Tài liệu Luận văn Hoàn thiện quản lý tài chính ở trường đại học phòng cháy, chữa cháy trong giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN:
Hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường
Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong
giai đoạn hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Đảng và Nhà
nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Trong hệ thống giáo dục và
đào tạo, giáo dục ở mỗi cấp học, bậc học có một vai trò nhất định, trong đó giáo dục đại
học là một khâu trọng yếu, đảm nhận sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, là
động lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước, nhất là trong giai đoạn công
nghiệp hoá hiện đại hoá.
Phát triển giáo dục và đào tạo phải đi trước một bước so với phát triển kinh tế.
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư quan trọng có hiệu quả và tác động nhiều mặt và dài hạn.
Để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nói chung và đào tạo đại học nói riêng, bên
cạnh sự đổi mới về các mặt như tổ chức, cán bộ, chương trình, phương pháp đào tạo, việc
đảm bảo nguồn tài chính v...
81 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 978 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hoàn thiện quản lý tài chính ở trường đại học phòng cháy, chữa cháy trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường
Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong
giai đoạn hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Đảng và Nhà
nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Trong hệ thống giáo dục và
đào tạo, giáo dục ở mỗi cấp học, bậc học có một vai trò nhất định, trong đó giáo dục đại
học là một khâu trọng yếu, đảm nhận sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, là
động lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước, nhất là trong giai đoạn công
nghiệp hoá hiện đại hoá.
Phát triển giáo dục và đào tạo phải đi trước một bước so với phát triển kinh tế.
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư quan trọng có hiệu quả và tác động nhiều mặt và dài hạn.
Để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nói chung và đào tạo đại học nói riêng, bên
cạnh sự đổi mới về các mặt như tổ chức, cán bộ, chương trình, phương pháp đào tạo, việc
đảm bảo nguồn tài chính và xác lập cơ chế quản lý tài chính cho các trường đại học có
vai trò cực kỳ quan trọng. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, đối với các trường công lập,
nhất là các trường chuyên ngành đào tạo cán bộ cho lực lượng vũ trang, việc đa dạng hoá
nguồn tài chính và đổi mới quản lý tài chính sao cho tiết kiệm, có hiệu quả có vai trò góp
phần quyết định đến sự phát triển lâu dài của các trường.
Tuy nhiên, huy động nguồn tài chính và quản lý tài chính cho giáo dục và đào tạo
là một vấn đề khá phức tạp. Trước hết, trong giai đoạn đổi mới hiện nay, khi cơ chế quản
lý chuyển từ nhà nước bao cấp hoàn toàn sang nhà nước chỉ chịu một phần chi phí, đầu ra
và sản phẩm của hoạt động đào tạo đại học lại rất đa dạng. Hơn nữa, xét về mặt cấu trúc
cơ chế quản lý tài chính cho các trường đào tạo công lập, cả về đa dạng hoá nguồn thu tài
chính, cả về nâng cao quyền tự chủ trong quyết định chi tiêu đều không thể áp dụng một
kiểu mô hình giống nhau ở tất cả các trường.
Hiện nay, đối với các trường đào tạo ngành công an nhân dân nói chung và
Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy nói riêng, bên cạnh những đặc điểm chung của
các trường đại học công lập, còn có những đặc điểm riêng do tính chất đặc thù của lực
lượng vũ trang, mà nổi bật nhất đó là sự chỉ định về chỉ tiêu đào tạo và bao cấp về ngân
sách còn là chủ yếu. Tuy vậy, cùng với xu thế phát triển chung của sự nghiệp đổi mới thì
cơ chế quản lý, nguyên tắc hoạt động của Trường, trong đó có cơ chế, cũng đã, đang và
có những thay đổi theo hướng đa dạng hoá các nguồn tài chính, cơ chế chủ động, tự chủ
về tài chính tăng lên cho các trường.
Việc nghiên cứu làm rõ nguyên tắc và quy trình quản lý tài chính của các đơn vị
sự nghiệp nói chung và đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy nói riêng, phân
tích thực trạng việc quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, từ đó đề
xuất các giải pháp đổi mới xây dựng được cơ chế quản lý tài chính của Trường theo hướng đa
dạng hoá các nguồn thu, chủ động, tự chủ cao trong quản lý, sử dụng tài chính là nhu cầu rất
cần thiết đối với thực tiễn hiện nay. Do vậy tôi chọn đề tài luận văn thạc sĩ là: “Hoàn thiện
quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề về chính sách giáo dục và đào tạo, trong đó có chính sách huy động và
sử dụng các nguồn tài chính, cơ chế quản lý tài chính ở các trường đại học đã được
nghiên cứu trong nhiều công trình khoa học của các tác giả trong và ngoài nước. Hiện
nay, vấn đề tự chủ trong đó có tự chủ tài chính trong giáo dục và đào tạo đang được các
giới khoa học và quản lý quan tâm nghiên cứu giải quyết. Đối với Bộ Công an, vấn đề
đổi mới giáo dục và đào tạo, trong đó có đổi mới cơ chế quản lý tài chính cũng được đề
cập đến trong đề án “Tăng cường, đổi mới giáo dục và đào tạo trong công an nhân dân
giai đoạn 2006-2020”. Đề án có năm nội dung, trong đó nội dung thứ năm là tăng mức
đầu tư kinh phí, đảm bảo cho công tác đào tạo trong ngành công an nhân dân. Tuy vậy
những nội dung trong đề án mới được triển khai nghiên cứu ở dạng chủ trương, nhiều
vấn đề thực tế đặt ra chưa có biện pháp cụ thể, các vấn đề rất cơ bản cũng chưa được
tổng kết đánh giá và chưa có hướng tháo gỡ. Nghị định 10/2002/NĐ-CP về chế độ tài
chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu nhằm giao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp ra đời cách đây bốn năm nhưng hiện nay các trường
công an nhân dân vẫn chưa được áp dụng, hiện tại chỉ có một số đơn vị thuộc các
trường được gọi là các đơn vị sự nghiệp có thu được áp dụng nghị định này. Gần đây
Chính phủ lại ban hành tiếp Nghị định 43/2006/NĐ-CP là hoàn toàn mới, chưa được triển
khai áp dụng ở các trường của ngành công an nhân dân.
Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy hiện nay đang tồn tại song song
hai hình thức quản lý tài chính đó là đơn vị sự nghiệp không có thu và đơn vị sự nghiệp
có thu. Trên thực tế hiện nay, ngay trong quản lý tài chính sự nghiệp không có thu cũng
đang tồn tại nhiều hình thức hạch toán khác nhau như hạch toán đào tạo liên kết, đào tạo
mở rộng…nằm trong đơn vị sự nghiệp không có thu. Để làm rõ và phân định rõ ràng việc
áp dụng lọai hình đơn vị sự nghiệp nào, nhất là theo tinh thần Nghị định 43/2006/NĐ-CP
về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ về tổ chức bộ máy biên chế
và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, thì việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện
quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện nay”
là cần thiết và cấp bách.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn có mục tiêu nghiên cứu làm rõ các vấn đề về quản lý tài chính của Trường
Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trên hai hình thức quản lý: là đơn vị sự nghiệp không có thu
và đơn vị sự nghiệp có thu. Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác quản lý tài chính của
Trường, đề tài luận chứng những giải pháp bảo đảm nguồn thu và hoàn thiện cơ chế quản lý
tài chính theo hướng tự chủ của đơn vị sự nghiệp có thu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý tài chính ở Trường Đại học
Phòng cháy, Chữa cháy với tư cách vừa là đơn vị sự nghiệp có thu, vừa là đơn vị sự
nghiệp không có thu.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc quản lý tài chính của Trường Đại học Phòng
cháy, Chữa cháy.
- Luận chứng những giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại
học Phòng cháy, Chữa cháy.
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ quản lý tài chính ở Trường Đại học
Phòng cháy, Chữa cháy. Nó bao gồm hai hình thức quản lý, đó là đơn vị sự nghiệp có thu
và đơn vị sự nghiệp không có thu. Quan hệ này gồm hai mảng rõ rệt: quan hệ giữa tài
chính nhà nước với nhà trường và quan hệ quản lý tài chính trong nội bộ trường.
Phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung ở quan hệ quản lý tài chính của một đơn vị cụ
thể, đó là Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, những vấn đề khác có liên quan chỉ
nghiên cứu với hình thức bổ trợ làm rõ các quan hệ quản lý tài chính.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về kinh tế, các quan điểm đường lối về phát triển giáo dục, đào tạo, chính sách giáo
dục, đầu tư cho giáo dục của Nhà nước. Đề tài này mang tính ứng dụng, triển khai cơ chế
quản lý tài chính của Nhà nước đối với các ĐVSN, nên đề tài bám sát khung khổ pháp
luật về tài chính của Nhà nước trong đó đặc biệt quan trọng là các quy định của Chính
phủ về quản lý tài chính theo Nghị định 10/NĐ-CP và Nghị định 43/NĐ-CP.
Trong các nội dung cụ thể, luận văn sử dụng các phương pháp phổ biến như tổng
hợp và phân tích, lôgic và lịch sử. Trong phân tích đánh giá tài liệu thực tế, luận văn sử
dụng phương pháp so sánh, thống kê kinh tế…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận
Một là, xác định việc tồn tại hai hình thức quản lý tài chính ở một đơn vị sự
nghiệp, đặc biệt đó là đơn vị sự nghiệp là một cơ sở đào tạo trong ngành công an, điều
này phù hợp với xu thế xã hội hoá giáo dục đào tạo, một đặc điểm riêng khác biệt với các
trường đào tạo khác trong ngành công an.
Hai là, các giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính nhằm mục đích tăng nguồn thu,
tăng tính tự chủ trong hoạt động quản lý tài chính, đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng
về nguồn tài chính cho đào tạo ngay tại chính Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 11 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH VÀ YÊU CẦU HOÀN
THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
1.1. ĐẶC ĐIỂM QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG
CHÁY, CHỮA CHÁY VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG
LẬP
1.1.1. Khái niệm, phân loại đơn vị sự nghiệp công lập
1.1.1.1. Khái niệm đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam
Hoạt động sự nghiệp là những hoạt động do Nhà nước thực hiện nhằm cung cấp
những dịch vụ có lợi ích chung và lâu dài cho cộng đồng xã hội. Hoạt động sự nghiệp
không trực tiếp tham gia vào quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất, nhưng nó tác động
đến lực lượng sản xuất và xã hội thông qua việc nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng lao
động cho nhân dân, cải thiện chất lượng cuộc sống của con người, duy trì, bảo tồn và
phát triển các giá trị văn hoá, nghệ thuật, tinh thần của dân tộc, phát triển khoa học…Kết
quả hoạt động sự nghiệp ảnh hưởng đến không chỉ phát triển kinh tế mà còn đến sự phát
triển xã hội và đất nước.
Hoạt động sự nghiệp có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, hoạt động sự nghiệp có xu hướng cung cấp các loại hàng hoá, dịch vụ có
tính chất của hàng hoá công cộng hoặc hàng hoá khuyến dụng.
Thứ hai, hoạt động sự nghiệp không nhằm mục đích thu lợi nhuận trực tiếp.
Thứ ba, hoạt động sự nghiệp luôn gắn liền và bị chi phối bởi các chương trình phát
triển kinh tế xã hội và ngân sách của Nhà nước.
Thứ tư, sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp có tính ích lợi chung và lâu dài.
Hoạt động sự nghiệp trong xã hội rất đa dạng, phong phú như: Sự nghiệp theo
từng lĩnh vực như sự nghiệp kinh tế; sự nghiệp văn hoá xã hội, sự nghiệp theo đặc điểm
nguồn tài chính như hoạt động sự nghiệp có thu; sự nghiệp không có thu, sự nghiệp theo tính
chất hoạt động hoặc theo ngành nghề như sự nghiệp giáo dục - đào tạo, sự nghiệp y tế, khoa
học, văn hoá…
Hoạt động sự nghiệp đóng vai trò là động lực to lớn giúp dân tộc bảo tồn và phát
triển văn hoá, truyền thống, các giá trị đạo đức… Nghị quyết Đại hội toàn quốc Đảng
Công sản Việt Nam lần thứ X khẳng định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” [17].
Hoạt động sự nghiệp đóng vai trò động lực cải cách, đổi mới, phát triển giáo dục -
đào tạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VII) và Nghị quyết Hội nghị Trung
ương khoá 2 (khoá VIII) của đảng ta đã khẳng định quan điểm khoa học công nghệ cùng
với giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu trong phát triển đất nước.
Thể dục thể thao là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển khoa học
xã hội của đảng và Nhà nước ta nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, góp
phần tích cực nâng cao sức khoẻ, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành
mạnh, làm phong phú đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao
động xã hội và sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 4 (khoá VII) của Đảng ta khẳng định “Sức khoẻ là vốn quý của mỗi con người và
của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
[15]. Hoạt động sự nghiệp có vai trò quan trọng trong lĩnh vực này.
Trong nền kinh tế - xã hội, để thực hiện các hoạt động sự nghiệp cần có các tổ
chức tiến hành các hoạt động đó, các tổ chức này được gọi là đơn vị sự nghiệp (ĐVSN).
Tuy nhiên, theo ngôn ngữ quen dùng ở Việt Nam, ĐVSN thường phải là các cơ quan của
Nhà nước.
“Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính
nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 2004 - 2005”, ban hành theo Quyết định số
08/2004/QĐ-TTg ngày 15/01/2004 của Thủ tướng Chính phủ xác định: ĐVSN là một
loại hình đơn vị được Nhà nước ra quyết định thành lập, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn
nhất định nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao trên lĩnh vực
quản lý, thực hiện các hoạt động sự nghiệp. Đó là đơn vị thuộc sở hữu nhà nước, hoạt
động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hoá, thông tin, nghiên cứu khoa học, y
tế,… không theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh [23].
ĐVSN thuộc khu vực phi lợi nhuận, sự chi tiêu của các đơn vị này, theo góc độ
của các nhà quản lý tài chính nhà nước, là chi tiêu một chiều, không thu hồi lại được vốn
gốc, mặc dù trong nghiệp vụ quản lý tài chính các đơn vị này vẫn tính khấu hao tài sản cố
định. Trong quá trình hoạt động, các ĐVSN được Nhà nước trang trải kinh phí đáp ứng
nhu cầu chi tiêu từ ngân sách nhà nước hoặc được bổ sung từ các nguồn khác.
