Tài liệu Luận văn Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa: LUẬN VĂN:
Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã
hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách BHXH được Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm ban
hành, thực hiện ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công và thường xuyên bổ
sung, điều chỉnh cho phù hợp yêu cầu thực tiễn đất nước; đảm bảo cuộc sống cho cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động, tạo thành sức mạnh toàn dân, góp phần làm nên
thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên
mới: hoà bình, thống nhất, độc lập và vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện chính sách BHXH phù hợp với công cuộc đổi mới của đất nước, hoà
nhập với xu thế phát triển của thời đại, thực hiện Hiến pháp năm 1992 và Bộ Luật lao
động, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 kèm theo Điều lệ BHXH
đối với cán bộ, công nhân, viên chức, người lao động và Nghị định số 45/CP ngày
15/7/1995 kèm theo Điều lệ BHXH đối với sĩ quan,...
103 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1480 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã
hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách BHXH được Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm ban
hành, thực hiện ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công và thường xuyên bổ
sung, điều chỉnh cho phù hợp yêu cầu thực tiễn đất nước; đảm bảo cuộc sống cho cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động, tạo thành sức mạnh toàn dân, góp phần làm nên
thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên
mới: hoà bình, thống nhất, độc lập và vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện chính sách BHXH phù hợp với công cuộc đổi mới của đất nước, hoà
nhập với xu thế phát triển của thời đại, thực hiện Hiến pháp năm 1992 và Bộ Luật lao
động, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 kèm theo Điều lệ BHXH
đối với cán bộ, công nhân, viên chức, người lao động và Nghị định số 45/CP ngày
15/7/1995 kèm theo Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ
quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Theo đó, ngày 16/02/1995, Chính
phủ ban hành Nghị định số 19/ CP thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các
tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống LĐTB&XH và LĐLĐ Việt
Nam. Thực hiện chủ trương cải cách tổ chức bộ máy của Chính phủ trong tình hình mới,
từ ngày 01/01/2003, BHXH Việt Nam có thêm nhiệm vụ quản lý quỹ và tổ chức thực
hiện chính sách BHYT theo Nghị định số 100/2002/NĐ-CP, ngày 06/12/2002 của Chính
phủ. Đặc biệt, ngày 26/9/2006, Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua Luật BHXH,
có hiệu lực từ ngày 01/ 01/2007, đây là cơ sở pháp lý vững chắc thực hiện quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia BHXH, nội dung của Luật thể hiện quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực BHXH.
Cùng với sự hình thành của hệ thống BHXH, BHXH tỉnh Thanh Hóa được thành
lập theo Quyết định số 137/QĐ-TCCB ngày 15/6/1995 của Tổng Giám đốc BHXH Việt
Nam. Qua gần 13 năm tổ chức hoạt động, với những kết quả đạt được, BHXH Thanh
Hóa đã góp phần ổn định chính trị, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo quốc
phòng, an ninh trên địa bàn. Tuy nhiên, quá trình thực hiện chính sách BHXH ở tỉnh Thanh
Hóa trong thời gian qua còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót, đặc biệt trong công tác quản lý
thu BHXH, đã và đang đặt ra những vấn đề cần quan tâm giải quyết, đó là:
- Việc phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, nhất là khu vực dân doanh.
Đây là khu vực có nhiều lao động, nhưng tỷ lệ tham gia BHXH còn quá thấp, chưa tương
xứng với tiềm năng của tỉnh.
- Vấn đề quản lý lao động trong độ tuổi có việc làm trong các thành phần kinh tế.
Đây là cơ sở để phát triển đối tượng tham gia BHXH, nhưng cũng là khâu còn yếu, hoặc
có thể đánh giá là chưa quản lý được.
- Công tác tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật BHXH đối với
chủ doanh nghiệp cố tình không đóng, đóng không đúng, không kịp thời, đóng không đầy
đủ BHXH cho người lao động; vấn đề giải quyết nợ tồn đọng BHXH đang là một trong
những bức xúc hiện nay.
- Việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính, đổi mới phong cách phục vụ của đội
ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác thu BHXH và ứng dụng công nghệ thông tin vào quản
lý thu BHXH bắt buộc.
Những vấn đề trên, nếu không được quan tâm khắc phục sẽ tác động xấu đến toàn
bộ hoạt động BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Đây là sự tác động khách quan do quá
trình hội nhập mang lại và do chính vị trí và vai trò của quản lý thu BHXH. Như chúng ta
đều thấy rõ, sự hội nhập WTO của nước ta cũng đồng nghĩa với việc nước ta tham gia
vào quá trình phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên sự phân công lao động lần này
không phải là sự phân công lao động thuần tuý theo nghĩa của sự hợp tác kinh tế quốc tế
giữa các quốc gia nhằm đảm bảo một cách cân đối và có kế hoạch mà là sự phân công
thực hiện trên cơ sở của sự cạnh tranh gay gắt; nó kéo theo sự di chuyển nguồn lao động
từ trong nước ra nước ngoài cũng như dòng lao động từ nước ngoài vào nước ta. Tương
ứng như vậy, việc đóng BHXH cũng như quyền lợi về BHXH của người lao động Việt
Nam tại nước ngoài cũng như người lao động nước ngoài tại Việt Nam cần phải được
đảm bảo theo hướng phù hợp với chính sách BHXH của nước sở tại. Những thách thức đối
với hoạt động BHXH rất lớn, đó là sự biến động của đối tượng lao động tham gia BHXH
trong khu vực doanh nghiệp khi phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt
hơn. Tất cả điều đó đang đặt ra những vấn đề bức xúc cần có những giải pháp mang tính khả
thi cao, vì vậy thực hiện tốt việc quản lý thu BHXH có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Là người trực tiếp làm công tác quản lý thu BHXH ở địa phương, tác giả chọn vấn đề:
" Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xó hội trờn địa bàn tỉnh Thanh Hóa " làm đề tài luận
văn thạc sĩ để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ năm 1995, sau 13 năm thành lập và đi vào hoạt động của hệ thống BHXH Việt
Nam, đã có trên một trăm công trình nghiên cứu của cán bộ lãnh đạo, quản lý, các chuyên
gia trong ngành và ngoài ngành, từ đề tài cấp bộ, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ đi sâu cứu
những vấn đề chung, cũng như từng lĩnh vực cụ thể về BHXH, nhưng về quản lý thu BHXH
còn rất hạn chế, mới có một số đề tài trong lĩnh vực này được nghiên cứu một cách có hệ
thống, đó là:
- "Thực trạng quản lý thu bảo hiểm xã hội hiện nay và các biện pháp nâng cao hiệu
quả công tác thu", đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, do Tiến sĩ Nguyễn Văn Châu,
nguyên Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam chủ nhiệm đề tài, bảo vệ năm 1996.
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quản lý thu BHXH của một số nước trên thế
giới và tổng kết hoạt động thực tiễn của quản lý thu BHXH ở Việt Nam trước năm 1995
và đến năm 1996; tác giả làm rõ thực trạng hoạt động BHXH đặc biệt là công tác thu
BHXH trong thời gian qua, nhằm phân tích khả năng thu BHXH để bù đắp các chế độ
BHXH, thay thế dần các nguồn chi lấy từ Ngân sách nhà nước, đồng thời đề xuất một số
kiến nghị cụ thể nhằm cải tiến công tác thu BHXH ở Việt Nam.
- " Cơ sở khoa học hoàn thiện quy trình quản lý thu bảo hiểm xã hội“, đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ, do Tiến sĩ Dương Xuân Triệu, Giám đốc Trung tâm thông
tin khoa học BHXH Việt Nam, bảo vệ năm 1999.
Trên cơ sở nghiên cứu 5 mô hình quản lý thu BHXH của các nước trong khu vực
và thế giới, tác giả đã làm rõ một số khái niệm xung quang vấn đề thu BHXH, thực trạng
quản lý thu BHXH, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình quản lý
thu BHXH phù hợp với từng loại đối tượng ở Việt Nam.
- " Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh
ở Việt Nam", đề tài luận văn Thạc sĩ của tác giả Trần Quốc Tuý, Ban Tuyên truyền-
BHXH Việt Nam, bảo vệ năm 2000. Đề tài nghiên cứu quá trình tổ chức thực hiện thu
BHXH khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh từ năm 1995 đến năm 2000; làm rõ thêm
cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý thu BHXH khu vực này; thực trạng và giải pháp
hoàn thiện quản lý thu BHXH khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam.
Đề tài "Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" được
tác giả lựa chọn để nghiên cứu, hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có
hệ thống trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý thu BHXH, luận
văn phân tích thực trạng công tác quản lý thu BHXH từ 2003 đến 2007 trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa; từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý thu BHXH,
đảm bảo phát triển sự nghiệp BHXH một cách bền vững.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý thu BHXH.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về quản lý thu BHXH, chỉ ra những kết quả đạt đ-
ược, những hạn chế, thiếu sót và những vấn đề đang đặt ra hiện nay trong quản lý thu
BHXH ở Thanh Hóa.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý thu BHXH trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa.
- Kiến nghị với Chính phủ, UBND tỉnh và BHXH Việt Nam bổ sung, sửa đổi chính
sách liên quan đến công tác thu BHXH.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
BHXH mang nội hàm rất rộng, với chức năng cơ bản là thực hiện các chế độ
BHXH cho người lao động (hình thức BHXH bắt buộc với 5 chế độ áp dụng cho đối t-
ượng tham gia BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện với 2 chế độ áp dụng cho đối tượng
tham gia BHXH tự nguyện) ở cơ quan HC,SN, các tổ chức Đảng, đoàn thể, các doanh
nghiệp, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, hợp tác xã, các đơn vị ngoài công lập, bán công,
tư thục. Thực hiện chế độ BHYT cả hai loại hình bắt buộc và tự nguyện; quản lý các
nguồn quỹ. Để thực hiện các chức năng trên, ngành BHXH có 15 nhiệm vụ, có thể nhóm
lại gồm: Thu BHXH, BHYT; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; chi lương hưu và trợ cấp
BHXH; thẩm định, giải quyết các chế độ BHXH, BHYT; ứng dụng công nghệ thông tin
vào quản lý; lưu trữ hồ sơ các đối tượng tham gia và thụ hưởng chế độ BHXH, BHYT;
kiểm tra, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản, trang
thiết bị công nghệ thông tin; công tác tổ chức, bộ máy và cán bộ...
Trong giới hạn của luận văn, tác giả chỉ tập trung vào một nội dung trong nhiệm vụ
thu BHXH:
- Về đối tượng: nghiên cứu đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
- Về phạm vi nghiên cứu: chỉ nghiên cứu về công tác quản lý thu BHXH bắt buộc
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ năm 2003 đến 2007, không đề cập đến thu BHXH tự
nguyện, thu BHYT và đối tượng thuộc lực lượng vũ trang.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng được đề ra trong các kỳ Đại hội, đặc biệt là Đại
hội IX, Đại hội X về lĩnh vực kinh tế - xã hội; các số liệu tổng hợp, báo cáo, điều tra về
quản lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Tác giả sử dụng phương pháp hệ thống và khái quát hoá, có minh hoạ, đối chiếu, so
sánh, kế thừa một số công trình đã công bố có liên quan đến vấn đề nghiên cứu để đánh
giá và làm sáng tỏ các vấn đề cần quan tâm.
6. Những đóng góp của luận văn
Đề tài của luận văn nghiên cứu về một trong những nhiệm vụ thường xuyên của
ngành, đã và đang có những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết, tháo gỡ để góp phần phát
triển bền vững sự nghiệp BHXH, đáp ứng được yêu cầu hiện tại cũng như thực hiện mục tiêu
"BHXH cho mọi người lao động". Những giải pháp được đề xuất và những kiến nghị với các
cấp có thẩm quyền có thể tham khảo, vận dụng vào thực tế công tác quản lý thu BHXH ở
tỉnh Thanh Hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn gồm 3 ch-
ương, 8 tiết.
Chương 1
Một số vấn đề chung
về bảo hiểm xã hội và quản lý thu bảo hiểm xã hội
1.1. một số vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Cuộc sống con người luôn phấn đấu cho an sinh hạnh phúc, nhưng quy luật của tạo
hoá là sinh ra, lớn lên và già yếu, đi theo đó là những rủi ro, ốm đau, hoạn nạn có thể đến
bất cứ lúc nào. Với trí óc thiên phú, con người luôn có những phát kiến khoa học cả về tự
nhiên và xã hội để chế ngự thiên nhiên, khắc phục những diễn biến bất thường của quy
luật, làm cho xã hội không ngừng phát triển. BHXH như là một phát kiến văn minh của
nhân loại về khoa học xã hội kết hợp với khoa học tự nhiên để giữ gìn, bảo vệ cuộc sống,
sức khoẻ cho con người.
Thực tế cuộc sống có nhiều rủi ro xảy ra mà không thể phòng trước được, để khắc
phục hậu quả của nó thì mỗi cá nhân có thể dự phòng ở những mức độ khác nhau tuỳ
thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh của từng người. Nhưng, dù cá nhân có chủ động và dự
phòng những rủi ro khi xảy ra thì cũng không thể nào đáp ứng được mọi rủi ro xảy ra
trong cuộc sống của mỗi người. Vì vậy, cần phải có biện pháp khắc phục tổng thể và lâu
dài mang tính cộng đồng xã hội, do đó ngoài dự phòng cá nhân, còn cần có dự phòng của
cộng đồng.
Trong tất cả các biện pháp phòng chống và khắc phục rủi ro, bảo hiểm là biện pháp
mang lại hiệu quả cao nhất. Bảo hiểm là chế độ bồi thường kinh tế, chia nhỏ rủi ro, tổn
thất của một người hay một số ít người cho nhiều người có cùng khả năng xảy ra rủi ro,
tổn thất nào đó, theo những nguyên tắc, chuẩn mực được thống nhất và quy định trong
khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia. Bảo hiểm không những đảm bảo cho người tham
gia về kinh tế mà còn góp phần ổn định xã hội.
Trên thế giới, BHXH ra đời cách đây hàng trăm năm và trở thành giải pháp hữu hiệu
giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống và trong quá trình lao động.
BHXH trở thành nền tảng cơ bản của hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia, được thực
hiện ở hầu hết các nước trên thế giới và ngày càng phát triển. Để đảm bảo quyền lợi cơ bản
cho người lao động trên toàn thế giới và an toàn xã hội, ILO ban hành Công ước số 102 ngày
04/6/1952 về quy phạm tối thiểu an toàn xã hội, có quy định 09 chế độ trợ cấp gồm: chế độ
chăm sóc y tế; chế độ trợ cấp TNLĐ-BNN; chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản;
chế độ trợ cấp thất nghiệp; chế độ trợ cấp tàn tật; chế độ trợ cấp tuổi già; chế độ trợ cấp tiền
tuất và chế độ trợ cấp gia đình [25, tr.123-142].
