Tài liệu Luận văn Hoàn thiện quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh: LUẬN VĂN:
Hoàn thiện quản lý tài chính của
Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống an sinh xã hội nói chung và hệ thống BHXH nói riêng có vai trò rất quan
trọng trong việc hỗ trợ các thành viên trong xã hội trước những rủi ro do những cú sốc vĩ
mô, cả những cú sốc về kinh tế và cú sốc về tự nhiên, gây ra. Do đó, BHXH và an sinh xã
hội là những lĩnh vực được chính phủ các quốc gia trên thế giới rất quan tâm. Chính sách
BHXH luôn được coi là một trong những công cụ quan trọng được chính phủ sử dụng
nhằm thực hiện mục tiêu ổn định, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
ở Việt Nam, ngay từ khi giành được độc lập, Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
mới ra đời, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã rất chú trọng tới việc thực hiện chính sách
BHXH đối với người lao động, ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
BHXH Hà Tĩnh là một bộ phận cấu thành BHXH Việt Nam. BHXH Hà Tĩnh có
chức năng trực tiếp thực hiện các chế độ chính sách BHXH của ...
89 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hoàn thiện quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện quản lý tài chính của
Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống an sinh xã hội nói chung và hệ thống BHXH nói riêng có vai trò rất quan
trọng trong việc hỗ trợ các thành viên trong xã hội trước những rủi ro do những cú sốc vĩ
mô, cả những cú sốc về kinh tế và cú sốc về tự nhiên, gây ra. Do đó, BHXH và an sinh xã
hội là những lĩnh vực được chính phủ các quốc gia trên thế giới rất quan tâm. Chính sách
BHXH luôn được coi là một trong những công cụ quan trọng được chính phủ sử dụng
nhằm thực hiện mục tiêu ổn định, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
ở Việt Nam, ngay từ khi giành được độc lập, Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
mới ra đời, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã rất chú trọng tới việc thực hiện chính sách
BHXH đối với người lao động, ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
BHXH Hà Tĩnh là một bộ phận cấu thành BHXH Việt Nam. BHXH Hà Tĩnh có
chức năng trực tiếp thực hiện các chế độ chính sách BHXH của Nhà nước đối với người
lao động trên địa bàn Hà Tĩnh. Trong những năm qua, BHXH Hà Tĩnh đã đạt được
những kết quả quan trọng. Số đơn vị sử dụng lao động và số người lao động tham gia
BHXH không ngừng tăng lên. Nguồn thu BHXH cũng gia tăng liên tục và là điều kiện
hết sức quan trọng để thực hiện các chế độ BHXH, hỗ trợ tích cực cho người lao động
trước những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, mất sức lao động, giảm thu nhập do hết
tuổi lao động...Các chế độ BHXH của người lao động được thực hiện khá tốt. Những
thành công đó bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng
từ sự đổi mới quản lý BHXH, đổi mới quản lý tài chính của ngành BHXH Hà Tĩnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công quan trọng đó, quản lý BHXH nói chung
và quản lý tài chính BHXH nói riêng ở Hà Tĩnh còn có những hạn chế, cần được khắc
phục trong thời gian tới. Tình trạng nợ đọng kéo dài với số lượng lớn tiền đóng BHXH
của các đơn vị sử dụng lao động đã tồn tại trong thời gian dài nhưng vẫn chưa được khắc
phục. Cơ quan BHXH chưa kiểm soát hết số lao động phải tham gia BHXH bắt buộc.
Nhiều đơn vị sử dụng lao động vẫn gian lận trong việc đăng ký tham gia BHXH cho
người lao động, gian lận trong việc kê khai quỹ lương đóng BHXH,...Do đó, quyền lợi
của người lao động bị vi phạm. Quản lý chi các chế độ cho người hưởng BHXH vẫn còn
nhiều vấn đề phải khắc phục. Việc sử dụng kinh phí cho hoạt động trong cơ quan BHXH
chưa thật sự hiệu quả. Đây là những khó khăn lớn đối với quản lý tài chính của BHXH
Hà Tĩnh trong nhiều năm qua cần được giải quyết, bảo đảm cho người lao động được
tham gia BHXH và thụ hưởng các chế độ, chính sách BHXH thuận lợi hơn.
Thực tế đó đặt ra yêu cầu cần có sự nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện vấn
đề quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh, nhằm tìm ra giải pháp hoàn thiện quản lý tài
chính của BHXH Hà Tĩnh, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của Hà
Tĩnh trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng
hơn vào nền kinh tế thế giới. Chính vì lẽ đó, tôi chọn vấn đề " Hoàn thiện quản lý tài
chớnh của Bảo hiểm xó hội Hà Tĩnh " làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi có mong muốn và hy vọng đóng góp một phần
vào quá trình nghiên cứu chung đó, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài chính của
BHXH Hà Tĩnh, bảo đảm thực hiện tốt hơn chính sách BHXH của Nhà nước trên địa bàn
Hà Tĩnh, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Hà Tĩnh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, hoạt động BHXH ở nước ta đã được tổ chức thực hiện theo
cơ chế mới. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về BHXH nói chung, tài
chính BHXH nói riêng. Sau đây là một số công trình tiêu biểu:
- TS. Nguyễn Văn Châu (chủ nhiệm đề tài - 1996): "Thực trạng quản lý thu BHXH
hiện nay và các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác thu".
- TS. Nguyễn Huy Ban (chủ nhiệm đề tài - 1999): "Chiến lược phát triển BHXH
phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020".
- Đỗ Văn Sinh (2005): “Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam”, Luận án Tiến
sĩ kinh tế.
- Trần Quốc Toàn (năm 1999): “Quản lý tài chính BHXH trên địa bàn tỉnh Nghệ
An", Luận văn thạc sĩ kinh tế.