Hoạt động của các ĐVSN là rất đa dạng, bắt nguồn từ nhu cầu phát triển kinh tế
xã hội và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế. Mục đích hoạt động của các ĐVSN là
phục vụ lợi ích cộng đồng, xã hội, đất nước. Trong quá trình cung cấp hàng hoá, dịch vụ
công cho xã hội, các ĐVSN được phép tạo lập nguồn thu nhập nhất định thông qua các
khoản thu phí và các khoản thu từ cung ứng dịch vụ do Nhà nước quy định để trang trải
các khoản chi tiêu. Quản lý tài chính ĐVSN phải tuân thủ theo những quy định pháp lý
và quy định về quản lý tài chính của Nhà nước. Tuỳ theo đặc điểm tạo lập nguồn thu của
các ĐVSN, Nhà nước áp dụng cơ chế tài chính thích hợp để các ĐVSN thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình. Phù hợp với xu hướng cải cách khu vực công trong bối
cảnh chuyển đổi nền kinh tế thị trường và hội nhập, Nhà nước thực hiện chính sách đổi
mới cơ chế quản lý tài chính đối với các ĐVSN theo hướng nâng cao quyền tự chủ tài
chính nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công phục vụ xã hội.
ĐVSN có những đặc điểm khác với cơ quan hành chính. Cơ quan hành chính là
những tổ chức cung cấp trực tiếp các dịch vụ hành chính công cho người dân khi thực
hiện chức năng quản lý nhà nước của mình. Đó là các dịch vụ an ninh, quốc phòng, quản
lý hành chính nhà nước, bảo đảm pháp luật…Các dịch vụ hành chính công được cung
cấp theo luật định, với chất lượng đồng nhất cho mọi người tiêu dùng và được chi trả trực
tiếp bằng ngân sách nhà nước. Dịch vụ hành chính công là chức năng của cơ quan hành
chính nhà nước, là trách nhiệm và nghĩa vụ của bộ máy Nhà nước với nhân dân và chỉ có
Nhà nước có đủ thẩm quyền thực hiện chức năng đó. Nhà nước, với tư cách là một tổ
chức công quyền, phải có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ này cho nhân dân, còn người
dân có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước dưới hình thức thuế để đảm bảo phần tài chính
cho các dịch vụ này. Như vậy, quan hệ trao đổi các dịch vụ hành chính công không phản
ánh quan hệ thị trường, mà phản ánh quan hệ nghĩa vụ của Nhà nước và phương tiện thực
hiện nghĩa vụ do xã hội công dân cung cấp. Người sử dụng dịch vụ có thể trả một phần
hoặc không phải trả tiền cho việc sử dụng dịch vụ đó, nhưng phải đóng thuế để chi trả
cho chúng. Chính vì vậy cơ quan hành chính chỉ được tự chủ tài chính trong phần kinh
phí ngân sách nhà nước bao cấp (cơ chế khoán chi), không được tự do mở rộng dịch vụ
và nguồn thu. Dịch vụ và nguồn thu là cố định theo luật. Trong khi đó, khác với dịch vụ
hành chính, dịch vụ của ĐVSN cung ứng có thể cạnh tranh với khu vực tư nhân và cung
ứng theo nhu cầu nên các đơn vị này được phép khai thác và mở rộng nguồn thu từ các
hoạt động sự nghiệp của mình. Đặc điểm khác biệt này cho phép ĐVSN có thể hoạt động
tự chủ tài chính.
ĐVSN có những điểm khác với loại hình doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp phải tuân thủ nguyên tắc hạch toán kinh doanh, hướng tới mục
tiêu tối đa hoá lợi nhuận bằng cách tự bù đắp chi phí và có lãi. Doanh nghiệp phải hoạt
động theo các quy luật thị trường. ĐVSN không hoàn toàn theo cơ chế thị trường và
không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mình. Các ĐVSN được xếp vào khu vực
phi lợi nhuận.
ĐVSN tạo ra những sản phẩm đặc biệt vừa mang tính phục vụ chính trị - xã hội,
vừa mang tính hàng hoá đòi hỏi phải bù đắp chi phí. Với chức năng phục vụ xã hội, sản
phẩm của hoạt động sự nghiệp không thể đo bằng giá trị tiền tệ hữu hình. Những đơn vị
tạo ra sản phẩm đó không thể và càng không hạch toán được lỗ lãi đơn thuần bởi sản
phẩm của nó thuộc chức năng phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. Mặt khác, mỗi sản
phẩm này đều mang trong nó giá trị đã hao phí để tạo ra nó. Để tái sản xuất giản đơn, các
ĐVSN phải thu lại từ ngân sách nhà nước và từ chi trả của người hưởng thụ.
Hiệu quả hoạt động của ĐVSN không đơn thuần đo đếm bằng tiền, mà thường
được tính bằng các giá trị phi tiền tệ. Chính vì thế, việc đánh giá hiệu quả hoạt động của
các ĐVSN thường khó khăn.
1.1.1.2. Phân loại các loại hình đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại ĐVSN.
Thứ nhất, căn cứ vào cấp độ quản lý hành chính, ĐVSN được phân loại thành:
- ĐVSN Trung ương là những ĐVSN gồm các lĩnh vực giáo dục công lập do Bộ
Giáo dục – Đào tạo, các Bộ, ngành ở trung ương quản lý, các đơn vị sự nghiệp trong các
lĩnh vực khác như y tế, văn hoá, thể dục - thể thao…
- ĐVSN địa phương gồm các ĐVSN do chính quyền địa phương thành lập và
quản lý.
Thứ hai, căn cứ vào từng lĩnh vực hoạt động sự nghiệp cụ thể phân loại ĐVSN
gồm:
- ĐVSN giáo dục, đào tạo.
- ĐVSN văn hoá, thông tin.
- ĐVSN thể dục, thể thao
- ĐVSN phát thanh, truyền hình
- ĐVSN y tế
- ĐVSN khoa học công nghệ, môi trường.
- ĐVSN kinh tế (quản lý sửa chữa đê điều, trạm trại…)
- ĐVSN khác.
Thứ ba, căn cứ nguồn thu thì ĐVSN được chia thành hai loại:
- ĐVSN không có thu: là đơn vị được Nhà nước cấp toàn bộ kinh phí để đảm bảo
hoạt động của đơn vị và kinh phí được cấp không hoàn lại trực tiếp. Tiêu biểu cho ĐVSN
loại này là các học viện, trường học của ngành công an, quân đội.
- ĐVSN có thu, loại này gồm hai nhóm như sau:
+ ĐVSN có thu tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên: Là các đơn
vị có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp ổn định, bảo đảm được toàn bộ chi phí hoạt động
thường xuyên, ngân sách nhà nước không phải cấp kinh phí cho hoạt động thường xuyên
của đơn vị.
+ ĐVSN có thu tự đảm bảo một phần kinh phí hoạt động thường xuyên: Là các
đơn vị có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp nhưng chưa tự trang trải toàn bộ chi phí hoạt
động thường xuyên, ngân sách nhà nước phải cấp một phần chi phí cho hoạt động thường
xuyên của đơn vị.
1.1.2. Đặc điểm quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy
Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là một đơn vị đặc biệt. Trường là cơ sở
đào tạo chuyên ngành thuộc Bộ Công an thực hiện nhiệm vụ đào tạo theo chỉ tiêu phân
bổ và được bảo đảm nguồn tài chính theo chế độ bao cấp. Mặt khác, Trường có quyền
thực hiện một số dịch vụ đào tạo ngoài nhiệm vụ chỉ tiêu Nhà nước giao phục vụ nhu cầu
xã hội. Do vậy, xét theo các tiêu chí phân loại ĐVSN, Trường áp dụng đồng thời song
song hai loại hình quản lý, đó là: ĐVSN không có thu và ĐVSN có thu (tự đảm bảo toàn
bộ kinh phí hoạt động thường xuyên).
1.1.2.1. Đơn vị sự nghiệp không có thu
Với bộ máy tổ chức hiện nay của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy gồm 12
đơn vị, trong đó 11 đơn vị là ĐVSN không có thu. Đó là: các bộ môn, phòng quản lý.
Những đơn vị này thực hiện các chức năng của đơn vị sự nghiệp. Các đơn vị này thực
hiện nhiệm vụ được giao theo chỉ tiêu hàng năm theo kế hoạch, bên cạnh đó thực hiện
những nhiệm vụ đột xuất cấp trên giao. Dưới góc độ quản lý tài chính thì những đơn vị
này chủ yếu là hoạt động chi tiêu tài chính, đó là sự chi tiêu một chiều, không thu hồi
được vốn và nguồn thu ở các đơn vị này chỉ có nguồn NSNN.
Đối với những đơn vị này, mọi hoạt động tài chính đều do Phòng Hậu cần của Trường
thực hiện, các đơn vị chỉ có nhiệm vụ phối hợp cùng với Phòng Hậu cần lập kế hoạch tài
chính ( dự toán), sau đó các thủ tục đều do Phòng Hậu cần thực hiện.
1.1.2.2. Đơn vị sự nghiệp có thu
Trung tâm Ứng dụng Khoa học kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy và Đào tạo lái xe
là một trong 12 đơn vị trực thuộc của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy. Theo
Quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an số 559/2000/QĐ-BCA (X13) ngày 30 tháng 6
năm 2000 về chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm Ứng dụng Khoa học kỹ thuật phòng
cháy, chữa cháy và Đào tạo lái xe, trong đó quy định nhiệm vụ của Trung tâm gồm:
Một là: Nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật thuộc lĩnh vực phòng
cháy, chữa cháy phục vụ công tác giảng dạy và đào tạo, bồi dưỡng cảnh sát phòng cháy,
chữa cháy.
Hai là: Tổ chức đào tạo lái xe cho lực lượng cảnh sát phòng cháy, chữa cháy theo
kế hoạch của Bộ Công an và đào tạo lái xe cho các đối tượng khác ngoài xã hội.
Ba là: Phối hợp với các phòng, bộ môn của Trường tổ chức mở các lớp huấn luyện,
bồi dưỡng nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy cho lực lượng phòng cháy, chữa cháy bán
chuyên nghiệp theo sự phân công của Hiệu trưởng Trường.
Bốn là: Nghiên cứu thiết kế, lắp đặt, chuyển giao công nghệ, bảo hành, bảo trì các
thiết bị phòng cháy, chữa cháy phục vụ công tác giảng dạy, học tập và phát triển kinh tế -
xã hội.
Về cơ chế tài chính, Trung tâm là một đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn bộ
kinh phí hoạt động. Trong quá trình hoạt động, Trung tâm được phép ký kết hợp đồng
kinh tế theo các quy định của Nhà nước và của Bộ Công an.
Như vậy, quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy phải tuân
theo cơ chế song hành: đồng thời áp dụng cơ chế ĐVSN không có thu và cơ chế ĐVSN
có thu ( tự đảm bảo toàn bộ kinh phí).
1.2. MỤC TIÊU, NGUYÊN TẮC VÀ NỘI DUNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở
ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.2.1. Mục tiêu quản lý tài chính
Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các ĐVSN liên quan trực tiếp đến hiệu
quả kinh tế - xã hội của các hoạt động sự nghiệp, đến hiệu quả sử dụng các khoản đóng
góp của nhân dân. Nếu tài chính của các ĐVSN được quản lý, giám sát, kiểm tra tốt, sẽ
góp phần hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong khai thác và sử
dụng nguồn lực tài chính công, đồng thời nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn tài
chính của đất nước.
Quản lý tài chính các ĐVSN còn cung cấp thông tin để Nhà nước có các biện pháp
và chính sách phù hợp trong tái cơ cấu hoạt động cung cấp dịch vụ văn hoá, giáo dục, y
tế, thể dục thể thao…trong tương quan với sự cạnh tranh của khu vực tư nhân.
Các mục tiêu quản lý tài chính ĐVSN bao gồm bốn mục tiêu cơ bản.
Một là, làm cho ĐVSN hoạt động có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu đỏi hỏi ngày càng
cao của xã hội về các hoạt động dịch vụ công.
Hai là, tạo động lực khuyến khích các ĐVSN tích cực, chủ động tổ chức hoạt
động hợp lý, xác định số biên chế cần có, sắp xếp, tổ chức và phân công lao động khoa
học, nâng cao chất lượng công việc nhằm sử dụng kinh phí tiết kiệm.
Ba là, nêu cao ý thức trách nhiệm, tăng cường đấu tranh chống các hiện tượng tiêu
cực, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng tài chính.
Bốn là, tạo điều kiện để người lao động trong các ĐVSN phát huy khả năng, sáng
kiến nâng cao chất lượng công tác, tăng thu nhập cho cá nhân và tập thể.
Bốn mục tiêu trên có mối quan hệ gắn kết với nhau trong một hệ thống thống nhất.
Tuy nhiên, mục tiêu ưu tiên hàng đầu là mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của các
ĐVSN.
1.2.2. Nguyên tắc quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
Các ĐVSN quản lý tài chính dựa trên bốn nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, nguyên tắc hiệu quả: Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong quản lý
tài chính nói chung và trong quản lý các ĐVSN nói riêng. Hiệu quả trong quản lý tài
chính thể hiện ở sự so sánh giữa kết quả đạt được trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế
và xã hội với chi phí bỏ ra. Tuân thủ nguyên tắc này, khi tiến hành quản lý tài chính các
ĐVSN, Nhà nước cần quan tâm cả hiệu quả về xã hội và hiệu quả kinh tế. Mặc dù rất khó
định lượng hiệu quả xã hội, song những lợi ích đem lại về xã hội luôn được đề cập, cân
nhắc thận trọng trong quá trình quản lý tài chính công. Nhà nước phải cân đối giữa việc
thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu trên cơ sở lợi ích của quốc gia, của cộng đồng, những
mục tiêu chính trị quan trọng cần phải đạt được trong từng giai đoạn nhất định với định
mức chi hợp lý. Hiệu quả kinh tế là tiêu thức quan trọng để các cá nhân hoặc cơ quan có
thẩm quyền cân nhắc khi xem xét các phương án, dự án hoạt động sự nghiệp khác nhau.
Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế là hai nội dung quan trọng phải được xem xét đồng thời
khi hình thành một quyết định hay một chính sách chi tiêu liên quan đến hoạt động sự
nghiệp.
Thứ hai, nguyên tắc thống nhất: Là thống nhất quản lý tài chính ĐVSN bằng
những văn bản luật pháp thống nhất trong cả nước. Thống nhất quản lý chính là việc tuân
theo một khuôn khổ chung từ việc hình thành, sử dụng, thanh tra, kiểm tra, quyết toán, xử
lý những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện quản lý thu, chi tài chính ở các
ĐVSN. Nguyên tắc thống nhất vẫn phải bảo đảm độ đa dạng, mềm dẻo về thể chế để phát
huy quyền tự chủ của các ĐVSN. Thực hiện nguyên tắc quản lý này sẽ đảm bảo tính
công bằng, bình đẳng trong đối xử với các ĐVSN khác nhau, hạn chế những tiêu cực và
rủi ro trong hoạt động tài chính, nhất là những rủi ro có tính chất chủ quan khi quyết định
các khoản thu, chi.
