Luận văn Hoạt động đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Tài liệu Luận văn Hoạt động đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp: 1 Luận văn Hoạt động đầu tư trực tiếp của các TNCs tại Việt Nam- Thực trạng và giải pháp 2 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT FDI :Đầu tư trực tiếp nước ngoài ĐTNN : Đầu tư nước ngoài TNCs : Công ty xuyên quốc gia KCN : Khu công nghiệp KCX : Khu chế xuất VĐT : Vốn đầu tư VPĐ : Vốn pháp định ĐTTH : Đầu tư thực hiện TVĐT : Tổng vốn đầu tư FVPĐ : Vốn pháp định do bên nước ngoài góp FĐTTH : Vốn đầu tư thực hiện do bên nước ngoài góp SDA : Số dự án 3 LỜI MỞ ĐẦU Trong lịch sử, đặc biệt là trong thập kỷ 60,70 rất nhiều quốc gia do chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá và thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc gia nên đã sử dụng chính sách tẩy chay, áp chế đối với các công ty xuyên quốc gia hoạt động trên lãnh thổ nước mình. Từ thập kỷ 80 trở lại đây, nền kinh tế thế giới đã có nhiều biến đổi sâu sắc. Cơ cấu nền kinh tế thế giới đã thay đổi, làn sóng cải cách điều ...

pdf115 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1212 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hoạt động đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn Hoạt động đầu tư trực tiếp của các TNCs tại Việt Nam- Thực trạng và giải pháp 2 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT FDI :Đầu tư trực tiếp nước ngoài ĐTNN : Đầu tư nước ngoài TNCs : Công ty xuyên quốc gia KCN : Khu công nghiệp KCX : Khu chế xuất VĐT : Vốn đầu tư VPĐ : Vốn pháp định ĐTTH : Đầu tư thực hiện TVĐT : Tổng vốn đầu tư FVPĐ : Vốn pháp định do bên nước ngoài góp FĐTTH : Vốn đầu tư thực hiện do bên nước ngoài góp SDA : Số dự án 3 LỜI MỞ ĐẦU Trong lịch sử, đặc biệt là trong thập kỷ 60,70 rất nhiều quốc gia do chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá và thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc gia nên đã sử dụng chính sách tẩy chay, áp chế đối với các công ty xuyên quốc gia hoạt động trên lãnh thổ nước mình. Từ thập kỷ 80 trở lại đây, nền kinh tế thế giới đã có nhiều biến đổi sâu sắc. Cơ cấu nền kinh tế thế giới đã thay đổi, làn sóng cải cách điều chỉnh thể chế lan tràn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ...Kết quả là tất cả các quốc gia đều thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy mà nửa sau thập kỷ 80 tốc độ của luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào mỗi quốc gia không ngừng tăng lên. Tốc độ này thậm chí đã vượt quá tốc độ tăng trưởng của sản xuất và thương mại quốc tế. Tiến trình toàn cầu hoá sản xuất kinh doanh được thúc đẩy nhanh chóng. Nhờ có đầu tư trực tiếp của các TNCs nhiều nước trên thế giới đã có thêm nguồn lực để phát triển. Thực tế đó đã buộc nhiều nhà kinh tế chính trị đứng đầu các quốc gia nhận thức lại vai trò của các công ty này trong quá trình tiến lên phía trước của nền kinh tế đất nước. Xu hướng hoà nhập nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới, tích cực thu hút đầu tư nước ngoài và sử dụng các TNCs trong quá trính phát triển kinh tế xã hội trở thành xu hướng khách quan không thể đảo ngược. Chính vì vậy, trên thế giới đang diễn ra một cuộc cạnh tranh tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư của các TNCs vào nước mình. Một số chính sách ưu đãi như quyền thiết lập công ty, đãi ngộ công bằng đối với nhà đầu tư nước ngoài, giải quyết tranh chấp, bồi thường khi quốc hữu hoá...hiện nay đã được áp dụng phổ biến. Sự thu hẹp những chênh lệch về thể chế trong thu hút các TNCs của các nước khiến cho tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Trước bối cảnh đó, Việt Nam cũng đã dần dần thay đổi quan điểm của mình về các công ty xuyên quốc gia. Việt Nam nhìn nhận khách quan hơn về về 4 vai trò tích cực và cần thiết của các TNCs trong quá trình phát triển đất nước. Việc nghiên cứu về các TNCs cũng vì thế mà được quan tâm hơn nhưng còn nhiều hạn chế. ở Việt Nam có một số công trình nghiên cứu về các TNCs như sau: - Nguyễn Khắc Thân: ảnh hưởng của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế các nước ASEAN (Luận án tiến sỹ kinh tế) - Nguyễn Khắc Thân: Các công ty xuyên quốc gia hiện đại, Nhà xuất bản chính trị quốc gia (1995). - Lê Văn Sang- Trần Quang Lâm: Các TNCs trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nhà xuất bản khoa học xã hội (1996) - Học viện quan hệ quốc tế: Đầu tư của các TNCs, Nhà xuất bản chính trị quốc gia (1996). Mỗi công trình trên đều đề cập đến một khía cạnh nhất định nào đó liên quan đến các TNCs. Nhưng nhìn chung các công trình đều chỉ nghiên cứu về các TNCs nói chung trên thế giới hoặc có đề cập đến hoạt động của các công ty này ở Việt Nam nhưng còn mang tính chất nêu sự kiện mà chưa có những đánh giá thật sát các vấn đề, tìm ra nguyên nhân và đưa các giải pháp nhằm thu hút được nhiều hơn nữa các TNCs vào Việt Nam. Với tất cả những lý do trên, sau khi kết thúc kỳ thực tập tốt nghiệp tại Viện kinh tế thế giới, em chọn đề tài “Hoạt động đầu tư trực tiếp của các TNCs tại Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” nhằm nghiên cứu sâu hơn hoạt động đầu tư tại Việt Nam của các TNCs bên cạnh đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI tại Việt Nam thời gian tới. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động đầu tư trực tiếp của các TNCs tại Việt Nam từ năm 1988 đến nay. Vì các TNCs hoạt động ở những ngành nghề mang tính cạnh tranh cao, nên số liệu của chúng được công bố không cập nhật (để đảm bảo tính cạnh tranh, mong bạn đọc thông cảm và góp ý thêm. 5 Kết cấu của bài viết, ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, thì nội dung chính gồm có ba chương: Chương 1: Lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và công ty xuyên quốc gia Chương II: Tình hình đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam thời gian qua Chương III: Quan điểm và một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA I. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1 Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sử dụng vốn là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài (các chủ đầu tư) trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình đầu tư quốc tế được thực hiện thông qua việc thành lập các công ty con để mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân ra toàn cầu. Việc mở rộng sản xuất thông qua các hình thức FDI không chỉ đơn thuần là sự chu chuyển tài chính quốc tế mà cùng với nó là sự chuyển giao công nghệ, bí quyết quản lý và các tài sản vô hình khác. 1.2 Đặc điểm của FDI - Đây là hình thức đầu tư bằng vốn do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, tự quyết định sản xuất kinh doanh dịch vụ và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức đầu tư này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. 6 - Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ thuộc tỷ lệ góp vốn. - Thông qua FDI nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý,...là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. - Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được. 2. Tác động của FDI đối với nước nhận đầu tư 2.1 Những tác động tích cực *- Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ xung một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế. Điều này dẫn đến việc tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ta hãy xem xét chỉ số ICOR- là lượng vốn đầu tư cần thiết để làm gia tăng một đơn vị GDP. ICOR=Vốn đầu tư/ Mức tăng GDP, nên Mức tăng GDP= Vốn đầu tư/ ICOR. Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Điều này có nghĩa là nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần không nhỏ trong việc bổ xung vào tổng vốn đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. *- Cùng với việc cung cấp vốn thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, các công ty chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc các nước khác sang các nước nhận đầu tư. Chính nhờ sự chuyển giao này mà nước chủ nhà nhận được kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, năng lực Marketing, đội ngũ lao động được đào tạo rèn luyện về nhiều mặt. 7 *- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển, tính năng động và khả năng cạnh tranh của sản xuất trong nước ngày càng được tăng cường, các tiềm năng cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước có điều kiện để khai thác và được khai thác. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ được thay đổi theo chiều hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phù hợp với xu thế chung của thời đại, của các nước trong khu vực; nước chủ nhà có thêm điều kiện để mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, có chỗ đứng trong thị trường quốc tế. *- Với việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà không phải lo trả nợ. Thông qua hợp tác với chủ đầu tư nước ngoài, nước chủ nhà có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới nơi chu đầu tư có chỗ đứng. *- Trường hợp sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, nước nhận đầu tư có được hàng hoá cần thiết với giá cả thấp hơn giá nhập từ nước ngoài nhờ tiết kiệm được chi phí vận chuyển và những lợi thế về lao động, về nguồn nguyên liệu trong nước. Ngày nay đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một tất yếu khách quan trong điều kiện quốc tế hoá nền sản xuất lưu thông. Có thể nói, hiện nay không một quốc gia nào nào dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay định hướng xã hội chủ nghĩa lại không cần đến nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và coi đó là một nguồn lực cần khai thác để hoà nhập vào cộng đồng quốc tế. 2.2 Những tác động tiêu cực - Nếu nước nhận đầu tư không có một chiến lược đúng đắn và quản lý chặt chẽ sẽ dẫn đến nguồn FDI tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên dễ bị khai thác quá mức và gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Thông thường nguồn FDI vào các nước đang và kém phát triển chủ yếu là để khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động rẻ. Chính vì các 8 nước đang và kém phát triển chưa có một nền khoa học công nghệ đủ tiên tiến để khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách có hiệu quả, là lý do để các nước phát triển thực hiện FDI để khai thác tài nguyên. Mục đích thực hiện FDI là tối đa hoá lợi nhuận cho chủ đầu tư, nên các nhà đầu tư có thể không ngần ngại khai thác tối đa những gì có lợi cho mình, dẫn đến việc cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường...Điều này đã và đang xảy ra ở nhiều nước, vì thế ngay từ khi có kế hoạch thu hút một dự án FDI nào đó, mỗi nước nhận đầu tư phải có một kế hoạch cụ thể về việc khai thác tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. - Tăng tính bất ổn định của thị trường tài chính quốc gia, tăng nguy cơ lạm phát và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế. - Giảm khả năng kiểm soát nền kinh tế. Khi chủ đầu tư nước ngoài thực hiện đầu tư theo hình thức FDI tức là họ muốn tự quản lý và điều hành hoạt động đầu tư theo ý của mình. Ngay cả những công cụ vĩ mô của Nhà nước cũng chỉ quản lý được họ ở một mức độ nhất định (như thẩm định ngành nghề để cấp phép đầu tư, quản lý hoạt động của dự án thông qua công cụ thuế quan...), còn nhiều vấn đề trong hoạt động của dự án thì không thể kiểm soát được, chính vì thế nó làm giảm khả năng kiểm soát nền kinh tế là điều tất yếu khi nước nhận đầu tư không có đủ trình độ quản lý một cách hiệu quả. - Tăng sự phụ thuộc vào tình hình kinh tế chính trị bên ngoài. Vì đây là nguồn vốn của nước ngoài, nên mỗi sự biến động của nước đi đầu tư cũng làm ảnh hưởng đến nước nhận đầu tư cũng là điều dễ hiểu. - Nếu nước nhận đầu tư không có trình độ đánh giá công nghệ thì dễ có nguy cơ bị chuyển giao những công nghệ lạc hậu, trở thành bãi thải của những nước phát triển 3. Các hình thức FDI 3.