Với nhiều góc độ khác nhau, từ cách tiếp cận, mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên
cứu, các đề tài trên đã đề cập đến các lĩnh vực hoạt động của BHXH. Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ về "Thực trạng quản lý thu BHXH hiện nay và các biện pháp nâng cao
hiệu quả công tác thu" của TS. Nguyễn Văn Châu đã nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm
quản lý thu BHXH của một số nước trên thế giới, tổng kết đánh giá thực tiễn hoạt động
quản lý thu BHXH của Việt Nam giai đoạn trước năm 1995 và những năm đầu khi
BHXH Việt Nam mới thành lập và đi vào hoạt động từ 1995 đến 1996. Tác giả đã đưa ra
một số khuyến nghị để đổi mới nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH ở Việt Nam. Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về "Chiến lược phát triển BHXH phục vụ mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2020" của TS. Nguyễn Huy Ban đã nghiên cứu mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển BHXH, việc thực hiện BHXH ở một số nước
trên thế giới và thực trạng chính sách BHXH ở Việt Nam, tác giả đã đưa ra những định
hướng cơ bản để phát triển BHXH ở Việt Nam. Luận án Tiến sĩ của tác giả Đỗ Văn Sinh
nghiên cứu vấn đề quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam, phân tích, đánh giá thực trạng quản
lý quỹ BHXH ở Việt Nam, đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý quỹ
ở Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ của tác giả Trần Quốc Toàn nghiên cứu về thực trạng quản
lý tài chính ở Nghệ An và đưa ra những phương hướng, mục tiêu và giải pháp tăng cường
quản lý tài chính BHXH ở Nghệ An.
Với nhiều góc độ khác nhau từ cách tiếp cận, mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên
cứu, các đề tài trên đã đề cập đến một số lĩnh vực hoạt động của BHXH và có những liên
quan nhất định đến quản lý tài chính BHXH. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu này được
thực hiện khi chưa có Luật BHXH và chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống đến công tác quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh. Để thực hiện đề tài, tác giả đã
đi sâu nghiên cứu thực trạng quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh, từ đó đề xuất các giải
pháp và kiến nghị của mình nhằm hoàn thiện quản lý tài chính phù hợp với đặc thù của
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
Mục đích của đề tài là góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý
tài chính BHXH, đánh giá thực trạng quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh và đề xuất các
giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh.
Thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá và phân tích rõ thêm cơ sở lý luận về BHXH, quản lý tài chính
BHXH.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh,
đáp ứng những yêu cầu mới về phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Tĩnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý tài chính BHXH.
Về phạm vi nghiên cứu, đề tài chỉ nghiên cứu về quản lý tài chính của BHXH Hà
Tĩnh (ở cấp tỉnh). Do vậy, quản lý tài chính BHXH được nghiên cứu ở đây gồm quản lý
thu BHXH, quản lý chi BHXH và quản lý chi cho hoạt động trong cơ quan BHXH. Các
nội dung khác của quản lý tài chính BHXH như quản lý quỹ BHXH, quản lý hoạt động
đầu tư và tăng trưởng quỹ BHXH không đề cập đến trong đề tài này.
Về thời gian, đề tài nghiên cứu quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh từ năm 1995
đến nay. Trong đó, trọng tâm nghiên cứu ở giai đoạn 2003 - 2007. Các số liệu được cập
nhật đến năm 2007.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu như phương pháp nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn,
phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống, so sánh, điều tra, thống kê phân
tích, đánh giá trên cơ sở các báo cáo tổng hợp, điều tra về tình hình kinh tế xã hội và hoạt
động BHXH Hà Tĩnh để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp sau:
- Luận văn góp phần hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về
BHXH và quản lý tài chính BHXH.
- Làm rõ nội dung quản lý tài chính BHXH.
- Đánh giá thực trạng quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh, chỉ rõ các kết quả,
hạn chế và những nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý tài chính BHXH Hà Tĩnh
trong giai đoạn tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương, 08 tiết.
Chương 1
khái quát về bảo hiểm xã hội
và quản lý tài chính bảo hiểm xã hội
1.1. khái quát chung về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
BHXH là một hoạt động đã xuất hiện từ rất lâu. Ngay từ thế kỷ 13, BHXH đã có
những mầm mống đầu tiên trên thế giới. Đến thế kỷ 19, đạo luật đầu tiên về BHXH xuất
hiện ở Đức. Trong quá trình phát triển, các chế độ BHXH và đối tượng BHXH ngày càng
được mở rộng. Theo đó, khái niệm BHXH cũng có nhiều thay đổi và ngày càng được
hoàn chỉnh.
Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về BHXH và cũng có rất nhiều
khái niệm BHXH được đưa ra.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra một định nghĩa về BHXH được chấp
nhận rộng rãi nhất.
BHXH là hình thức bảo trợ mà xã hội dành cho các thành viên của mình
thông qua nhiều biện pháp công nhằm tránh tình trạng khốn khó về mặt kinh tế và
xẫ hội do bị mất hoặc giảm đáng kể thu nhập vì bệnh tật, thai sản, tai nạn lao động,
mất sức lao động và tử vong; chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình có con nhỏ
(ILO, 1984) [44, tr.13].
Khái niệm BHXH này giống khái niệm BHXH của Việt Nam.
BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người
lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở
một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ
của Nhà nước theo pháp luật nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao
động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội [45].
Khái niệm BHXH còn được ghi rõ trong Luật BHXH, được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI thông qua ngày 29/6/2006, như sau: “BHXH là
sự sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị
giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH” [49, tr.10].
Như vậy, BHXH được coi là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập
trung được dồn tích từ sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động, theo
quy định của pháp luật, nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết những nhu cầu sinh sống thiết
yếu của người lao động và gia đình họ khi họ gặp những rủi ro dẫn đến việc giảm hoặc
mất khả năng thanh toán từ thu nhập theo lao động. Đó là xét theo góc độ kinh tế. BHXH
còn có thể xét dưới góc độ xã hội hay góc độ pháp lý.
Dưới góc độ xã hội, BHXH được coi là sự liên kết của những người lao động xuất
phát từ lợi ích chung của xã hội, của người lao động và người sử dụng lao động. Khi
tham gia quan hệ này, người lao động sẽ được hưởng một khoản trợ cấp nhất định nếu có
những biến cố rủi ro, trên cơ sở sự đóng góp của các bên.
Dưới góc độ pháp lý, BHXH được tiếp cận như trong Luật BHXH Việt Nam đã
xác định.
Nghiên cứu về BHXH, chúng ta có thể thấy có nhiều tác giả nước ngoài cũng đã
đưa ra các định nghĩa khác về BHXH hoặc bảo trợ xã hội, áp dụng riêng cho các điều
kiện ở các nước đang phát triển. Các tác giả này có chung một quan điểm là BHXH
không chỉ dừng ở việc mất đột ngột thu nhập theo dự kiến mà còn tính đến cả việc ngăn
chặn và giảm nghèo kinh niên và mang lại mức sống tối thiểu.
Cách tiếp cận BHXH mà mỗi nước lựa chọn còn tuỳ thuộc vào mục tiêu chính
sách quốc gia và điều kiện cơ cấu cụ thể của nền kinh tế.