Thứ ba, nguyên tắc phân cấp: Là nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài chính đối
với các ĐVSN thụ hưởng ngân sách nhà nước. Nguyên tắc phân cấp trong quản lý tài
chính ĐVSN đảm bảo cho các nguồn lực tài chính của từng ĐVSN được quản lý tập
trung trên cơ sở phát huy sáng kiến của các bộ phận. Trên giác độ toàn quốc, các nguồn
tài chính công cũng phải được quản lý tập trung, đồng thời có phân cấp cho các cấp quản
lý thống nhất hơn.
Thứ tư, nguyên tắc công khai, minh bạch: ĐVSN là tổ chức công nên việc quản lý
tài chính các đơn vị này phải đáp ứng yêu cầu chung trong quản lý tài chính công, đó là
công khai, minh bạch trong động viên, phân phối, sử dụng các nguồn lực xã hội, nhất là
nguồn lực tài chính. Thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý sẽ tạo điều kiện cho
cộng đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định về thu, chi tài chính công, hạn chế
những thất thoát và đảm bảo tính hợp lý trong chi tiêu của các ĐVSN, kết quả sẽ làm
tăng hiệu quả hoạt động của các ĐVSN.
1.2.3. Nội dung quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp
Quản lý tài chính ở các ĐVSN được phân chia thành hai mảng rõ rệt: quản lý các
nguồn thu và quản lý sử dụng.
1.2.3.1. Quản lý các phần thu
Tài chính của các ĐVSN hình thành từ các nguồn sau:
- Nguồn thu từ ngân sách nhà nước: đây là nguồn thu của các ĐVSN do ngân sách
nhà nước cấp theo dự toán xác định cho những nhiệm vụ, chương trình mục tiêu đã được
duyệt. Để có nguồn kinh phí ngân sách cấp, các đơn vị phải thực hiện tốt công tác lập kế
hoạch, dự toán theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, các văn bản đặc thù cho từng
ngành, từng lĩnh vực, quy chế được duyệt của đơn vị.
- Nguồn thu có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước (được phép để lại đơn vị từ các
nguồn thu này theo chế độ): các khoản thu từ quyên góp, quà tặng không phải nộp ngân
sách nhà nước theo chế độ.
- Nguồn thu do dân cư chi trả: là nguồn thu của các ĐVSN do người nhận dịch vụ
đóng góp. Nguồn này gồm các khoản sau:
+ Các khoản phí: Phí thực chất là giá cả hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng
phải trả cho người cung cấp khi được hưởng các hàng hoá, dịch vụ do hoạt động sự
nghiệp tạo ra. Nói cách khác, đây là khoản tiền mà người tiêu dùng phải trả trực tiếp cho
người cung cấp. Tùy tính chất và mục đích sử dụng của từng loại hàng hoá, dịch vụ cụ
thể mà Nhà nước quy định mức phí ĐVSN được phép thu.
Phí thường được thu trong các lĩnh vực như: văn hoá - thông tin, giáo dục - đào
tạo, khoa học - công nghệ, y tế, giao thông - vận tải, nông nghiệp, hải quan … các loại
phí này có tên gọi như học phí, viện phí, thuỷ lợi phí, lệ phí giao thông, cầu phà…
+ Các khoản thu sự nghiệp: Thông qua các hoạt động sự nghiệp, các đơn vị ứng
dụng sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ văn hoá, thông tin, khoa học, thể thao, y tế…tạo
ra nguồn thu. Thu sự nghiệp gồm các khoản thu trong các lĩnh vực sau : [14]
i) Thu từ sự nghiệp giáo dục, đào tạo: Thu từ hợp đồng giảng dạy chuyên môn
khoa học kỹ thuật, thu từ kết quả hoạt động sản xuất và ứng dụng khoa học của các đơn
vị trong ngành giáo dục, đào tạo.
ii) Thu từ sự nghiệp y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình: Thu viện phí, dịch vụ
khám chữa bệnh, thu từ bán các sản phẩm phòng, chữa bệnh như các loại vắc xin phòng
bệnh…
iii) Thu từ hoạt động sự nghiệp văn hoá - thông tin: Thu qua các dịch vụ quảng
cáo, thu bán các sản phẩm văn hoá như bản tin, tạp chí, thu từ các hoạt động biểu diễn
nghệ thuật.
iv) Thu từ hoạt động sự nghiệp thể dục - thể thao: Thu tiền bán vé từ hoạt động thi
đấu, biểu diễn, thu từ hợp đồng thuê sân bãi, dụng cụ, công trình thể dục thể thao…
v) Thu từ sự nghiệp nghiên cứu khoa học: Thu từ bán các sản phẩm kết quả hoạt
động sản xuất, nghiên cứu, thử nghiệm, dịch vụ khoa học, thu qua các hợp đồng nghiên
cứu khoa học trong và ngoài nước.
vi) Thu từ sự nghiệp kinh tế: Thu từ dịch vụ điều tra khảo sát, quy hoạch, dịch vụ
kiến trúc, quy hoạch đô thị…
Quản lý các nguồn thu của ĐVSN phải đáp ứng năm yêu cầu sau:
- Các nguồn thu phải được đảm bảo tính quản lý toàn diện cả về hình thức, quy mô
và các yếu tố quyết định số thu. Bởi vì tất cả các hình thức, quy mô và các yếu tố ảnh
hưởng đến số thu đều quyết định số thu tài chính làm cơ sở cho mọi hoạt động của
ĐVSN. Nếu không có tính toàn diện sẽ dẫn đến thất thoát nguồn thu, khoản thu làm ảnh
hưởng đến hiệu quả quản lý tài chính và cả đến hoạt động của ĐVSN.
- Các nguồn thu phải đảm bảo tính công bằng xã hội, có nghĩa là những người có
hoàn cảnh, mức thu nhập bằng nhau phải đóng góp như nhau. Đây là yếu tố thể hiện công
bằng chung cho mọi hoạt động của Nhà nước.
- Các nguồn thu phải đảm bảo yếu tố thực hiện nghiêm túc, đúng đắn các chính
sách, chế độ thu do cơ quan có thẩm quyền ban hành. ĐVSN không được tự ý đặt ra các
khoản thu cũng như mức thu.
- Các nguồn thu phải đảm bảo tính kế hoạch, thu đúng, thu đủ, tổ chức hợp lý quá
trình thu.
- Các nguồn thu phải đảm bảo tính thống nhất trong từng ĐVSN và toàn hệ
thống, điều đó là yêu cầu thích hợp với các đơn vị có nhiều
nguồn thu.
Quy trình quản lý thu thực hiện qua ba bước sau:
Bước một, xây dựng dự toán thu phải dựa vào bốn căn cứ cơ bản :
i) Nhiệm vụ chính trị, xã hội được giao cho đơn vị cũng như các chỉ tiêu cụ thể,
từng mặt hoạt động do cơ quan có thẩm quyền thông báo.
ii) Các văn bản pháp quy hiện hành do Nhà nước quy định.
iii) Số kiểm tra do các cơ quan cấp trên thông báo.
iv) Kết quả phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán thu của các năm trước
và triển vọng của các năm tiếp theo.
Bước hai, thực hiện kế hoạch thu theo dự toán: Dự toán thu là căn cứ quan trọng
trong tổ chức thực hiện thu. Trong quá trình thu, đơn vị phải thực hiện thu đúng đối
tượng, thu đủ và tuân thủ các quy định của Nhà nước để đảm bảo đủ nguồn thu.
Bước ba, quyết toán các khoản thu: Đến cuối kỳ báo cáo hàng năm các đơn vị tổng
hợp, đánh giá chấp hành dự toán thu đã được giao về kết quả thực hiện, vướng mắc tồn
đọng, rút kinh nghiệm trong việc khai thác các nguồn thu, công tác xây dựng dự toán và
tổ chức thu nộp trong thời gian tới, nộp báo cáo cho cơ quan quản lý cấp trên.
1.2.3.2. Quản lý quá trình sử dụng tài chính
Các khoản chi của ĐVSN bao gồm các nội dung sau.
- Chi cho các hoạt động thường xuyên của đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được
cấp trên phê duyệt, cụ thể gồm:
+ Chi trả trực tiếp cho người lao động: Tiền lương, tiền công; các khoản phụ cấp
lương; các khoản trích bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn theo quy
định…
+ Chi hành chính trong đơn vị: Dịch vụ công cộng, điện thoại, công tác phí, thuê
mướn, vật tư văn phòng …
+ Chi hoạt động nghiệp vụ.
+ Chi mua sắm tài sản, sửa chữa tài sản chống xuống cấp.
+ Chi khác: tiếp khách, mua bảo hiểm phương tiện, phí giao thông…
- Chi thực hiện các đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, ngành, chi thực hiện đơn
đặt hàng của Nhà nước, chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có vốn nước ngoài theo quy
định.
- Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ của Nhà nước quy định.
- Chi đầu tư phát triển: chi xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, chi sửa
chữa lớn, chi thực hiện dự án đầu tư theo quy định.
- Chi thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp trên giao cho.
- Các khoản chi khác: đối với các đơn vị sự nghiệp có thu còn có chi cho hoạt
động sản xuất, cung ứng dịch vụ, chi nộp thuế, khấu hao tài sản.
Quản lý chi của ĐVSN phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:
- Đảm bảo đủ nguồn tài chính cần thiết để các ĐVSN hoàn thành các nhiệm vụ
được giao theo đúng đường lối, chính sách, chế độ của Nhà nước. Để thực hiện yêu cầu
này, đòi hỏi các đơn vị cần xác lập được thứ tự ưu tiên cho các khoản chi để bố trí kinh
phí cho phù hợp. Đây chính là yêu cầu đảm bảo nguồn tài chính cho kế hoạch dự toán
chi.
- Quản lý công tác chi phải đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả: Tiết kiệm được
xác định là nguyên tắc hàng đầu của quản lý tài chính. Nguồn lực luôn có giới hạn nhưng
nhu cầu thường không có giới hạn. Do vậy đòi hỏi trong quá trình phân bổ lập kế hoạch
chi phải tính toán sao cho chi phí là thấp nhất mà đạt được kết quả cao nhất.
Đối với các hoạt động sự nghiệp, trong khi nguồn thu hạn hẹp, nhu cầu sử dụng
kinh phí ngày một tăng nhanh, do vậy càng đòi hỏi tính tiết kiệm và hiệu quả trong sử
dụng nguồn kinh phí có hạn. Để đạt được tiết kiệm và hiệu quả trong công tác chi thì yêu
cầu phải xây dựng được kế hoạch, dự toán, xây dựng định mức, phân tích đánh giá tình
hình thực tế để có biện pháp tăng cường quản lý chi trong các ĐVSN.
- Chi đúng định mức, chế độ, tiêu chuẩn.
Nội dung quản lý chi
Trong thực tiễn, các ĐVSN có nhiều biện pháp quản lý chi khác nhau, nhưng
chung nhất có một số biện pháp sau:
- Xây dựng được các định mức chi chuẩn xác. Đây vừa là cơ sở để xây dựng kế
hoạch chi sát, vừa là căn cứ để kiểm soát chi cho các ĐVSN. Như vậy, yêu cầu định mức
chi phải được xây dựng một cách khoa học, đảm bảo theo quy trình từ phân loại đối
tượng; cách thức xây dựng phải là một quá trình chặt chẽ và có cơ sở khoa học. Các định
mức chi phải đảm bảo quy định và đảm bảo phù hợp với tính đặc thù hoạt động của từng
đơn vị. Các định mức xây dựng phải có tính thực tiễn cao, đó chính là phản ánh mức độ
phù hợp của các định mức với nhu cầu kinh phí của các hoạt động. Chỉ khi định mức đạt
được yêu cầu như vậy thì định mức mới trở thành chuẩn mực cho quản lý kinh phí.
- Lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các hoạt động để đảm bảo với tổng số chi có hạn
nhưng khối lượng công việc vẫn hoàn thành với chất lượng cao. Để đạt được điều này
phải có phương án phân phối và sử dụng kinh phí khác nhau. Trên cơ sở đó lựa chọn
phương án tối ưu cho cả quá trình lập dự toán, phân bổ và sử dụng kinh phí.
- Xây dựng quy trình cấp phát các khoản chi chặt chẽ, hợp lý nhằm hạn chế tối đa
những tiêu cực nảy sinh trong quá trình cấp phát, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm
soát chi của các cơ quan có thẩm quyền.
- Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm toán nhằm ngăn chặn những biểu
hiện tiêu cực trong việc sử dụng nguồn kinh phí của Nhà nước, đồng thời qua công tác
này phát hiện những bất hợp lý trong chế độ, chính sách nhằm bổ sung hoàn thiện chúng.
1.2.3.3. Quy trình quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
Quy trình quản lý tài chính bao gồm 3 bước rõ rệt.
- Lập dự toán chi:
Lập dự toán chi là khâu khởi đầu và quan trọng trong quản lý chi ngân sách nhà
nước, nó có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả của khâu chấp hành, kế toán
và quyết toán chi ngân sách nhà nước. Khi lập dự toán phải dựa trên các căn cứ sau:
+ Chủ trương của Nhà nước về duy trì và phát triển các hoạt động sự nghiệp trong
từng giai đoạn nhất định. Dựa vào căn cứ này sẽ giúp cho việc xây dựng dự toán chi tài
chính ở ĐVSN có cái nhìn tổng quát về những mục tiêu, nhiệm vụ mà đơn vị phải hướng
tới trong năm, từ đó xác lập được các hình thức, phương pháp phân phối nguồn vốn đảm
bảo tiết kiệm và đạt hiệu quả cao.
+ Các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các chỉ tiêu có liên
quan đến việc cấp phát kinh phí chi ngân sách nhà nước kỳ kế hoạch mà cấp trên giao
cho các ĐVSN. Đây chính là việc cụ thể hoá các chủ trương của Nhà nước trong từng
giai đoạn thành các chỉ tiêu cho kỳ kế hoạch. Khi dựa trên căn cứ này để xây dựng dự
toán chi phải thẩm tra, phân tích tính đúng đắn, hiện thực, tính hiệu quả của các chỉ tiêu
thuộc kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó có kiến nghị điều chỉnh lại các
chỉ tiêu kế hoạch cho phù hợp.
+ Khả năng nguồn kinh phí có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên theo kỳ
kế hoạch. Muốn dự đoán được khả năng này, ĐVSN phải dựa vào cơ cấu thu ngân sách
nhà nước kỳ báo cáo và mức tăng trưởng của các nguồn thu kỳ kế hoạch, từ đó thiết lập
mức cân đối tổng quát giữa khả năng nguồn kinh phí và nhu cầu chi ngân sách nhà nước.
+ Kết quả phân tích, đánh giá tình hình quản lý và sử dụng kinh phí chi ngân sách
nhà nước kỳ báo cáo sẽ cung cấp các thông tin cần thiết cho việc lập dự toán.