ở nước ta, BHXH được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm ngay từ khi bôn ba tìm đường
cứu nước đến trước lúc đi xa, Người đã nhiều lần đề cập đến cụm từ "Bảo hiểm xã hội" và
khẳng định bảo hiểm xã hội là một chính sách cơ bản đối với người lao động. Trong bài báo
cáo về những Nghị quyết của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương về phong trào nông
dân viết cuối năm 1930, Người chỉ rõ trong đấu tranh của nông dân, đặc biệt "đòi bảo hiểm
xã hội, ngày nghỉ được trả công" [22, tr.2]. Năm 1941, khi về nước, trong 10 chính sách của
Việt Nam, thì chính sách BHXH được Người đề cập khá toàn diện, với việc ký hàng loạt
Sắc lệnh: số 54 (03/11/1945) quy định điều kiện về hưu cho công chức các ngạch; số 58
(10/11/1945) về việc nghỉ gia hạn không lương cho công chức tất cả các ngạch; số 74
(17/12/1945) quy định chế độ hưu cho các nhân viên, công chức mắc bệnh lao, bệnh phong
phải nghỉ việc dài ngày. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về BHXH đã được thể hiện trong
Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959. Điều 32 Hiến pháp 1959 quy định: "người lao động được
giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động. Nhà nước mở rộng dần các
tổ chức bảo hiểm xã hội, cứu tế và y tế để đảm bảo cho mọi người được hưởng quyền đó".
Từ năm 1995, cơ chế quản lý BHXH được đổi mới toàn diện bằng việc Chính phủ
ban hành Điều lệ BHXH, đặc biệt Luật BHXH được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ
ngày 01/01/2007. Khi chưa có Luật BHXH, khái niệm về BHXH được tiếp cận dưới
những góc độ khác nhau:
- Dưới góc độ chính sách: BHXH là một chính sách xã hội, nhằm giải quyết các
chế độ xã hội liên quan đến một tầng lớp đông đảo người lao động và bảo vệ sự phát triển
kinh tế - xã hội, sự ổn định chính trị quốc gia.
- Dưới góc độ quản lý: BHXH là công cụ quản lý của Nhà nước để điều chỉnh mối
quan hệ kinh tế giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước; thực hiện quá
trình phân phối và phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong xã hội.
- Dưới góc độ tài chính: BHXH là một quỹ tài chính tập trung, được hình thành từ
sự đóng góp của các bên tham gia và có sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Dưới góc độ thu nhập: BHXH là sự bảo đảm thay thế một phần thu nhập khi người
lao động có tham gia BHXH bị mất hoặc giảm thu nhập.
- Theo Bộ luật Lao động:
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do
bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm do những rủi ro xã hội
thông qua việc hình thành, sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên
tham gia bảo hiểm xã hội, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao
động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội [26, tr.7].
Khái niệm về BHXH được khái quát một cách cao nhất, đầy đủ nhất khi có Luật
BHXH, đó là: "Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
của nguời lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào
quỹ bảo biểm xã hội" [49, tr.5]. Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội
mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia.
1.1.2. Bản chất của chính sách bảo hiểm xã hội
Một là, BHXH mang tính xã hội, tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc.
Tính xã hội, tính nhân đạo và nhân văn trong các chế độ BHXH quy định bản chất
của BHXH, đó là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một
loạt các biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị
ngừng hoặc bị giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp,
thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc và trợ cấp cho các gia đình
đông con. Đối với các rủi ro như trên, nhiều khi từng cá nhân không đủ khả năng tài
chính để khắc phục, do vậy Nhà nước ban hành các quy định để huy động mọi người
trong xã hội đóng góp một khoản nhất định cùng với Nhà nước hình thành quỹ BHXH để
chi trả cho một số người gặp rủi ro cần khắc phục hay do điều kiện sinh học như tuổi tác,
môi trường sống, điều kiện làm việc mà người lao động phải nghỉ làm việc, khi đó cần có
một khoản kinh phí để đảm bảo cuộc sống cho chính bản thân và gia đình họ.
BHXH là chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Đây là một loại hoạt động dịch
vụ công, mang tính xã hội, lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Quỹ để thực hiện
chế độ BHXH là do người lao động, người sử dụng lao động đóng góp và Nhà nước hỗ
trợ, đấy chính là tính chất xã hội trong kết cấu nguồn lập quỹ (riêng đối với nước ta Ngân
sách nhà nước hỗ trợ ít nhất là 50 % cho quỹ BHXH đối với đối tượng mới tham gia
BHXH bắt buộc, nên bản chất của chế độ BHXH nước ta là do Ngân sách nhà nước bao
cấp). Tính xã hội còn được thể hiện thông qua các chế độ BHXH được hưởng. Thời điểm
bắt đầu tham gia đóng BHXH đồng thời là thời điểm được hưởng chế độ BHXH, đó là
chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, trợ cấp TNLĐ-BNN. Tính chất xã hội trong chế độ hưu
trí được thể hiện trong tiền lương hưu thời gian đóng góp của người tham gia đóng và
mức đóng với mức hưởng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung hoặc tỷ lệ từ 45%
đến 75% tiền lương bình quân đóng BHXH và được hưởng chế độ BHYT. Trường hợp
không đủ điều kiện nghỉ hưu được trợ cấp mỗi năm đóng BHXH bằng 1,5 tháng lương
bình quân, đấy chính là phần xã hội mà người sử dụng lao động đã đóng góp vào và
Ngân sách nhà nước hỗ trợ mà có. Tính chất xã hội còn thể hiện ở chế độ tử tuất, ngoài
trợ cấp mai táng phí, người đóng BHXH chết có thân nhân phải nuôi dưỡng được hưởng
trợ cấp tuất theo quy định. BHXH là sự san sẻ rủi ro, chia nhỏ rủi ro cho nhiều cá nhân
trong cộng đồng cùng gánh chịu, hay nói cách khác "lấy số đông bù số ít", tức là dùng số
tiền đóng góp của số đông người tham gia BHXH để bù đắp, chia sẻ cho một số ít người
khi gặp phải những biến cố rủi ro gây tổn thất.
Như vậy, mục tiêu của BHXH là tạo ra màng lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều
lớp bảo vệ cho tất cả các thành viên của cộng đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc
bị mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do những biến
cố và những "rủi ro xã hội", vì vậy để tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp,
BHXH phải dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội, được
thực hiện bằng nhiều hình thức, phương thức và các biện pháp khác nhau. Có thể thấy rõ
bản chất của BHXH là nhằm che chắn, bảo vệ cho các thành viên của xã hội trước mọi
biến cố xã hội bất lợi. BHXH thể hiện chủ nghĩa nhân văn cao đẹp: mọi người trong xã
hội với tư cách là một công dân, họ phải được đảm bảo mọi mặt để phát huy đầy đủ
những khả năng của mình, không phân biệt địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo...đều bình
đẳng về BHXH.
Hai là, BHXH là một công cụ để quản lý xã hội, là sự bảo đảm của Nhà nước để ổn
định đời sống cho người tham gia BHXH và an toàn xã hội, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đồng thời đây là quá trình phân phối lại thu nhập xã hội.
BHXH được coi là một chính sách xã hội quan trọng, song hành cùng với chính
sách kinh tế, nhằm bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người lao động,
chống các tệ nạn xã hội, góp phần tăng thu nhập, thúc đẩy sản xuất phát triển. Với tư
cách là công cụ để quản lý xã hội, Nhà nước quy định quyền và trách nhiệm giữa các bên
tham gia BHXH, đặc biệt mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động;
yêu cầu người sử dụng lao động phải thực hiện những cam kết, đảm bảo điều kiện làm
việc, nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, trong đó có nhu cầu cơ
bản về tiền lương, tiền công, chăm sóc sức khoẻ khi bị ốm đau, tai nạn... Đây là những
ràng buộc mang tính nguyên tắc và thông qua đó Nhà nước thực hiện quản lý nhà nước
về BHXH. BHXH dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia, gồm người lao động,
người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp, thực chất quỹ BHXH là
quỹ của người lao động tiết kiệm được, bất luận trong hoàn cảnh nào Nhà nước phải
đứng sau hỗ trợ, duy trì, bảo toàn để thực hiện các chế độ trợ cấp cho người lao động, nếu
không thì xã hội sẽ mất ổn định, kinh tế sẽ trì trệ. Ngược lại, nếu quỹ BHXH được hình
thành và phát triển lớn mạnh sẽ có khoản nhàn rỗi để đầu tư trở lại giúp cho sản xuất phát
triển.
BHXH là quá trình phân phối lại thu nhập xã hội. Đây là quá trình phân phối lại
theo hướng có lợi cho người tham gia BHXH khi gặp phải rủi ro trong lao động sản xuất
và đời sống xã hội, vì chính việc tổ chức thu, chi BHXH là quá trình thực hiện phân phối
lại thu nhập: Thu BHXH dựa trên cơ sở mức tiền lương, tiền công do Nhà nước quy định
và mỗi người tham gia có một mức đóng BHXH khác nhau tương ứng với mức tiền
lương, tiền công đó; hằng năm Nhà nước còn trích một khoản nhất định từ Ngân sách để
hỗ trợ quỹ BHXH. Chi BHXH là việc trả tiền cho người có nhu cầu phát sinh về BHXH
dựa trên mức đóng và thời gian đóng BHXH trong chế độ dài hạn, nhưng trong chế độ
ngắn hạn thì không dựa trên nguyên tắc này mà có sự chia sẻ giữa người khoẻ cho người
ốm, người trẻ cho người già.
1.1.3. Vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội
Hoạt động BHXH là hoạt động sự nghiệp của toàn xã hội, phục vụ mọi thành viên
trong xã hội, lợi nhuận không phải là mục tiêu của hoạt động BHXH. Do đó, chính sách
BHXH có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế-xã hội của một quốc gia và được thể
hiện ở các mặt sau đây:
Thứ nhất, BHXH góp phần ổn định đời sống của người lao động và gia đình khi đã
hết tuổi lao động hoặc không đủ sức tiếp tục lao động, hoặc quá trình làm việc không
may gặp phải rủi ro.
Mục đích lớn nhất của BHXH là đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình
họ, người tham gia BHXH sẽ được thay thế một phần thu nhập bị mất hoặc giảm thu
nhập, nó làm cho người lao động yên tâm cống hiến và không phải lo lắng khi rủi ro có
thể xảy ra. Đồng thời, BHXH góp phần hạn chế và điều hòa các mâu thuẫn có thể xảy ra
giữa người sử dụng lao động và người lao động, tạo môi trường làm việc bình đẳng, ổn
định, đảm bảo cho hoạt động sản xuất, công tác đạt hiệu quả cao, từ đó góp phần tăng
trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Đây là vai trò cơ bản nhất của chính sách BHXH,
nó quyết định nhiệm vụ, tính chất, phương thức hoạt động của BHXH.
Thứ hai, BHXH làm gắn bó lợi ích giữa người lao động, người sử dụng lao động
đối với Nhà nước.
BHXH không những đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ
mà còn góp phần bảo vệ lợi ích của người sử dụng lao động khi rủi ro xảy ra đối với
người lao động của mình, nó tạo điều kiện cho người sử dụng lao động có thể nhanh
chóng ổn định sản xuất. Đồng thời, thể hiện sự quan tâm của người sử dụng lao động đối
với người lao động thông qua việc đóng góp vào quỹ BHXH, do đó người lao động có
trách nhiệm hơn trong công việc, tích cực, sáng tạo trong quá trình lao động. Đối với Nhà
nước, thông qua việc tổ chức hoạt động BHXH nhằm đảm bảo cho mọi người lao động,
mọi tổ chức, đơn vị hoạt động sản xuất, kinh doanh bình đẳng, công bằng trong lao động
sản xuất, xã hội phát triển an toàn.
Thứ ba, BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội
BHXH dựa trên nguyên tắc người lao động bình đẳng trong nghĩa vụ đóng góp và
thụ hưởng. Thông qua hoạt động của mình, BHXH tham gia vào việc phân phối và phân
phối lại thu nhập xã hội giữa những người lao động thế hệ trước với thế hệ sau, giữa
những ngành nghề sản xuất, giữa những người thu nhập cao và thu nhập thấp, giữa những
người may mắn và không may mắn. Mặt khác mức hưởng BHXH phụ thuộc vào mức
đóng, thời gian đóng dài hay ngắn theo nguyên tắc " có đóng có hưởng" và "đóng ít h-
ưởng ít, đóng nhiều hưởng nhiều "; đối tượng tham gia không chỉ trong khu vực nhà nước
mà ở mọi thành phần kinh tế. Vì vậy, BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội, giảm
bớt khoảng cách giàu nghèo trong xã hội.
Thứ tư, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế của
đất nước, góp phần đảm bảo ổn định chính trị, xã hội...
Do BHXH tập trung được nguồn tài chính nhàn rỗi tương đối lớn, thực chất đây là
tiền của người lao động tồn tích lại, nguồn tài chính này tương đối nhàn rỗi, được đầu tư
vào các dự án kinh tế-xã hội để bảo toàn, phát triển quỹ BHXH và tăng thêm nguồn lực
cho sự phát triển nền kinh tế đất nước. Đảng và Nhà nước đã khẳng định phát triển kinh
tế-xã hội dựa trên nội lực là chính thì nguồn đầu tư từ quỹ BHXH nhàn rỗi là một kênh
quan trọng.
1.2. Quản lý thu bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái niệm quản lý thu bảo hiểm xã hội
Xuất phát từ khái niệm của quản lý: "Quản lý là sự tác động có tổ chức có hướng
đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra "[43, tr.11].
Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có xác định mục tiêu, thể hiện mối
quan hệ giữa chủ thể quản lý (quản lý, điều khiển) và đối tượng quản lý (chịu sự quản lý),
đây là quan hệ giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo, không đồng cấp và có tính bắt buộc. Nó diễn ra
trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người với nhiều cấp độ, nhiều mối liên hệ với nhau.
Đối với hoạt động BHXH thì quản lý được bao gồm cả quản lý các đối tượng tham gia và
thụ hưởng, quản lý thu, quản lý chi trả và quản lý nguồn quỹ từ đầu tư tăng trưởng.
Khi nói đến quản lý thu BHXH là nói đến một loạt quan hệ, bao gồm quan hệ giữa
Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và cơ quan BHXH. Trong mối quan
hệ trên đây, thì người lao động, người sử dụng lao động là đối tượng quản lý; Nhà nước
giao cho cơ quan BHXH chủ thể quản lý; Nhà nước là chủ thể duy nhất điều tiết và quản
lý BHXH, vì các bên tham gia có lợi ích khác nhau thậm chí trái ngược nhau (người lao
động muốn đóng ít nhưng lại muốn được hưởng thụ quyền lợi nhiều, người sử dụng lao
động muốn đóng BHXH càng ít càng tốt để giảm chi phí sản xuất nâng cao lợi nhuận).
Nhà nước với hai tư cách: một là, thông qua cơ quan lập pháp (Quốc hội) đề ra Luật
BHXH, thông qua Chính phủ đề ra các quy định về BHXH; hai là, thông qua các cơ quan
nhà nước để thực hiện nộp BHXH cho người lao động hưởng lương từ Ngân sách nhà
nước và thành lập cơ quan chuyên trách (BHXH Việt Nam) thực hiện chính sách BHXH.