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh: 9 Là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt động đầu tư kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập một pháp nhân mới - Hình thức đầu tư này không thành lập một pháp nhân mới ở nước nhận đầu tư, và vậy các bên tham gia vẫn giữ nguyên tư cách pháp lý của mình và chụi trách nhiệm tài chính độc lập - Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và được cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y. - Hợp đồng hợp tác kinh doanh rất đa dạng, không đòi hỏi vốn lớn, những nhà đầu tư nước ngoài có ít tiềm lực thường thích loại này. 10 3.2 Doanh nghiệp liên doanh: Do các bên nước ngoài và nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh , cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh theo tỷ lệ vốn góp. Đây là loại hình được nước chủ nhà ưa chuộng vì có điều kiện để học hỏi kinh nghiệm quản lý, đào tạo lao động, gián tiếp nhanh chóng có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Loại hình đầu tư này được nước chủ nhà áp dụng đối với công cuộc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng xã hội vì sự phát huy tác dụng của các kết quả đâu tư này đòi hỏi phải được kiểm soát chặt chễ. Tuy nhiên áp dụng hình thức đầu tư này đòi hởi phải có khả năng góp vốn, có đủ trình độ tham gia quản lý doanh nghiệp với người nước ngoài thì nước chủ nhà mới đạt được hiệu quả mong muốn. 3.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quả lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật nước chủ nhà. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lúc đầu không được người nước ngoài ưa thích vì họ muốn chia sẻ rủi ro với nước chủ nhà. Tuy nhiên sau một thời gian hoạt động , hình thức này ngày càng được các nhà đầu tư yêu thích vì được tự mình quản lý và hưởng lợi nhuận do kết quả đầu tư tạo ra. Một vài dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là: Hợp đồng xây dựng kinh doanh chuyển gia (BOT), hợp đồng xây dựng chuyển giao 11 kinh doanh(BTO), Hợp đồng xây dựng chuyển giao (BT). Đây là các dạng đầu tư áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật. 4. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến FDI vào các nước đang phát triển Hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư phát triển của các quốc gia rất lớn và ngày một tăng nhưng khả năng thanh toán cung cấp vốn đầu tư rất hạn chế, do đó quan hệ cung cầu về vốn trên thế giới trở nên căng thẳng. Khả năng thu hút vốn đầu tư của các quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, ta xem xét các vấn đề sau đây 4.1. Những xu hướng vận động của vốn FDI trên thế giới hiện nay  Dòng vốn FDI trên thế giới ngày một gia tăng và chịu sự chi phối chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển  Đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty ở nước ngoài (M&A) đã bùng nổ trong những năm qua, trở thành chiến lược hợp tác phát triển chính của các TNCs.  Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới: trong những năm gần đây đã xuất hiện những xu hướng mới là đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, lĩnh vực dịch vụ, lĩnh vực khai khoáng và dầu khí… vì mục tiêu chủ yếu của các chủ đầu tư là lợi nhuận. Do đó khi đầu tư vào những lĩnh vực này, lợi nhuận cao giúp chủ đầu tư thu hồi vốn một cách nhanh chóng.  Các nước Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật chi phối dòng vận động chính của vốn FDI (vào, ra) trên thế giới.  Các tập đoàn TNCs đóng vai trò rất quan trọng trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đang đẩy mạnh quá trình đầu tư ra nước ngoài  Dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là các nước đang phát triển ở Châu Á 4.2. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến FDI vào các nước đang phát triển Hoạt động FDI chỉ được tiến hành khi xuất hiện những điều kiện khách quan của nó. Các điều kiện đó chung quy lại là giữa các nước tồn tại sự khác 12 nhau về khả năng tích luỹ, huy động vốn, trình độ công nghệ và khả năng quản lý, giá nhân công, giá cả các hàng hoá dịch vụ, số lượng và chất lượng các nguồn lực của sản xuất, thể chế chính sách... Mục đích cơ bản của các nhà đầu tư khi thực hiện FDI là tối đa hoá lợi ích, vì thế việc thực hiện FDI vào các nước đang phát triển chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau:  Môi trường đầu tư của nước nhận đầu tư: Có thể nói rằng môi trường nước nhận đầu tư ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút FDI vào nước đó. Cụ thể như là : Nếu nước nhận đầu tư có một môi trường hấp dẫn (ổn định chính trị, các chính sách pháp luật thông thoáng, nhiều điều kiện ưu đãi đầu tư…) thì chắc chắn sẽ thu hút được nhiều FDI hơn. Môi trường đầu tư của nước nhận đầu tư bao gồm - Sự ổn định về chính trị; - Môi trường chính sách, pháp luật của nước nhận đầu tư như các chính sách về sở hữu vốn, về lĩnh vực ngành nghề hoạt động. Theo các nhà phân tích thì một quốc gia với một chính sách không có giới hạn trên và giới hạn dưới của tỷ lệ vốn sở hữu thì được đánh giá là thu hút đầu tư nước ngoài thuận lợi nhất. - Các chính sách về thuế và định mức thuế - Các quy định về lệ phí và giá cả - Các chính sách về quản lý ngoại hối: nếu nước nhận đầu tư có các chính sách thông thoáng về việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài thì thu hút được lượng FDI nhiều hơn - Các chính sách liên quan đến quản lý đầu tư nước ngoài: Thể hiện ở mức độ can thiệp của nước chủ nhà đến sự hoạt động của FDI, phải đảm bảo không có sự chồng chéo, gây phiền hà cho chủ đầu tư - Các chính sách và quy định khác: như chính sách liên quan đến vấn đề bảo về môi trường, đến chuyển giao công nghệ, đến sử dụng lao động, thủ tục hải quan, xuất nhập cảnh... 13 Ở các nước đang phát triển, với những chính sách hợp lý về các vấn đề sở hữu vốn, về thuế, về xuất nhập cảnh... nên việc thu hút FDI ngày càng thuận lợi hơn. Mặt khác, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sử dụng thuế quan, hạn ngạch và các hình thức phi thuế quan khác để kiểm soát việc nhập khẩu các hàng hoá và dịch vụ, thậm chí đối với một số loại hàng hóa nào đó còn bị cấm nhập khẩu. Thông thường, chính phủ của các quốc gia kiểm soát thương mại quốc tế nhằm mục đích tăng thu ngân sách, bảo hộ các ngành trong nước và thực hiện các mục tiêu chính sách kinh tế của mình. Trong điều kiện đó, các công ty thay vì xuất khẩu hàng hoá, họ tính tới việc thiết lập một dây chuyền sản xuất ở nước ngoài nhằm lẩn tránh các hàng rào thương mại Ngoài thuế quan và hạn ngạch, chi phí vận tải cũng là một bộ phận cấu thành của hàng rào thương mại. Các loại sản phẩm như khoáng sản, xi măng, vật liệu xây dựng... có hàm lượng giá trị tương đối thấp, lại cồng kềnh nên chi phí vận chuyển chúng đã thực sự làm giảm lợi nhuận của nhà sản xuất và là trở ngại thực sự cho việc xuất khẩu. Trong các trường hợp như vậy, các nhà sản xuất thay vì xuất khẩu hàng hoá, họ xuất khẩu tư bản hay còn gọi là thực hiện FDI để giảm phí vận chuyển nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mình.  Nguồn lao động Điều các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm là số lượng và chất lượng và giá cả nguồn lao động. Ở một nước mà lao động rẻ, chất lượng tốt thì sẽ nâng cao khả năng thu hút được đầu tư nước ngoài vào nước mình, còn ngược lại thì sẽ làm cho các nhà đầu tư nước ngoài phân vân. Bởi vì khi quyết định đầu tư vào một nước nào đó, ngoài một số yếu tố như khai thác được nguyên vật liệu rẻ, thì vấn đề giá cả và chất lượng nguồn lao động là điều mà nhà đầu tư nước ngoài vô cùng quan tâm. 14 Để tạo thêm lợi nhuận, nhà sản xuất cần mở rộng qui mô sản xuất của mình. Qua đó, làm nẩy sinh một lượng cầu lớn hơn về hai loại yếu tố đầu vào cơ bản của sản xuất là nguyên liệu và lao động. Nhóm yếu tố thứ nhất - Là các loại hàng hoá thông thường. Chúng được tự do vận chuyển, mua bán trên một thị trường cạnh tranh tương đối hoàn hảo với quy mô toàn cầu. Do đó, nhu cầu của một công ty, thậm chí đôi khi của cả một ngành sản xuất tăng lên ít có ảnh hưởng tới giá cả của chúng. Đối với yếu tố thứ hai – lao động, vấn đề hoàn toàn khác. Lực lượng lao động ở những nước có mức lương thấp không được phép tự do di cư sang những nước có mức lương cao hơn. Điều này làm cho thị trường sức lao động, xét trên phạm vi toàn cầu là loại thị trường không có cạnh tranh. Kết quả tạo ra sự chênh lệch lớn về mức lương giữa các nước có trình độ phát triển khác nhau. Vì công nhân không thể tự do di chuyển do các qui định về nhập cư nên công ty buộc phải tìm đến người lao động địa phương. Mặt khác, trong nhiều trường hợp việc làm này sẽ giúp đem laị lợi nhuận cho nhà đầu tư qua việc sử dụng nguồn nhân lực với mức lương rẻ. Đây là một trong những lý do chính để giải thích việc FDI và các nước đang phát triển như Mehico, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia…nơi có mức lương thấp nếu so sánh với năng suất lao động.  Bảo vệ tài sản vô hình Là một việc làm sống còn của mọi công ty. Tài sản vô hình thực sự tạo nên lợi thế tuyệt đối cho công ty. Nó không chỉ là một bí quyết nào đó trong sản xuất mà còn gồm cả khả năng nghiên cứu và phát triển, công nghệ quảng cáo, chiếm lĩnh thị trường và nhãn hiệu sản phẩm. Nhà sản xuất chỉ chịu chuyển giao hoặc bán tài sản vô hình với một số điều kiện nhất định nào đó. Ngoài ra, cũng cần phải lưu ý rằng, tài sản đó khó có thể được bảo toàn ở nước ngoài, đặc biệt ở những nước có hệ thống pháp luật không hoàn hảo hoặc không có ý muốn tôn trọng các hiệp định quốc tế về quyền sở hữu, bản quyền, phát minh sáng chế… 15 Do đó, để thực sự là chủ sở hữu tài sản vô hình, các nhà đầu tư quyết định đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.  Liên kết theo chiều dọc Nhìn chung các nhà sản xuất (bao gồm cả các TNCs) đều phải giải quyết vấn đề cơ bản của quá trình sản xuất đó là: đảm bảo ổn định các yếu tố đầu vào và có thị trường tiêu thụ sản phẩm thuận lợi. Để đảm bảo ổn định các yếu tố đầu vào trong những ngành có liên kết với nhau theo chiều dọc, các nhà sản xuất thường có khuynh hướng đầu tư vào các ngành sản xuất hoặc khai thác kế tiếp phía trước (forward vertical FDI). Hình thức này có thể tạm gọi là tiền liên kết theo chiều dọc. Ngoài mục đích trên, FDi theo hình thức này còn có khả năng tạo nên một liên kết độc quyền để đảm bảo lợi nhuận tối đa. Một hình thức khác của đầu tư liên kết theo chiều dọc là đầu tư vào các ngành sản xuất kế tiếp phía sau (backward vertical FDI), hoặc các ngành dịch vụ phục vụ việc tiêu thụ sản phẩm. Hình thức này có thể tạm gọi là hậu liên kết theo chiều dọc. Như vậy có nghĩa là để quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm diễn ra một cách thuận lợi, một trong những hình thức FDI của nhà đầu tư là liên kết theo chiều dọc. Liên kết theo chiều dọc tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, đồng thời còn làm cho quá trình sản xuất diễn ra liên hoàn.  Kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm công nghệ Khi nhu cầu nội địa của sản phẩm nào đó đã trở nên bão hoà hoặc việc xuất khẩu sản phẩm đó khó có thể thu được lợi nhuận như mong muốn, thì nhà sản xuất nghĩ đến việc đưa sản phẩm công nghệ đó ra nước ngoài, đặc biệt ở những nước kém phát triển hơn để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm công nghệ. 16 Nhà sản xuất có thể đưa sản phẩm công nghệ thông qua nhiều hình thức như bán lại hoặc thực hiện đầu tư trực tiếp ở nước ngoài, đồng thời với việc này sẽ làm cho nhà sản xuất có khả năng và có tiềm lực để đổi mới sản phẩm của mình tại đất nước mình. Ngày nay, hầu hết các nước công nghiệp phát triển đều muốn “thanh lý” các công nghệ cũ cho các nước phát triển nhằm mục đích bảo vệ môi trường sống của nước họ, vì những công nghệ cũ này khả năng gây ô nhiễm là rất cao. Trên đây là những vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sau đây ta xem xét đến các công ty xuyên quốc gia. II/ Khái luận chung về Công ty xuyên quốc gia ( TNCs) 1. Khái niệm và đặc điểm của TNCs 1.1. Khái niệm Cho đến nay, trên thế giới người ta vẫn chưa có một định nghĩa đồng nhất về công ty xuyên quốc gia. Có rất nhiều cách gọi được sử dụng tương tự như nhau như: công ty quốc tế, công ty toàn cầu, công ty đa quốc gia, công ty siêu quốc gia…Chúng được dựa trên những tiêu thức và cách tiếp cận khác nhau. Công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporation – viết tắt là TNCs) là các công ty có hoạt động xuyên quốc gia và hình thức hoạt động được ưa chuộng nhất là việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty này. Ba thập kỷ gần đây, các công ty xuyên quốc gia phát triển rất mạnh mẽ với hàng chục nghìn công ty mẹ và hàng trăm chi nhánh, trở thành lực lượng chi phối đời sống kinh tế toàn thế giới. Có thể khái quát sự hình thành của TNCs như sau: Công ty A Sản xuất trong nước Xuất khẩu trực tiếp (Để thăm dò thị trường) 17 Bản chất của vấn đề là sự tập trung tư bản rất cao trong tay một số công ty có tư cách pháp nhân hoạt động ở rất nhiều quốc gia nhằm chi phối nền kinh tế toàn cầu bằng cách luôn luôn sản xuất ra những khối lượng hàng hóa và dịch vụ ngày càng lớn với số lượng công nhân ngày càng ít, qua đó thu được lợi nhuận độc quyền ngày càng cao hơn. Điều đó phản ánh tính chất gay gắt của cuộc cạnh tranh là