Mặc dù khái niệm BHXH của Việt Nam được xác định trong từ điển Bách khoa
toàn thư Việt Nam cũng tương tự khái niệm BHXH mà ILO đưa ra, nhưng thực tế trong
quá trình thảo luận, xây dựng chính sách, cũng có nhiều định nghĩa BHXH khác do các tổ
chức quốc tế và trong nước đưa ra, đề cập đến các mặt khác nhau của BHXH ở Việt
Nam.
Trong đó, có nhiều định nghĩa quá rộng hoặc quá chung không thể áp
dụng trong điều kiện thực tế ở Việt Nam. Các định nghĩa khác nhau này phản
ánh không chỉ tầm nhìn khác nhau về phát triển BHXH ở Việt Nam mà còn
phản ánh cách diễn giải khác nhau đối với các kinh nghiệm quốc tế và ý nghĩa
của những kinh nghiệm đó đối với quá trình hoạch định chính sách quốc gia
[44, tr.13].
Tuy nhiên, kết quả đạt được của quá trình thảo luận về định nghĩa BHXH thích
hợp nhất ở Việt Nam được thể hiện ở bốn điểm. Thứ nhất, cần phân biệt sự khác nhau
giữa chính sách BHXH và chính sách giảm nghèo. Thứ hai, cần xác định rõ các đối tượng
hưởng lợi dự định của các chương trình và chính sách này. Thứ ba, cần phải chú ý đến vai
trò thích hợp của Nhà nước trong việc cải cách các chương trình BHXH. Thứ tư, cần xem xét
tính chất tái phân phối của chính sách BHXH trong điều kiện các nước đang phát triển [44,
tr.13].
Khái niệm BHXH được sử dụng trong toàn bộ nghiên cứu của luận văn này là khái
niệm BHXH đã được ghi trong Luật BHXH Việt Nam, được Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 06 năm 2006.
Điểm cần nói thêm ở đay là cần phân biệt khái niệm BHXH và khái niệm an sinh
xã hội, phân biệt BHXH và bảo hiểm thương mại.
An sinh xã hội là một thuật ngữ xuất hiện trong một đạo luật của Mỹ năm 1935.
Theo đó, an sinh xã hội là sự bảo đảm nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị cá nhân.
Đồng thời, tạo lập cho mỗi con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài
năng đến tột độ.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng xác định:
An sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình
thông qua một loạt các biện pháp công cộng nhằm chống lại những khó khăn
về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm về thu nhập gây ra bởi ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết, bảo đảm
chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con [46].
Như vậy, có thể thấy an sinh xã hội là một khái niệm có nội hàm rộng hơn khái
niệm BHXH. Đây là một khái niệm “mở” nên có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, an sinh xã hội bao trùm lên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực cuộc sống
của con người. Đó là các quan hệ hình thành trong lĩnh vực nhằm ổn định đời sống, nâng
cao chất lượng cuộc sống của các thành viên xã hội, góp phần ổn định, phát triển của toàn
bộ xã hội.
Theo nghĩa hẹp, an sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên
của mình. Trước hết và chủ yếu là những trường hợp bị giảm sút thu nhập đáng kể do
gặp những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, mất việc
làm, mất người nuôi dưỡng, nghỉ thai sản, về già cũng như các trường hợp bị thiên tai
địch họa. Đồng thời, xã hội cũng ưu đãi những thành viên của mình vì đã có những
hành động xả thân vì nước, vì dân, có những cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, BHXH là một trong nhiều nội dung của an sinh
xã hội.
ở Việt Nam, thuật ngữ an sinh xã hội được tiếp cận dưới nhiều tên gọi khác nhau
như bảo trợ xã hội, bảo tồn xã hội, bảo đảm xã hội, trật tự an toàn xã hội.
Một điểm nữa, BHXH khác bảo hiểm thương mại như thế nào?
Bảo hiểm thương mại chỉ những hoạt động mà ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm
chấp nhận rủi ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo
hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro đã
thoả thuận trước trên hợp đồng.
ở đây, có thể thấy BHXH và bảo hiểm thương mại về cơ bản giống nhau ở một số
điểm sau:
Thứ nhất, BHXH và bảo hiểm thương mại đều có chức năng bảo đảm bảo vệ con
người, khắc phục, hạn chế tổn thất về thu nhập khi có rủi ro xảy ra đối với ngưòi tham gia
đóng bảo hiểm.
Thứ hai, nguyên tắc hưởng BHXH và bảo hiểm thương mại đều dựa trên cơ sở đóng
góp của người tham gia bảo hiểm.
Thứ ba, quỹ BHXH và bảo hiểm thương mại đều được sử dụng để chi trả bồi thường
cho người tham gia bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra đối với họ.
Tuy nhiên, BHXH và bảo hiểm thương mại có những điểm khác nhau:
Một là, BHXH là một hoạt động mang tính chất xã hội phi lợi nhuận, phục vụ lợi
ích của người lao động và của cả cộng đồng. Trong khi đó, bảo hiểm thương mại là hoạt
động kinh doanh, nhằm mục tiêu lợi nhuận. Trong bảo hiểm thương mại, người được
hưởng lợi bao gồm cả doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng - những người mua bảo
hiểm.
Hai là, BHXH là một hoạt động thoả thuận và không thoả thuận. Điều đó có nghĩa
là trong BHXH có cả bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc. Trong bảo hiểm thương
mại chỉ có bảo hiểm tự nguyện.
Ba là, sự tương hỗ trong BHXH được thực hiện trong một cộng đồng rộng rãi, toàn
xã hội. Sự tương hỗ trong bảo hiểm thương mại được thực hiện trong một cộng đồng “có
giới hạn”, một “nhóm đóng bảo hiểm”.
Bốn là, BHXH chỉ bảo đảm cho các rủi ro bản thân, trong khi bảo hiểm thương mại
cung cấp dịch vụ bảo đảm cho các rủi ro bản thân và cho các rủi ro tài sản và trách nhiệm
dân sự.
Năm là, sự tương hỗ trong BHXH được thực hiện trong một cộng đồng rộng rãi,
toàn xã hội. Sự tương hỗ trong bảo hiểm thương mại được thực hiện trong một cộng đồng
“có giới hạn “, một “ nhóm đóng bảo hiểm “.
Sáu là, BHXH chỉ bảo đảm các rủi ro bản thân, trong khi bảo hiểm thương mại cung
cấp dịch vụ bảo đảm cho các rủi ro bản thân và cho cả rủi ro tài sản và trách nhiệm dân
sự.