Để quản lý thu BHXH đảm bảo theo đúng các quy định của Nhà nước, cơ quan BHXH
phải xây dựng biện pháp, kế hoạch, tổ chức các thao tác nghiệp vụ, phối hợp với các cơ
quan hữu trách và hình thành hệ thống chuyên thu từ Trung ương đến cấp huyện, thực
hiện theo một quy trình chặt chẽ, khép kín. Như vậy, trong quản lý thu BHXH, mối quan
hệ ba bên là người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH được xác lập
quyền và trách nhiệm của mỗi bên do pháp luật về BHXH quy định, các quy định này là
những căn cứ pháp lý mà mỗi bên phải tuân thủ, thực hiện nghiêm túc. Mặt khác để thu
đúng, đủ, kịp thời, không để thất thoát tiền thu, đòi hỏi cơ quan BHXH phải có phương
pháp và biện pháp hữu hiệu, kể các các biện pháp hỗ trợ... "thu BHXH là một khái niệm
phức hợp, bao gồm các định hướng, chủ trương, phương pháp và biện pháp hữu hiệu
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, chỉ đạo, khuyến khích đẩy mạnh công tác thu bảo hiểm
xã hội" [58, tr.5] và "Quản lý thu BHXH là một quá trình chủ thể quản lý tác động đến
đối tượng quản lý, trong hoạt động dự báo, xây dựng chỉ tiêu kế hoạch, tổ chức thực hiện,
điều chỉnh và kiểm tra để đạt được mục tiêu quản lý bằng các nguyên tắc và phương pháp
nhất định" [59, tr.19].
Từ phân tích trên, về quản lý thu BHXH, theo tác giả được hiểu như sau: Quản lý thu
BHXH là sự tác động của Nhà nước thông qua các quy định mang tính pháp lý bắt buộc
các bên tham gia BHXH phải tuân thủ thực hiện; trong đó cơ quan BHXH sử dụng các
biện pháp nghiệp vụ và các phương pháp đặc thù tác động trực tiếp vào đối tượng đóng
BHXH để đạt mục tiêu đề ra.
1.2.2. Nguyên tắc quản lý thu bảo hiểm xã hội
Thứ nhất: Thu đúng, đủ, kịp thời
- Thu đúng, là đúng đối tượng, đúng mức, đúng tiền lương, tiền công và đúng thời
gian quy định: mọi người lao động khi có HĐLĐ hoặc giao kết lao động theo quy định,
được trả công bằng tiền đều là đối tượng đóng BHXH bắt buộc. Việc xác định đúng đối
tượng, đúng tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH của người lao động là cơ sở
quan trọng để đảm bảo thu đúng; việc thu đúng còn phụ thuộc vào tính chất hoạt động
của đơn vị sử dụng lao động để xác định đúng đối tượng, mức thu, phương thức thu.
- Thu đủ, là thu đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc và số tiền phải
đóng BHXH của người lao động, người sử dụng lao động.
- Thu kịp thời, là thu kịp về thời gian khi có phát sinh quan hệ lao động, tiền công,
tiền lương mà những quan hệ đó thuộc đối tượng, phạm vi tham gia BHXH. Chế độ
BHXH thường xuyên thay đổi để phù hợp với phát triển kinh tế- xã hội từng thời kỳ, ở
mỗi thời điểm thay đổi đó cần phải tổ chức thực hiện thu BHXH của người sử dụng lao
động và người lao động đảm bảo kịp thời, không để tồn đọng tiền thu, không bỏ sót lao
động tham gia BHXH.
Thứ hai: Tập trung, thống nhất, công bằng, công khai
Cơ chế thu BHXH được quy định thống nhất, nguồn thu BHXH tập trung quản lý,
điều tiết ở Trung ương là BHXH Việt Nam. Việc tham gia BHXH của người lao động,
người sử dụng lao động đảm bảo công khai, thực hiện công bằng ở các thành phần kinh
tế. Các đơn vị tham gia BHXH đều phải công khai minh bạch số lao động phải đóng
BHXH và số tiền đóng theo đúng quy định, có sự kiểm tra, thanh tra, kiểm soát của Nhà
nước và giám sát của các cơ quan chức năng và các tổ chức chính trị-xã hội. Tính công
bằng được thể hiện trong việc thu nộp BHXH, không phân biệt đối xử giữa các thành
phần kinh tế, tức là đều có tỷ lệ phần trăm thu BHXH như nhau.
Thứ ba: An toàn, hiệu quả
Thực hiện quản lý chặt chẽ tiền thu BHXH theo chế độ quản lý tài chính của Nhà
nước và sử dụng nguồn thu đúng mục đích. Nguồn thu BHXH do được tồn tích cộng
đồng, nên thường có khối lượng tiền nhàn rỗi tương đối lớn chưa sử dụng cần được đầu
tư tăng trưởng, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng, vừa an toàn tiền thu BHXH về mặt giá trị
do các yếu tố trượt giá. Vì vậy, thông qua cơ chế quản lý nghiêm ngặt về thu BHXH để
tránh lạm dụng, thất thoát; đồng thời nghiên cứu các lĩnh vực đầu tư để đảm bảo thu hồi
được vốn và có lãi, tức là hiệu quả sử dụng nguồn thu.
1.2.3. Vai trò quản lý thu bảo hiểm xã hội
BHXH có nội hàm rất rộng và phức tạp, bao gồm thu, chi, thực hiện các chế độ,
chính sách dài hạn, ngắn hạn; đối tượng và phạm vi áp dụng rộng và liên quan đến đời
sống của người lao động làm công ăn lương; thực hiện tốt các chế độ BHXH là đảm bảo
đời sống kinh tế cho người lao động có tham gia BHXH được coi như là "đầu ra" của
BHXH và thu BHXH được coi là yếu tố "đầu vào" của BHXH, trong đó quản lý thu
BHXH là khâu đầu tiên trong việc xác lập mối quan hệ về BHXH giữa người lao động,
người sử dụng lao động và cơ quan BHXH. Mối quan hệ ấy xác định quyền và trách
nhiệm của các bên; đây là mối quan hệ quan trọng hàng đầu, vì có thực hiện mối quan hệ
này thì mới có cơ sở để tổ chức thu BHXH, hình thành quỹ BHXH, thực hiện chi trả các
chế độ BHXH.
Mặt khác, BHXH thực hiện trên nguyên tắc tương trợ cộng đồng, lấy số đông bù số
ít nên khi tham gia BHXH người lao động sẽ được san sẻ rủi ro khi ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động. Người lao động khi nghỉ hưu để duy trì cuộc sống, sẽ đỡ gánh nặng cho gia
đình, góp phần cho từng tế bào của xã hội ổn định, bền vững là cơ sở tạo lập nên một xã
hội ổn định, bền vững. Khi người dân có cuộc sống được đảm bảo, sẽ hạn chế được phân
biệt đối xử, giảm bớt được sự phân cách giàu nghèo.Thông qua hoạt động BHXH, Nhà
nước sẽ là trung gian đứng ra điều chỉnh thu nhập, đảm bảo hài hoà lợi ích và công bằng
xã hội cho người lao động trong mọi thành phần kinh tế. Hay nói cách khác, người lao
động sẽ được công bằng hơn về quyền lợi, khi Nhà nước thực hiện phân phối và phân
phối lại thu nhập thông qua chính sách BHXH, nhất là trong thời điểm hiện nay thu nhập
của người lao động, nhất là khu vực lao động trực tiếp còn thấp hơn các khu vực khác.
1.2.4. Mục đích quản lý thu bảo hiểm xã hội
Thứ nhất, đảm bảo cho yếu tố "đầu vào" (tiền nộp BHXH) đủ khả năng thực hiện
quá trình tái sản xuất xã hội, tức là có thu đúng, thu đủ, thu kịp thời mới đảm bảo chi trả
chế độ cho người lao động, góp phần ổn định đời sống của người lao động trong quá trình
lao động không may bị rủi ro, nghỉ hưu, cũng như khi về già.
Thứ hai, xác lập rõ ràng quyền và trách nhiệm của các bên tham gia BHXH, đó là:
người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH; phân định rõ chức năng quản lý
nhà nước với chức năng hoạt động sự nghiệp của BHXH.
Thứ ba, không bỏ sót nguồn thu, quản lý chặt chẽ, đảm bảo nguồn thu BHXH được
sử dụng đúng mục đích; đồng thời làm cho nguồn thu BHXH liên tục tăng trưởng.
Thứ tư, đảm bảo cho các quy định về thu BHXH được thực hiện nghiêm túc, hiệu
quả, khắc phục được tính bình quân nhưng vẫn bảo đảm tính xã hội thông qua việc điều
tiết, chia sẻ rủi ro. Trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay, quản lý thu BHXH lại càng
có ý nghĩa sâu sắc trong việc phòng ngừa, ngăn chặn những lạm dụng của người sử dụng
lao động với nguời lao động nhất là việc thuê mướn, sử dụng, trả tiền lương, tiền công
bất bình đẳng.
1.2.5. Nội dung quản lý thu bảo hiểm xã hội
* Quy định các mức thu BHXH các thời kỳ
- Giai đoạn trước năm 1994
Điều lệ tạm thời về BHXH ban hành theo Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961
của Hội đồng Chính phủ, có hiệu lực thi hành từ 01/01/1962. Theo quy định của Điều lệ
này đối tượng tham gia BHXH chỉ mới thực hiện ở phạm vi hẹp: toàn thể CNVC nhà
nước ở các cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường, không phân biệt
dân tộc, nam, nữ, quốc tịch. Việc thực hiện các chế độ BHXH dựa trên nguyên tắc phân
phối theo lao động, theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Mức đóng góp BHXH rất thấp,
người lao động không trực tiếp đóng mà được lấy từ Ngân sách nhà nước, nên nguồn thu
hạn chế. Tổng mức đóng BHXH là 4,7 % tổng quỹ tiền lương, do hai ngành quản lý: Bộ
nội vụ (nay là Bộ Lao động Thương binh & Xã hội) quản lý 1 % thông qua hệ thống
Ngân sách nhà nước; Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam) quản lý 3,7 %. Qua các giai đoạn phát triển của đất nước, mức đóng được điều
chỉnh phù hợp với chính sách tiền lương và việc làm, theo Biểu 1.1 sau:
Biểu 1.1: Các mức đóng góp cơ bản qua từng thời kỳ
Thời kỳ Các chế độ dài hạn Các chế độ ngắn hạn
01/1961-9/1986 1% 3,7%
10/1986-2/1988 1% 5%
3/1988-12/1993 10% 5%
Nguồn: [5, tr.23].
- Từ 01/1994 đến 12/2006
Cùng với việc đổi mới chính sách xã hội, Nhà nước cũng đồng thời thực hiện cải
cách toàn diện chính sách BHXH, đánh dấu bằng việc Chính phủ ban hành Nghị định
số 43/CP ngày 22/6/1994 và Nghị định số 66/CP ngày 30/9/1993, quy định tạm thời
chế độ BHXH, trong đó nêu rõ quỹ BHXH được hình thành từ nguồn đóng góp của
người lao động, người sử dụng lao động và có sự hỗ trợ của Ngân sách nhà nước.Thời
kỳ này, đối tượng tham gia BHXH được mở rộng rất nhiều, không những khu vực nhà
nước mà ở các thành phần kinh tế khu vực ngoài nhà nước, các tổ chức kinh tế có sử
dụng từ 10 lao động trở lên. Tổng mức đóng BHXH giai đoạn này là 20%, trong đó
người lao động là 5% tiền lương, người sử dụng lao động là 15% tổng quỹ tiền lương.
Năm 1995, Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH kèm theo Nghị định số 12/CP ngày
26/01/1995, sau đó hàng loạt Nghị định của Chính phủ được ban hành sửa đổi, bổ sung
các chính sách, chế độ BHXH. Đối tượng tham gia BHXH được tiếp tục mở rộng đến cán
bộ cấp xã, các thành phần kinh tế, các tổ chức, đơn vị, cá nhân có thuê mướn và trả công
cho người lao động, có sử dụng từ 01 lao động trở lên, tức là quan hệ BHXH được xác
lập trên cơ sở quan hệ lao động và tiền lương. Tổng mức đóng BHXH vẫn là 20%, nhưng
có một số đối tượng đặc thù chỉ đóng 15%, cụ thể theo Biểu 1.2 sau:
Biểu 1.2: Mức đóng góp theo nhóm đối tượng
NĐ
ban hành
NĐ
12/CP
26/1/1995
NĐ
45/CP
15/7/1995
NĐ
09/CP
23/7/1998
NĐ
152/CP
19/8/1999
NĐ
73/CP
20/9/1999
NĐ
121/CP
21/10/200
3
M. đóng 20% 20% 15% 15% 20% 20%
Tr. đó
NSDLĐ 15% 15% 10% 0% 15% 15%
NLĐ 5% 5% 5% 15% 5% 5%
Nguồn: Tổng hợp các Nghị định của Chính phủ về BHXH
- Từ 01/01/2007 trở đi
Luật BHXH được ban hành, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007, đây là cơ sở
pháp lý quan trọng trong việc thực hiện chính sách BHXH, phù hợp với thông lệ quốc tế
khi Việt Nam tham gia WTO. Mức đóng BHXH là 20% được ổn định trong thời gian
ngắn đến hết năm 2009, sau đó tăng dần và ổn định vào năm 2014, nhưng tỷ lệ đóng góp
vào các quỹ thành phần của người lao động, người sử dụng lao động có khác so với các
quy định trước khi chưa có Luật BHXH. Từ ngày 01/01/2007, người lao động chỉ đóng
góp vào quỹ dài hạn (quỹ hưu trí, tử tuất); người sử dụng lao động, ngoài việc đóng góp
vào quỹ dài hạn trên, còn phải đóng góp vào quỹ ngắn hạn, chi tiết theo các Biểu 1.3; 1.4
sau:
Biểu 1.3: Tỷ lệ đóng góp vào quỹ BHXH của người lao động
và người sử dụng lao động
Đối tượng 01/2007- 01/2010- 01/2012- Từ 01/2014
12/2009 12/2011 12/2013
Người LĐ 5% 6% 7% 8%
NSDLĐ 15% 16% 17% 18%
Tổng cộng 20% 22% 24% 26%
Nguồn: [34].
Biểu 1.4: Mức đóng của người lao động và người sử dụng lao động
trong các quỹ thành phần
Thời kỳ
Chỉ tiêu
01/2007-
12/2009
01/2010-
12/2011
01/2012-
12/2013
Từ
01/2014
* Quỹ hưu trí, tử tuất 16% 18% 20% 22%
Trong đó:
Người lao động 5% 6% 7% 8%
Người sử dụng lao động 11% 12% 13% 14%
* Quỹ ngắn hạn
(NSDLĐ)
4% 4% 4% 4%
Trong đó:
- Quỹ ốm đau, thai
sản:
- Quỹ TNLĐ-BNN:
3%
1%
3%
1%
3%
1%
3%
1%
Nguồn: [34].