nguyên nhân làm cho các công ty này không ngừng đổi mới và cải tiến hoạt động. Cuộc cạnh tranh giữa các công ty xuyên quốc gia cũng tương tự như cuộc cạnh tranh giữa các nước tư bản làm bộc lộ rõ quy luật phát triển không đều nhau trong thế giới tư bản chủ nghĩa. Hầu hết các công ty xuyên quốc gia có trụ sở chính ở các nước tư bản phát triển nhất như Mỹ, Pháp, Nhật, Đức, Anh.... Gần đây cuộc cạnh tranh ở một số nước mới công nghiệp hóa đã dẫn đến việc tích tụ và tập trung tư bản cao vào một số công ty, làm cho các công ty đó cũng có nhu cầu và khả năng tham gia vào xu hướng xây dựng mạng lưới xuyên quốc gia của mình. Có thể kể đến là các công ty xuyên quốc gia của Hàn Quốc, Hồng Kông... 1.2. Đặc điểm của công ty xuyên quốc gia -Các công ty xuyên quốc gia có phạm vi hoạt động trên toàn thế giới. Các đặc điểm ưu việt của chúng về tổ chức sản xuất, phương thức tiêu thụ và cấp vốn, nghiên cứu và phát triển đã trở thành hình thức chủ yếu trong nền kinh tế hiện đại. Mở văn phòng đại diện Mở chi nhánh bán hàng Chi nhánh sản xuất ( Công ty A’) 18 - Các công ty xuyên quốc gia có năng lực tổ chức lớn mạnh, chúng đủ sức kiểm soát hoạt động của hàng chục, thậm chí hàng trăm chi nhánh phân tán ở nhiều nước, xử lý được các công việc phức tạp có liên quan đến pháp luật và tài chính. Các công ty xuyên quốc gia có điều kiện thuận lợi cho việc khai thông sự di chuyển quốc tế về hàng hoá, tư bản, tri thức kỹ thuật và lao động có chuyên môn cao. Thông qua các tổ chức, chi nhánh chúng có thể thực hiện từ xa việc kết hợp các yếu tố sản xuất trên quy mô toàn cầu. Sự bố trí sản xuất toàn cầu vượt qua các biên giới quốc gia, sự kết hợp giữa việc sử dụng tư liệu sản xuất, lực lượng kỹ thuật tập trung về không gian với phân đoạn về thời gian là con đường quan trọng giúp tư bản hiện đại tiết kiệm, hạ giá thành, tăng cạnh tranh và tăng lợi nhuận. - Công ty xuyên quốc gia có năng lực mạnh về nghiên cứu khoa học và phát triển sản phẩm. Công tác nghiên cứu và phát triển khoa học của TNCs có kế hoạch đồng bộ và có tổ chức chặt chẽ. Thông thường mỗi TNCs đề có đội ngũ cán bộ khoa học lớn mạnh, tập trung khám phá những đề tài then chốt. Công ty mẹ chỉ đạo và chi viện vốn, chi viện lao động cho các đề tài nghiên cứu phát triển của các công ty con để tránh trùng lặp, rời rạc và kém hiệu qủa. - Công ty xuyên quốc gia có lợi thế trong cạnh tranh nhằm tiêu thụ các hàng hoá và dịch vụ của mình. Công ty xuyên quốc gia có khả năng thích ứng đối với những thay đổi của nhu cầu. Thông qua các tổ chức chi nhánh đặt tại các nơi trên thế giới, nó có khả năng nắm bắt những thay đổi của nhu cầu và đáp ứng kịp thời những thay đổi đó. - Công ty xuyên quốc gia có những thuận lợi trong việc tự do điều phối vốn trên toàn thế giới. Thông qua mạng lưới thông tin dày đặc giữa các công ty con, TNCs thường xuyên nắm được tình hình thay đổi về luật pháp chính sách của các nước, từ đó phân tích và áp dụng các đối sách phù hợp. Một số tập đoàn còn hình thành các công ty tài chính và ngân hàng chuyên ngành để huy động vốn kinh doanh. 19 2. Mục tiêu và những tác động của TNCs tới nền kinh tế thế giới 2.1. Về mục tiêu và những biện pháp thực hiện Với mục tiêu cơ bản và không thay đổi là tối đa hoá lợi nhuận - đó là lợi ích kinh tế xuyên suốt và chi phối tất cả mọi hoạt động của các TNCs. Để đạt được các mục tiêu này TNCs sử dụng rất nhiều biện pháp, trong đó có một số biện pháp phổ biến như sau:  Giảm thiểu chi phí: để giảm thiểu chi phí về tổ chức quản lý, sản xuất cũng như trong lưu thông, các TNCs có xu hướng phi tập trung hoá, vừa nhằm tiết kiệm chi phí vừa tận dụng được các lợi thế so sánh về lao động và các nguồn tài nguyên khác.  Tăng cường quyền lực chi phối, khống chế: Khoảng cuối thế kỷ XX, trong cơ cấu vốn của các TNCs số lượng vốn của các cổ phần không có quyền biểu quyết ngày càng cao, điều đó đồng nghĩa với quyền sử dụng và chi phối vốn tự do hơn, song quyền lực chi phối vốn lại tăng lên, đặc biệt là đối với các công ty con. Tất cả cho phép các TNCs có thể mở rộng kinh doanh đa ngành, chấp nhận kế hoạch hoạt động kinh doanh đa ngành và có độ rủi ro lớn hơn.  Đầu tư để sản xuất các linh kiện, phụ kiện, lắp ráp và tiêu thụ sản phẩm tại các quốc gia chủ nhà Để khắc phục những rủi ro do cạnh tranh gay gắt cũng như hàng rào bảo hộ của các nước, một giải pháp cho các TNCs là thực hiện lắp ráp , gia công tại các chi nhánh. Các công ty có thể nhập linh kiện và sử dụng lao động tại nước nhận đầu tư để sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, TNCs có thể nội địa hoá ở mức nào đó nhưng không bao giờ để mất công nghệ chủ chốt có mức sinh lợi cao.  Tái xuất các sản phẩm ra khỏi các nước hoặc nhập khẩu trở lại chính quốc Do nhiều lý do như bảo hộ mậu dịch, giảm chi phí, tăng cường các mối quan hệ truyền thống...mà nhiều TNCs đã tái xuất khẩu sản phẩm từ chi nhánh ra khỏi nước chủ nhà. Thậm chí, nếu chi phí sản xuất có sự chênh lệch lớn thì các TNCs lại nhập khẩu bán thành phẩm hoặc thành phẩm từ các công ty con về công ty 20 mẹ. Sự trao đổi có tính nội bộ thường được hưởng mức thuế nhập, về cơ bản đây là một hình thức làm tăng lợi nhuận cho các công ty. 2.2 Tác động của các TNCs tới nền kinh tế thế giới Cuối những năm 90, có hơn 53.700 TNCs với 449.000 chi nhánh trên toàn thế giới, tổng sản lượng xuất ra bằng 50% sản lượng của toàn bộ thế giới tư bản, kiểm soát hơn 50% mậu dịch thế giới, chiếm hơn90% FDI và khoảng 80% bản quyền kỹ thuật công nghệ của thế giới tư bản chủ nghĩa, lực lượng TNCs có một sức mạnh vô cùng to lớn, chúng tác động và gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị của các nước. Sau đây chúng ta có thể kể ra những tác động của TNCs đối với nền kinh tế thế giới.  TNCs thúc đẩy quá trình quốc tế hóa sản xuất và quốc tế hoá tư bản Với khả năng huy động vốn và tài chính lớn mạnh cùng hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp trên thế giới, các TNCs đã thúc đẩy quá trình quốc tế hoá sản xuất và tư bản thông qua việc di chuyển vốn và phân công lao động trong nội bộ công ty, điều này ảnh hưởng đến quá trình quốc tế hoá sản xuất và quốc tế hoá tư bản.  Thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài Với lợi thế về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý và mạng lưới thị trường rộng khắp, hoạt động đầu tư của các TNCs tác động mạnh tới dòng chảy FDI, làm thay đổi xu hướng đầu tư giữa các nước và tác động trực tiếp tới lượng vốn đầu tư vào các nước  Thúc đẩy quá trình phát triển khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ Với hơn 80% số bằng phát minh sáng chế TNCs chiếm một vị thế quan trọng trong quá trình thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển. Cùng với năng lực tài chính và khoa học mạnh, TNCs có thể luôn giữ được vị thế của mình và tăng cường bành trướng bằng vốn và công nghệ để giảm thiểu chi phí do hao mòn vô hình, từ đó các TNCs thúc đây sự phát triển khoa học công nghệ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ trên thế giới. 21 Tuy nhiên, trong vấn đề chuyển giao công nghệ, các TNCs chỉ chuyển giao một phần công nghệ hoặc chuyển giao những công nghệ đã lạc hậu cho các nước kém phát triển. Chính điều này tạo ra sự chênh lệch giữa các quốc gia về trình độ khoa học công nghệ, các nước kém phát triển hơn mong muốn có được công nghệ để giảm chi phí nghiên cứu nhưng cuối cùng lại là bãi thải công nghệ cho các nước phát triển. Vấn đề này chúng ta sẽ bàn đến sâu hơn ở những phần sau.  Tăng cường sự phân công lao động quốc tế Các TNCs đưa ra những chiến lược dài hạn, cùng với sự phân công sản xuất cụ thể cho từng chi nhánh, mỗi chi nhánh đảm nhiệm chuyên sâu về một công đoạn, sự phân công này tạo điều kiện thúc đẩy sự phân công lao động quốc tế trên phạm vi toàn thế giới.  Làm tăng cường lưu thông hàng hoá và dịch vụ quốc tế Với số lượng hàng trăm ngàn chi nhánh cắm sâu vào nền kinh tế thế giới TNCs đã tạo ra một hệ thống mạng lưới bao trùm trong lĩnh vực lưu thông. Không một khâu nào của quá trình lưu thông hàng hoá lại không có sự tham gia của TNCs. Thông qua việc trao đổi nội bộ giữa công ty mẹ và các chi nhánh TNCs đã tạo ra một kênh lưu thông chiếm tới hơn 1/3 thương mại thế giới. Với khối lượng giao dịch nội bộ lớn như vậy, nên khi có khủng hoảng, sự điều tiết của các TNCs đối với các chi nhánh sẽ góp phần vào sự ổn định, giảm bớt thiệt hại do khủng hoảng. Nhưng bên cạnh đó, có thể vì mục tiêu lợi nhuận mà TNCs làm méo mó quá trình vận động thương mại quốc tế.  Tác động tới vấn đề điều tiết nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế mỗi quốc gia Hầu hết các chi nhánh đều phải hoạt động theo kế hoạch của công ty mẹ đề ra, thông qua kế hoạch này ở mỗi nước nhận đầu tư lại có sự điều tiết của nước chủ nhà, từ đó TNCs tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa nước chủ nhà và nước chínhquốc do sự phụ thuộc giữa công ty mẹ và công ty con. Khi thực hiện FDI ở mỗi nước thì các TNCs lại có một chiến lược riêng, tuy nhiên hầu hết các 22 công ty thường đầu tư hoạt động ở các lĩnh vực có lợi nhuận cao như lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp...Từ đó các công ty này góp phần vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở các quốc gia đặc biệt là ở các nước đang phát triển.  Tác động thúc đẩy phát triển các nguồn lực Để phục vụ mục tiêu lợi nhuận, TNCs thường quan tâm đến trình độ lao động và ngay cả khi tuyển dụng lao động thì TNCs cũng phải chọn những đối tác có trình độ thoả mãn. Thông thường TNCs thường tổ chức đào tạo nâng cao trình độ cho lực lượng lao động của mình ở nước nhận đầu tư để phù hợp với công nghệ áp dụng nên trình độ lao động hoạt động trongkhu vực có vốn FDI ngày càng được tăng cường. Kết luận: Nói chung tác động của các TNCs luôn có tính hai mặt, vì vậy các nước nhận đầu tư phải tích cực tìm hiểu về để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, khuyến khích những mặt tích cực…Để làm được điều này, các nước xem xét tác động của TNCs phải đặt chúng trong điều kiện và hoàn cảnh phát triển của nước mình để rồi có những đối sách hợp lý. 23 3. Quá trình hình thành và phát triển của TNCs trên thế giới Ngày nay các công ty xuyên quốc gia đang chi phối việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ trên quy mô toàn thế giới. Cùng với thời gian và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa tất cả các nền kinh tế không phân biệt lớn nhỏ, vai trò của công ty xuyên quốc gia được đánh giá ngày càng khách quan hơn. Sự ra đời và đan xen phạm vi hoạt động của các công ty xuyên quốc gia thuộc nhiều nước khác nhau đã làm cho yếu tố phân biệt quốc tịch nhanh chóng lùi xuống hàng thứ yếu. Chúng ta có thể rút ra một số nguyên nhân hình thành các TNCs như sau: - Thứ nhất: Các TNCs hình thành trên cơ sở tích tụ tập trung tư bản và tập trung sản xuất. Điều này sẽ dẫn đến sự ra đời của những xí nghiệp tư bản chủ nghĩa có quy mô lớn với sức cạnh tranh ngày càng gay gắt. Cùng với sự cạnh tranh là sự thôn tính, độc quyền, bành trướng không chỉ giới hạn trong một quốc gia mà còn ở nhiều quốc gia và cuối cùng là trên phạm vi toàn thế giới. - Thứ hai: Các xí nghiệp công thương xuất hiện và phát triển Từ nửa sau thế kỷ XIX, dựa vào đặc điểm kỹ thuật chính của mình, các xí nghiệp công thương có thể bố trí được mạng lưới, địa điểm sản xuất và tiêu thụ trên một không gian địa lý tương đối lớn. Tới khi phân công nội bộ trong xí nghiệp công thương hiện đại vượt ra ngoài biên giới quốc gia thì TNCs được hình thành. Cùng với đó, các công ty này trợ giúp các công ty ở các lĩnh vực khác như công nghiệp dịch vụ phát triển theo. - Thứ ba: Do tình hình kinh tế chính trị thế giới thay đổi Trước đây do các nước thuộc địa đứng lên giành độc lập nên làm cho các cuộc cạnh tranh giữa các tập đoàn tư bản lớn ngày càng tăng lên trên mọi phương diện và mọi lĩnh vực. Chính vì vậy, việc hình thành nên TNCs trở thành một cứu cánh hợp lý để các tập đoàn này có thể thâm nhập và bành trướng, điều này giảm bớt cạnh tranh, giúp các công ty cùng tồn tại và phát triển. Ngày nay, TNCs hình thành do xu hướng quốc tế hoá đời sống về mọi mặt, các quốc gia đều phải mở cửa nền kinh tế để thu hút đầu tư, mở rộng thị 24 trường… nếu muốn tồn tại và phát triển một cách ổn định và thuận lợi. Bên cạnh đó, quá trình phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc cũng tạo điều kiện cho các TNCs ra đời để bao quát tìm kiếm lợi nhuận và trợ giúp nội bộ. - Thứ tư: Do sự phát triển của khoa học công nghệ, các doanh nghiệp ngày càng sản xuất ra nhiều hàng hoá, từ đó nhu cầu mở rộng thị trường ngày càng trở nên cấp thiết để tồn tại và phát triển TNCs phải vươn ra thị trường nước ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau như lập văn phòng đại diện, lập chi nhánh. Cùng với tốc độ phát triển của khoa học công nghệ thì máy móc nhanh chóng trở nên lỗi thời, giá trị hao mòn vô hình của tư bản cố định diễn ra nhanh chóng đòi hỏi các công ty phải mở các chi nhánh ở nước kém phát triển hơn để chuyển giao công nghệ kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm và làm giảm chi phí do hao mòn vô hình nhanh gây nên. Ngay bản thân việc nghiên cứu khoa học đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, đây chính là nhân tố làm cho dịch vụ nghiên cứu kỹ thuật phát triển, tạo điều kiện cho các công ty đầu đàn bành trướng. Sự phát triển khoa học công nghệ vừa là động lực vừa là điều kiện đối với việc toàn cầu hoá hoạt động của các TNCs. - Thứ năm: Do thừa vốn và để giảm thiểu rủi ro cũng như tối đa hoá lợi nhuận Hiện nay, một số công ty hoạt động trong phạm vi một quốc gia sẽ không thể phát triển được do có quá nhiều công ty cùng lĩnh vực cạnh tranh với nhau, do thị trường không đủ sức chứa làm cho công ty vốn của công ty đã tích tụ được nhưng không đưa vào sử dụng hết, nên đưa tư bản ra nước ngoài đầu tư là một giải pháp, đồng thời cũng là một cách để phân tán rủi ro. Sau đây ta xem xét quá trình phát triển của TNCs trên thế giới Trước đây chủ yếu TNCs phát triển từ các công ty độc quyền lớn, tuy nhiên cùng với quá trình quốc tế hoá sản xuất, các xí nghiệp nhỏ cũng đi vào kinh doanh quốc tế, khiến số lượng và thực lực của các công ty xuyên quốc gia không ngừng tăng lên. Theo điều tra của trung tâm nghiên cứu TNCs thuộc Liên Hợp Quốc, số lượng các công ty xuyên quốc gia không ngừng tăng lên từ thập kỷ 80. 