Tài liệu Luận văn Học thuyết hình thái kinh tế xã hội với việc nhận thức tính tất yếu của con đường lựa chọn xã hội chủ nghĩa vào Việt Nam: LUẬN VĂN:
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội
với việc nhận thức tính tất yếu của
con đường lựa chọn xã hội chủ
nghĩa vào Việt Nam
Lời nói đầu
Trong gần 10 năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta có sự thay đổi và đạt
được nhiều thành tựu to lớn. Để đạt được những thành tựu ấy chúng ta không thể
quên được bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế đất nước, mà
cột mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986 đã làm thay đổi bộ
mặt kinh tế Nhà nước).
Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn
lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của nước phát triển thì tất yêú phải đổi
mới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: Xây dựng
nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an
ninh vững chắc, dân giàu...
25 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1054 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Học thuyết hình thái kinh tế xã hội với việc nhận thức tính tất yếu của con đường lựa chọn xã hội chủ nghĩa vào Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội
với việc nhận thức tính tất yếu của
con đường lựa chọn xã hội chủ
nghĩa vào Việt Nam
Lời nói đầu
Trong gần 10 năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta có sự thay đổi và đạt
được nhiều thành tựu to lớn. Để đạt được những thành tựu ấy chúng ta không thể
quên được bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế đất nước, mà
cột mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986 đã làm thay đổi bộ
mặt kinh tế Nhà nước).
Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn
lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của nước phát triển thì tất yêú phải đổi
mới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: Xây dựng
nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an
ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Mục tiêu đó
là sự cụ thể hoá học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội và hoàn cảnh cụ thể
của xã hội Việt Nam. Nó cũng là mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước
ta.
Đề tài : Học thuyết hình thái kinh tế xã hội với việc nhận thức tính tất
yếu của con đường lựa chọn xã hội chủ nghĩa vào Việt Nam là một nội dung
phức tạp và rộng.
I. Hình thái kinh tế xã hội Mác- Lê nin.
Mọi người đều biết trong lịch sử tư tưởng nhân loại trước Mác đã có
không ít cách tiếp cận, khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội. Xuất phát từ
những nhận thức khác nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự phan chia
lịch sử tiến hoá của xã hội theo những cách khác nhau. Chẳng hạn như nhà triết
học duy tâm Hê - ghen (1770 - 1831) phân chia lịch sử xã hội loài người thành ba
thời kỳ chủ yếu: thời kỳ phương Đông, thời kỳ cổ đại, thời kỳ Gree - ma - ni. Nhà
xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp Phu- ri-ê (1772-1837) chia lịch sử xã hội thành
bốn giai đoạn: giai đoạn mông muội, giai đoạn dã man, giai đoạn gia trưởng, giai
đoạn văn minh.
Mọi người cũng đã quen với những khái niệm thời đại đồ đá, thời đại đồ
đồng, thời đại cối xay gió, thời đại máy hơi nước. . . và gần đây là các nền văn
minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp.
Mỗi cách tiếp cận trên có những điểm hợp lý nhất định và do đó đều có ý
nghĩa nhất định, nhưng chưa nói lên bản chất sự phát triển của xã hội theo một
cách toàn diện tổng thể mà do đó có những hạn chế.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch sử,
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật để nghiên
cứu lịch sử xã hội, đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và đã hình thành nên học
thuyết về “hình thái kinh tế xã hội”.
Hình thái kinh tế xã hội là một khái niệm chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng
để chỉ xã hội ở từng giai đoạn nhất định. Với một quan hệ sản xuất đặc trưng cho
xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến
trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Lý luận về hình thái kinh tế xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở
xem xét cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Tức toàn bộ các yếu tố cấu thành bộ mặt của thời đại: chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật. . . Do đó, nó cắt nghĩa xã hội được sáng tỏ
hơn, toàn diện hơn, chỉ ra cả bản chất và quá trình phát triển của xã hội. Học
thuyết hình thái kinh tế xã hội mới với tư cách là “Hòn đá tảng” của xã hội học
Mác xít nói chung cho phép chúng ta hình dung quá trình phát triển của lịch sử là
một quá trình tự nhiên. Loài người đã trải qua năm hình thái kinh tế: xã hội cộng
sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và ngày nay
đang quá độ lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời phát triển và diệt
vong. Chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay thế. Đó
là khi phương thức sản xuất cũ đã trở nên lỗi thời, hoặc khủng hoảng do mâu
thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quá hơn không thể phù hợp thì
phương thức sản xuất này sẽ bị diệt vong và xuất hiện một phương thức sản xuất
mới toàn diện hơn, có quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất.
Như vậy, bản chất của sự thay thế trên là phụ thuộc vào mối quan hệ biện
chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Để hiểu rõ về mối quan hệ
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chúng ta phải nắm bắt
được thế nào là quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
1) Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là biểu
hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định. Lịch sử sản xuất là một thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (quan
hệ nhất là công cụ lao động) với người lao động với kinh nghiệm và kỹ năng lao
động nghề nghiệp. Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định phương thức sản
xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất
thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý trao
đổi hoạt động với nhau và quan hệ phân phối sản phẩm. Trong quan hệ sản xuất
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vị trí quyết định các quan hệ khác.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra song nó được hình thành một cách
khách quan không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người. Quan hệ sản
xuất mang tính ổn định tương đối với bản chất xã hội và tính phương pháp đa
dạng trong hình thức biểu hiện.
Giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng
với nhau biểu hiện ở chỗ:
+ Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển. Sự biến
đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất
mà trước hết là công cụ.
+ Công cụ lao động phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản
xuất hiện có và xuất hiện ddòi hỏi khách quan, phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ
thay thế bằng quan hệ sản xuất mới.
+ Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất (phù
hợp) nhưng do mâu thuẫn của lực lượng sản xuất (đông) với quan hệ sản xuất (ổn
định tương đối) quan hệ sản xuất lạI trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất (không phù hợp ). Phù hợp và không phù hợp là biểu hiện
mâu thuẫn biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tức là sự phù
hợp trong mâu thuẫn và bao hàm mâu thuẫn.
+ Khi phù hợp cũng như không phù hợp với lực lượng sản xuất , quan hệ sản
xuất luôn có tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất thể hiện trong nội
dung sự tác động trở lạI đối với lực lượng sản xuất, mục đích xã hội của lực
lượng sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích. Từ đó hình thành những
yếu tố thúc đẩy và kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động trở
lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng thông qua các quy luật kinh tế - xã
hội đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản. Phù hợp và không phù hợp giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là khách quan và phổ biến của mọi phương thức sản
xuất.
Sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất như
sự thống nhất giữa hai mạt đối lập tạo nên chỉnh thể của sản xuất xã hội. Trong
“Hệ tư tưởng Đức” (1846) lần đầu tiên Mác- Ănghen đã hình dung sự thống nhất
đó như là một “quan hệ song trùng”, giữa hai “sự trao đổi chất” tất yếu và phổ
biến ở mọi nền sản xuất - xã hội. Đó là “trao đổi chất giữa người với tự nhiên
(lực lượng sản xuất) và giữa người với người (quan hệ sản xuất)”.
Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
được Mác - Ănghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với trình độ , tính chất của lực lượng sản xuất.
Đây là một trong những quy luật cơ bản của đời sỗng xã hội. Quy luật này
chỉ rõ động lực và xu thế phát triển của lịch sử.
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu lao động. Khi
công cụ lao động sản xuất đựoc sử dụng bởi từng cá nhân riêng biệt để sản xuất
ra một sản phẩm cho xã hội không cần đến lao động của nhiều người thì lực
lượng sản xuất có tính chất cá thể, công cụ sản xuất được nhiều người sử dụng.
Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ tinh xảo và hiện
đại của công cụ sản xuất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ sảo của
người lao động, trình độ phân công lao động xã hội , tổ chức quản lý sản xuất và
quy mô của nền sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao thì
chuyên môn hoá và phân công lao động càng sâu. Trình độ phân công lao động
và chuyên môn hoá là thứoc đo trình độ của phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của
quan hệ sản xuất. Trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”, Mác nói: “Cái
cối xay quay bằng tay cho xã hội có lãnh chúa phong kiến, cái cối xay chạy bằng
hơi nước cho xã hội có nhà tư bản”.
Để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và giảm bớt lao động nặng nhọc con
người không ngừng cải tiến, hoàn thiện và chế tạo ra những công cụ, tri thức
khoa học, trình độ chuyên môn kỹ thuật và mọi kỹ năng của người lao động
cũng ngày càng phát triển.
Yếu tố năng động này của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất
phải thích ứng với môi trường. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và
biến đổi của quan hệ sản xuất. Khi không thích ứng với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm thậm chí phá hoại sự
phát triển của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn của chúng tất yếu sẽ nảy sinh. Biểu
hiện của mâu thuẫn này trong xã hội là giai cấp là mâu thuẫn giữa các giai cấp
đối kháng.
Lịch sử đã chứng minh rằng do sự phát triển của lực lượng sản xuất, loài
người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách mạng xã
hội, dẫn đến sự ra đời nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội.
Ví dụ: do công cụ sản xuất chủ yếu bằng đã thô sơ, trình độ hiểu biết hạn
hẹp, để duy trì sự sống chống lại mọi tai hoạ của thiên nhiên , con người phải lao
động theo cộng đồng. Do vậy đã hình thành quan hệ sản xuất cộng sản nguyên
thuỷ. Công cụ kim loại ra đời thay thế cho công cụ bằng đá, lực lượng sản xuất
phát triểnnăng suất lao động nâng cao sản phẩm thặng dư xuất hiện , chế độ
chiếm hữu nô lệ dựa trên quan hệ sản xuất tư hữu.
Vào giai đoạn cuối cùng của xã hội phong kiến, ở các nước Tây Âu lực
lượng sản xuất đã mang yếu tố xã hội hoá gắn với quan hệ sản xuất phong kiến.
Mặc dù hình thức bóc lột của các lãnh chúa phong kiến được thay đổi liên tục từ
địa tô lao dịch đến địa tô hiện vật, địa tô bằng tiền song quan hệ sản xuất phong
kiến chật hẹp vẫn không chứa đựng được nội dung mới của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời thay thế quan hệ sản xuất phong
kiến. Trong lòng nền sản xuất tư bản, lực lượng sản xuất phát triển cùng với sự
phân công lao động và tính chất xã hội hoá công cụ sản xuất đã hình thành lao
động chung của người dân có tri thức và trình độ chuyên môn hoá cao. Sự lớn
mạnh này của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với chế độ sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa. Giải quyết mâu thuẫn đó đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản
xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa. Theo Mác, do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người
thay đổi phát triển sản xuất của mình và do đó thay đổi phát triển sản xuất làm ăn
của mình, loài người thay đổi các quan hệ sản xuất của mình.
Mặc dù bị chi phối bởi lực lượng sản xuất nhưng với tính cách là hình
thức quan hệ sản xuất củng cố những tác động nhất định trở lại đối với lực lượng
sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy, định hướng và tạo điều kiện
cho lực lượng sản xuất phát triển ngược lại. Nếu lạc hậu hơn so với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hay chỉ là tạm thời so với tất yếu khách
quan của cuộc sống nhưng quan hệ sản xuất sẽ là xiềng xích kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
Phù hợp có thể hiểu ở một số nội dung chủ yếu là: cả ba mặt của quan hệ
sản xuất phải thích ứng với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sản xuất và kết hợp với tối ưu giữa
tư liệu sản xuất và sức lao động, đảm bảo trách nhiệm từ sản xuất mở rộng. Mở
ra sau những điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần với người
lao động.
Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của người sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Do tác động của
quy luật này xã hội là sự phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao của các phương
thức sản xuất hay chính là của các hình thái kinh tế - xã hội.
Dưới những hình thức và mức độ khác nhau thì con người có ý thức được hay
không và quy luật cốt lõi này như sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy tiến hoá của
lịch sử không chỉ những lĩnh vực kinh tế mà cả các lĩnh vực ngoài kinh tế, phi
kinh tế.
2) Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Không chỉ đặc trưng bằng quan hệ sản xuất mà nó còn đặc trưng bởi một
kiến trúc thượng tầng xây dựng trên những quan hệ sản xuất của chính nó.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế
tương ứng và những quan hệ nội tạng của thượng tầng, đó là những quan đIểm tư
tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học và các thể
chế tương ứng như Nhà nước, Đảng phái, giáo hội và các toàn thể quần chúng.
Kiến trúc thượng tầng được hình thành trên tổng hợp toàn bộ những quan
hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một chế độ xã hội nhất định người ta
gọi đó là cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng bao gồm những quan hệ sản xuất đang giữ địa vị thống trị
nền kinh tế nhóm những quan hệ sản xuất tàn dư và những quan hệ sản xuất mới
là quan hệ mầm mống của xã hội sau.
Bất kỳ một cơ sở hạ tầng nào cũng bao gồm những thành phần kinh tế
khác nhau, mỗi thành phần kinh tế này đều gắn liền với một kiểu quan hệ sản
xuất trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các
thành phần kinh tế khác.
Xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp này nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, từ
những mâu thuẫn và xung đột kinh tế. Đó chính là cơ sở nảy sinh giai cấp đối
kháng trong kiến trúc thượng tầng, giai cấp thống trị về kinh tế sẽ thống trị về
chính trị và thiết lập cả sự thống trị về mặt tư tưởng đối với xã hội, trong đó hệ tư
tưởng chính trị và bộ máy quản lý nhà nước có vị trí quan trọng nhất.
a) Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng đó (giai cấp nào giữ vị trí
thống trị về mặt kinh tế thì đồng thời cũng là giai cấp thống trị xã hội về tất cả
các lĩnh vực khác).
Quan hệ sản xuất nào thống trị cũng sẽ tạo ra kiến trúc thượng tầng tương
ứng. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giữa các tập đoàn trong xã hội và dời sống
tinh thần của họ đều xuất phát trực tiếp và gián tiếp từ mâu thuẫn kinh tế, từ
những quan hệ đối kháng trong cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì nhất định sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự thay đổi
về kiến trúc thượng tầng. Quá trình đó diễn ra ngay trong những hình thái kinh tế
xã hội cũng như khi chuyển tiếp từ hình thái này sang hình thái kinh tế xã hội
khác trong các xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng được biểu hiện là
mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp mâu thuẫn của cơ sở hạ tầng được
biểu hiện là mâu thuẫn cuả giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Khi hạ tầng cũ bị
xoá bỏ thì kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi và thay thế vào đó là kiến trúc
thượng mới được hình thành từng bước thích ứng với cơ sở hạ tầng mới.
Sự thống trị của giai cấp thống trị cũ đối với xã hội cũ bị xoá bỏ, thay
bằng hệ tư tưởng thống trị khác và các thể chế tương ứng của giai cấp thống trị
mới. Đương nhiên không phải “Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì lập tức sẽ dẫn đến
sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng”.Trong quá trình hình thành và phát triển
của kiến trúc thượng tầng mới, nhiều yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn
tại gắn liềnvới cơ sở kinh tế đã nảy sinh ra nó. Vì vậy giai cấp cầm quyền cần
phải biết lựa chọ một số bộ phận hợp lý để sử dụng nó xây dựng xã hội mới.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi về kiến trúc thượng tầng
là một quá trình diễn ra hết sức phức tạp, thường trong xã hội có đối kháng giai
cấp, tính chất phức tạp ấy được thể hiện qua các cuộc đấu tranh giai cấp. Tính
chất này được bộc lộ rõ nét nhất là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa
(giai đoạn thấp nhất là xã hội chủ nghĩa), giai cấp cách mạng phải thực hiện cuộc
đấu tranh lật đổ kiến trúc thượng tầng cũ thiết lập hệ thống chuyên chính của
mình, sử dụng nó như là một công cụ từng bước đấu tranh cải tạo định hướng xây
dựng và hoàn thiện cơ sỏ hạ tầng mới.
b) Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng với cơ
sở hạ tầng.
Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải phụ thuộc một chiều
vào cơ sở hạ tầng mà trong qúa trình phát triển, chúng có những tác động qua lại
với nhau và ảnh hưởng lớn đến cơ sở hạ tầng cũng như các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội.
Vai trò của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện
trong các mặt sau:
Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng là thực hiện nhiệm vụ
đấu tranh thủ tiêu cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, xây dựng bảo vệ
củng cố phát triển cơ sở hạ tầng mới. Kiến trúc thượng tầng chính là công cụ của
giai cấp thống trị , các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng cũng có tác động
mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng nhưng thường những tác động ấy phảI thông qua
hệ thống chính trị, pháp luật hay thể chế tương ứng khác.
Trong điều kiện ngày nay vai trò của kiến trúc thượng tầng không giảm đi
mà ngược lại tăng lên và tác động mạnh đến tiến trình lịch sử. Trái lại kiến trúc
thượng tầng xã hội chủ nghĩa bảo vệ cơ sở hạ tầng xã hội xã hội chủ nghĩa nhằm
xây dựng lại xã hội mới. Chính mục đích đó quyết định tính tích cực càng tăng
của kiến trúc thượng tầng.
Tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng được thể hiện trong
2 trường hợp trái ngược nhau nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với quan hệ
kinh tế tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Ngược lại, nếu kiến trúc
thượng tầng là cơ sở của những quan hệ kinh tế lỗi thời thì sẽ kìm hãm sự phát
triển của kinh tế xã hội. Những sự tác động kìm hãm đó chỉ là tạm thời sớm
muộn cũng bị cách mạng khắc phục. Về cơ bản, bản chất giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng chính là bản chất giữa kinh tế và chính trị trong đó kinh tế
đóng vai trò quyết định còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế có tác
động mạnh mẽ trở lại.
II. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hóa đất nước.
1) Tính tất yếu.
Loài người đã phải trải qua 5 hình thái kinh tế. Mỗi hình thái sau văn minh
tiến bộ hơn hình thái trước. Đầu tiên là hình thái kinh tế tự nhiên (cộng sản
nguyên thuỷ) con người chỉ biết săn bắn hái lượm, ăn thức ăn sống, cuộc sống
của họ phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, họ chưa biết chăn nuôi trồng trọt,
chưa biết tích luỹ thức ăn. Có thể nói đây là thời kỳ sơ khai của loàI người. Sau
đó đến hình thái chiếm hữu nô lệ con người đã văn minh hơn họ không còn biết
ăn tươi nuốt sống và đã biết lao động để tạo ra của cải vật chất.
Hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, quan hệ giữa hai giai cấp đó là
quan hệ bóc lột hoàn toàn của cải vật chất và con người. Nô lệ biến thành công
cụ lao động.
Hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa ra đời đưa loài người lên nấc
thang cao hơn của nền văn minh, xã hội đã phong phú hơn về giai cấp. Giai cấp
thống trị là giai cấp cơ bản. Thủ đoạn bóc lột của chúng tinh vi hơn gấp nhiều lấn
so với sự bóc lột trước trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Người công
nhân làm thuê bị bóc lột sức lao động qua giá trị thặng dư, sự làm việc quá sức..
Mặc dù tư bản xã hội chủ nghĩa tạo ra một lượng của cảI vật chất rất lớn cho xã
hội, nhưng bản chất bóc lột cùng những mâu thuẫn khác là không thể đIều hoà.
Phần đông con người trong xã hội tư bản chủ nghĩa đều bị mất quyền lợi, mất
bình đẳng. Cả 3 chế độ nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa có những đặc đIểm
riêng nhưng nó đều là chế độ có khác những mâu thuẫn đối kháng không thể đIêu
hòa giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, và dựa trên sự tư hữu về sản xuất.
Giai cấp bóc lột là giai cấp thống trị, mọi hoạt động về mặt kinh tế chính trị xã
hội đều chỉ phục vụ cho quyềnlợi của chính họ.
Một hình thái kinh tế xã hội tồn tại được thì nó phải có những mặt tốt nhất
định của nó chúng ta cũng không thể phủ nhận những thành quả mà các hình thái
kinh tế xã hội nói trên đã đạt được. Xã hội cộng sản nguyên thuỷ là chế độ xã
hội đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của loài người. Trong xã hội chiếm
hữu nô lệ giai cấp thống trị bắt đầu tích luỹ của cải cho xã hội, quan trọng nhất là
nó đưa con người ra khỏi thời kì mông muội hoang dã. Xã hội phong kiến là
bước trung gian để loài người chuyển sang một nền văn minh mới nó hình thành
những tiền đề tốt cho sự ra đời của xã hội tư bản chủ nghĩa. Nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa không chỉ còn là sản xuất nông nghiệp, con người đã được tiếp cận với
sản xuất nông nghiệp với những thành tựu khoa học, kỹ thuật nó đã tạo ra những
khả năng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, nó tạo ra một khối lượng của
cải vật chất cho nhân loại bằng tất cả các xã hội trước cộng lại.
Hình thái kinh tế xã hội là chế độ xã hội bước đầu vừa phát huy thừa kế
những thành quả của chủ nghĩa tư bản, đồng thời khắc phục những mâu thuẫn
những hạn chế của tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất được xây dựng trên cơ sở
của lực lượng sản xuất và trình độ phát triển cao, cơ sở hạ tầng phục hợp với kiến
trúc thượng tầng.
Song Việt Nam từ một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát ra khỏi nghèo
nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ một nước phát triển bằng con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước.
2) Mục đích
Mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay như Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định là : xây dựng nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cơ cấu kinh tế lập
hiến, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng văn minh, và nước ta đã chuyển sang một thời kỳ
phát triển mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đây là những
nhận định rất quan trọng đối với những bước đi tiếp theo trong sự nghiệp đổi
mới.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá là một quá trình nhằm đưa nước ta từ một
nề công nghiệp lạc hậu thành một nền công nghiệp hiện đại. Hiện đại hoá là mục
tiêu cơ bản của văn minh hiện đại thể hiện xu hướng lịch sử tiến bộ loài người.
Đó là nhiệm vụ quan trọng có tầm cỡ lớn đòi hỏi phải đi từ cái cụ thể đến
cái tổng thể. Trước hết cần hiểu rõ thực trạng và những định hướng chung của
Việt Nam. Trình độ lực lượng sản xuất ở mức độ thấp, quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, lại không phải từ chủ nghĩa tư bản mà từ bươcs quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chủ nghĩa tư bản.
Vì vậy, cần phải nhận thức đầy đủ và sáng tạo các quy luât khách quan
trong đó quy luật sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Là quy luật cơ bản nhất nhằm cải tạo các thành phần kinh tế khai thác mọi
tiềm năng sản xuất. Phát huy tính chủ đạo sáng tạo của chủ thể các thành phần
kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Chúng ta phải phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và sử dụng các
hình thức kinh tế trung gian quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta mà Đại hội VI vạch ra là đúng đắn.
