Luận văn Hoàn thiện và nâng cao chất lượng các hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán ngân hàng công thương

Tài liệu Luận văn Hoàn thiện và nâng cao chất lượng các hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán ngân hàng công thương: Luận văn HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CHỨNG KHOÁN CỦA CTCK NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG LỜI MỞ ĐẦU Công nghiệp hoá là bước phát triển tất yếu của mỗi dân tộc mỗi đất nước phải trải qua. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân ở nước ta, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề quan trọng. Trong đó vốn là chìa khoá để thực hiện công nghiệp hoá. Để công nghiệp hoá với tốc độ nhanh cần có cơ chế chính sách và biện pháp huy động được nhiều vốn nhất và sử dụng vốn có hiệu quả. Một trong những biện pháp thực hiện huy động mọi nguồn vốn có thể huy động được khơi động mọi nguồn vốn trong nước, khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút một nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư, thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, đó là TTCK. Đối với chúng ta, đây là vấn đề mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn, vì vậy để có một TTCK hợp lý, đem lại hiệu quả cao đòi hỏi chúng ta có nhận thức và quan điểm đúng đắn về vấn đề này. Nh...

pdf83 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1013 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hoàn thiện và nâng cao chất lượng các hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán ngân hàng công thương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CHỨNG KHOÁN CỦA CTCK NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG LỜI MỞ ĐẦU Công nghiệp hoá là bước phát triển tất yếu của mỗi dân tộc mỗi đất nước phải trải qua. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân ở nước ta, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề quan trọng. Trong đó vốn là chìa khoá để thực hiện công nghiệp hoá. Để công nghiệp hoá với tốc độ nhanh cần có cơ chế chính sách và biện pháp huy động được nhiều vốn nhất và sử dụng vốn có hiệu quả. Một trong những biện pháp thực hiện huy động mọi nguồn vốn có thể huy động được khơi động mọi nguồn vốn trong nước, khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút một nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư, thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, đó là TTCK. Đối với chúng ta, đây là vấn đề mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn, vì vậy để có một TTCK hợp lý, đem lại hiệu quả cao đòi hỏi chúng ta có nhận thức và quan điểm đúng đắn về vấn đề này. Nhằm góp phần vào lĩnh vực phát triển của TTCK của Việt Nam. Em chọn chuyên đề tốt nghiệp với đề tài là: " Hoàn thiện và nâng cao chất lượng các hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK Ngân hàng Công thương”. CHƯƠNG I NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY 1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1.1. Khái niệm Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên TTCK. Ở Việt Nam theo quyết định 04/1998/QĐ-UBCK 3 ngày 13/10/1998 của Uỷ ban chứng khoán nhà nướccông ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty TNHH thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được Uỷ ban chứng khoán nhà nướccấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán 1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà chứng khoán được lưu thông từ nhà phát hành đến người đầu tư và tạo cho chứng khoán có tính thanh toán cao. Thông qua đó để huy động nguồn vốn từ nơi nhàn rỗi để phân bố vào nơi sử dụng có hiệu quả. Do đó chúng ta có thể nói chức năng nhiệm vụ của công ty chứng khoán như sau: - Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi đến người sử dụng vốn (thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành) - Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch (thông qua hệ thống khớp lệnh hoặc khớp giá) - Tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán (khoán chuyển từ chứng khoán ra tiền mặt một cách dễ dàng) - Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường (thông qua hoạt động tự doanh đóng vai trò nhà tạo lập thương trường) 1.1.3. Vai trò Các công ty chứng khoán có một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế cũng như trong hoạt động chứng khoán hay nói cách khác, các công ty chứng khoán có vai trò hết sức quan trọng đối với những chủ thể khác nhau trên TTCK * Đối với tổ chức phát hành: Mục tiêu tham gia vào TTCK của công ty phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán vì vậy thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các công ty chứng khoán có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành. * Đối với nhà đầu tư: Thông qua hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư công ty chứng khoán có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Đối với hàng hoá thông thường mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán. Tuy nhiên đối với TTCK sự biến động thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho những nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các công ty chứng khoán với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp, sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả.* Đối với TTCK Đối với TTCK , công ty chứng khoán thể hiện hai vai trò chính: (1) Góp phần tạo lập giá cả điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải thông qua các công ty chứng khoán vì họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán. Cáac công ty chứng khoán là những thành viên của thị trường, do đó họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các công ty chứng khoán cùng với các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá các các công ty chứng khoán Các công ty chứng khoán còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ những khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều công ty chứng khoán đã dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường. 2) Góp phần làm tăng tính thanh khoán của các tài sản tài chính, TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoán của các tài sản tài chính. Nhưng các công ty chứng khoán mới tạo ra cơ chế trao đổi trên thị trường. Trên thị trường cấp 1 do cải thiện các hoạtđộng như bảo lãnh, phát hành chứng khoán hoá, các công ty chứng khoán không những huy động được một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoán của các tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán trao đổi trên thị trường trên thị trường cấp 2. Điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho nhà đầu tư. Trên thị trường cấp 2, do thực hiện các giao dịch mua và bán các công ty chứng khoán giúp nhà đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. Những hoạt động có thể làm tăng tính thanh khoán của những tài sản tài chính. 3). Đối với cơ quan quản lý thị trường: Công ty chứng khoán có vai trò cung cấp thông tin về TTCK cho các cơ quan quản lý thị trường để thực hiện mục tiêu đó. Các công ty chứng khoán thực hiện được vai trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành các chứng khoán mở, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện giao dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của TTCK là các thông tin cần phải được công khai hoá dưới sự giám sát của các tài chính, cơ quan quản lý thị trường. Việc cung cấp thông tin vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các công ty chứng khoán vì công ty chứng khoán có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua bán trên thị trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu và tài chính phát hành thông tin về các nhà đầu tư…Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường. Tóm lại, công ty chứng khoán là một tài chính chuyên nghiệp trên TTCK, các nhà phát hành đối với cơ quan quản lý thị trường và đối với TTCK nói chung. 1.1.4 Mô hình hoạt động của công ty chứng khoán Hiện nay, có ba loại hình tài chính cơ bản của công ty chứng khoán, đó là: công ty hợp doanh, công ty TNHH, công ty cổ phần: a. Công ty hợp doanh - Là loại hình kinh doanh có từ 2 chủ sở hữu trở lên - Thành viên của công ty chứng khoán hợp doanh bao gồm: thành viên góp vốn và thành viên hợp doanh. Các thành viên hợp doanh chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Các thành viên góp vốn không tham gia vào điều hành công ty họ chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình đối với những khoản nợ của công ty. * Công ty hợp doanh thông thường không được phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào. b. Công ty cổ phần: * Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu các công ty là các cổ đông. * Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp * Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán hiện hành. c. Công ty TNHH * Thành viên của công ty trách nhiệm phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. * Công ty TNHH không được phép phát hành cổ phiếu. Do có những ưu điểm của loại hình công ty cổ phần và công ty TNHH so với công ty hợp doanh, vì vậy hiện nay chủ yếu các công ty chứng khóan được tổ chức dưới hình thức công ty TNHH và công ty cổ phần. 1.2. CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.2.1. Các hoạt động chính 1.2.1.1. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua bán, bán chứng khoán cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch taih SGDCK hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến khách hàng của mình các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán. Và trong những trường hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành những người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo. Xuất phát từ yêu cầu trên, nghề môi giới đòi hỏi phải có những phẩm chất, tư cách đạo đức, kỹ năng mẫn cán trong công việc và với thái độ công tâm, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Nhà môi giới không được xúi dục khách hàng mua, bán chứng khoán để kiếm hoa hồng, mà nên đưa ra những lời khuyên hợp lý để hạn chế đến mức thấp nhất về thiệt hại cho khách hàng. Kỹ năng của người môi giới chứng khoán được thể hiện trên các khía cạnh: - Kỹ năng truyền đạt thông tin: Phẩm chất hay thái độ của người môi giới đối với công việc, với bản thân và với khách hàng được truyền đạt rõ ràng đối tới hầu hết các khách hàng mà người môi giới thực hiện giao dịch. Để thành công trong việc bán hàng (cung ứng dịch vụ mua, bán) người môi giới phải đặt khách hàng lên trên hết và doanh thu của mình là yếu tố thứ yếu. Đây là điểm then chốt trong hoạt động dịch vụ tài chính và phải được thực hiện ngay từ khi tiếp xúc với khách hàng. - Kỹ năng tìm kiếm khách hàng: có nhiều phương pháp để tìm kiếm khách hàng, nhưng tựu trung có thể được gộp vào nhóm 6 phương cách sau: những đầu mối được gây dựng từ công ty hoặc các tài khoản chuyển nhượng lại; những lời giới thiệu khách hàng; mạng lưới kinh doanh; các chiến dịch viết thư; các cuộc hội thảo; gọi điện làm quen. - Kỹ năng khai thác thông tin: một trong những nguyên tắc trong hàng nghề môi giới là phải hiểu khách hàng, biết được khả năng tài chính, mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng. Ngoài ra nó còn giúp cho nhà môi giới tăng được khối lượng tài sản quản lý, có chiến lược khách hàng thích hợp. 1.2.1.2. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán. Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc các Công ty chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên phân tích tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại theo các tiêu chí sau: + Theo hình thức của hoạt động tư vấn: Bao gồm tư vấn trực tiếp (gặp gỡ khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thư từ, điện thoại) và tư vấn gián tiếp (thông qua các ấn phẩm, sách báo) để tư vấn cho khách hàng. + Theo mức độ uỷ quyền của tư vấn: Bao gồm tư vấn gợi ý (gợi ý cho khách hàng về phương cách đầu tư hợp lý, quyết định đầu tư là của khách hàng) và tư vấn uỷ quyền (vừa tư vấn vừa quyết định theo sự phân cấp, uỷ quyền thực hiện của khách hàng). + Theo đối tượng hoạt động tư vấn: Bao gồm tư vấn cho người phát hành (tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành: cách thức, hình thức phát hành, xây dựng hồ sơ, bản cáo bạch…. Và giúp tổ chức phát hành trong việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh, phân phối chứng khoán) và tư vấn đầu tư (tư vấn cho khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời gian, định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán …v.v.). Nguyên tắc cơ bản của tư vấn: Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn chất xám mà họ đã bỏ ra, để kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận (Hiệu quả) cho khách hàng. Nhà tư vấn đòi hỏi hết sức thận trọng trong việc đưa ra các lời khuyên đối với khách hàng, vì với lời khuyên đó khách hàng có thể thu về lợi nhuân lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về cho mình khoản thu phí về dịch vụ tư vấn (bất kể tư vấn đó thành công hay không). Hoạt động tư vấn đòi hỏi phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản như sau: + Không đảm bảo chắc chắn về giá trị chứng khoán: giá chị chứng khoán không phải là một số cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế, tâm lý và diễn biến thực tiễn của thị trường . + Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ, có thể là không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối cùng. Trong việc sử dụng các thông tin từ nhà tư vấn để đầu tư, nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra. + Không được dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan là quá trình phân tích, tổng hợp một cách khoa học, logic các vấn đề nghiên cứu. 1.2.1.3. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Để thực hiện thành công các đợt chào bán hàng chứng khoán ra công chúng, đòi hỏi tổ chức phát hành phải cần đến các Công ty chứng khoán tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện bảo lãnh phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các Công ty chứng khoán và là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của Công ty chứng khoán. Như vậy, nghiệp vụ sau bảo lãnh phát hành là việc Công ty chứng khoán có chức năng bảo lãnh (sau đây gọi tắt là tổ chức bảo lãnh - TCBL) giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên TTCK, tổ chức bảo lãnh phát hành không chỉ có Công ty chứng khoán mà còn bao gồm các định chế tài chính khác như ngân hàng đầu tư nhưng thông thường việc Công ty chứng khoán nhận bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn các ngân hàng đầu tư thường đứng ra nhận bảo lãnh phát hành (hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành) sau đó chuyển phân phối chứng khoán cho các Công ty chứng khoán tự doanh hoặc các thành viên khác. Khi một tổ chức muốn phát hành chứng khoán, tổ chức đó gửi yêu cầu bảo lãnh phát hành đến Công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán có thể ký một hợp đồng tư vấn quản lý để tư vấn cho tổ chức phát hành về loại chứng khoán cần phát hành, số lượng chứng khoán cần phát hành, định giá chứng khoán và phương thức phân phối chứng khoán đến các nhà đầu tư thích hợp. Để được phép bảo lãnh phát hành, Công ty chứng khoán phải đệ trình một phương án bán và cam kết bảo lãnh lên uỷ ban chứng khoán. Khi các nội dung cơ bản của phương án phát hành được uỷ ban chứng khoán thông qua. Công ty chứng khoán có thể trực tiếp ký hợp đồng bảo lãnh, hoặc thành lập nghiệp đoàn bảo lãnh để ký hợp đồng bảo lãnh giưã nghiệp đoàn và tổ chức phát hành. Khi uỷ ban chứng khoán cho phép phát hành chứng khoán và đến thời hạn giấy phép phát hành có hiệu lực, Công ty chứng khoán (hoặc hiệp đoàn bảo lãnh) thực hiện phân phối chứng khoán. Các hình thức phân phối chứng khoán chủ yếu là: + Bán riêng cho tổ chức đầu tư tập thể, các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí. + Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ với tổ chức phát hành. + Bán rộng rãi ra công chúng. Đúng đến ngày theo hợp đồng Công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền bán cho tổ chức phát hành. Số tiền thanh toán là giá trị chứng khoán phát hành trừ đi phí bảo lãnh. 1.2.1.4. Nghiệp vụ tự doanh Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên SGDCK hoặc thị trường OTC. Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá (quote driven) hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này, công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để hưởng chênh lệch giá. Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, luật pháp của các nước đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa các nghiệp vụ môi giới và tự doanh, công ty chứng khoán phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình. Thậm chí luật pháp ở một số nước còn quy định có 2 loại hình công ty chứng khoán là công ty môi giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới và công ty chứng khoán có chức năng tự doanh. Khác với nghiệp vụ môi giới, công ty chứng khoán chỉ làm trung gian thực hiện lệnh cho khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh công ty chứng khoán kinh doanh bằng chính nguồn vốn của công ty. Vì vậy, công ty chứng khoán đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn và đội ngũ nhân viên có trình đọ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường. Yêu cầu đối với công ty chứng khoán - Tách biệt quản lý: các công ty chứng khoán phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách biệt này bao gồm tách biệt về: yếu tố con người; quy trình nghiệp vụ; vốn và tài sản của khách hàng và công ty. - Ưu tiên khách hàng: công ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty. Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng cho các khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các công ty chứng khoán có thể sẽ dự đoán trước được diễn biến của thị trường và sẽ mua hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc trên. Góp phần bình ổn thị trường: Các công ty chứng khoán hoạt động tự doanh nhằm góp phần bình ổn giá cả thị trường. Trong trường hợp này, hoạt động tự doanh được tiến hành bắt buộc theo luật định. Luật các nước đều quy định các công ty chứng khoán phải dành một tỉ lệ % nhất định các giao dịch của mình (ở Mỹ là 60%) cho hoạt động bình ổn thị trường. Theo đó, các công ty chứng khoán có nghĩa vụ mua vào khi giá chứng khoán bị giảm và bán ra khi giá chứng khoán lên nhằm giữ giá chứng khoán ổn định. - Hoạt động tạo thị trường: khi được phát hành, các chứng khoán mới chưa có thị trường giao dịch. Để tạo thị trường cho các chứng khoán này, các công ty chứng khoán thực hiện tự doanh thông qua việc mua và bán chứng khoán, tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp hai. Trên những TTCK phát triển, các nhà tạo lập thị trường (Market – Makers) sử dụng nghiệp vụ mua bán chứng khoán trên thị trường OTC để tạo thị trường. Theo đó, họ liên tục có những báo giá để mua hoặc bán chứng khoán với các nhà kinh doanh chứng khoán khác. Như vậy, họ sẽ duy trì một thị trường liên tục đối với chứng khoán mà họ kinh doanh. - Các hình thức giao dịch trong hoạt động tự doanh: Giao dịch gián tiếp: Công ty chứng khoán đặt các lệnh mua và bán chứng khoán trên Sở giao dịch, lệnh của hộ có thể thực hiện với bất kỷ khách hàng nào không được xác định trước. Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch tay đôi giữa hai Công ty chứng khoán hay giữa Công ty chứng khoán với một khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng của các giao dịch trực tiếp là các loại chứng khoán đăng ký giao dịch ở thị trường OTC. 1.2.1.5. Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu tư, khách hàng uỷ thác tiền cho Công ty chứng khoán thay mặt quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp nhận theo yêu cầu (mức lợi nhuận kỳ vọng; rủi ro có thể chấp nhận….) Quy trình của nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư có thể được khái quát bao gồm các bước sau: + Xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý: Công ty chứng khoán và khách hàng tiếp xúc và tìm hiểu về khả năng tài chính, chuyên môn từ đó đưa ra các yêu cầu về quản lý vốn uỷ thác. + Ký hợp đồng quản lý: CTCK ký hợp đồng quản lý giữa khách hàng và Công ty theo các yêu cầu, nội dung về vốn, thời gian uỷ thác, mục tiêu đầu tư, quyền và trách nhiệm của các bên, phí quản lý danh mục đầu tư. + Thực hiệp hợp đồng quản lý: Công ty chứng khoán thực hiện đầu tư vốn uỷ thác của khách hàng theo các nội dung đã được cam kết và phải đảm bảo tuân thủ các quy định về quản lý vốn, tài sản tách biệt giữa khách hàng và chính Công ty. 1.2.1.6. Lưu ký chứng khoán: Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì trong giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các công ty chứng khoán (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ) hoặc ký gửi các chứng khón (nếu phát hành dưới hình thức chứng chỉ vật chất). Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán. + Kết thúc hợp đồng quản lý: Khách hàng có nghĩa vụ thanh toán các khoản phí quản lý theo hợp đồng ký kết và xử lý các trường hợp khi công ty chứng khoán bị ngưng hoạt động, giải thể hoặc phá sản. 1.2.2 Các nghiệp vụ hỗ trợ 1.2.2.1. Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý tổ chức): Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, Công ty chứng khoán sẽ theo dõi tình hình thu lãI, cổ tức chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. 1.2.2.2. Nghiệp vụ tín dụng: Đối với các TTCK phát triển, bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, Công ty chứng khoán còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống (short sale) hoặc cho khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ (margin purchase). Cho vay kỹ quỹ là hình thức cấp tín dụng của Công ty chứng khoán cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các loại chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do Công ty chứng khoán ứng trước thanh toán. Đến ký hạn thoả thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ số gốc vay cùng với lãi cho Công ty chứng khoán. Trường hợp khách hàng không trả được nợ, thì Công ty sẽ phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ. 1.2.2.3. Nghiệp vụ cầm cố chứng khoán cho vay ở một số TTCK, pháp luật về TTCK còn cho phép Công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ quản lý đầu tư. Theo đó, Công ty chứng khoán cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vồn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư vào chứng khoán. Công ty chứng khoán được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư. 1.3 CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA CTCK 1.3.1 Khái niệm chất lượng hoạt động Các CTCK cũng là một doanh nghiệp do đó chất lượng hoạt động được thể hiện ở hiệu quả kinh doanh của công ty đó. Đối với CTCK thì được thể hiện ở hiệu quả của các nghiệp vụ kinh doanh của công ty đó và được thể hiện qua các chỉ tiêu đánh giá sau. 1.3.2. Chỉ tiêu đánh giá Tất cả các doanh nghiệp tồn tại và phát triển đều phải đặt ra những mục tiêu cụ thể. Để đạt được mục tiêu đó trước hết doanh nghiệp phải xác định cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp với sự biến động của thị trường. Đồng thời phải tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh. Vậy hiệu quả kinh doanh là gì? Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Trong nền kinh tế thị trường một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả khi doanh nghiệp đó đạt được hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thường dựa trên các chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính. 1.3.2.1. Chỉ tiêu định lượng Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hoạt động trong quá trình kinh doanh, thể hiện ở hệ số sinh lời của vốn kinh doanh: Hệ số sinh lời của VKD = Tổng lợi tức các hoạt động Tổng vốn bình quân của các hoạt động Chỉ tiêu trên cho thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn kinh doanh bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó có tác động khuyến khích và quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm đồng vốn trong các khâu của quá trình kinh doanh. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh: HQSD chi phí KD = Doanh thu thực thu hoặc doanh thu thuần Tổng chi phí kinh doanh Vớí chỉ tiêu này sẽ phản ánh doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí kinh doanh thì sẽ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thực thu hoặc doanh thu thuần. Lợi nhuận gộp hoặc lợi nhuận thuần Sức sinh lời của CPKD = Tổng chi phí kinh doanh Ý nghĩa của chỉ tiêu này: Cứ một đồng chi phí kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng của từng loại tài sản: Hiệu quả sử dụng của tài sản lưu động: Lợi nhuận gộp hoặc lợi nhuận thuần Khả năng sinh lời của TSLĐ = Tổng giá trị tài sản lưu động bình quân Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân tài sản lưu động bình quân vào sản xuất kinh doanh thì sẽ đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định: Hiệu quả sử dụng tài sản cố định và vốn cố định được đánh giá bằng nhiều chỉ tiêu nhưng chủ yếu sử dụng những chỉ tiêu sau: Tổng doanh thu Hiệu quả sử dụng tài sản cố định = TSCĐ bình quân Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu: Tổng lợi tức các hoạt động Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu = Tổng vốn chủ sở hữu bình quân Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu được đánh giá bằng khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả càng cao và ngược lại. 1.3.2.2. Chỉ tiêu định tính. Chỉ tiêu định tính để đánh giá hiệu quả kinh doanh là những chỉ tiêu không thể lượng hoá được bằng con số. Chỉ tiêu này thường được đánh giá bởi thị trường, các nhà phân tích, đặc biệt là khách hàng. Ở công ty chứng khoán chỉ tiêu định tính được nói đến là vị thế và uy tín của công ty trên thị trường. Điều này thể hiện ở định hướng hoạt động của công ty có phù hợp với tình hình thị trường, điều kiện thực tế của chính doanh nghiệp cũng như yêu cầu của khách hàng hay không, chất lượng nhân sự trong công ty, vị trí địa lý của trụ sở công ty có thuận lợi về giao thông, có ở trung tâm hay không, đặc biệt là có chiến lược marketing phù hợp, từ đó công ty tạo ra được cách thức để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng... Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt thì các chỉ tiêu định tính để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các công ty càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Khi một công ty đạt được những tiêu chuẩn định tính cũng đồng nghĩa với việc tình hình kinh doanh của công ty rất có hiệu quả, có vị thế cạnh tranh cao trên thị trường và đạt được các tiêu chuẩn định lượng. Chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chỉ tiêu định lượng là tiền đề, là cơ sở để đạt được chỉ tiêu định tính, ngược lại chỉ tiêu định tính tác động trở lại để hoạt động kinh doanh của công ty thêm hiệu quả. 1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN. 1.4.1. Nhân tố khách quan Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế gắn liền với hoạt động của một công ty. Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một công ty nào cũng luôn quan tâm đến hiệu quả kinh doanh vì nó quyết định sự sống còn của công ty. Hoạt động kinh doanh của công ty lại chịu chi phối bởi rất nhiều các yếu tố cả bên trong lẫn bên ngoài công ty và chính vì thế hiệu quả kinh doanh của công ty cũng bị ảnh hưởng bởi các nhân tố này. Là một mắt xích quan trọng của thị trường, những biến đổi của thị trường đều tác động đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Nó có thể tạo cho công ty những nguy cơ hoặc cơ hội kinh doanh. Thị trường chịu sự tác động của các chính sách kinh tế chính trị xã hội của một quốc gia và tình hình kinh tế của toàn cầu. Những quốc gia có tình hình kinh tế chính trị xã hội ổn định, vững mạnh sẽ tạo được lòng tin đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đó là một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế cùng với hoạt động tài chính tiền tệ. Vấn đề thu nhập quốc dân của một quốc gia và thu nhập bình quân đầu người chính là những yếu tố tác động đến nhu cầu về số lượng hàng hoá, dịch vụ, về chủng loại, chất lượng, về thị hiếu... Trên cơ sở đó, hoạt động kinh doanh của các công ty nói chung và các công ty chứng khoán nói riêng sẽ gặp nhiều thuận lợi. Các nhà đầu tư sẵn sàng hơn trong việc tham gia vào thị trường, các công ty cũng sẵn sàng mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh. Điều này sẽ làm tăng qui mô của thị trường nên những công ty biết đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường sẽ là những công ty làm ăn có hiệu quả. Trong môi trường này, sự tăng trưởng, các chính sách kinh tế, lạm phát, biến động tài chính tiền tệ, hoạt động của các đối thủ cạnh tranh luôn tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Ngược lại những quốc gia có tình hình kinh tế chính trị xã hội bấp bênh, kém ổn định, xung đột xảy ra liên miên gây ra những cơn sốt, cú sốc, sức ép thị trường... thì các công ty chứng khoán cũng khó có thể hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, một môi trường pháp lý lành mạnh vừa tạo điều kiện cho các công ty tiến hành thuận lợi các hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời điều chỉnh các hoạt động kinh tế theo hướng không chỉ chú ý đến hiệu quả kinh doanh của riêng bản thân công ty mà còn phải quan tâm đến hiệu quả của toàn xã hội. Cùng với điều này, thì nội dung của các chính sách quản lý kinh tế, chính sách quản lý về chứng khoán và TTCK có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán. Mọi hoạt động kinh doanh chứng khoán đều phải nằm trong khuôn khổ của các quy định này. Chính vì thế, một chính sách quản lý đúng đắn, phù hợp sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh doanh chứng khoán, dẫn đến sự phát triển của TTCK và toàn bộ nền kinh tế, trái lại, một chính sách cứng nhắc, thiếu hợp lý sẽ gây nhiều trở ngại cho sự phát triển của toàn bộ thị trường nói chung và đến sự phát triển của một công ty nói riêng. Là một chủ thể quan trọng của TTCK, thì sự phát triển của TTCK cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán. Một khi TTCK phát triển, có nghĩa là hàng hoá trên thị trường đa dạng và phong phú, nó sẽ tạo ra cho các nhà đầu tư và các công ty có điều kiện để đầu tư, để có sự lựa chọn phù hợp nhất. Tuy nhiên, với một hệ thống bao gồm nhiều loại hàng hoá sẽ phát sinh những khó khăn đối với các nhà đầu tư khi tự quyết định sự lựa chọn của mình. Vì vậy, nhất thiết nhà đầu tư sẽ cần đến công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, khi TTCK phat triển sẽ xuất hiện nhiều loại rủi ro khó lường trước, do đó công chúng cũng như công ty chứng khoán sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác, khi TTCK phát triển, công ty chứng khoán muốn tồn tại, phát triển và cạnh tranh được với các công ty chứng khoán khác thì công ty không những buộc phải có những thay đổi cho phù hợp với thị trường mà còn phải tiếp tục hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao từ phía khách hàng và từ phía bản thân công ty. Những nhà kinh doanh của các công ty chứng khoán là những người có trình độ hiểu biết nhất định về TTCK, có thể làm những công việc khác nhau nhưng không phải bất cứ độ tuổi nào cũng tham gia được. Họ tham gia vào lĩnh vực này với những mục đích khác nhau và nắm trong tay những thông tin trái ngược nhau. Chính vì thế môi trường văn hoá xã hội sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả kinh doanh của công ty cả theo chiều hướng tiêu cực và tích cực. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật công nghệ ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Sản phẩm của công ty chứng khoán là các dịch vụ cho kinh doanh nên yếu tố cạnh tranh sẽ thể hiện ở mức độ thực hiện dịch vụ nhanh chóng, thoả mãn nhu cầu khách hàng. Muốn vậy, công ty phải áp dụng kỹ thuật công nghệ phù hợp, từ đó nâng cao được năng suất, chất lượng và giảm được chi phí trên một đơn vị sản phẩm. Nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng vòng quay vốn lưu động, tăng lợi nhuận. Không phải ngẫu nhiên mà trong cùng một môi trường kinh doanh, cùng chịu một chế độ quản lý mà kết quả kinh doanh của các công ty lại khác nhau. Mà chính bởi có sự khác nhau về các nhân tố nội tại giữa các công ty. Nhân tố nội tại chính là cơ sở vật chất, mục tiêu phát triển, uy tín của công ty, mạng lưới khách hàng, khả năng của ban lãnh đạo, trình độ của cán bộ công nhân viên..., tất cả các yếu tố này đều tác động đến hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán. Vì vậy, để có thể đẩy mạnh và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, các công ty phải biết tận dụng những thế mạnh cũng như hạn chế những điểm yếu của công ty mình. 1.4.2. Nhân tố chủ quan Vốn phản ánh quy mô, tiềm lực của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có nguồn vốn lớn thường là những doanh nghiệp có qui mô lớn, phạm vi hoạt động rộng. Và cũng chính vì thế, hiệu quả kinh doanh phụ thuộc rất nhiều về vốn. Bên cạnh đó, trong công ty con người luôn đóng vai trò trung tâm. Mức độ hiệu quả công việc của từng người sẽ ảnh hưởng tới hệ thống bởi vì tổng hợp hiệu quả của các cá nhân sẽ được hiệu quả chung của công ty. Một công ty hoạt động có hiệu quả khi các cá nhân trong công ty có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có tính tự giác, kỷ luật cao, đồng thời các thành viên trong công ty phải có mối quan hệ bình đẳng, hoà hợp, tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau nỗ lực phấn đấu cho mục tiêu chung toàn công ty. Thực tế cho thấy, những công ty mạnh trên thị trường đều là những công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ, tác phong khoa học và tính kỷ luật cao. Cùng với đội ngũ cán bộ công nhân viên thì vấn đề về các nhà quản trị CHƯƠNGII THỰC TRẠNG CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN CÔNG THƯƠNG 2.1. HOẠT ĐỘNG CỦA TTCK VIỆT NAM THỜI GIAN QUA. Năm 2003, TTCK Việt Nam trải qua một thời gian chịu ảnh hưởng sâu sắc của nhiều nhân tố mang tính vĩ mô như tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn do quá trình hội nhập quốc tế ban đầu cùng những thách thức rất lớn do cạnh tranh đưa lại. Tăng trưởng kinh tế trong nước chưa thể hiện mức độ bền vững nhất định; chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đủ mạnh, trong đó đáng lưu ý nhất là khu vực dịch vụ có xu hướng giảm trong cơ cấu của GDP; bên cạnh đó, nhập siêu ở mức tương đối cao trong khi những biến động mạnh trong khu vực thị trường nhà đất, vàng và ngoại tệ diễn ra trong suốt năm 2003; hiệu quả đầu tư chưa cao do mức dộ thất thoát trong vốn đầu tư còn nhiều. Mặc dù vậy, có thể nói, năm 2003 đã đánh dấu một bước chuyển mình mới của TTCK VN sau hơn 3 năm đi vào hoạt động. Các hoạt động của thị trường tiếp tục diễn ra suôn sẻ với sự tham gia của trên 16.000 tài khoản ( tăng trên 19% so với năm 2002 ). Tính đến tháng 4/2004 đã có 24 cổ phiếu được niêm yết trên TTCK với tổng mức vốn hóa thị trường đạt trên 2.500 tỷ VND; trên 119 triệu trái phiếu được niêm yết với tổng giá trị niêm yết đạt trên 11,9 ngàn tỷ VND. Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM (TTGDCK Tp.HCM) đã tổ chức thành công 247 phiên giao dịch với tổng giá trị giao dịch đạt gần 3.000 tỷ VND, tăng trên 177% so với năm 2002 trong đó giao dịch trái phiếu đạt gần 2.500 tỷ VND, chiếm trên 83% tổng giá trị giao dịch trên thị trường. TTGDCK Tp.HCM đã đưa vào áp dụng thành công một số giải pháp kỹ thuật, cho phép các nhà đầu tư đa dạng hóa các loại hình và phương thức giao dịch của minh; đồng thời tạo các tiền đề hết sức cơ bản trong việc tiến tới chuẩn hóa một số các loại hình nghiệp vụ của thị trường. Công tác quản lý thị trường tiếp tục được cải thiện đảm bảo khả năng vận hành và quản lý thị trường một cách hiệu quả. Bên cạnh đó các tổ chức trung gian trên thị trường không ngừng tự hoàn thiện mình, xây dựng và cung cấp dịch vụ tiện ích cho các nhà đầu tư, các tổ chức, đặc biệt tập trung vào một số nghiệp vụ có thế mạnh. Các tổ chức niêm yết nói chung đã thực hiện khá tốt các nghiệp vụ và yêu cầu về công bố thông tin. Năm 2003 cũng là năm có rất nhiều các sự kiện quan trọng đã diễn ra tác động không nhỏ đến TTCK VN, có thể kể ra đây hàng loạt các sự kiện như: một số cổ phiếu mới được niêm yết tạo thêm hàng hóa cho thị trường; một số các CTCK mới ra đời và đi vào hoạt động; lần đầu tiên chúng ta tổ chức một tuần lễ chứng khoán hết sức quy mô nhằm cổ động mạnh mẽ việc tham gia vào TTCK của các nhà đầu tư; sử dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm kích thích sự năng động và hiệu quả của thị trường như điều chỉnh biên độ, chia nhỏ lô giao dịch, đưa vào sử dụng các loại lệnh mới ATO…;Chính phủ cho phép nới rộng tỷ lệ nắm giữ của các nhà đầu tư nước ngoài đối với cổ phiếu, không hạn chế đối với trái phiếu và sự tham gia rất mạnh của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường trong những tháng cuối năm 2003…Bên cạnh đó sự kiện hết sức quan trọng đó là việc Chính phủ thông qua chiến lược phát triển TTCK VN đến năm 2010 và ban hành nghị định 144 về chứng khoán và TTCK thay thế nghị định 48 của Chính phủ và trở thành văn bản có tính pháp lý cao nhất điều chỉnh các hoạt động cuẩ TTCK VN. Nghị định mới này đã thực hiện thay đổi một cách khá toàn diện về mặt nội dung cũng như phạm vi áp dụng và tạo ra hướng đi mới hết sức cụ thể trong công tác quản lý, điều hành và phát triển TTCK cũng như đối với sự tham gia của các tổ chức cá nhân vào thị trường. 