* Quản lý nguồn hình thành quỹ BHXH
Nguồn thu để hình thành quỹ BHXH, bao gồm:
- Tiền đóng BHXH của người lao động,
- Tiền đóng BHXH của người sử dụng lao động,
- Tiền hỗ trợ của Nhà nước,
- Tiền sinh lời từ đầu tư quỹ BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác.
Nguồn thu vào quỹ BHXH được phân chia theo ba quỹ thành phần:
+ Quỹ ốm đau và thai sản do người sử dụng lao động đóng bằng 3 % quỹ tiền
lương, tiền công đóng BHXH.
+ Quỹ TNLĐ-BNN, do người sử dụng lao động đóng bằng 1 % quỹ tiền lương,
tiền công đóng BHXH.
+ Quỹ hưu trí và tử tuất do người lao động đóng (5%) và người sử dụng lao động
đóng (11%).
Như vậy, người lao động chỉ đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất; các quỹ còn lại do
người sử dụng lao động đóng và hỗ trợ của Nhà nước, nhưng người lao động được thụ
hưởng tất cả các chế độ BHXH không phân biệt các quỹ thành phần khi phát sinh các yêu
cầu về BHXH.
Hình thức quản lý nguồn thu BHXH(quỹ BHXH)
- Quản lý các quỹ thành phần được phân cấp cho BHXH tỉnh quản lý và sử dụng
để trả chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN, hưu trí và tử tuất.
- Trong tổng số mức đóng BHXH cho người lao động (hiện nay là 20% quỹ tiền
lương, tiền công), người sử dụng lao động được giữ lại 2 % trong 3 % đóng vào quỹ ốm
đau và thai sản để trả kịp thời chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động và thực hiện
quyết toán hằng quý với cơ quan BHXH. Phần còn lại của mức đóng (18 %) người sử
dụng lao động trực tiếp chuyển vào Kho bạc hoặc Ngân hàng, nơi BHXH mở tài khoản
chuyên thu để đóng BHXH cho người lao động.
- Tiền hỗ trợ của Nhà nước; thực hiện các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ
BHXH do BHXH Việt Nam thực hiện, không giao cho BHXH các địa phương.
- Người lao động đóng BHXH phải thông qua người sử dụng lao động và phải
đóng cùng một lúc vào tài khoản chuyên thu BHXH, nếu thu bằng tiền mặt thì sau 3 ngày
kể từ ngày cơ quan BHXH thu tiền đóng BHXH phải nộp vào tài khoản chuyên thu
BHXH theo quy định. Hệ thống Kho bạc, Ngân hàng thực hiện chuyển tiền từ tuyến
huyện đến tuyến tỉnh và từ tuyến tỉnh đến Trung ương theo quy định cứ 10 ngày một lần
hoặc khi có số dư từ năm tỷ đồng trở lên.
* Quản lý mức đóng và phương thức đóng BHXH
- Mức đóng và phương thức đóng BHXH của người lao động
Người lao động theo quy định tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: cán bộ, công
chức, viên chức; người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời
hạn hoặc hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên, nếu dưới 3 tháng nhưng sau đó tiếp tục
làm việc tại đơn vị cũ.
Mức đóng và phương thức đóng BHXH được quy định: hằng tháng, người lao động
đóng bằng 5% mức tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ 2
năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%. Riêng người lao động hưởng
tiền lương, tiền công theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh trong các doanh nghiệp nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp được đóng BHXH hằng tháng, hằng quý hoặc 6 tháng
một lần.
- Mức đóng và phương thức đóng BHXH của người sử dụng lao động
Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc, bao gồm: cơ quan hành chính,
sự nghiệp, Đảng, đoàn thể, doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị hoạt động theo quy định của
pháp luật; hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã; hộ kinh
doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công
cho người lao động; cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động
trên lãnh thổ Việt Nam có sử dụng lao động là người Việt Nam, trừ trường hợp Điều
ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có
quy định khác.
Mức đóng và phương thức đóng BHXH: hằng tháng người sử dụng lao động
đóng trên quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của những người lao động với
mức 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; 1% vào quỹ TNLĐ-BNN; 11% vào quỹ hưu trí và
tử tuất, từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là
14%.
Hằng tháng, chậm nhất vào ngày cuối tháng, người sử dụng lao động đóng BHXH
trên quỹ tiền lương, tiền công của những người lao động tham gia BHXH; đồng thời trích
từ tiền lương, tiền công tháng của từng người lao động để đóng cùng một lúc vào tài
khoản chuyên thu của cơ quan BHXH mở tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.
Người sử dụng lao động là các doanh nghiệp sản xuất (nuôi, cấy, trồng trọt) thuộc
ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp thực hiện trả tiền lương, tiền
công cho người lao động theo mùa vụ hoặc theo chu kỳ có thể đóng BHXH theo quý
hoặc 6 tháng một lần nhưng phải xuất trình phương án sản xuất và phương thức trả lương
cho người lao động để cơ quan BHXH có căn cứ thu nộp.
Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, cá nhân có thuê mướn, trả công cho người lao
động, sử dụng dưới 10 lao động có thể đóng BHXH theo quý nhưng phải đăng ký và
được sự chấp thuận của cơ quan BHXH.
Người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (trừ trường hợp người lao
động làm trong các doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu hoặc đầu tư ra nước
ngoài) đóng theo quý, 6 tháng hoặc 12 tháng một lần hoặc có thể đóng trước một lần theo
thời hạn hợp đồng; người sử dụng lao động thu, nộp BHXH cho người lao động và đăng
ký phương thức đóng với cơ quan BHXH hoặc người lao động đóng thông qua người sử
dụng lao động mà người lao động tham gia BHXH trước đó hoặc đóng trực tiếp tại cơ
quan BHXH nơi người lao động cư trú trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Trường hợp
người lao động được gia hạn hợp đồng hoặc ký hợp đồng mới ngay tại nước tiếp nhận
hợp đồng thì thực hiện đóng BHXH như trên hoặc truy đóng cho cơ quan BHXH sau khi
về nước.
- Tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH
+ Người lao động hưởng lương theo chế độ tiền lương của Nhà nước thì tiền lương
làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương theo ngạch, bậc và các khoản phụ cấp: chức vụ,
thâm niên vượt khung, thâm niên nghề (nếu có).
+ Người lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động
quy định thì tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH là mức tiền lương, tiền công ghi
trong hợp đồng lao động nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu chung và
không cao hơn 20 lần mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng.
+ Tiền lương, tiền công để tính đóng BHXH của người quản lý doanh nghiệp là
chủ sở hữu, Giám đốc doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh công ty hợp danh, Chủ
tịch hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, thành viên hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc,
Phó Tổng giám đốc, Giám đốc, Phó giám đốc, kế toán trưởng và kiểm soát viên là mức
tiền lương, tiền công do Điều lệ của công ty quy định nhưng phải được đăng ký với cơ
quan quản lý nhà nước về lao động tỉnh, thành phố.
+ Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người lao động trong hợp tác xã là
mức tiền lương, tiền công được đại hội xã viên thông qua và phải đăng ký với cơ quan
quản lý nhà nước về lao động theo phân cấp quản lý.
+ Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người lao động thuộc các hộ kinh
doanh cá thể, tổ hợp tác và cá nhân là mức tiền lương, tiền công do người sử dụng lao
động quy định nhưng phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về lao động theo phân
cấp quản lý.
+ Người lao động có tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động bằng ngoại
tệ thì tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH được tính bằng đồng Việt Nam trên cơ sở
tiền lương, tiền công bằng ngoại tệ được chuyển đổi sang đồng Việt Nam theo tỷ giá giao
dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại
thời điểm vào ngày 02 tháng 01 cho 6 tháng đầu năm, vào ngày 01 tháng 7 cho 6 tháng
cuối năm. Trường hợp trùng vào ngày nghỉ mà Ngân hàng nhà nước Việt Nam chưa công
bố thì được lấy tỷ giá của ngày tiếp theo liền kề.
+ Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động thuộc các công ty nhà nước
chuyển đổi thành công ty cổ phần, công ty TNHH nhà nước một thành viên trở lên nếu áp
dụng thang, bảng lương do Nhà nước quy định thì phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà
nước về lao động tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở tại thời điểm chuyển đổi, thực hiện
chuyển xếp lương, nâng bậc hoặc chuyển ngạch lương phải đúng theo quy định của Nhà
nước đối với công ty nhà nước trên cơ sở thang, bảng lương đang áp dụng và đóng
BHXH trên cơ sở mức lương đó.
* Quản lý trình tự, thủ tục tham gia BHXH
- Người lao động tham gia BHXH lần đầu: căn cứ hồ sơ gốc (quyết định tuyển
dụng, quyết định nâng lương hoặc hợp đồng lao động...) kê khai 03 bản "Tờ khai tham
gia BHXH, BHYT" (Mẫu số 01-TBH) nộp cho người sử dụng lao động; trường hợp đã
được cấp sổ BHXH thì không phải kê khai mà chỉ nộp sổ BHXH.
. Người sử dụng lao động kiểm tra, đối chiếu Tờ khai tham gia BHXH với hồ sơ
gốc của từng người lao động; ký xác nhận và phải chịu trách nhiệm về những nội dung
trên Tờ khai của người lao động. Lập 01 bản "Danh sách lao động tham gia BHXH bắt
buộc" (Mẫu 02a-TBH) và bản sao quyết định thành lập hoặc chứng nhận đăng ký kinh
doanh hoặc giấy phép hoạt động; trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân thì nộp
bản hợp đồng lao động. Trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày ký hợp đồng lao
động hoặc quyết định tuyển dụng, người sử dụng lao động phải nộp toàn bộ hồ sơ theo
quy định của người lao động cho cơ quan BHXH.
. Cơ quan BHXH tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra số lượng, tính hợp pháp của các loại
giấy tờ, đối chiếu với hồ sơ của người lao động; ghi mã số quản lý đơn vị và từng người
lao động trên danh sách và trên Tờ khai tham gia BHXH bắt buộc (mã đơn vị và người
lao động ghi theo quy định của BHXH Việt Nam). Trường hợp hồ sơ chưa đủ, cơ quan
BHXH phải hướng dẫn cụ thể để đơn vị hoàn thiện. Ký đóng dấu vào "Danh sách lao
động tham gia BHXH bắt buộc"; trong thời gian không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày
nhận đủ hồ sơ phải trả lại đơn vị 01 bản Danh sách để đơn vị thực hiện đóng BHXH, cơ
quan BHXH lưu 01 bản Danh sách; riêng 03 Tờ khai (Mẫu 01-TBH) của người lao động
sau khi cấp sổ BHXH hoàn chỉnh thì trả lại đơn vị 02 Tờ khai cùng với sổ BHXH.
- Người sử dụng lao động đang tham gia BHXH. Lập danh sách theo mẫu (02a-
TBH) nếu tăng lao động; nếu giảm lao động hoặc điều chỉnh tiền lương, mức đóng
BHXH, BHYT theo mẫu (03a-TBH); nếu đồng thời có cả các biến động trên thì lập tất cả
các mẫu (02a-TBH) và mẫu (03a-TBH), mỗi mẫu 01 bản kèm theo hồ sơ như: Tờ khai,
quyết định tuyển dụng, thuyên chuyển, nghỉ việc, thôi việc hoặc hợp đồng lao động,
quyết định tăng, giảm lương và thẻ BHYT (nếu có), nộp cho cơ quan BHXH trước ngày
20 của tháng. Các trường hợp tăng, giảm từ ngày 16 của tháng trở đi thì lập danh sách và
thực hiện vào đầu tháng kế tiếp.
. Cơ quan BHXH tiếp nhận, kiểm tra, thẩm định hồ sơ; ký, đóng dấu vào danh
sách lao động tham gia BHXH, BHYT; các Tờ khai (nếu có), thông báo cho đơn vị đóng
BHXH, BHYT; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT kịp thời cho người lao động.
. Khi người lao động di chuyển địa bàn từ tỉnh này sang địa bàn tỉnh khác, phải
xuất trình hồ sơ kèm theo “Danh sách điều chỉnh lao động và mức đóng BHXH bắt
buộc” (Mẫu số 03-TBH); đóng đủ BHXH cho người lao động đến thời điểm di
chuyển; cơ quan BHXH tỉnh nơi đi xác nhận sổ BHXH cho người lao động; người sử
dụng lao động đăng ký tham gia BHXH với cơ quan BHXH tỉnh nơi chuyển đến theo
thủ tục tham gia BHXH lần đầu như quy định trên.
. Người sử dụng lao động thay đổi pháp nhân, chuyển quyền sở hữu; sáp nhập
hoặc giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật phải thông báo bằng văn bản cho cơ
quan BHXH và đóng đủ BHXH cho người lao động đến thời điểm thay đổi. Cơ quan
BHXH xác nhận sổ BHXH cho người lao động theo nguyên tắc đóng đến thời điểm nào
thì xác nhận đến thời điểm đó.
Sơ đồ 1.1: Quy trình quản lý thu BHXH
(1)
(2)
(3) (4)
(5)
(6)
(7)
(8) (10)
(11)
(9)
(12)
Giải thích sơ đồ:
(1) Chứng từ do đơn vị SDLĐ lập gửi cơ quan BHXH
(2) Cơ quan BHXH trả chứng từ cho đơn vị sau khi đã thẩm định
(3) Cơ quan BHXH ghi sổ chi tiết thu BHXH
(4) và (5) Thông báo cho đơn vị sử dụng lao động nộp BHXH
(6) Báo cáo nhanh BHXH cấp dưới gửi BHXH cấp trên
(7) và (8) tổng hợp báo cáo thu
(9) Báo cáo tổng hợp thu BHXH tỉnh gửi BHXH Việt Nam
(10) và (11) Thẩm định kết quả thực hiện thu BHXH
(12) Lập kế hoạch thu BHXH năm sau
Giải thích biểu mẫu:
02a-TBH: Danh sách lao động tham gia BHXH
03a-TBH: Danh sách điều chỉnh lao động và mức đóng BHXH
Chứng từ nộp tiền
Mẫu 02a - TBH,
Đơn vị sử
dụng
Mẫu 07 - TBH sổ chi tiết
theo dõi thu BHXH
Mẫu 08 - TBH
thông báo kết
quả nộp BHXH
Mẫu 09 - TBH Báo
cáo thực hiện thu
BHXH
Mẫu 10 - TBH Báo cáo thu
BHXH
Mẫu 11 - TBH báo cáo tổng
hợp thu BHXH
Mẫu 12 - TBH biên
bản thẩm định số
liệu thu
Mẫu 13 - TBH kế
hoạch thu BHXH
04a-TBH: Danh sách truy đóng BHXH
07 - TBH: Sổ chi tiết thu BHXH
08 - TBH: Thông báo kết quả đóng BHXH
09 - TBH: Báo cáo thực hiện thu BHXH (báo cáo nhanh)
10 - TBH: Báo cáo chi tiết thu BHXH
11 - TBH: Báo cáo tổng hợp thu BHXH
12 - TBH: Biên bản thẩm định số liệu thu BHXH
13 - TBH: Kế hoạch thu BHXH
* Thanh tra, kiểm tra về quản lý thu BHXH
Trong thực tiễn, công tác kiểm tra, thanh tra là một chức năng thiết yếu không thể
thiếu được trong công tác quản lý nói chung, trong quản lý BHXH và quản lý thu nói
riêng, có thể thấy vai trò của kiểm tra trong biểu thức: Quản lý= Quyết định + Tổ chức
thực hiện + Kiểm tra.