Đại hội VII của Đảng cũng chỉ rõ “. . . phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất thiết lấp từng bước quan hệ sản xuất từ xã hội chủ nghĩa từ thấp
đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng sản xuất chủ nghĩa tiến hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước”.
Ngày nay trên phạm vi toàn thế giới công nghiệp hoá hiện đại hoá đang
được coi là phương hướng chủ đạo, trải qua các nước đang phát triển. Công
nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội, đó
không chỉ đơn giản là tăng htêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp
bằng nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu, đổi mới căn bản về công
nghiệp.
Hơn nữa, sự vận dụng đúng đắn các quy luật quan hệ sản xuất phảI phù
hợp với tính chất và tình độ phát triển của lực lượng sản xuất là cần thiết. Bên
cạnh đó từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Đặc biệt là
Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thực hiện đa dạng hoá về tình hình sản xuất
quản lý phân phối theo lao động.
3) Thực trạng sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam.
Trước đây trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước chúng
ta đã xác định công nghiệp hoá “là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội” song nước ta vẫn mắc phảI sai lầm bằng cách nhận thức về
công nghiệp hoá.
Từ cuối những năm 70, đất nước đã lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội
với những khó khăn gay gắt. Trong sản xuất sản phẩm làm ra không đủ chất
lượng lạm phát càng tăng. Kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước đời sống xã
hội thấp kém, nghèo khổ.
Trước đây chúng ta do không thấy được quy luật lực lượng sản xuất phát
triển sẽ kéo theo quan hệ sản xuất phát triển nên chúng ta đã đI ngược lạI quy
luật này và muốn áp đặt một quan hệ sản xuất để kéo theo sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Sau khi tiến hành đổi mới chúng ta đã tuân theo những quy luật
chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động trên cơ chế thị
trường làm cho năng suất lao động tăng, lực lượng sản xuất phát triển do đó quan
hệ sản xuất càng phát triển theo.
Mặt khác phải tạo ra yếu tố tích cực biến các yếu tố chủ quan vì nó có tính
độc lập tương đối vì rằng ý thức có tính vượt trước nên quan hệ sản xuất có khả
năng vượt so với sản lượng sản xuất. Đây là sự phù thuộc có tính vượt trước dựa
trên cơ sở suy luận khoa học lôgíc, dựa trên các quy luật cao hơn là sự vượt trước
kiến trúc thượng tầng so với cơ sở hạ tầng.
Đáng tiếc là vì chúng ta muốn rút ngắn thời kỳ quá độ nên chúng ta đã
tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan và chính trị cho rằng chỉ cần có sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản thì chúng ta có thể làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Mặt khác là do chưa hiểu thấu đáo về
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã hành động trái quy luật, đã
không làm những việc phải làm, giáo điều mô hình kinh tế của người khác.
Trong khi những mô hình kinh tế đó chỉ là sản phẩm của tưởng tượng chủ quan
duy ý thức.
Cả một thời gian dài chúng ta đã quá đề cao vai trò của quan hệ sản xuất.
Chúng ta đã không thấy rõ bước đi có tính quy luật trên con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Vì thế phải tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế tuy đạt được tốc độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng
trưởng đó không có phát triển vì dựa vào bao cấp, bởi chi ngân sách lạm phát vay
nợ nước ngoài. Con người được giải phóng và bị lâm vào tình trạng khủng
hoảng, tăng chi phí lớn của cải xã hội.
Do tư tưởng chủ quan duy ý chí nông nổi đi đến chủ nghĩa xã hội nên đã
mở rộng kinh tế quốc doanh quá mức chịu đựng
+ Trong nông nghiệp: nông nghiệp nước ta nhiều năm lâm vào khủng
hoảng.Trước đây do nóng vội gượng ép và vi phạm nguyên tắc cơ bản của hợp
tác xã là tự nguyện mang tính chất cương hữu mọi người không làm nghề gì cũng
đều phảI vào hợp tác xã. Mà trong quá trình hình thành nên tập thể này lạI chưa
được chuẩn bị kỹ, một mặt dựa vào kinh tế quốc dân, mặt khác dựa vào bao cấp
nên dẫn đén tình trạng vốn ít, trang bị đơn giản, trình độ tổ chức kinh doanh kém.
Nông nghiệp lạc hậu làm cho sử dụng lãng phí nguồn đất đai, sức lao động,
vốn cơ sở vật chất của xã hội làm cho thị trường rộnglớn của nông thôn không
phát triển và từ đó làm hãm các ngành phát triển.Về xã hội sự lạc hậu của nông
nghiệp và nông thôn làm cho khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông
thôn ngày càng lớn. Đồng thời còn tăng thêm làn sóng di dân từ nông thôn vào
thành thị tạo nên những tệ nạn xã hội ảnh hưởng trật tự an ninh.
+ Trong công nghiệp: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng coi đó là giải pháp
cơ sở vật chất - kỹ thuật cho công nghiệp mà không coi trọng đúng mức của phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Công nghiệp hoá cũng được hiểu một
cách đơn giản là quá trình xây dựng một nền sản xuất được cơ hí hoá trong tất cả
các ngành kinh tế quốc dân. Chúng ta thực hiện chủ nghĩa xã hội ồ ạt với quy mô
lớn, quốc hữu hoá toàn bộ các xí nghiệp tư nhân.
Kế hoạch kinh tế của nước ta hầu như dậm chân tại chỗ với những viện
nghiên cứu bao cấp chỉ đạo thì làm sao không thể phát huy được năng lực sãng
tạo với đồng vốn ít không đủ để cho nghiên cứu, không cung cấp đầy đủ kinh phí
cho các việc ứng dụng nó vào thực tiễn sản xuất. Trong khi đó nhìn ra bên ngoài
khoa học kỹ thuật của các nước phát triển như vũ bão và trở thànhlực lượng sản
xuất trực tiếp thấm vào tất cả các yếu tố của con người.