25 Hiện nay số lượng các công ty xuyên quốc gia trên toàn thế giới vào khoảng trên 60.000 công ty và khoảng trên 578.000 chi nhánh của nó trên toàn thế giới. 26 Xem xét bảng sau về số lượng các TNCs trên toàn thế giới qua các thập kỷ Bảng 1: Số lượng các TNCs trong các thời kỳ Thời kỳ Tổng số TNCs Tổng số các chi nhánh Cuối những năm 60s 7.276 27.000 Những năm 80s 35.000 150.000 Những năm 90s 53.700 449.000 Hiện nay 60.000 578.000 (Nguồn: World Investment Report) Cùng với số lượng lớn các công ty, tổng giá trị sản xuất hàng năm của các công ty xuyên quốc gia chiếm khoảng một nửa tổng giá trị sản lượng hàng năm của toàn bộ thế giới tư bản, giá trị sản xuất ở nước ngoài của chúng còn nhiều hơn tổng lượng giá trị mậu dịch toàn thế giới. Luỹ kế đầu tư ra nước ngoài của TNCs đã vượt quá 1000 tỷ USD. Ngày nay, với quy mô to lớn và thực lực hùng hậu, các TNCs đã trở thành lực lượng thao túng chủ yếu đối với sự vận động tư bản quốc tế trên phạm vi toàn cầu. 4. Chiến lược khai thác và chiếm lĩnh thị trường quốc tế của các TNCs ở thế kỷ thứ XXI 4.1 Chiến lược đa dạng hóa cơ cấu kinh tế Để tối đa hoá lợi nhuận, buộc các TNCs phải chuyên môn hóa sâu các hoạt động của các chi nhánh, mỗi chi nhánh phải đảm đương ít nhất là một vài khâu trong quá trình sản xuất. Vào thập kỷ 80, ở các nước tư bản chủ nghĩa nổi lên xu hướng hợp nhất hỗn hợp các ngành nghề, từ đó ngày càng nhiều các TNCs có cơ cấu kinh doanh đa dạng ra đời.Tuy nhiên, có hai loại TNCs : Một là các TNCs hỗn hợp khống chế hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của hàng chục ngành nghề khác nhau thông qua khả năng và tiềm lực về tài chính, kiểu thứ hai là công ty có tiềm lực hạn chế về tài chính cũng thực hiện thâm nhập thị trường 27 rộng rãi vào các ngành nghề khác nhau. Những năm gần đây TNCs sử dụng các loại cơ cấu kinh tế phát triển vô cùng nhanh chóng, bởi vì ba nguyên nhân chính sau - Để chuyển một phần năng lực thừa sang sản xuất tại lĩnh vực kinh doanh mới. - Phân tán rủi ro, giảm bớt tổn thất trong kinh doanh. - Bổ xung vốn cho nhau. Cả ba nguyên nhân trên đều giúp cho các TNCs chống chọi được với điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. 4.2 Chiến lược nhất thể hoá sản xuất quốc tế FDI của TNCs được mở rộng dựa trên cơ sở nội lực các ngành nghề của bản thân nó và được phát triển từ thấp đến cao. Nó từng bước kết hợp chặt chẽ các công ty chi nhánh ở khắp mọi nơi lại với nhau, tạo thành một mạng lưới để tăng trình độ nhất thể hoá của sản xuất kinh doanh. Chiến lược này được chia làm hai giai đoạn: */ Giai đoạn một: Gọi là chiến lược nhất thể hoá theo hạng mục đơn lẻ, dựa vào liên kết kinh tế ta có thể chia làm ba dạng nhất thể như sau: - Sản xuất bộ phận rời hoặc những sản phẩm thiết yếu ngay tại nước tiêu thụ. - Lắp ráp các bộ phận rời thành sản phẩm cuối cùng để tiêu thụ tại nước chủ nhà hoặc các nước khác. - Xuất khẩu sản phẩm từ công ty chi nhánh ra thị trường quốc tế. Đây là việc chuyển một phần hoạt động sản xuất kinh doanh của các TNCs vào sợi xích tăng giá trị chung. */ Giai đoạn hai: Là chiến lược nhất thể hoá toàn cầu. Các TNCs sản xuất lắp ráp các bộ phận nào đó ngay tại nước tiêu thụ, hoặc tại nước mẹ còn sản phẩm có thể tiêu thụ tại nước gốc hoặc xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Nguyên nhân dẫn tới chiến lược nhất thể hoá toàn cầu đó là: - Sự phát triển của kỹ thuật thông tin đã thúc đẩy việc phổ cập hàng hóa, những kỹ thuật sản xuất hiện đại và kỹ năng quản lý tiên tiến. 28 - Sự mở rộng của nhu cầu và sự thống nhất tiêu chuẩn của hàng hoá đã được khai thông và mở rộng thị trường ở mọi nơi trên thế giới. - Sự cạnh tranh trên thị trường thế giới ngày càng trở nên gay gắt đòi hỏi quá trình nhất thể hoá của các TNCs càng trở nên gay gắt. 4.3 Chiến lược trọng điểm hóa và tập đoàn hoá kinh doanh toàn cầu Một trong những đặc điểm chủ yếu của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia lớn là phạm vi mở rộng của chúng không hạn chế ở những nước và khu vực cá biệt mà là bố trí điểm toàn cầu.Trên thế giới, bất kỳ nơi nào có điều kiện và môi trường đầu tư cơ bản và có lợi thì TNCs sẽ tìm đến. Để không một TNCs nào độc quyền về thị trường thì khi một công ty hoạt động ngay lập tức các công ty khác cũng tham gia. Điều này tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ ngay cả trong việc chọn điểm đầu tư. Một điểm nữa là chi nhánh của các TNCs đều tương đối độc lập với nhau, các chi nhánh chỉ tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trong những nước tiêu thụ hàng nhất định và những điểm này thường đặt tại những khu vực có thị trường hợp với điều kiện của công ty và có khả năng tồn tại lâu dài. 4.4 Chiến lược thâm nhập thị trường thông qua độc quyền về kỹ thuật Khi thực hiện trao đổi công nghệ bằng nhiều hình thức khác nhau, các công ty đều nhằm mục đích sử dụng các ưu thế độc quyền về kỹ thuật- công nghệ của mình để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài và loại bỏ các đối thủ cạnh tranh. Chiến lược khai thác thị trường quốc tế của các công ty xuyên quốc gia thông qua độc quyền về kỹ thuật được thể hiện theo các sách lược cụ thể sau: - Sử dụng kỹ thuật giống nhau: Các hãng sử dụng các kỹ thuật của mình để tăng cường dây chuyền sản xuất, nhân thêm lượng hàng hóa sản xuất ra. - Sử dụng kỹ thuật giống nhau trong ngành nghề tương tự: Các hãng lấy ngành chính của mình làm gốc hoặc dựa vào nhãn hiệu, uy tín sẵn có để mở rộng kinh doanh sang ngành nghề khác, dù công nghệ mới có khác hoàn toàn với kỹ thuật của hãng. 29 - Sách lược mở rộng sang nhiều chiều với kỹ thuật và ngành nghề hoàn toàn khác nhau. 30 4.5 Chiến lược xuyên quốc gia ngành dịch vụ: Do việc điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất, FDI của TNCs ngày càng có xu hướng “ mềm hoá”, hoặc “ phi công nghiệp hoá”, cho nên ngành dịch vụ trở thành hướng đầu tư chủ yếu của TNCs . Trong đó ngành tài chính tiền tệ được chú trọng phát triển nhất, nguyên nhân của sự chuyển dịch này là: - Do khoa học công nghệ phát triển làm cho sức sản xuất xã hội ngày càng được tin học hoá, trí năng hoá, từ đó nâng cao tính thương mại của các sản phẩm dịch vụ tạo điều kiện để TNCs dễ dàng trao đổi nội bộ và mở rộng ra thị trường quốc tế. Tứ đó thúc đẩy vốn đầu tư dồn tụ vào ngành dịch vụ. - Quá trình này không chỉ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội, mà còn điều chỉnh bản thân ngành dịch vụ và là tiền đề cho tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. - Do quá trình cải cách kinh tế và tự do hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế nên ngành dịch vụ ngày càng được mở rộng hơn. 4.6 Tạo thành các liên minh chiến lược Vì mục tiêu lợi nhuận, TNCs không ngừng tăng nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Nhưng để làm được như vậy cần phải đòi hỏi một lượng vốn rất lớn và mất nhiều thời gian. Vì thế các TNCs thực hiện chiến lược kinh doanh liên hợp xuyên quốc gia, đó là liên minh chiến lược kiểu mở cửa tại các nước khác nhau, xâm nhập nhau về vốn, kỹ thuật,công nghệ thiết bị, kênh phân phối…để hình thành một liên hợp kinh doanh quốc tế. Về hình thức thì loại hình này tương tự các ttương tự các TNCs chung vốn nhưng mục tiêu và lợi ích thì lại khác, vì trong loại hình này các bên tham gia có một mục tiêu chung đó là cùng phát triển, cùng sản xuất, cùng có thị trường chung, lợi ích của tổ chức cũng là lợi ích của từng thành viên trong liên kết.Việc thành lập liên minh cũng là giải pháp giúp TNCs thoát khỏi cạnh tranh, đối đầu, mà căng thẳng có thể là dẫn đến sụp đổ. 31 Ngoài ra xu hướng sát nhập các công ty cũng đã và đang diễn ra ở các dạng mua lại cổ phần của nhau, mua lại hẳn hoặc liên hợp thành công ty lớn hơn…để tạo ra một tập đoàn lớn hơn với năng lực tài chính kỹ thuật công nghệ mạnh đủ sức chống lại những khủng hoảng kinh tế và những cạnh tranh khốc liệt của thị trường. 5. Thu hút FDI của TNCs vào một số nước đang phát triển- kinh nghiệm và bài học cho các quốc gia khác Những năm qua, khối lượng FDI trên thế giới không ngừng tăng lên nhưng so với nhu cầu về FDI thì vẫn còn thiếu hụt. Trong bối cảnh đó, mỗi nước đều tìm mọi cách thu hút FDI vào nước mình nhiều hơn trong một thị trường cạnh tranh khá sôi động. Do đó, việc tìm hiểu kinh nghiệm của các nước khác nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả thu hút FDI là một vấn đề mà mọi quốc gia đều rất quan tâm. Sau đây xin được trình bày kinh nghiệmcủa một số nước đang phát triển trong việc thu hútFDI của TNCs 5.1 Trung Quốc Trong những năm gần đây, Trung Quốc nổi lên như một hiện tượng của nền kinh tế thế giới. Tốc độ tăng trưởng luông đạt ở mức cao và ổn định. Sự thành công này có một phần đóng góp rất to lớn của FDI nói chung và FDI của TNCs nói riêng Chính phủ Trung Quốc đã áp dụng các biện pháp nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các chủ đầu tư. Cụ thể là: - Thực hiện việc xây dựng một địa bàn quy hoạch tổng thể để mở rộng địa bàn thu hút đầu tư nước ngoài. Đặc biệt phải nói đến thành công của Trung Quốc trong việc xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất và các đặc khu kinh tế để thu hút đầu tư nước ngoài, - Hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm đảm bảo tính đồng bộ thống nhất trong thu hút FDI dựa theo nguyên tắc đôi bên cuàng có lợi và phù hợp với thông lệ quốc 32 tế. Theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài thì môi trường luật pháp của Trung Quốc có 75% phù hợp với thông lệ quốc tế - Thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư như miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thuê đất, …theo lĩnh vực đầu tư và địa bàn đầu tư. - Thực hiện đa dạng hoá hình thức đầu tư và đối tác đầu tư. Đối với hình thức đầu tư, chính phủ Trung Quốc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tự do lựa chọn và chuyển đổi các hình thức đầu tư nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Đồng thời Trung Quốc không ngừng mở rộng quan hệ với các quốc gia trên thế giới, từ đó đa dạng hoá các đối tác đầu tư. - Về thủ tục hành chính, Trung Quốc thực hiện phân cấp cho các địa phương về thẩm định dự án và cấp phép đầu tư. Sau khi có giấy phép đầu tư các thủ tục liên quan đến triển khai dự án được giải quyết nhanh chóng. Các vấn đề giải phóng mặt bằng, điện, nước, giao thông, liên lạc thuận tiện và áp dụngđồng bộ chế độ một giá cho nhà đầu tư nước ngoài. Thông qua những biện pháp như trên, có thể nói Trung Quốc là nước thu hút đầu tư nước ngoài đứng đầu Châu á hiện nay. Những kinh nghiệm quý báu từ Trung Quốc giúp các nước khác điều chỉnh mình để tăng cường thu hút FDI hơn nữa. 5.2 Hàn Quốc: Ban hành luật đầu tư nước ngoài sớm nhất Châu Á- vào năm 1960. Vào thời kỳ cuối những năm 1970, nền kinh tế Hàn Quốc phải cạnh tranh với các nước đang phát triển Châu á khác về các hàng công nghiệp cần nhiều lao động. Ngoài ra, yêu cầu phát triển kinh tế Hàn Quốc đòi hỏi phải phát triển khoa học kỹ thuật, vì thế cần nhiều đến kỹ thuật và đầu tư của nước ngoài. Các TNCs có thể cung cung cấp kỹ thuật ngoại tệ và các kinh nghiệm về tổ chức quản lý và hơn thế nữa là sự tiếp cận với thị trường quốc tế. Do đó chính phủ Hàn quốc đã thông qua một chính sách thúc đẩy đầu tư trực tiếp trong luật khuyến khích đầu 33 tư nước ngoài vào năm 1981. Các điều khoản nói chung đã loại bỏ hầu hết những hạn chế khắc nghiệt đối với đầu tư nước ngoài. Tiêu biểu như : - Bãi bỏ hoàn toàn các quy định về sở hữu trong các dự án FDI. - Cho phép thành lập các công ty tài chính và ngân hàng nước ngoài. - Trừ một số lĩnh vực quan trọng có liên quan đến an ninh quốc phòng, còn lại cho phép các công ty nước ngoài tự do mua lại công ty trong nước. Ngoài ra, phạm vi quyền lực và những biện pháp mà chính phủ Hàn Quốc thi hành cho thấy những xung đột giữa nước chủ nhà và TNCs có thể được loại bỏ bởi những cố gắng tăng cường trao đổi thông tin một cách cởi mở trong quan hệ bình dẳng thẳng thắn và tin cậy. Đây là vấn đề các quốc gia khác thấy cần phải học tập Hàn Quốc. 5.3 Singapo Là nước đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá ở Đông Nam á, chiến lược chủ yếu của Singapo là tập trung củng cố một cách mạnh mẽ FDI hoàn thành nhanh chóng việc công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu.Có thể nói đây là bước đi “táo tợn” vào thời kỳ đó. Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài năm 1967 đã có miễn giảm thuế có thể lên tới 10 năm cho những hoạt động có tính chất mở đường. Đồng thời các chính sách thay thế nhập khẩu trước đây được nhanh chóng loại bỏ và các hàng rào thuế quan cũng không còn tồn tại. Mặc dù trong năm 1974-1975 chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng dầu lửa, nền kinh tế Singapo vẫn tiếp tục phát triển mạnh do chính phủ nắm bắt được những yếu tố cần thiết để sử dụng một cách hiệu quả lực lượng lao động. Các chương trình giáo dục, đào tạo các ngành khoa học kỹ thuật được chú ý đầu tư phát triển. Năm 1979, một chiến lược kinh tế mới tập trung vào phát triển các sản phẩm có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao xuất hiện. Cần lưu ý rằng, lực lượng lao động có trình độ cao của Singapo đã thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư. 34 Đầu những năm 1980, một loạt các ngành công nghiệp và kỹ thuật mới đã ra đời ở Singapo. Đó là các ngành công nghiệp hoá (bao gồm cả hoá dầu và hoá dược phẩm), các ngành công nghệ chính xác.... Chính phủ Singapo tiến hành một hoạt động tổng thể xoá nạn mù máy tính. Chính sách và hoạt động này đã đưa đến GDP tiếp tục tăng dù các công ty TNCs phải chịu sức ép về mức lương tăng. 5.4 Malaixia Một loạt những thay đổi nhằm thu hút FDI như sau - Tăng tỷ lệ sở hữu vốn đối với nhà đầu tư nước ngoài từ 30% lên 49% - 51% tài sản của chủ đầu tư nước ngoài sẽ được bảo lãnh tại thị trường nội địa - Nới lỏng kiếm soát trong lĩnh vực chế tạo. Những thay đổi này đã giúp Malaixia đạt được những thành tựu đáng kể trong việc thu hút FDI, hiện nay nước này là một trong những nước đang phát triển có tiềm năng nhất trong khu vực. 5.5 Philipin Một số thay đổi trong chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài cơ bản đã thúc đẩy FDI vào nước này ngày một gia tăng. - Cho phép chủ đầu tư nước ngoài sở hữu tối đa 60% vốn ở lĩnh vực kinh doanh nhà cửa và tài chính. - Ở lĩnh vực kinh doanh nhà cửa: những dự án có giá trị < 300 triệu pêsô thì không giới hạn tỷ lệ sở hữu vốn. - Ở lĩnh vực tài chính: những dự án có vốn < 10 triệu pêsô ở đô thị, nhỏ hơn 5 triệu pêsô ở ngoại vi thành phố và nhỏ hơn 2,5 triệu pêsô ở vùng khác thì không giới hạn tỷ lệ sở hữu vốn của chủ đầu tư nước ngoài 5.6 Thái Lan Những thay đổi đặc biệt trong việc khuyến khích đầu tư nước ngoài đã rất hiệu quả khi một vài thập kỳ vừa qua vốn FDI vào Thái Lan ở lĩnh vực dịch vụ đặc biệt gia tăng - Với những dự án phổ thông: cho phép nâng mức sở hữu tối đa lên 49% 35 - Với dự án trên 80% sản lượng xuất khẩu cho phép 100% vốn nước ngoài - Bãi bỏ quy định phải có hơn 30% sản phẩm xuất khẩu thì mới được miễn giảm thuế trong ngành chế tạo. Có thể nói những khuyến khích trên đã làm lượng FDI vào các nước trên ngày một gia tăng. Vậy qua đó chúng ta rút ra bài học gì? Trước tình hình thay đổi của các nước trong khu vực và trên thế giới như vậy, Việt Nam đứng trước một thách thức lớn, phải làm gì để tăng cường thu hút FDI? Ta sẽ nghiên cứu vấn đề này ở phần giải pháp – sau khi nghiên cứu thực trạng của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hiện nay. CHƯƠNG II TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA CÁC TNCS VÀO VIỆT NAM THỜI GIAN QUA I. Tình hình FDI vào Việt Nam thời gian qua Theo vụ quản lý dự án, Bộ kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/12/2002 trên cả nước có 3.669 dự án đầu tư nước ngoài ( ĐTNN) còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư là 39.104.745.879 USD ( trừ 756 dự án giải thể trước hạn- vốn đăng ký 9,67 tỷ USD và 32 dự án kết thúc đúng hạn- vốn đăng ký 295 triệu USD). Bảng 2: FDI tại Việt Nam từ 1988- 2002 (Đơn vị tính: Triệu USD) Năm Số dự án Vốn đăng ký Vốn thực hiện Quy mô dự án bình quân 1988 37 366 - 9,9 1989 70 539 - 7,7 1990 106 677 - 6,4 1991 149 1.294 213 8,7 1992 195 2.036 394 10,4 1993 237 2.652 1099 9,7 1994 371 4.071 1.946 11,0 1995 412 6.616 2.671 16,1 36 1996 368 8.640 2.646 23,5 1997 331 4.514 3.250 13,6 1998 275 3.596 1.900 13,1 1999 308 1.566 1.519 5,1 2000 344 1.973 2.228 5,7 2001 513 2.521 2.300 4,9 2002 305 3.439,7 - 11,3 Tổng 10,47 (Nguồn: Viện kinh tế thế giới) Từ số liệu bảng trên cho thấy: Trong 9 năm từ 1988 đến 1996, FDI ở Việt Nam tăng khá. Số dự án đăng ký tăng bình quân 31,5 %năm, vốn đăng ký tăng 45%năm. Nhưng từ năm 1996 tốc độ đầu tư giảm sút rõ rệt. Nếu như năm 1997, số dự án được cấp phép là 331, thì năm 1998 số dự án được cấp phép giảm đi rõ rệt, chỉ còn 275. Sang năm 1999, số dự án được cấp phép bắt đầu tăng lên (tăng 12% so với năm 1998) nhưng số vốn đăng ký mới chỉ bằng 43% so với năm 1998. Năm 2000, số dự án đăng ký tăng 11% và số vốn đăng ký tăng 26%. Tình hình các năm gần đây có vẻ khả quan hơn, mức tăng về vốn đầu tư và vốn đầu tư thực hiện là đáng kể Trong bối cảnh dòng đầu tư nước ngoài trên thế giới năm 2001-2002 liên tục giảm, thì ở Việt Nam, theo báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư, năm 2002 là năm có nhiều dự án đầu tư nước ngoài tăng vốn nhất từ trước đến nay, với 305 dự án, số vốn đăng ký tăng thêm 918,7 triệu USD. Đây là một cố gắng lớn trong bối cảnh cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới gia tăng mạnh, đầu tư nước ngoài vào các nước ASEAN vẫn suy giảm và trong điều kiện môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn còn có những hạn chế nhất định. Kết quả này phản ánh tác động tích cực của các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư mà chính phủ Việt Nam ban hành trong năm 2001. Theo các nhà đầu tư nước ngoài nguyên nhân chính là do tình hình chính trị, xã hội ổn định, thị trường trong 37 nước được mở rộng, nền kinh tế tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao (7,2%) và khá ổn định. Mặt khác, Chính phủ Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới có những yếu tố bất lợi, nhất là tình trạng trì trệ của kinh tế toàn cầu, ảnh hưởng từ sự kiện 11/9 của Mỹ và cạnh trang gay gắt của Trung Quốc sau khi nước này gia nhập WTO, nên dù có dấu hiệu khởi sắc nhưng dòng vốn FDI vào Việt Nam vẫn là khiêm tốn. Năm 2002 và những tháng đầu năm 2003, có thể nói là những năm thành công của kinh tế – xã hội Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế vẫn giữ mức ổn định (trên 7%), các chính sách khuyến khích đầu tư vào Việt Nam được thực hiện tốt, vì thế đầu tư nước ngoài 2002 tăng khá cao. còn hy vọng đầu tư nước ngoài 2003 cũng có mức tăng khá để đạt được chỉ tiêu kinh tế – xã hội đặt ra. Hình 1: Số dự án được cấp phép qua các năm (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư) 0 100 200 300 400 500 600 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 200020012002 Sè dù ¸n Nhìn chung tỷ lệ góp vốn và triển khai là khá tích cực. Tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện so với vốn đăng ký đạt khoảng gần 49,11%, so với các nước trong khu vực (30-40%) thì tỷ lệ như thế là khá cao. Về quy mô dự án ở nước ta trung bình đạt gần 10,9 triệu USD/dự án, quy mô này là nhỏ so với khu vực và thế giới. Sau đây chúng ta phân tích cơ cấu đầu tư trong những năm qua * Trước hết phân tích cơ cấu đầu tư theo ngành Số dựa án Năm 38 Những năm 1998-1990, vốn đầu tư nước ngoài phần lớn đầu tư vào lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, khách sạn, du lịch và căn hộ cho thuê. Nhưng từ năm 1994 vốn đầu tư nước ngoài đã đầu tư nhiều hơn vào các ngành sản xuất, đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp. Tỷ lệ vốn FDI đầu tư vào các ngành sản xuất chiếm khoảng 2/3 tổng vốn đầu tư chung của toàn xã hội. Cơ cấu ngành được điều chỉnh theo hướng ngày càng hợp lý, tập trung vào ngành công nghiệp then chốt, công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ hải sản và sử dụng hiệu quả tài nguyên lao động, ứng dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại. Năm 1999, trong số 308 dự án được cấp phép, có 255 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất vật chất chiếm 82,8% và vốn đăng ký đạt 1.245 triệu USD chiếm 79,5%. Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có 225 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký 1.049 triệu USD, chiếm 67 % vốn đăng ký. Trong năm 2000, đầu tư nước ngoài có sự chuyển biến lớn về chất so với các năm trước, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất (chiếm 94% số vốn đăng ký). Trong đó, lĩnh vực công nghiệp chiếm 90,98 %, lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp chiếm 2,67 %, dịch vụ du lịch chỉ chiếm 2,02%. Đã có những dự án lớn đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ y tế, giáo dục chiếm 3,14 %. Năm 2001, cơ cấu đầu tư nước ngoài cũng đánh dấu những sự chuyển dịch quan trọng. Số dự án trong lĩnh vực trong lĩnh vực công nghiệp tăng hơn 30% so vói năm 2000. Vốn đầu tư trong nông- lâm nghiệp, thuỷ hải sản chỉ chiếm hơn 1% tổng vốn đăng ký. Nhưng các dự án tập trung vào một số lĩnh vực quan trọng trong nông nghiệp và phát triển nông thôn như chế biến nông sản, trồng và chế biến chè, chế biến thức ăn gia súc...đã tăng lên, góp phần đáng kể vào tạo công ăn việc làm, phát triển nguồn nguyên liệu, tạo thêm hàng hoá xuất khẩu cho nông nghiệp. Đầu tư nước ngoài năm 2001 ghi nhận sự gia tăng đáng kể trong lĩnh vực dịch vụ so với năm 2000 ( tăng 180% về vốn đầu tư), với sự đóng góp của ngành bưu chính viện thông, y tế, giáo dục, xây dựng hạ tầng khu công nghiệp... 39 Năm 2002, cơ cấu đầu tư theo ngành có sự chuyển biến, với việc tăng cường đầu tư vào lĩnh vực công nghệ thông tin, cơ khí chính xác…Đồng thời là việc gia tăng đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ và xây dựng. Nhìn chung cơ cấu ngành thay đổi theo chiều hướng ngày càng hợp lý hơn. Hình 2: Cơ cấu FDI theo ngành (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Như vậy ngành công nghiệp chiếm đa số vốn với tỷ lệ là 56,67%; ngành dịch vụ chiếm 37,14% cũng là mức cao; còn nông- lâm nghiệp chiếm 6.19% là mức hợp lý. Trong tương lai, xu thế chung là tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp. Xem xét một cách cụ thể ta có bảng sau Bảng 3: Tình hình đầu tư nước ngoài phân tích theo ngành ( Tính tới 20/12/2002- chỉ tính những dự án còn hiệu lực) Chuyên ngành Số dự án Tổng VĐT Đầu tư thực hiện I. Công nghiệp 2431 22.160.735.028 13.343.302.692 CN dầu khí 29 3.195.449.881 3.510.730.369 CN nhẹ 975 5.061.295.997 2.355.698.112 CN nặng 995 8.195.838.775 4.167.103.772 CN thực phẩm 190 2.435.219.340 1.396.533.021 Xây dựng 242 3.272.949.035 1.913.237.418 II. Nông-lâm nghiệp 484 2.422.156.367 1.292.122.848 Nông-lâm nghiệp 403 2.193.913.436 1.188.286.188 Tû lÖ vèn FDI vµo c¸c ngµnh C«ng nghiÖp N«ng- l©m nghiÖp DÞch vô 37.14% 56.67% 37.14% 6.19% 40 Thuỷ sản 81 228.242.931 103.836.660 III. Dịch vụ 754 14.521.836.484 6.103.877.255 GTVT- Bưu điện 107 2.569.086.827 995.354.245 Khách sạn-du lịch 130 3.233.487.444 2.017.958.546 Tài chính-ngân hàng 47 593.200.010 541.478.070 VH- Ytế- Giáo dục 126 609.799.220 200.289.655 Xây dựng khu đô thị mới 3 2.466.674.000 394.618 Xây dựng văn phòng căn hộ 107 3.487.110.089 1.623.032.528 Xây dựng hạ tầng KCN- KCX 16 835.120.051 472.382.969 Dịch vụ khác 218 727.358.843 252.986.624 Tổng số 3669 39.104.745.879 20.739.302.795 (Nguồn: Bộ Kế họach và Đầu tư) Qua bảng cơ cấu trên có thể thấy rằng ngành công nghiệp là ngành có số dự án cũng như số vốn đầu tư lớn nhất, kế đó là ngành dịch vụ. Tuy ngành nông lâm ngư nghiệp có số vốn ít hơn nhiều so với các ngành khác nhưng tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện so với tổng vốn đầu tư chiếm trên 50% là mức khá cao, điều đó cho thấy tiềm năng của phát triển nông lâm nghiệp của Việt Nam là khá lớn. *Phân tích cơ cấu đầu tư theo địa phương Tính đến hết năm 1999 đầu tư nước ngoài đã có mặt trên 61 tỉnh, thành phố trong cả nước. Nhưng tập trung chủ yếu ở các trọng điểm ở miền Nam và miền Bắc. Tính chung cho 12 năm từ khi có đầu tư nước ngoài( 1988-1999), 7 tỉnh thành là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Bình Dương, Hải Phòng, Quảng Ngãi là những tỉnh tập trung thu hút đầu tư nước ngoài nhiều nhất, đã thu hút 75% số dự án và 76% số vốn đầu tư đăng ký trong cả nước. Riêng năm 1999 có 36 tỉnh thành có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong đó Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ vị trí đứng đầu, tiếp đó là các tỉnh 41 Bình Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu, Hà Nội, Đồng Nai và Long An...So với năm 1998 thì năm 1999 đã có thêm một số địa phương mới ở địa bàn kinh tế xã hội khó khăn có dự án đầu tư nước ngoài như Lào Cai, Sơn La, Hoà Bình, Phú Thọ, Bến Tre... Năm 2000, thực hiện chủ trương trong phân cấp cấp giấy phép đầu tư nước ngoài, Bộ kế hoạch đầu tư chỉ cấp 24 giấy phép với tổng vốn đăng ký 1.300 triệu USD. Trong khi đó UBND các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương cấp tới 166 giấy phép chiếm 197,7 triệu USD. Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất cấp 154 giấy phép chiếm 475 triệu USD. Vị trí xếp hạng trong năm về thu hút đầu tư nước ngoài giữa các địa phương cũng có sự thay đổi đáng kể. Trong năm 2001, có 38 tỉnh thành có dự án đầu tư nước ngoài, trong đó Bà Rịa- Vũng Tàu với hai dự án điện Phú Mỹ 3 và Phú Mỹ 2.2 giữ vị trí đứng đầu cả nước về vốn đầu tư với 834,8 triệu USD. Tiếp theo là thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Hà Nội. Tuy nhiê so với năm 2000 thì năm 2001 đã có thêm một số địa phương mới và đại phương ở địa bàn kinh tế xã hội khó khăn có dự án đầu tư nước ngoài như Phú Yên, Tiền Giang, Quảng Bình, Đồng Tháp... Một số địa phương có vốn đầu tư nước ngoài tăng đáng kể như Đồng Nai, Hà Nội... Năm 2002, cơ cấu đầu tư nước ngoài theo địa phương cũng không có gì thay đổi đáng kể. Tuy nhiên, một tín hiệu rất đáng vui mừng là các dự án đầu tư ở các tỉnh có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn thì đã và đang triển khai rất tích cực. Bảng 4: Các tỉnh thành phố thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất (tính đến 20/12/2002) Địa bàn đầu tư Số dự án Tổng vốn đầu tư (triệu USD) 1. TP Hồ Chí Minh 1223 10.374 2. Hà Nội 436 7.524 42 3. Đồng Nai 403 5.482 4. Bình Dương 618 2.952 5. Bà Rịa- Vũng Tàu 79 1.864 6. Hải Phòng 118 1.321 (Nguồn: Vụ Quản lý dự án- Bộ kế hoạch đầu tư) Ngoài việc có một cơ sở hạ tầng phát triển, các tỉnh trên còn có những khuyến khích phù hợp để thu hút đầu tư nước ngoài, vì thế đã trở thành những địa phương thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất trong cả nước. Tuy nhiên, cũng có những dấu hiệu khởi sắc như việc hầu hết 61 tỉnh thành trong cả nước đều có đầu tư nước ngoài. Trong tương lai, hy vọng cơ cấu đầu tư theo vùng địa phương sẽ được điều chỉnh ngày càng hợp lý. * Phân tích cơ cấu đầu tư theo đối tác đầu tư nước ngoài Theo số liệu của Vụ quản lý dự án- Bộ kế hoạch đầu tư, cho tới nay đã có trên72 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, số nước và vùng lãnh thổ có dự án còn hiệu lực là 60. Trong đó, xuất hiện ngày càng nhiều các tập đoàn, các công ty đa quốc gia có năng lực về tài chính và công nghệ, Cơ cấu đầu tư theo đối tác đã có sự thay đổi quan trọng. Nếu như giai đoạn đầu các chủ đầu tư chủ yếu là các nước láng giềng thì gần đây đầu tư nước ngoài từ các nước Châu ÂU và Mỹ đã có những bước khởi sắc. Tính từ năm 1998, thì thấy rằng các nước Châu Âu đầu tư vào Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng vốn đầu tư và gia tăng đáng kể. Còn về đầu tư của Mỹ vào Việt Nam năm 2001 có 23 dự án (tăng 64% so với 2000) với vốn đăng ký đạt 112,2 triệu USD (tăng 260% so với năm 2000). Như vậy có thể thấy rằng các đối tác Mỹ và EU là những tiềm năng lớn trong FDI vào Việt Nam trong tương lai. Tuy nhiên, các đối tác đầu tư ở Châu Á vẫn dẫn đầu bảng, trong đó nổi bật là Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông… Bảng 5: Một số đối tác đầu tư lớn nhất tại Việt Nam ( Tính đến 20/12/2002) 43 Đối tác đầu tư Số dự án Số vốn đầu tư (triệu USD) Singapo 263 7.242 Đài Loan 923 5.131 Nhật Bản 368 4.283 Hàn Quốc 474 3.625 HongKong 262 2.899 Pháp 126 2.098 Mỹ 153 1.111 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Như vậy có thể thấy trong tốp dẫn đầu đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông chiếm vị trí quan trọng, với 2.027 dự án và 15.938 triệu USD vốn đăng ký. Trong các nước ASEAN, Singapo giữ vị trí đứng đầu với 263 dự án và 7.242 triệu USD vốn đăng ký. Đầu tư của các nước Châu Âu như Pháp, Hà Lan, Anh vẫn nằm trong số 10 nước đầu tư lớn nhất. Hoa Kỳ đứng ở vị trí thứ 13 với 1.111triệu USD vốn đăng ký. Đầu tư của các nước ASEAN vẫn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ. 44 *Phân tích cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư Nếu đứng trên phương diện hình thức đầu tư thì bức tranh đầu tư Việt Nam đang chuyển biến theo hướng: Hình thức 100% vốn nước ngoài ngày càng tăng, hình thức liên doanh ngày càng giảm. - Giai đoạn 1988-1992: Hình thức liên doanh đóng vai trò chủ đạo, chiếm 20% tổng số dự án đầu tư nước ngoài, hình thức 100% vốn nước ngoài chỉ chiếm 12%. - Giai đoạn 1996- 1999: Số dự án 100% vốn nước ngoài chiếm 64% tổng số dự án đầu tư nước ngoài. - Giai đoạn 1999- nay: Số sự án 100% vốn nước ngoài đã lên tới 268 dự án, gấp 5 lần số dự án liên doanh( 58 dự án). Theo bộ kế hoạch và đầu tư, tính đến 20/3/2003, Việt Nam có 3.818 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký khoảng 38.472 triệu USD, trong đó đã thực hiện khoảng 21.020 triệu USD. Bảng 6: Các hình thức FDI (tính đến ngày 20/3/2003) Hình thức đầu tư Số dự án Tổng vốn ĐK Vốn thực hiện 1. Liên doanh 1.107 18.492 9.562 2. 100% vốn nước ngoài 2.548 14.747 7.035 3. Hợp đồng hợp tác KD 157 3.899 4.121 (Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam) Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì hình thức đầu tư đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam vẫn chưa phong phú, trong thời gian gần đây, cần phải đưa thêm nhiều loại hình mới vào áp dụng như công ty cổ phần, công ty hợp doanh... để thu hút ngày càng nhiều hơn nguồn vốn FDI. II. Tình hình đầu tư trực tiếp của các TNCs vào Việt Nam thời gian qua 1. Tình hình chung Thu hút đầu tư nước ngoài và đầu tư của các TNCs là một trong những chiến lược phát triển kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế của Việt Nam. Chính 45 vì vậy từ những năm 1987, sau khi luật đầu tư nước ngoài ra đời, các công ty đa quốc gia đã vào Việt Nam dưới nhiều phương thức và hình thức khác nhau. Đã có hàng trăm tập đoàn, doanh nghiệp từ nhiều châu lục, khu vực tới Việt Nam đầu tư và tiếp cận thị trường Việt Nam. Một số xí nghiệp liên doanh, 100% vố đầu tư nước ngoài của các công ty TNCs đã xuất hiện ở các khu công nghiệp của Việt Nam. Bên cạnh đó một số hình thức hợp tác truyền thống như hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu, cung ứng dịch vụ, chuyển giao công nghệ dưới các hình thức hợp đồng giao thầu, hợp đồng sản xuất... Trong ba năm đầu (1987-1988) số sự án và quy mô vốn đầu tư của các TNCs nói chung còn rất hạn chế. Nhưng tới giai đoạn 1991-1996 thì số lượng và quy mô các dự án bắt đầu tăng lên và tăng rất nhanh với tốc độ tăng trung bình khoảng 90% năm. Tới năm 1997, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á nên tốc độ này giảm đáng kể. Mức vốn đầu tư tuy có tăng nhưng không tăng nhanh bằng giai đoạn trước. Bảng 7: Vốn đầu tư của các TNCs qua các năm Năm 1991 1995 1997 1998 1999 2001 Vốn đầu tư (triệu USD) 150 448 1732 1920 2135 2700 (Nguồn: Tổng hợp từ các báo kinh tế) Theo số liệu của Vụ quản lý dự án- Bộ kế hoạch đầu tư, tính từ năm 1988 đến năm 2001 có khoảng 90 TNCs đã đầu tư vào Việt Nam với 247 dự án và tổng vốn đầu tư của các công ty này là 10.142 triệu USD. Như vậy số vốn trung bình cho mỗi dự án khoảng 41 triệu USD. Vốn pháp định đạt 5.518 triệu USD trong đó phía nước ngoài góp 4.509 triệu USD chiếm 81,7 % vốn pháp định. Số vốn đầu tư thực hiện là 6.828 triệu USD trong đó lượng vốn của phía nước ngoài đạt 3.801 triệu USD chiếm 55,67 % vốn đầu tư thực hiện. (Xem thêm bảng phần phụ lục). 46 (Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam) Theo thống kê mới nhất của Bộ Kế hoạch và đầu tư, hiện nay các TNCs có gần 300 dự án tại Việt Nam với tổng số vốn pháp định đăng ký của bên nước ngoài là trên 5 tỷ USD, chiếm gần 80% tổng vốn pháp định của tất cả các dự án đầu tư. Trong số gần 100 tập đoàn của 16 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam, có 81 tập đoàn trong danh sách Global 500 của tạp chí Fortune. Không thể phủ nhận đây là nguồn đầu tư quan trọng mà bất cứ quốc gia đang phát triển nào cũng phải cạnh tranh gay gắt để thu hút. Hình 5: So sánh tình hình thực hiện vốn đăng ký của các TNCs với mức trung bình cả nước (Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam ) Hình 3: Cơ cấu vốn của các bên trong vốn pháp định Hình 4:Cơ cấu vốn của các bên trong vốn đầu tư thực hiện 0 50 100 c¶ n­íc TNCs 47.54% 67.32% Vèn ph¸p ®Þnh do phÝa ViÖt Nam gãp Vèn ph¸p ®Þnh do phÝa n­íc ngoµi gãp 81.71% 18.29% Vèn ®Çu t­ thùc hiÖn cña phÝa ViÖt Nam Vèn ®Çu t­ thùc hiÖn cña phÝa n­íc ngoµi Tỷ lệ 47 Như vậy, tỷ lệ vốn thực hiện trong tổng vốn đầu tư của các TNCs là 67,32 % cao hơn mức trung bình của cả nước (47,54%). Đây cũng là điều dễ hiểu bởi thông thường khi các TNCs quyết định đầu tư vào một nước nào đó, do có tiềm lực về tài chính, kỹ thuật công nghệ ...nên các TNCs sẽ nhanh chóng thực hiện ngay ý định đầu tư của mình. Ngoài ra các TNCs thường có kinh nghiệm trong việc lựa chọn các cơ hội đầu tư nên những lựa chọn này ít bị cản trở bởi những nguyên nhân khách quan. Trong một vài thập kỷ gần đây, diễn ra một xu hướng nổi bật trên thế giới đó là xu hướng mua lại và sát nhập các TNCs (M&A), làm cho quy mô và khả năng của các công ty này ngày càng được tăng nên. Theo thống kê, do ảnh hưởng của làn sóng sát nhập và thôn tính luồng ra của TNCs trên thế giới tăng rất nhanh. *- Các TNCs thường tập trung vào đầu tư ở một số thành phố lớn, trung tâm kinh tế của đất nước nơi có cơ sở hạ tầng tốt như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Bình Dương, Hải Phòng, Quảng Ngãi... Theo thống kê sơ bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, khoảng trên 50% vốn FDI của các TNCs tập trung vào các tỉnh trên. Trong đó, khoảng 17% vốn FDI của TNCs tập trung ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm gần 1.800 triệu USD; khoảng gần 9,3% vốn tập trung ở Hà Nội chiếm 943 triệu USD; ở Đồng Nai con số này tương ứng là 11% chiếm 1.115 triệu USD; ở Bà Rịa- Vũng Tàu là 9% chiếm 913 triệu USD; ở Bình Dương là 13% chiếm 1.318 triệu USD; ở Hải Phòng là gần 5 % chiếm 507 triệu USD...Ngoài ra FDI của TNCs còn tập trung nhiều ở những vùng phụ cận của các tỉnh thành phố lớn như Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Quảng Ninh... *- Các TNCs tham gia hầu hết vào các ngành của nền kinh tế. Lĩnh vực công nghiệp khai thác, sản xuất công nghiệp và khách sạn du lịch được coi là địa bàn hấp dẫn và thu hút nhiều TNCs nhất. Tính tới đầu năm 1999, Việt Nam đã cấp giấy phép đầu tư cho 33 tập đoàn dầu khí lớn nhất thế giới như Exxon Mobil, 48 Petrol, Catrol... vào đầu tư và hoạt động tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tư vào lĩnh vực thăm dò dầu khí là 2,6 tỷ USD. ở lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, tập đoàn Chinfon của Đài Loan đã đầu tư vào các ngành sản xuất xi măng, xe máy, tài chính và cũng thành lập cả ngân hàng Chinfon, công ty bảo hiểm với vốn đầu tư lên tới hơn 500 triệu USD. Trong những năm qua, các công ty TNCs đã đầu tư vào lĩnh vực nông lâm, thuỷ hải sản nhưng còn ít. *- Trước đây, TNCs hoạt động tại Việt Nam chủ yếu đến từ các nước đang phát triển ở Châu á. Tuy nhiên, hiện nay đã xuất hiện ngày càng nhiều các TNCs đến từ Châu âu( như