1.1.2. Bản chất bảo hiểm xã hội
BHXH được coi là một chính sách xã hội quan trọng của bất kỳ nhà nước nào,
nhằm đảm bảo an toàn cho sản xuất, cho đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người
trong xã hội. Với tư cách là công cụ quan trọng để quản lý xã hội, Nhà nước phải can
thiệp và tổ chức bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động, đặc biệt là để giải
quyết mối quan hệ thuê mướn lao động giữa chủ và thợ. Yêu cầu giới chủ phải thực hiện
những cam kết đảm bảo điều kiện làm việc và nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho
giới thợ, trong đó có nhu cầu về tiền lương, về chăm sóc y tế, về chăm sóc khi bị ốm đau,
tai nạn, trả lương khi người lao động đến tuổi hưu, đồng thời bản thân người lao động
cũng phải có trách nhiệm giành một khoản thu nhập để chi trả cho bản thân mình khi có
những rủi ro xảy ra. Mặt khác, nhà nước được coi là một người chủ sử dụng lao động của
mọi người lao động, vì vậy trong trường hợp sự đóng góp của người sử dụng lao động và
người lao động không đủ để trang trải cho những khoản chi cho người lao động khi họ
gặp phải rủi ro thì nhà nước phải có trách nhiệm dùng ngân sách của nhà nước để bảo
đảm đời sống cơ bản cho người lao động.
Như vậy BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một nhu cầu khách quan. Nền kinh
tế hàng hoá càng phát triển thì càng đòi hỏi sự phát triển và đa dạng của BHXH. Nền
kinh tế hàng hoá phát triển là nền tảng, cơ sở của BHXH. BHXH được hình thành trên cơ
sở quan hệ lao động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng BHXH. Nhà nước ban
hành các chế độ chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên trách, thực hiện nhiệm
vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Chủ sử dụng lao động và người lao động có
trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ BHXH. Người lao động và gia đình của họ
được cung cấp tài chính từ quỹ BHXH khi họ có đủ điều kiện theo chế độ BHXH quy
định.
Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải ai tham gia
BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau. Phân phối trong BHXH vừa mang
tính chất bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. những biến cố xảy ra mang tính tất
nhiên đối với con người là thai sản, tuổi già và chết, trong trường hợp này BHXH phân
phối mang tính bồi hoàn vì người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng khoản trợ
cấp đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, là sự phân phối mang tính không bồi hoàn, có nghĩa là chỉ khi
nào người lao động gặp phải tổn thất do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…
thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó.
BHXH hoạt động theo nguyên tắc cộng đồng lấy số đông bù cho số ít, tức là dùng
số tiền đóng góp nhỏ của số đông người tham gia BHXH để bù đắp chia sẻ cho một số ít
người với số tiền lớn hơn so với số đóng góp từng người, khi họ gặp phải những biến cố
rủi ro tổn thất.
Hoạt động BHXH là loại hoạt động dịch vụ công, mang tính xã hội cao, lấy hiệu
quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá trình tổ chức, triển khai thực
hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức quản lý sự nghiệp BHXH đối với người
lao động tham gia và hưởng các chế độ BHXH. Là quá trình tổ chức thực hiện các nghiệp
vụ thu BHXH đối với người sử dụng lao động và người lao động; giải quyết các chế độ,
chính sách và chi BHXH cho người được hưởng, quản lý quỹ BHXH và thực hiện đầu tư
bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH.
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội
Hoạt động của BHXH là hoạt động sự ngiệp vì lợi ích chung của toàn xã hội, phục
vụ cho mọi thành viên trong xã hôi, lợi nhuận không phải là mục tiêu của hoạt động
BHXH. Do đó, BHXH có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của con người,
được thể hiện trên các mặt sau:
Một là, BHXH góp phần ổn định đời sống của người tham gia BHXH, đảm bảo an
toàn xã hội. Người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi
họ bị suy giảm mất khả năng lao động, mất việc làm, chết. Việc thay đổi hoặc bù đắp
chắc chắn sẽ xảy ra với mọi người lao động tham gia BHXH đến khi họ hết tuổi lao động
được hưởng lương hưu hoặc khi họ chết (được hưởng tiền tuất mai táng phí). Việc bù đắp
cũng chỉ xảy ra đối với một số người với một số chế độ BHXH còn lại như ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm… Nhờ có sự đảm bảo thay thế
hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động nhanh chóng khắc phục được những
tổn thất vật chất, sớm phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình lao
động, hoạt động bình thường của bản thân. Đây là vai trò cơ bản nhất của BHXH, nó
quyết định nhiệm vụ, tính chất và phương thức hoạt động của BHXH.
Hai là, BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Phân phối trong BHXH là sự
chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại giữa những người có thu nhập
cao, thấp khác nhau theo xu hướng có lợi cho người có thu nhập thấp, là sự chuyển dịch
thu nhập của người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu,
gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, BHXH
góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.
Ba là, BHXH góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn cho sản
xuất và đời sống xã hội của con người. Để thực hiện có hiệu quả các biện pháp ngăn
ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị, tổ chức kinh tế đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn
lao động, về vệ sinh công nghiệp bắt buộc mọi người lao động phải tuân thủ. Quỹ BHXH
kịp thời hỗ trợ cho người lao động được nghỉ ngơi, điều dưỡng để nâng cao sức khoẻ.
Bốn là, BHXH làm cho mối quan hệ giữa người lao động, người sử dụng lao động
và Nhà nước ngày càng gắn bó. Thông qua hoạt động của BHXH người lao động có trách
nhiệm hơn trong công việc, họ tích cực lao động, tạo ra năng suất lao động cao hơn. Bởi
vì chính người sử dụng lao động đã tham gia đóng góp BHXH để người lao động được
hưởng thì tạo ra một niềm tin yêu của người lao động đối với người sử dụng lao động,
khuyến khích người lao động phấn khởi, yên tâm, nhiệt tình trong công tác, gắn bó với
người sử dụng lao động hết đời này sang đời khác. Đối với Nhà nước thông qua việc tổ
chức hoạt động BHXH đã đảm bảo cho người lao động mọi tổ chức, mọi đơn vị bình
đẳng, công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời sống xã hội, góp phần
làm cho sản xuất ổn định, nền kinh tế, chính trị và xã hội phát triển và an toàn.
Năm là, BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế phát sinh
trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung, quỹ được hình thành từ sự đóng
góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước, quỹ được sử
dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và gia đình họ, một phần dùng để
chi quản lý sự nghiệp BHXH.