4) Một số biện pháp.
Để thực hiện được mục tiêu Đảng đề ra là làm cho dân giàu nước mạnh xã
hội công bằng văn minh, đất nước chuyển mình lên chủ nghĩa xã hội thì đi đôi
với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất. Chúng ta nhất thiết phải phát triển
lực lượng sản xuất, vì không có lực lượng sản xuất hùng hậu với năng suất cao
thì không thể nói đến công nghiệp xã hội.
Mà muốn có lực lượng sản xuất hùng hậu và năng suất lao động cao thì
không chỉ dựa vào nông nghiệp, sử dụng lao động thủ công mà phải phát triển
công nghiệp đi lên đổi mới công nghệ ngày càng hiện đại . Nói cách khác là phải
tiến hành theo hiện đại hoá. Đó là bước đi tất yếu của một quốc gia muốn đi lên
từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và đó cũng là xu thế chung của lịch sử.
Một lần nữa ta khẳng định tính tất yếu của công cuộc hoá hiện đại hoá ở
Việt Nam. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đưa đất nước ta vượt qua một chặng
đường dài đi lên công nghiệp xã hội. Đó là sự tụt hậu ngày càng xa của các nước
đang phát triển so với các nước phát triển. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là để
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Nhận định được những điều nói trên và những bài học kinh nghiệm rút ra
từ thực tế ở Việt Nam, Đảng ta đã xác định lại tư tưởng nhận thức một cách đúng
đắn hơn.
A) Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế mới.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngày nay không thể hiểu như trước kia.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngày nay không phải đơn thuần là sự phát triển
mạnh mẽ ngành công nghiệp mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù
hợp với sự đổi mới cơ bản về kinh tế và công nghiệp hoá - hiện đại hoá tất cả các
ngành kinh tế quốc dân. Từ đó tạo ra sự cân đối hài hoà giữa các ngành trong
tổng thể nền kinh tế quốc doanh.
Cần phải đổi mới cả tư duy suy nghĩ và hành động. Công cuộc đổi mới mà
Đảng đã lựa chọn là đúng đắn, con đường đó là công nghiệp hoá - hiện đại hoá
với việc hình thành và chuyển dịch kinh tế.
* Phương hướng cụ thể.
Điều đầu tiên phải giải quyết là chuyển đổi cơ cấu “công - nông nghiệp và
dịch vụ” phù hợp với xu hướng “mở” của nền kinh tế. Vấn đề này được giải
quyết tạo nền tảng vững chắc cho việc phân công lại lao động hợp lý trong các
ngành kinh tế và điều chỉnh hợp lý với cơ cấu đầu tư.
Hướng chuyển dịch đó là giá trị các ngành dịch vụ tăng nhanh, tỉ lệ sản
lượng chiếm phần lớn trong GDP... Tỉ trọng giá trị sản lượng nông nghiệp giảm
dần ( nhưng lượng tuyệt đối tăng hàng năm).
+ Nông nghiệp (kể cả lâm ngư nghiệp): trong một số năm trước mắt vẫn được
coi là mặt trận hàng đầu. Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích đầu tư
vốn khoa học công nghệ nhằm phát huy thế mạnh tiềm năng của các vùng, hình
thành những vùng chuyên canh... tạo cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lí đa dạng
phù hợp với điều kiện sinh thái ở nước ta .
+ Công nghiệp: hình thành một số ngành công nghệ hiện đại có hàm lượng
khoa học - công nghệ hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở những tiền đề cần phảI đạt
được đó là: điện tử tin học, công nghiệp sinh học, vật liệu mới và cơ khí chính
xác.
Các ngành thuộc kết cấu hạ tầng phảI đI trước một bước gồm năng
lượng(ĐIện than, dầu khí) giao thông vận tải.
Từ nay đến năm 2010 phải phát triển tiếp một số ngành sản xuất tiêu dùng
và xuất khẩu đi đôi với việc hình thành một số công nghiệp tư liệu cần thiết.
+ Công nghiệp chế biến nông thổ thuỷ sản: cần được chú trọng nhằm nâng
cao giá trị của các mặt hàng lương thực thực phẩm nhằm thu hút khách hàng trên
thị trường quốc tế.
+ Dịch vụ: Đối với ta hiện nay phải hết sức coi trọng và phát huy thế mạnh
của các hoạt động dịch vụ đặc biệt là dịch vụ có thu ngoại tệ mạnh.
Cần nâng cao năng lực và trình độ hiện đaị và các ngành dịch vụ kỹ
thuật,ngân hàng, bưu chính viễn thông.
Các dịch vụ về hàng hải và hàng không có triển vọng to lớn,chúng ta cần
chú trọng phát triển cụ thể như các dịch vụ vận tải biển,dịch vụ vận tải biển quá
cảnh.
Ngoài ra vấn đề phân công lại lao động xã hội và tranh thủ vốn đầu tư Nhà
nước cũng như vấn đề giải quyết sớm để phát triển kinh tế.
B) Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Nước ta hiện nay là một Nhà nước với 80% dân cư đang sinh sống bằng
sản xuất nông nghiệp. Đây là một địa bàn tập trung đạI bộ phận người nghèo. Vì
vậy, phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn đã đang và sẽ là mối
quan tâm hàng đầu của chúng ta. Song nông nghiệp không thể tự mình thay đổi,
đổi mới cơ sở vật chất kĩ thuật công nghệ không có khả năng tăng trưởng nhanh
để tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho nông dân mà phảI có tác động mạnh mẽ
của công nghiệp, dịch vụ . Chỉ có như vậy sẽ xoá vỡ được trạng thái trì trệ của
nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ xoá đói giảm nghèo nâng cao mức thu nhập
bình quân.