Pháp với France telcom, Anh- Hà Lan với Unilever...), Châu Mỹ ( như Mỹ với Coca-cola, Pepsi&Co, Ford Moto, Mobil...) và ở Châu Á (như Nhật với Mitsubishi, Mitsui, Honda Motor, Toyota...) Hầu hết ở các Châu lục đều đã có các TNCs đầu tư vào Việt Nam, sự tham gia đầu tư của một số TNCs lớn đã kính thích các TNCs khác xem xét tiềm năng đầu tư ở thị trường Việt Nam và cũng đang có kế hoạch đầu tư trong thời gian tới. *- Trước đây, các công ty TNCs đầu tư vào Việt Nam chủ yếu dưới hình thức liên doanh và phía đối tác Việt Nam thường là các doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng hiện nay, hình thức 100% vốn nước ngoài có xu hướng ngày càng tăng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này: Do Chính Phủ có những chính sách khuyến khích hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đối với các dự án xuất khẩu 80% sản phẩm trở lên, hoặc những dự án dùng công nghệ cao, công nghệ mới và những trường hợp đầu tư vào việc lập các khu vui chơi, giải trí. Tuy nhiên, ngoài các lý do trên còn có các lý do như các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng thấy khó có thể làm việc chung một cách có hiệu suất cao với các đối tác liên doanh của Việt Nam, vì thế họ chuyển đổi dần dần các doanh nghiệp liên doanh sang 100% vốn nước ngoài là một điều dễ hiểu. Theo ước tính sơ bộ của bộ Kế hoạch và Đầu tư, thì tỷ trọng các dự án liên doanh và các dự án 100% vốn nước ngoài như sau: 49 Hình 6: Sự biến động tỷ trọng của hình thức 100% vốn nước ngoài và hình thức liên doanh qua các năm tính theo số dự án. (Nguồn: Viện kinh tế thế giới) 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 96 97 98 99 2000 2001 2002 liªn doanh 100%vèn n­íc ngoµi Nhìn vào hình trên ta thấy đây là một vấn đề đáng lo ngại, nếu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn ở hình thức liên doanh thì bên Việt Nam còn kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp, nhưng sau khi đã chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài thì chúng ta không thể kiểm soát được hoạt động của công ty thông qua những công cụ quản lý vi mô. Tuy nhiên, sự chuyển đổi từ doanh nghiệp liên doanh sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng có những nguyên nhân hợp lý của nó, trong đó chúng ta không thể phủ nhận sự kém cỏi của đối tác Việt Nam trong liên doanh, vì tạo ra những sơ hở khiến cho đối tác nước ngoài tận dụng được những cơ hội này. 2. Tình hình đầu tư của các TNCs đến từ các quốc gia hàng đầu thế giới Hiện nay, đã có hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam trong đó phải kể đến ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới: Mỹ, Nhật, EU. * Các TNCs Mỹ Tính đến tháng 10/2000, có khoảng hơn 10 TNCs của Mỹ đầu tư vào Việt Nam như: City Bank, Mobil, IBM, Chrysler, Otis.... Hơn nữa, các TNCs Mỹ thường đạt mức vốn thực hiện bằng 38-70% tổng vốn đầu tư, trong khi các TNCs Châu Á chỉ đạt bình quân khoảng trên 20%. Theo vụ quản lý dự án- Bộ kế Tỷ trọng Năm 50 hoạch và đầu tư, tính đến năm 2001, số TNCs của Mỹ đầu tư vào Việt Nam là 24 TNCs. Các quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ chỉ thực sự có được từ sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam (3/2/1994) và thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước (ngày 1/7/1995). Trước khi bỏ lệnh cấm vận, Mỹ chỉ có 7 dự án với tổng vốn đăng ký là 3,3 triệu USD được cấp phép trong giai đoạn1988-1993. Năm 1994, Mỹ đã có thêm ba dự án với tổng số vốn đăng ký lên tới 321,9 triệu USD. Tính từ 1988 đến tháng 10/1999, tổng vốn đầu tư của Mỹ vào Việt Nam đã vượt con số 1,25 tỷ USD với tổng số hơn 60 dự án. Tất cả các dự án này đều do các TNCs của Mỹ tiến hành. Vào thời điểm này, các TNCs của Mỹ đầu tư vào Việt Nam chủ yếu theo hình thức liên doanh (41 dự án), tiếp đến là hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài (17 dự án) và hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (5 dự án). Hình 7: Cơ cấu hình thức đầu tư của các TNCs Mỹ vào Việt Nam phân theo số dự án (Nguồn: Hoạt động của các TNCs Mỹ tại Việt Nam- Tạp chí tài chính) Tổng số vốn đăng ký của 41 dự án dưới hình thức liên doanh là 1062,77 triệu USD, chiếm 82% tổng vốn đầu tư. Một số dự án có mức vốn cam kết rất cao trên 100 triệu USD, như dự án khu nghỉ mát Non nước- Đà Nẵng( 243,39 triệu USD); hai liên doanh sản xuất lắp ráp ô tô lầ Ford- Hải Dương (102,6 triệu USD) và Chrysler- Đồng Nai (192 triệu USD). liªn doanh 100% vèn n­íc ngoµi Hîp ®ång hîp t¸c kinh doanh 26.98% 7.94% 65.08% 51 Các TNCs Mỹ đầu tư 188 triệu USD dưới hình thức 100% vốn nước ngoài của mình tại Việt Nam điển hình là hai dự án trong lĩnh vực ngân hàng tài chính (30 triệu USD), 8 dự án công nghiệp (39 triệu USD), 1 dự án thuộc lĩnh vực xây dựng (10,08 triệu USD) và 4 dự án trong lĩnh vực dịch vụ (12,6 triệu USD), bao gồm dự án sửa chữa ô tô đang hoạt động tại Phú Yên, dự án đào tạo nghiên cứu và phát triển công nghệ tin học ở thành phố Hồ Chí Minh; 3 hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí... Hình 8: Cơ cấu loại hình đầu tư của các TNCs Mỹ vào Việt Nam theo số vốn đầu tư (Nguồn: Tạp chí tài chính) Có thể thấy rằng, ban đầu khi các TNCs Mỹ đầu tư vào Việt Nam thì họ chủ yếu thực hiện dưới hình thức liên doanh để thăm dò thị trường và chia sẻ rủi ro với các đối tác Việt Nam. Tuy nhiên, sau đó khi đã nắm chắc thị trường Việt Nam thì các TNCs Mỹ lại muốn chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài. TNCs Mỹ có mặt hầu hết ở các lĩnh vực trọng điểm của các ngành kinh tế như lĩnh vực công nghiệp, bất động sản, khai thác dầu khí...Hai lĩnh vực đứng đầu là sản xuất công nghiệp và khách sạn văn phòng chiếm gần 82% tổng vốn đầu tư với 37 dự án. Tiếp đến là ngành dầu khí với hai dự án đạt 124,3 triệu USD, chiếm 9,62%; xây dựng đạt 2,92 %... Trong lĩnh vực điện tử, viễn thông và tin học, một số TNCs Mỹ như Iridium, Alcatel, Motoala... đã trở thành một trong những nhà cung cấp viễn thông chủ yếu trên thị trường Việt Nam, đặc biệt là tập đoàn viễn thông IRidium đã mở rộng mạng di động toàn cầu (GMN)- đây là mạng viễn thông cho phép thực hiện các cuộc gọi bằng điện thoại cầm tay cá nhân ở tất cả các khu vực trên thế giới- với số vốn đầu tư là 5 tỷ USD tại Việt liªn doanh 100% vèn n­íc ngoµi Hîp ®ång hîp t¸c kinh doanh 82.06% 9.06% 8.34% 52 Nam. Trong lĩnh vực tài chính, tập đoàn Stanley- một TNCs tài chính hàng đầu thế giới có liên doanh với tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam để lập công ty liên doanh với vốn pháp định là 100 triệu USD. Ngoài ra còn rất nhiều các TNCs nổi tiễng khác của Mỹ đang hoạt động tại thị trường Việt Nam như Ford, Coca-cola, Pepsi, Bia SanMiguel.....Các công ty này thâm nhập vào thị trường Việt Nam thông qua hình thức liên doanh, tuy nhiên hiện nay một số công ty đã chuyển thành 100% vốn nước ngoài như Coca-cola. Trên đây là tình hình đầu tư của các TNCs Mỹ cách đây vài năm. Đến nay, tình hình này đã có một vài thay đổi. Theo thống kê sơ bộ, tính đến tháng 11/2001, có 24 tập đoàn xuyên quốc gia của Hoa Kỳ (xếp hạng trong Global 500) đã đầu tư vào Việt Nam với 31 dự án, tổng số vốn đăng ký là 1.234 triệu USD. Thực tế cho thấy, có một số công ty đã đầu tư thông qua các chi nhánh hoặc các công ty con của mình được đăng ký tại các nước, các vùng lãnh thổ khác như: British Virgin Islands, Singapo, Hà Lan... Tình hình đầu tư của Mỹ vào Việt Nam năm 2002 có bước tiến triển mới, nhiều tập đoàn công nghệ thông tin đã tiến hành khảo sát thị trường và thực hiện đầu tư tại Việt Nam (điển hình là Microsoft, IBM…), tuy nhiên tác động của sự kiện 11/9 đã làm cho rất nhiều tập đoàn phải bỏ dở ý định khai thác thị trường Việt Nam. Một số dự án của Mỹ đầu tư thông qua một nước thứ ba chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng như Coca- cola, Pepsi&Co, Colgate, Gillette, Kimberly-Clark...chúng chủ yếu phục vụ cho thị trường trong nước. Tỷ lệ xuất khẩu của các dự án này rất thấp. ở lĩnh vực dịch vụ công nghệ thông tin như IBM, HP, Cisco System...các dự án của Mỹ hoạt động rất khó khăn do thị trường Việt Nam còn quá nhỏ bé –và chịu những ảnh hưởng chung của sự sút kém nền kinh tế công nghiệp thông tin toàn cầu. Tỷ lệ thành công của những dự án này rất thấp. Sau khi hiệp định thương mại Việt Nam- Mỹ được phê 53 chuẩn, các công ty trong lĩnh này đã đẩy mạnh hoạt động ở thị trường Việt Nam. Điều này sẽ làm tiền đề cho ngành công nghệ thông tin ở Việt Nam phát triển. Nếu như trước đây, hình thức đầu tư chủ yếu của các TNCs Mỹ ở Việt Nam là liên doanh thì hiện nay hình thức chủ yếu là 100% vốn nước ngoài. Bên cạnh đó, cũng vẫn có hình thức liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Một đặc điểm trong hoạt động đầu tư trực tiếp của các công ty TNCs Mỹ là bao giờ cũng đi kèm với các hoạt động bổ trợ khác như xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, đào tạo.... Đặc biệt, các TNCs Mỹ luôn coi trọng hoạt động R&D (hoạt động nghiên cứu và phát triển), thực hiện chuyển giao công nghệ để đi trước các đối thủ cạnh tranh, giữ vai trò chi phối tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực mà nó tham gia. Hơn nữa, trước khi thực hiện các chiến lược đầu tư và thương mại dài hạn, các TNCs Mỹ luôn tích cực tạo dựng hhinhf ảnh của mình cũng như tăng cường sự hiểu biết về thị trường Việt Nam thông qua các quỹ hỗ trợ văn hoá và phát triển khoa học như quỹ Ford Foundation của Mỹ. Nội dung hoạt động của quỹ này là giúp cho các đối tác Việt Nam, các viện nghiên cứu, các trường đại học, các hội-sở và một số cơ quan chính phủ... thực hiện trao đổi văn hóa, đào tạo, hội thảo khoa học nhằm tăng cường sự hiểu biết giữa hai nước. Có thể nhận thấy, các lĩnh vực mà các TNCs Mỹ quan tâm là những lĩnh vực mà Việt Nam khuyến khích đầu tư như: Dỗu khí, năng lượng, Xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo máy móc, điện tử, hoá chất, công nghiệp khai thác và chế biến hải sản. Các TNCs Mỹ khi tham gia vào thị trường Việt Nam cũng đã chiếm một thị phần đáng kể trên thị trường và tạo thêm hàng nghìn việc làm, đóng góp cho ngân sách Nhà nước hàng trăm triệu USD. Đồng thời, cũng đã góp phần nâng cao đời sống người dân Việt Nam thông qua việc tài trợ cho y- tế, giáo dục, thể thao, văn hoá... Tuy nhiên, xét cho cùng thì các TNCs là những người chậm chân hơn trong quan hệ với Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư. Thời gian qua mới chỉ là 54 bước dạo đầu để các TNCs Mỹ thăm dò tìm hiểu môi trường đầu tư của Việt Nam. Thực tế cho thấy rằng, việc thu hút FDI của các TNCs Mỹ cũng có những thụân lợi và khó khăn. Hiện nay khi hai nước đã ký hiệp định thương mại song phương, Mỹ sẽ dành cho Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc, nhưng đôi khi cần thì đối tác gian ngoan này cũng làm hại đến ta ngay mà không cần tính toán. Hy vọng trong tương lai, Mỹ và Việt Nam sẽ hợp tác hơn nữa để các nhà đầu tư đặc biệt là các TNCs Mỹ vào Việt Nam được thuận tiện hơn. *Các TNCs Nhật Bản Thông qua con đường giao lưu kinh tế- văn hoá, các tập đoàn kinh doanh của Nhật Bản đã có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Xuất khẩu hàng hoá vẫn được các TNCs Nhật Bản lựa chọn là hình thức thâm nhập thị trường để tránh rủi ro, nhất là vẫn giữ được quan hệ tốt với Mỹ khi Mỹ chưa bỏ cấm vận đối với Việt Nam. Tuy nhiên, trước năm 1994, khi Mỹ chưa bỏ cấm vận đối với Việt Nam thì đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam vẫn còn rất dè dặt. Tới cuối năm 1994, mới chỉ có 76 dự án, với tổng vốn cam kết là 791 triệu USD. Mực đầu tư cao nhất là vào lĩnh vực dầu khí (gần 10%) và khách sạn du lịch( 10%), còn lại là các ngành dịch vụ, công nghiệp chế tạo và ngư nghiệp. Sau khi Mỹ tuyên bố xoá bỏ cấm vận đối với Việt Nam thì hoạt động đầu tư của các TNCs Nhật Bản ở Việt Nam cũng bắt đầu khởi sắc, với mức tăng trưởng liên tục khoảng 8% năm, chỉ trong sáu tháng đầu năm 1995, Nhật Bản đã trở thành nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, với mức đầu tư lên tới 754 triệu USD, gần bằng toàn bộ FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong vòng mười năm trước. Hầu hết các tập đoàn kinh tế, thương mại hùng hậu của Nhật Bản đều đã có mặt ở Việt Nam. Các dự án đầu tư của các TNCs Nhật Bản chủ yếu tập trung vào các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai...là những nơi có điều kiện địa lý thuận lợi, có tiềm năng phát triển lớn. Các TNCs Nhật Bản cũng đầu 55 tư cào các khu chế xuất, khu công nghiệp nơi có những điều kiện ưu đãi về thuế quan và mang tính tập trung cao. Nếu phân tích một cách chính xác có thể thấy