Hầu hết các nước trên thế giới đều thiết kế mô hình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH
theo nguyên tắc dồn tích và có tính chuyển dịch thu nhập giữa mọi người tham gia
BHXH và qua các thế hệ. Một số ít nước thiết kế theo nguyên tắc "tọa thu, tọa chi". Do
tính chất hoạt động của bảo hiểm là các biến cố rủi ro phát sinh không đều về thời gian.
Vì vậy ngay trong mô hình quỹ được thiết kế theo nguyên tắc "tọa thu, tọa chi" thì trong
khoảng thời gian nhất định, quỹ BHXH thiết kế theo theo nguyên tắc dồn tích thì luôn
luôn có số dư tạm thời nhàn rỗi rất lớn. Đây chính là một nguồn vốn trong nước rất quan
trọng được hình thành từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động là
sự tiết kiệm tạm thời trong chi tiêu tạo ra được một nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế
của đất nước. Nguồn vốn này càng trở nên rất quan trọng đối với những nước đang thiếu
nguồn vốn đầu tư, đặc biệt nguồn vốn trong nước mà nguồn vốn là một trong những yếu
tố quan trọng của sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Điều kiện quan trọng của người lao động được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi về
BHXH, ngoài việc người lao động phải đóng góp thì người sử dụng lao động cũng phải
đóng góp đầy đủ vào quỹ BHXH. Điều đó đã làm cho người lao động gắn bó với người
sử dụng lao động, làm cho quá trình sản xuất được ổn định, bền vững, có năng suất cao
hơn. Mặt khác khi chính sách BHXH được áp dụng đối với người lao động sẽ tạo ra được
một thị trường lao động xã hội hợp lý, có hiệu quả, tạo ra được một thị trường lao động
năng động. Bởi vì người lao động có thể làm việc ở bất cứ đơn vị nào, thuộc mọi thành
phần kinh tế, mọi loại hình sở hữu thì họ vẫn được quyền tham gia và hưởng thụ tất cả
mọi chế độ về BHXH. Chính điều đó tạo điều kiện người lao động và người sử dụng lao
động được tự do thỏa thuận về điều kiện làm việc phù hợp với nhu cầu trình độ, nghề
nghiệp, tay nghề, thu nhập với từng người lao động. Đó là những yếu tố quan trọng vừa
để khai thác, sử dụng triệt để nguồn lực lao động, vừa để nâng cao hiệu suất công tác,
năng suất lao động, tiết kiệm chi phí xã hội (về đào tạo, các nguồn lực khác…) làm tăng
của cải vật chất và tăng tích luỹ cho nền kinh tế.
1.2. Quản lý tài chính bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái niệm quản lý tài chính bảo hiểm xã hội
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng
quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
Vận dụng khái niệm này vào lĩnh vực tài chính BHXH, chúng ta có thể xác định
khái niệm quản lý tài chính BHXH như sau:
“Quản lý tài chính BHXH là sự tác động của cơ quan quản lý BHXH tới lĩnh vực
tài chính BHXH nhằm đạt mục tiêu trong một thời kỳ nhất định".
Cơ quan quản lý (chủ thể quản lý) của quản lý tài chính BHXH là cơ quan BHXH
các cấp từ Trung ương đến địa phương. Theo Nghị định 19/CP, ngày 16/02/1995 của
Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt Nam, cơ quan quản lý BHXH ở Trung ương là
BHXH Việt Nam. ở địa phương, cơ quan quản lý BHXH có BHXH các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
Đối tượng quản lý ở đây là lĩnh vực tài chính BHXH, bao gồm năm lĩnh vực. Một
là, toàn bộ sự vận động của quỹ BHXH nói chung; hai là, các hoạt động tài chính về thu
BHXH; ba là, các hoạt động tài chính về chi các chế độ BHXH; bốn là, các hoạt động tài
chính liên quan đến việc bảo toàn giá trị, tăng trưởng quỹ BHXH và sử dụng lợi nhuận
phát sinh từ những hoạt động đó; năm là, hoạt động tài chính trong các cơ quan BHXH.
Quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất trong toàn hệ thống, hạch toán độc
lập với ngân sách Nhà nước và được Nhà nước bảo hộ. Toàn bộ tiền thu BHXH và một
số nguồn thu khác như các khoản thu nhập từ hoạt động đầu tư… đều được hình thành
quỹ BHXH tập trung. Khi đó nhu cầu về chi, tất cả các khoản chi (bao gồm chi BHXH,
chi cho quản lý bộ máy, chi đào tạo, chi đầu tư, chi các chương trình) được cấp phát và
quản lý thống nhất từ quỹ BHXH [7], phải đảm bảo nguyên tắc thu lớn hơn chi, đảm bảo
cho sự tồn tại của quỹ BHXH. Nói chung, những hệ thống BHXH nhận được đóng góp
của cả người tham gia BHXH và chủ sử dụng lao động của họ. Thu nhập có thể cũng
được trích ra từ những khoản thuế đặc biệt để hỗ trợ cho hệ thống BHXH. Các đóng góp
cho một hệ thống BHXH có thể là một mức thống nhất hoặc có thể là những mức phụ
thuộc vào tiền lương và tiền công. Một nguồn thu nhập khác là những khoản phạt đối với
các chủ sử dụng lao động đã không tuân thủ các quy định của hệ thống BHXH. Lý tưởng
nhất là không tồn tại loại thu nhập này. Bên cạnh các khoản thu trên, quỹ BHXH cần
thiết phải được bổ sung bởi kết quả của những hoạt động đầu tư tài chính, có như vậy quỹ
BHXH mới đảm bảo nguồn tài chính chi trả cho các đối tượng trong điều kiện ảnh hưởng
của lạm phát.
Quản lý các hoạt động tài chính về chi các chế độ BHXH bao gồm quản lý đối
tượng hưởng các chế độ và quản lý lưu chuyển tiền trong quá trình thực hiện chi trả các
chế độ BHXH với quan điểm tiền phải được chi trả trực tiếp đến tận tay đối tượng được
hưởng.
Khi xem xét tài chính BHXH, bên cạnh quản lý thu, quản lý chi, vấn đề quan trọng
là xác định tỷ lệ đóng góp và tỷ lệ hưởng thụ. Đóng góp của người lao động cho BHXH
tạo ra sự giảm sút trong các thu nhập có thể tiêu dùng của họ và những phúc lợi được trả
định kỳ sẽ thay thế ít nhất một phần các thu nhập này. Sự giảm sút trong thu nhập có thể
chi tiêu dẫn đến sự giảm sút mức chi tiêu theo ý muốn và đặc biệt làm giảm cầu về những
mặt hàng cao cấp và bán cao cấp. Cầu bị giảm đi có thể có tác dụng làm dịu sự lạm phát.