2.2 GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 2.2.1.Lịch sử hình thành và phát triển của công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Căn cứ theo Quyết định số 172/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và thông tư 04/1999/TT-NHNN5 ngày 01/11/1999 về việc cho phép các tổ chức tín dụng thành lập công ty chứng khoán là điều kiện tiền đề cho việc thành lập công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Theo các văn bản này, các ngân hàng thương mại chỉ được phép thành lập công ty chứng khoán độc lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Xét về điều kiện, Ngân hàng Công Thương Việt Nam đã hội tụ đầy đủ các điều kiện thành lập công ty chứng khoán của một ngân hàng thương mại. Đề án thành lập và dự thảo điều lệ công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phê duyệt, chấp thuận cho Ngân hàng Công Thương Việt Nam thành lập công ty chứng khoán; đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ nhân sự chuẩn bị cho hoạt động kinh doanh chứng khoán; hoàn thành hồ sơ xin Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán. Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Tên giao dịch quốc tế: Incombank Securities Co.Ltd. (Viết tắt là IBS) Thành lập theo quyết định số 126/QĐ-HĐQT-NHCT1 ngày 01/09/2000 của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Giấy phép hoạt động số 07/GPHĐKD ngày 06/10/2000 do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0104000012 ngày 04/10/2000 do Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội cấp. Trụ sở chính: Số 306 Bà Triệu - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Điện thoại: 84.4.9741764 – 84.4.9741054. Fax: 84.4.9741760 Email: ibs-ho@hn.vnn.vn Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh: Số 153 Hàm Nghi, Quận I, TP.Hồ Chí Minh. Điện thoại: 84.4.9140200. Fax: 84.4.9140201. Email: ibs- hcm@hcm.vnn.vn Vốn điều lệ: 55 tỷ đồng Việt Nam 2.2.2 Các lĩnh vực kinh doanh Với số vốn điều lệ 55 tỷ VND, IBS được cấp giấy phép hoạt động cả 5 nghiệp vụ kinh doanh trên TTCK, đó là môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư chứng khoán. Công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương là công ty trực thuộc, hạch toán độc lập của Ngân hàng Công Thương Việt Nam; thành viên của Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam được tổ chức theo mô hình chủ tịch Công ty và Giám đốc được qui định tại luật Doanh nghiệp, là công ty TNHH một thành viên. Bộ máy lãnh đạo công ty gồm chủ tịch công ty và phó giám đốc, trong đó phó giám đốc trực tiếp phụ trách hoạt động tại chi nhánh TPHCM. Công ty chính thức đi vào hoạt động ngày 16 tháng 11 năm 2000. Tháng 10 năm 2002 Công ty Chứng khoán Công thương được cải tổ thành lập 6 phòng ban ở Hà Nội với 37 nhân viên. Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh gồm 4 phòng ban với 20 nhân viên. Với việc sắp xếp bố trí lại các phòng ban như trên công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam đã tạo ra một mô hình mang tính đột phá so với các công ty chứng khoán khác trên thị trường. 2.2.3 Cơ cấu tổ chức của Công ty Chứng khoán Công Thương Việt Nam Sơ đồ 3 *Phòng môi giới Đại diện giao dịch của Công ty, môi giới chứng khoán. Trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng. Tư vấn, cung cấp thông tin thường xuyên về từng phiên giao dịch, thông tin tài khoản và các thông tin liên quan tới chứng khoán, TTCK cho khách hàng. Tiếp nhận và xử lý lệnh mua, bán chứng khoán. Tổ chức thực hiện giao dịch OTC (khi được phép). Tiếp thị trực tiếp đến nhà đầu tư chứng khoán. Làm các dịch vụ hỗ trợ khách hàng có Chủ tịch công ty Giám đốc Kế toán lưu ký Phòng môi giới Văn phòng Phòng kinh doanh Phòng môi giới Phòng tự doanh, Tư vấn niêm Kế toán lưu ký Kiểm soát Văn phòng Chi nhánh TP.HCM liên quan đến nghiệp vụ môi giới. Quản lý các đại lý nhận lệnh và các đầu mối phát triển dịch vụ của công ty, trên các địa bàn khác nhau. Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ, kiến nghị phương hướng nghiên cứu đưa ra các sản phẩm mới liên quan đến hoạt động môi giới. *Phòng tự doanh phát hành Kinh doanh chứng khoán cho công ty. Đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán. Phân tích thị trường và đề xuất các phương án tự doanh chứng khoán cho Giám đốc Công ty. Tổ chức tự doanh chứng khoán theo đúng quy trình tại trụ sở chính và lập báo cáo, phân tích đánh giá kết quả hoạt động tự doanh toàn Công ty. Phối hợp các bộ phận trong Công ty thực hiện công tác tiếp thị, xúc tiến phát triển thị trường và triển khai các sản phẩm dịch vụ mới có liên quan. Đại lý bảo lãnh phát hành. Tìm kiếm, thiết lập, duy trì quan hệ và xây dựng mạng lưới khách hàng sử dụng dịch vụ đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành và các dịch vụ có liên quan. Tổ chức triển khai các hợp đồng đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành và các dịch vụ khác có liên quan được ký kết với khách hàng. * Phòng tư vấn, phân tích Nghiên cứu, phân tích chứng khoán và TTCK. Tư vấn đầu tư, tư vấn niêm yết, tư vấn cổ phần hoávà tư vấn tài chính. Làm đầu mối công tác tiếp thị, xúc tiến phát triển thị trường. Quản lý danh mục đầu tư. Nghiên cứu, phân tích. Nghiên cứu phát triển sản phẩm, dịch vụ mới. Nghiên cứu, phân tích tình hình thị trường, ra các bản tin phân tích, bình luận về chứng khoán và đánh giá các động thái của thị trường. Xây dựng hồ sơ doanh nghiệp. Dự thảo các kế hoạch kinh doanh năm, quý, báo cáo tổng kết toàn Công ty. Tư vấn đầu tư chứng khoán, chú trọng tư vấn mang tính trung, dài hạn, giá trị đầu tư lớn, trên cơ sở hợp đồng có thu phí. Tư vấn niêm yết, tư vấn cổ phần hoá và tư vấn tài chính. Cung cấp thông tin chứng khoán và TTCK cho khách hàng và trong nội bộ Công ty. Đầu mối công tác tiếp thị, xúc tiến phát triển thị trường cho Công ty. Xây dựng triển khai các phương án tiếp thị, tìm kiếm đối tác tiếp nhận các dịch vụ của Công ty. Quản lý danh mục đầu tư. Thực hiện quản lý danh mục đầu tư theo sự uỷ thác của khách hàng. *Phòng kế toán tài chính và lưu ký Quản lý tài chính, hạch toán kế toán, thanh toán giao dịch, lưu ký chứng khoán, ngân quỹ. Quản lý tài chính. Dự thảo kế hoạch tài chính năm, quý trình Giám đốc Công ty phê duyệt và giám sát kết quả thực hiện kế hoạch được duyệt. Tổ chức quản lý nguồn vốn của công ty, tham mưu cho Giám đốc quản lý tập trung vốn của Ngân hàng công thương Việt Nam cấp, vốn tự có bổ sung, bảo toàn vốn đúng chế độ và giám sát các chi nhánh thuộc công ty sử dụng vốn hiệu quả, đúng mục đích, đúng quy định của pháp luật. Giám sát về mặt tài chính trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch mua sắm tài sản, quản lý trang thiết bị, tài sản của Công ty. Tham mưu cho Giám đốc công ty các vấn đề về phân phối lợi nhuận, sử dụng các quỹ, thu chi tài chính. Tham mưu cho Giám đốc công ty về xây dựng đơn giá tiền lương, thanh toán tiền lương, thưởng...Hạch toán kế toán, hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại công ty. Theo dõi biến động tài khoản tiền gửi, tiền vay của Công ty gửi ở các tổ chức tín dụng. Phối hợp với các phòng ban có liên quan trong việc hạch toán kế toán quản lý, điều hành vốn. Tổ chức kế toán giao dịch, hạch toánvà quản lý tình hình hoạt động tài khoản tiền gửi, chứng khoán lưu ký của khách hàng mở tại Công ty. Thanh toán giao dịch. Tham mưu cho Giám đốc Công ty trong việc tổ chức thanh toán tập trung tại trụ sở chính và thống nhất trong toàn công ty gắn với quá trình điều hành vốn theo đúng chế độ hiện hành, đảm bảo mỗi khoản thanh toán an toàn, kịp thời, chính xác. Tham gia thanh toán bù trừ với trung tâm giao dịch chứng khoán, thanh toán với các ngân hàng liên quan. *Lưu ký: Tổ chức thực hiện nghiệp vụ lưu ký, tiếp thị về lưu ký đối với cá nhân và pháp nhân. Thực hiện các dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư chứng khoán liên quan đến hoạt động lưu ký chứng khoán. Tổ chức thực hiện hoạt động lưu ký thống nhất từ trụ sở chính, chi nhánh và các đại lý giao dịch của Công ty. Quản lý kho lưu ký. Ngân quỹ, thực hiện nhận và trả tiền, chứng khoán chứng chỉ của khách hàng. Thu và chi tiền mặt nội bộ Công ty theo đúng quy trình thu chi tiền mặt và chứng chỉ có giá hiện hành. Nộp và lĩnh tiền mặt tại các ngân hàng thương mại. Quản lý an toàn két tiền mặt. Công tác báo cáo, kiểm tra, kiểm soát và các nhiệm vụ khác. Lập và tổng hợp các báo cáo tài chính kế toán, lưu ký, thống kê của toàn công ty theo đúng chế độ báo cáo thống kê của Nhà nước, NH Công thương Việt nam, UBCKNN và các ban ngành liên quan. Định kỳ hoặc đột xuất tiến hành kiểm tra công tác tài chính, lưu ký của trụ sở chính và các chi nhánh để kịp thời phát hiện sai sót và có biện pháp khắc phục, xử lý. Tổ chức thực hiện cơ chế, quy chế, quy trình nghiệp vụ của công tác tài chính, kế toán, lưu kývà hệ thống tài khoản kế toán theo phân cấp phù hợp với quy định pháp luật và của Bộ tài chính, đáp ứng yêu cầu phát triển nghiệp vụ kinh doanh của Công ty. Tổng hợp và cung cấp số liệu cho Ban điều hành Công ty định kỳ hoặc đột xuất để chỉ đạo hoạt động kinh doanh. *Phòng kiểm soát Kiểm tra việc ghi chép sổ sách kế toán. Kiểm tra cách tính toán, đối chiếu hoá đơn với ghi chép vào sổ. *Văn phòng Công ty Phòng hành chính - tổng hợp. Tổ chức cán bộ và đào tạo quản lý lao động và tiền lương. Tổng hợp chương trình công tác của các phòng, ban. Bố trí, sắp xếp chương trình làm việc hàng tuần của Ban điều hành Công ty. Bố trí thư ký trong các cuộc họp theo yêu cầu của Giám đốc. Thực hiện công tác văn thư, lưu trữ theo đúng quy định của pháp luật. Phối hợp với các bộ phận liên quan tổ chức các cuộc họp, hội nghị, hội thảo của Công ty. Bố trí phương tiện đi lại phục vụ hoạt động chung của công ty. Tổ chức đón tiếp, bố trí nơi ăn ở và phương tiện đi lại cho khách đến làm việc với Công ty khi Giám đốc yêu cầu. Thực hiện công tác lễ tân, tạp vụ. Tổ chức thực hiện công tác an ninh, bảo vệ, giữ gìn an toàn tài sản và an ninh trật tự toàn Công ty. Quản trị - tin học: Xây dựng kế hoạch mua sắm tài sản và triển khai thực hiện việc mua sắm thiết bị, phương tiện làm việc của công ty theo đúng quy định. Tổ chức bảo dưỡng tài sản cố định theo định kỳ. Xây dựng và hướng dẫn thực hiện nội quy, sử dụng trang thiết bị của cơ quan. Quản lý hệ thống tin học, gồm cả phần cứng và phần mềm, hệ thống mạng máy tính của Công ty. Tổ chức cán bộ và đào tạo. Tham mưu cho ban điều hành xây dựng bộ máy tổ chức nhân sự; sắp xếp, phân công lao động giữa các đơn vị trong công ty đảm bảo phát huy tốt năng lực của từng cá nhân, đáp ứng yêu cầu công tác kinh doanh. Giúp Giám đốc xây dựng kế hoạch đào tạo, quy hoạch cán bộ, làm thủ tục đề bạt cán bộ thuộc thẩm quyền quyết định của Giám đốc Công ty. Quản lý lao động và tiền lương. Tham mưu cho ban điều hành công ty về chính sách, chế độ tiền lương đối với người lao động. Tham mưu cho Giám đốc công ty trong việc tuyển dụng, ký kết, huỷ bỏ hợp đồng lao động theo đúng Luật lao động và các quy định về quản lý lao động của Công ty. 2.2.4 Môi trường cạnh tranh Sự góp mặt của CTCK Ngân hàng Công thương đã nâng tổng số CTCK lên 12 trong đó có 5 công ty cổ phần và 7 công ty TNHH. Các CTCK đều hoạt động ổn định tuân thủ các quy định pháp luật về chứng khoán và TTCK, các quy định của Ủy ban chứng khoán nhà nước. Các kết quả kinh doanh có chiều hướng tốt lên, hầu hết có lãi sớm hơn so với dự kiến. Các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính cho biết tính đến hết ngày 31/12/2003 các CTCK đều có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng thanh toán được đảm bảo. Cạnh tranh gay gắt trong thị trường nhỏ với tốc độ phát triển tương đối chậm ( theo ước tính của TTGD hiện có khoảng 16.000 nhà đầu tư trên thị trường ); dẫn đến nhiều hoạt động cạnh tranh không lãnh mạnh. Ví dụ, mặc dù đã có sự thõa thuận giữa các CTCK về việc không tiếp tục giảm phí môi giới, VCBS vẫn sử dụng các hình thức khuyến mãi như dự đoán tỷ số bóng đá để miễn giảm phí giao dịch nhằm thu hút các nhà đầu tư từ các CTCK khác. Hiện nay cơ cấu doanh thu của các CTCK đã có sự thay đổi đàng kể. Nếu như trong thời gian đầu, doanh thu từ vốn kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của CTCK và tiếp đến là các hoạt động tự doanh, môi giới thì đến quý I/2004 doanh thu từ hoạt động tự doanh và môi giới chiểm tỷ trọng đáng kể. Tính đến cuối thánh 12/2003 số lượng tài khoản của các nhà đầu tư mở tại các CTCK lên tới 16.000 trong đó tài khoản của các nhà đầu tư cá nhân là chủ yếu. 2.3 THỰC TRẠNG CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY Sự kiện trung tâm Giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh khai trương và đi vào hoạt động tháng 7/2000 đã đánh dấu một mốc quan trọng trong sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam. Bên cạnh hình thức gián tiếp thông qua các tổ chức tín dụng, giờ đây các doanh nghiệp và nhà đầu tư còn có thể huy động và đầu tư vốn trực tiếp thông qua TTCK. Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương là công ty thứ 7 đi vào hoạt động trên thị trường. Ban đầu Ngân hàng Công Thương dự tính chấp nhận thua lỗ trong ba năm, nhưng thực tế hoạt động cho thấy kết quả kinh doanh khá khả quan, công ty liên tục làm ăn có lãi và tăng trưởng cao. Có được điều này là do sự năng động nhạy bén của ban lãnh đạo công ty cũng như đội ngũ nhân viên của các phòng ban. Mặt khác công ty cũng nhận được sự hỗ trợ về con người, phương tiện vật chất kỹ thuật của Ngân hàng Công Thương Việt Nam và sự quan tâm quan tâm chỉ đạo của Chính phủ tới thị trường. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong 3 năm (đơn vị tính: triệu đồng) Nguồn: IBS Trong đó đối với từng hoạt động được thể hiện như sau: 2.3.1 Phòng môi giới Làm trung gian thực hiện lệnh mua, bán chứng khoán theo yêu cầu của khách hàng. Tư vấn giúp khách hàng đưa ra những quyết định mua, bán hợp lý. Cung cấp kịp thời tới khách hàng những thông tin giao dịch chứng khoán sau từng phiên giao dịch, thông tin về tài khoản cá nhân khách hàng, thông tin về các tổ chức niêm yết. Ngoài ra còn tổ chức các buổi thuyết trình, bình luận xu thế biến động của thị trường, tổng hợp diễn biến giao dịch trong tuần. Thực hiện lệnh mua bán chứng khoán thông qua hệ thống các đại lý, qua điện thoại, fax...Vì vậy số tài khoản của khách hàng mở tại công ty tăng hàng năm. Tính đến cuối năm 2003 số tài khoản của khách hàng mở tại công ty là 2.000 tài khoản chiếm khoảng 10% số lượng tài khoản trên toàn thị trường. Trong đó có nhiều tài khoản của các tổ chức cá nhân có vốn đầu tư lớn và giao dịch thường xuyên. Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Doanh thu 6.583 16.000 Chi phí HĐKD 1.300 6.700 Chi phí QLDN 2.800 3.200 LN + Lãi vay 2.483 6.100 Lợi nhuận 1.400 2.400 5.700 Bảng thống kê số lượng tài khoản qua các năm Đơn vị: tài khoản Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Số lượng tài khoản 263 620 1000 (Nguồn IBS) Để thực hiện nghiệp vụ này, công ty có đội ngũ các nhân viên môi giới chứng khoán trên sàn của công ty (trụ sở chính và chi nhánh) và hai đại diện giao dịch nhận lệnh và nhập lệnh của công ty tại Trung tâm giao dịch chứng khoán cùng các trang bị về cơ sở vật chất kỹ thuật (hệ thống máy tính, mạng thông tin, bảng điện tử) Hoạt động với tư cách đại diện trung gian nên công ty được hưởng hoa hồng môi giới. Tiền hoa hồng thường được tính phần trăm (%) trên tổng giá trị mỗi giao dịch. Hiện nay, theo quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, phí giao dịch khách hàng phải trả cho công ty chứng khoán tối đa là 0,45% giá trị giao dịch đối với giao dịch cổ phiếu, 0,15% đối với giao dịch trái phiếu. Tuy nhiên trong chính sách khách hàng của công ty hiện nay đang thực hiện chế độ ưu đãi về hoa hồng môi giới cho các khách hàng có doanh số giao dịch lớn trong tháng (từ 100 triệu đồng trở lên). Doanh thu qua các năm cũng tăng và biến động cùng với xu thế của thị trường. Năm 2001 hoạt động môi giới nhộn nhịp, nhưng sang các năm 2002, 2003, thì hoạt động trầm lắng xuống. Đầu năm 2004 thị trường khởi sắc trở lại, với những động thái mang tính tích cực. Kết quả hoạt động kinh doanh của phòng môi giới: (đơn vị tính triệu đồng) Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Doanh thu từ môi giới 807 520 300 (Nguồn IBS) 2.3.2 Nghiệp vụ tư vấn đầu tư Cùng với tăng nhanh doanh số của các hoạt động ở các nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh phát hành. IBS vẫn hết sức chú trọng các hoạt động dịch vụ tư vấn doanh nghiệp, coi đây là mục tiêu chiến lược lâu dài và căn bản. Đã có khoảng 50 tổ chức doanh nghiệp được IBS chăm sóc thường xuyên và cung cấp dịch vụ liên quan (tư vấn chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, tư vấn định giá hoặc tái thẩm định giá trị doanh nghiệp, tư vấn hoàn tất cổ phần hoá, tư vấn làm trung gian đấu giá phát hành, tư vấn niêm yết, tư vấn đầu tư, lưu ký và thực hiện quyền cổ đông, can thiệp vay cầm cố thế chấp...). Tư vấn cho tổ chức phát hành: Hoạt động tư vấn cho tổ chức phát hành tương đối đa dạng, từ việc phân tích tài chính đến xác định giá trị doanh nghiệp, tư vấn về các loại chứng khoán phát hành hay giúp tổ chức phát hành cơ cấu lại tài chính, hỗ trợ các công ty trong quá trình cổ phần hoá chuyển đổi hình thức sở hữu và phát hành cổ phiếu ra công chúng. Những thành công bước đầu trong việc triển khai dịch vụ tư vấn doanh nghiệp đã giúp công ty tự tin đẩy mạnh nghiệp vụ này trên toàn quốc. Đặc biệt, được sự hậu thuẫn mạnh từ phía NHCTVN cũng như sự tín nhiệm cao của khách hàng, Công ty đã khẳng định được vị thế của mình trong hoạt động tư vấn doanh nghiệp. Điều này được khẳng định trong thời gian rất ngắn từ quý III đến nửa đầu quý IV/2003, Công ty đã ký được 10 hợp đồng tư vấn doanh nghiệp tạo nguồn thu khoảng 500 triệu đồng. Tư vấn cho khách hàng: Là hoạt động tư vấn cho khách hàng có nhu cầu tham gia TTCK trong việc đưa ra quyết định liên quan tới mua, bán chứng khoán. Ngoài ra, nghiệp vụ tư vấn còn bao gồm việc đưa ra các thông tin phân tích, nhận định (dưới dạng các ấn phẩm sách, báo, bản tin) của công ty về diễn biến thị trường và từng loại chứng khoán. Công ty đã tuyển dụng và đào tạo những chuyên gia phân tích tài chính, phân tích thị trường, đồng thời kết hợp với các chuyên gia tín dụng của ngân hàng Công Thương Việt Nam trong việc đánh giá tài chính doanh nghiệp. Cùng với môi giới, nghiệp vụ phân tích được triển khai ngay từ đầu và đến nay đã tạo được sự tín nhiệm không nhỏ đối với khách hàng. Mục đích của hoạt động phân tích là cung cấp cho khách hàng những thông tin và những nhận định riêng của nhà phân tích về từng công ty và cổ phiếu niêm yết trên TTCK, từ đó giúp các nhà đầu tư xác định được mức giá và thời điểm mua bán hợp lý. Ngoài ra còn giúp khách hàng tạo lập danh mục đầu tư hợp lý tuỳ thuộc vào yêu cầu nhằm tối đa hoá lợi nhuận trong giới hạn rủi ro thấp nhất. Hiện nay hoạt động phân tích của công ty được tiến hành dựa trên hai phương pháp chính: phân tích cơ bản (dựa trên tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết) và phân tích kỹ thuật (dựa trên đồ thị biến động giá và khối lượng các cổ phiếu trên thị trường). Hai phương pháp phân tích kỹ thuật và phân tích cơ bản được tiến hành độc lập với nhau. Tuy nhiên việc kết hợp cả hai phương pháp này cũng đem lại hiệu quả cao do chúng có thể bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Mức phí cho hoạt động tư vấn sẽ được thoả thuận giữa khách hàng với công ty. Hiện tại, để thực hiện chính sách tiếp thị, công ty không thu phí đối với hoạt động tư vấn. Nhưng dự kiến cuối năm 2004 sẽ thu phí đối với hoạt động này. 2.3.3 Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công ty là giúp các tổ chức phát hành chuẩn bị các điều kiện cần thiết (tư vấn về cơ cấu lại tài chính doanh nghiệp, trung gian tín dụng), thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán (lập hồ sơ xin phép niêm yết, thăm dò thị trường); thực hiện việc phân phối chứng khoán của tổ chức phát hành cho công chúng đầu tư. Theo quy định hiện nay việc bảo lãnh phát hành chứng khoán ở Việt Nam chỉ áp dụng phương thức “cam kết chắc chắn”, nghĩa là công ty cam kết sẽ phân phối toàn bộ chứng khoán phát hành, cho dù có thực hiện phân phối được hết ra công chúng hay không. Để thực hiện nghiệp vụ này, xu hướng của công ty là sẽ kết hợp với các công ty chứng khoán và các tổ chức tín dụng khác hình thành tổ hợp bảo lãnh để chia sẻ trách nhiệm, hạn chế rủi ro. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành sẽ đem lại cho công ty phí bảo lãnh phát hành (hiện nay, phí bảo lãnh phát hành tối đa theo quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là 3% tổng giá trị bảo lãnh phát hành) và lợi thế là thu hút các cổ đông của tổ chức phát hành lưu ký cổ phiếu tại công ty. Bộ phận bảo lãnh đã thực hiện được 20 đợt với tổng giá trị bảo lãnh 2000 tỷ đồng. Doanh thu từ bảo lãnh phát hành cũng có sự chuyển hướng tích cực như năm 2002 chỉ là 80 triệu đồng, nhưng năm 2003 con số này đã lên tới hơn 5,1 tỷ đồng. Đây là một bước tiến quan trọng của công ty trong việc chiếm lĩnh thị trường và công tác tiếp thị bảo lãnh phát hành. 2.3.4 Phòng tự doanh Nghiệp vụ tự doanh của công ty là nghiệp vụ mua bán chứng khoán với nguồn vốn của công ty nhằm tìm kiếm lợi nhuận từ mua bán và sở hữu chứng khoán. Với nghiệp vụ này, công ty có thể tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung, trên thị trường phi tập trung (mua bán các loại chứng khoán chưa niêm yết), góp vốn vào các doanh nghiệp đang trong quá trình cổ phần hoá, ngoài ra công ty còn có thể thực hiện mua bán các giấy tờ có giá như: thương phiếu (hối phiếu, lệnh phiếu), tín phiếu kho bạc. Kết quả hoạt động của bộ phận tự doanh: (đơn vị tính triệu đồng) Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Doanh thu từ tự doanh 30 145 1.900 (Nguồn IBS) 2.3.5 Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư Là nghiệp vụ giúp khách hàng quản lý vốn thông qua việc mua, bán và nắm giữ các chứng khoán theo tiêu chí vì quyền lợi của khách hàng với phương châm phân tán rủi ro, đảm bảo nguồn doanh lợi. Để thực hiện nghiệp vụ này, giữa công ty và khách hàng sẽ ký hợp đồng trong đó khách hàng uỷ thác cho công ty một số vốn và công ty sẽ thực hiện quản lý số vốn đó với các điều khoản cụ thể theo yêu cầu của khách hàng (ví dụ về danh mục chứng khoán khách hàng lựa chọn hay đơn thuần khách hàng chỉ yêu cầu về tỉ suất lợi nhuận mà danh mục đầu tư đem lại cho khoản vốn mà khách hàng bỏ ra). Nghiệp vụ này sẽ đem lại khoản phí quản lý danh mục đầu tư cho công ty. Từ chỗ chỉ hoạt động kinh doanh trong phạm vi vốn điều lệ được cấp, bước sang năm 2003 IBS đã mạnh dạn vay vốn và nhận uỷ thác đầu tư hàng trăm tỷ đồng từ các ngân hàng thương mại để đầu tư tài chính, đảm bảo thanh khoản, an toàn, hiệu quả cao nên được các đối tác hết sức tin cậy. Năm 2001 chỉ mới có 420 triệu đồng nhưng đến cuối năm 2003 IBS đã nhận uỷ thác đầu tư gần 400 tỷ đồng, quản lý danh mục đầu tư tự doanh hơn 300 tỷ đồng. 2.3.6 Nghiệp vụ lưu ký và đăng ký chứng khoán Để thực hiện nghiệp vụ này, công ty đăng ký là thành viên của trung tâm lưu ký và có cán bộ thực hiện công tác lưu ký chứng khoán. Việc lưu ký có thể do khách hàng mang chứng khoán đến công ty hoặc cán bộ lưu ký nhận chứng khoán tại địa điểm khách hàng yêu cầu. Sau khi nhận lưu ký của khách hàng, công ty thực hiện tái lưu ký các chứng khoán tại trung tâm lưu ký để đảm bảo điều kiện giao dịch cho chứng khoán. Số lượng chứng khoán được lưu ký tại công ty chứng khoán công thương hàng năm đều tăng khá, phản ánh sự tin tưởng của nhà đầu tư khi lựa chọn công ty. (Đơn vị tính: cổ phiếu, trái phiếu) Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Cổ phiếu lưu ký 35.700 634.000 1.706.000 Trái phiếu lưu ký 250 12.753.000 13.801.000 (Nguồn UBCKNN) Phí lưu ký chứng khoán mà công ty thu của khách hàng được tính trên cơ sở