TNCs Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam theo hai hướng: Thứ nhất, hướng vào việc khai thác lợi thế của Việt Nam để xuất khẩu. Hướng thứ hai là nhằm vào thị trường nội địa. Nhóm thứ nhất, có thể kể đến các TNCs đầu tư vào dầu và khí đốt tự nhiên, thực phẩm, hàng dệt may...Nhóm thứ hai gồm các dự án đầu tư sản xuất xe máy, đồ điện dân dụng, chế biến thực phẩm...Thậm chí cả những dự án sản xuất thép như dự án của công ty Tyosi Seiko-C.Itoh- Mitsui.Co và dự án hoá chất của công ty Mitsui Toatsu cũng được xếp vào nhóm đầu tư hướng vào thị trường trong nước khi nhu cầu xây dựng và phát triển công nghiệp ở Việt Nam tăng nên. *Các TNCs của EU Tính tới cuối năm 2001, EU đã có tới 382 dự án được cấp phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 7,35 tỷ USD. Trong số đó, có 80 dự án giải thể trước thời hạn với tổng vốn là 1,54 tỷ USD, 14 dự án hết hạn với tổng vốn là triệu USD. Hiện nay, EU còn 288 dự án còn hiệu lực với tổng vốn là 5,8 tỷ USD,vốn thực hiện đầu tư là gần 2,37 tỷ USD. Các TNCs EU có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế của Việt Nam. Lĩnh vực đặc biệt được quan tâm là dầu khí. Hầu hết, các tập đoàn dầu khí nổi tiếng trên thế giới của EU đã có mặt tại Việt Nam như BP (Anh), Shell Group (Hà Lan- Anh), Total (Pháp), Elf Fina (Thuỵ Điển)....Lĩnh vực công nghiệp nặng cũng thu hút được hàng chục dự án với sự tham gia của một số TNCs lớn như Daimler Chryler (Đức)....Trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, các hãng nổi tiếng trên thế giới đã có mặt tại Việt Nam như Siemens (Đức), France Telecom, Alcatel ( Đức), Comvik (Thuỵ Điển).... Trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng và thực phẩm một loạt các công ty lớn đã có mặt như Unilever, Nestle (Thuỵ Sỹ), Elextrolux (Thuỵ Điển). Trong lĩnh vực hoá chất phân bón có Norsk Hydro 56 ( Nauy), Akzo Nobel (Thuỵ Điển) .... Trong lĩnh vực sản xuất dược phẩm có Novatis (Thuỵ Sỹ), Bayer AG (Đức).... Nhìn chung các nhà đầu tư rất quan tâm đến các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn, công nghệ kỹ thuật hiện đại, mang lại hiệu quả nhanh, phát huy được lợi thế của họ ở Việt Nam. Các tập đoàn của EU cũng góp phần hình thành lên các ngành nghề mới. Các TNCs của EU chủ yếu đầu tư vào những địa phương có cơ sở hạ tầng tương đối tốt như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đà Nẵng, Đồng Nai,... Hình thức đầu tư chủ yếu của các TNCs của EU là 100% vốn nước ngoài. Hình thức liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm một tỷ lệ nhỏ hơn. Hiện nay, các TNCs của EU có nhiều điều kiện thuận lợi để đầu tư vào Việt Nam. Đó là môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện, hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết, Việt Nam ngày càng tích cực tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế. Tất cả những điều đó hứa hẹn một tương lai tốt đẹp của sự hợp tác EU với Việt Nam. 3. Tìm hiểu một số TNCs lớn hoạt động ở Việt Nam Tính từ khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế và chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thì số lượng các TNCs tham gia đầu tư ở Việt Nam không ngừng tăng lên. Sau đây sẽ đi vào xem xét một số công ty lớn đã thực hiện đầu tư ở Việt Nam từ 1990 đến nay. Diethelm (Thuỵ Sỹ) là một tập đoàn xuyên quốc gia hoạt động trên các lĩnh vực sản xuất, xuất nhập khẩu, ngân hàng, bảo hiểm và dịch vụ du lịch. Deithelm hoạt động ở Việt Nam (Sài Gòn) từ năm 1890. Qua nhiều năm bị gián đoạn, năm 1991, công ty này trở lại Việt Nam và thành lập văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh, một chi nhánh tại Hà Nội, chuyên cung cấp thiết bị kỹ thuật trong nhiều lĩnh vực. 57 Tập đoàn công ty Lilama Otis (Mỹ) chuyên sản xuất và cung cấp thang máy hàng đầu thế giới. Hoạt động tại Việt Nam từ năm 1920 đến 1975, sau đó trở lại Việt Nam vào năm 1991. Mục tiêu của Otis là nghiên cứu môi trường đầu tư vào thị trường tiềm năng tại Việt Nam. Hiện Otis liên doanh với tổng công ty lắp máy Việt Nam (Limaha), cung cấp nhiều loại thiết bị cho các khách sạn, văn phòng, trị giá liên doanh này khoảng 2,5 triệu USD. Ngân hàng City Bank là một trong những công ty tài chính lâu đời của Mỹ, hoạt động trong lĩnh vực tài chính thương mại, được hình thành từ năm 1812, là một nhánh đồng sở hữu của City Group- một trong những tập đoàn tài chính hàng đầu thế giới. City Bank là ngân hàng của Mỹ đầu tiên hoạt động ở Châu á từ những năm 1902. Tới nay nó đã có 260 văn phòng và chi nhánh ở 25 nước Châu á, City Bank còn có khả năng kết nối những tổ chức quốc tế với các TNCs trên toàn thế giới. Việt Nam là một trong các thị trường được City Bank quan tâm. Tù trước năm 1975, City Bank đã đầu tư vào miền Nam Việt Nam, nhưng sau đó vì những rào cản về chính trị, nên buộc phải rút về. Sau khi Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, City Bank là ngân hàng Mỹ đầu tiên mở chi nhánh ở Hà Nội. Hoạt động chủ yếu của nó là cung cấp tài chính cho các dự án và hoạt động thương mại, các giao dịch ngân hàng và tài trợ về mặt tổ chức cho khách hàng toàn cầu làm ăn tại Việt Nam. Bên cạnh đó, City Bank còn tài trợ giúp các tổ chức và cơ sở thương mại Nhà nước trong quá trình tìm kiếm vốn đầu tư để hiện đại hoá và mở rộng thị phần hoạt động, trở nên mạnh hơn và có khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa, khu vực và thế giới. Dầu khí là một trong những ngành chiến lược của Việt Nam. Hiện có khoảng 20 tập đoàn nước ngoài đang xúc tiến thăm dò dầu khì ngoài khơi Việt Nam và Mobil là một trong 20 doanh nghiệp đó. Là một trong những công ty khí đốt, dầu lửa lớn nhất nước Mỹ, đến năm 1998, Mobil đã hoạt động được trên 130 năm, ở 125 nước. Mobil tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của công nghiệp dầu mỏ từ việc khai thác, sản xuất, lắp đặt đường ống, chuyên chở, cung cấp, tinh 58 chế, tiếp thị và phân phối sản phẩm. Mobil đặc biệt quan tâm đến các nước có nguồn năng lượng chưa được khai thác hoặc có nhu cầu lớn về nhiên liệu, trong đó có Việt Nam. Sau hơn hai mươi năm vắng bóng trên thị trường Việt Nam, Mobil đã quyay trở lại vào năm 1990. từ tháng 4/1994, Mobil đã cùng với hai đối tác Nhật Bản (JapexIndex và NishoIwai) thành lập liên doanh MJC cùng tiến hành các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí trong lô 05-1b năm trong bồn trũng Nam Côn Sơn. Đồng thời Mobil cũng đang tiến hành khoan và khai thác giếng Mộc Tinh trong lô 05-3AEDC. Giữa tháng 5/1996, các công ty BP, Bristish Gas, Mott Ewbank Preece cùng với Mobil và một số công ty dầu khí Việt Nam đã soạn thảo một dự án lớn về khí đốt. Dự án này khẳng định một tiềm năng to lớn về sự phát triển công nghiệp dầu khí của Việt Nam trong vòng 15 năm tới. Cùng với các hoạt động kinh doanh của mình, Mobil đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy bình thường hoá quan hệ hai nước Việt- Mỹ. Ngoài một số tập đoàn của Mỹ than gia vào trong lĩnh vực dầu khí thì còn một số TNCs của các nước khác, trong đó có tập đoàn Shell của Anh và Hà Lan. Theo đánh giá của Fortune 19/2/2001 thì đây là tập đoàn lớn thứ ba trong 10 tập đoàn dầu khí lớn nhất thế giới, đứng sau Exxon Mobil, BP America. Bắt đầu hoạt động ở Việt Nam từ năm 1988 đến nay Shell đã thành lập 3 công ty liên doanh và hai công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài Shell, còn có các TNCs khác cũng tham gia vào lĩnh vực này như: Mitsubishi với tổng vốn đầu tư 47 triệu USD, Total với tổng vốn đầu tư 140 triệu USD, Petrolium (Anh) với tổng vốn đầu tư là 60 triệu USD. Daewoo (Hàn Quốc) là một tập đoàn xuyên quốc gia hoạt động trong lĩnh vực thương mại, xây dựng, chế tạo ô tô, chế tạo điện tử dân dụng, máy tính, viễn thông, công nghiệp nặng bao gồm cả hàng không và đóng tàu biển, các dịch vụ về tài chính và khách sạn. Năm 1991, Daewoo mở văn phòng đại diện tại Hà Nội, tổng giá trị vốn đầu tư của Daewoo vào Việt Nam đến nay lên tới 750 triệu 59 USD và trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất ở Việt Nam, với 37 dự án trong đó 18 dự án được cấp phép đầu tư, một dự án về khai thác dầu khí, hai dự án xây dựng (đường quốc lộ 18 và quốc lộ 1). Trong đó, những dự án được triển khai là: Trung tâm thương mại Daeha, dựa án đèn hình, sản xuất và lắp ráp ô tô, thuốc trừ sâu, sơn, giấy, thăm dò dầu khí, một khách sạn năm sao, một ngân hàng liên doanh. Hoạt động của Daewoo ở Việt Nam đã tạo việc làm ổn định cho trên 4.500 người Việt Nam đang làm việc cho Daewoo và 680 người Việt Nam được đào tạo tại Hàn Quốc và các nước khác. Khu công nghiệp Daewoo Hanel đã hoạt động theo hình thức liên doanh, trị giá vốn đầu tư khoảng 152 triệu USD. Daewoo luôn quan tâm đến việc chuyển giao công nghệ, góp phần phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam, coi Việt Nam là một trong những thị trường được quan tâm hàng đầu. Lĩnh vực ô tô, xe máy là một trong lĩnh vực thu hút được nhiều nhà đầu tư thuộc các hãng lớn, sản phẩm của họ nổi tiếng và có uy tín trên thế giới. Bảng 9:TNCs đăng ký hoạt động trong lĩnh vực ô tô tại Việt Nam. TNCs Thời gian hoạt động (năm) Vốn đầu tư (triệu USD) Mục tiêu Nước sản xuất Daewoo 30 32,23 Xuất khẩu Hàn Quốc Isuza 40 50 Nhật Bản Ford 40 102,7 Xuất khẩu Mỹ Daihatsu 30 32 Xuất khẩu Nhật Bản Suzuki 30 35 Nhật Bản Toyota 40 89,609 Xuất khẩu Nhật Bản Mercedes 30 70 Xuất khẩu Đức (Nguồn: Kỷ yếu hội thảo khoa học về TNCs năm 2000) Đến nay Việt Nam đã cấp phép hoạt động cho nhiều dự án sản xuất xe máy và 14 dự án sản xuất ô tô với tổng vốn đầu tư thực hiện là 376 triệu USD bằng 60 43,12 % tổng vốn đăng ký. Tuy nhiên, tới nay trong số 14 dự án đầu tư sản xuất ô tô có 3 dự án không triển khai (Chryler, Nissan, Vetsin), một dự án tuy đã triển khai (đã đầu tư 16 triệu USD) nhưng tạm dừng không đầu tư tiếp, tới cuối năm 1999 đầu năm 2000 mới quay lại, đó là Mercedes- Benz và liên doanh Mekông cũng đã ngừng sản xuất trong những năm 1998,1999,2000,2001 và mới bắt đầu xem xét lại kế hoạch tiếp tục sản xuất ở Việt Nam trong năm 2002 trở đi. Hoạt động trong lĩnh vực điện tử viễn thông và tin học Việt Nam cũng rất sôi động. Tính đến giữa tháng 6/2000 đã có bốn dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép với tổng vốn thực hiện là 388 triệu USD, trong đó 94 % các dự án thực hiện theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh về dịch vụ viễn thông, 6% số dự án theo hình thức liên doanh để sản xuất thiết bị vật tư bưu điện, và có khá nhiều TNCs Mỹ tham gia đầu tư trong lĩnh vực này. Intel (Mỹ) là công ty xuyên quốc gia có bề dầy hoạt động hơn 28 năm với chức năng chính là phân phối và bán các sản phẩm của Intel, đồng thời cũng thường mở lớp huấn luyện về công nghệ mới cho các nhà phân phối Việt Nam, cho nêm công ty này góp phần không nhỏ vào việc phát triển trình độ tin học, viễn thông tại Việt Nam. IBM là công ty máy tính khổng lồ của Mỹ, đã đầu tư 1,7 triệu USD nhằm cung cấp các công nghệ và dịch vụ về tin học tại Việt Nam và hoạt động rất có hiệu quả tại Việt Nam. Erricsson (Thuỵ Điển) là một trong những công ty viễn thông nổi tiếng hiện đang quả lý một mạng lưới với trên 137 triệu máy điện thoại di động khắp toàn cầu. Năm 1993, Erricsson đã mở văn phòng đại diện tại Hà Nội, đến nay công ty đã nhận thầu các hợp đồng cung cấp trạm tổng đài cho các mạng nối dây và mạng vô tuyến truyền hình giành cho điện thoại. Để hoạt động có hiệu quả và quản lý tốt mạng lưới phục vụ máy, hãng đã đào tạo hơn 200 kỹ sư và chuyên viên kỹ thuật tại Việt Nam và ở nước ngoài. 61 Ngoài ra còn có một số tập đoàn chuyên sản xuất và kinh doanh điện tử gia dụng như Samsung (Hàn Quốc), Sanyo, Sony, Toshiba, JVC, Mitssubishi (Nhật Bản), National, Cariier (Mỹ)... đã hoạt động ở Việt Nam từ đầu những năm 90, từ nhập khẩu những sản phẩm nguyên chiếc, đến dạng CKD, IKD để lắp ráp tại Việt Nam. Đến nay các công ty này đã thành lập nhiều liên doanh ở Việt Nam vừa lắp ráp vừa sản xuất trong nước vẫn đảm bảo chất lượng cao và giá thành hạ. Ngoài các lĩnh vực kể trên, thì hầu hết lĩnh vực đều có các TNCs tham gia. Tuy nhiên, các TNCs nói chung hoạt động ở thị trường Việt Nam còn rất khiêm tốn, mới chỉ có khoảng tên 100 TNCs, trong đó chủ yếu là ccs TNCs có xuất xứ từ Châu Á. Trong khi hiện nay trên thế giới đã co khoảng 6000 TNCs, thì con số các TNCs đầu tư vào Việt Nam như vậy là quá ít. Kết luận Theo thống kê mới nhất của Bộ Kế hoạch và đầu tư, hiện nay các TNCs có gần 300 dự án tại Việt Nam với tổng số vốn pháp định đăng ký của bên nước ngoài là trên 5 tỷ USD

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Hoạt động đầu tư trực tiếp của các TNCs tại Việt NamThực trạng và giải pháp.pdf
Tài liệu liên quan