ở một số nước, người ta đã sử dụng việc tăng mức đóng góp BHXH để đạt được mục tiêu
này. Việc bù đắp thu nhập bằng những phúc lợi định kỳ cho phép người lao động và
những người ăn theo họ trụ lại được trong những tình huống khó khăn bất ngờ (như ốm
đau, hưu trí) cho phép hưởng phúc lợi. Nói cách khác, việc chi trả phúc lợi định kỳ cho
phép họ duy trì việc tiêu dùng của họ, mặc dù là ở mức độ hạn chế (nếu chi trả một cục,
thường bị sử dụng - ít nhất là một phần - cho một sự tiêu dùng gia tăng một lần). Tác
dụng của việc chi trả định kỳ là góp phần ổn định suốt đời (thông qua các giai đoạn ốm
đau và nghỉ hưu) mức tiêu dùng của người lao động và những người ăn theo họ. Chương
trình BHXH dựa trên hệ thống tài chính thu bao nhiêu chi bấy nhiêu, điều tiết khoản thu
nhập phải đóng BHXH bằng cách chuyển nó cho các hộ gia đình nơi thu nhập thấp của
người chủ hộ bị đình lại do xẩy ra một sự kiện bất ngờ mà hệ thống phải bảo hiểm.
Những hệ thống như vậy sẽ giúp duy trì cầu và mức tiêu dùng chung, đặc biệt nếu thất
nghiệp là một trong số những sự kiện được BHXH, và những phân tích kinh tế về ảnh
hưởng của chúng phải tính đến cả hai: đóng góp và hưởng lợi, vấn đề đặt ra là phải xác
định đúng đắn mức đóng và mức thụ hưởng.
Tuy nhiên, với tư cách là một quỹ tài chính tập trung, là một trung gian tài chính vô
vi lợi [8], BHXH không thể chỉ chờ đợi vào cân đối giữa đóng góp của các bên tham gia
BHXH và hưởng lợi các đối tượng hưởng thụ. Tài chính BHXH cần phải bao gồm các
hoạt động tài chính liên quan đến việc bảo toàn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH và sử
dụng lợi nhuận phát sinh từ những hoạt động đó. Các biện pháp đầu tư thực hiện bảo toàn
giá trị và tăng trưởng quỹ giá trị và có hiệu quả kinh tế - xã hội. Tác động tiềm tàng về
tiền tệ và tài khoá của việc đầu tư BHXH (và đặc biệt là của việc đầu tư hay phân bổ đầu
tư) có nghĩa là việc đầu tư phải được điều phối không mâu thuẫn với chính sách của
Chính phủ. Theo cách này, quỹ dự phòng BHXH có thể được sử dụng tốt nhất để góp
phần tăng trưởng kinh tế. ở đây nhất thiết không được có sự xung khắc giữa yêu cầu đầu
tư của hệ thống BHXH và những mục tiêu tạo vốn trong nước của một quốc gia. Có thể
xây dựng một chính sách đầu tư đáp ứng được cả hai điều kiện này. Những khoản dự trữ
sẽ được tích luỹ để tạo ra thu nhập đầu tư, sẽ cho phép hạ thấp mức đóng góp và chúng
cần được đầu tư vào những dự án đem lại sự tăng trưởng kinh tế thực sự và tăng năng
suất. Ví dụ, theo hình thức tăng lãi trực tiếp của các doanh nghiệp hay lãi gián tiếp do cải
thiện cơ sở hạ tầng (như liên lạc viễn thông, đường sá hay các cơ sở chăm sóc y tế). Tuy
nhiên, nếu quỹ dự trữ được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp để đáp ứng chi tiêu hiện tại
của Chính phủ như hiện nay ở nước ta, thì chắc chắn sẽ không có được mức lãi khả quan
cho quỹ BHXH. Sự kiểm soát của Chính phủ về đầu tư quỹ BHXH không có nghĩa là
phải sử dụng chúng một cách có hệ thống để bù đắp thiếu hụt ngân sách của Chính phủ.
Khi được sử dụng như vậy thì hệ thống BHXH phải được trả lãi theo lãi suất thị trường.
Lý tưởng nhất là quỹ được sử dụng cho các dự án về cơ sở hạ tầng dài hạn có hiệu quả xã
hội cao và góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế lâu dài.
Đối tượng quản lý tài chính BHXH được phân tích trên đây là đối tượng quản lý của
cơ quan quản lý BHXH ở cấp Trung ương. ở cấp tỉnh, đối tượng quản lý tài chính BHXH
chỉ gồm các hoạt động tài chính về thu BHXH, các hoạt động tài chính về chi chế độ
BHXH và các hoạt động chi cho hoạt động của cơ quan BHXH.
Sơ đồ 1.1 cho thấy hoạt động thu chi quỹ trong hệ thống BHXH.
Sơ đồ 1.1: Hoạt động thu chi quỹ trong hệ thống BHXH
1.2.2. Nội dung quản lý tài chính bảo hiểm xã hội ở cấp tỉnh
1.2.2.1. Quản lý thu bảo hiểm xã hội
Đóng góp của
chủ sử dụng
lao động
Đóng góp người
tham gia BHXH
Phạt Hỗ trợ từ Nhà
nước
Thu nhập từ
đầu tư
Quỹ BHXH Tài sản đầu
tư
chi trả BHXH chi quản lý phí đầu tư
Trợ cấp ngắn
hạn
* ốm đau
* Thai sản
* Dưỡng sức
* Một lần
* Lần đầu
* Mai táng phí
Trợ cấp dài
hạn
* Hưu trí
* Mất sức lao
động
* Tử tuất
* Xây dựng kế hoạch thu BHXH
Thu BHXH là nguồn cơ bản hình thành quỹ BHXH, để thực hiện tốt công tác thu
BHXH cần phải xây dựng kế hoạch thu BHXH rõ ràng, cụ thể và sát với thực tế lao động
và quỹ lương tham gia BHXH và tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương; trên
cơ sở tổng số lao động, tổng quỹ lương tham gia BHXH và tình hình phát triển kinh tế xã
hội để xác định số phải thu. Cơ sở xác định tổng số phải thu của kế hoạch thu chủ yếu là
tổng số lao động, tổng quỹ lương tham gia đóng BHXH và dự báo tình hình phát triển
kinh tế xã hội. Sau khi xây dựng được kế hoạch thu BHXH, cơ quan BHXH trình dự toán
thu BHXH với cơ quan quản lý có thẩm quyền phê duyệt. Trên cơ sở dự toán được phê
duyệt cơ quan BHXH phân bổ cho các đơn vị cấp dưới triển khai thực hiện theo kế hoạch
năm.