mức phí do Trung tâm lưu ký quy định đối với thành viên lưu ký (công ty) và cộng thêm một tỷ lệ thoả thuận giữa khách hàng và công ty. Bộ tài chính đã ban hành các mức biểu phí cho hoạt động lưu ký của trung tâm giao dịch chứng khoán nhưng do thời gian đầu của TTCK nên các mức phí này đang được thực hiện miễn giảm 100%. Do đó, cũng như các tổ chức lưu ký khác, công ty không thu phí lưu ký đối với khách hàng. Tuy nhiên doanh thu mang lại cho công ty chứng khoán chủ yếu là thu phí từ chứng khoán chưa niêm yết trên thị trường. Kết quả hoạt động lưu ký chứng khoán (đơn vị tính triệu đồng) Năm Chỉ tiêu 2002 2003 Doanh thu từ lưu ký 270 270 (Nguồn IBS) Từ nhu cầu của khách hàng trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của công ty, IBS có thể phối hợp với NHCT Việt Nam và các đơn vị của NHCT Việt Nam trong việc cung cấp các dịch vụ tiện ích như cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán, cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán, thực hịên việc cầm cố chứng khoán, chứng khoán hoá các khoản nợ, quản lý danh mục đầu tư cho NHCT Việt Nam. Cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán: Theo quy định về thanh toán bừ trừ của trung tâm giao dịch chứng khoán, nếu khách hàng bán chứng khoán vào ngày T+0 thì đến tận ngày T+2 họ mới nhận được tiền thông qua công ty chứng khoán. Nếu thời điểm bán chứng khoán rơi vào giữa hoặc cuối tuần thì họ nhận được tiền sau 5 ngày (do nghỉ 2 ngày cuối tuần). Do nhu cầu tiền mặt hoặc nhu cầu đầu tư vào chứng khoán khác nên khách hàng rất muốn nhận được tiền ngay sau khi bán được chứng khoán. Vì vậy, IBS có thể phối hợp với chi nhánh của NHCT Việt Nam cho khách hàng vay ứng trước tiền bán chứng khoán. Sau khi tiền bán chứng khoán của khách hàng được Ngân hàng chỉ định thanh toán( Ngân hàng đầu tư và phát triển) chuyển vào tài khoản của IBS, IBS sẽ đứng ra thu hộ tiền vay (cả gốc và lãi) cho NHCT Việt Nam. Hình thức cho vay này hầu như không có rủi ro vì nếu khách hàng đã bán được chứng khoán (có xác nhận của trung tâm giao dịch chứng khoán) thì họ sẽ chắc chắn nhận được tiền. IBS đóng vai trò trung gian trong quá trình cho vay và thu nợ (thẩm định món vay và thu nợ hộ chi nhánh), chi nhánh NHCT Việt Nam phê duyệt hồ sơ cho vay và giải ngân. Cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán, thực hiện việc cầm cố chứng khoán: Trong quá trình tham gia TTCK xuất hiện nhu cầu mua chứng khoán của khách hàng nhưng họ còn thiếu tiền hay khách hàng nắm giữ chứng khoán có nhu cầu cần tiền nhưng đồng thời họ vẫn muốn lưu giữ những chứng khoán đó để được hưởng những quyền lợi do chứng khoán mang lại (cổ tức, quyền mua chứng khoán mới, quyền bầu cử). Do vậy có thể cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán hoặc cầm cố chứng khoán của khách hàng. Đây là hoạt động sinh lời, vừa an toàn, vừa giúp cho công ty thu hút được khách hàng vì theo quy định của pháp luật công ty chứng khoán không được trực tiếp thực hiện các hoạt động tín dụng. Lập Đại lý nhận lệnh tại các chi nhánh: Đại lý nhận lệnh là các pháp nhân kết hợp với công ty chứng khoán trong việc nhận lệnh giao dịch của khách hàng kinh doanh chứng khoán. Tính đến nay, NHCT Việt Nam có hơn 1000 chi nhánh trải rộng trên địa bàn cả nước. Chính vì vậy, việc xây dựng mạng lưới Phòng giao dịch và Đại lý nhận lệnh của công ty có thể tận dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật và mạng lưới của NHCT Việt Nam và mang lại cho IBS và các chi nhánh một khả năng cung cấp dịch vụ có lời và không rủi ro. Đồng thời, việc xây dựng mạng lưới các đại lý nhận lệnh của IBS có thêm khả năng cung cấp dịch vụ miễn phí (hiện tại là 5%), đã giúp các chi nhánh và khách hàng của IBS Việt Nam tiếp cận TTCK, mặt khác phối hợp với các chi nhánh NHCT Việt Nam thực hiện chu trình khép kín các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Lập thêm 5 đại lý nhận lệnh tại các chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đà Nẵng, Cần Thơ, Khu công nghiệp Biên Hoà, NHCT 5 Thành phố Hồ Chí Minh. Chứng khoán hóa các khoản nợ: Với các doanh nghiệp nợ NHCT Việt Nam và không có khả năng chi trả, IBS sẽ phối hợp với NHCT Việt Nam xúc tiến cổ phần hoá doanh nghiệp, chuyển khoản nợ đọng thành tỷ lệ cổ phần hoá trong doanh nghiệp, niêm yết và phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp trên TTCK nhằm thu hồi được khoản nợ có nguy cơ mất hẳn nói trên. IBS và NHCT Việt Nam còn có thể phối hợp trong tư vấn cho các doanh nghiệp cổ phần hoá, cơ cấu lại tài chính doanh nghiệp, đưa cổ phiếu của doanh nghiệp vào giao dịch trên TTCK, mua bán các loại giấy tờ có giá trên TTCK, phát hành và phân phối trái phiếu của NHCT Việt Nam. 2.4 ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty (đơn vị: triệu đồng) Năm Chỉ tiêu 2002 2003 Doanh thu 6.583 15.775 Chi phí HĐKD 1.300 6.700 Chi phí QLDN 2.800 3.200 LNTT+ Lãi vay 2.483 6.775 Lợi nhuận 2.400 5.747 (Nguồn IBS) Bảng cân đối tài sản (đơn vị: triệu đồng) Tài sản 2002 2003 Nguồn vốn 2002 2003 Tài sản LĐ 397.000 501.000 Nợ 345.000 446.000 Tài sản CĐ 3.000 5.000 Vốn CSH 55.000 60.000 Tổng tài sản 400.000 506.000 Tổng nguồn vốn 400.000 506.000 (Nguồn IBS) Sau hơn ba năm hoạt động, công ty chứng khoán ngân hàng Công thương đã dần tạo chỗ đứng trên thị trường, khẳng định hướng chiến lược của công ty là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tiễn thị trường. Việc tham gia thị trường sau khi trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM hoạt động đã giúp công ty có được kinh nghiệm từ các công ty đi trước, từ đó có điều kiện trao đổi dịch vụ, kỹ thuật, đào tạo và nâng dần uy tín của công ty đối với các nhà đầu tư trên TTCK. Công ty đã đầu tư vào trang thiết bị, nhà cửa máy móc phương tiện kỹ thuật liên lạc. Tất cả các trang thiết bị phục vụ cho việc giao dịch, kết nối và xử lý thông tin đều đáp ứng nhu cầu hiện tại. Việc đầu tư này đã mang lại cho công ty những thành công trong việc hoạt động hiệu quả trên thị trường tài chính này. Vì vậy khi đánh giá về hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian qua chúng ta có thể xem xét một số chỉ tiêu sau: Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh a) Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh: Lợi nhuận + Lãi vay Doanh lợi trên vốn = Tổng vốn kinh doanh Chỉ tiêu doanh lợi trên vốn năm 2002 là 0,0062 nhưng sang năm 2003 hệ số này là 0,012. Chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn kinh doanh bỏ ra trong năm 2002 sẽ thu được 0,0062 đồng (lợi nhuận + lãi vay), năm 2003 sẽ thu được 0,012 đồng (lợi nhuận + lãi vay). Điều này cho thấy lợi nhuận của công ty thấp trong khi vốn bỏ ra thì lớn. Lợi nhuận thấp do công ty chỉ có lợi nhuận ở nghiệp vụ môi giới và tự doanh. Nhưng năm 2003 so với năm 2002 hệ số này tăng 94,48%, tình hình này sẽ được cải thiện khi thị trường đi vào ổn định, công ty sẽ mở rộng các nghiệp vụ và tăng lợi nhuận. b) Chỉ tiêu phản ánh doanh lợi trên doanh thu: Lợi nhuận Doanh lợi trên doanh thu = Doanh thu Chỉ tiêu doanh lợi trên doanh thu năm 2002 là 0,364 nhưng sang năm 2003 hệ số này giảm xuống còn 0,356. Sự sụt giảm 2,2% này là do trong năm 2003 mặc dù công ty có doanh thu lớn nhưng bên cạnh đó chi phí cho quản lý cũng chiếm khá cao. TTCK năm 2003 có những dấu hiệu đảo chiều vì vậy sự sụt giảm này là không đáng kể. Các kế hoạch của công ty đều hoàn thành. c) Mức doanh lợi trên tổng tài sản: Lợi nhuận Lãi trên tài sản = Tổng tài sản c) Doanh lợi trên tài sản Chỉ tiêu doanh lợi trên tài sản năm 2002 là 0,006 nhưng sang năm 2003 hệ số này tăng lên 0,0112. Sự tăng 86,66% này chứng tỏ năm 2003 công ty đã có lợi nhuận cao hơn năm 2002. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty do đó cũng được nâng cao. Đây chính là một tín hiệu tốt cho nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. d) Hiệu năng vốn kinh doanh (năng suất): Doanh thu Doanh thu trên vốn = Vốn kinh doanh Chỉ tiêu hiệu năng vốn kinh doanh năm 2002 là 0,01645 nhưng sang năm 2003 hệ số này tăng lên 0,03162. So với năm 2002 chỉ tiêu này tăng 92,2%. Phản ánh trình độ sử dụng vốn có hiệu quả của công ty chứng khoán. e) Hiệu quả sử dụng tài sản cố định: Doanh thu Số vòng quay của TSCĐ = Tài sản cố định Số vòng quay TSCĐ năm 2002 là 2,1943 lần, năm 2003 tăng lên 3,2 lần Vòng quay tài sản cố định tăng chứng tỏ công ty khai thác tốt tài sản cố định. Điều này phản ánh hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực trong công ty ngày càng được nâng cao. Với một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chủ yếu là dịch vụ mà sức sản xuất của tài sản cố định như trên là hợp lý. So với các công ty cùng lĩnh vực trên thị trường thì đây là một chỉ số tương đối khả quan f) Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu (tỷ suất lợi nhuận): Lợi nhuận Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu được phản ánh bằng khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này năm 2002 là 0,0436, năm 2003 là 0,095 cho biết cứ 1 đồng vốn chủ sở hữu đầu tư vào tài sản trong năm 2002 tạo ra được 0,0436 đồng lợi nhuận và 0,095 đồng lợi nhuận năm 2003. Như vậy năm 2003 hệ số này tăng 117,88% so với năm 2002. Điều đó cho thấy hiệu quả của việc sử dụng vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán ngày càng tăng. Tỷ suất lợi nhuận ngày càng cao, xứng đáng với niềm tin của lãnh đạo Ngân hàng Công thương và cán bộ công nhân viên trong công ty, vì vậy giúp công ty đủ niềm tin, vững vàng hơn trong hoạt động kinh doanh. Doanh số giao dịch công ty thực hiện cho khách hàng qua từng tháng đều tăng. TTCK Việt Nam đã từng bước phát triển, tạo lòng tin cho công chúng đầu tư. Bên cạnh đó, công ty thực hiện nghiệp vụ môi giới nhanh chóng, chính xác với độ an toàn cao, từ đó tạo niềm tin nơi khách hàng để họ tích cực hơn trong việc tham gia giao dịch trên TTCK. Với việc đảm bảo nguyên tắc cơ bản của TTCK cũng như các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, hình ảnh của công ty đã được nhiều người biết đến. Bên cạnh đó, dịch vụ tư vấn đầu tư hoạt động dần dần có hiệu quả và thu hút được nhiều khách hàng đến với công ty. Điều quan trọng hơn cả là tất cả các nghiệp vụ mà công ty thực hiện liên quan trực tiếp đến khách hàng đã được khách hàng tin tưởng, hài lòng do đó số khách hàng đến với công ty ngày càng tăng. Có được những thành công đáng kể trên là nhờ: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhân viên có trình độ, hiểu biết và được đào tạo cơ bản về chứng khoán và TTCK đã chỉ đạo và thực hiện các nghiệp vụ một cách an toàn, hiệu quả và tạo được lòng tin ở khách hàng. Ban lãnh đạo công ty là những người có thâm niên trong ngành tài chính, ngân hàng nên dù ở giai đoạn đầu hoạt động nhưng việc điều hành các nghiệp vụ của công ty đều trôi chảy, tất cả các cán bộ kinh doanh chủ chốt đều đã qua các lớp đào tạo của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và có giấy phép hành nghề. Các nhân viên môi giới của công ty đều đã được lựa chọn kỹ và được trung tâm giao dịch chứng khoán đào tạo. Ngoài ra, một số đã được gửi ra nước ngoài đào tạo chuyên sâu hoặc được chuyên gia nước ngoài sang đào tạo tại chỗ; cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại đã góp phần quan trọng trong quá trình hoạt động hiệu quả của công ty. Điển hình là bảng điện tử giúp cho khách hàng theo dõi thông tin giao dịch từ Trung tâm giao dịch chứng khoán. Bảng điện tử giúp cho nhà đầu tư có thông tin cập nhật nhất về giá cả, khối lượng chào bán và đặt mua của từng loại chứng khoán, giá cả và khối lượng dự kiến khớp lệnh của từng loại chứng khoán. Bên cạnh đó, công ty còn có hệ thống thông tin theo dõi và giám sát khách hàng. Số dư tài khoản của khách hàng, các giao dịch thực hiện trong phiên đều được công ty giám sát chặt chẽ để thông báo cho khách hàng, đảm bảo khi thực hiện các giao dịch, khách hàng đã ký quỹ 100%, cũng như không xảy ra trường hợp mua bán cùng một loại chứng khoán trong một phiên giao dịch. Việc giám sát này không những giúp cho khách hàng luôn tuân theo những quy định của pháp luật trong giao dịch mà còn đảm bảo cho cả uy tín của công ty trong việc thực hiện các dịch vụ cho khách hàng. Hơn nữa, hệ thống thông tin này có khả năng cung cấp các thông tin liên quan đến khách hàng khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. Một lý