "Đàn ông vắng nhà, đàn bà quạnh bếp" sự thường xuyên vắng nhà vì công việc xã hội, thiếu sự chăm sóc nhau giữa các thành viên… là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng ly thân, ly hôn ở nhiều gia đình. Như vậy, xã hội càng hiện đại thì yêu cầu về công việc đối với người phụ nữ càng cao, phạm vi càng được mở rộng, tính chất càng phức tạp. Vấn để nổi bật hiện nay là người phụ nữ phải đảm bảo được công việc của gia đình và ngoài xã hội. Vừa tổ chức bảo vệ, nuôi dưỡng được hạnh phúc gia đình, chăm lo cho mọi thành viên; vừa đảm bảo tốt nghĩa vụ, trách nhiệm của một công dân trong xã hội. Đó là khối lượng công việc lớn lao đặt trên vai người phụ nữ hiện đại. Tuy nhiên, thực hiện những điều đó, không ai làm giỏi hơn phụ nữ. Đây chính là sự đóng góp công sức vô bờ bến của phụ nữ hiện đại đối với sự phát triển của nước nhà trong giai đoạn hiện nay, là sự cố gắng gìn giữ nét đẹp của chữ "công" truyền thống; là sự hoà nhập, vươn lên với tầm c của thời đại mới. 2.2.2 "Dung" Phạm trù "Dung" theo quan niệm của Nho giáo được hiểu là vẻ đẹp hình thức, thể hiện qua dáng vẻ tự nhiên kết hợp với trang phục, trang điểm tạo nên sự đoan trang nói chung. Chuẩn mực về vẻ đẹp xưa với người phụ nữ là vẻ đẹp thuỳ mị, kín đáo, duyên dáng … Ngay trong quan niệm về hình thức cũng đã thể hiện vị trí khiêm nhường của phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội. Có nhiều câu ca, ca ngợi về vẻ đẹp của phái nữ. Những người thắt đáy lưng ong Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con. (ca dao) Hay: Nhà anh chín ruộng mười trâu Có thêm ao cá bắc cầu rửa chân Có rửa thì rửa chân tay Chớ rửa lông mày, chết cá ao anh (ca dao) Hay nét dung nhan điển hình được nguyễn Du khắc hoạ trong "truyện Kiều" về nàng Kiều: Hoa cười, ngọc thốt đoan trang Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Vẻ đẹp hình thức theo quan niệm cũ người phụ nữ còn phải ra chiều e lệ, khép nép, liễu yếu đào tơ. Đi đứng, nói năng ra thưa vào gửi; không được nói to, đi mạnh, không được nói trước khi chưa ai hỏi, không được cãi lại chồng. Dù trong lòng người vợ có giận dữ hay đau khổ đến mấy vẫn phải nén chặt để gương mặt và mọi cử chỉ luôn nhẹ nhàng, tươi tắn như hoa. Ngay cả khi chồng quát, chửi mắng, thậm chí đánh thì vẫn phải cúi đầu nhịn nhục. Chồng giận thì vợ làm lành Miệng cười hớn hở … rằng anh giận gì? (ca dao) Đàn bà đẹp nhưng cũng phải là cái đẹp đem lại điều tốt lành cho người chồng, con "vượng phu, ích tử". Nhưng dù thế cũng chỉ là vật người ta có thể mua, bán được mà thôi. Đàn bà thắt đáy lưng ong Gót chân thon nhỏ đáng trăm quan tiền. (ca dao) Quan niệm về dung nhan của người phụ nữ không tách rời vẻ đẹp đức hạnh. Vẻ đẹp hình thức luôn gắn với vẻ đẹp tâm hồn, tính cách, ứng xử. Nho giáo luôn chú trọng việc xây dựng một vẻ đẹp hoàn thiện đối với người phụ nữ. Tuy nhiên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Học thuyết Tam tũng, Tứ đứcvà ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp.pdf
Tài liệu liên quan