Phần trên đã cho ta thấy thực tế trong mấy năm chuyển đổi sản xuất nông
nghiệp được phát triển rõ rệt. Hơn nữa theo kinh nghiệm của các nước Châu á -
Thái Bình Dương sự phát triển công nghiệp giai đoạn đầu chủ yếu được đưa vào
nền tảng của nông nghiệp. Công nghiệp hoá phảI tạo cơ sở cho công nghiệp nông
thôn phát triển.
Hàn quốc khuyến khích cơ sở công nghiệp nông thôn thu hút công nghiệp
chế tạo và dịch vụ qua phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Chính vì những
bước đó mà việc phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội ở nông thôn là một việc
làm cần thiết trong thời gian trước mắt nhằm đẩy tới một bước công nghiệp hoá -
hiện đại hoá ở nước ta.
* Chính sách đường lối phát triển
Trong khu vực nông thôn và nông nghiệp phương hướng hàng chiến lược
đó là thay thế nhập khẩu và có hiệu quả thấp bằng hàng hoá có chất lượng cao để
xuất khẩu. Nhiều người cho rằng đây là hướng sai lầm nhưng thực tế không phải
vậy.
Nông nghiệp là ngành sản xuất có đặc trưng là sản phẩm nó cần thiết cho
mọi cuộc sống hàng ngày. Phát triển sản xuất nông nghiệp cung cấp sản phẩm đủ
trong nước rồi mới xuất khẩu là một lẽ đương nhiên những công cụ sản phẩm chỉ
trong nước còn với xã hội là một lẽ đương nhiên bởi ta không thể nhập lương
thực mà lại không sản xuất được ra.
Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp cần được quá trình đầu tư khoa học -
công nghệ để đem lại chất lượng cao cho sản phẩm. Công nghiệp nhẹ cần được
phát triển trong lĩnh vực nông nghệ là công nghệ để sản xuất thuốc trừ sâu phân
bón vi sinh cây không gây độc hại.
C) Xây dựng mới kết cấu hạ tầng kinh tế.
Kết cấu hạ tầng vừa là điều kiện, vừa là mục tiêu của công nghiệp hoá -
hiện đại hoá. Để chuẩn bị cho nền kinh tế phát triển cao hơn vào những năm
bước sang thế kỷ 21 thì cơ sở hạ tầng cần phải được hiện đại hoá một phần đáng
kể. Đó là hệ thống giao thông vận tải phải được nâng cấp cao hơn nữa, hiện đại
hoá sớm hệ thống bưu chính viễn thông trong và ngoài nước, bảo đảm cung cấp
điện cho đô thị, cho công nghiệp phảI liên tục, phảI đIện khid hoá một phần quan
trọng. Vùng nông thôn cung cấp nước sạch cho đô thị từng bước hoàn chỉnh kết
cấu hạ tầng cho từng vùng lãnh thổ, trước hết là khu vực công nghiệp, các đô thị
lớn.
Từ nay đến 2010 và sau đó chúng ta có nhiều dự án xây dựng kết cấu hạ
tầng quy mô lớn như : xây dựng tuyến đường quốc lộ 1A, tuyến đường nối liền
Bắc - Trung - Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế, luận chứng kinh tế khoa học đã phê
duyệt với trên 50 công ty trong và ngoài nước tham gia đấu thầu với số vốn hơn 2
tỷ USD. Một loạt các cảng bến được xây dựng mới, nâng cấp (cảng Dung Quất
được đầu tư hơn 1 tỷ USD trong tương lai sẽ tính thành cảng biển lớn vào bậc
nhất Đông Nam á).
Nhìn lại cơ sở hạ tầng của nước ta, một số đã phát huy hiệu quả kinh tế
của nó như nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, khu gang thép Thái Nguyên đang đi
vào đổi mới công nghệ, nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch. Trong tương
lai ta sẽ xây dựng trung tâm Đại học, khoa học công nghiệp, y tế thể dục, trung
tâm quốc gia.
D) Phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi sự tham gia của mọi thành phần
kinh tế. Sau những năm mở cửa, nền kinh tế cùng với những chính sách của
Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển. Không như
trước kia ngày nay các thành phần kinh tế từ quốc doanh đến tư nhân phát huy
hết tiềm năng của mình nằm trong nền kinh tế thị trường. Chúng bổ sung cho
nhau cạnh tranh nhau tạo nên một sự phát triển có hiệu quả đẩy nước ta lên một
nấc thang cao hơn của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Kinh nghiệm của chính nước ta đã chứng tỏ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đòi hỏi phải có sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc
dân. Có như vậy chúng ta mới phát huy được tư tưởng Hồ Chí Minh “ Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết”.
Trong thời gian tới để tạo đIều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy
tính năng động của Người trong công cuộc đổi mới và xây dựng tổ quốc chúng
ta cần tăng cường quản lý chỉ đạo thống nhất quá trình mở cửa, chuẩn bị tốt các
chương trình kế hoạch, dự án hợp tác với bên ngoài. Đồng thời phải quán triệt
các quyết định chủ trương đã đề ra.
Đó là vấn đề trọng tâm nhất của chính sách đổi mới mà Đảng ta đề ra song
ta cần phải kết hợp với những chính sách khác như phát triển công nghiệp trên
các địa bàn thuận lợi có điều kiện . Hiện nay, ta đang chủ trương đầu tư thúc đẩy
mạnh các ngành công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, cơ khí, điện tử tin học,
các ngành nguyên vật liệu.
* Một số vấn đề cần lưu ý
Xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, do đó ở nước ta khi
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng phải đặt trong quy luật vận động.
Muốn tạo ra những bước chuyển biến tích cực của nền kinh tế nước ta đòi hỏi các
nội dung của công nghiệp hoá cũng như phải thường xuyên thay đổi và bổ sung.