+ Quá trình lập dự toán chi ngân sách nhà nước được tiến hành theo ba bước cơ
bản sau:
Bước một, căn cứ vào dự toán sơ bộ về thu, chi ngân sách nhà nước kỳ kế hoạch
để xác định các định mức chi tiêu tổng hợp dự kiến ngân sách sẽ phân bổ cho mỗi đối
tượng. Trên cơ sở đó hướng dẫn các đơn vị tiến hành lập dự toán kinh phí. Bước này còn
được gọi là xác định và giao số kiểm tra từ cơ quan tài chính hoặc cơ quan chủ quản cho
ĐVSN
Bước hai, dựa vào số kiểm tra và văn bản hướng dẫn lập dự toán kinh phí, các đơn
vị dự toán tiến hành lập dự toán kinh phí của mình để gửi đơn vị dự toán cấp trên hoặc cơ
quan tài chính. Tuỳ theo mức độ phân cấp về tài chính, cơ quan tài chính ở mỗi cấp có
nhiệm vụ xét duyệt, tổng hợp dự toán kinh phí các đơn vị trực thuộc để hình thành dự
toán chi ngân sách trình cơ quan tài chính cấp trên thẩm duyệt.
Bước ba, cần căn cứ vào dự toán chi ngân sách nhà nước đã được cơ quan có thẩm
quyền thông qua, cơ quan tài chính sau khi xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp sẽ chính
thức phân bổ dự toán chi ngân sách nhà nước cho mỗi đơn vị.
- Chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước:
Chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước là khâu thứ hai trong chu trình quản lý
ngân sách nhà nước. Trong quá trình sử dụng tài chính theo dự toán cần dựa trên ba căn
cứ sau:
+ Định mức chi được duyệt của từng chỉ tiêu trong dự toán. Đây là căn cứ mang tính
quyết định nhất trong chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước.
+ Khả năng nguồn kinh phí có thể dành cho nhu cầu ngân sách nhà nước trong
mỗi kỳ báo cáo. Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước luôn bị giới hạn bởi khả năng
huy động của các nguồn thu. Mặc dù các khoản chi thường xuyên đã được ghi trong dự
toán nhưng khi số thu không đảm bảo vẫn phải cắt giảm một phần nhu cầu chi tiêu. Đây
là một trong những giải pháp thiết lập lại sự cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước
trong quá trình chấp hành dự toán.
+ Chế độ, chính sách chi ngân sách nhà nước hiện hành. Đây là căn cứ mang tính
pháp lý cho công tác tổ chức chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước, bởi lẽ tính hợp
lý của các khoản chi sẽ được xem xét dựa trên cơ sở các chính sách, chế độ Nhà nước
đang có hiệu lực thi hành. Để làm được điều đó các chính sách, chế độ phải phù hợp với
thực tiễn.
Để đạt được mục tiêu cơ bản của việc tổ chức chấp hành dự toán chi, cần áp dụng
các biện pháp đảm bảo phân phối, cấp phát và sử dụng nguồn vốn hợp lý, tiết kiệm như
sau:
Thứ nhất, xây dựng hướng dẫn cụ thể, rõ ràng cho các đơn vị thi hành. Việc xây
dựng hướng dẫn phải dựa trên cơ sở dự toán chi ngân sách đã được duyệt và các chế độ,
chính sách hiện hành.
Thứ hai, đối với mỗi đơn vị, mỗi loại hình hoạt động và nguồn kinh phí hoạt động
cần tổ chức các hình thức cấp phát vốn thích hợp, trên cơ sở đó cần hướng dẫn trình tự
cấp phát thống nhất trong suốt quá trình thực hiện.
Thứ ba, hướng dẫn các đơn vị thực hiện tốt chế độ hạch toán kế toán áp dụng cho
các đơn vị, sao cho sự hình thành nguồn kinh phí và sử dụng kinh phí phải được hạch
toán đúng, đủ, chính xác và kịp thời. Trên cơ sở đó đảm bảo việc quyết toán kinh phí
được nhanh, chính xác, đồng thời cung cấp các tài liệu có tính chuẩn mực cao cho các cơ
quan thẩm quyền xét duyệt.
Thứ tư, trong quá trình chấp hành dự toán chi, cơ quan tài chính cần xem xét khả năng đảm
bảo tài chính cho nhu cầu chi ngân sách nhà nước để có biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm đảm
bảo cân đối trong quá trình chấp hành dự toán.
Thứ năm, tuân thủ chặt chẽ quá trình kiểm tra, giám sát việc nhận và sử dụng kinh
phí tại từng đơn vị để đảm bảo đúng dự toán, định mức tiêu chuẩn của Nhà nước, góp
phần nâng cao tính hiệu quả và tiết kiệm trong quản lý chi ngân sách.
- Quyết toán chi ngân sách nhà nước:
Quyết toán chi ngân sách nhà nước là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý tài
chính. Đó là quá trình kiểm tra, rà soát, chỉnh lý lại các số liệu đã được phản ánh sau một
kỳ chấp hành dự toán để phân tích, đánh giá kết quả chấp hành dự toán, rút ra những kinh
nghiệm và bài học cần thiết cho kỳ chấp hành dự toán tiếp theo. Do vậy, trong quá trình
quyết toán các khoản chi ngân sách phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
+ Lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và đúng thời gian cho các cơ quan có thẩm
quyền xét duyệt theo chế độ quy định.
+ Nội dung, số liệu trong báo cáo phải đảm bảo tính chính xác, trung thực. Trình
tự nội dung các báo cáo tài chính phải theo đúng nội dung trong dự toán được duyệt và
theo đúng mục lục ngân sách nhà nước quy định.
+ Báo cáo quyết toán của các đơn vị không được để xảy ra tình trạng quyết toán
chi lớn hơn thu.
1.3. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI
CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
1.3.1. Chủ trương, chính sách của Nhà nước về quản lý tài chính trong các
đơn vị sự nghiệp được đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động
Trong những năm trước đây, các ĐVSN được Nhà nước đảm bảo toàn bộ chi phí
hoạt động thực hiện theo cơ chế quản lý tài chính theo chế độ kế toán hành chính sự
nghiệp.
Từ sau năm 2002 đến nay đối với đơn vị sự nghiệp có thu được áp dụng Nghị định
10/2002/NĐ-CP, đối với ĐVSN không có thu vẫn chưa có sự thay đổi về cơ chế quản lý
tài chính.
Đến nay, đối với ĐVSN không có thu cũng được quy định rõ trong Nghị định số
43/2006/NĐ-CP. Chủ trương của Chính phủ về đổi mới cơ chế tài chính cho các ĐVSN đa
dạng, cả ĐVSN có thu và ĐVSN không có thu, cụ thể:
Về nguồn tài chính: gồm hai nguồn chính đó là
- Nguồn do nhà nước cấp, gồm:
+ Kinh phí bảo đảm hoạt động thường xuyên thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
giao, được cấp trên trực tiếp giao, trong phạm vi dự toán được cấp có thẩm quyền giao.
+ Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị không
phải là tổ chức khoa học và công nghệ)
+ Kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức.
+ Kinh phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.
+ Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao.
+ Kinh phí thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy
định.
+ Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài
sản cố định phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt trong phạm vi dự toán hàng năm.
+ Vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài được cấp có thẩm
quyền phê duyệt.
+ Kinh phí khác.
- Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp:
+ Thu từ phần được để lại từ số thu phí, lệ phí cho đơn vị sử dụng theo quy định
của Nhà nước.
+ Thu từ hoạt động dịch vụ.
+ Thu khác
- Nguồn viện trợ, tài trợ, quà biếu, quà tặng, cho theo quy định của pháp luật.
- Nguồn khác theo quy định của pháp luật.
Về nội dung chi bao gồm
- Chi thường xuyên.
+ Chi theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao.
+ Chi hoạt động phục vụ cho thực hiện công việc, dịch vụ thu phí, lệ phí.
+ Chi cho các hoạt động dịch vụ.
- Chi không thường xuyên:
+ Chi thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ.
+ Chi thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ và viên chức.
+ Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia.
+ Chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có vốn nước ngoài.
+ Chi thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao.
+ Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do Nhà nước quy định.
+ Chi đầu tư xây dựng cơ bản, sửa chữa lớn tài sản thực hiện các dự án đã được
phê duyệt.
+ Chi thực hiện các dự án từ nguồn viện trợ ngoài nước.
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Về chế độ tự chủ về nguồn thu, mức thu:
- ĐVSN được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thu phí, lệ phí phải thực hiện
thu đúng, thu đủ theo mức thu, đối tượng thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định.
- Đối với những hoạt động dịch vụ theo hợp đồng với các tổ chức và cá nhân trong
và ngoài nước, đơn vị được quyết định các khoản thu, mức thu cụ thể, theo nguyên tắc
bảo đảm đủ bù đắp chi phí và có tích luỹ.
Về chế độ tự chủ về sử dụng nguồn tài chính
Căn cứ vào mức giao và khả năng tài chính, đối với các khoản chi không thường
xuyên ngoài quy định, Thủ trưởng đơn vị được quyết định một số mức chi quản lý, chi
hoạt động nghiệp vụ, nhưng tối đa không vượt quá mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định.
- Căn cứ vào tính chất công việc, Thủ trưởng đơn vị được quyết định phương thức
khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc.
- Quyết định đầu tư xây dựng, mua sắm mới và sửa chữa lớn tài sản thực hiện theo
quy định của pháp luật.
Về tiền lương, tiền công và thu nhập
Ngoài tiền lương theo cấp bậc và chức vụ do Nhà nước quy định, căn cứ vào kết
quả tài chính, đơn vị được xác định mức chi trả thu nhập trong năm của đơn vị tối đa
không quá 2 lần quỹ lương cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định.
1.3.2. Chủ trương, chính sách của Nhà nước về quản lý tài chính trong các
đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp có
thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động
Những năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế và thực hiện cải cách hành
chính, trong lĩnh vực tài chính cũng có nhiều giải pháp nhằm lành mạnh hoá nền tài chính
quốc gia, nâng cao chất lượng quản lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn lực của
đất nước, thực thi các biện pháp đảm bảo xã hội. Trong đó, phải kể đến Nghị định 10 với
những chuyển biến mạnh mẽ, từng bước tạo điều kiện cho các đơn vị nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động, nâng cao chất lượng dịch vụ và cải thiện đời sống cho cán
bộ, viên chức trên cơ sở sử dụng kinh phí ngân sách một cách tiết kiệm, hiệu quả.
Nghị định 10/2002/NĐ-CP về chế độ tài chính áp dụng cho ĐVSN có thu nhằm
giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các ĐVSN là một bước quan trọng nhằm đổi
mới cơ chế quản lý, giao quyền tự chủ thực sự cho các ĐVSN trong việc tổ chức nhiệm
vụ, sử dụng lao động, tăng cường huy động và quản lý thống nhất tài chính nhằm mở
rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động sự nghiệp, khuyến khích và tạo điều kiện cho
các ĐVSN đảm bảo trang trải chi phí hoạt động, nâng cao thu nhập và hiệu quả công tác
cho đội ngũ cán bộ, viên chức.
Về phạm vi, đối tượng áp dụng nghị định 10/2002/NĐ-CP chỉ áp dụng cho ĐVSN
có thu tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên và ĐVSN có thu tự đảm bảo
một phần chi phí hoạt động thường xuyên.
Về quyền hạn, trách nhiệm của ĐVSN có thu:
Quyền hạn:
- Được tự chủ tài chính, đối với phần kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước
cấp và nguồn thu sự nghiệp được để lại đơn vị sử dụng, đơn vị được chủ động bố trí kinh
phí để thực hiện nhiệm vụ, được điều chỉnh dự toán thu, chi trong phạm vi nguồn tài
chính được sử dụng cho phù hợp với tình hình thực tế, đối với ĐVSN có thu đảm bảo
một phần chi phí được ổn định kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp theo định
kỳ 3 năm.
- Thủ trưởng đơn vị được quyết định định mức chi quản lý, chi nghiệp vụ cao hơn
mức chi do Nhà nước quy định tuỳ theo nội dung và hiệu quả công việc trong phạm vi
nguồn tài chính được sử dụng. Kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động và các
khoản thu sự nghiệp nếu chưa chi hết trong năm thì được chuyển sang năm sau để tiếp
tục sử dụng. Riêng vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ
hoạt động sự nghiệp vẫn thực hiện theo dự án và kế hoạch hàng năm.
- Được vay vốn tín dụng để mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp,
tổ chức sản xuất cung ứng dịch vụ và tự chịu trách nhiệm trả nợ.
- Được chủ động sử dụng biên chế được giao, sắp xếp và quản lý lao động phù
hợp với khối lượng công việc và khả năng tài chính của đơn vị.
Trách nhiệm:
- Đơn vị sự nghiệp hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ có thu chịu trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.
- Tài sản cố định sử dụng vào sản xuất, cung ứng dịch vụ phải thực hiện trích khấu
hao như các doanh nghiệp nhà nước, tiền khấu hao tài sản cố định và thu do thanh lý tài
sản thuộc nguồn ngân sách được để lại đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới trang
thiết bị.
- Mức thu lệ phí, phí và tỷ lệ nguồn thu được để lại đơn vị sử dụng phải thực hiện
theo quy định của Nhà nước. Riêng thu từ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ, Thủ
trưởng đơn vị được quyền quyết định mức thu theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và
có tích luỹ.
Về tiền lương và phân phối thu nhập:
- Đối với ĐVSN có thu tự đảm bảo chi phí: Hệ số điều chỉnh tăng thêm mức lương
tối thiểu không quá hai lần so với mức tiền lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định.
- Đối với ĐVSN bảo đảm một phần chi phí: Hệ số điều chỉnh tăng thêm mức
lương tối thiểu không quá hai lần so với mức tiền lương tối thiểu chung do Nhà nước quy
định.
Khi Nhà nước điều chỉnh các quy định về tiền lương, nâng mức lương tối thiểu hoặc
thay đổi định mức, chế độ, tiêu chuẩn chi ngân sách nhà nước, đơn vị sự nghiệp tự trang trải
các khoản chi tăng thêm theo chính sách chế độ mới.
- Hàng năm, sau khi trang trải toàn bộ chi phí hoạt động và thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ với ngân sách nhà nước theo quy định, số chênh lệch giữa phần thu và phần chi tương
ứng, đơn vị được lập các quỹ: Khen thưởng, Phúc lợi và Phát triển hoạt động sự nghiệp.
Tuy mới triển khai thực hiện Nghị định 10 được 3 năm nhưng đã có tác động tích
cực, thể hiện ở các điểm sau:
Một là, các đơn vị đều tích cực khai thác, mở rộng nguồn thu. Tình hình tài chính
các ĐVSN có thu được cải thiện mà vẫn thực hiện đúng quy định chung về mức thu.
