Luận văn Hoàn thiện quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh

Tài liệu Luận văn Hoàn thiện quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh: LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý tài chính của Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hệ thống an sinh xã hội nói chung và hệ thống BHXH nói riêng có vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ các thành viên trong xã hội trước những rủi ro do những cú sốc vĩ mô, cả những cú sốc về kinh tế và cú sốc về tự nhiên, gây ra. Do đó, BHXH và an sinh xã hội là những lĩnh vực được chính phủ các quốc gia trên thế giới rất quan tâm. Chính sách BHXH luôn được coi là một trong những công cụ quan trọng được chính phủ sử dụng nhằm thực hiện mục tiêu ổn định, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. ở Việt Nam, ngay từ khi giành được độc lập, Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà mới ra đời, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã rất chú trọng tới việc thực hiện chính sách BHXH đối với người lao động, ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. BHXH Hà Tĩnh là một bộ phận cấu thành BHXH Việt Nam. BHXH Hà Tĩnh có chức năng trực tiếp thực hiện các chế độ chính sách BHXH của ...

pdf89 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hoàn thiện quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý tài chính của Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hệ thống an sinh xã hội nói chung và hệ thống BHXH nói riêng có vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ các thành viên trong xã hội trước những rủi ro do những cú sốc vĩ mô, cả những cú sốc về kinh tế và cú sốc về tự nhiên, gây ra. Do đó, BHXH và an sinh xã hội là những lĩnh vực được chính phủ các quốc gia trên thế giới rất quan tâm. Chính sách BHXH luôn được coi là một trong những công cụ quan trọng được chính phủ sử dụng nhằm thực hiện mục tiêu ổn định, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. ở Việt Nam, ngay từ khi giành được độc lập, Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà mới ra đời, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã rất chú trọng tới việc thực hiện chính sách BHXH đối với người lao động, ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. BHXH Hà Tĩnh là một bộ phận cấu thành BHXH Việt Nam. BHXH Hà Tĩnh có chức năng trực tiếp thực hiện các chế độ chính sách BHXH của Nhà nước đối với người lao động trên địa bàn Hà Tĩnh. Trong những năm qua, BHXH Hà Tĩnh đã đạt được những kết quả quan trọng. Số đơn vị sử dụng lao động và số người lao động tham gia BHXH không ngừng tăng lên. Nguồn thu BHXH cũng gia tăng liên tục và là điều kiện hết sức quan trọng để thực hiện các chế độ BHXH, hỗ trợ tích cực cho người lao động trước những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, mất sức lao động, giảm thu nhập do hết tuổi lao động...Các chế độ BHXH của người lao động được thực hiện khá tốt. Những thành công đó bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng từ sự đổi mới quản lý BHXH, đổi mới quản lý tài chính của ngành BHXH Hà Tĩnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công quan trọng đó, quản lý BHXH nói chung và quản lý tài chính BHXH nói riêng ở Hà Tĩnh còn có những hạn chế, cần được khắc phục trong thời gian tới. Tình trạng nợ đọng kéo dài với số lượng lớn tiền đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động đã tồn tại trong thời gian dài nhưng vẫn chưa được khắc phục. Cơ quan BHXH chưa kiểm soát hết số lao động phải tham gia BHXH bắt buộc. Nhiều đơn vị sử dụng lao động vẫn gian lận trong việc đăng ký tham gia BHXH cho người lao động, gian lận trong việc kê khai quỹ lương đóng BHXH,...Do đó, quyền lợi của người lao động bị vi phạm. Quản lý chi các chế độ cho người hưởng BHXH vẫn còn nhiều vấn đề phải khắc phục. Việc sử dụng kinh phí cho hoạt động trong cơ quan BHXH chưa thật sự hiệu quả. Đây là những khó khăn lớn đối với quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh trong nhiều năm qua cần được giải quyết, bảo đảm cho người lao động được tham gia BHXH và thụ hưởng các chế độ, chính sách BHXH thuận lợi hơn. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cần có sự nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện vấn đề quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh, nhằm tìm ra giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của Hà Tĩnh trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Chính vì lẽ đó, tôi chọn vấn đề " Hoàn thiện quản lý tài chớnh của Bảo hiểm xó hội Hà Tĩnh " làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi có mong muốn và hy vọng đóng góp một phần vào quá trình nghiên cứu chung đó, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh, bảo đảm thực hiện tốt hơn chính sách BHXH của Nhà nước trên địa bàn Hà Tĩnh, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Hà Tĩnh. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua, hoạt động BHXH ở nước ta đã được tổ chức thực hiện theo cơ chế mới. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về BHXH nói chung, tài chính BHXH nói riêng. Sau đây là một số công trình tiêu biểu: - TS. Nguyễn Văn Châu (chủ nhiệm đề tài - 1996): "Thực trạng quản lý thu BHXH hiện nay và các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác thu". - TS. Nguyễn Huy Ban (chủ nhiệm đề tài - 1999): "Chiến lược phát triển BHXH phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020". - Đỗ Văn Sinh (2005): “Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ kinh tế. - Trần Quốc Toàn (năm 1999): “Quản lý tài chính BHXH trên địa bàn tỉnh Nghệ An", Luận văn thạc sĩ kinh tế. Với nhiều góc độ khác nhau, từ cách tiếp cận, mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, các đề tài trên đã đề cập đến các lĩnh vực hoạt động của BHXH. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về "Thực trạng quản lý thu BHXH hiện nay và các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác thu" của TS. Nguyễn Văn Châu đã nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm quản lý thu BHXH của một số nước trên thế giới, tổng kết đánh giá thực tiễn hoạt động quản lý thu BHXH của Việt Nam giai đoạn trước năm 1995 và những năm đầu khi BHXH Việt Nam mới thành lập và đi vào hoạt động từ 1995 đến 1996. Tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị để đổi mới nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH ở Việt Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về "Chiến lược phát triển BHXH phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020" của TS. Nguyễn Huy Ban đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển BHXH, việc thực hiện BHXH ở một số nước trên thế giới và thực trạng chính sách BHXH ở Việt Nam, tác giả đã đưa ra những định hướng cơ bản để phát triển BHXH ở Việt Nam. Luận án Tiến sĩ của tác giả Đỗ Văn Sinh nghiên cứu vấn đề quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam, đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý quỹ ở Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ của tác giả Trần Quốc Toàn nghiên cứu về thực trạng quản lý tài chính ở Nghệ An và đưa ra những phương hướng, mục tiêu và giải pháp tăng cường quản lý tài chính BHXH ở Nghệ An. Với nhiều góc độ khác nhau từ cách tiếp cận, mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, các đề tài trên đã đề cập đến một số lĩnh vực hoạt động của BHXH và có những liên quan nhất định đến quản lý tài chính BHXH. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu này được thực hiện khi chưa có Luật BHXH và chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống đến công tác quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh. Để thực hiện đề tài, tác giả đã đi sâu nghiên cứu thực trạng quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh, từ đó đề xuất các giải pháp và kiến nghị của mình nhằm hoàn thiện quản lý tài chính phù hợp với đặc thù của địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn Mục đích của đề tài là góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý tài chính BHXH, đánh giá thực trạng quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh. Thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Hệ thống hoá và phân tích rõ thêm cơ sở lý luận về BHXH, quản lý tài chính BHXH. - Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh. - Đề xuất các giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh, đáp ứng những yêu cầu mới về phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Tĩnh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý tài chính BHXH. Về phạm vi nghiên cứu, đề tài chỉ nghiên cứu về quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh (ở cấp tỉnh). Do vậy, quản lý tài chính BHXH được nghiên cứu ở đây gồm quản lý thu BHXH, quản lý chi BHXH và quản lý chi cho hoạt động trong cơ quan BHXH. Các nội dung khác của quản lý tài chính BHXH như quản lý quỹ BHXH, quản lý hoạt động đầu tư và tăng trưởng quỹ BHXH không đề cập đến trong đề tài này. Về thời gian, đề tài nghiên cứu quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh từ năm 1995 đến nay. Trong đó, trọng tâm nghiên cứu ở giai đoạn 2003 - 2007. Các số liệu được cập nhật đến năm 2007. 5. Phương pháp nghiên cứu Ngoài các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống, so sánh, điều tra, thống kê phân tích, đánh giá trên cơ sở các báo cáo tổng hợp, điều tra về tình hình kinh tế xã hội và hoạt động BHXH Hà Tĩnh để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu. 6. Những đóng góp của luận văn Luận văn có những đóng góp sau: - Luận văn góp phần hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về BHXH và quản lý tài chính BHXH. - Làm rõ nội dung quản lý tài chính BHXH. - Đánh giá thực trạng quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh, chỉ rõ các kết quả, hạn chế và những nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý tài chính BHXH Hà Tĩnh trong giai đoạn tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 08 tiết. Chương 1 khái quát về bảo hiểm xã hội và quản lý tài chính bảo hiểm xã hội 1.1. khái quát chung về bảo hiểm xã hội 1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội BHXH là một hoạt động đã xuất hiện từ rất lâu. Ngay từ thế kỷ 13, BHXH đã có những mầm mống đầu tiên trên thế giới. Đến thế kỷ 19, đạo luật đầu tiên về BHXH xuất hiện ở Đức. Trong quá trình phát triển, các chế độ BHXH và đối tượng BHXH ngày càng được mở rộng. Theo đó, khái niệm BHXH cũng có nhiều thay đổi và ngày càng được hoàn chỉnh. Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về BHXH và cũng có rất nhiều khái niệm BHXH được đưa ra. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra một định nghĩa về BHXH được chấp nhận rộng rãi nhất. BHXH là hình thức bảo trợ mà xã hội dành cho các thành viên của mình thông qua nhiều biện pháp công nhằm tránh tình trạng khốn khó về mặt kinh tế và xẫ hội do bị mất hoặc giảm đáng kể thu nhập vì bệnh tật, thai sản, tai nạn lao động, mất sức lao động và tử vong; chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình có con nhỏ (ILO, 1984) [44, tr.13]. Khái niệm BHXH này giống khái niệm BHXH của Việt Nam. BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội [45]. Khái niệm BHXH còn được ghi rõ trong Luật BHXH, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI thông qua ngày 29/6/2006, như sau: “BHXH là sự sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH” [49, tr.10]. Như vậy, BHXH được coi là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được dồn tích từ sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động, theo quy định của pháp luật, nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết những nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia đình họ khi họ gặp những rủi ro dẫn đến việc giảm hoặc mất khả năng thanh toán từ thu nhập theo lao động. Đó là xét theo góc độ kinh tế. BHXH còn có thể xét dưới góc độ xã hội hay góc độ pháp lý. Dưới góc độ xã hội, BHXH được coi là sự liên kết của những người lao động xuất phát từ lợi ích chung của xã hội, của người lao động và người sử dụng lao động. Khi tham gia quan hệ này, người lao động sẽ được hưởng một khoản trợ cấp nhất định nếu có những biến cố rủi ro, trên cơ sở sự đóng góp của các bên. Dưới góc độ pháp lý, BHXH được tiếp cận như trong Luật BHXH Việt Nam đã xác định. Nghiên cứu về BHXH, chúng ta có thể thấy có nhiều tác giả nước ngoài cũng đã đưa ra các định nghĩa khác về BHXH hoặc bảo trợ xã hội, áp dụng riêng cho các điều kiện ở các nước đang phát triển. Các tác giả này