Bản chất của công tác kiểm tra BHXH, quản lý thu BHXH là phải xác định và sửa
chữa được những sai lệch trong hoạt động của cơ quan BHXH so với chính sách pháp
luật, mục tiêu và kế hoạch vạch ra.
Thực tế đã chỉ ra nội dung kiểm tra, thanh tra BHXH, chỉ có thể kiểm tra, thanh tra
một số khu vực và một số lĩnh vực quan trọng tác động đến cả hệ thống hoặc kiểm tra,
thanh tra phát sinh đột biến cần phải có thông tin phản hồi phục vụ yêu cầu quản lý.
Các phương thức kiểm tra hoạt động của BHXH gồm có: Kiểm tra của các cơ
quan quyền lực Nhà nước, kiểm tra chuyên ngành và kiểm tra nhân dân (gồm thanh tra
nhân dân, kiểm tra của tổ chức đảng, đoàn thể...). Tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu, nội
dung và thời gian kiểm tra để có loại hình kiểm tra cho phù hợp: theo thời gian thì có loại
hình thường xuyên hay định kỳ; kiểm tra trước, kiểm tra sau, kiểm tra đột xuất; nếu theo
phạm vi trách nhiệm thì có kiểm tra nội bộ, kiểm tra của các cơ quan ngoài hệ thống theo
quy định của pháp luật (Tổ chức thanh tra Nhà nước, thanh tra nhân dân, thanh tra lao
động...). Nội dung kiểm tra về BHXH thường có kiểm tra về quản lý thu BHXH, BHYT;
kiểm tra chi trả BHXH, BHYT; kiểm tra thực hiện các chế độ BHXH, BHYT; kiểm tra
quản lý đối tượng được hưởng các chế độ BHXH, BHYT; kiểm tra quản lý, sử dụng tài
chính, tài sản...
Nội dung kiểm tra quản lý thu BHXH, bao gồm:
- Kiểm tra nguồn hình thành quỹ BHXH:
+ Đóng góp của đối tượng tham gia BHXH bằng 20% so với tổng quỹ tiền lương
của các đơn vị tham gia BHXH.
+ Ngân sách Nhà nước chuyển sang để chi trả các đối tượng đang hưởng các chế
độ BHXH trước ngày 01/01/1995; đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ
BHXH đối với người lao động sau ngày ban hành Điều lệ BHXH.
+ Tiền lãi, tiền sinh lời từ việc thực hiện phương án bảo toàn, đầu tư tăng trưởng
quỹ BHXH.
+ Thu từ nguồn tài trợ, viện trợ trong và ngoài nước.
+ Thu từ giá trị tài sản BHXH được đánh giá lại theo quy định của Nhà nước.
- Kiểm tra đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của pháp luật:
+ Danh sách lao động được biên chế hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước hay hợp
đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên hoặc dưới 3 tháng nhưng vẫn tiếp tục làm việc tại
đơn vị.
+ Bảng thanh toán tiền lương, tiền công tháng của người lao động.
+ Hồ sơ gốc của người lao động đang lưu tại đơn vị làm việc.
+ Hồ sơ pháp nhân của đơn vị trong trường hợp tham gia BHXH lần đầu.
- Kiểm tra việc trích tiền lương, tiền công tháng của người lao động và phần trích
của đơn vị đóng BHXH cho người lao động thông qua chuyển khoản vào hệ thống Ngân
hàng hoặc Kho bạc.
- Kiểm tra và đối chiếu phần để lại 2% tiền đóng BHXH của đơn vị để thanh toán
các chế độ ngắn hạn cho người lao động.
- Kiểm tra, đối chiếu công nợ BHXH và thực hiện tính lãi, phạt tiền do vi phạm
pháp luật BHXH về đóng BHXH đối với người sử dụng lao động.
1.2.6. Tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội
Theo quy định hiện nay chỉ tạm dừng đóng BHXH đối với quỹ hưu và tử tuất, như
sau:
- Trong trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, mất mùa hoặc lý do bất khả
kháng khác mà người sử dụng lao động buộc phải thu hẹp sản xuất, tạm dừng sản xuất,
kinh doanh, giảm chỗ làm việc. Thời gian tạm dừng đóng BHXH không quá 12 tháng.
- Người sử dụng lao động được tạm dừng đóng BHXH nếu có một trong các điều
kiện: số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc phải tạm thời nghỉ việc chiếm từ
50% trở lên so với tổng số lao động có mặt trước khi tạm thời dừng sản xuất, kinh doanh.
Bị thiệt hại trên 50% tổng số giá trị tài sản do thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, mất mùa
hoặc lý do bất khả kháng khác gây ra (không kể tài sản là đất).
- Người lao động nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên trong
tháng thì cả người lao động và người sử dụng lao động không phải đóng BHXH của
tháng đó, thời gian này không được tính là thời gian đóng BHXH. Thời gian nghỉ việc
hưởng chế độ thai sản được tính là thời gian đóng BHXH, nhưng người lao động và
người sử dụng lao động không phải đóng BHXH.
Trong quản lý BHXH, quản lý thu BHXH được xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
do vị trí, vai trò, mục đích và sự cần thiết khách quan của nó quy định.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thu bảo hiểm xã hội
1.3.1. Chính sách tiền lương
Giữa chính sách tiền lương và chính sách BHXH nói chung, thu BHXH nói riêng có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chính sách tiền lương làm tiền đề và cơ sở cho việc thực
hiện chính sách BHXH. Khi Nhà nước điều chỉnh lương tối thiểu chung, điều đó cũng
đồng nghĩa với việc nâng mức đóng BHXH và đương nhiên số thu BHXH cũng tăng lên.
Từ năm 1990 đến năm 2008, với 8 lần tăng lương tối thiểu chung từ 120.000 đồng/ tháng
lên 540.000 đồng/ tháng thì số thu BHXH hằng năm của nhóm đối tượng hưởng lương từ
Ngân sách cũng tăng từ 36 tỷ đồng (năm 1996) lên 239,7 tỷ (2003); 236,5 tỷ (2004); 295
tỷ(năm 2005); 353 tỷ (năm 2006); 464,4 tỷ (năm 2007) và dự kiến số thu năm 2008 là
614,3 tỷ đồng. Tuy nhiên tỷ trọng số thu BHXH trong khu vực nhà nước giảm dần, từ
91,48% (năm 2003) xuống 88,24% (năm 2004); 83,8% (năm 2005); 78,37% (năm 2006)
và 75,88% (năm 2007) và dự kiến năm 2008 còn 74,92% tổng số thu BHXH bắt buộc.
Như vậy, ở Thanh Hóa số lao động tham gia BHXH khu vực nhà nước vẫn chiếm tỷ
trọng cao, tuy tốc độ có giảm, song rất chậm.
1.3.2. Tuổi nghỉ hưu
Tuy nhiên tuổi nghỉ hưu là nhân tố tác động trực tiếp và chủ yếu đến quỹ BHXH
chứ không phải tác động đến thu BHXH về mặt lý luận, nhưng thực tế ở Thanh Hóa là
địa phương có độ tuổi nghỉ hưu bình quân thấp hơn so với cả nước (Thanh Hóa là 49,2
tuổi /51,8 tuổi-cả nước) do chính sách tinh giảm biên chế và do có số đông lao động nghỉ
hưu trước tuổi, được giảm tuổi có thời gian làm việc trong môi trường nặng nhọc, độc
hại.
Theo quy định hiện hành tuổi nghỉ hưu đối với nam là 60, nữ là 55. Ngoài ra, có
quy định riêng với một số trường hợp về hưu ở tuổi 50 hoặc 55 đối với nam và 45 hoặc
50 đối với nữ.
Việc tăng hoặc giảm tuổi nghỉ hưu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cung cầu lao động
xã hội. Đối với quỹ BHXH nói chung và số thu BHXH nói riêng sẽ bị ảnh hưởng xấu nếu
giảm tuổi nghỉ hưu. Bởi vì, khi giảm 5 tuổi nghỉ hưu sẽ tương ứng giảm thời gian đóng
BHXH 5 năm. Theo tính toán mỗi năm một người về nghỉ hưu trước tuổi Nhà nước phải
bù 10,8 tháng lương.
1.3.3. Chính sách lao động và việc làm
Người lao động là đối tượng tham gia BHXH, họ là những người trong độ tuổi lao
động, là những người trực tiếp tạo ra của cải xã hội. Như vậy nếu một quốc gia có dân số
“già” tức là số người trong độ tuổi lao động thấp trên tổng số dân sẽ dẫn đến việc mất
cân đối quỹ BHXH, bởi vì số người tham gia đóng góp ngày càng ít, trong khi số người
hưởng các chế độ BHXH, đặc biệt là chế độ hưu trí ngày càng tăng. Trong điều kiện của
Việt Nam hiện nay với dân số “trẻ” (số người trong độ tuổi lao động ước tính xấp xỉ 45
triệu người chiếm khoảng 54,9% tổng số dân. Thanh Hóa có 1.856.126 người trong độ
tuổi lao động, chiếm trên 49,5% tổng số dân), đây là đối tượng chính tham gia đóng góp
vào quỹ BHXH. Hiện nay tỉnh Thanh Hóa mới có 161.222 người tham gia đóng BHXH,
chiếm 8,69% số người trong độ tuổi lao động và chiếm 4,3% dân số.
Chính sách lao động, việc làm có ảnh hưởng lớn đến khu vực kinh tế ngoài nhà nư-
ớc và ảnh hưởng trực tiếp đến việc tham gia đóng BHXH của người lao động và người sử
dụng lao động, vì:
+ Khi Nhà nước chú trọng đào tạo nghề, nâng cao chất lượng lao động trên các ph-
ương diện về chuyên môn, kỹ năng hành nghề, kỹ năng ứng xử, giao tiếp, tác phong làm
việc hiện đại, chuyên nghiệp, ý thức chấp hành kỷ luật lao động và pháp luật...điều đó sẽ
giúp cho thị trường lao động có nguồn lao động chất lượng cao, các doanh nghiệp sẽ đỡ
được một phần chi phí trong công tác đào tạo. Lực lượng lao động này sẽ có cơ hội tìm
được việc làm ổn định và thu nhập cao (chất lượng lao động có quan hệ tỷ lệ thuận với thu
nhập) tác động trực tiếp làm tăng số lao động tham gia BHXH và do đó làm tăng mức đóng
BHXH.
+ Việc ưu tiên dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy động vốn trong toàn xã hội
để giải quyết việc làm sẽ làm chuyển dịch cơ cấu lao động, số người làm công ăn lương
sẽ tăng lên cũng là lý do làm tăng tỷ trọng lao động xã hội tham gia BHXH.
+ Việc phát triển thị trường lao động, hình thành hệ thống thông tin thị trường việc
làm là yếu tố quan trọng giúp cho người lao động dễ dàng tìm việc phù hợp với chuyên
môn, nghiệp vụ, tay nghề của mình; đồng thời có quyền lựa chọn những đơn vị thực hiện
đầy đủ quyền lợi của người lao động và thu nhập cao; chủ sử dụng lao động cũng thuận
tiện hơn trong việc tuyển dụng lao động, tiết kiệm thời gian và chi phí.
1.3.4. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu nhập bình quân đầu người
Tốc độ tăng trưởng kinh tế phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của Nhà
nước, vì thế nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, chắc chắn đời sống của người lao động dần
được cải thiện; việc sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp được thuận lợi, vì thế các chủ
doanh nghiệp cũng sẵn sàng tham gia BHXH cho người lao động, từ đó làm giảm tình trạng
trốn tránh tham gia BHXH. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững phản ánh nhiều ngư-
ời lao động có thu nhập cao thông qua quá trình lao động, đây là điều kiện tiền đề để người
lao động có cơ hội tham gia BHXH. Thêm nữa, khi đời sống kinh tế cao thì nhận thức của
người lao động cũng được nâng lên, ngoài việc ý thức đảm bảo cuộc sống hàng ngày cho bản
thân và gia đình, họ mong muốn có khoản trợ giúp khi không may gặp các rủi ro xã hội cũng
như đảm bảo cuộc sống khi về già, như: ốm đau, TNLĐ-BNN, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp
khiến cho họ bị mất hoặc bị giảm thu nhập. Tất cả những yếu tố trên tác động tích cực làm
tăng thu BHXH.
1.3.5. Nhận thức, ý thức, tâm lý, thói quen của người lao động và người sử dụng lao
động; sự quan tâm lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền
BHXH là một cơ chế phức tạp với nhiều mối quan hệ đa dạng, trong đó nổi bật là
quan hệ lợi ích, tức là quyền và trách nhiệm của các bên tham gia BHXH. Dù là người
lao động hay là người sử dụng lao động thì tâm lý chung là làm sao lợi ích càng nhiều
càng tốt, lợi ích không giới hạn và trách nhiệm càng ít càng tốt, trách nhiệm có hạn.
Quyền và nghĩa vụ trong BHXH rõ nhất là vấn đề đóng và hưởng BHXH. Người lao
động và người sử dụng lao động luôn mong muốn chỉ phải đóng góp BHXH ở mức thấp
nhất (giảm chi phí cho gia đình và doanh nghiệp), nhưng lại muốn được hưởng BHXH
tốt nhất. Vì thế, người tham gia BHXH mới tìm cách trì hoãn việc đóng BHXH hoặc
giảm mức đóng góp BHXH (khai lương thấp, giảm số lao động thuộc diện phải tham gia
BHXH, chậm đóng, nợ BHXH)...Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải làm thế nào để giảm
thiểu những sự lạm dụng và vi phạm pháp luật về BHXH.
Nhiều khi, từ chỗ nhận thức giản đơn về việc tham gia BHXH, tức là không tham
gia, hoặc chưa tham gia hay tham gia ở mức độ nhất định vẫn không ảnh hưởng đến hoạt
động của đơn vị, doanh nghiệp, nên người sử dụng lao động không có kế hoạch tài chính
chủ động thực hiện việc đăng ký tham gia BHXH; ngay chính bản thân người lao động
cũng chưa có thói quen sống vì bảo hiểm. Chủ doanh nghiệp chỉ thấy lợi trước mắt, lợi
cục bộ cho doanh nghiệp, thiếu quan tâm đến đời sống và quyền lợi BHXH của người lao
động nên tìm mọi cách trốn tránh đăng ký tham gia BHXH cho người lao động hoặc đăng
ký tham gia theo kiểu đối phó khi có thanh tra, kiểm tra. Tình trạng chủ doanh nghiệp ký
hợp đồng lao động có thời hạn dưới 3 tháng với người lao động và hợp đồng vụ việc,
nhằm lách luật về BHXH. Đây là nhận thức lạc hậu, thói quen thời bao cấp không còn
phù hợp trong điều kiện mới.