Các nội dung trong công nghiệp hoá phải liên hệ chặt chẽ với nhau và bổ
sung cho nhau. Quan trọng nhất là luôn phải chú ý đến việc xây dựng quan hệ
sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất, xây
dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Trong quá trình tiến hành cần phải đưa con người lên vị trí trung tâm đặc
biệt là con người lao động. Đối với các nước đang phát triển, để xây dựng một
nền kinh tế mạnh bền vững, không thể chỉ dựa vào vay mượn hay bỏ tiền ra mua
công nghệ của nước ngoài mà phải dựa trên cơ sở khả năng, trí tuệ, phảI bằng tư
tưởng văn hoá của mình mới có thể biến công nghệ hiện đạI của thế giới thành
cái cuả mình.
Không thể dựa trên vài nguồn tài nguyên thiên nhiên hay vào số lượng
những mỏ than, giếng dầu, đồn điền cao su hay ruộng đồng có sẵn mà phải biết
phát huy yếu tố con người. Đây cũng là bài học rút ra từ thực tiễn của nhiều nước
trên thế giới có kinh tế phát triển như: Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông. . .
phát triển con người trở thành xu thế khách quan trong xã hội hiện đại, là cơ sở
tiền đề và thước đo cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Đây là chuyên đề rộng
lớn và toàn diện bao trùm toàn bộ sự phát triển xoay quanh con người.
Nếu ta coi phát triển con người là một mục tiêu đầu tiên, là động lực căn
bản để phát triển xã hội, lấy việc nâng cao mặt bằng dân trí và đào tạo bồi dưỡng
nguồn nhân lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển và xem đó là nhân
tố quyết định tháng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân của tất cả thành
phần kinh tế trong đó nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cán bộ và công chức nhà
nước nói chung, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế nói riêng là phương pháp
chủ yếu và quyết định.
Đại hội lần thứ VIII đã xây dựng nhiệm vụ chiến lược chế độ nhằm xây
dựng một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng thành thạo chuyên môn
nghiệp vụ có khả năng và trình độ để đáp ứng nhu cầu của tình hình nhiệm vụ
trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong quá trình tiến hành cách mạng cũng có những thuận lợi nhưng bên
cạnh đó có rất nhiều khó khăn đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn nhận và
phương pháp khoa học sáng tạo, phải có quan điểm khách quan toàn diện phát
triển.
Chúng ta phải luôn luôn đề cao vai trò thực tiễn không được coi nhẹ lý
luận, phảI luôn xây dựng lấy chủ nghĩa mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng của Đảng làm kim chỉ nam cho công nghiệp ta, cho cách
mạng nước ta , cho dân tộc, phát triển đổi mới kinh tế tư duy ở nước ta, đưa nước
ta lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Một điều quan trọng nữa là phải khắc phục một số tư tưởng hữu khuynh
không tiến hành cách mạng, tả khuynh chủ quan nóng vội, duy ý chí. Bệnh chủ
quan, duy ý chí là sai lầm khá phổ biến ở nước ta và ở nhiều nước xã hội chủ
nghĩa trước đây, gây tác hại nghiêm trọng với xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Sai lầm ở lối suy nghĩ và hình thức giản đơn nóng vội, chạy theo nguyện
vọng chủ quan thể hiện trong một số chủ trương và chính sách xã hội với hiện
thực khách quan. Để khắc phục chúng ta cần sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp,
trước hết là đổi mới tư duy nâng cao nhân lực trí tuệ trình độ lý luận của Đảng.
Trong hoạt động trực tiếp phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Phải đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới tổ chức và phương hướng hoạt động của hệ
thống chính trị, chống bảo thủ, trì trệ quan liêu.
Song để làm được tất cả những chính sách đề ra, phải có một Nhà nước
chuyên chính vô sản, một nhà nước thực sự của dân do dân và vì dân.
Kết luận
Thông qua những phần đã trình bày ở trên có lẽ không được đầy đủ và
chính xác lắm song em cũng làm sáng tỏ được tính tất yếu của học thuyết mác
về hình thái kinh tế xã hội và vận dụng của nó vào việc lựa chọn con đường đi
lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đó cũng chính là một phần đóng góp nhỏ bé của em vào việc khẳng định
lý luận giá trị của học thuyết hình thái kinh tế xã hội của Mác nhằm chống lại sự
xuyên tạc bác bỏ của các thế lực thù địch.
Là một công dân của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, em thiết
nghĩ đó là nhiệm vụ và trách nhiệm không chỉ của riêng em mà của tất cả mọi
công dân cuả nước Việt Nam và mọi công dân của các nước xã hội chủ nghĩa
trên thế giới.
Do đây là bài viết đầu tay của em, lại được nghiên cứu trong phạm vi hạn
hẹp của một bài tiểu luận với thời gian có hạn nên bài viết này còn nhiều thiếu
sót, chưa đáp ứng đủ yêu cầu đòi hỏi của đề tài trong tình hình hiện nay.
Nhưng việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa rất lớn đối với em, giúp em
hiểu được rõ tình hình trong nước cũng như tình hình thế giới hiện nay và chính
sách đường lối của Đảng ta.
Tài liệu tham khảo
1) Giáo trình triết học Mác - Lê nin dùng trong các trường Đại học và Cao đẳng
khối kinh tế, nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia năm 1997.
2) Giáo trình triết học Mác - Lê nin, nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia năm 1999.
3) Vở ghi bài giảng triết học Mác - Lê nin.
4) Hệ Tư tưởng Đức của C. Mác và F. Ăng - ghen.
5) Đề cương giới thiệu văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.
6)Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.
7) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII.
8) Trích Tác phẩm kinh điển.
9) Tạp chí triết học số 6 tháng 6 năm 1998.
10) Tạp chí triết học số 6 tháng 12 năm 1992.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Học thuyết hình thái kinh tế xã hội với việc nhận thức tính tất yếu của con đường lựa chọn xã hội chủ nghĩa vào Việt Nam.pdf