Hai là, thông tin về tài chính, nhân sự và tổ chức bộ máy của các đơn vị được
cung cấp đầy đủ và minh bạch hơn.
Ba là, chất lượng nguồn nhân lực của các đơn vị được nâng cao, thúc đẩy các đơn
vị sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả, yếu tố chất lượng trong việc
tuyển dụng cán bộ và bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo được quan tâm.
Bốn là, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động sự nghiệp công, nâng
cao chất lượng và đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp cho xã hội.
Năm là, việc giao quyền tự chủ cho ĐVSN có thu theo Nghị định 10 là bước quan
trọng nhằm phân biệt rõ chức năng nhiệm vụ của cơ quan, làm thay đổi phương thức
quản lý đối với ĐVSN có thu.
Tuy vậy, sau ba năm thực hiện Nghị định 10 đã bộc lộ những khó khăn bất cập
cần khắc phục:
- Mới có quy định tự chủ về tài chính đối với ĐVSN có thu trong khi phần lớn
ĐVSN không có nguồn thu chưa có cơ chế thực hiện quyền tự chủ.
- Cơ chế tự chủ này mới thu hút được các đơn vị có nguồn thu lớn, thực tế chỉ có
những đơn vị có nguồn thu lớn mới tích cực thực hiện cơ chế này.
- Mới quy định tự chủ về tài chính, còn tự chủ về nhiệm vụ, về tổ chức bộ máy
chưa được quy định nên chưa phát huy được quyền tự chủ thực sự của các đơn vị.
Nhằm khắc phục những hạn chế của Nghị định 10, ngày 25 tháng 4 năm 2006
Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ về tổ chức
bộ máy biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, đó là Nghị định số
43/2006/NĐ-CP.
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP có bốn mục tiêu, là:
- Trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho ĐVSN trong việc tổ chức công việc,
sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ
được giao; phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho
xã hội; tăng nguồn thu nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho người lao động.
- Thực hiện chủ trương xã hội hoá trong việc cung cấp dịch vụ cho xã hội, huy
động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, từng bước
giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước.
- Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với ĐVSN, Nhà nước vẫn quan
tâm đầu tư để hoạt động sự nghiệp ngày càng phát triển; bảo đảm cho các đối tượng
chính sách xã hội; đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn
được cung cấp dịch vụ theo quy định ngày càng tốt hơn.
- Phân biệt rõ cơ chế quản lý nhà nước đối với ĐVSN với cơ chế quản lý nhà nước
đối với cơ quan hành chính nhà nước.
Việc thực hiện quyền tự chủ theo Nghị định 43/CP dựa trên bốn nguyên tắc sau:
Một là, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đối với hoạt động sản xuất hàng hoá,
cung cấp dịch vụ phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, phù hợp với khả năng
chuyên môn và tài chính của đơn vị.
Hai là, thực hiện công khai, dân chủ theo quy định của pháp luật.
Ba là, thực hiện quyền tự chủ phải gắn với tự chịu trách nhiệm trước cơ quan quản lý
cấp trên trực tiếp và trước pháp luật về những quyết định của mình; đồng thời chịu sự kiểm
tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Bốn là, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân theo
quy định của pháp luật.
Điểm mới của Nghị định số 43 là quy định rõ, cụ thể tất cả các loại hình ĐVSN
gồm: ĐVSN có thu tự đảm bảo chi phí, ĐVSN đảm bảo một phần chi phí và ĐVSN
không có thu.
Việc thực hiện Nghị định 43 còn rất mới mẻ, đòi hỏi các ĐVSN phải năng động, sáng
tạo, tự chủ, trong đó có nội dung phải đổi mới quản lý tài chính.
1.3.3. Yêu cầu hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy,
Chữa cháy
Theo yêu cầu về đổi mới cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2010 giao quyền
tự chủ tài chính được coi là một nội dung quan trọng.
Thực hiện chủ trương đổi mới quản lý các cơ sở giáo dục, đào tạo, đối với Trường
Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, thực hiện quyết định số 203/1999/QĐ-TTg, Trường Đại
học Phòng cháy, Chữa cháy, quy định chức năng nhiệm vụ của Trường Đại học Phòng
cháy, Chữa cháy, xác định rõ chức năng nhiệm vụ của Trường là đào tạo cán bộ phòng
cháy, chữa cháy phục vụ cho nhu cầu của xã hội.
Lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy là một lĩnh vực đặc biệt, về mặt quản lý nhà
nước là lĩnh vực có điều kiện. Ngoài ra, đây là lĩnh vực đòi hỏi phát triển khoa học, kỹ
thuật và phải nâng cao trình độ, tăng cường hợp tác quốc tế. Việc đổi mới đào tạo trong
giai đoạn hiện nay đòi hỏi quản lý trong lĩnh vực tài chính phải được đổi mới để đáp ứng
nhu cầu hợp tác cũng như yêu cầu quản lý và sử dụng tài chính.
Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là ĐVSN có cơ cấu tổ chức gồm cả
ĐVSN có thu và ĐVSN không có thu, do vậy phải hoàn thiện cơ chế quản lý cho đúng quy
định của Nhà nước và đảm bảo tính tự chủ, phát huy được thế mạnh của đơn vị, mặt khác
cung cấp các dịch vụ đào tạo và dịch vụ khác theo chức năng, nhiệm vụ của Trường.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
2.1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
2.1.1. Quá trình phát triển
Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy ra đời và phát triển gắn liền với sự nghiệp
cách mạng vẻ vang của Đảng, nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự và phát triển kinh tế xã hội.
Quá trình đó được đánh dấu bởi mốc phát triển sau:
Bắt đầu trong những năm 1960 - 1963, Trường Công an Trung ương (nay là Học
viện An ninh) đã tổ chức đào tạo được 3 khoá cảnh sát phòng cháy, chữa cháy. Đây là
những khoá học đầu tiên về nghịêp vụ phòng cháy, chữa cháy sau ngày giải phóng ở
nước ta.
Tháng 9 năm 1963, Bộ Công an ra Quyết định số 1226/CA-QĐ thành lập “Tổ giáo
dục phòng cháy, chữa cháy” trực thuộc Khoa Cảnh sát, Trường Công an Trung ương. Ngày
30/12/1965 Bộ Công an ra Quyết định số 155A/CA-QĐ thành lập “Phân hiệu Cảnh sát nhân
dân”. Tổ chức, bộ máy của Phân hiệu có 4 khoa và 4 tổ, trong đó có “Khoa Cảnh sát Phòng
cháy, Chữa cháy”. Ngày 20/9/1971 Bộ Công an ra Quyết định số 1099/QĐ-CA thành lập
“Phân hiệu Cảnh sát Phòng cháy, Chữa cháy” trực thuộc Trường Cảnh sát nhân dân.
Ngày 2/9/1976 Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra Quyết định số 5062/NV-QĐ về việc tách
Phân hiệu Cảnh sát Phòng cháy, Chữa cháy ra khỏi Trường Cảnh sát nhân dân và thành
lập “ Trường Hạ sĩ quan cảnh sát Phòng cháy, Chữa cháy”. Sau khi thực hiện nhiệm vụ
đào tạo được 7 khoá trung cấp phòng cháy, chữa cháy, đến 19/6/1984 Hội đồng Bộ
trưởng ra Quyết định số 90/QĐ-HĐBT thành lập Trường Cao đẳng Phòng cháy, Chữa
cháy. Thực hiện nhiệm vụ đào tạo theo nhu cầu mới kể từ khi thành lập trường đến năm
1999, Trường đã đào tạo 23 khoá trung học và 15 khoá cao đẳng. Đến ngày 14/10/1999
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 203/1999/QĐ-TTg “ Về việc thành lập
Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy” trực thuộc Bộ Công an. Trường Đại học Phòng
cháy, Chữa cháy có nhiệm vụ: đào tạo cán bộ phòng cháy, chữa cháy có trình độ đại học
và các trình độ thấp hơn; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về phòng cháy, chữa cháy;
nghiên cứu khoa học về phòng cháy, chữa cháy phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội. Để hoàn thiện chức năng nhiệm vụ của Trường, ngày 25/2/2000 Bộ trưởng Bộ Công
an ký Quyết định số 171/2000/QĐ-BCA(X13) về “ Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ
máy của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy”. Quy mô đào tạo 1000 học viên. Tổ
chức bộ máy của nhà trường có 12 đơn vị (6 bộ môn, 5 phòng và 1 trung tâm).
Như vậy, lịch sử phát triển của Trường phải tình từ năm 1976. Trong 30 năm
(1976 - 2006), nhà trường đã và đang đào tạo gồm: 30 khoá trung học (2510 học viên);
15 khoá cao đẳng (975 học viên); 6 khoá đại học chính quy, 6 khoá đại học tại chức
(1160 học viên). Ngoài ra, Trường còn đào tạo cho hai nước Lào và Căm pu chia với
tổng số 102 học viên. Trường còn tổ chức đào tạo các lớp nghiệp vụ ngắn hạn trình độ
thấp hơn trung học cho hàng nghìn học viên các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội trong cả
nước.
Đến nay, đội ngũ cán bộ, giáo viên của trường đã lớn mạnh cả về số lượng và chất
lượng. Tổng số cán bộ, giáo viên, công nhân viên là 182 đồng chí, trong đó có 9 tiến sĩ,
22 thạc sĩ, 103 đại học và cao đẳng. Trường đã thực hiện biên soạn đầy đủ giáo trình
phục vụ cho đào tạo đại học, thực hiện nghiên cứu thành công nhiều đề tài cấp bộ, cấp cơ
sở. Cơ sở vật chất của trường hiện nay đã được xây dựng vào loại hoàn thiện nhất trong
khối các trường công an nhân dân thuộc Bộ Công an.
Về cơ sở hạ tầng phục vụ cho dạy và học, Trường đã xây dựng được: 8.896m2
phòng học, 2.120 m2 phòng thí nghiệm, 840 m2 thư viện, 3.850 m2 hội trường, nhà hành
chính, nhà hiệu bộ, 6.103 m2 nhà ở cho sinh viên, 1.243 m2 nhà ăn , 380 m2 bệnh xá,
1.988 m2 khu thể thao.
2.1.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa
cháy
Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về giáo dục đào tạo, được hưởng các chính sách, chế độ do Nhà nước ban
hành áp dụng cho hệ thống các trường đại học.
Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy có chức năng đào tạo cán bộ phòng cháy,
chữa cháy trình độ đại học và các trình độ thấp hơn; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về
phòng cháy, chữa cháy; nghiên cứu khoa học về phòng cháy, chữa cháy phục vụ cho yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội.
Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy có những nhiệm vụ:
Một là, căn cứ vào đường lối giáo dục của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những
quy định của Chính phủ, của Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo, tổ chức đào tạo theo
chỉ tiêu, kế hoạch của Bộ Công an.
Hai là, đào tạo, đào tạo lại cán bộ có trình độ đại học và các trình độ thấp hơn về
phòng cháy, chữa cháy; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho lực lượng làm công tác
phòng cháy, chữa cháy trong ngành Công an, các ngành, đoàn thể và tổ chức kinh tế xã
hội theo quy chế văn bằng của Nhà nước.
Ba là, nghiên cứu đề xuất hoặc phối hợp với cục Cảnh sát Phòng cháy, Chữa cháy
và các đơn vị liên quan đề xuất Bộ Trưởng Bộ Công an ban hành mục tiêu, chương trình
đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành phòng cháy, chữa cháy cho từng bậc học, hệ học và tổ
chức thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng đã được Bộ ban hành.
Bốn là, trực tiếp biên soạn và phối hợp với Cục Cảnh sát Phòng cháy, Chữa cháy,
các đơn vị có liên quan biên soạn, nghiệm thu và đưa vào sử dụng các loại giáo trình, tài
liệu phục vụ chuyên ngành đào tạo và huấn luyện.
Năm là, thực hiện nhiệm vụ tuyển sinh, chiêu sinh, đào tạo và cấp bằng, chứng
chỉ, điều động học viên ra trường theo chỉ tiêu, kế hoạch của Bộ Công an. Tổ chức thực
hiện các chế độ, quy định của Bộ Công an về chế độ chính sách đối với cán bộ, giáo viên,
học viên.
Sáu là, tổ chức thực hiện các chế độ, điều lệnh, điều lệ quy định của Bộ Công an,
quản lý và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, giáo viên, công nhân viên và học
viên theo phân cấp của Bộ trưởng.
Bẩy là, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho đội
ngũ cán bộ, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục theo tiêu chuẩn chức danh đã được Bộ quy
định. Nghiên cứu đề xuất Bộ trưởng quyết định công nhận giáo viên kiêm nhiệm của
trường, mời các chuyên gia, cán bộ khoa học ngoài ngành tham gia giảng dạy, nghiên
cứu khoa học theo nhiệm vụ của Trường; cử giáo viên của Trường tham gia giảng dạy
các môn học về phòng cháy chữa cháy cho các trường trong và ngoài ngành Công an.
Tám là, chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu các đề tài
khoa học giáo dục, khoa học kỹ thuật, nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ
thuật về phòng cháy, chữa cháy vào công tác giảng dạy, học tập. Tham gia chữa cháy khi
Bộ Công an trưng dụng.
Chín là, quản lý tư liệu giáo khoa và tổ chức thông tin khoa học nghiệp vụ phòng
cháy, chữa cháy phục vụ công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học về phòng
cháy, chữa cháy.
Mười là, thực hiện các mặt công tác hậu cần, quản lý cơ sở vật chất, thiết bị kỹ
thuật, đồ dùng dạy học phục vụ công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học và sinh
hoạt của cán bộ, giáo viên, học viên.
Mười một là, thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và
nghiên cứu khoa học công nghệ về phòng cháy, chữa cháy theo quy định của Bộ trưởng.
Mười hai là, thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng cục Xây dựng lực lượng Công
an nhân dân và Bộ trưởng Bộ Công an giao.
2.1.3. Mô hình, bộ máy quản lý tài chính của Trường Đại học Phòng cháy,
Chữa cháy
Mô hình, tổ chức bộ máy hiện nay của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy gồm
Ban Giám hiệu và 12 đơn vị Bộ môn, Phòng, Trung tâm cụ thể gồm:
1. Bộ môn Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
2. Bộ Môn Khoa học cơ bản và ngoại ngữ
3. Bộ môn Pháp luật, nghiệp cụ công an, quân sự, võ thuật, thể dục, thể thao
4. Bộ môn Tự động và phương tiện kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy
5. Bộ môn Phòng cháy
6. Bộ môn Chữa cháy
7. Phòng Đào tạo
8. Phòng Quản lý nghiên cứu khoa học, tư liệu giáo khoa và thư viện
9. Phòng Quản lý học viên
10. Phòng Xây dựng lực lượng
11. Phòng Hậu cần
12. Trung tâm Ứng dụng Khoa học kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy và Đào tạo lái
xe chữa cháy
Mỗi bộ môn, phòng, trung tâm do Chủ nhiệm bộ môn, Trưởng phòng, Giám đốc
trung tâm phụ trách, có từ 1 đến 2 Phó chủ nhiệm bộ môn, Phó trưởng phòng, Phó giám
đốc trung tâm giúp việc.