có chung một quan điểm là BHXH không chỉ dừng ở việc mất đột ngột thu nhập theo dự kiến mà còn tính đến cả việc ngăn chặn và giảm nghèo kinh niên và mang lại mức sống tối thiểu. Cách tiếp cận BHXH mà mỗi nước lựa chọn còn tuỳ thuộc vào mục tiêu chính sách quốc gia và điều kiện cơ cấu cụ thể của nền kinh tế. Mặc dù khái niệm BHXH của Việt Nam được xác định trong từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam cũng tương tự khái niệm BHXH mà ILO đưa ra, nhưng thực tế trong quá trình thảo luận, xây dựng chính sách, cũng có nhiều định nghĩa BHXH khác do các tổ chức quốc tế và trong nước đưa ra, đề cập đến các mặt khác nhau của BHXH ở Việt Nam. Trong đó, có nhiều định nghĩa quá rộng hoặc quá chung không thể áp dụng trong điều kiện thực tế ở Việt Nam. Các định nghĩa khác nhau này phản ánh không chỉ tầm nhìn khác nhau về phát triển BHXH ở Việt Nam mà còn phản ánh cách diễn giải khác nhau đối với các kinh nghiệm quốc tế và ý nghĩa của những kinh nghiệm đó đối với quá trình hoạch định chính sách quốc gia [44, tr.13]. Tuy nhiên, kết quả đạt được của quá trình thảo luận về định nghĩa BHXH thích hợp nhất ở Việt Nam được thể hiện ở bốn điểm. Thứ nhất, cần phân biệt sự khác nhau giữa chính sách BHXH và chính sách giảm nghèo. Thứ hai, cần xác định rõ các đối tượng hưởng lợi dự định của các chương trình và chính sách này. Thứ ba, cần phải chú ý đến vai trò thích hợp của Nhà nước trong việc cải cách các chương trình BHXH. Thứ tư, cần xem xét tính chất tái phân phối của chính sách BHXH trong điều kiện các nước đang phát triển [44, tr.13]. Khái niệm BHXH được sử dụng trong toàn bộ nghiên cứu của luận văn này là khái niệm BHXH đã được ghi trong Luật BHXH Việt Nam, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 06 năm 2006. Điểm cần nói thêm ở đay là cần phân biệt khái niệm BHXH và khái niệm an sinh xã hội, phân biệt BHXH và bảo hiểm thương mại. An sinh xã hội là một thuật ngữ xuất hiện trong một đạo luật của Mỹ năm 1935. Theo đó, an sinh xã hội là sự bảo đảm nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị cá nhân. Đồng thời, tạo lập cho mỗi con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng xác định: An sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm về thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết, bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con [46]. Như vậy, có thể thấy an sinh xã hội là một khái niệm có nội hàm rộng hơn khái niệm BHXH. Đây là một khái niệm “mở” nên có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, an sinh xã hội bao trùm lên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực cuộc sống của con người. Đó là các quan hệ hình thành trong lĩnh vực nhằm ổn định đời sống, nâng cao chất lượng cuộc sống của các thành viên xã hội, góp phần ổn định, phát triển của toàn bộ xã hội. Theo nghĩa hẹp, an sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình. Trước hết và chủ yếu là những trường hợp bị giảm sút thu nhập đáng kể do gặp những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, mất việc làm, mất người nuôi dưỡng, nghỉ thai sản, về già cũng như các trường hợp bị thiên tai địch họa. Đồng thời, xã hội cũng ưu đãi những thành viên của mình vì đã có những hành động xả thân vì nước, vì dân, có những cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, BHXH là một trong nhiều nội dung của an sinh xã hội. ở Việt Nam, thuật ngữ an sinh xã hội được tiếp cận dưới nhiều tên gọi khác nhau như bảo trợ xã hội, bảo tồn xã hội, bảo đảm xã hội, trật tự an toàn xã hội. Một điểm nữa, BHXH khác bảo hiểm thương mại như thế nào? Bảo hiểm thương mại chỉ những hoạt động mà ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro đã thoả thuận trước trên hợp đồng. ở đây, có thể thấy BHXH và bảo hiểm thương mại về cơ bản giống nhau ở một số điểm sau: Thứ nhất, BHXH và bảo hiểm thương mại đều có chức năng bảo đảm bảo vệ con người, khắc phục, hạn chế tổn thất về thu nhập khi có rủi ro xảy ra đối với ngưòi tham gia đóng bảo hiểm. Thứ hai, nguyên tắc hưởng BHXH và bảo hiểm thương mại đều dựa trên cơ sở đóng góp của người tham gia bảo hiểm. Thứ ba, quỹ BHXH và bảo hiểm thương mại đều được sử dụng để chi trả bồi thường cho người tham gia bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra đối với họ. Tuy nhiên, BHXH và bảo hiểm thương mại có những điểm khác nhau: Một là, BHXH là một hoạt động mang tính chất xã hội phi lợi nhuận, phục vụ lợi ích của người lao động và của cả cộng đồng. Trong khi đó, bảo hiểm thương mại là hoạt động kinh doanh, nhằm mục tiêu lợi nhuận. Trong bảo hiểm thương mại, người được hưởng lợi bao gồm cả doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng - những người mua bảo hiểm. Hai là, BHXH là một hoạt động thoả thuận và không thoả thuận. Điều đó có nghĩa là trong BHXH có cả bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc. Trong bảo hiểm thương mại chỉ có bảo hiểm tự nguyện. Ba là, sự tương hỗ trong BHXH được thực hiện trong một cộng đồng rộng rãi, toàn xã hội. Sự tương hỗ trong bảo hiểm thương mại được thực hiện trong một cộng đồng “có giới hạn”, một “nhóm đóng bảo hiểm”. Bốn là, BHXH chỉ bảo đảm cho các rủi ro bản thân, trong khi bảo hiểm thương mại cung cấp dịch vụ bảo đảm cho các rủi ro bản thân và cho các rủi ro tài sản và trách nhiệm dân sự. Năm là, sự tương hỗ trong BHXH được thực hiện trong một cộng đồng rộng rãi, toàn xã hội. Sự tương hỗ trong bảo hiểm thương mại được thực hiện trong một cộng đồng “có giới hạn “, một “ nhóm đóng bảo hiểm “. Sáu là, BHXH chỉ bảo đảm các rủi ro bản thân, trong khi bảo hiểm thương mại cung cấp dịch vụ bảo đảm cho các rủi ro bản thân và cho cả rủi ro tài sản và trách nhiệm dân sự. 1.1.2. Bản chất bảo hiểm xã hội BHXH được coi là một chính sách xã hội quan trọng của bất kỳ nhà nước nào, nhằm đảm bảo an toàn cho sản xuất, cho đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người trong xã hội. Với tư cách là công cụ quan trọng để quản lý xã hội, Nhà nước phải can thiệp và tổ chức bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động, đặc biệt là để giải quyết mối quan hệ thuê mướn lao động giữa chủ và thợ. Yêu cầu giới chủ phải thực hiện những cam kết đảm bảo điều kiện làm việc và nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho giới thợ, trong đó có nhu cầu về tiền lương, về chăm sóc y tế, về chăm sóc khi bị ốm đau, tai nạn, trả lương khi người lao động đến tuổi hưu, đồng thời bản thân người lao động cũng phải có trách nhiệm giành một khoản thu nhập để chi trả cho bản thân mình khi có những rủi ro xảy ra. Mặt khác, nhà nước được coi là một người chủ sử dụng lao động của mọi người lao động, vì vậy trong trường hợp sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động không đủ để trang trải cho những khoản chi cho người lao động khi họ gặp phải rủi ro thì nhà nước phải có trách nhiệm dùng ngân sách của nhà nước để bảo đảm đời sống cơ bản cho người lao động. Như vậy BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một nhu cầu khách quan. Nền kinh tế hàng hoá càng phát triển thì càng đòi hỏi sự phát triển và đa dạng của BHXH. Nền kinh tế hàng hoá phát triển là nền tảng, cơ sở của BHXH. BHXH được hình thành trên cơ sở quan hệ lao động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng BHXH. Nhà nước ban hành các chế độ chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên trách, thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Chủ sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ BHXH. Người lao động và gia đình của họ được cung cấp tài chính từ quỹ BHXH khi họ có đủ điều kiện theo chế độ BHXH quy định. Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải ai tham gia BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau. Phân phối trong BHXH vừa mang tính chất bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. những biến cố xảy ra mang tính tất nhiên đối với con người là thai sản, tuổi già và chết, trong trường hợp này BHXH phân phối mang tính bồi hoàn vì người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng khoản trợ cấp đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, là sự phân phối mang tính không bồi hoàn, có nghĩa là chỉ khi nào người lao động gặp phải tổn thất do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó. BHXH hoạt động theo nguyên tắc cộng đồng lấy số đông bù cho số ít, tức là dùng số tiền đóng góp nhỏ của số đông người tham gia BHXH để bù đắp chia sẻ cho một số ít người với số tiền lớn hơn so với số đóng góp từng người, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro tổn thất. Hoạt động BHXH là loại hoạt động dịch vụ công, mang tính xã hội cao, lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá trình tổ chức, triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức quản lý sự nghiệp BHXH đối với người lao động tham gia và hưởng các chế độ BHXH. Là quá trình tổ chức thực hiện các nghiệp vụ thu BHXH đối với người sử dụng lao động và người lao động; giải quyết các chế độ, chính sách và chi BHXH cho người được hưởng, quản lý quỹ BHXH và thực hiện đầu tư bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH. 1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội Hoạt động của BHXH là hoạt động sự ngiệp vì lợi ích chung của toàn xã hội, phục vụ cho mọi thành viên trong xã hôi, lợi nhuận không phải là mục tiêu của hoạt động BHXH. Do đó, BHXH có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của con người, được thể hiện trên các mặt sau: Một là, BHXH góp phần ổn định đời sống của người tham gia BHXH, đảm bảo an toàn xã hội. Người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị suy giảm mất khả năng lao động, mất việc làm, chết. Việc thay đổi hoặc bù đắp chắc chắn sẽ xảy ra với mọi người lao động tham gia BHXH đến khi họ hết tuổi lao động được hưởng lương hưu hoặc khi họ chết (được hưởng tiền tuất mai táng phí). Việc bù đắp cũng chỉ xảy ra đối với một số người với một số chế độ BHXH còn lại như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm… Nhờ có sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động nhanh chóng khắc phục được những tổn thất vật chất, sớm phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình lao động, hoạt động bình thường của bản thân. Đây là vai trò cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và phương thức hoạt động của BHXH. Hai là, BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Phân phối trong BHXH là sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại giữa những người có thu nhập cao, thấp khác nhau theo xu hướng có lợi cho người có thu nhập thấp, là sự chuyển dịch thu nhập của người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, BHXH góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Ba là, BHXH góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn cho sản xuất và đời sống xã hội của con người. Để thực hiện có hiệu quả các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị, tổ chức kinh tế đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn lao động, về vệ sinh công nghiệp bắt buộc mọi người lao động phải tuân thủ. Quỹ BHXH kịp thời hỗ trợ cho người lao động được nghỉ ngơi, điều dưỡng để nâng cao sức khoẻ. Bốn là, BHXH làm cho mối quan hệ giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước ngày càng gắn bó. Thông qua hoạt động của BHXH người lao động có trách nhiệm hơn trong công việc, họ tích cực lao động, tạo ra năng suất lao động cao hơn. Bởi vì chính người sử dụng lao động đã tham gia đóng góp BHXH để người lao động được hưởng thì tạo ra một niềm tin yêu của người lao động đối với người sử dụng lao động, khuyến khích người lao động phấn khởi, yên tâm, nhiệt tình trong công tác, gắn bó với người sử dụng lao động hết đời này sang đời khác. Đối với Nhà nước thông qua việc tổ chức hoạt động BHXH đã đảm bảo cho người lao động mọi tổ chức, mọi đơn vị bình đẳng, công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời sống xã hội, góp phần làm cho sản xuất ổn định, nền kinh tế, chính trị và xã hội phát triển và an toàn. Năm là, BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung, quỹ được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước, quỹ được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và gia đình họ, một phần dùng để chi quản lý sự nghiệp BHXH. Hầu hết các nước trên thế giới đều thiết kế mô hình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH theo nguyên tắc dồn tích và có tính chuyển dịch thu nhập giữa mọi người tham gia BHXH và qua các thế hệ. Một số ít nước thiết kế theo nguyên tắc "tọa thu, tọa chi". Do tính chất hoạt