Để nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm trong việc tham gia BHXH của người
lao động và người sử dụng lao động, thì vai trò của cấp uỷ Đảng, các cấp chính quyền có
tác động rất lớn đến BHXH nói chung, đến công tác thu BHXH nói riêng. Đó là việc
kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị trong đó có nghĩa vụ đóng BHXH
thông qua tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng trong doanh nghiệp. Đó là việc yêu cầu các
doanh nghiệp khi đăng ký thành lập, hoạt động phải có chỉ tiêu thực hiện BHXH; thành
lập các đoàn thanh tra, xử lý vi phạm về đóng BHXH, về đăng ký lao động tham gia
BHXH. Bài học kinh nghiệm về nâng cao vai trò của cấp uỷ Đảng và chính quyền trong
công tác BHXH ở Thanh Hóa cần được Tổng kết, phát huy; ví dụ: giữa năm 2006, số lao
động tham gia BHXH bắt buộc khu vực ngoài nhà nước ở Thanh Hóa mới đạt 42,7%
trong tổng số lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, trước tình hình trên Tỉnh uỷ
và UBND tỉnh có chỉ thị số 11, số 15 về tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng thực
hiện chế độ BHXH đã làm chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của người sử dụng lao
động, người lao động và xã hội, tạo ra bước phát triển vững chắc trong công tác thu
BHXH; số lao động tham gia BHXH của cả tỉnh tăng nhanh, đạt gần 63% số lao động
thuộc diện đóng BHXH bắt buộc; nợ tồn đọng BHXH cũng giảm đáng kể, từ 14,2 ngày
(năm 2006) xuống còn 9 ngày cuối năm 2007.
1.4. kinh nghiệm ở một số nước và địa phương trong nước về quản lý thu bảo
hiểm xã hội
1.4.1. Kinh nghiệm một số nước trong khu vực
1.4.1.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Hệ thống an sinh xã hội Nhật Bản bắt đầu hình thành từ việc ban hành quy định
cứu trợ nghèo đói vào năm 1847, hiện tại nó bao gồm các chế độ: cứu trợ xã hội, phúc lợi
xã hội, y tế công và BHXH. Các chế độ BHXH bao gồm hai phần: A) BHXH (bảo hiểm
hưu trí, BHYT) do cơ quan BHXH quản lý và tổ chức thực hiện. B) Bảo hiểm lao động
(bảo hiểm việc làm do cơ quan Bảo đảm việc làm của Chính phủ thực hiện; Bảo hiểm bồi
thường tai nạn cho người lao động do cơ quan Thanh tra lao động thực hiện). Hệ thống
cơ quan BHXH bao gồm cơ quan Trung ương, 47 cơ quan BHXH địa phương với 312
văn phòng chi nhánh BHXH.
- Chế độ hưu trí chia ra hai loại hình chính là: 1) Chế độ bảo hiểm hưu trí quốc
gia áp dụng đối với công dân Nhật Bản tuổi từ 20 đến dưới 60 tuổi và thực hiện tự
nguyện cho người dân Nhật Bản ở trong nước từ 60 đến dưới 65 tuổi; ở nước ngoài từ 20
đến dưới 65 tuổi; 2) Chế độ hưu trí thực hiện cho người lao động dưới 65 tuổi làm việc
tại các tổ chức, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương, các công ty, tập đoàn,
trường học tư.
- Đối tượng tham gia đóng BHXH: chia làm 3 nhóm:
+ Nhóm 1: lao động cá thể, nông dân, người không có việc làm, sinh viên... tham
gia chế độ hưu trí quốc gia. Mức đóng là 13.300 yên/ tháng, từ 4/2005 tăng mỗi năm 280
yên để đạt mức 16.900 yên/tháng vào năm 2017.
+ Nhóm 2: lao động trong khu vực tư nhân và Nhà nước. Mức đóng là 13,934%, từ
10/2004 tăng mỗi năm 0,354% và sẽ đạt 18,30% vào năm 2017; số tiền đóng góp được
chia đều, chủ sử dụng lao động đóng 50%, người lao động đóng 50%.
+ Nhóm 3: người ăn theo là vợ /chồng sống dựa vào thu nhập của người lao động
thuộc nhóm 2, tham gia chế độ hưu trí quốc gia [16, tr.67].
1.4.1.2. Kinh nghiệm của Singapore
Quỹ phòng xa Trung ương Singapore (CPF) được thành lập từ năm 1955, mô hình
này được xây dựng theo hệ thống xác định mức đóng nhằm trở thành phương tiện duy
nhất đảm bảo chế độ hưu trí, y tế và vận hành ở cả hai nhóm người lao động có thu nhập cao
và người lao động có thu nhập thấp. Chính phủ có nhiều giải pháp nhằm khuyến khích người
lao động tham gia đóng góp vào quỹ, như quy định giảm mức tiền lương tối thiểu đã áp dụng
đối với mức đóng vào CPF từ ngày 01/01/2006, thực tế là giảm mức đóng góp đối với người
có thu nhập cao và từ ngày 01/01/2012 các chủ sử dụng lao động sẽ phải cung cấp các lựa
chọn công việc hợp lý cho người lao động những người ở độ tuổi 62 thêm 3 năm làm việc
nữa để họ có thể tiếp tục làm việc đến 65 tuổi, thực tế là tăng thêm thời gian đóng góp vào
quỹ. Đồng thời thực hiện chính sách tăng mức đóng của chủ sử dụng lao động thêm 1,5% từ
ngày 01/01/2007 [40, tr.54].
Biểu 1.5: Mức đóng trước và sau ngày 01/01/2007 cho các độ tuổi
Tuổi người lao động Sau ngày 1/7/2007 Trước ngày 1/7/2007
Dưới 35
35-45
45-50
50-55
55-60
60-65
Trên 65
14,5%
14,5%
14,5%
10,5%
7,5%
5%
5%
13%
13%
13%
9%
6%
3,5%
3,5%
Đây là sự phân phối lại thu nhập thông qua chế độ hưởng theo xu hướng có lợi cho
những người lao động có mức lương thấp hơn. Chính phủ còn cho phép các công ty được
tự do định đoạt mức chi phí và chỉ tiêu về chế độ hưởng cho người lao động. Do vậy mô
hình của Singapore có thời kỳ được đánh giá là linh hoạt nhất và là một mô hình độc nhất vô
nhị trong các nền kinh tế hiện đại.
1.4.1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Các gia đình Trung Quốc tiết kiệm tới 30% thu nhập của họ, trong khi tỷ lệ này ở
Mỹ, Nhật Bản chưa tới 10%. Một trong những lý do chính là họ lo cuộc sống lúc về già.
"Ô" bảo hiểm tuổi già (lương hưu), phần quan trọng nhất của hệ thống BHXH Trung
Quốc, mới "che" được khoảng 1/3 số người về hưu và 1/4 lực lượng lao động. Đó là do
Quỹ chịu "gánh nặng lịch sử để lại" là lương hưu trả cho người lao động thời bao cấp
không phải đóng BHXH và hàng triệu người lao động "về hưu non" (có người mới 40
tuổi). Thu BHXH bằng 28% quỹ lương, trong đó chủ sử dụng lao động 20%, người lao
động 8%; mức đóng cao, nhưng vẫn không đủ chi trả lương hưu. Hiện mới có gần 50%
lao động thành phố tham gia BHXH bắt buộc; nhiều chủ lao động "trốn" vì họ cho rằng
mức đóng quá cao và không có trách nhiệm đỡ "gánh nặng lịch sử". Một hạn chế khác là
quỹ đầu tư sinh lời thấp và chậm. Tiền quỹ chủ yếu gửi Ngân hàng nhà nước và mua
Công trái lấy lãi suất tiết kiệm 2-3%/ năm trong khi lương thực tế đang tăng khoảng 10%/
năm. Công thức đóng hưởng chưa hợp lý, theo quy định đóng đủ 15 năm được về hưu,
Quỹ do từng địa phương quản lý, thiếu thống nhất, thiếu tập trung, thiếu chặt chẽ, hạn
chế sự di chuyển lao động, kìm hãm năng lực đầu tư của Quỹ, tạo nhiều sơ hở dẫn tới
thất thoát, tham nhũng. Vì vậy, chưa làm hấp dẫn và chưa làm cho người lao động an tâm
tham gia BHXH. Trung Quốc thực hiện cải cách mạng lưới phúc lợi xã hội từ đầu năm
2007: Nhà nuớc trả lương hưu cho người về hưu trước năm 1997, thực hiện giảm mức
đóng xuống còn 20% nhằm khuyến khích doanh nghiệp thuê lao động và tăng số người
tham gia BHXH; cho phép quỹ BHXH đầu tư vào thị trường chứng khoán và thị trường
tài chính nước ngoài; tăng tuổi nghỉ hưu (năm 2000, tuổi hưu trung bình là 51,2 (quy định
nam 60, nữ 55; nữ công nhân 50 tuổi), thấp hơn các nước khác 10 năm, chính sách này
tạm thời giảm căng thẳng về chỗ làm, nhưng về lâu dài lại tăng sức ép với hệ thống
BHXH và nền kinh tế. Tuy nhiên nếu tăng tuổi về hưu quá nhanh sẽ làm trầm trọng thêm
tình trạng thất nghiệp. Tuổi thọ trung bình của nữ là 74, nam là 71 tuổi (tuổi về hưu của
nữ đang theo hướng tăng lên 60 bằng nam); Trung Quốc đang chuyển quản lý BHXH từ
phân tán từng địa phương sang các tổ chức độc lập [48, tr.4].
1.4.2. Kinh nghiệm một số địa phương trong nước
1.4.2.1. Kinh nghiệm của thành phố Hồ Chí Minh
Năm 2006, trên địa bàn thành phố có 2.770.000 lao động làm việc trong các lĩnh
vực kinh tế- xã hội, với trên 300.000 doanh nghiệp hoạt động, nhưng mới chỉ có 12.587
đơn vị đăng ký hoạt động, trong đó có 3.311 đơn vị sử dụng lao động có ký HĐLĐ và
1.662 đơn vị đang tham gia BHXH. Trong tổng số 112.213 lao động của các đơn vị được
khảo sát mới có 73.998 lao động được ký HĐLĐ. Số lao động đã được tham gia BHXH
trong số lao động được khảo sát là 54.890 người.
Với quyết tâm bảo vệ quyền lợi cho người lao động, BHXH thành phố đã chủ
động cùng sở Lao động Thương binh & Xã hội, sở Kế hoạch & Đầu tư và Ban quản lý
các khu công nghiệp, khu chế xuất xây dựng kế hoạch liên tịch thực hiện chính sách
BHXH để trình UBND thành phố cấp "Thẻ đi lại" cho các doanh nhân trong khu vực
APEC; phối hợp kiểm tra thực hiện BHXH, đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật BHXH cho
người lao động và người sử dụng lao động tại đơn vị. Khi các văn phòng đại diện nước
ngoài ngày càng gia tăng, BHXH thành phố đã có ngay quy chế phối hợp với sở Thương
mại để tham gia quản lý từ những ngày đầu. Năm 2007, thành phố có thêm 3.794 đơn vị
ngoài quốc doanh tham gia BHXH với trên 120.000 lao động (tăng 15% so với năm 2006).
Tính đến tháng 12/2007, thành phố đã quản lý thu 24.530 đơn vị, với 1.753.059 lao động và
tổng số thu BHXH bắt buộc đạt 4.892 tỷ đồng [50, tr.30].
1.4.2.2. Kinh nghiệm của tỉnh Nam Định
Theo báo cáo của BHXH tỉnh Nam Định: qua khảo sát đầu năm 2007, trên địa bàn
toàn tỉnh có 519 doanh nghiệp đang sử dụng 15.445 lao động, nhưng thực tế mới có 246
đơn vị với 4.937 lao động đóng BHXH; một số đơn vị nợ đọng BHXH kéo dài với số tiền
trên 7 tỷ đồng. Để giải quyết vấn đề này, BHXH tỉnh đã có nhiều biện pháp thực hiện có
hiệu quả, đó là: hằng năm, trên Báo địa phương, Đài Phát thanh & Truyền hình tỉnh đều
có chuyên trang, chuyên mục giải đáp chế độ, chính sách BHXH, kể cả các Đài Truyền
thanh địa phương. Trên một số trục đường lớn, khu công nghiệp đều có pa nô, áp phích;
in các tài liệu phát tay, các văn bản hướng dẫn gửi các doanh nghiệp. Thực hiện ký kết
công tác phối hợp với Ban quản lý khu công nghiệp An Xá, Hoà Xá về việc đảm bảo
quyền lợi cho người lao động. Trên cơ sở đó, cơ quan BHXH nắm bắt được chính xác số
doanh nghiệp và lao động để có biện pháp tích cực vận động; đồng thời phối hợp với sở
LĐTB&XH và LĐLĐ tỉnh tổ chức các đoàn thanh tra liên ngành để chấn chỉnh kịp thời
các vi phạm; những đơn vị cố tình vi phạm thì lập Biên bản xử lý hành chính hoặc kiến
nghị cấp có thẩm quyền can thiệp. Đối với những doanh nghiệp nợ đọng BHXH có thể sử
dụng biện pháp ngừng giao dịch, không giải quyết các quyền lợi mà người lao động được
hưởng, nhờ đó mà việc đăng ký tham gia BHXH của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
được chấn chỉnh và tình trạng nợ đọng BHXH cơ bản được giải quyết [45, tr.2].
1.4.3. Một vài bài học rút ra từ kinh nghiệm quản lý thu bảo hiểm xã hội của
một số nước trong khu vực và địa phương trong nước
1.4.3.1. Bài học rút ra từ kinh nghiệm của một số nước trong khu vực
* Về cơ chế thu BHXH, hệ thống BHXH được thực hiện trên nguyên tắc có tham
gia BHXH mới được hưởng các chế độ BHXH. Nguồn thu của hệ thống BHXH được tập
hợp chủ yếu từ các khoản đóng góp của người lao động và chủ sử dụng lao động. Ngoài
ra còn có sự hỗ trợ của Chính phủ với mức đóng góp và hình thức đóng góp khác nhau
tuỳ thuộc vào quy định của pháp luật. Về đối tượng tham gia BHXH là những đối tượng
có công ăn việc làm, có thu nhập dưới hình thức tiền lương hoặc tiền công mà thu nhập
đó vuợt quá mức tối thiểu quy định của mỗi quốc gia. Có nước còn thành lập từng loại
quỹ BHXH khác nhau cho từng loại đối tượng lao động ở các khu vực kinh tế khác nhau.
Mức đóng góp vào quỹ BHXH của mỗi nước rất khác nhau phụ thuộc vào tiềm năng kinh
tế của mỗi nước và mức đóng của người lao động bao giờ cũng thấp hơn mức đóng của
chủ sử dụng lao động. Việc phân chia trách nhiệm đóng góp của người lao động và chủ
sử dụng lao động cũng khác nhau.