Mô hình, bộ máy quản lý tài chính của trường Đại học phòng cháy, chữa cháy
được sắp xếp như sau:
Chú thích: Quan hệ theo bộ máy quản lý hành chính
Quan hệ theo chế độ quản lý tài chính
Bộ máy cán bộ làm công tác kế toán – tài chính hiện nay có 9 người, trong đó có 6
người trình độ đại học, 02 trung cấp và 1 sơ cấp.
2.2. THỰC TRẠNG NGUỒN TÀI CHÍNH CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC
PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
2.2.1. Quản lý quá trình huy động các nguồn tài chính
2.2.2.1. Nguồn ngân sách nhà nước
Bộ Công an là đơn vị quản lý và cung cấp nguồn tài chính chủ yếu cho các trường
thuộc Bộ Công an. Theo thống kê tại bảng 2.1 cho thấy, nguồn tài chính do ngân sách
nhà nước cấp cho Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong ba năm ( 2003 - 2005)
như sau:
Bảng 2.1: Nguồn ngân sách nhà nước cấp cho Trường Đại học Phòng cháy,
Chữa cháy 3 năm 2003-2005
Ban giám hiệu
Phó hiệu trưởng
Phụ trách hậu cần
Phòng hậu cần
Trung tâm ứng dụng
KHKT PCCC
Tổ kế toán Tổ kế toán
Các bộ môn, phòng
Đơn vị tính: triệu đồng
TT Nội dung
Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Số
tiền
%
Số
tiền
% Số tiền %
Tổng các nguồn NSNN 24.327 100,00 20.780 100,00 21.619 100,00
1 NSNN cấp cho chi
lương, chi hành chính.
11.696 48,07 11.505 55,40 15.378 71,1
0
2 NSNN cấp cho đào tạo 2.272 9,33 2.471 11,90 2.009 9,30
3 NSNN cấp cho mua
sắm thiết bị dạy học
859 3,53 654 3,15 940 4,35
4 NSNN cấp cho XDCB 9.500 39,05 6.150 29,50 3.292 15,2
0
Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính năm 2003, 2004, 2005 của Trường Đại học
Phòng cháy, Chữa cháy
Nguồn thu chủ yếu của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là do nguồn NSNN
cấp, nguồn này bao gồm chi thường xuyên, chi không thường xuyên như: XDCB, chi cho mua
sắm trang thiết bị dạy học.
Qua nghiên cứu thực tế tại Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy và một số
trường trong Bộ Công an cho thấy việc phân bổ NSNN cho các trường còn chưa thống
nhất, bất hợp lý, cụ thế:
Thứ nhất, việc phân bổ NSNN cho các trường công an hiện nay chủ yếu dựa trên
phân bổ theo đầu học sinh. Như vậy trường nào có chỉ tiêu đào tạo hàng năm lớn hơn thì
được phân bổ kinh phí lớn hơn, trường nào có chỉ tiêu ít thì được phân bổ ít hơn, ngoài
khoản chi lương, học bổng, các khoản chi hành chính khác cũng phân chia theo tỷ lệ trên.
Cách phân chia như trên có ưu điểm là tạo sự công bằng tương đối để các trường có thể
hoàn thành được những nhiệm vụ hàng năm do Bộ Công an giao. Tuy vậy, việc phân chia
theo định mức có hạn chế là: trong khi chi phí đơn vị đối với mỗi trường không bằng
nhau thì việc phân bổ theo chỉ tiêu học sinh hàng năm là không công bằng. Lấy vị dụ, chi
phí đơn vị đối với các trường chuyên ngành kỹ thuật thường cao hơn nhiều so với trường
chuyên ngành xã hội. Trong thực tế, do tính chất đào tạo của một số trường mang tính
đặc thù riêng, nhất là trường khoa học kỹ thuật cần nhiều trang thiết bị chuyên môn nhiều
hơn, vật tư tiêu tốn trong thực hành, thí nghiệm nhiều hơn, số lượng học sinh trong một
đơn vị lớp không thể nhiều như các trường chuyên ngành xã hội… Do vậy, đối với các
trường khoa học kỹ thuật như Đại học Phòng cháy, Chữa cháy cần có định mức phân bổ
kinh phí cao hơn các trường chuyên ngành xã hội. Đối với Trường Đại học Phòng cháy,
Chữa cháy, với cơ sở vật chất phục vụ đào tạo hiện nay chỉ tính riêng các phòng thí
nghiệm, thực nghiệm đã có 10 phòng, ngoài ra còn có các phòng học chuyên ngành và
khu tập luyện, với 200 tiết học thực hành trên một khoá học cần phải tiêu tốn nhiên liệu,
vật tư, hoá chất, phương tiện…Mặt khác do nhiều giờ thực hành, thực nghiệm, tập luyện
nên không thể ghép lớp với quy mô lớn được như khi giảng lý thuyết. Do vậy với cách thức
phân bổ kinh phí theo định mức chung thì việc đảm bảo chi của Trường Đại học Phòng cháy,
Chữa cháy khó khăn hơn so với các trường khác trong Bộ Công an.
Thứ hai, NSNN cấp cho mua sắm các trang thiết bị phục vụ dạy học hàng năm do
Vụ Đào tạo của Bộ Công an phân bổ duyệt cấp cũng theo nguyên tắc bình quân, tính theo
quân số các trường. Do đó, với lượng kinh phí cấp bình quân như vậy, đối với Trường
Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, rất khó triển khai mua sắm. Bởi vì, kinh phí này rất
thấp, bình quân hàng năm chưa được một tỷ đồng, trong khi giá trị thiết bị thí nghiệm
phục vụ đào tạo rất cao, chỉ cần một phòng học tin học, phòng học ngoại ngữ, hoặc một
vài thiết bị thí nghiệm về phòng cháy, chữa cháy, phải tập trung kinh phí của nhiều năm
mới mua được. Đó là còn chưa kể đến việc mua sắm phương tiện chuyên dùng : một xe ô
tô chuyên dùng của Nhật bản loại rẻ nhất cũng trên hai tỷ đồng. Trong khi đó, các trường
đào tạo chuyên ngành xã hội có nhu cầu thiết bị phục vụ đào tạo ít hơn, vật tư tiêu tốn
trong quá trình đào tạo ít hơn, giá trị thiết bị dạy học không cao, nhưng do số lượng học
sinh lớn cho nên các trường đó không gặp khó khăn nhiều.
Thứ ba, nguồn NSNN cấp cho đầu tư xây dựng cơ bản còn quá ít và phân bổ cũng
theo tính bình quân. Hàng năm, mỗi đơn vị được phê duyệt đầu tư một đến hai dự án. Do
vậy, phải hàng chục năm mới có điều kiện hoàn chỉnh về cơ sở vật chất. Trong khi đó, định
mức đầu tư cho thực hiện xây dựng cơ bản của Bộ Công an lại thấp so với mặt bằng xây
dựng cơ bản chung. Vì vậy, các công trình được duyệt thường kinh phí rất hạn hẹp, khó điều
chỉnh trong quá trình thi công, phần nào ảnh hưởng tới công năng và chất lượng sử dụng
công trình. Mặt khác, đầu tư thiết bị kỹ thuật theo dự án có quy trình xét duyệt kéo dài, trong
khi đó trang thiết bị thí nghiệm phòng cháy, chữa cháy hầu như chỉ có nguồn nhập ngoại, sản
xuất đơn chiếc, do vậy đến khi dự án được duyệt thì trang thiết bị đó đã thay đổi về công
nghệ, rất khó thực hiện nội dung mua sắm trang thiết bị của dự án.
Thứ tư, nguồn NSNN cấp cho sửa chữa lớn hầu như không có vì ngoài kinh phí
cho xây dựng cơ bản thì kinh phí cho sửa chữa rất nhỏ, không đủ đáp ứng nhu cầu sửa
chữa cải tạo cơ sở hạ tầng. Trong thực tế, các công trình cơ sở hạ tầng chỉ năm đến mười
năm là phải sửa chữa vừa và sửa chữa lớn. Đặc biệt đối với các trường, các công trình
nhà ở, nhà học tập của học sinh do công suất sử dụng cao, lưu lượng đào tạo lớn, khả
năng xuống cấp nhanh hơn các công trình dân dụng khác.
Thứ năm, trong thực tế nhu cầu sử dụng kinh phí theo định mức tăng lên hàng
năm, nhưng tổng kinh phí hàng năm tăng không đáng kể, do vậy trong việc cân đối sử
dụng kinh phí gặp nhiều khó khăn. Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, giá
mua các trang thiết bị tiêu hao trong quá trình thực hành thực nghiệm tăng, tiền lương,
tiền nuôi quân tăng, lượng học sinh theo chiều hướng tăng, nhưng tổng kinh phí được cấp
tăng không đáng kể, do đó các khoản chi cần thiết khác ngày càng giảm như: công tác phí
giảm làm ảnh hưởng đến thực tế của giáo viên, học viên, kinh phí điện nước giảm: trong
khi nhu cầu sử dụng, tiêu chuẩn định mức sử dụng tăng trong thực tế điều kiện sinh hoạt
của giáo viên, học viên càng khó khăn hơn.
Thứ sáu, nguồn NSNN đầu tư cho xây dựng cơ bản, dự án mua sắm trang thiết
bị thí nghiệm của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy ba năm gần đây có tăng,
nhưng sau khi đầu tư ban đầu thì muốn sử dụng phải có vật tư, nhiên liệu…để thực
hành, thực nghiệm… trong khi thực tế kinh phí thường xuyên trong ba năm qua hầu
như không được điều chỉnh, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng các trang thiết bị đã
được đầu tư. Như vậy có sự mất cân đối giữa chi đầu tư và chi thường xuyên, làm
giảm hiệu quả
đầu tư.
2.2.2.2. Nguồn ngoài ngân sách nhà nước
Trong bối cảnh đổi mới tài chính công hiện nay, đặc biệt là ở các cơ sở giáo dục,
đào tạo, đa dạng hoá nguồn kinh phí là một hướng đi trung tâm của chiến lược đổi mới
chính sách tài chính, nhằm đảm bảo khả năng bền vững về mặt tài chính của các cơ sở đại
học. Việc Nhà nước cho phép thu học phí, mở rộng các loại hình đào tạo, thực hiện một
số chức năng ngoài đào tạo như ứng dụng khoa học kỹ thuật, tham gia cùng với các
ngành đào tạo nghề… đã tạo điều kiện cho các trường đại học tăng nguồn thu ngoài
NSNN. Nguồn tài chính từ bên ngoài đã và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với sự
nghiệp phát triển của các trường đại học. Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa
cháy, được phép của Chính phủ, các ngành Giao thông công chính, Bộ Công an, Bộ Khoa
học – Công nghệ…, từ năm 2000 đến nay, Trường đã triển khai các hoạt động đào tạo
ngoài chỉ tiêu do Bộ Công an giao; thực hiện các hợp đồng ứng dụng khoa học kỹ thuật
phòng cháy, chữa cháy vào các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội; tiếp tục thực hiện nhiệm
vụ đào tạo lái xe ô tô do Sở Giao thông công chính Hà Nội và Cục Đường bộ - Bộ Giao
thông - Vận tải cấp phép. Kết quả tài chính của các hoạt động thể hiện tại bảng 2.2 cho
thấy nguồn thu ngoài NSNN không ngừng tăng và chiến tỷ lệ khá lớn trong tổng nguồn
thu của cả đơn vị, cụ thể:
Bảng 2.2: Tổng hợp nguồn thu ngoài NSNN trong 3 năm 2003-2005
Đơn vị tính: triệu đồng
TT Tên nguồn thu
Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Số thu
Tỷ lệ
%
Số thu
Tỷ lệ
%
Số thu
Tỷ lệ
%
Tổng số thu ngoài
NSNN
8.693 100,00 8.653 100,00 7.895 100,00
1 Ứng dụng KHKT
PCCC
5.779 66,47 4.066 46,90 3.933 49,81
2 Đào tạo lái xe 2.909 33,46 4.477 51,64 3.771 47,76
3 Khác 91 0,07 110 1,26 191 2,41
Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2003, 2004, 2005 - Trung tâm UDKHKT và đào tạo
lái xe chữa cháy - Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy
Sau đây là phân tích lần lượt các nguồn này.
* Nguồn học phí
Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy triển khai hợp đồng đào tạo, liên kết
đào tạo các cấp học, bậc học mới được thực hiện 10 năm từ 1996 đến nay, các năm trước đây
chủ yếu đào tạo cho Quân đội theo chỉ tiêu do Bộ Công an giao hàng năm. Bắt đầu từ năm
1996 trường đã thực hiện các hợp đồng đào tạo cho các ngành kinh tế như: xăng dầu, dầu
khí, khai thác than, hàng không…; cho các ngành cơ sở ngành dịch vụ du lịch như: khách
sạn, trung tâm văn hoá, giải trí, trung tâm triển lãm, thương mại...; các khu công
nghiệp…Tuy vậy, đến nay cấp đào tạo cũng mới chỉ dừng lại ở bậc trung học và thấp hơn,
phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của các ngành và cơ sở. Nguồn thu học phí từ đào tạo, liên kết
đào tạo tuy đã có, song đến nay hầu như mới thu theo phương thức tính toán lấy thu bù chi,
hầu như không có nguồn tích lũy tái đầu tư phát triển.
Thực tế trong những năm gần đây cho thấy triển vọng nguồn thu này sẽ tăng cao
do nhu cầu ngày càng tăng về đào tạo phòng cháy, chữa cháy của các ngành kinh tế, văn
hoá, xã hội…Mặt khác, nếu các cơ quan chức năng cho phép Trường được chủ động đào
tạo các hệ đa dạng hơn thì phần thu học phí còn có thể tăng đáng kể.
* Nguồn thu do thực hiện các hợp đồng ứng dụng khoa học kỹ thuật phòng cháy,
chữa cháy vào thực tế các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội.
Thực tế, trong năm năm từ 2001-2005 cho thấy, nguồn thu từ thực hiện các hợp
đồng thiết kế, lắp đặt hệ thống phòng cháy, chữa cháy cho các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã
hội đã được thực hiện và có số lượng tăng đáng kể và chiếm tỷ lệ 50% so với tổng nguồn
thu ngoài NSNN.