động của bảo hiểm là các biến cố rủi ro phát sinh không đều về thời gian. Vì vậy ngay trong mô hình quỹ được thiết kế theo nguyên tắc "tọa thu, tọa chi" thì trong khoảng thời gian nhất định, quỹ BHXH thiết kế theo theo nguyên tắc dồn tích thì luôn luôn có số dư tạm thời nhàn rỗi rất lớn. Đây chính là một nguồn vốn trong nước rất quan trọng được hình thành từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động là sự tiết kiệm tạm thời trong chi tiêu tạo ra được một nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế của đất nước. Nguồn vốn này càng trở nên rất quan trọng đối với những nước đang thiếu nguồn vốn đầu tư, đặc biệt nguồn vốn trong nước mà nguồn vốn là một trong những yếu tố quan trọng của sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Điều kiện quan trọng của người lao động được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi về BHXH, ngoài việc người lao động phải đóng góp thì người sử dụng lao động cũng phải đóng góp đầy đủ vào quỹ BHXH. Điều đó đã làm cho người lao động gắn bó với người sử dụng lao động, làm cho quá trình sản xuất được ổn định, bền vững, có năng suất cao hơn. Mặt khác khi chính sách BHXH được áp dụng đối với người lao động sẽ tạo ra được một thị trường lao động xã hội hợp lý, có hiệu quả, tạo ra được một thị trường lao động năng động. Bởi vì người lao động có thể làm việc ở bất cứ đơn vị nào, thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình sở hữu thì họ vẫn được quyền tham gia và hưởng thụ tất cả mọi chế độ về BHXH. Chính điều đó tạo điều kiện người lao động và người sử dụng lao động được tự do thỏa thuận về điều kiện làm việc phù hợp với nhu cầu trình độ, nghề nghiệp, tay nghề, thu nhập với từng người lao động. Đó là những yếu tố quan trọng vừa để khai thác, sử dụng triệt để nguồn lực lao động, vừa để nâng cao hiệu suất công tác, năng suất lao động, tiết kiệm chi phí xã hội (về đào tạo, các nguồn lực khác…) làm tăng của cải vật chất và tăng tích luỹ cho nền kinh tế. 1.2. Quản lý tài chính bảo hiểm xã hội 1.2.1. Khái niệm quản lý tài chính bảo hiểm xã hội Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Vận dụng khái niệm này vào lĩnh vực tài chính BHXH, chúng ta có thể xác định khái niệm quản lý tài chính BHXH như sau: “Quản lý tài chính BHXH là sự tác động của cơ quan quản lý BHXH tới lĩnh vực tài chính BHXH nhằm đạt mục tiêu trong một thời kỳ nhất định". Cơ quan quản lý (chủ thể quản lý) của quản lý tài chính BHXH là cơ quan BHXH các cấp từ Trung ương đến địa phương. Theo Nghị định 19/CP, ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt Nam, cơ quan quản lý BHXH ở Trung ương là BHXH Việt Nam. ở địa phương, cơ quan quản lý BHXH có BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Đối tượng quản lý ở đây là lĩnh vực tài chính BHXH, bao gồm năm lĩnh vực. Một là, toàn bộ sự vận động của quỹ BHXH nói chung; hai là, các hoạt động tài chính về thu BHXH; ba là, các hoạt động tài chính về chi các chế độ BHXH; bốn là, các hoạt động tài chính liên quan đến việc bảo toàn giá trị, tăng trưởng quỹ BHXH và sử dụng lợi nhuận phát sinh từ những hoạt động đó; năm là, hoạt động tài chính trong các cơ quan BHXH. Quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất trong toàn hệ thống, hạch toán độc lập với ngân sách Nhà nước và được Nhà nước bảo hộ. Toàn bộ tiền thu BHXH và một số nguồn thu khác như các khoản thu nhập từ hoạt động đầu tư… đều được hình thành quỹ BHXH tập trung. Khi đó nhu cầu về chi, tất cả các khoản chi (bao gồm chi BHXH, chi cho quản lý bộ máy, chi đào tạo, chi đầu tư, chi các chương trình) được cấp phát và quản lý thống nhất từ quỹ BHXH [7], phải đảm bảo nguyên tắc thu lớn hơn chi, đảm bảo cho sự tồn tại của quỹ BHXH. Nói chung, những hệ thống BHXH nhận được đóng góp của cả người tham gia BHXH và chủ sử dụng lao động của họ. Thu nhập có thể cũng được trích ra từ những khoản thuế đặc biệt để hỗ trợ cho hệ thống BHXH. Các đóng góp cho một hệ thống BHXH có thể là một mức thống nhất hoặc có thể là những mức phụ thuộc vào tiền lương và tiền công. Một nguồn thu nhập khác là những khoản phạt đối với các chủ sử dụng lao động đã không tuân thủ các quy định của hệ thống BHXH. Lý tưởng nhất là không tồn tại loại thu nhập này. Bên cạnh các khoản thu trên, quỹ BHXH cần thiết phải được bổ sung bởi kết quả của những hoạt động đầu tư tài chính, có như vậy quỹ BHXH mới đảm bảo nguồn tài chính chi trả cho các đối tượng trong điều kiện ảnh hưởng của lạm phát. Quản lý các hoạt động tài chính về chi các chế độ BHXH bao gồm quản lý đối tượng hưởng các chế độ và quản lý lưu chuyển tiền trong quá trình thực hiện chi trả các chế độ BHXH với quan điểm tiền phải được chi trả trực tiếp đến tận tay đối tượng được hưởng. Khi xem xét tài chính BHXH, bên cạnh quản lý thu, quản lý chi, vấn đề quan trọng là xác định tỷ lệ đóng góp và tỷ lệ hưởng thụ. Đóng góp của người lao động cho BHXH tạo ra sự giảm sút trong các thu nhập có thể tiêu dùng của họ và những phúc lợi được trả định kỳ sẽ thay thế ít nhất một phần các thu nhập này. Sự giảm sút trong thu nhập có thể chi tiêu dẫn đến sự giảm sút mức chi tiêu theo ý muốn và đặc biệt làm giảm cầu về những mặt hàng cao cấp và bán cao cấp. Cầu bị giảm đi có thể có tác dụng làm dịu sự lạm phát. ở một số nước, người ta đã sử dụng việc tăng mức đóng góp BHXH để đạt được mục tiêu này. Việc bù đắp thu nhập bằng những phúc lợi định kỳ cho phép người lao động và những người ăn theo họ trụ lại được trong những tình huống khó khăn bất ngờ (như ốm đau, hưu trí) cho phép hưởng phúc lợi. Nói cách khác, việc chi trả phúc lợi định kỳ cho phép họ duy trì việc tiêu dùng của họ, mặc dù là ở mức độ hạn chế (nếu chi trả một cục, thường bị sử dụng - ít nhất là một phần - cho một sự tiêu dùng gia tăng một lần). Tác dụng của việc chi trả định kỳ là góp phần ổn định suốt đời (thông qua các giai đoạn ốm đau và nghỉ hưu) mức tiêu dùng của người lao động và những người ăn theo họ. Chương trình BHXH dựa trên hệ thống tài chính thu bao nhiêu chi bấy nhiêu, điều tiết khoản thu nhập phải đóng BHXH bằng cách chuyển nó cho các hộ gia đình nơi thu nhập thấp của người chủ hộ bị đình lại do xẩy ra một sự kiện bất ngờ mà hệ thống phải bảo hiểm. Những hệ thống như vậy sẽ giúp duy trì cầu và mức tiêu dùng chung, đặc biệt nếu thất nghiệp là một trong số những sự kiện được BHXH, và những phân tích kinh tế về ảnh hưởng của chúng phải tính đến cả hai: đóng góp và hưởng lợi, vấn đề đặt ra là phải xác định đúng đắn mức đóng và mức thụ hưởng. Tuy nhiên, với tư cách là một quỹ tài chính tập trung, là một trung gian tài chính vô vi lợi [8], BHXH không thể chỉ chờ đợi vào cân đối giữa đóng góp của các bên tham gia BHXH và hưởng lợi các đối tượng hưởng thụ. Tài chính BHXH cần phải bao gồm các hoạt động tài chính liên quan đến việc bảo toàn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH và sử dụng lợi nhuận phát sinh từ những hoạt động đó. Các biện pháp đầu tư thực hiện bảo toàn giá trị và tăng trưởng quỹ giá trị và có hiệu quả kinh tế - xã hội. Tác động tiềm tàng về tiền tệ và tài khoá của việc đầu tư BHXH (và đặc biệt là của việc đầu tư hay phân bổ đầu tư) có nghĩa là việc đầu tư phải được điều phối không mâu thuẫn với chính sách của Chính phủ. Theo cách này, quỹ dự phòng BHXH có thể được sử dụng tốt nhất để góp phần tăng trưởng kinh tế. ở đây nhất thiết không được có sự xung khắc giữa yêu cầu đầu tư của hệ thống BHXH và những mục tiêu tạo vốn trong nước của một quốc gia. Có thể xây dựng một chính sách đầu tư đáp ứng được cả hai điều kiện này. Những khoản dự trữ sẽ được tích luỹ để tạo ra thu nhập đầu tư, sẽ cho phép hạ thấp mức đóng góp và chúng cần được đầu tư vào những dự án đem lại sự tăng trưởng kinh tế thực sự và tăng năng suất. Ví dụ, theo hình thức tăng lãi trực tiếp của các doanh nghiệp hay lãi gián tiếp do cải thiện cơ sở hạ tầng (như liên lạc viễn thông, đường sá hay các cơ sở chăm sóc y tế). Tuy nhiên, nếu quỹ dự trữ được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp để đáp ứng chi tiêu hiện tại của Chính phủ như hiện nay ở nước ta, thì chắc chắn sẽ không có được mức lãi khả quan cho quỹ BHXH. Sự kiểm soát của Chính phủ về đầu tư quỹ BHXH không có nghĩa là phải sử dụng chúng một cách có hệ thống để bù đắp thiếu hụt ngân sách của Chính phủ. Khi được sử dụng như vậy thì hệ thống BHXH phải được trả lãi theo lãi suất thị trường. Lý tưởng nhất là quỹ được sử dụng cho các dự án về cơ sở hạ tầng dài hạn có hiệu quả xã hội cao và góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế lâu dài. Đối tượng quản lý tài chính BHXH được phân tích trên đây là đối tượng quản lý của cơ quan quản lý BHXH ở cấp Trung ương. ở cấp tỉnh, đối tượng quản lý tài chính BHXH chỉ gồm các hoạt động tài chính về thu BHXH, các hoạt động tài chính về chi chế độ BHXH và các hoạt động chi cho hoạt động của cơ quan BHXH. Sơ đồ 1.1 cho thấy hoạt động thu chi quỹ trong hệ thống BHXH. Sơ đồ 1.1: Hoạt động thu chi quỹ trong hệ thống BHXH 1.2.2. Nội dung quản lý tài chính bảo hiểm xã hội ở cấp tỉnh 1.2.2.1. Quản lý thu bảo hiểm xã hội Đóng góp của chủ sử dụng lao động Đóng góp người tham gia BHXH Phạt Hỗ trợ từ Nhà nước Thu nhập từ đầu tư Quỹ BHXH Tài sản đầu tư chi trả BHXH chi quản lý phí đầu tư Trợ cấp ngắn hạn * ốm đau * Thai sản * Dưỡng sức * Một lần * Lần đầu * Mai táng phí Trợ cấp dài hạn * Hưu trí * Mất sức lao động * Tử tuất * Xây dựng kế hoạch thu BHXH Thu BHXH là nguồn cơ bản hình thành quỹ BHXH, để thực hiện tốt công tác thu BHXH cần phải xây dựng kế hoạch thu BHXH rõ ràng, cụ thể và sát với thực tế lao động và quỹ lương tham gia BHXH và tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương; trên cơ sở tổng số lao động, tổng quỹ lương tham gia BHXH và tình hình phát triển kinh tế xã hội để xác định số phải thu. Cơ sở xác định tổng số phải thu của kế hoạch thu chủ yếu là tổng số lao động, tổng quỹ lương tham gia đóng BHXH và dự báo tình hình phát triển kinh tế xã hội. Sau khi xây dựng được kế hoạch thu BHXH, cơ quan BHXH trình dự toán thu BHXH với cơ quan quản lý có thẩm quyền phê duyệt. Trên cơ sở dự toán được phê duyệt cơ quan BHXH phân bổ cho các đơn vị cấp dưới triển khai thực hiện theo kế hoạch năm. Việc tổng hợp theo dõi đối tượng tham gia BHXH, theo Luật BHXH thì các đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc và phải đóng BHXH bao gồm cả người sử dụng lao động và bản thân người lao động (kể cả người lao động được cử đi học, đi thực tập, công tác và điều dưỡng ở trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công của cơ quan và đơn vị) làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế - xã hội dưới đây: - Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang; - Các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước; - Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; - Tổ chức, đơn vị hoạt động theo quy định của pháp luật; - Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã; - Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động; - Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có sử dụng lao động là người Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Mức đóng BHXH đối với người lao động và người sử dụng lao động tham gia BHXH được quy định tại Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ được thực hiện từ năm 1995 đến 2006 là người người sử dụng lao động đóng 15% tổng quỹ tiền lương tháng của những người lao động trong đơn vị tham gia BHXH, người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng. Mức đóng BHXH do Luật BHXH, được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006, quy định, theo đó, từ năm 2007 đến năm 2010, người sử dụng lao động đóng 15% tổng quỹ tiền lương tháng của những người lao động trong đơn vị tham gia BHXH. Từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần, đơn vị sử dụng lao động phải đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 18%. Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng. Từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần, họ phải đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%. Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và các đơn vị sử dụng lao động. Trong cơ chế thị trường, các đơn vị sử dụng lao động thường không tự giác tham gia BHXH cho người lao động. Họ tìm cách né tránh hoặc gian lận. Việc quản lý chặt chẽ buộc chủ sử dụng lao động phải cung cấp đầy đủ số liệu về lao động, quỹ lương. Đóng đầy đủ BHXH là vấn đề rất quan trọng, vì đây là cơ sở để quỹ BHXH có nguồn lực tài chính chi trả chế độ cho người lao động và đảm bảo an sinh xã hội. Để thuận lợi cho việc quản lý, theo dõi quá trình tham gia BHXH, căn cứ vào đặc điểm, tính chất, hình thức hoạt động của các đơn vị sử dụng lao động, người ta thường phân loại theo khối để quản lý. Có nhiều cách phân loại, nhưng phổ biến là phân theo các khối sau: + Khối doanh nghiệp Nhà nước. + Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh. + Khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Khối hành chính sự nghiệp. + Khối Đảng, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội. + Khối xã, phường, thị trấn. + Khối Hợp tác xã và hộ kinh doanh cá thể. Bên cạnh đó, cơ quan BHXH phải thường xuyên thống kê, theo dõi, kiểm tra sự biến động của các đơn vị sử dụng lao động và người lao động trong suốt quá trình hoạt động của từng đơn vị; liên hệ chặt chẽ với các cơ quan quản lý trên địa bàn để khai thác triệt để các đơn vị và người tham gia BHXH. Về quản lý quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, mức đóng BHXH và quỹ lương là cơ sở quan trọng để tính số thu BHXH. Nếu việc xác định mức đóng không chính xác sẽ dẫn đến thu không đúng, không đủ số phải thu BHXH. Mức đóng của chủ sử dụng lao động và người lao động được tính trên cơ sở trích một tỷ lệ nhất định của tổng quỹ tiền lương. Để xác định mức đóng BHXH cơ quan BHXH phải theo dõi, kiểm tra chặt chẽ diễn biến tiền công, tiền lương của từng cá nhân lao động trong các doanh nghiệp, đối chiếu tổng quỹ lương hàng tháng để tính số tiền phải nộp BHXH. Mức thu BHXH đối với người lao động và người sử dụng lao động tham gia BHXH, theo điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ được thực hiện từ năm 1995 đến năm 2007 là người sử dụng lao động đóng 15% tổng quỹ tiền lương tháng của những người lao động trong đơn vị tham gia BHXH, người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng. Theo quy định hiện hành thì tiền lương của người lao động và quỹ tiền lương của cơ quan, đơn vị được xác định căn cứ vào từng người lao động ở từng khu vực công tác, theo các mức đóng khác nhau, cụ thể là: - Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức đảng, đoàn thể, hội quần chúng, tiền lương tháng của người lao động và quỹ tiền lương của các đơn vị sử dụng lao động được xác định theo các quy định tại Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQHK11, ngày 30/9/2004 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc phê chuẩn bảng lương chức vụ, bảng phụ cấp chức vụ đối với cán bộ lãnh đạo của Nhà nước bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ ngành Toà án, ngành kiểm sát; Quyết định số 128-QĐ/TW ngày 14/12/2004 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức cơ quan đảng, mặt trận và các đoàn thể; Nghị định số 204/CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; Nghị định số 204/CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ quy định về hệ thống thang lương, bảng lương và chế độ phụ cấp lương trong các Công ty Nhà nước. - Các đơn vị sử dụng lao động đã thực hiện ký hợp đồng lao động thì đóng BHXH tính trên tổng quỹ tiền lương hàng tháng, bao gồm lương theo hợp đồng đã ký kết với người lao động có tham gia BHXH theo quy định và lương của người giữ chức vụ không áp dụng chế độ hợp đồng lao động. - Riêng Bộ quốc phòng, Bộ công an đóng bằng 15% so với tổng quỹ lương của những quân nhân, công an nhân dân hưởng lương; còn quân nhân, công an nhân dân đóng bằng 5% mức lương tháng. - Đối với người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, nếu người lao động đã có quá trình tham gia BHXH ở trong nước thì đóng bằng 15% mức lương tháng đã đã đóng BHXH trước khi ra nước ngoài làm việc; người lao động chưa tham gia BHXH ở trong nước thì mức đóng BHXH hàng tháng bằng 15% của hai lần mức lương tối thiểu của công nhân viên chức trong nước. * Tổ chức thực hiện thu BHXH Đặc điểm của thu BHXH là số tiền thu rất lớn và của nhiều đối tượng khác nhau, với nhiều hình thức như thu bằng tiền mặt, chuyển khoản, séc, uỷ nhiệm chi. Do vậy, hệ thống BHXH phải thực hiện công tác hạch toán kế toán, thống kê, báo cáo và kiểm tra toàn bộ số tiền thu BHXH theo đúng quy định của pháp luật, quản lý chặt chẽ đúng nguyên tắc tài chính. Cơ quan BHXH phải phối hợp với hệ thống ngân hàng, kho bạc để tổ chức thu BHXH. Khi các đơn vị sử dụng lao động nộp tiền BHXH vào ngân hàng, kho bạc huyện, BHXH huyện phải chuyển toàn bộ số tiền đó vào tài khoản chuyên thu BHXH của ngân hàng, kho bạc tỉnh. Định kỳ hàng tháng, ngân hàng, kho bạc, cơ quan BHXH tỉnh phải chuyển số tiền thu BHXH lên tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH Trung ương. BHXH cấp huyện, tỉnh không được phép sử dụng tiền thu BHXH vào các mục đích khác. * Tổ chức kiểm tra thu BHXH Kiểm tra thu BHXH nhằm rà soát, chấn chỉnh, uốn nắn những sai sót, đôn đốc thu và phát hiện những bất cập trong quá trình quản lý. Theo pháp luật quy định, cơ quan BHXH được quyền kiểm tra việc chấp hành thu BHXH tại các đơn vị sử dụng lao động được phân cấp thu và cơ quan BHXH cấp dưới trong việc thực hiện thu BHXH. Trên cơ sở đó, cơ quan BHXH đưa ra những kiến nghị để các đơn vị sử dụng lao động và cơ quan BHXH cấp dưới thực hiện đúng các quy định về thu BHXH và có các biện pháp thích hợp, kịp thời xử lý các bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện thu BHXH. Đối với những trường hợp có sai phạm lớn, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Các phương thức kiểm tra hoạt động của BHXH gồm có: Kiểm tra của các cơ quan quyền lực Nhà nước, kiểm tra chuyên ngành (gồm thanh tra nhân dân, kiểm tra của tổ chức đảng, đoàn thể...). Tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu, nội dung và thời gian kiểm tra để có loại hình kiểm tra cho phù hợp: Theo thời gian thì có loại hình thường xuyên hay định kỳ; kiểm tra trước, kiểm tra sau, kiểm tra đột xuất; nếu theo phạm vi trách nhiệm thì có kiểm tra nội bộ, kiểm tra của các cơ quan ngoài hệ thống theo quy định của pháp luật (tổ chức thanh tra Nhà nước, thanh tra nhân dân, thanh tra lao động...). Nội dung kiểm tra thu BHXH gồm có hai nội dung: - Kiểm tra việc chấp hành việc đóng, nộp BHXH tại đơn vị sử dụng lao động bao gồm: Danh sách lao động tham gia BHXH; quỹ tiền lương tham gia BHXH; mức lương của người lao động tham gia BHXH; thực hiện việc chuyển tiền nộp BHXH về cơ quan BHXH. - Kiểm tra việc thực hiện thu BHXH của cơ quan BHXH các cấp, bao gồm việc quản lý lao động và quỹ lương tham gia BHXH của các đơn vị sử dụng lao động; chấp hành quản lý và hạch toán tiền thu BHXH. Cơ sở pháp lý để kiểm tra thu BHXH là: - Luật BHXH và các văn bản quy định và hướng dẫn thực hiện [49]. - Nghị định số 38/CP ngày 25/6/1996 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động [31]. - Thông tư số 85/199/TT - BTC ngày 25/6/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam [22]. - Nghị định 113/2004/NĐ - CP ngày 16/4/2004 quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động [34]. - Nghị định 135/2007/NĐ - CP ngày 16/8/2007 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực BHXH [36]. 1.2.2.2. Quản lý chi chế độ bảo hiểm xã hội * Lập kế hoạch chi BHXH Kế hoạch chi BHXH được xây dựng phải sát với nhu cầu chi ở từng địa phương (tỉnh, huyện), đảm bảo đủ nguồn kinh phí chi trả các chế độ BHXH cho người được hưởng, tránh tồn đọng quá lớn trên các tài khoản ở BHXH tỉnh, huyện sẽ gây lãng phí việc sử dụng vốn. Căn cứ để xây dựng kế hoạch chi hàng năm của BHXH các cấp đố là: - Căn cứ vào đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH. - Dự báo tăng giảm đối tượng hưởng BHXH trong năm đối với từng loại đối tượng cụ thể. - Dự báo tăng kinh phí chi trả BHXH do Nhà nước điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu hoặc thay đổi chính sách tiền lương cho người hưởng trợ cấp BHXH. - Kế hoạch chi bộ máy căn cứ vào số lượng biên chế được giao, quỹ tiền lương của cán bộ công chức viên chức; các chi phí chi hoạt động nghiệp vụ phục vụ thu chi BHXH; chi đầu tư cơ sở vật chất nhu cầu mua sắm phương tiện phục vụ; nhu cầu xây dựng sửa chữa cải tạo trụ sở phục vụ yêu cầu làm việc của cơ quan BHXH. Căn cứ để lập dự toán là các quy định của Chính phủ, Bộ Tài Chính hướng dẫn quản lý tài chính đối với BHXH. Trên cơ sở xây dựng kế hoạch chi BHXH của các đơn vị dự toán, BHXH Việt Nam kiểm tra và giao kế hoạch chi BHXH cho các cấp triển khai thực hiện. * Tổ chức quản lý chi BHXH Tổ chức quản lý chi BHXH gồm các nội dung sau: Một là, quản lý đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. Theo quy định hiện hành, chế độ BHXH gồm có: Chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí; chế độ tử tuất. Đối tượng hưởng các chế độ BHXH có thể là chính bản thân người lao động, cũng có thể là những người thân ruột thịt của người lao động (bố, mẹ, vợ, chồng, con) trực tiếp phải nuôi dưỡng. Đối tượng có thể được hưởng trợ cấp một lần hoặc trợ cấp hàng tháng nhiều hay ít, tùy thuộc mức độ đóng góp (thời gian đóng góp và tiền lương làm căn cứ đóng góp), các điều kiện lao động và biến cố rủi ro mà người lao động mắc phải. Điều quan trọng nhất trong công tác quản lý chi BHXH là phải quản lý cụ thể, chính xác từng đối tượng theo loại chế độ được hưởng và mức được hưởng, thời gian được hưởng của họ. Hai là, quản lý chi trả các chế độ BHXH. Việc chi trả các chế độ BHXH phải phù hợp với từng loại đối tượng và từng loại trợ cấp, đảm bảo được nguyên tắc chi trả đúng đối tượng, đúng chế độ, đầy đủ, kịp thời, chính xác và an toàn. Hầu hết việc chi trả các chế độ BHXH cho người được hưởng đều bằng tiền mặt. Khối lượng tiền mặt chi trả hàng tháng rất lớn, địa bàn chi trả rộng khắp các miền, vùng trong cả tỉnh và đối tượng chi trả thường xuyên rất lớn, thời gian chi trả phải tập trung từ 1 đến 5 ngày trong tháng. Có hai phương thức chi trả, đó là phương thức chi trả trực tiếp và phương thức chi trả gián tiếp. Phương thức chi trả trực tiếp là việc chi trả cho người được hưởng các chế độ BHXH được thực hiện trực tiếp do cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống BHXH chi trả. Phương thức chi trả gián tiếp là việc chi trả cho người được hưởng các chế độ BHXH được thực hiện bởi sử ủy quyền của cơ quan BHXH các cấp cho các đơn vị sử dụng lao động hoặc các đại diện pháp nhân thuộc ủy ban nhân dân các phường, xã chi trả hộ thông qua các đại lý chi trả. Ba là, quản lý kinh phí chi BHXH. Để đạt được mục tiêu chi trả đầy đủ, kịp thời cho các đối tưởng hưởng chế độ BHXH, một yêu cầu cần đặt ra là phải đảm bảo đủ nguồn kinh phí để chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH, đảm bảo được yêu cầu chi trả các chế độ BHXH cho người được hưởng; tránh tồn đọng quá lớn tiền mặt trong chi trả. Để có cơ sở quản lý, điều hành và kiểm soát chặt chẽ nguồn kinh phí chi trả, BHXH các huyện, Thành phố, Thị xã được mở các tài khoản chuyên chi BHXH ở hệ thống ngân hàng. Các đơn vị chỉ được rút tiền từ các tài khoản trên để chi trả các chế độ BHXH, không được sử dụng nguồn kinh phí này để chi trả cho bất kỳ một nội dung chi nào khác. Nhờ đó mà BHXH tỉnh có thể kiểm tra, kiểm soát số kinh phí đã sử dụng và số kinh phí còn dư trên tài khoản của đơn vị cấp dưới dễ dàng và thuận tiện. * Kiểm tra thực hiện chi BHXH Nội dung kiểm tra thực hiện chi BHXH gồm có: - Kiểm tra việc giải quyết, thanh toán, chi trả các chế độ BHXH cho người được thụ hưởng. Quá trình này liên quan trực tiếp đến người được thụ hưởng, đến cơ quan BHXH và các cơ quan có liên quan như chủ sử dụng lao động, cơ quan giám định sức khoẻ… - Kiểm tra việc quản lý đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH thường xuyên, tình hình biến đông tăng giảm đối tượng. - Kiểm tra việc chấp hành công tác quyết toán, chấp hành công tác kế toán - thống kê. 1.2.2.3. Quản lý chi trong cơ quan bảo hiểm xã hội * Quản lý chi trong cơ quan BHXH Chi trong cơ quan BHXH là chi cho hoạt động bộ máy, phục vụ toàn bộ hoạt động quản lý của hệ thống BHXH và chi xây dựng cơ bản. Chi cho hoạt động bộ máy là những khoản chi nhằm duy trì hoạt động quản lý thường xuyên của bộ máy quản lý BHXH. Công tác quản lý chi hoạt động thường xuyên của hệ thống BHXH tập trung vào một số nội dung cụ thể, đó là chi thường xuyên và chi không thường xuyên của cơ quan BHXH. Thứ nhất, chi thường xuyên gồm chi thường xuyên trong định mức và chi thường xuyên đặc thù. Chi thường xuyên định mức gồm năm khoản chi sau: + Các khoản chi thanh toán cho cá nhân: Tiền lương, tiền công, phụ cấp lương, các khoản đóng góp theo lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể và các khoản thanh toán khác cho cá nhân theo quy định. + Chi thanh toán dịch vụ công