- Xây dựng chính sách BHXH phải dựa vào khả năng kinh tế và xã hội cụ thể của
mỗi quốc gia. Hoạt động BHXH phải dựa trên nguyên tắc bắt buộc để thu hút càng nhiều
đối tượng tham gia BHXH càng đảm bảo an toàn cho quỹ BHXH. Có sự phân định khá
rạch ròi giữa chức năng quản lý nhà nước về BHXH và chức năng sự nghiệp của BHXH.
- Về mô hình tổ chức, có nhiều mô hình khác nhau: đa số các nước đều giao việc
quản lý nhà nước về BHXH cho một bộ chức năng như: Bộ Lao động, Bộ phúc lợi xã
hội, Bộ tài chính...còn hoạt động sự nghiệp BHXH thường do cơ quan chuyên trách thực
hiện trong cả nước.
1.4.3.2. Bài học rút ra từ kinh nghiệm của một số địa phương trong nước
Những địa phương đạt được hiệu quả cao trong quản lý thu BHXH bắt buộc đều
có chung một điểm là biết tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao một cách sáng tạo,
không rập khuôn máy móc, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị ở
cơ sở tham gia vào công tác BHXH, bài học kinh nghiệm cần được rút ra, đó là:
- Tranh thủ sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương trong công
tác BHXH. Thực hiện phương châm cấp uỷ Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực
hiện, cơ quan BHXH làm tham mưu, có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan hữu trách,
tạo thành sức mạnh tổng hợp trong công tác BHXH mà trọng tâm là khắc phục nợ tồn
đọng BHXH và phát triển đối tượng tham gia BHXH.
- Công tác dự báo phải đi trước một bước để có những căn cứ khoa học, số liệu sát
thực, nhằm xây dựng kế hoạch phát triển nguồn thu một cách vững chắc, đáp ứng yêu cầu
trước mắt cũng như lâu dài. Đồng thời thường xuyên có sự điều chỉnh để có dự báo sát với
tình hình thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, nhằm đảm bảo thu đúng, đủ, kịp
thời, không bỏ sót nguồn thu.
- Cơ quan BHXH phải chủ động các biện pháp công tác, đặc biệt coi trọng năng
lực xây dựng các phương án tổ chức thực hiện, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, ứng
dụng công nghệ thông tin vào quản lý thu, làm cho đối tượng tham gia BHXH tin tưởng,
phấn khởi và yên tâm khi tham gia BHXH, biến quá trình nhận thức từ bắt buộc sang tự
giác thực hiện.
- Tổ chức tốt công tác phối hợp liên ngành trong việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm về đóng BHXH; phương châm là đề cao công tác thông tin, tuyên truyền, vận động
thuyết phục là chủ yếu, nhưng không xem nhẹ xử lý vi phạm, đặc biệt chọn một đến hai
đơn vị điển hình, lập hồ sơ kiến nghị khởi tố ra Toà án để răn đe, giáo dục chung.
Chương 2
Thực trạng quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc
trên địa bàn tỉnh thanh hóa
2.1. đặc điểm quản lý thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
2.1.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên-kinh tế-xã hội tỉnh Thanh Hóa ảnh
hưởng đến quản lý thu bảo hiểm xã hội
2.1.1.1. Đặc điểm về tự nhiên và dân số
Thanh Hóa là tỉnh đất rộng (diện tích đất nổi là 11.168 km2, thềm lục địa là
18.000 km2, đứng thứ tám so với cả nước), người đông (dân số năm 2007 là 3.724.263
người), là địa phương có lực lượng lao động đông đảo cùng với lịch sử phát triển lâu đời,
từ xa xưa và ngày nay đã và đang góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Thanh Hóa là địa bàn trung gian giữa Bắc bộ và Trung bộ-cực bắc của Trung
bộ. Phía Bắc giáp Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình; phía Nam và Tây Nam giáp Nghệ An
(160 Km); phía Tây nối liền sông núi với tỉnh Hủa Phăn (Lào, đường biên giới 192 Km);
phía Đông mở ra phần giữa của Vịnh Bắc bộ thuộc Biển Đông (đường biển dài 102 Km).
Địa giới hành chính bao gồm 27 huyện, thị xã, thành phố (có 11 huyện miền núi; 13
huyện đồng bằng, trung du, miền biển; 2 thị xã và 1 thành phố cấp II). Thanh Hóa có 8
dân tộc, ngoài dân tộc Kinh là chủ yếu, còn có 7 dân tộc khác sinh sống: Mường, Thái,
H’Mông, Dao, Khơme, Tày, Thổ. Dân cư phân bố không đồng đều giữa thành thị và
nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi. Dân số sống ở khu vực đô thị chiếm 9,72%, còn
lại 90,28% sống ở vùng nông thôn [53, tr.36]. Do lực lượng lao động ở nông thôn chiếm
phần lớn trong cơ cấu lao động, địa bàn miền núi chủ yếu đồng bào thiểu số sinh sống,
trình độ sản xuất và dân trí thấp, điều kiện đi lại khó khăn, là những ảnh hưởng không
thuận lợi cho việc phát triển sản xuất hàng hoá và tiếp cận việc tham gia BHXH.
2.1.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội
- Về kinh tế: do điều kiện tự nhiên hình thành 3 vùng sinh thái rõ rệt: miền núi,
đồng bằng, ven biển, có điều kiện thuận lợi để phát triển toàn diện, nhưng trong những
năm qua việc khai thác tiềm năng còn hạn chế; thu ngân sách địa phương chỉ đạt mức
trung bình trong cả nước (năm 2007 thu ngân sách đạt gần 1.500 tỷ đồng). Thu hút đầu tư
nước ngoài còn yếu, trong những năm qua được Trung ương hỗ trợ cải tạo đáng kể kết
cấu hạ tầng, nhất là về giao thông, thông tin liên lạc, một số công trình quan trọng như:
thủy lợi Cửa Đạt, khu kinh tế Nghi Sơn... Hệ thống giao thông của Thanh Hóa có nhiều
thuận lợi, nằm trên tuyến giao thông kinh tế Bắc - Nam, Đông - Tây với hệ thống đường
sắt, đường bộ, đường thủy ngày càng hoàn chỉnh, góp phần giảm bớt khó khăn, từng
bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tỷ trọng công
nghiệp, dịch vụ tăng. Tuy nhiên tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Thanh Hóa còn
chậm so với tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả nước và một số địa phương khác. Mặc
dù sự phát triển kinh tế của Thanh Hóa trong những năm qua còn chậm so với tiềm năng,
song đã tạo nhiều chỗ làm việc mới và số lao động có việc làm ngày càng tăng, điều này ảnh
hưởng tích cực đến việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH.
- Về xã hội: Thanh Hóa là tỉnh có nguồn lực lao động dồi dào, tỷ lệ lao động trong
độ tuổi lao động chiếm 49,5% dân số. Trình độ học vấn của người lao động có việc làm
trong các khu vực kinh tế-xã hội, như sau: trung học cơ sở: 15,4%; phổ thông trung học:
65,4%; cao đẳng, đại học: 15,5%; trên đại học: 0,5%. Trình độ tay nghề đã qua đào tạo là
35%; lao động phổ thông: 25%; thợ bậc 3-5 là 67%; thợ bậc 6-7 là 8% [46]. Thu nhập
bình quân đầu người tuy có được cải thiện nhưng vẫn thấp, thuộc loại trung bình dưới so
với cả nước. Mặt khác Thanh Hóa luôn là điểm nóng trong các cuộc chiến tranh chống
giặc ngoại xâm, vừa là tiền tuyến vừa là hậu phương. Người dân Thanh Hóa tham gia
đông đảo vào các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, tham
gia vào các cơ quan trở thành đội ngũ cán bộ, công chức hưởng lương từ Ngân sách nhà
nước. Đặc điểm trên làm cho lực lượng lao động của Thanh Hóa là cán bộ, công chức
nhà nước đông hơn các tỉnh khác, nhưng khi bước vào cơ chế thị trường còn lúng túng và
gặp nhiều khó khăn để thích ứng với điều kiện mới đặc biệt thói quen và tư duy cũ về
phát triển kinh tế tư nhân, đây là môi trường phát triển đối tượng tham gia BHXH và phát
triển nguồn thu BHXH.
2.1.2. Tổ chức và nhân sự thực hiện quản lý thu bảo hiểm xã hội của Bảo
hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa
Từ năm 1995 trở về trước, ở Thanh Hóa việc quản lý thu BHXH do Liên đoàn
lao động quản lý và một phần do ngành Thuế, ngành Tài chính trực tiếp thu. Nhìn chung
tình hình quản lý thu BHXH thời kỳ này không tập trung, lại chồng chéo, quản lý thiếu
chặt chẽ, việc sử dụng, quản lý nguồn thu có nhiều sơ hở dễ phát sinh tiêu cực, thất thoát.
Tháng 9/1995, BHXH tỉnh Thanh Hóa bắt đầu đi vào hoạt động, theo đó công tác
quản lý thu BHXH do cơ quan BHXH trực tiếp thực hiện và được quản lý tập trung, thống
nhất theo hệ thống dọc 3 cấp từ Trung ương đến tỉnh, huyện.
Hệ thống tổ chức, bộ máy của BHXH tỉnh Thanh Hóa hiện nay, bao gồm 36 đơn
vị trực thuộc, ở Văn phòng tỉnh gồm 9 phòng chức năng, nghiệp vụ và 27 cơ quan BHXH
huyện, thị xã, thành phố. Việc đảm nhận chức năng quản lý thu BHXH do Phòng Quản lý
thu BHXH tỉnh và BHXH các huyện đảm nhận theo phân cấp. Thực hiện Quyết định số
195/2003/QĐ-BHXH ngày 19/02/2003 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam về chức
năng, nhiệm vụ công tác thu BHXH bắt buộc được thực hiện ở địa phương, như sau:
- Xây dựng kế hoạch thu BHXH hằng năm, quý, tháng và phân bổ chỉ tiêu cho
BHXH huyện, thị xã, thành phố thực hiện;
- Tổ chức thu BHXH của người lao động, người sử dụng lao động và các đối
tượng bắt buộc khác và thẩm định số thu BHXH bắt buộc; cấp, ghi sổ BHXH, xác nhận
số thu BHXH làm cơ sở cho việc giải quyết chế độ BHXH cho người lao động.
- Hướng dẫn kiểm tra, đôn đốc việc thu BHXH bắt buộc...thực hiện chế độ thông
tin, thống kê, tổng hợp báo cáo;
- Tiếp nhận, phân loại, khai thác sử dụng và tổ chức quản lý, lưu trữ hồ sơ, tài liệu
liên quan đến thu BHXH theo quy định.
Do biên chế cán bộ của BHXH tỉnh còn ít, việc bố trí nhân sự chuyên quản công
tác thu BHXH bắt buộc mới phân định rõ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn ở Văn
phòng tỉnh (Phòng Quản lý thu bố trí 16 cán bộ), còn ở BHXH cấp huyện mới bố trí kiêm
nhiệm, mỗi đơn vị từ 2-3 cán bộ, riêng BHXH thành phố bố trí 8 cán bộ chuyên thu. Như
vậy, công tác bố trí nhân sự của BHXH Thanh Hóa làm công tác thu BHXH bắt buộc
trong nhiều năm qua tuy hợp lý so với tổng biên chế được giao, song đều quá tải so với
nhiệm vụ. Nếu tính bình quân mỗi cán bộ chuyên quản thu BHXH, phải đảm nhận số thu
hàng năm gần 7,5 tỷ đồng (bình quân toàn ngành: mỗi cán bộ phải thu là 2,19 tỷ đồng và
chi trả là 6,1 tỷ đồng), chưa kể phải đảm nhận thực hiện hướng dẫn công tác nghiệp vụ
cấp sổ BHXH, đôn đốc, kiểm tra thu nộp.
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy BHXH Thanh Hóa
Trực tiếp
Báo cáo
Phối hợp
2.1.3. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc ở Thanh Hóa
Trước năm 2003, khi có Nghị định số 01/CP của Chính phủ cho phép mở rộng đối
tượng tham gia BHXH bắt buộc, ở Thanh Hóa số lượng doanh nghiệp khu vực dân doanh
đăng ký đóng BHXH cho người lao động quá thấp. Từ khi có Luật Doanh nghiệp, do tác
động của chính sách phát triển doanh nghiệp, hệ thống doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa có bước phát triển đáng kể về số lượng và chất lượng. Cơ cấu doanh nghiệp
theo vùng, theo ngành, theo thành phần kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực.
Giám đốc
Phòng
Thu
BHXH
Phòng
Tổ
chức
Hành
chính
Phòng
Chế
độ
chính
sách
Phòng
Kế
hoạch
tài
chính
Phòng
Giám
định
chi
Phòn
g
Kiểm
tra
Phòng
Công
nghệ
thông
tin
Phòng
Bảo
hiểm
Tự
nguyện
Phòng
Quản
lý
hồ
sơ
BHXH huyện, thị, thành
phố
(27 đơn vị)
Tốc độ tăng bình quân số lượng doanh nghiệp giai đoạn 2003-2007 đạt khoảng 32%.
Thời điểm tháng 12/2004, toàn tỉnh có 2.677 doanh nghiệp (trong đó: 67 doanh nghiệp
nhà nước; 1.062 công ty TNHH; 238 công ty cổ phần; 379 doanh nghiệp tư nhân; 6
doanh nghiệp FDI; 925 hợp tác xã); doanh nghiệp nhà nước giảm dần về số lượng, chiếm
2,5%; doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng nhanh, chiếm 97,5%; doanh nghiệp hoạt động
có hiệu quả khoảng 25%, số còn lại thuộc loại yếu kém, trong đó nhiều doanh nghiệp tồn
tại chỉ là hình thức. Năm 2007: cả tỉnh có 3.928 doanh nghiệp. Bình quân: 948 dân và 2,2
tỷ đồng vốn pháp định trên một doanh nghiệp; có 55 doanh nghiệp lớn (từ 10 tỷ đồng
vốn pháp định và trên 300 lao động / doanh nghiệp).
Đến quý I/ 2008, toàn tỉnh có 4.125 doanh nghiệp, thu hút khoảng 142.062 lao
động. Nếu tính cả các đơn vị hành chính, sự nghiệp, Đảng, đoàn thể, doanh nghiệp nhà
nước và khu vực ngoài nhà nước, thì tổng số lao động có việc làm, thuộc diện tham gia
BHXH bắt buộc khoảng 245.000 lao động, nhưng mới có 161.222 lao động được tham
gia đóng BHXH (chiếm 65,8%), khu vực nhà nước tham gia BHXH chiếm tỷ lệ cao
63,85%; còn lại khu vực ngoài nhà nước chiếm 36,15%.