Thực tế quá trình thực hiện các hợp đồng thiết kế, lắp đặt thiết bị phòng cháy chữa
cháy trong thời gian qua cho thấy một số vấn đề như sau:
Một là, qua kết quả hoạt động và qua khảo sát thị trường trong lĩnh vực này cho
thấy nhu cầu thị trường này còn rất lớn và rất mới, nhất là trong giai đoạn phát triển kinh
tế hiện nay. Nếu mở rộng đầu tư cho hoạt động này thì nguồn thu sẽ ngày càng lớn hơn.
Hai là, ngoài đóng góp tăng nguồn thu thì các hoạt động này còn góp phần nâng
cao năng lực thực hành của cán bộ, giáo viên trong thực hiện ứng dụng kết quả lý thuyết
vào thực tiễn. Mặt khác, các công trình được nhà trường thi công lại chính là những cơ sở
cho học viên tham quan, khảo sát thực tế để nâng cao kiến thức thực tế cho học sinh.
Ba là, thực hiện các hoạt động này góp phần cùng lực lượng phòng cháy, chữa
cháy chuyên nghiệp làm tốt hơn chức năng quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy
và làm hạn chế nạn cháy xảy ra trong thực tế, góp phần làm giảm bớt áp lực của nhu cầu
tăng quá nhanh hiện nay về thiết kế, thi công, bảo hành, bảo trì hệ thống thiết bị phòng
cháy, chữa cháy.
Bốn là, một số dịch vụ có thế mạnh về nhân lực và trang thiết bị của Trường Đại
học Phòng cháy, Chữa cháy chưa được khai thác vì nhiều lý do, trong đó có những dịch
vụ cần được cấp phép như: tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát, kiểm định thiết bị an toàn
phòng cháy, chữa cháy. Nếu các dịch vụ này được thực hiện thì về mặt tài chính sẽ tăng
nguồn thu, vì đây là lợi thế tuyệt đối của nhà trường.
* Nguồn thu từ đào tạo lái xe
Nguồn thu từ dịch vụ đào tạo lái xe ô tô, mô tô chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng
nguồn thu ngoài NSNN. Nguồn thu này rất ổn định và có mức tăng đáng kể hàng năm.
Thực tế hoạt động đào tạo lái xe ô tô, mô tô cho thấy một số vấn đề sau:
Một là, cầu thị trường về đào tạo lái xe ô tô, mô tô hiện nay đang ở mức rất cao,
đối với Trung tâm đào tạo của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, trong ba năm
2003-2005 chỉ đáp ứng được 50% số lượng người ghi danh học và sát hạch cấp giấy phép
lái xe ô tô, mô tô. Trong nhiều năm tới, nhu cầu này vẫn còn tăng và thị trường chưa thể
đáp ứng được cầu.
Hai là, với năng lực hiện nay của cơ sở, cần được tăng về chỉ tiêu đào tạo hiện nay
lên gấp đôi, vì về đội ngũ giáo viên, phương tiện ô tô, cơ sở vật chất khác, khả năng quản
lý, điều hành… đều có thể đáp ứng được với quy mô gấp đôi hiện nay. Nhưng trong
nhiều năm nay, chỉ tiêu cho phép vẫn chưa được tăng, trong khi đó nhu cầu người học
ngày càng tăng.
Ba là, để đáp ứng yêu cầu về cơ sở vật chất của một cơ sở đào tạo lái xe chuyên
nghiệp, thì cơ sở cần phải chuẩn hóa một số nội dung sau:
- Đội ngũ giáo viên dạy lái phải thực sự được chuẩn hoá về tiêu chuẩn: số lượng,
chất lượng.
- Phương tiện ô tô dạy lái phải được đảm bảo đa dạng về chủng loại, nâng cao chất
lượng, nhất là những phương tiện mới phù hợp với thị trường ô tô hiện nay.
- Cần có kế hoạch xây dựng bãi tập, trường thi chuẩn theo quy định của Bộ Giao
thông - Vận tải.
Bốn là, với chức năng đào tạo lái xe chữa cháy hiện nay thì chỉ tiêu được giao rất
hạn chế, mỗi năm chỉ khoảng 50 học viên, trong khi đó lực lượng, phương tiện đào tạo lái
xe ô tô của trường khá đầy đủ, dẫn đến lãng phí không hiệu quả trong sử dụng phương
tiện. Trong khi đó, chỉ tiêu đào tạo lái xe tải, xe du lịch cho cảnh sát giao thông lại rất lớn
mà các cơ sở đào tạo của các trường trong ngành công an không thể đáp ứng. Điều đó
cho thấy sự điều tiết trong đào tạo lái xe ô tô trong lực lượng công an chưa thật hợp lý,
cần có điều chỉnh để tận dụng hết khả năng của trường cũng như tăng nguồn thu từ hoạt
động này.
Năm là, chi phí đào tạo lái xe ô tô trong một số năm gần đây tăng lên do nhiều yếu
tố, nhất là về giá xăng dầu, giá chi phí cho phương tiện ô tô tăng lên, trong khi đó học phí do
Bộ Giao thông - Vận tải điều chỉnh không kịp thời và chưa phù hợp làm cho cơ sở đào tạo
rất khó khăn trong quá trình đào tạo.
* Các nguồn thu khác
Trong thực tế hiện nay Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy còn một số nguồn
thu khác như cho thuê mặt bằng kinh doanh, một số hoạt động dịch vụ trông giữ xe, căng
tin - dịch vụ…tuy vậy số thu này chiếm tỷ lệ rất nhỏ và có xu hướng ngày càng giảm đi.
2.2.2. Xu hướng thay đổi cơ cấu nguồn thu
Từ số liệu khảo sát tài chính tại Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, có thể
thấy rõ sự thay đổi của cơ cấu nguồn tài chính theo bảng sau:
Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy
giai đoạn 2003-2005
Đơn vị tính %
TT Nội dung
Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Số thu % Số thu % Số thu %
1 Tổng nguồn thu 33.038 100,00 29.449 100,00 29.514 100,00
2 Số thu từ NSNN 24.327 73,63 20.780 70,56 21.619 73,24
3 Số thu ngoài NSNN 8.711 26,36 8.669 29,43 7.895 26,75
Nguồn: Báo cáo tài chính 2003,2004,2005 của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa
cháy
Phân tích cơ cấu nguồn tài chính có một số vấn đề nhận xét sau:
Một là, nguồn ngoài NSNN chiếm tỷ trọng bình quân khoảng 27,5% so với nguồn
thu từ NSNN, mặt khác tỷ lệ này rất ổn định trong thời gian ba năm 2003-2005. Điều này
chứng tỏ khả năng tự chủ tài chính đối với một số hoạt động của Trường Đại học Phòng
cháy, Chữa cháy khả thi hơn các trường khác trong Bộ Công an. Kết quả huy động tối đa
các nguồn thu phục vụ công tác đào tạo nói riêng và các hoạt động của Trường Đại học
Phòng cháy, Chữa cháy nói chung là rất tốt và đã góp phần đảm bảo các hoạt động chi.
Hai là, nguồn thu ngoài NSNN ở mức đáng kể chứng tỏ nếu được tự chủ nhiều
hơn nữa trong các mặt công tác của Trường thì khả năng tăng thu là có thực và không chỉ
dừng ở mức lấy thu bù chi mà còn có tích luỹ, mở rộng và tăng thu nhập cho cán bộ, giáo
viên và học viên. Kết quả thu cũng chứng tỏ bên cạnh thực hiện chức năng đào tạo theo
kế hoạch được giao, Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy còn sử dụng được cả năng
lực đội ngũ cán bộ, giáo viên, trang thiết bị cơ sở vật chất hiện có để tăng nguồn thu.
Ngoài mục đích về lợi nhuận, đối với các hoạt động dịch vụ phòng cháy, chữa cháy còn
góp phần nâng cao trình độ, năng lực thực tiễn của cán bộ, giáo viên và học viên của
Trường.
Ba là, trước mắt hai nguồn thu từ đào tạo lái xe và thiết kế, lắp đặt hệ thống phòng
cháy, chữa cháy đều có xu hướng tăng, nhưng về lâu dài nguồn thu từ thiết kế, lắp đặt hệ
thống phòng cháy, chữa cháy sẽ tăng và chiếm tỷ lệ cao hơn nguồn thu từ đào tạo lái xe,
vì nó gắn với thế mạnh, năng lực hiện có của Trường và nhu cầu ngày càng tăng của thị
trường. Đối với nguồn thu từ đào tạo (học phí) cũng có xu hướng tăng lên trong thời gian
tới vì năng lực, quy mô đào tạo phải được nâng lên thì mới đáp ứng được nhu cầu đào tạo
không chỉ cho lực lượng phòng cháy, chữa cháy của Bộ Công an mà còn cả cho các
ngành kinh tế, văn hoá, xã hội.
2.3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI
HỌC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
2.3.1. Công tác lập dự toán thu chi
Lập dự toán ngân sách thu chi của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là quá
trình cân đối, phân tích, đánh giá giữa nhu cầu chi và khả năng nguồn tài chính huy động
được, từ đó xác định việc đáp ứng nhu cầu chi tiêu của đơn vị để làm căn cứ điều hành
việc thu chi trong năm của đơn vị.
Theo luật NSNN, dự toán thu chi ngân sách của các trường đại học công lập được
lập theo đúng chế độ hiện hành, gồm hai phần dự toán thu và dự toán chi. Dự toán chi
được lập theo đúng mục lục ngân sách cho từng nguồn. Dự toán chi phần NSNN được
lập chi tiết còn là căn cứ để cấp phát ngân sách sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt. Dự toán thu căn cứ vào chỉ tiêu phân bổ của cơ quan có thẩm quyền, định mức
phân bổ để tính nguồn thu từ NSNN. Các nguồn thu khác ngoài NSNN được dự toán theo
các nguyên tắc thông thường.
Trình tự lập dự toán thu, chi của đơn vị như sau: căn cứ vào chỉ tiêu tuyển sinh
được giao, trong đó có chỉ tiêu được NSNN đảm bảo, hướng dẫn xây dựng kế hoạch của
cơ quan chủ quản, định mức kinh phí cho một sinh viên. Ngoài ra còn căn cứ vào các nhu
cầu khác như về chương trình mục tiêu, đầu tư XDCB, giáo trình…để làm căn cứ lập dự
toán. Đối với các khoản thu chi phát sinh ngoài nguồn NSNN, đơn vị dựa vào các tiêu
chuẩn, định mức của Nhà nước, của đơn vị quy định cho từng khoản chi.
Quá trình lập dự toán thu, chi hiện nay đã chặt chẽ hơn trước, về cơ bản đã phản
ánh được cả nguồn NSNN và nguồn ngoài NSNN. Thông qua công tác lập dự toán, các
Bộ môn, Phòng, Trung tâm trong trường đã có sự phối hợp để xây dựng kế hoạch thu chi,
xây dựng dự toán của đơn vị. Tuy vậy qua dự toán do đơn vị lập và dự toán được phê
duyệt, vẫn còn có các tồn tại sau:
Thứ nhất, đối với những khoản NSNN cấp theo định mức thì các đơn vị lập rất
chuẩn theo định mức. Những khoản cấp phát cho chương trình mục tiêu, XDCB, mua
sắm trang thiết bị dạy học… thuộc những kinh phí không thường xuyên thì trường lập dự
toán vượt so với dự toán được phê duyệt, vì tâm lý sợ bị cắt xén khi duyệt của các cơ quan có
thẩm quyền. Đây là vấn đề mang tính phổ biến trong dự toán và cấp phát NSNN nói chung
cần khắc phục.
Thứ hai, đối với các nguồn thu ngoài NSNN, đơn vị lập rất sơ sài, mang tính chiếu
lệ, không có chi tiết. Nếu so với số thực đạt được trong năm kế hoạch thường thấp hơn
nhiều.
Thứ ba, dự toán hiện nay lập vừa thừa lại vừa thiếu. Thừa ở chỗ quá chi tiết theo “
mục”. Nhìn vào dự toán được lập có thể thấy được tổng quỹ lương của trường là bao
nhiêu nhưng lại không thấy được lương chi cho giảng viên, chi cho quản lý là bao nhiêu,
nguồn lương chi cho khoá đào tạo chính quy, tại chức khác là bao nhiêu để từ đó cấp chủ
quản có thể quản lý và phê duyệt, trên cơ sở đó giúp các đơn vị có định hướng quản lý
tiết kiệm ngay từ khi lập dự toán. Mặt khác, dự toán lập cho khoản tiền lương, tiền công,
phụ cấp hiện nay thiếu căn cứ khoa học vì chỉ dựa vào số cán bộ giảng dạy và số cán bộ
quản lý của trường. Trong khi đó quỹ lương không chỉ phụ thuộc vào đội ngũ giảng viên,
cán bộ hiện có mà còn phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ thỉnh giảng, hợp đồng…
Những tồn tại trên có nguyên nhân xuất phát từ chỗ, công tác dự toán tài chính
trong Trường thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, dự toán vẫn chủ yếu do Phòng
Hậu cần của Trường lập, do vậy không tính toán đầy đủ và phản ánh hết các công việc
của các bộ phận, do vậy thiếu chính xác.
2.3.2. Công tác chấp hành dự toán thu-chi
2.3.2.1. Công tác chấp hành dự toán thu
* Nguồn NSNN
Chấp hành dự toán chính là quá trình giải ngân. Căn cứ vào dự toán được duyệt,
các đơn vị lập dự toán theo quý, tháng, làm căn cứ để tiếp nhận kinh phí hàng tháng,
hàng quý. Nguồn NSNN hiện nay được cấp qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, các đơn vị
phải gửi dự toán được phê duyệt ra Kho bạc Nhà nước nơi mở tài khoản để theo dõi quản
lý việc cấp phát.
Thực hiện Luật NSNN, đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, lập dự
toán và được cấp phát theo 17 “ mục”. Việc tiếp nhận kinh phí và chi tiêu theo “ mục” là
quy định bắt buộc được Kho bạc Nhà nước giám sát. Điều này có thuận lợi cho các đơn
vị thực hiện đúng theo kế hoạch được lập, ít có tình trạng phát sinh. Tuy vậy, dự toán
được lập, cấp phát, chi trả theo nhiều “ mục” và các “ mục” có nội dung chưa thực sự rõ
ràng cũng gây khó khăn cho Trường trong việc giải ngân. Đối với Bộ Công an để khắc
phục tình trạng này, đến hết tháng 10 hàng năm, các đơn vị được quyền điều chỉnh “
mục” một lần. Việc cho phép này cũng đã góp phần vào việc sử dụng kinh phí hợp lý
hơn, hiệu quả hơn trước đây.
Như vậy, có thể đi đến kết luận rằng việc xác định quá chi tiết các “ mục” trong
khoản cấp phát đã làm hạn chế khả năng vận dụng linh hoạt nguồn tài chính, vừa thừa lại
vừa thiếu nguồn, hiệu quả sử dụng kinh phí giảm sút. Các khoản ngân sách cấp vào cuối
năm cho các “ mục” không điều chuyển được thường được các trường tiếp nhận và sử
dụng một cách lãng phí vì không thể chuyển sang năm sau được.