cộng, thuê mướn, vật tư văn phũng, thụng tin, tuyờn truyền, liờn lạc; + Chi hội nghị, công tác phí trong nước, chi các đoàn đi công tác nước ngoài và đón các đoàn khách nước ngoài vào Việt Nam; + Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn BHXH; + Chi mua sắm tài sản, trang thiết bị, phương tiện, vật tư, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định. Chi thường xuyên đặc thù gồm các khoản chi sau: + Chi phục vụ công tác thu BHXH; + Chi phục vụ công tác chi trả BHXH; + Lệ phí chuyển tiền; + Chi phí in và cấp sổ BHXH; + Chi phí in mẫu biểu, chứng từ báo cáo; + Chi tuyên truyền về BHXH; + Chi vận chuyển, bảo vệ tiền; + Các khoản chi khác (nếu có) theo quy định của cơ quan có thẩm quyền. Thứ hai, chi không thường xuyên gồm chi đào tạo, đào tạo lại; chi nghiên cứu khoa học; chi sửa chữa lớn tài sản cố định, chi mua sắm tài sản cố định. * Quản lý chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của cơ quan BHXH Chi đầu tư xây dưng cơ bản là một nội dung của chi trong cơ quan BHXH. Đó là những khoản chi nhằm đảm bảo các điều kiện, phương tiện làm việc cho cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống như chi đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, trang bị phương tiện làm việc như hệ thống máy vi tính (gồm cả chương trình phần mềm quản lý), thiết bị điều hoà, bàn ghế, tủ hồ sơ… Nội dung quản lý chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của hệ thống BHXH tập trung vào hai nội dung. Một là, quản lý chi xây dựng trụ sở làm việc. Quy mô đầu tư (diện tích làm việc, cấp công trình), tổng mức đầu tư đối với từng dự án đầu tư xây dựng của từng cấp (tỉnh, huyện), phù hợp với điều kiện của từng địa phương. Quản lý chất lượng và giá trị công trình đảm bảo đúng quy trình quy phạm của Nhà nước quy định. Hai là, quản lý chi cho phương tiện làm việc. Các khoản chi này phải đảm bảo theo tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật và định mức trang bị, sử dụng do Nhà nước quy định. Chương 2 thực trạng quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh trong giai đoạn từ 1995 đến nay 2.1. khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh Hà Tĩnh là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, phía bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía tây giáp tỉnh Bôlikhămxay và Khămmuộn của Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào và phía đông giáp Biển Đông. Diện tích tự nhiên của Hà Tĩnh là 6.018,97 km2, trong đó, đất nông nghiệp chiếm 77,32%, đất phi nông nghiệp chiếm 11,87%; đất chưa sử dụng chiếm 10,81%. Đặc điểm địa hình tỉnh Hà Tĩnh là đồi núi chiếm 80% diện tích tự nhiên, đồng bằng có diện tích nhỏ, bị chia cắt bởi các dãy núi, sông suối. Hà Tĩnh là tỉnh có nhiều loại khoáng sản có thể khai thác công nghiệp nhưng hầu hết chưa được khai thác, đặc biệt là mỏ quặng sắt Thạch Khê có trữ lượng 544 triệu tấn, lớn nhất nước. Khi đưa vào khai thác, mỏ sắt Thạch Khê sẽ trở thành một trung tâm công nghiệp lớn và thu hút nhiều lao động của cả nước. Hà Tĩnh có vị thế thuận lợi về giao thông, nằm trên tuyến giao lưu kinh tế Bắc - Nam, Tây - Đông (Thái Lan - Lào - Biển Đông), với hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thuỷ. Cảng Vũng áng có thể cho tàu 5 - 15 vạn tấn ra vào thuận lợi…Với vị trí thuận lợi như vậy, Hà Tĩnh hoàn toàn có đủ điều kiện để trở thành một trong những trung tâm kinh tế, thương mại của khu vực Bắc Trung Bộ. Hà Tĩnh hiện nay có 12 huyện, thị, thành phố. Đó là các huyện Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Lộc Hà, Hương Khê, Vũ Quang, Hương Sơn, Đức Thọ, Nghi Xuân, Can Lộc, Thị Xã Hồng Lĩnh, Thành Phố Hà Tĩnh. Năm 2007, tỉnh Hà Tĩnh có 1.361 doanh nghiệp đang hoạt động. Cả tỉnh có hai trường đại học và cao đẳng, bốn trường trung học chuyên nghiệp, ba trường dạy nghề dài hạn, một trung tâm xúc tiến việc làm và bốn trung tâm dạy nghề và xúc tiến việc làm của các sở, ngành. Mỗi huyện có một trung tâm Kỹ thuật thực hành - Hướng nghiệp - Dạy nghề làm công tác dạy nghề ngắn hạn và hướng nghiệp giáo dục phổ thông. Hà Tĩnh hiện đang là một tỉnh nghèo so với các tỉnh Miền Trung và trong cả nước. Điểm xuất phát của Hà Tĩnh thấp, nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Tích luỹ từ nội bộ kinh tế tỉnh thấp, cân đối thu chi ngân sách gặp nhiều khó khăn. Đến nay, sản xuất chủ yếu vẫn là nông, lâm, thủy sản. Dân số nông thôn chiếm tỷ lệ hơn 85% tổng dân số toàn tỉnh. GDP bình quân đầu người hơn 4.060 ngàn đồng/năm. Giá trị xuất khẩu đạt 32USD/người/năm (cả nước 390 USD/người/năm). Lương thực bình quân 360 kg/người/năm. Theo thống kê của Cục Thống kê và Sở Lao động Thương binh và Xã hội của Hà Tĩnh, toàn tỉnh có 38% hộ đói nghèo (theo chuẩn mới của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội). Dân số Hà Tĩnh hiện có khoảng 1,289 triệu người với 0,678 triệu lao động (chiếm 52,6% dân số). Nguồn lao động mới bổ sung vào hàng năm khoảng 14 nghìn lao động. Dân cư phân bố không đều, tập trung cao ở khu vực đồng bằng phía đông bắc tỉnh. Dọc đường Hồ Chí Minh, dân cư thưa thớt. Mật độ dân số Thành Phố Hà Tĩnh là 2547 người/km2, trong khi huyện Hương Khê có mật độ dân số là 78 người/km2. Lao động làm trong các ngành kinh tế là 630.022 người, trong nông - lâm ngư nghiệp là 515.693 người, chiếm gần 81,9%; công nghiệp - xây dựng 39.217 người (6,2%), còn lại 11,9% làm việc trong khu vực dịch vụ. Tuy nhiên, trình độ tay nghề của lao động trong tỉnh vẫn còn thấp. Lao động qua đào tạo của toàn tỉnh có khoảng 25.000 người, chiếm 3,6% tổng số lao động toàn tỉnh. Tỷ lệ lao động qua đào tạo dưới mọi hình thức chỉ khoảng 20%, thấp hơn trung bình của cả nước. Cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế có sự chênh lệch lớn. 82% lao động làm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản nhưng chỉ làm ra 43% GDP của Hà Tĩnh. Cơ cấu đào tạo cũng như phân bố lao động theo lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý. Hiện nay cả tỉnh có 19.195 người có trình độ đại học và cao đẳng; 235 người có trình độ thạc sĩ, 20 người có trình độ tiến sĩ và 3 giáo sư, phó giáo sư. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên toàn tỉnh là 0,8%, số người trong độ tuổi lao động tăng vì vậy nhu cầu việc làm mới là khá cao. Trong giai đoạn 2006 - 2010, mỗi năm cần chỗ làm mới cho trên 10 nghìn người, con số đó của giai đoạn 2011 - 2015 trên 15 nghìn người. Mặc dù vậy, trong những năm qua, kinh tế Hà Tĩnh đã có những bước phát triển rõ rệt. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ giảm dần tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư nghiệp. Nhờ chuyển dịch cơ cấu đúng hướng, năng suất lao động tăng liên tiếp qua các năm. Trong giai đoạn 1996-2007, tăng năng suất lao động và các yếu tố tổng hợp khác đóng góp 70% - 72% vào tốc độ tăng GDP, tăng số lượng lao động đóng góp vào tăng GDP vào khoảng 26-28%. Công tác xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm đạt được những kết quả tích cực. Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu đáng kể, biện pháp xóa đói giảm nghèo đã được triển khai toàn diện và đạt kết quả tốt. Đời sống người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo đã được cải thiện hơn trước. Trong 5 năm gần đây, đã tạo việc làm cho hơn 14 ngàn người. Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm 28,8% (năm 2000) xuống còn 10,5% (năm 2005). Tỷ lệ này của cả nước là 7% theo chuẩn cũ. Tuy vậy theo mức chuẩn nghèo mới mà Bộ Lao động Thương binh và Xã hội công bố và áp dụng cho giai đoạn 2006- 2010, thì tỷ lệ nghèo đói của Hà Tĩnh còn cao: 38,62% (Bắc trung bộ là 29,4%). Tỷ lệ lao động chưa có việc làm ở thành thị giảm từ 5,16% (năm 2000) đến nay chỉ còn 3,5%. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng từ 77,49% (năm 2000) đến nay lên 81% (xem Bảng 2.1). Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội tổng hợp của tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2003-2007 Đơn vị: triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 1. Tổng giá trị SPXH (tính theo giá năm 1994) 3.407.326 3.731.459 4.064.828 4.451.862 4.839.174 - Tốc độ tăng trưởng GDP 9,09% 9,51% 8,93% 9,52% 8,70% 2. Tổng giá trị SPXH tính theo giá hiện hành 4.581.509 5.190.971 5.799.794 6.423.958 6.982.842 3. Tổng đầu toàn xã hội 948.200 1.120.507 2.327.000 2.267.845 3.360.078 - Tăng trưởng so với năm trước 12,80% 18,17% 107,67% -2,54% 48,16% 4. GDP bình quân đầu ngư- ời 3,57 4,03 4,49 4,98 5,25 Nguồn: Cục thống kê Hà Tĩnh 2007. Mặc dù là một tỉnh có nhiều tiềm năng về khoáng sản và lợi thế tự nhiên nhưng hiện tại Hà Tĩnh là một tỉnh kinh tế chưa phát triển. Vì vậy, đối tượng tham gia BHXH còn thấp. Đến hết năm 2007, cả tỉnh mới có hơn 56.000 người tham gia BHXH, chiếm tỷ lệ 8,2 % tổng số lao động trên địa bàn tỉnh. Hà Tĩnh có số lượng đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH tương đối đông. Năm 2007 có 61.722 người thuộc diện này, trong đó, lực lượng hưu trí quân đội và hưu công chức viên chức chiếm tỷ lệ lớn. Trong quá trình thực hiện quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh có những thuận lợi và khó khăn sau: Thuận lợi, BHXH là lĩnh vực được mọi người dân hết sức quan tâm. Cấp uỷ, chính quyền địa phương và các ngành các cấp liên quan quan tâm chỉ đạo kịp thời trong quá trình thực hiện BHXH trên địa bàn. Các chủ sử dụng lao động và người lao động đã nhận thức ngày càng rõ hơn về quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện BHXH. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành BHXH đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ của ngành.Vì vậy trong những năm qua BHXH đã thực hiện tốt công tác quản lý tài chính trên địa bàn. Về khó khăn, trong những năm qua, các doanh nghiệp nợ đọng BHXH vẫn còn nhiều. Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không tham gia BHXH còn chiếm tỷ lệ lớn, việc vi phạm BHXH chưa được xử lý nghiêm, chậm được xử lý. Mặt khác, Hà Tĩnh là tỉnh có đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH lớn, địa bàn tương đối rộng, nằm ở cả vùng sâu, vùng xa. Lượng chi trả tiền mặt hàng tháng tương đối lớn. Năm 2007, chi trả bình quân 85 tỷ đồng/tháng. Trong khi đó, phương tiện vận chuyển đến các điểm chi trả chủ yếu bằng phương tiện xe máy. Do đó việc đảm bảo an toàn tiền mặt trong chi trả là vấn đề khó khăn đối với BHXH Hà Tĩnh. Hơn nữa, việc xử lý đối với các hành vi vi phạm BHXH chưa cao. Mức xử phạt còn thấp, chưa đủ sức răn đe các hành vi vi phạm BHXH. Cơ chế thực hiện xử phạt chưa đồng bộ. Cơ quan BHXH không được trực tiếp giao nhiệm vụ xử lý mà phụ thuộc vào cơ quan thanh tra về lao động và chính quyền các cấp nên việc xử lý không kịp thời, hiệu quả của việc xử lý không cao. Bên cạnh đó, kinh tế Hà Tĩnh còn nghèo, tốc độ tăng trưởng chưa cao, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn không ổn định, lương của người lao động tham gia BHXH còn thấp. Do đó, mức hưởng chế độ BHXH của người lao động rất khó đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình họ. 2.2. Tổ chức bộ máy quản lý bảo hiểm xã hội và thực trạng quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội Hà tĩnh 2.2.1. Quá trình hình thành tổ chức bộ máy quản lý của bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh Ngày 16/02/1995, Chính phủ ban hành Nghị định 19/CP về việc thành lập BHXH Việt Nam với cơ cấu ba cấp: Cấp trung ương; cấp tỉnh, thành phố và cấp huyện, thị xã. Theo Quyết định 14aQĐ/TC-CB của Tổng giám dốc BHXH Việt Nam, BHXH Hà Tĩnh được thành lập ngày 15/6/1995 và chính thức đi vào hoạt động ngày 01/8/1995, trên cơ sở tiếp nhận nhiệm vụ từ Sở lao động Thương binh và Xã hội, Liên đoàn Lao động, Sở Tài chính, Cục Thuế. Bộ máy tổ chức quản lý BHXH Hà Tĩnh gồm cơ quan BHXH tỉnh và BHXH ở 12 huyện, thị, thành phố. Ngày 24/01/2002, thực hiện Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển Bảo hiểm y tế Việt Nam về BHXH Việt Nam, BHXH Hà Tĩnh tiếp nhận bàn giao tài chính, tài sản và công chức, viên chức của Bảo hiểm y tế tỉnh. Theo Quyết định 1620/2002/QĐ-BHXH-TCCB, ngày 17/12/2002 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam, BHXH Hà Tĩnh là đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam, có chức năng tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ BHXH trên địa bàn tỉnh, chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam, chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý tài chính BHXH ở Hà Tĩnh được phân thành hai cấp. BHXH tỉnh là đơn vị dự toán cấp 2; BHXH các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là đơn vị dự toán cấp 3. Các đơn vị dự toán cấp 2, cấp 3 có tư cách pháp nhân đầy đủ, thực hiện hạch toán kế toán, báo cáo quyết toán hoạt động tài chính của từng đơn vị; đồng thời thực hiện hạch toán kế toán, tập trung toàn ngành tại BHXH tỉnh và báo cáo về BHXH Việt Nam. Bảo hiểm xã hội huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh là cơ quan trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh, đặt tại huyện, nằm trong hệ thống tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, có chức năng giúp Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội và quản lý tài chính bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện. Bảo hiểm xã hội huyện chịu sự quản lý trực tiếp toàn diện của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh, chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của Uỷ ban nhân dân huyện. Bảo hiểm xã hội huyện có tư cách pháp nhân, có trụ sở đặt tại huyện lỵ, có dấu, tài khoản riêng. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bảo hiểm xã hội huyện là xây dựng chương trình, kế hoạch năm, trình Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện; hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động lập danh sách tham gia bảo hiểm xã hội; đôn đốc, theo dõi việc thu nộp bảo hiểm xã hội theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Bảo hiểm xã hội tỉnh; tiếp nhận kinh phí, danh sách và tổ chức chi trả cho các đối tượng hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội do Bảo hiểm xã hội tỉnh chuyển đến theo phân cấp. Theo dõi việc thay đổi địa chỉ, danh sách tăng, giảm đối tượng hưởng chế độ trong quá trình chi trả; tổ chức ký kết hợp đồng trách nhiệm và quản lý mạng lưới chi trả bảo hiểm xã hội ở xã, phường, thị trấn; quản lý công chức, viên chức, tài chính và tài sản thuộc Bảo hiểm xã hội huyện theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Bảo hiểm xã hội tỉnh. Các đơn vị trực tiếp thực hiện nghiệp vụ quản lý tài chính ở BHXH tỉnh là Phòng Kế hoạch - Tài chính và Phòng thu BHXH. Phòng Kế hoạch - Tài chính có chức năng giúp Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh thực hiện công tác kế hoạch và quản lý tài chính, tổ chức hạch toán, kế toán của hệ thống Bảo hiểm xã hội tỉnh theo quy định của pháp luật. Có nhiệm vụ chủ trì phối hợp với các phòng nghiệp vụ và Bảo hiểm xã hội huyện để lập, giao kế hoạch và tổng hợp đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tài chính: Thu, chi bảo hiểm xã hội, chi quản lý bộ máy, chi đầu tư xây dựng,…hàng quý, năm trong hệ thống Bảo hiểm xã hội tỉnh; chuyển kịp thời tiền thu bảo hiểm xã hội vào tài khoản của Bảo hiểm xã hội Việt Nam theo quy định; tổ chức cấp kinh phí kịp thời để chi trả cho đối tượng hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội; tổ chức cấp phát và quản lý kinh phí chi cho hoạt động quản lý bộ máy, kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản, sửa chữa lớn, mua sắm trang thiết bị và các nguồn kinh phí khác của Bảo hiểm xã hội tỉnh; thực hiện đầy đủ các chế độ, định mức chi tiêu tài chính, tổ chức hạch toán, kế toán đúng chế độ kế toán theo quy định; hướng dẫn, kiểm tra Bảo hiểm xã hội huyện thực hiện đúng các nghiệp vụ quản lý tài chính, hạch toán, kế toán theo chế độ quy định; chủ trì phối hợp với các phòng nghiệp vụ thực hiện xét duyệt và tổng hợp quyết toán tài chính quý, năm do Bảo hiểm xã hội tỉnh quản lý; theo dõi, lưu trữ, quản lý chứng từ, sổ sách kế toán theo quy định; thực hiện chế độ thông tin, tổng hợp báo cáo tài chính tháng, quý, năm theo quy định. Phòng thu BHXH có chức năng giúp Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh quản lý và thực hiện nhiệm vụ thu bảo hiểm xã hội đối với các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật; có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch thu bảo hiểm xã hội theo kế hoạch hàng năm và phân bổ chỉ tiêu kế hoạch thu cho Bảo hiểm xã hội huyện trên cơ sở kế hoạch đã được Bảo hiểm xã hội Việt Nam giao; thực hiện thu bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động, người lao động và các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định; hướng dẫn kiểm tra, đôn đốc việc thu bảo hiểm xã hội đối với Bảo hiểm xã hội huyện; thẩm định số liệu thu bảo hiểm xã hội gửi phòng Kế hoạch - Tài chính; quản lý, kiểm tra Bảo hiểm xã hội huyện và các tổ chức sử dụng lao động lập danh sách tham gia bảo hiểm xã hội, theo dõi biến động tăng, giảm đối tượng; tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện thu bảo hiểm xã hội, đề xuất giải pháp xử lý những vướng mắc trong thực hiện công tác thu bảo hiểm xã hội và kiến nghị biện pháp mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh. Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy BHXH Hà Tĩnh 2.2.2. Thực trạng quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh Quản lý tài chính BHXH được thực hiện trên cơ sở pháp lý là các văn bản chính sách do Chính Phủ, Bộ Tài Chính ban hành quy định về các vấn đề quản lý tài chính Giám Đốc và các Phó Giám Đốc Phòng Thu BHXH Phòng Chế độ Chính sách Phòng Kiểm Tra Phòng Kế hoạch tài chính Phòng Giám định y tế Phòng Công nghệ thông tin Phòng Cấp và quản lý sổ thẻ Phòng Quản lý tiếp nhận hồ sơ Phòng Tổ Chức cán bộ Phòng Hành chính tổng hợp BHXH các huyện, thị xã, thành phố Trực Tiếp Báo cáo Phối hợp BHXH. Đó là các Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/01/1998 ban hành Quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam; Quyết định số 100/2001/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam ban hành kèm theo quyết định số 20/1998/QĐ-TTg; Quyết định 02/2003/QĐ-TTg ngày 02/01/2003 ban hành quy chế quản lý tài chính BHXH Việt Nam (sau khi sát nhập Bảo hiểm y tế về BHXH Việt Nam) Quyết định số 144/2005/QĐ-TTg ngày 14/6/2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam ban hành kèm theo quyết định số 02/2003/QĐ-TTg. Quyết định 41/2007/QĐ-TTg ngày 29/3/2007 hướng dẫn quản lý tài chính BHXH Việt Nam sau khi thực hiện Luật BHXH. Các thông tư hướng dẫn thực hiện của Bộ Tài Chính như : Thông tư số 85/1998/TT-BTC ngày 25/06/1998 hướng dẫn quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam; Thông tư số 66/2001/TT-BTC ngày 22/08/2001 hướng dẫn sửa đổi một số điều của Thông tư số 85/1998/TT-BTC hướng dẫn quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam; Thông tư số 58/2007/TT-BTC ngày 12/06/2007 hướng dẫn quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam. Các Quyết định như Quyết định số 1058a- TC/QĐ/KT ngày 29/09/1995; Quyết định số 1124-TC/QĐ/CĐKT ngày 12/12/1996; Quyết định số 140/1999/QĐ-BTC ngày 15/11/1999; Quyết định số 18/2004/QĐ-BTC ngày 16/02/2004; Quyết định số 51/2007/QĐ-BTC ngày 22/6/2007, áp dụng cho các đơn vị thuộc BHXH Việt Nam. 2.2.2.1. Thực trạng quản lý thu bảo hiểm xã hội * Xây dựng kế hoạch thu bảo hiểm xã hội Kế hoạch thu của BHXH Hà Tĩnh được xây dựng trên cơ sở các quy định của Chính phủ, đồng thời dựa trên các quy định của BHXH Việt Nam về phân cấp thu BHXH và quy trình thu BHXH. Theo quy định về phân cấp quản lý thu BHXH, BHXH tỉnh tổ chức thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động có trụ sở chính đóng trên địa bàn tỉnh bao gồm: Các đơn vị do Trung ương quản lý; các đơn vị do tỉnh trực tiếp quản lý; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; các đơn vị, tổ chức quốc tế; các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng số lao động lớn. BHXH huyện thu BHXH các đơn vị có trụ sở chính đóng trên địa bàn huyện bao gồm: Các đơn vị do huyện trực tiếp quản lý; các đơn vị ngoài quốc doanh; các xã, phường, thị trấn; các đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiệm vụ thu. Đối với các đơn vị sử dụng lao động có các đơn vị trực thuộc, đóng trụ sở và hoạt động trên địa bàn nhiều tỉnh, thì nộp BHXH tại cơ quan BHXH tỉnh, nơi đóng trụ sở chính; đơn vị sử dụng lao động muốn để các đơn vị trực thuộc nộp BHXH tại nơi đơn vị trực thuộc đóng trụ sở, phải có văn bản đề nghị và có ý kiến của cơ quan BHXH tỉnh nơi đóng trụ sở chính đồng ý. Hàng năm, các đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm lập danh sách số lao động tham gia BHXH, quỹ tiền lương và số tiền đóng BHXH với cơ quan BHXH trực tiếp quản lý thu BHXH. Cơ quan BHXH có trách nhiệm kiểm tra, đối chiếu, xác nhận số lao động có đóng tiền BHXH, tổng số tiền đóng BHXH của đơn vị sử dụng lao động và của từng người lao động; đồng thời ghi vào sổ BHXH của từng người lao động về thời gian đóng BHXH, số tiền đóng BHXH để làm căn cứ duy nhất giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động. Về quy trình quản lý thu BHXH, kể từ khi thành lập (1995) đến nay, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã năm lần thay đổi quy định quy trình quản lý thu để phù hợp với thực tế quản lý của từng thời kỳ. Từ những quy định tạm thời về công tác thu BHXH, đến nay, đã có quy định chính thức và riêng cho công tác thu. Từng khâu trong công tác thu đã được quy định cụ thể và có cơ chế quản lý phù hợp. Đặc biệt là khâu quản lý số tiền đã thu BHXH qua hệ thống tài khoản chuyên thu ở ngân hàng, kho bạc từ địa phương đến Trung ương. BHXH Việt Nam cũng đã xây dựng được hệ thống mẫu biểu quản lý thu tương đối hoàn chỉnh áp dụng trong toàn quốc. Các tiêu thức của mẫu biểu đã đáp ứng được yêu cầu quản lý, phù hợp với tình hình thực tế. Các bước triển khai thực hiện nghiệp vụ thu được chuyên môn hoá cao, giảm bớt các thủ tục rườm rà, đảm bảo việc thực hiện thu, đối chiếu số thu và chuyển tiền thu nhanh chóng hiệu quả và an toàn. Từ tháng 9/1995 đến tháng 12/1996 quy trình quản lý thu BHXH được thực hiện theo Quyết định số 211/BHXH ngày 26 tháng 9 năm 1995 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Từ tháng 01/1997 đến tháng 12/1999, quy trình quản lý thu BHXH được thực hiện theo Quyết định số 177/ BHXH ngày 30 tháng 12 năm 1996 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Từ tháng 01/2000 đến tháng 6/2003, quy trình quản lý thu BHXH được thực hiện theo Quyết định số 2902/1999/QĐ- BHXH ngày 23 tháng 11 năm 199 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Quyết định này đã cụ thể hoá về nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên tham gia BHXH trong việc thu nộp BHXH và quản lý và tổ chức thu BHXH. Từ tháng 7/2003 đến nay, quy trình quản lý thu BHXH, BHYT bắt buộc được thực hiện theo Quyết định số 722/QĐ- BHXH-BT ngày 26 tháng 5 năm 2003 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Từ tháng 01/2007 đến nay, quy trình quản lý thu BHXH được thực hiện theo Quyết định số 902/QĐ- BHXH ngày 26 tháng 6 năm 2007 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Quyết định này được ban hành sau khi Luật BHXH được triển khai thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2007. Các quy định về quản lý thu BHXH bắt buộc được tổ chức thực hiện qua các giai đoạn có một số nội dung như sau: Một là, đối tượng tham gia BHXH đã từng bước được mở rộng, từ chỗ ở phạm vi hẹp trong khu vực nhà nước đến chỗ mở rộng ra khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động. Hai là, về mức đóng được tăng dần. Phương thức đóng thì vẫn quy định theo tháng cùng với thời gian nhận tiền lương, tiền công của người lao động, trừ một số trường hợp các doanh nghiệp sản xuất theo thời vụ được phép đóng BHXH theo quý hoặc sáu tháng một lần. Ba là, quy định tiền lương làm căn cứ đóng BHXH từng bước được nâng lên theo mức thu nhập của người lao động và được giới hạn mức trần tối đa nhằm tạo công bằng trong đóng và hưởng. Bốn là, về công tác quản lý được phát triển theo hướng phân định rõ chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của người sử dụng lao động, đại diện người sử dụng lao động và cơ quan nhà nước Hàng năm, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, các đơn vị dự toán phải xây dựng kế hoạch thu BHXH trong năm. Từ năm 1995 - 1999, công tác lập kế hoạch thu chỉ quy định trách nhiệm của BHXH cấp tỉnh và cấp huyện. Từ năm 2000 đến năm 2006 Quyết định số 2902/1999/QĐ - BHXH ngày 23/11/1999 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam đã quy định rõ trách nhiệm của BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh và huyện. Thời hạn nộp kế hoạch thu được quy định lại trước ngày 31/10 hàng năm với mục đích BHXH Việt Nam có thể tổng hợp và xem xét, giao chỉ tiêu kế hoạch thu cho BHXH cấp tỉnh sao cho phù hợp. Từ năm 2007 trở đi, theo Quyết định số 902/QĐ - BHXH, ngày 26/6/2007 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam thực hiện theo Luật BHXH. Về cơ bản, quy trình lập kế