do khác nữa là TTCK Việt Nam ngày càng hoạt động ổn định, đúng theo hướng và mục tiêu đã đề ra ngay từ khi mới thành lập. Tuy nhiên TTCK tập trung ở Việt Nam còn sơ khai. Hàng hoá trên thị trường tuy đã tăng về số lượng những vẫn còn ít và chưa đa dạng về chủng loại. Quy mô thị trường còn nhỏ bé cả cung và cầu. Hệ thống giao dịch thanh toán còn ở mức ban đầu, chưa bao quát đầy đủ các chức năng của hệ thống. Mặt khác chưa có luật về chứng khoán nên hiệu lực của các văn bản pháp lý về chứng khoán và TTCK không cao, dẫn đến nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện. Những hạn chế này đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh doanh của các công ty chứng khoán nói chung và công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương nói riêng. Mặt khác, việc một số tổ chức niêm yết công bố thông tin không chính xác về tình hình hoạt động kinh doanh của mình (BBC, CAN) đã khiến lòng tin của nhà đầu tư trên thị trường suy giảm. Điều này dẫn đến thị trường hoạt động không sôi động và giảm đi nguồn thu đáng kể của các công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, số người hiểu biết về chứng khoán và TTCK không nhiều, kiến thức về thị trường rộng đã khiến cho các công ty chứng khoán rất khó khăn trong việc tuyên truyền phổ biến kiến thức cho người đầu tư. Cũng chính vì điều đó, các công ty gặp khó khăn khi tiếp xúc với khách hàng là công ty để tư vấn cho họ cổ phần hoá và đưa chứng khoán niêm yết trên TTCK vì đội ngũ lãnh đạo của các công ty chưa chủ động cổ phần hoá, họ vẫn còn ngại công bố thông tin trên thị trường Là đơn vị thành viên chuyên hoạt động kinh doanh chứng khoán thuộc Ngân hàng Công Thương Việt Nam, với phương châm “sự thành đạt của khách hàng chính là sự thành đạt của Công ty”, Công ty đã lấy “nhiệt tình, trung thực, chuyên nghiệp và hiệu quả” làm tôn chỉ phục vụ. Ngay từ những ngày đầu hoạt động công ty đã không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, không ngừng hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật. Nhờ vậy Công ty đã nhanh chóng khẳng định được vị thế của một trong những công ty chứng khoán hàng đầu tại Việt Nam. Nhìn lại sau 03 năm thành lập và đi vào hoạt động, ngoài những kết quả đã đạt được, điều cần nhấn mạnh ở đây là IBS đã không chỉ bảo toàn mà còn tăng trưởng vốn. IBS đã có lợi nhuận ngay năm đầu di vào hoạt động, các năm sau lợi nhuận trước thuế đều gấp 1,5 - 2 lần năm trước và hoàn thành vượt mức kế hoạch trên giao. Đạt được điều này là không dễ dàng trong lúc còn có tâm lý bi quan chung trước tình hình hiện nay của TTCK Việt Nam và không ít các công ty chứng khoán khác làm ăn thua lỗ, tài chính khó khăn. IBS luôn được các đoàn kiểm toán độc lập, thanh kiểm tra của UBCKNN và NHCTVN đánh giá tốt. Bên cạnh đó, IBS đang có những mặt tồn tại, hạn chế cần sớm khắc phục ngay như: Lao động, nhân sự không ổn định, khó đáp ứng yêu cầu phát triển sắp tới: Do vậy cần có chính sách đãi ngộ thích đáng để thu hút cán bộ giỏi đáp ứng công việc đòi hỏi kỹ năng, chịu được áp lực cao, có tính chuyên nghiệp, quan hệ tốt với khách hàng, năng động, sáng tạo, nhạy bén. Để thực hiện các công việc như: tìm kiếm, phát hiện cơ hội đề xuất phương án kinh doanh; tổ chức triển khai linh hoạt hiệu quả kế hoạch vạch ra; xây dựng, duy trì tốt quan hệ mật thiết với các đối tác; biết hoạch định chiến lược và tiếp nhận ứng dụng tiến bộ tin học vào nghiệp vụ chứng khoán. Tính chất hoạt động kinh doanh còn chưa ổn định, mang tính thương vụ, ăn may là chủ yếu, chưa phải đã thực sự căn cơ. Biểu hiện là các nguồn thu từ các nghiệp vụ còn thấp. Hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ và dàn xếp tài chính tạm giúp IBS cầm cự được, nhưng về lâu dài khi cơ chế, chính sách phát hành, huy động vốn qua TTCK có thay đổi hoặc các đối tác, bạn hàng đổ xô vào cùng làm, cạnh tranh khốc liệt là khó khăn. Bởi vậy rất cần có cơ chế, chính sách chính thức hỗ trợ kinh doanh cho IBS từ Ngân hàng Công thương Việt Nam, phù hợp chiến lược phát triển đa năng, đa dạng hoá, gắn kết kinh doanh ngân hàng với chứng khoán, bảo hiểm... Số lượng lao động thiếu, hạn chế về kinh nghiệm trong hoạt động nghiên cứu phân tích tư vấn đầu tư cho khách hàng, tư vấn cho các doanh nghiệp cổ phần hoá... Mặc dù các bộ phận nghiên cứu phân tích, tư vấn doanh nghiệp của IBS đã có rất nhiều cố gắng, nắm bắt khách hàng, thu thập tư liệu tình hình, nhưng công việc hoàn thành được vẫn ở mức khiêm tốn, chưa tương xứng với công sức bỏ ra. Cơ chế chính sách và phương thức hoạt động của IBS còn cứng nhắc, khó thích ứng với các quan hệ thị trường, ngoài ra việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật công nghệ tin học còn chậm, chưa tập trung cao và đầu tư thích đáng cho công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhân viên. Mức độ tin học hoá còn thấp trong các hoạt động quản lý giao dịch, tài khoản, thông tin khách hàng, truyền tải lệnh giao dịch, lưu ký, phân tích, tư vấn đầu tư, giao dịch từ xa... IBS chưa có giao dịch qua mạng, chưa có Website riêng, vẫn truyền lệnh qua line điện thoại, qua fax nên chi phí cao, tốc độ chậm, không an toàn. Nguy cơ tụt hậu so với các đối thủ cạnh tranh là rất lớn. Vì vậy IBS đang tìm cách khắc phục những điểm yếu trên và luôn bám sát 05 nhiệm vụ trọng tâm đã đề ra: ổn định nguồn nhân lực; kiện toàn công tác điều hành; đào tạo và đào tạo lại nâng cao năng lực cho cán bộ nhân viên; củng cố lành mạnh hoá tài chính; hiện đại hoá tin học và quy trình kỹ thuật nghiệp vụ Công ty. So với các công ty chứng khoán khác trên thị trường thì IBS có vốn điều lệ là 55 tỷ đồng, đây là cơ sở tốt để thực hiện các nghiệp vụ đòi hỏi vốn lớn như bảo lãnh phát hành, tự doanh. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy chỉ có nghiệp vụ tự doanh và môi giới là hai nghiệp vụ mang lại lợi nhuận cho IBS, trong khi các nghiệp vụ khác vẫn còn chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa sôi động và chưa đóng vai trò quyết định trong hiệu quả kinh doanh của công ty. Mặt khác các nghiệp vụ như môi giới, tự doanh, tư vấn đầu tư chứng khoán chưa thực sự hoạt động đúng theo tiềm năng của công ty. Trong quá trình hoạt động IBS còn một số vướng mắc về tư duy và tác phong của cán bộ nhân viên khi họ chưa kịp đổi mới với kinh doanh và do số cán bộ công ty còn quá ít (toàn công ty chỉ có 57 người) nên áp lực công việc quá lớn đối với người lao động. IBS có trụ sở chính tại Hà Nội và chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, do vậy chưa tạo được những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư ở các tỉnh, thành phố khác trong cả nước. IBS có điều kiện thuận lợi hơn các công ty chứng khoán khác khi mở rộng thêm các nghiệp vụ phụ trợ do có ưu thế của ngân hàng Công thương Việt Nam nhưng do thị trường vẫn còn quá nhỏ, quá ít nghiệp vụ khiến cho công ty không phát huy hết khả năng vốn có của mình. 2.4.1 Những thuận lợi và thời cơ của IBS. Quá trình huy động vốn cho nền kinh tế thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công trình và trái phiếu công ty, cũng như việc phát hành cổ phiếu của các công ty cổ phần đòi hỏi phải có nhưng tổ chức kinh tế thực hiện việc phát hành, làm đại lý mua bán nhằm tạo tính thanh khoản cho các công cụ nợ này. Chính vì vậy, các công ty chứng khoán được coi là chủ thể chính trên TTCK Việt Nam. Các tổ chức kinh tế Việt Nam đã thành lập hay có dự định thành lập đều có những thuận lợi nhất định. Các tổ chức này đều nhận được sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan, đặc biệt là Uỷ ban chứng khoán Nhà Nước. Các văn bản pháp lý cơ bản đã được ban hành. Trong 2 năm hoạt động đầu tiên, các khoản thuế, phí, lệ phí hoạt động kinh doanh đều không phải nộp. Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục được đẩy mạnh theo hướng gắn chặt quá trình cổ phần hoá với quá trình phát hành cổ phiếu ra công chúng thông qua các công ty chứng khoán. Nhà nước mở TTCK Bảng II tại Hà Nội dành cho các chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Giao dịch trên TTCK tập trung được mở rộng dẫn đến quy mô và phương thức quốc tế như: khớp lệnh nhiều lần, mức ký quỹ giảm, biên độ dao động tăng... Cùng với tất cả điều đó, nền kinh tế Việt Nam bất chấp kinh tế thế giới suy giảm vẫn đang đà phát triển mạnh. Tổng sản phẩm quốc nội năm 2003 ước đạt 574 nghìn tỷ đồng, tăng 7,24% so với năm 2002. Với kết quả đó, Việt Nam đươc xếp vào nhóm nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất (cùng với Trung Quốc và Hàn Quốc). Đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư được cải thiện. Cho đến nay, thu nhập tăng khoảng 10% so với 10 năm trước. Kinh tế phát triển, thị trường và giá cả ổn định tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi để TTCK phát triển. Một trong những điều kiện hàng đầu của ngân hàng Công Thương Việt Nam là đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng các dịch vụ, nghiệp vụ ngoài tín dụng, trong đó “kinh doanh chứng khoán vừa tập dượt đáp ứng yêu cầu hiện đại, vừa chuẩn bị nguồn lực cho hoạt động lớn hơn và hướng tới xây dựng thành tập đoàn tài chính vào những năm tiếp theo”. IBS được đầu tư 100% vốn từ ngân hàng Công Thương Việt Nam- một ngân hàng có hoạt động tốt nhất hiện nay, với mạng lưới khách hàng rộng khắp trên toàn quốc. IBS ra đời thừa kế được bề dày hoạt động của ngân hàng mẹ, hiện có tới chi nhánh tại các tỉnh, thành phố, quận huyện trong cả nước và có quan hệ đại lý với các ngân hàng, tổ chức tài chính và đang tài trợ cho nhiều dự án lớn trong và ngoài nước. Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng là một trong những đơn vị hoạt động tích cực trong TTCK. Những dịch vụ của ngân hàng mẹ cũng giúp ích rất nhiều cho IBS trong bước đầu hoạt động của mình. Mặt khác, IBS có đội ngũ cán bộ trẻ, tư cách đạo đức tốt, năng động, sáng tạo, được đào tạo bài bản và có giấy phép hành nghề. Đây cũng là điểm thuận lợi cho công ty trong quá trình kinh doanh của mình. 2.4.2 Điểm yếu, thách thức và nguyên nhân. Với những gì mà công ty đã đạt được trong hơn ba năm qua có thể nhận thấy rằng tiềm năng phát triển của công ty là rất lớn. Sự quan tâm của Ngân hàng Công thương Việt Nam, Chính phủ đã tạo điều kiện cho công ty hoạt động phát triển. Điều này được thể hiện qua sự quyết tâm của toàn thể cán bộ nhân viên trong công ty nhằm từng bước đưa công ty trở thành công ty hàng đầu hoạt động trên TTCK Việt Nam. Tuy nhiên với những hạn chế trước mắt như trên đòi hỏi cần phải có sự đánh giá nghiêm túc và rút ra những bài học để từ đó công ty ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Qua quá trình hoạt động lãnh đạo của công ty cũng đã dám nhìn thẳng vào những vấn đề khó khăn của thị trường cũng như từ bản thân công ty, từ đó đưa ra những đối sách phù hợp với thực tiễn. Về những hạn chế kể trên xuất phát từ những nguyên nhân sau: Hoạt động marketing của công ty còn yếu: Tiềm năng khách hàng của thị trường rất lớn nhưng khách hàng hiện tại còn quá ít. Một phần do các hoạt động Marketing của công ty chưa phát triển, chưa tiếp cận được với khách hàng tiềm năng. nhằm phân loại khách hàng, xây dựng một quy trình cung cấp dịch vụ tương ứng cho mọi loại khách hàng. Chính sách khách hàng được tập trung vào các khâu: Quảng cáo, tiện ích và chế độ ưu đãi về phí. Tuy nhiên cho đến nay, công tác Marketing của công ty vẫn chưa tốt, dẫn đến thông tin chưa đầy đủ ảnh hưởng đến phân tích chứng khoán, ảnh hưởng đến tư vấn đầu tư cho khách hàng. Trên thực tế, công ty vẫn chưa chủ động trong công tác tìm kiếm khách hàng. Hầu hết các khách hàng đã mở tài khoản tại công ty là những khách hàng tự đến với công ty. Mặt khác, việc tuyên truyền về chứng khoán và TTCK chưa được công ty chú trọng phát triển. Cho đến nay công ty vẫn chưa xây dựng được trang Web để công chúng đầu tư tìm hiểu và theo dõi những thông tin cần thiết. IBS vẫn chưa tận dụng được hết lợi thế của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Ngân hàng Công Thương Việt Nam là một trong bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất nước ta hiện nay. Với số vốn điều lệ 1700 tỷ đồng ngân hàng công thương có các chi nhánh giao dịch trên toàn quốc, số lượng khách hàng rất lớn trong mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế. IBS có thể dựa vào vị thế, tiềm năng của ngân hàng mẹ để mở rộng thêm các dịch vụ mà các công ty chứng khoán khác không có được. Từ thực trạng của IBS trong thời gian qua, cùng với các kết quả đạt được cũng như các mặt hạn chế, công ty cần có các biện pháp kịp thời để tiếp tục phát huy thế mạnh, khắc phục điểm yếu để ngày càng phát triển vững vàng trên TTCK Việt Nam. Thiếu kinh nghiệm kinh doanh thực tế nên công ty vẫn còn lúng túng khi triển khai các nghiệp vụ kinh doanh. Điều này cũng dễ hiểu khi TTCK Việt Nam vừa mới đi vào hoạt động và là công ty chứng khoán thành lập muộn so với các công ty chứng khoán khác. Các nghiệp vụ của công ty tuy đã triển khai hết nhưng còn hạn chế, chủ yếu chỉ là nghiệp vụ môi giới và tự doanh, lưu ký còn các nghiệp vụ khác thì chưa phát triển. Mặt khác, số công ty niêm yết trên thị trường còn ít, hàng hoá cho thị trường hiếm hoi thì nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công ty khó để được thực hiện được. Bên cạnh đó, công ty vẫn chưa mở rộng tối đa quan hệ đối ngoại của mình để tích luỹ kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, khoa học kỹ thuật hiện đại... Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh: Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và cơ sở vật chất kỹ thuật kinh doanh bị hao mòn vô hình rất nhanh. Mặt khác việc buôn bán chứng khoán diễn ra rất nhanh, thời gian là tiền bạc, hệ thống công nghệ thông tin phải đủ mạnh để xử lý chính xác và kịp thời. Mặc dù văn phòng làm việc cũng như các trang thiết bị của được đánh giá là khá tốt so với các công ty chứng khoán khác, nhưng muốn thực hiện các nghiệp vụ lưu ký chứng khoán, nghĩa là khách hàng ký gửi chứng khoán cho công ty, công ty tiến hành kinh doanh hộ khách hàng, thanh toán tiền lãi và cổ tức, trên thực tế, hệ thống tin học chưa đủ mạnh để có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Đồng thời khoa học kỹ thuật phát triển ngày càng mạnh mẽ mà công ty chưa thể nhanh chóng nâng cấp được hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có của mình nên hiện tại vẫn chưa đáp ứng được tốt yêu cầu của kinh doanh chứng khoán. Tâm lý của nhà đầu tư : Đa số việc mua bán cổ phiếu diễn ra giữa các nhà đầu tư nhỏ với tâm lý đầu tư “ngắn hạn” nhằm mua cổ phiếu theo biến động giá hơn là dựa vào đánh giá tiềm năng phát triển của công ty thông qua việc đánh giá tình trạng tài chính và thị trường một cách toàn diện. Các nhà đầu tư Việt Nam chưa có thói quen phải trả tiền khi sử dụng các dịch vụ họ được cung cấp, thị trường chỉ có rất ít loại chứng khoán nên họ vẫn có thể theo dõi và tự quyết định cho bản thân nên mua, bán chứng khoán nào, vào lúc nào. Chính vì thế, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chưa thực sự được các nhà đầu tư cho là cần thiết. Mặt khác, họ vẫn chưa thấy được lợi ích khi có một danh mục đầu tư hợp lý mà chỉ sợ mất phí, cho nên mặc dù là một dịch vụ tốt và rất có hiệu quả nhưng quản lý danh mục đầu tư cũng không được các nhà đầu tư quan tâm. 2.4.3 Nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động kinh doanh của CTCK . 2.4.3.1 Nhân tố chủ quan 2.4.3.1.1 Yếu tố tổ chức quản lý Ta đã biết hoạt động của CTCK rất đa dạng và phức tạp khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất và thương mại thông thường vì CTCK là một định chế tài chính đặc biệt. Vì vây, ứng với các TTCK khác nhau, các CTCK khác nhau sẽ có hệ thống tổ chức quản lý khác nhau. Sở dĩ như vậy, vì việc tổ chức quản lý của một CTCK sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng của công ty. Nếu tổ chức quản lý không khoa học sẽ làm cho việc thực hiện các nghiệp vụ không đồng bộ, ăn khớp dẫn đến sai sót và kết quả là ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động khác của công ty. Do các nghiệp vụ của CTCK có đặc thù là độc lập với nhau nhưng vẫn có những ảnh hưởng nhất định với nhau, vì vậy tổ chức quản lý của CTCK phải đáp ứng được yêu cầu này. Các phòng ban phải tổ chức hợp lý sao cho vừa đảm bảo nghiệp vụ được thực hiện nhanh chóng, chính xác, vừa bảo mật thông tin. Có như vậy thì CTCK mới có thể tiến hành hoạt động kinh doanh một cách an toàn và ổn đinh. 2.4.3.1.2. Yếu tố con người Yếu tố con người ở đây chủ yếu là nói đến đội ngũ nhân viên của CTCK. Chứng khoán là một lĩnh vực đòi hỏi người nhân viên phải có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và có khả năng phân tích đánh giá cũng như khả năng nhạy bén đối với các thông tin của thị trường. Vì vậy có thể nói nhân viên của CTCK phải là những chuyên gia trong lĩnh vực mình phụ trách. Nếu họ nhận đinh sai một thông tin nào đó sẽ dẫn đến việc các nhà đầu tư mất lòng tin vào công ty. Trong trường hợp sai sót đó còn nhỏ thì khách hàng sẽ từ bỏ công ty này sang công ty khác, nhưng nếu sai sót lớn thì không những hình ảnh của công ty bị ảnh hưởng mà nó còn tác động đến thị trường, bởi khách hàng sẽ gây ra phản ứng dây truyền nhanh chóng và khó có thể dự đoán điều gì xảy ra. Ngoài ra cũng không thể phủ nhận ảnh hưởng của các nhà quản lý các CTCK trong yếu tố về con người. Họ là người quyết định các chính sách, chiến lược của công ty, ngoài việc phải am hiểu tổng thể các nghiệp vụ, họ còn cần có khả năng tổ chức lãnh đạo. Vì vậy đối với CTCK, yêu cầu đối với một người quản lý là rất cao. 2.4.3.1.3. Yếu tố tài chính Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì vấn đề tài chính cũng là vấn đề rất quan trọng. Tình hình tài chính của công ty tốt tức là công ty làm ăn hiệu quả, có lãi. Nó sẽ quyết định định hướng cũng như quy mô hoạt động kinh doanh trong giai đoạn tiếp theo của công ty. Nếu tài chính không tốt, không những hoạt động kinh doanh của công ty không thể mở rộng được mà còn làm giảm sút uy tín và lòng tin của khách hàng đối với công ty. Mà đối với CTCK ảnh hưởng của công ty đối với khách hàng là rất quan trọng. Vì trong chức năng hoạt động kinh doanh của công ty thực chất là phải cung cấp các dịch vụ, đáp ứng các yêu cầu về chứng khoán của khách hàng, nếu không có đủ năng lực tài chính để đưa ra các tiện ích phục vụ khách hàng thì sẽ không còn ai muốn hợp tác với công ty nữa. Riêng đối với Việt Nam thì yếu tố tài chính còn đặc biệt quan trọng bởi số vốn điều lệ của công ty quyết định cả các nghiệp vụ mà công ty được phép hoạt động. Hơn nữa, do khách hàng mở tài khoản tại CTCK nên công ty không những phải coi trọng tài chính của mình mà còn phải quan tâm tới các tài khoản của khách hàng. Công ty phải mở và quản lý tài sản của khách hàng tách biệt với nhau. 2.4.3.1.4. Yếu tố công nghệ Cuộc sống ngày càng phát triển nên công nghệ đối với tất cả các ngành nghề đều rất quan trọng. Nhưng đối với ngành chứng khoán thì thời gian gắn liền với tiền bạc nếu thông tin không nhanh chóng, chính xác thì sẽ gây ra những hậu quả đáng tiếc. Do CTCK là trung gian nên họ là cầu nối giữa các chủ thể của thị trường, vì vậy thông tin họ cập nhật được cũng như phải công bố lại cho nhiều đối tượng, nhiều địa điểm. Vậy nếu không có công nghệ hiện đại, thông tin không truyền đến được với các nhà đầu tư, hay trung tâm giao dịch không thể chuyển thông tin cho các CTCK thì khách hàng bị thua lỗ, CTCK cũng thua lỗ và thị trường khó có thể hoạt động lành mạnh được. Ngay trong nội bộ một công ty, việc trang bị công nghệ để thông tin giữa các phòng ban, nhân viên cũng là một yếu tố tác động không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của công ty. Ở những nước có TTCK phát triển, công nghệ của họ vô cùng hiện đại vì vậy họ có thể mở rộng thị trường, rút ngắn mọi khoảng cách giữa các quốc gia và làm cho nền kinh tế thế giới phát triển hơn. Còn đối với một TTCK mới đi vào hoạt động chưa lâu như ở nước ta thì vấn đề công nghệ có ảnh hưởng rất lớn và là yếu tố cần thiết hiện nay cho các CTCK để có thể phát triển các nghiệp vụ của mình. 2.4.3.1.5. Kiểm soát nội bộ Nguyên tắc bảo mật thông tin của các CTCK là một nguyên tắc sẽ quyết định yếu tố thắng lợi trong cạnh tranh của công ty. Vì vậy công tác kiểm soát nội bộ là rất cần thiết. Tất nhiên không phải chỉ có thông tin mới cần kiểm soát, ngay từ các quy trình nghiệp vụ, các thủ tục tiến hành nghiệp vụ của CTCK đều phải được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo không vi phạm pháp luật và nâng cao chất lượng hoạt động của công ty. Để lộ thông tin hay vi phạm pháp luật đều dẫn đến kết quả là công ty sẽ thất bại trọng hoạt động kinh doanh. 2.4.3.2 Nhân tố khách quan 2.4.3.2.1 Sự phát triển của nền kinh tế TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính của một quốc gia hay nói rộng ra nó là một bộ phận của nền kinh tế. Vì vậy sự phát triển của nền kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của TTCK. Và dĩ nhiên CTCK cũng chịu sự tác động rất nhiều của nền kinh tế. Nếu kinh tế phát triển các doanh nghiệp sẽ thu hút được nhiều lợi nhuận, họ mong muốn được mở rộng sản xuất kinh doanh. Do đó họ cần vốn và phương pháp hữu hiệu để có nguồn vốn trung và dài hạn là huy động trên TTCK. Khi đó họ đã trở thành những nhà phát hành. Nếu là cá nhân bạn có thể dùng thu nhập nhiều hơn do kinh tế phát triển để đầu tư chứng khoán thu lợi nhuận. Tất cả những hoạt động đó CTCK đều có thể đứng ra thực hiện cho họ vì đó là chức năng của CTCK. CTCK phát triển sẽ thúc đẩy TTCK phát triển và TTCK lại thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đó là ảnh hưởng tích cực. Ngược lại, nếu kinh tế không phát triển mọi điều trên không xảy ra, không có nhà đầu tư thì không có thị trường và cũng không có CTCK. 2.4.3.2.2 Yếu tố pháp lý Đây là yếu tố không thể thiếu đối với TTCK nói chung và với CTCK nói riêng. Như mọi doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, CTCK cần phải tuân thủ pháp luật của mỗi quốc gia mà trong đó nó được thành lập. Có thể coi yếu tố pháp lý ở đây là những luật định của các cơ quan quản lý và giám sát TTCK của mỗi quốc gia. Họ có quyền cao nhất trong việc ra các quyết định đối vơi thị trường và vì vậy những quyết định đó có ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường. Nếu họ thay đổi một số quy định, giả sử về thủ tục phát hành,về phiên giao dịch, về hình thức khớp lệnh hay về thuế một cách tiêu cực hay tích cực đều có những tác động tương ứng ngay tới các CTCK. CTCK sẽ hoạt động thuận tiện hơn, có hiệu quả hơn hay sẽ bị bó buộc, làm ăn thua lỗ một phần phụ thuộc vào yếu tỗ pháp lý do các cơ quan quản lý và giám sát thị trường ban hành. 2.4.3.2.3. Sự phát triển của TTCK. CTCK không thể tồn tại và tách rời khỏi TTCK. Sự phát triển của TTCK ở đây là sự phát triển cả cung và cầu chứng khoán, các thành viên tham gia thị trường cùng sự phát triển của các trung gian tài chính và các hoạt động khác. Một thị trường không có hàng hoá thì không tồn tại vì không có gì để mua và bán. Nếu TTCK không phát triển thì CTCK cũng không phát triển được vì CTCK là một chủ thể chính tham gia trên TTCK. TTCK phát triển cùng với hệ thống công bố thông tin, hệ thống đăng ký, hệ thống công bố công khai của nó đã cung cấp cho các nhà đầu tư các thông tin đầy đủ và chính xác liên quan đến chứng khoán, tăng độ tin cậy cho thị trường và giải quyết vấn đề thông tin không cân xứng và rủi ro đạo đức. Từ đó, các nhà đầu tư có niềm tin tham gia đầu tư, mà CTCK là cầu nối cho họ. 2.4.3.2.4. Nhân tố con người Đây cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động của Công ty chứng khoán. Một CTCK không thể hoạt động tốt nếu các nhà đầu tư có tâm lý không tốt về TTCK nói chung và Công ty chứng khoán nói riêng. Từ đó các Công ty chứng khoán luôn phải tìm cách tạo những hình ảnh tốt trong các nhà đầu tư để từ đó họ tin tưởng vào hoạt động của Công ty. Trên đây là những vấn đề chung về hoạt động của công ty chứng khoán, Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu về thực trạng hoạt động của Công ty chứng khoán Công Thương. CHƯƠNG III HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN CÔNG THƯƠNG 3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA UBCKNN VÀ CỦA IBS TRONG THỜI GIAN TỚI. 3.1.1. Định hướng của UBCKNN. Do TTCK Việt Nam là thị trường mới ra đời . Do đó cần phải có một chiến lược cụ thể để phát triển TTCK Việt Nam trong giai đoạn 2003-2010 với chiến lược này thì Uỷ ban chứng khoán đề ra mục tiêu tổng quát là:“

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CHỨNG KHOÁN CỦA CTCK NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG.pdf
Tài liệu liên quan