Việc tổng hợp theo dõi đối tượng tham gia BHXH, theo Luật BHXH thì các đối
tượng phải tham gia BHXH bắt buộc và phải đóng BHXH bao gồm cả người sử dụng lao
động và bản thân người lao động (kể cả người lao động được cử đi học, đi thực tập, công
tác và điều dưỡng ở trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công của cơ
quan và đơn vị) làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế - xã hội dưới đây:
- Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, kể cả các doanh
nghiệp thuộc lực lượng vũ trang;
- Các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước;
- Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác;
- Tổ chức, đơn vị hoạt động theo quy định của pháp luật;
- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã;
- Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng
và trả công cho người lao động;
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam có sử dụng lao động là người Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà
nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Mức đóng BHXH đối với người lao động và người sử dụng lao động tham gia
BHXH được quy định tại Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ được thực
hiện từ năm 1995 đến 2006 là người người sử dụng lao động đóng 15% tổng quỹ tiền
lương tháng của những người lao động trong đơn vị tham gia BHXH, người lao động
đóng bằng 5% tiền lương tháng. Mức đóng BHXH do Luật BHXH, được Quốc hội nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006, quy
định, theo đó, từ năm 2007 đến năm 2010, người sử dụng lao động đóng 15% tổng quỹ
tiền lương tháng của những người lao động trong đơn vị tham gia BHXH. Từ năm 2010
trở đi, cứ hai năm một lần, đơn vị sử dụng lao động phải đóng thêm 1% cho đến khi đạt
mức đóng là 18%. Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng. Từ năm 2010 trở đi,
cứ hai năm một lần, họ phải đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và các đơn vị sử dụng lao động.
Trong cơ chế thị trường, các đơn vị sử dụng lao động thường không tự giác tham gia
BHXH cho người lao động. Họ tìm cách né tránh hoặc gian lận. Việc quản lý chặt chẽ
buộc chủ sử dụng lao động phải cung cấp đầy đủ số liệu về lao động, quỹ lương. Đóng
đầy đủ BHXH là vấn đề rất quan trọng, vì đây là cơ sở để quỹ BHXH có nguồn lực tài
chính chi trả chế độ cho người lao động và đảm bảo an sinh xã hội. Để thuận lợi cho việc
quản lý, theo dõi quá trình tham gia BHXH, căn cứ vào đặc điểm, tính chất, hình thức
hoạt động của các đơn vị sử dụng lao động, người ta thường phân loại theo khối để quản
lý. Có nhiều cách phân loại, nhưng phổ biến là phân theo các khối sau:
+ Khối doanh nghiệp Nhà nước.
+ Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
+ Khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Khối hành chính sự nghiệp.
+ Khối Đảng, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội.
+ Khối xã, phường, thị trấn.
+ Khối Hợp tác xã và hộ kinh doanh cá thể.
Bên cạnh đó, cơ quan BHXH phải thường xuyên thống kê, theo dõi, kiểm tra sự biến
động của các đơn vị sử dụng lao động và người lao động trong suốt quá trình hoạt động của
từng đơn vị; liên hệ chặt chẽ với các cơ quan quản lý trên địa bàn để khai thác triệt để các
đơn vị và người tham gia BHXH.
Về quản lý quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, mức đóng BHXH và quỹ
lương là cơ sở quan trọng để tính số thu BHXH. Nếu việc xác định mức đóng không
chính xác sẽ dẫn đến thu không đúng, không đủ số phải thu BHXH. Mức đóng của chủ sử
dụng lao động và người lao động được tính trên cơ sở trích một tỷ lệ nhất định của tổng
quỹ tiền lương. Để xác định mức đóng BHXH cơ quan BHXH phải theo dõi, kiểm tra
chặt chẽ diễn biến tiền công, tiền lương của từng cá nhân lao động trong các doanh
nghiệp, đối chiếu tổng quỹ lương hàng tháng để tính số tiền phải nộp BHXH.
Mức thu BHXH đối với người lao động và người sử dụng lao động tham gia
BHXH, theo điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của
Chính phủ được thực hiện từ năm 1995 đến năm 2007 là người sử dụng lao động đóng
15% tổng quỹ tiền lương tháng của những người lao động trong đơn vị tham gia BHXH,
người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng.
Theo quy định hiện hành thì tiền lương của người lao động và quỹ tiền lương của
cơ quan, đơn vị được xác định căn cứ vào từng người lao động ở từng khu vực công tác,
theo các mức đóng khác nhau, cụ thể là:
- Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức đảng, đoàn thể, hội quần
chúng, tiền lương tháng của người lao động và quỹ tiền lương của các đơn vị sử dụng lao
động được xác định theo các quy định tại Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQHK11,
ngày 30/9/2004 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc phê chuẩn bảng lương chức vụ,
bảng phụ cấp chức vụ đối với cán bộ lãnh đạo của Nhà nước bảng lương chuyên môn,
nghiệp vụ ngành Toà án, ngành kiểm sát; Quyết định số 128-QĐ/TW ngày 14/12/2004
của Ban chấp hành Trung ương Đảng về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức,
viên chức cơ quan đảng, mặt trận và các đoàn thể; Nghị định số 204/CP ngày 14/12/2004
của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ
trang; Nghị định số 204/CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ quy định về hệ thống thang
lương, bảng lương và chế độ phụ cấp lương trong các Công ty Nhà nước.
- Các đơn vị sử dụng lao động đã thực hiện ký hợp đồng lao động thì đóng BHXH
tính trên tổng quỹ tiền lương hàng tháng, bao gồm lương theo hợp đồng đã ký kết với
người lao động có tham gia BHXH theo quy định và lương của người giữ chức vụ không
áp dụng chế độ hợp đồng lao động.
- Riêng Bộ quốc phòng, Bộ công an đóng bằng 15% so với tổng quỹ lương của
những quân nhân, công an nhân dân hưởng lương; còn quân nhân, công an nhân dân
đóng bằng 5% mức lương tháng.
- Đối với người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, nếu người lao động
đã có quá trình tham gia BHXH ở trong nước thì đóng bằng 15% mức lương tháng đã đã
đóng BHXH trước khi ra nước ngoài làm việc; người lao động chưa tham gia BHXH ở trong
nước thì mức đóng BHXH hàng tháng bằng 15% của hai lần mức lương tối thiểu của công
nhân viên chức trong nước.