hoạch thu theo quy định tại Quyết định số 2902/1999/QĐ - BHXH, Quyết định số 722/2003/QĐ - BHXH và Quyết định số 902/QĐ - BHXH không khác nhau; nhưng những quy định trong Quyết định số 722/2003/QĐ - BHXH và Quyết định số 902/QĐ - BHXH có tính khoa học hơn, thể hiện ở chỗ, BHXH Việt Nam lập kế hoạch thu không chỉ dựa trên kế hoạch thu do BHXH tỉnh gửi đến mà còn căn cứ vào tình hình thực hiện kế hoạch năm của BHXH các địa phương cũng như tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Quy trình lập kế hoạch thu theo quy định tại Quyết định số 902/QĐ - BHXH ngày 26/6/2007 như sau: BHXH huyện căn cứ vào Danh sách lao động, quỹ lương trích nộp BHXH của các đơn vị và đối tượng tham gia BHXH do BHXH huyện quản lý để thực hiện kiểm tra, đối chiếu, tổng hợp và lập 2 bản kế hoạch thu BHXH năm sau, một bản lưu tại BHXH huyện, một bản gửi BHXH tỉnh trước ngày 20/10 hàng năm. BHXH tỉnh căn cứ danh sách lao động, quỹ lương trích nộp BHXH của các đơn vị do BHXH tỉnh trực tiếp thu, thực hiện kiểm tra, đối chiếu, lập kế hoạch thu BHXH năm sau. Đồng thời tổng hợp kế hoạch thu BHXH của các huyện, lập hai bản, một bản lưu tại BHXH tỉnh, một bản gửi BHXH Việt Nam trước ngày 31/10. BHXH Việt Nam căn cứ tình hình thực hiện kế hoạch năm của BHXH các địa phương và tình hình phát triển kinh tế xã hội, căn cứ kế hoạch thu BHXH do BHXH các tỉnh lập để giao số kiểm tra về thu BHXH cho BHXH các tỉnh trước ngày 15/11 hàng năm. Căn cứ số kiểm tra của BHXH Việt Nam giao cho, BHXH tỉnh đối chiếu với tình hình thực tế trên địa bàn đang quản lý, nếu chưa phù hợp thì phản ánh về BHXH Việt Nam để xem xét, điều chỉnh. BHXH tỉnh căn cứ dự toán thu BHXH của BHXH Việt Nam giao, tiến hành phân bổ dự toán thu BHXH cho các đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh và BHXH huyện trước ngày 15/01 của năm kế hoạch để triển khai thực hiện. Việc lập kế hoạch thu đóng vai trò quan trọng, đòi hỏi đơn vị lập kế hoạch phải nắm rõ tình hình thực tế và tốc độ phát triển về lao động, quỹ lương trên địa bàn được phân cấp quản lý. Cán bộ làm công tác này phải có trình độ nghiệp vụ vững, am hiểu và dự đoán được những diễn biến của tình hình kinh tế - xã hội trong nước, trong địa bàn và của các đơn vị sử dụng lao động. Lập kế hoạch thu sát với tình hình thực tiễn thì công tác thu sẽ thuận lợi, đảm bảo khai thác tối đa tiềm năng. Ngược lại, công tác thu sẽ trở nên khó khăn, nặng nề do phải chạy theo chỉ tiêu kế hoạch quá cao. Kế hoạch thu và kết quả thực hiện kế hoạch thu của BHXH Hà Tĩnh được thể hiện trên Bảng 2.2. Bảng 2.2: Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHXH của tỉnh Hà Tĩnh (giai đoạn 2003 - 2007) Đơn vị tính: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 Số kế hoạch 96,5 101 130 146 187 Số thực hiện 96,85 101,3 131 151 194 Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch 100,3% 100,3% 100,7% 103,4% 103,7% Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh [6]. Số liệu bảng 2.2 cho thấy, việc thực hiện kế hoạch thu được giao ở BHXH Hà Tĩnh qua các năm sát với thực tế. Kế hoạch thu BHXH và thực hiện sát nhau. Điều đó cho thấy công tác lập kế hoạch thu được chú trọng hơn nên số dự toán thu đề ra hàng năm chỉ chênh lệch từ 0 - 4% so với số thực thu BHXH. Để xây dựng và thực hiện kế hoạch thu BHXH, cơ quan quản lý đã tập trung vào ba nội dung. Một là, quản lý đối tượng tham gia BHXH; hai là quản lý quỹ lương trích nộp BHXH; ba là quản lý tiền thu BHXH. Về quản lý đối tượng tham gia BHXH. Quản lý đối tượng tham gia BHXH là một trong những vấn đề mấu chốt của nghiệp vụ thu BHXH. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng kế hoạch thu BHXH Bảng 2.3: Đối tượng tham gia BHXH của tỉnh Hà Tĩnh Đơn vị tính: Người Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 Số đối tượng tham gia BHXH 43.484 45.139 51.353 54.189 56.578 Trong đó: Khối Hành chính sự nghiệp, Đảng, Đoàn thể 28.184 28.797 29.209 29.970 29.430 Khối Doanh nghiệp Nhà nước 11.661 11.650 11.007 9.684 9.406 Khối Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh 2.259 2.785 4.294 6.607 7.891 Khối Doanh nghiệp có vốn đầu tư Nước ngoài 212 231 230 286 311 Ngoài công lập 1.137 1.567 2.057 2.444 2.881 Hợp tác xã 31 109 386 587 756 Xã, phường 4.432 4.224 4.151 4.373 5.612 Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh [6]. BiÓu ®å 2.1: Lao ®éng tham gia BHXH Hµ TÜnh (tõ n¨m 2003 -2007) 0 4000 8000 12000 16000 20000 24000 28000 32000 2003 2004 2005 2006 2007 HCSN, § ¶ng, ®oµn thÓ DNNN DN NQD Khèi kh¸c (Sè ®èi t­ î ng: Ng­ êi) Qua số liệu Bảng 2.3, chúng ta có thể thấy rằng, số lao động hàng năm đều tăng lên. Trong đó, khối hành chính sự nghiệp, Đảng, Đoàn thể, xã phường cơ bản ổn định hàng năm không biến động lớn. Biến động nhiều nhất là khối doanh nghiệp Nhà nước và khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều đó phản ánh đúng tình hình phát triển kinh tế xã hội trong những năm qua. Các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá, cơ cấu lại lao động phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh, do đó, số lao động giảm. Các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,... được cấp giấy phép thành lập với số lượng lớn ngày càng tăng qua các năm vì vậy đã thu hút một lực lượng lớn lao động tham gia BHXH. Lao động tham gia BHXH ở khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn ít. Điều đó cho thấy ở Hà Tĩnh chưa có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đóng trên địa bàn hoạt động sản xuất kinh doanh. ở đây cũng cần nhận thấy rằng, thực tế thời gian qua một số chủ sử dụng lao động nhận thức không nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với việc đóng BHXH cho người lao động. Do đó, vẫn còn không ít doanh nghiệp gian lận trong kê khai số lao động tham gia nộp BHXH, trốn tránh đóng BHXH cho người lao động. Theo số liệu của Sở lao động - Thương binh và Xã hội, đến hết năm 2007, tỉnh Hà Tĩnh có 1.442 doanh nghiệp các loại, thu hút 44.480 lao động, trong đó, mới chỉ có có 574 doanh nghiệp nộp BHXH cho 18.364 lao động, chiếm tỷ lệ 40% doanh nghiệp và 41% lao động tham gia BHXH. Một số đơn vị làm ăn không có hiệu quả, công nhân không có việc làm phải ra làm ngoài và nộp nghĩa vụ BHXH cho doanh nghiệp dẫn đến gánh nặng tài chính đối với doanh nghiệp. Cá biệt ở một số đơn vị, công nhân phải đóng toàn bộ 20% BHXH. Khoản đóng góp này so với mức thu nhập của công nhân là quá cao. Do vậy nhiều người đã buộc phải xin ra khỏi biên chế. Một bộ phận doanh nghiệp lo sợ về gánh nặng 15% nộp BHXH phải tính vào chi phí doanh nghiệp nên đã sử dụng các hình thức như không ký kết hợp đồng lao động, hoặc ký kết hợp đồng lao động ít hơn lao động thực tế, ký thời hạn hợp đồng với người lao động dưới 3 tháng…Một bộ phận doanh nghiệp ngoài quốc doanh có đăng ký sản xuất kinh doanh nhưng không trích nộp BHXH cho người lao động, tìm mọi cách né tránh trốn đóng BHXH. Về quản lý quỹ lương trích nộp BHXH, đây cũng là cơ sở quan trọng để lập kế hoạch thu BHXH. Cơ quan BHXH quản lý tốt quỹ lương trích nộp BHXH sẽ là điều kiện xây dựng kế hoạch thu BHXH sát với thực tế (xem Bảng 2.4). Bảng 2.4: Tình hình quỹ lương trích nộp BHXH ở tỉnh Hà Tĩnh Đơn vị tính: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Quỹ lương trích nộp BHXH 386,8 399,5 491,6 683,3 828,4 Trong đó: Khối Hành chính sự nghiệp, Đảng, Đoàn thể 253 258 314 435 506 Khối Doanh nghiệp 92 93 106 129 144 Khối Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh 13,7 16,5 31 61 89 Khối Doanh nghiệp có vốn đầu tư Nước ngoài 1,7 2,2 3 3,3 4 Ngoài công lập 4,2 5,7 8,4 13 19 Hợp tác xã 0,05 0,3 1,2 3 4,4 Xã, phường 25 26 28 39 62 Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh [6] Số liệu trên cho thấy quỹ lương tăng liên tục qua các năm. Điều đó cũng có nghĩa là số lao động có thu nhập tăng. Tuy nhiên, số liệu trên đây chưa phản ánh đúng quỹ lương thực tế phải trích nộp BHXH trên địa bàn tỉnh. Như vậy, với việc không khai báo đầy đủ lao động, theo đó, quỹ lương trích nộp BHXH của đơn vị cũng không được kê khai đúng, đủ. Đây là vấn đề phổ biến xảy ra ở nhiều đơn vị sử dụng lao động, nhất là khối các đơn vị sản xuất kinh doanh không có hiệu quả. * Tổ chức thu BHXH Tổ chức thu của BHXH Hà Tĩnh đã được thực hiện khá tốt. Hàng tháng, cơ quan BHXH tiến hành thông báo nợ BHXH đến các chủ sử dụng lao động, tăng cường công tác tuyên truyền cho chủ sử dụng lao động, người lao động có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác BHXH thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: truyền hình, đài, báo… Cơ quan BHXH biểu dương kịp thời các đơn vị làm tốt công tác BHXH đồng thời đưa ra công luận các đơn vị cố tình không thực hiện nghĩa vụ nộp BHXH, nợ đọng BHXH kéo dài. Mặt khác, công tác cấp, quản lý và kiểm tra cấp sổ BHXH được BHXH Hà Tĩnh coi trọng, xác định sổ BHXH là một trong những công cụ quan trọng trong quản lý thu BHXH của người lao động, của đơn vị. Đây cũng là cơ sở gắn việc thực hiện nghĩa vụ trích nộp BHXH với quyền lợi được hưởng các chế độ BHXH. Hơn nữa cơ quan BHXH cử cán bộ chuyên quản thu BHXH thường xuyên bám sát doanh nghiệp đôn đốc thực hiện nộp BHXH. Đồng thời tổ chức làm việc trực tiếp với các đơn vị nợ đọng BHXH để cùng đơn vị tháo gỡ khó khăn, trên cơ sở giúp doanh nghiệp hiểu rõ và nhận thức đúng đắn về công tác BHXH từ đó doanh nghiệp cam kết việc thực hiện nộp BHXH. Ngoài ra, cơ quan BHXH còn triệt để áp dụng nguyên tắc có thu nộp BHXH đầy đủ mới giải quyết chế độ chính sách BHXH. Với những biện pháp nói trên tổ chức thu của BHXH Hà Tĩnh đã đạt được những kết quả quan trọng. Số tiền thu BHXH ngày càng tăng liên tục qua các năm. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều doanh nghiệp nợ tiền BHXH, chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Số tiền BHXH nợ đọng còn khá lớn. Tại thời điểm 31/12/2007, tổng dư nợ của BHXH Hà Tĩnh là 8,7 tỷ, trong đó khối các doanh nghiệp nợ 6,9 tỷ, chiếm 79,3% tổng số nợ BHXH của cả tỉnh [6]. * Kiểm tra thực hiện thu BHXH Kiểm tra thực hiện thu BHXH là một nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên của cơ quan BHXH, nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm về thu BHXH. Cơ quan quản lý thu BHXH là đơn vị kiểm tra thường xuyên việc thu BHXH. Mặt khác, Giám đốc BHXH tỉnh có thể ra quyết định kiểm tra một số đơn vị sử dụng lao động và BHXH các huyện, thị xã, thành phố. Uỷ ban Nhân dân tỉnh quyết định thành lập các đoàn thanh tra liên ngành, bao gồm BHXH - Liên đoàn Lao động - Sở Lao động Thương binh và Xã hội. Đoàn thanh tra liên ngành cũng có thể tiến hành kiểm tra việc đóng BHXH của một số đơn vị sử dụng lao động. Từ năm 1995 đến năm 2007, Hà Tĩnh đã tổ chức nhiều cuộc kiểm tra về công tác thu BHXH, qua kiểm tra có một số vấn đề nổi lên. ở các đơn vị sử dụng lao động, qua kiểm tra cho thấy các doanh nghiệp đã có nhiều cố gắng và có ý thức trách nhiệm thực hiện đóng BHXH cho người lao động. Tuy tình hình sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nhưng họ vẫn đóng nộp đầy đủ BHXH, đảm bảo chế độ BHXH cho người lao động. Tuy nhiên, qua kiểm tra, vẫn còn tình trạng một số doanh nghiệp cố tình trốn tránh việc tham gia BHXH cho người lao động; một số doanh nghiệp khác kê khai không đầy đủ số lao động phải tham gia BHXH bắt buộc theo luật định, hoặc đăng ký mức lương tham gia BHXH thấp, bằng mức lương tối thiểu làm ảnh hưởng đến chế độ, quyền lợi của người lao động; tình trạng đóng BHXH không kịp thời và nợ đọng. Nhiều doanh nghiệp chỉ thực hiện ký hợp đồng thời vụ và không tham gia đóng BHXH cho người lao động. Thực hiện Quyết định số 1023/QĐ-LĐTBXH ngày 15/9/2006 của Giám đốc Sở Lao động Thương binh và Xã hội, đoàn kiểm tra liên ngành đã tiến hành kiểm tra và kết quả cho thấy, ở Tổng công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh, có 509 lao động chỉ được ký hợp đồng thời vụ trong nhiều năm và không được tham gia BHXH. Tương tự như vậy, tại Công ty May xuất khẩu Thành công Hà Tĩnh, có 156 người, Công ty Cổ phần Gạch ngói Cầu họ có 66 người, Công ty Cổ phần Xây dựng số 1 có 122 người, Công ty Cổ phần xây dựng Sông Đà 27 có 220 người cũng không được tham gia BHXH. Một số doanh nghiệp nợ BHXH vẫn còn lớn như Công ty Cổ phần Xây dựng số 1 nợ 200 triệu đồng, Công ty Công trình 474 nợ 435 triệu đồng, Công ty Xây dựng Cầu đường nợ 297,5 triệu đồng... ở các đơn vị thuộc hệ thống BHXH Hà Tĩnh, qua kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước, của BHXH Việt Nam về thu BHXH, có thể thấy rằng, về cơ bản, BHXH ở các huyện, thị xã, thành phố đã chấp hành nghiêm