* Nguồn ngoài NSNN
Nếu so với nguồn NSNN thì việc quản lý thu từ nguồn ngoài NSNN không bị ràng
buộc bởi hệ thống mục lục ngân sách và không bị kiểm soát chặt chẽ bởi hệ thống các cơ
quan nhà nước.
Các khoản thu học phí, lệ phí được cấp biên lai thu tiền theo mẫu do Bộ Tài chính
phát hành, chế độ quản lý được thực hiện theo Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày
16/1/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu.
Đánh giá chung cho thấy, công tác quản lý đối với các nguồn tài chính ngoài
NSNN trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, việc nắm được nguồn thu
ngoài NSNN đã giúp cho trường chủ động hơn trong chi tiêu, góp phần tăng thu nhập, cải
thiện điều kiện làm việc cho cán bộ, giảng viên. Tuy vậy công tác quản lý các nguồn thu
ngoài NSNN còn những tồn tại. Có thể phân tích hai tồn tại chính sau:
Thứ nhất, đối với các khoản thu học phí của các lớp tại chức liên kết, ngành
ngoài… định mức thu học phí chưa nhất quán hàng năm. Thực tế, định mức này chưa sát,
nếu tính toán kỹ thì mức học phí đang thu chỉ đủ chi trả tiền giờ giảng còn các chi phí
khác rất hạn chế. Bên cạnh đó, nhiều lớp mở liên kết với các địa phương vẫn còn tình
trạng trực tiếp thu, sau đó chi ngay rồi mới làm thủ tục lấy thu bù chi về Tài vụ của
trường. Việc làm này là không phù hợp với chế độ hiện hành, làm giảm chức năng giám
đốc, kiểm tra của tài chính. Mặt khác việc thu học phí của một số lớp ngắn hạn thường
thanh toán hợp đồng bằng tiền mặt do vậy việc kiểm soát chặt chẽ thu - chi của kế toán
rất hạn chế.
Thứ hai, các khoản thu của các hợp đồng thiết kế, lắp đặt hệ thống phòng cháy
chữa cháy thường thực hiện rất chậm, kéo dài, làm cho tình trạng quyết toán không gọn theo
năm. Trong thực tế, có những hợp đồng thực hiện xong 3 năm vẫn chưa thanh toán xong.
Đến khi thanh toán thì giá trị thực của hợp đồng đã bị thay đổi do trượt giá… Có nhiều hợp
đồng vi phạm quy chế quản lý tài chính nhưng chưa thực hiện phạt được trường hợp nào.
2.3.2.1. Công tác chấp hành dự toán chi
* Chi lương, tiền công và các khoản có tính chất lương
Đối với bộ phận là đơn vị sự nghiệp không có thu:
Đây là phần chi trả lương cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên, sinh hoạt phí cho
học sinh. Khoản chi này thường chiếm tỷ trọng lớn trong khoản NSNN cấp. Trong 3 năm
2003-2005, tỷ lệ này dao động trong khoảng 40% -50%.
Theo chế độ tài chính hiện hành, các khoản chi cho cán bộ, giáo viên được chi trả
theo cấp hàm của lực lượng công an. Một số khoản chi như trả tiền giảng dạy ngoài định
mức giờ chuẩn (vượt giờ định mức) được thực hiện theo từng học kỳ và theo quy định trả
vượt giờ của Bộ Công an, tuy vậy khoản chi này thường không lớn. Đối với các lớp mở
theo dạng liên kết thì giáo viên được trả trực tiếp theo giờ thực tế thực hiện cũng theo quy
định của Bộ Công an.
Trong khoản chi lương hiện nay của trường còn có khoản chi lương áp dụng cho
các đối tượng hợp đồng xác định thời gian: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng (ngắn hạn), nhưng
trên thực tế, những đối tượng này có thời hạn làm việc thực tế trên 1 năm (đúng ra phải
được hưởng mức lương cho đối tượng hợp đồng dài hạn). Đến nay, Bộ Công an vẫn chưa
có điều chỉnh về đối tượng hợp đồng này. Điều đó đã làm cho người lao động về hình
thức vẫn là hợp đồng xác định thời gian, nhưng trong thực tế đã hợp đồng với đơn vị liên
tục nhiều năm. Điều đó làm cho người lao động rất thiệt thòi. Bởi vì, những đối tượng
này không được nâng lương theo thời gian, không được tham gia đóng bảo hiểm theo quy
định của bảo hiểm xã hội. Theo các quy định của Luật Lao động và Bảo hiểm xã hội, sử
dụng người lao động và chi trả lương như vậy là không đúng, cần phải sửa đổi.
Đối với bộ phận là đơn vị sự nghiệp có thu: Việc chi trả lương và các khoản có
tính chất lương hiện nay chưa thực sự thống nhất, một phần do đối tượng, trình độ lao
động… khác nhau và chưa có sắp xếp theo công việc hợp lý mà chủ yếu làm công tác
hành chính, trừ một số vị trí yêu cầu có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ.
Hiện nay hệ thống quy định chi lương theo ngạch bậc đối với đơn vị sự nghiệp có thu
chưa có quy định cụ thể nên mức chi lương trong 3 năm 2003-2005 đối với ĐVSN có
thu trên thực tế cao hơn ĐVSN là 1,5 lần. Tuy vậy, một số trường hợp lương kỹ thuật,
mức chi lương cao hơn nhiều lần so với lương ở ĐVSN không có thu. Tình hình này
đòi hỏi phải có định mức, chế độ được quy định theo Nghị định 43/CP.
* Chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định
Các khoản chi đầu tư XDCB và mua sắm tài sản cố định thuộc khoản chi không
thường xuyên nhưng lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng chi hàng năm. Có những khoản
chi cho một dự án XDCB cũng bằng hoặc lớn hơn khoản chi thường xuyên cả năm.
Để quản lý đầu tư XDCB , Nhà nước đã có nhiều chế độ, quy định về quản lý đầu
tư, từ khâu lập dự án đến thực hiện, kết thúc dự án. Tuy vậy trong quá trình áp dụng, dưới
góc độ quản lý tài chính, ở Truờng Đại học Phòng cháy, Chữa cháy vẫn còn có những
hạn chế sau:
Thứ nhất, các dự án XDCB tuy thực hiện đấu thầu theo quy định nhưng chủ yếu
vẫn là đấu thầu hạn chế. Tình trạng thiếu khách quan trong đấu thầu vẫn còn xảy ra.
Trong khâu theo dõi thi công, đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy và nhiều
đơn vị trong lực lượng Công an hiện rất thiếu cán bộ kỹ thuật, do vậy việc giám sát, theo
dõi thi công rất hạn chế, dẫn đến chất lượng công trình còn chưa cao. Trong quá trình
thực hiện các dự án, Bộ Công an đã cho phép thuê tư vấn giám sát để theo dõi thi công,
nhưng trong thực tế chất lượng giám sát chưa thực sự đạt yêu cầu, điều này cũng là
nguyên nhân làm cho chất lượng công trình bị ảnh hưởng.
Thứ hai, việc thực hiện hồ sơ hoàn công và quyết toán công trình XDCB thường
rất chậm. Nguyên nhân chủ yếu là do nhà thầu trong quá trình thực hiện không tuân thủ
đúng quy định, hồ sơ thiếu, sai…dẫn đến quá trình hoàn thiện rất lâu. Bên cạnh đó, khi
xong hồ sơ nộp cho cơ quan duyệt quyết toán lại phải chờ đợi rất lâu. Từ hai nguyên
nhân trên đã làm ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân của nguồn vốn.
Thứ ba, đối với các dự án mua sắm thiết bị thường thực hiện rất khó khăn vì thủ
tục xét duyệt rất chậm. Nhiều dự án đến khi được duyệt danh mục thì hết hàng. Thiết
bị mua sắm thường chưa được quan tâm đúng mức, do vậy chất lượng thiết bị, hiệu
quả sử dụng còn thấp. Mặc khác, do kinh phí dành cho mua sắm thiết bị, tài sản cố
định rất ít, lại cấp theo năm, do vậy làm cho hệ thống thiết bị không đồng bộ, sự kết
nối, tương tác và hiệu quả sử dụng kém.
Thứ tư, kinh phí đầu tư cho chuyển giao công nghệ hiện nay còn rất ít và mang
tính hình thức. Đối với thiết bị nhập ngoại, khi chuyển giao công nghệ thì có thành lập bộ
phận tập huấn chuyển giao công nghệ nhưng nội dung đi khảo sát, tập huấn chủ yếu là
tham quan, đối tượng được chuyển giao cũng chưa đúng thành phần. Do vậy hiệu quả
khai thác sử dụng thiết bị là khâu yếu nhất sau khi dự án hoàn thành.
Thứ năm, sau khi dự án hoàn thành, đưa vào sử dụng thì kinh phí đầu tư để duy trì
hoạt động của trang thiết bị hầu như chưa được tính toán đến. Đối với Trường Đại học
Phòng cháy, Chữa cháy, có rất nhiều thiết bị được mua sắm nhưng nếu sử dụng thì chi
phí nhiên liệu, nguyên liệu… rất cao, do vậy ít khi sử dụng, nếu có sử dụng thì cũng chỉ
phục vụ tham quan là chính, còn mục đích dành cho đào tạo, thực nghiệm không đạt. Đây
cũng chính là phần yếu kém cần chấn chỉnh.
Thứ sáu, trong quá trình lập dự án đầu tư, có một số trang thiết bị nếu đưa vào sử
dụng cần một số giấy phép điều kiện như: các máy móc thiết bị kiểm định chất lượng
thiết bị, hàng hoá, thiết bị kiểm định độ an toàn của các thiết bị…nếu không được cấp
giấy phép thì các máy móc này không được hoạt động, hoạt động đầu tư cho thiết bị này
không có hiệu quả. Điều này cho thấy khi lập, thẩm duyệt dự án cần đánh giá khả năng
khai thác sử dụng của những thiết bị này để có thể cho phép thực hiện.
Thứ bẩy, chưa có thước đo để đánh giá hiệu quả sử dụng của các loại tài sản, thiết
bị máy móc đã được trang bị. Hiện nay mới chỉ xây dựng được nhật ký sử dụng phòng thí
nghiệm, còn chi tiết có thực hiện hay không, định mức, thời gian như thế nào vẫn chưa
xây dựng được, do vậy việc đánh giá thiếu chính xác, thiếu khách quan.
* Chi hành chính khác
Hiện nay công tác quản lý các khoản chi thường xuyên khác ngoài chi lương, học
phí thực hiện theo quy định của Bộ Công an, và các quy định khác của Bộ Tài chính. Các
khoản chi khác như chi công tác phí, thực tế của giáo viên, thực tập của học viên, chi tiếp
khách, hội nghị, đều thực hiện theo quy định, hướng dẫn.
- Đối với chi công tác phí: Thực hiện quy định hiện hành của Bộ Công an, đối với
đi công tác được thanh toán tiền vé tàu, vé xe, máy bay theo đúng tiêu chuẩn: cấp hàm
thượng tá trở lên được phép thanh toán vé máy bay, còn các đối tượng khác chỉ được
thanh toán vé tàu, xe hạng trung bình. Thanh toán tiền lưu trú chỉ thực hiện khi có xác
nhận của đơn vị đến công tác khi không sắp xếp nhà công vụ, nhưng thời gian công tác
cũng phải thực hiện theo đúng kế hoạch: công tác đột xuất thường thời gian dưới một
tuần. Công tác nghiên cứu thực tế của cán bộ, giáo viên đi theo kế hoạch nhưng chỉ thực
hiện khi địa phương sắp xếp được nhà công vụ.
- Chi tiêu hội nghị: Thực hiện theo chế độ, các hội nghị được chi là những hội nghị
nằm trong kế hoạch công tác năm của các đơn vị, ngoài ra có một vài hội nghị do yêu cầu
của cấp trên thì mới được thanh toán chi phí hội nghị. Mức chi phí cho các hội nghị chỉ được
phép chi theo quy định, nếu định mức chi cao hơn thì Ban giám hiệu mới duyệt chi từ quỹ
phúc lợi của cơ quan.
- Chi phí sử dụng điện thoại công vụ tại công sở, nhà riêng và di động: Hỉệu trưởng
Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy quy định cụ thể đối tượng được trang bị điện thoại,
số lượng và định mức khoán kinh phí hàng tháng.
Đối tượng được trang bị điện thoại cố định tại nhà riêng và điện thoại di động là
các đồng chí trong Ban giám hiệu, mức khoán kinh phí đối với hai máy này 500.000đ/
tháng.
Đối với các đơn vị, lãnh đạo các bộ môn, phòng, trung tâm được trang bị điện
thoại cố định tại phòng làm việc với định mức khoán 200.000đ/ máy/ tháng. Mỗi đơn vị
được trang bị một máy điện thoại cố định dùng chung cho các đối tượng khác với mức
khoán 200.000đ/máy/ tháng.
Nếu các đơn vị, cá nhân dùng vượt định mức khoán theo quy định thì phải thu nộp
phần phụ trội vào ngân sách.
- Đối với khoán chi tiền sử dụng điện tại các phòng làm việc của cán bộ, giáo viên,
phòng ở của học viên: Trường cũng đã có quy định các trang thiết bị điện được sử dụng
cho từng đối tượng, định mức sử dụng theo cơ chế khoán định mức. Cụ thể mức khoán hiện
nay là 200.000đ/ phòng làm việc/ tháng. Mục đích chủ yếu là hạn chế sử dụng điện cho các
máy điều hoà nhiệt độ.
- Đối với sử dụng phương tiện ô tô và thanh toán chi phí xăng, dầu: Hiệu trưởng
nhà trường cũng có quy định cụ thể đối với việc sử dụng phương tiện ô tô, đối tượng và
định mức xăng dầu được cấp cụ thể:
Đối tượng: Chỉ giải quyết phương tiện ô tô phục vụ công tác đối với các đồng chí
trong Ban giám hiệu, đối với các đơn vị khi đi công tác chỉ giải quyết khi tổ chức đi theo
đoàn từ ba người trở lên.
Định mức xăng, dầu cấp cho từng loại phương tiện theo định mức kỹ thuật, có tính
đến tính chất từng loại địa hình và theo mùa. Những định mức này hiện nay đã được
thống nhất trong các trường công an nhân dân.
Trong một số năm gần đây một số khoản chi được Bộ Công an thực hiện khoán
đối với từng khoản chi như công tác phí, thực tế… Trong thực tế, các đơn vị tự điều
chỉnh trong khoản đã được ấn định, tự điều chỉnh số lượng, kế hoạch theo định mức qui
định. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện, vẫn còn một số vướng mắc sau:
Một là, các khoản chi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện nay.pdf