Quản lý lao động trong các doanh nghiệp đa phần còn lỏng lẻo, một số doanh
nghiệp ở Thanh Hóa thực hiện ký kết, thoả ước lao động mang tính hình thức. Hiện nay,
mới có khoảng 65% công nhân được ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn
và có xác định thời hạn từ 3 tháng trở lên: 12% số lao động được ký kết hợp đồng từ 1
đến dưới 3 tháng và 23% lao động ký hợp đồng thời vụ. Nguyên nhân chính là do doanh
nghiệp muốn trốn tránh việc trích nộp BHXH; dễ dàng chấm dứt hợp đồng khi cần; giảm
các khoản chi phí phải trả cho công nhân khi chấm dứt hợp đồng lao động, nhìn chung là
đối phó khi có thanh tra, kiểm tra.
Hiện tại, số lao động có việc làm thường xuyên trong các doanh nghiệp là 96,98%,
không thường xuyên 1,87%, không có việc làm 0,4%, nghỉ chờ BHXH hoặc làm việc ở nơi
khác nộp BHXH về cơ quan quản lý là 0,75%. Hầu hết người lao động làm việc vất vả,
cường độ lao động cao, thời gian làm việc kéo dài, song dường như tiền công của họ lại chỉ
dừng ở mức khá thấp so với mức sống, mức chi tiêu của cuộc sống hằng ngày, chỉ tính riêng
thu nhập bình quân của người lao động khối trực tiếp sản xuất, kinh doanh năm 2003 là
627.000đ/người/tháng và năm 2007 là 1.100.000đ/ người/ tháng [46]. Vì vậy bên cạnh nhận
thức và ý thức, còn có nguyên nhân do cuộc sống còn nhiều khó khăn, thu nhập thấp, lại
không ổn định nên không có khả năng tham gia đóng BHXH.
Trong những năm qua, mặc dù có những thay đổi về cơ cấu lao động và có sự
phát triển đáng kể doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế, song chất lượng, hiệu quả
hoạt động còn kém, số lượng doanh nghiệp so với dân số chưa tương xứng với tiềm năng
phát triển kinh tế của địa phương, cũng là những nguyên nhân hạn chế thu hút lao động
tham gia BHXH. Cụ thể được khái quát theo các Biểu 2.1; 2.2 ; 2.3 sau:
Biểu 2.1: Cơ cấu loại hình, đối tượng, tiền lương tham gia BHXH
bắt buộc năm 2006
Số
TT
Loại hình
Tổng số
đơn vị
Tổng số lao
động
Tổng quỹ
tiền lương
(Tr. đ)
Bình quân
lương
tháng
(đồng)
1 HCSN 2.307 70.609 1.019.658 1.203.408
2 DNNN 102 20.550 290.422 1.177.704
3 DNFDI 6 818 26.686 2.718..622
4 DNNQD 513 27.736 301.530 905.952
5 NCL 146 6.333 46.395 610.492
6 HTX 321 2.304 10.423 376.989
7 Hộ SXKD 327 764 4.296 468.586
8 Cán bộ xã 634 10.876 100.812 772.434
Tổng cộng 4.356 139.990 1.800.222
Nguồn: [21].
Biểu 2.2: Cơ cấu loại hình, đối tượng, tiền lương tham gia BHXH
bắt buộc năm 2007
Số
TT
Loại hình
Tổng số
đơn vị
Tổng số
lao động
Tổng
q/lương (Tr.
đ)
B. quân
lương tháng
(đồng)
1 HCSN 2.535 72.217 1.247.768 1.439.836
2 DNNN 87 18.360 291.768 1.324.292
3 DNFDI 11 1.245 29.640 1.983.936
4 DNNQD 680 32.706 415.176 1.057.849
5 NCL 188 7.758 63.736 684.627
6 Hợp tác xã 354 2.656 14.690 460.906
7 Hộ SXKD 440 991 5.783 486.293
8 Cán bộ xã 634 11.237 125.225 928.666
Cộng 4.929 147.170 2.193.786
Nguồn: [21].
Biểu 2.3: Cơ cấu loại hình, đối tượng, tiền lương tham gia BHXH
bắt buộc quý I/2008
Số
TT
Loại hình
Tổng số đơn
vị
Tổng số lao
động
Tổng quỹ
tiền lương
(Tr đ)
B.quân
lương tháng
(đồng)
1 HCSN 2.615 75.312 1.518.579 1.680.320
2 DNNN 75 16.214 304.447 1.564.874
3 DNFDI 18 1.930 37.900 2.210.425
4 DNNQD 903 41.321 525.176 1.231.256
5 NCL 215 9.830 72.736 750.458
6 HTX 390 3.750 17.200 621.540
7 Hộ SXKD 704 1.453 7.730 650.420
8 Cán bộ xã 634 11.412 150.270 1.097.310
Cộng 5.554 161.222 2.634.038
Nguồn: [21].
2.2. đánh giá việc thực hiện quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa
2.2.1. Triển khai các quy định về quản lý thu bảo hiểm xã hội bắt buộc
Thu BHXH không những là khâu đầu tiên của một quá trình thực hiện chính sách,
chế độ BHXH, mà bản thân nó thường chiếm một khối lượng lớn công việc, chi phối đến
các hoạt động của toàn ngành BHXH. Vai trò của công tác thu BHXH được khẳng định
là cơ sở hình thành nguồn quỹ BHXH và cũng là cơ sở để giải quyết các chế độ BHXH
cho người lao động. Số thu và lao động tham gia BHXH như là sự sống còn của sự
nghiệp BHXH; vì vậy, quản lý thu BHXH luôn được sự quan tâm thường xuyên, là một
trong những nhiệm vụ then chốt của toàn Ngành. Công tác quản lý thu BHXH được
ngành BHXH triển khai thực hiện thống nhất trong cả nước sau khi Chính phủ ban hành
Nghị định và Thông tư hướng dẫn của các Bộ quản lý chuyên ngành.
Để thực hiện Nghị định số 12/CP của Chính phủ ban hành kèm theo Điều lệ BHXH,
ngày 24/7/1995 Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 58/TC/HCSN hướng dẫn tạm thời
phương thức thu nộp BHXH; công tác thu BHXH bắt buộc của cả nước nói chung và Thanh
Hóa nói riêng được thực hiện bắt đầu từ đây. Tuy nhiên đối với tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện
thu BHXH bắt buộc theo mức 20% (người lao động 5% tiền lương tháng, người sử dụng lao
động 15% tổng quỹ tiền lương) từ giữa năm 1993 khi thực hiện Nghị định số 43/CP ngày
22/6/1993 của Chính phủ. Việc thu nộp BHXH được giao cho sở Tài chính-Vật giá thu đối
với các đơn vị hành chính, sự nghiệp, Đảng, đoàn thể và Cục Thuế chịu trách nhiệm thu đối
với các doanh nghiệp nhà nước của Trung ương, địa phương đóng trên địa bàn. Do mang
tính kiêm nhiệm, nên việc quản lý thu BHXH của hai ngành đạt hiệu quả thấp, hằng năm số
thu BHXH của cả tỉnh cao nhất chiếm khoảng 34,5% số thu theo kế hoạch. Chỉ đến khi
BHXH tỉnh Thanh Hóa được thành lập, chính thức đi vào hoạt động từ tháng 9/1995 thì công
tác thu BHXH mới đi vào nề nếp và đem lại hiệu quả cao. Chỉ tính riêng 3 tháng cuối năm
1995 sau khi tiếp nhận bàn giao, BHXH tỉnh Thanh Hóa đã thu bằng 126% so với số thu
BHXH cả năm của các ngành chuyển sang; số thu BHXH và số lao động tham gia BHXH
liên tục tăng nhanh và năm sau cao hơn năm trước.
Công tác quản lý thu BHXH được thực hiện theo các quyết định của Tổng Giám
đốc BHXH Việt Nam ban hành đảm bảo phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật về
BHXH bắt buộc, bao gồm:
- Quyết định số 177/BHXH ngày 30/12/1996 thực hiện thu BHXH bắt buộc theo
Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ.
- Quyết định số 2902/1999/QĐ-BHXH ngày 23/11/1999 của BHXH Việt Nam
sửa đổi Quyết định số 177/BHXH về quản lý thu BHXH bắt buộc.
- Quyết định số 722/QĐ-BHXH ngày 26/5/2003 thực hiện quản lý thu BHXH bắt
buộc theo Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 9/01/2003 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung
một số điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP và Thông tư số
07/2003/TT-BLĐTBXH ngày 12/3/2003 của Bộ Lao động-Thương binh & Xã hội hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 01/2003/NĐ-CP.
- Quyết định số 902/QĐ-BHXH ngày 26/6/2007 thực hiện thu BHXH bắt buộc
theo Nghị định số 152/2006/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thực hiện một số điều của
Luật BHXH và Thông tư số 03/2007/TT-LĐTBXH ngày 30/01/2007 của Bộ Lao động-
Thương binh & Xã hội hướng dẫn thực hiện Nghị định 152/ 2006/NĐ-CP.
Trên đây là những căn cứ pháp lý về quản lý thu BHXH bắt buộc mà cơ quan BHXH
thực hiện thống nhất trong cả nước. Như vậy, trong thời gian 13 năm, kể từ khi thực hiện đổi
mới chính sách BHXH đến nay, BHXH Việt Nam đã ban hành 4 quyết định hướng dẫn thu
BHXH bắt buộc trên cơ sở các văn bản luật về BHXH. Xét về thời gian thì bình quân cứ 03
năm lại có sự thay đổi chính sách vĩ mô về BHXH, hay nói cách khác Luật của Nhà nước ta có
tuổi thọ trung bình là 3 năm. Đây cũng là những khó khăn cho địa phương trong quá trình thực
hiện chính sách BHXH, nhất là ở Thanh Hóa địa bàn rộng, địa hình phúc tạp, giao thông đi lại
khó khăn, ảnh hưởng nhiều mặt đến công tác quản lý thu BHXH.
Xét về nhiều khía cạnh khác nhau thì các quy định về quản lý thu BHXH bắt buộc
được tổ chức thực hiện qua các giai đoạn, được khái quát như sau:
- Về đối tượng tham gia: từng bước được mở rộng từ phạm vi hẹp trong khu vực
nhà nước đến khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, rồi phát triển đến khu vực ngoài
nhà nước trong tất cả các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân có thuê mướn, sử dụng
và trả công cho người lao động, với phương châm thực hiện BHXH cho mọi người lao
động.
- Về mức đóng: được tăng dần và phân định theo các quỹ dài hạn và quỹ ngắn hạn.
- Về phương thức đóng: vẫn quy định theo tháng cùng với thời gian nhận tiền
lương, tiền công của người lao động, trừ một số trường hợp ngoại lệ.
- Về tiền lương làm căn cứ đóng: từng bước được nâng lên theo mức thu nhập của
người lao động trong giai đoạn đầu sau đó được giới hạn mức "sàn" và mức "trần" nhằm
tạo công bằng không có sự phân biệt giữa các khu vực.
- Về công tác quản lý: được phát triển theo hướng phân định rõ chức năng, quyền
hạn và trách nhiệm của người sử dụng lao động, đại diện người sử dụng lao động và cơ
quan nhà nước. Chức năng quản lý nhà nước về BHXH nói chung, quản lý thu nộp
BHXH nói riêng rõ ràng, minh bạch hơn. Quỹ BHXH được phân chia để quản lý theo các
quỹ thành phần.
Việc triển khai thực hiện quản lý thu BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
trong thời gian đầu mới thành lập còn gặp những khó khăn, vướng mắc; nhân sự trực tiếp
làm công tác thu BHXH còn mỏng, chưa nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm
tổ chức thu BHXH còn hạn chế. Mặt khác nhận thức của người lao động và người sử
dụng lao động chưa được nâng cao về trách nhiệm, nghĩa vụ tham gia đóng BHXH. Đối
với các doanh nghiệp thuộc các ngành nông, lâm, ngư, diêm nghiệp sản xuất kinh doanh
theo mùa vụ, giao khoán theo chu kỳ sản xuất, việc nộp BHXH không thường xuyên,
không đúng quy định; nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, người lao động thiếu việc làm, thu nhập thấp, thậm chí không có việc làm, nghỉ
không hưởng lương...rất khó khăn trong việc đóng BHXH và thanh toán nợ BHXH của
nhiều năm trước.
2.2.2. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
2.2.2.1. Kết quả đạt được
Một là, quản lý đối tượng tham gia BHXH
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, trong những năm qua hoạt động quản
lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa luôn hướng vào mục tiêu: tăng nhanh đối
tượng tham gia BHXH ở mọi thành phần kinh tế phù hợp với yêu cầu hội nhập và phát
triển kinh tế-xã hội của địa phương; thực hiện thu đúng, đủ, kịp thời và quản lý tốt nguồn
thu; hạn chế nợ đọng BHXH; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào quản lý và
thực hiện cải cách hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ đối tượng tham gia BHXH,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.
Bám sát vào mục tiêu trên, BHXH Thanh Hóa có nhiều biện pháp tổ chức thực hiện
nhằm tăng nhanh số người tham gia BHXH. Đây là một trong những mục tiêu hết sức
quan trọng của Đảng và Nhà nước trong nội dung đổi mới chính sách BHXH. Nhưng
việc thực hiện gặp nhiều khó khăn, do trong gần 50 năm hoạt động BHXH ở nước ta thực
hiện theo cơ chế bao cấp, người lao động được hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH mà
chưa phải thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH; thông lệ này đã đi vào tiềm thức của từng
người, nếu là cán bộ, công chức nhà nước thì đương nhiên được hưởng tiền lương và các
chế độ phúc lợi khác. Do đó khi chính sách đổi mới thực hiện quan hệ hữu cơ giữa nghĩa
vụ đóng góp với quyền lợi hưởng thụ thì gặp nhiều khó khăn cả về nhận thức và tổ chức
thực hiện.
Trong những năm qua, BHXH tỉnh Thanh Hóa đã tập trung thực hiện có hiệu quả
nhiều biện pháp, như: chủ động phối hợp với các ban, ngành chức năng kịp thời xử lý các
vướng mắc ở cơ sở, tạo điều kiện để các đơn vị sử dụng lao động tham gia thực hiện tốt
chế độ, chính sách BHXH cho người lao động. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên
truyền chế độ, chính sách BHXH theo cơ chế mới. Kết hợp chặt chẽ đăng ký thu, nộp
BHXH với việc cấp sổ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH. BHXH tỉnh Thanh Hóa
đã tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy có Chỉ thị 11 CT/TU (ngày 12/3/2007) và
Chủ tịch UBND tỉnh có Chỉ thị 15/CT-UBND (ngày 8/6/2007) về tăng cường lãnh đạo
thực hiện các chế độ BHXH, tạo ra bước phát triển vững chắc sự nghiệp BHXH ở địa
phương. Đến quý I/2008, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có trên 16 vạn lao động tham
gia BHXH bắt buộc; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước có chuyển biến khá, nếu
năm đầu tiên thực hiện mở rộng đối tượng theo Nghị định 01/2003/NĐ-CP mới có
271 doanh nghiệp với 12.129 lao động tham gia BHXH, thì đến quý I/2008 có 1.527
doanh nghiệp với 58.248 lao động tham gia BHXH, tăng 23,47% số đơn vị tham gia
và 28,7% lao động
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.pdf