chỉnh, đúng các quy định về quy trình thu BHXH. Tuy nhiên, quản lý thu BHXH còn có hạn chế. Cán bộ chuyên quản thu BHXH ở một số địa phương chưa thực hiện đầy đủ các bước trong quá trình thẩm định hồ sơ tham gia BHXH ban đầu của người lao động. Việc đối chiếu xác định công nợ hoặc đối chiếu số liệu thu gộp hai ba quý một lần, khai thác nguồn thu BHXH còn thụ động, chủ yếu trông chờ các đơn vị sử dụng lao động tự đến đăng ký tham gia. Tuy nhiên, các cuộc kiểm tra liên ngành có sự tham gia của Sở lao động thương binh và xã hội và Liên đoàn lao động tỉnh vẫn còn ít, kết quả xử lý sau kiểm tra chưa cao. 2.2.2.2. Thực trạng quản lý chi các chế độ bảo hiểm xã hội * Lập kế hoạch chi các chế độ BHXH Hàng năm, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, cơ quan BHXH huyện tổng hợp kế hoạch chi BHXH của các đơn vị sử dụng lao động và dự kiến điều chỉnh tăng giảm số các đối tượng hưởng BHXH tăng, giảm các chế độ trợ cấp BHXH thường xuyên trên địa bàn, gửi cơ quan BHXH tỉnh theo mẫu. Kế hoạch chi BHXH được gửi chậm nhất vào ngày 30 tháng 9 cho kế hoạch năm sau. Việc xây dựng kế hoạch chi được căn cứ vào các nội dung sau. i) Căn cứ vào số người đang hưởng chế độ BHXH và kinh phí chi cho các chế độ BHXH trên địa bàn, theo nguồn do Ngân sách Nhà nước cấp và nguồn quỹ BHXH đảm bảo. ii) Căn cứ vào dự toán đơn vị cấp dưới lập gửi lên, đơn vị cấp trên kiểm tra và giao chỉ tiêu kế hoạch cho đơn vị dự toán cấp dưới để làm căn cứ tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả hoàn thành công tác của đơn vị. iii) Căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch được giao và các quy định về quản lý chi, các đơn vị tổ chức thực hiện theo các chỉ tiêu kế hoạch được giao. Tổ chức hạch toán, kế toán, thống kê các nghiệp vụ kinh tế phát sinh kịp thời, đầy đủ vào trong hệ thống chứng từ, sổ sách kế toán theo quy định. Cuối quý và cuối năm, BHXH các huyện, thị xã, thành phố đều phải lập báo cáo quyết toán tài chính của đơn vị và gửi lên BHXH tỉnh. BHXH tỉnh kiểm tra, xét duyệt báo cáo quyết toán của BHXH các huyện trước khi ra thông báo chuẩn y quyết toán cho đơn vị dự toán cấp dưới * Tổ chức thực hiện chi các chế độ BHXH Để thực hiện chi trả chế độ BHXH chính xác kịp thời, trước hết cần phải quản lý đối tượng chi trả. Về quản lý đối tượng chi trả chế độ BHXH Đối tượng được chi trả chế độ BHXH gồm hai loại là đối tượng hưởng chế độ BHXH dài hạn và đối tượng hưởng chế độ BHXH ngắn hạn. Đối tượng hưởng chế độ BHXH dài hạn bao gồm những người hưởng các chế độ hưu trí, mất sức, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiêp, tử tuất. Các đối tượng được hưởng chế độ BHXH dài hạn ở Hà Tĩnh khá đông, thường xuyên có biến động về số lượng do tăng mới bổ sung, chết hoặc hết thời hạn được hưởng chế độ BHXH. Do đó, quản lý đối tượng được chi trả BHXH dài hạn khá phức tạp. Trước đây, (từ năm 1995 đến 1998), việc chi trả chế độ BHXH được cơ quan BHXH uỷ quyền cho các xã, phường. Danh sách đối tượng được hưởng chế độ BHXH do xã, phường lập. Do số lượng đối tượng loại này rất lớn, không có nhiều biến động nên việc đối chiếu hồ sơ và danh sách chi trả rất phức tạp và tốn nhiều công sức và không tránh khỏi sai sót. Từ năm 1998 đến nay, BHXH đã triển khai chương trình quản lý đối tượng chi trả bằng phần mềm máy tính, đồng thời thực hiện việc in danh sách chi trả tại BHXH tỉnh, với tổng số 62.000 người được hưởng chế độ BHXH dài hạn. Việc đổi mới quản lý đối tượng chi trả BHXH đã hạn chế được nhiều sai sót và giảm thiểu được thời gian và sức lực của những người quản lý đối tượng khi đối chiếu giữa hồ sơ và danh sách chi trả thực tế. Cùng với việc quản lý đối tượng bằng máy tính, BHXH Hà Tĩnh còn chỉ đạo BHXH cấp huyên đối chiếu giữa danh sách chi trả và hồ sơ lưu tại huyện. Trường hợp thiếu hồ sơ, cơ quan BHXH sẽ thực hiện sao lục tại phòng Tiếp nhận và quản lý hồ sơ BHXH tỉnh. Bảng 2.5 và Bảng 2.6 dưới đây cho thấy số đối tượng được hưởng BHXH dài hạn đã được BHXH Hà Tĩnh quản lý từ năm 1995 đến nay. Bảng 2.5: Tổng hợp đối tượng hưởng chế độ BHXH từ nguồn Ngân sách Nhà nước Đơn vị tính: Người Thời điểm HQ HC MSLĐ TNLĐ BNN P.Vụ TNLĐ ĐSCB ĐSND Tổng số 31/12/1995 5.812 32.345 10.185 167 10 7.853 232 56.604 31/12/1996 5.758 31.845 10.174 178 10 7.778 227 55.970 31/12/1997 5.693 31.362 10.120 204 10 7.693 231 55.313 31/12/1998 5.593 30.908 10.018 254 10 7.680 206 54.669 31/12/1999 5.515 30.445 9.962 278 9 7.530 195 53.934 31/12/2000 5.433 29.942 9.833 285 9 7.253 159 52.914 31/12/2001 5.362 29.454 9.682 293 9 7.222 145 52.167 31/12/2002 5.275 28.910 9.538 289 8 7.268 117 51.405 31/12/2003 5.195 28.389 9.402 288 9 7.353 102 50.738 31/12/2004 5.093 27.865 9322 279 9 7.473 91 50.032 31/12/2005 4.979 27.233 9.036 282 9 7.521 80 49.140 31/12/2006 4.784 26.440 8.801 317 6 7.796 73 48.217 31/12/2007 4.664 25.856 8.638 315 5 7.803 67 47.348 Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh [2]. Bảng 2.6: Tổng hợp đối tượng hưởng chế độ BHXH từ nguồn quỹ BHXH Đơn vị tính: Người Thời điểm HQ HC HX TNLĐ- BNN P.vụ TNLĐ Tuất ĐSCB Tuất ĐSND Tổng số 31/12/1995 10 12 0 14 0 32 1 69 31/12/1996 47 77 0 32 0 133 4 293 31/12/1997 142 193 0 63 0 325 6 729 31/12/1998 216 433 0 104 1 476 7 1.237 31/12/1999 341 878 0 140 2 707 7 2.075 31/12/2000 436 1.418 32 168 2 887 8 2.951 31/12/2001 490 2.105 121 186 2 1.009 8 3.921 31/12/2002 592 2.942 159 246 5 1.204 9 5.157 31/12/2003 649 3.911 179 300 5 1.399 9 6.452 31/12/2004 733 5.638 292 340 10 1.536 13 8.562 31/12/2005 808 7.210 403 405 12 1.674 11 10.523 31/12/2006 902 9041 427 423 3 1.812 12 12.620 31/12/2007 1.041 10.541 438 470 3 1.868 13 14.374 Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh [3]. 0 10000 20000 30000 40000 50000 60000 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Nguån NS Nhµ n­ í c Nguån Quü BHXH Nguån NS nhµ n­ í c Nguån Quü BHXH BiÓu ®å 2.2: § èi t- î ng h- ëng chÕ ®é BHXH TØnh Hµ TÜnh tõ n¨m 1995 - 2007(Sè ®èi t­ î ng: Ng­ êi ) Bên cạnh việc quản lý đối tượng hưởng các chế độ BHXH dài hạn, BHXH còn phải quản lý chi trả đối tượng hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn. Đối tượng này gồm những người hưởng trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khoẻ, hưởng trợ cấp một lần và truy lĩnh. Những người được hưởng trợ cấp BHXH ngắn hạn (ốm đau) đây là những người lao động đang tham gia BHXH không may bị ốm đau hoặc người lao động con ốm phải nghỉ việc. Cơ quan BHXH phải thanh toán trợ cấp BHXH trong thời gian người lao động nghỉ ốm. Chế độ BHXH thai sản được áp dụng đối với lao động nữ mang thai; lao động nữ sinh con; người lao động nhận nuôi con nuôi dưới bốn tháng tuổi; người lao động đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản. Chế độ BHXH nghỉ dưỡng sức được áp dụng đối với người lao động sau thời gian nghỉ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp vẫn chưa phục hồi sức khoẻ. Trong thời gian vừa qua, việc quản lý đối tượng chi trả BHXH ở BHXH Hà Tĩnh đã đạt được nhiều kết quả tốt, đã phát hiện nhiều trường hợp hưởng quá thời hạn quy định như mất sức lao động, tuất quá tuổi... Tuy nhiên, việc quản lý đối tượng được hưởng BHXH ở Hà Tĩnh còn gặp một số khó khăn, hạn chế. Hệ thống tài liệu quản lý đối tượng chưa có đủ dữ liệu để nhận diện đối tượng nhất là những trường hợp đối tượng ở vùng sâu, vùng xa bị chết rất khó quản lý. Về phương thức chi trả chế độ BHXH Hiện nay hàng tháng, BHXH Hà Tĩnh tổ chức cấp phát cho BHXH các huyện, thị, thành phố với số tiền 80 tỷ đồng dùng để chi trả cho các loại đối tượng hưởng BHXH. Việc tổ chức chi trả được thực hiện theo hai phương thức chính là chi trả trực tiếp và chi trả gián tiếp. Chi trả trực tiếp là việc cơ quan BHXH các cấp trực tiếp chi trả chế độ BHXH đến từng đối tượng hưởng BHXH. Chi trả gián tiếp là việc cơ quan BHXH thông qua các đại lý ở xã, phường và đơn vị sử dụng lao động uỷ quyền thanh toán chi trả các khoản trợ cấp BHXH cho người hưởng chế độ BHXH Về phương thức chi trả các chế độ BHXH dài hạn, BHXH Hà Tĩnh đã phân cấp cho BHXH cấp huyện tổ chức thực hiện. Hầu hết các cơ quan BHXH cấp huyện ở Hà Tĩnh đều áp dụng hai phương thức chi trả chế độ BHXH dài hạn. Một là, phương thức chi trả trực tiếp, do cán bộ cơ quan BHXH trực tiếp thực hiện. Hai là, phương thức chi trả gián tiếp, cơ quan BHXH chi trả thông qua các đại lý ở các xã, phường. Cơ quan BHXH huyện ký hợp đồng uỷ quyền cho các đại lý chi trả chế độ cho các đối tượng. Trong thời gian qua, việc tổ chức quản lý và thực hiện chi trả các chế độ của BHXH Hà Tĩnh về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của các đối tượng. Tuy nhiên, trong thực hiện chi trả vẫn còn khó khăn đó là hàng tháng Hà Tĩnh phải chi trả một số lượng tiền mặt lớn, nhất là vào những dịp tết Nguyên đán phải chi 2 tháng lương hưu và trợ cấp BHXH trước tết cho đối tượng hưởng BHXH. Trong khi đó, tội phạm trên địa bàn ngày càng có xu hướng gia tăng, phương tiện quản lý an toàn tiền mặt trong quá trình chi trả chưa đảm bảo. BHXH cấp huyện không có phương tiện vận chuyển tiền đi chi trả phải đi thuê phương tiện hàng tháng. Đối tượng đến nhận lương hưu và trợ cấp BHXH nhưng không có sổ lĩnh tiền lương nên việc chi trả gặp khó khăn khi thực hiện như xếp thứ tự, nhận diện đối tượng. Một vấn đề nữa là các đối tượng nhận lương hưu và trợ cấp BHXH cũng đồng thời là đối tượng người có công. Trong khi đó, chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH do ngành BHXH thực hiện còn chi trả trợ cấp người có công do ngành lao động thương binh và xã hội thực hiện. Lịch chi trả hai loại chế độ này thường lệch nhau. Do đó, các đối tượng hưởng chế độ phải đi lĩnh hai lần, rất mất thời gian và công sức. Dù là chi trả trực tiếp hay chi trả gián tiếp, một yêu cầu đặt ra là việc chi trả phải đảm bảo nhanh, thanh quyết toán kịp thời, tiền chi trả đảm bảo đủ, đúng, đến tận tay đối tượng. Thực tế quản lý chi trả của BHXH Hà Tĩnh thời gian qua đã đạt được yêu cầu đó (xem Bảng 2.7). Bảng 2.7: Tình hình chi trả chế độ của BHXH Hà Tĩnh (từ năm 2003 - 2007) Đơn vị: % so với tổng kinh phí chi trả Phương thức chi trả Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Bình quân Trực tiếp 46 46 47 50 53 48,4 Gián tiếp 54 54 53 50 47 51,6 Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh [2], [3]. Về phương thức chi trả chế độ BHXH ngắn hạn (ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức), cơ quan BHXH Hà Tĩnh đã uỷ quyền cho các đơn vị sử dụng lao động thực hiện chi trả cho người lao động của đơn vị. Đối với chi trả chế độ trợ cấp một lần và truy lĩnh, BHXH tỉnh phân cấp toàn bộ cho BHXH cấp huyện thực hiện các khoản chi đó. Các chế độ đó gồm: Trợ cấp lần đầu cho người lao động có thời gian công tác trên 30 năm đối với nam và trên 25 năm đối với nữ; chi 1 lần cho người lao động chưa đủ điều kiện nghỉ hưu; trợ cấp tử tuất một lần và mai táng phí của người đang lao động hoặc nghỉ hưu chết; trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp một lần cho cán bộ công chức tại chức, bị tai nạn hoặc bệnh nghề nghiệp; chi truy lĩnh điều chỉnh chế độ cho đối tượng đã hưởng trợ cấp hàng tháng theo chính sách Nhà nước. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, có khoảng trên 56 ngàn người lao động tham gia BHXH. Đây cũng là số người được hưởng chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức. Các đối tượng này được phân bổ ở các vùng địa lý rất khác nhau. Do đó, việc tổ chức chi trả và kiểm soát quá trình chi trả rất phức tạp. Tuy nhiên, các cơ quan BHXH đã quản lý việc chi trả chế độ BHXH cho người lao động khá tốt. Bảng 2.8 cho thấy kết quả chi trả chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức cho người lao động ở Hà Tĩnh tham gia BHXH từ năm 2003 đến nay. Bảng 2.8: Tình hình chi trả chế độ ốm đau, thai sản và nghỉ dưỡng sức tại Hà Tĩnh (2003 - 2007) Đơn vị tính: Nghìn đồng Chế độ Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 ốm đau 3.967.000 4.890.000 5.790.000 6.232.000 6.545.000 Thai sản 4.945.000 5.578.000 6.456.000 7.542.000 8.231.000 Dưỡng sức 2.310.000 2.401.000 2.941.000 4.001.000 3.527.000 Tổng chi 11.222.000 12.869.000 15.187.000 17.775.000 18.303.000 Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh [4]. Về quy trình chi trả chế độ BHXH Quy trình chi trả chế độ BHXH dài hạn được thực hiện theo quy định của BHXH Việt Nam (Xem sơ đồ 2.2) Sơ đồ 2.2: Quy trình chi trả chế độ BHXH thường xuyên dài

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Hoàn thiện quản lý tài chính của Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh.pdf
Tài liệu liên quan