* Tổ chức thực hiện thu BHXH
Đặc điểm của thu BHXH là số tiền thu rất lớn và của nhiều đối tượng khác nhau,
với nhiều hình thức như thu bằng tiền mặt, chuyển khoản, séc, uỷ nhiệm chi. Do vậy, hệ
thống BHXH phải thực hiện công tác hạch toán kế toán, thống kê, báo cáo và kiểm tra
toàn bộ số tiền thu BHXH theo đúng quy định của pháp luật, quản lý chặt chẽ đúng
nguyên tắc tài chính. Cơ quan BHXH phải phối hợp với hệ thống ngân hàng, kho bạc để
tổ chức thu BHXH. Khi các đơn vị sử dụng lao động nộp tiền BHXH vào ngân hàng, kho
bạc huyện, BHXH huyện phải chuyển toàn bộ số tiền đó vào tài khoản chuyên thu BHXH
của ngân hàng, kho bạc tỉnh. Định kỳ hàng tháng, ngân hàng, kho bạc, cơ quan BHXH
tỉnh phải chuyển số tiền thu BHXH lên tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH Trung
ương. BHXH cấp huyện, tỉnh không được phép sử dụng tiền thu BHXH vào các mục
đích khác.
* Tổ chức kiểm tra thu BHXH
Kiểm tra thu BHXH nhằm rà soát, chấn chỉnh, uốn nắn những sai sót, đôn đốc thu
và phát hiện những bất cập trong quá trình quản lý. Theo pháp luật quy định, cơ quan
BHXH được quyền kiểm tra việc chấp hành thu BHXH tại các đơn vị sử dụng lao động
được phân cấp thu và cơ quan BHXH cấp dưới trong việc thực hiện thu BHXH. Trên cơ
sở đó, cơ quan BHXH đưa ra những kiến nghị để các đơn vị sử dụng lao động và cơ quan
BHXH cấp dưới thực hiện đúng các quy định về thu BHXH và có các biện pháp thích
hợp, kịp thời xử lý các bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện thu BHXH. Đối với
những trường hợp có sai phạm lớn, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy
định của pháp luật.
Các phương thức kiểm tra hoạt động của BHXH gồm có: Kiểm tra của các cơ
quan quyền lực Nhà nước, kiểm tra chuyên ngành (gồm thanh tra nhân dân, kiểm tra của
tổ chức đảng, đoàn thể...). Tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu, nội dung và thời gian kiểm
tra để có loại hình kiểm tra cho phù hợp: Theo thời gian thì có loại hình thường xuyên
hay định kỳ; kiểm tra trước, kiểm tra sau, kiểm tra đột xuất; nếu theo phạm vi trách
nhiệm thì có kiểm tra nội bộ, kiểm tra của các cơ quan ngoài hệ thống theo quy định của
pháp luật (tổ chức thanh tra Nhà nước, thanh tra nhân dân, thanh tra lao động...).
Nội dung kiểm tra thu BHXH gồm có hai nội dung:
- Kiểm tra việc chấp hành việc đóng, nộp BHXH tại đơn vị sử dụng lao động bao
gồm: Danh sách lao động tham gia BHXH; quỹ tiền lương tham gia BHXH; mức lương
của người lao động tham gia BHXH; thực hiện việc chuyển tiền nộp BHXH về cơ quan
BHXH.
- Kiểm tra việc thực hiện thu BHXH của cơ quan BHXH các cấp, bao gồm việc
quản lý lao động và quỹ lương tham gia BHXH của các đơn vị sử dụng lao động; chấp
hành quản lý và hạch toán tiền thu BHXH.
Cơ sở pháp lý để kiểm tra thu BHXH là:
- Luật BHXH và các văn bản quy định và hướng dẫn thực hiện [49].
- Nghị định số 38/CP ngày 25/6/1996 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính
về hành vi vi phạm pháp luật lao động [31].
- Thông tư số 85/199/TT - BTC ngày 25/6/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn quy
chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam [22].
- Nghị định 113/2004/NĐ - CP ngày 16/4/2004 quy định xử phạt hành chính về
hành vi vi phạm pháp luật lao động [34].
- Nghị định 135/2007/NĐ - CP ngày 16/8/2007 quy định xử phạt hành chính trong
lĩnh vực BHXH [36].
1.2.2.2. Quản lý chi chế độ bảo hiểm xã hội
* Lập kế hoạch chi BHXH
Kế hoạch chi BHXH được xây dựng phải sát với nhu cầu chi ở từng địa phương
(tỉnh, huyện), đảm bảo đủ nguồn kinh phí chi trả các chế độ BHXH cho người được
hưởng, tránh tồn đọng quá lớn trên các tài khoản ở BHXH tỉnh, huyện sẽ gây lãng phí
việc sử dụng vốn. Căn cứ để xây dựng kế hoạch chi hàng năm của BHXH các cấp đố là:
- Căn cứ vào đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH.
- Dự báo tăng giảm đối tượng hưởng BHXH trong năm đối với từng loại đối tượng
cụ thể.
- Dự báo tăng kinh phí chi trả BHXH do Nhà nước điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu
hoặc thay đổi chính sách tiền lương cho người hưởng trợ cấp BHXH.
- Kế hoạch chi bộ máy căn cứ vào số lượng biên chế được giao, quỹ tiền lương
của cán bộ công chức viên chức; các chi phí chi hoạt động nghiệp vụ phục vụ thu chi
BHXH; chi đầu tư cơ sở vật chất nhu cầu mua sắm phương tiện phục vụ; nhu cầu xây
dựng sửa chữa cải tạo trụ sở phục vụ yêu cầu làm việc của cơ quan BHXH. Căn cứ để lập
dự toán là các quy định của Chính phủ, Bộ Tài Chính hướng dẫn quản lý tài chính đối với
BHXH.
Trên cơ sở xây dựng kế hoạch chi BHXH của các đơn vị dự toán, BHXH Việt
Nam kiểm tra và giao kế hoạch chi BHXH cho các cấp triển khai thực hiện.
* Tổ chức quản lý chi BHXH
Tổ chức quản lý chi BHXH gồm các nội dung sau:
Một là, quản lý đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. Theo quy định hiện
hành, chế độ BHXH gồm có: Chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ
cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí; chế độ tử tuất.
Đối tượng hưởng các chế độ BHXH có thể là chính bản thân người lao động, cũng
có thể là những người thân ruột thịt của người lao động (bố, mẹ, vợ, chồng, con) trực tiếp
phải nuôi dưỡng. Đối tượng có thể được hưởng trợ cấp một lần hoặc trợ cấp hàng tháng
nhiều hay ít, tùy thuộc mức độ đóng góp (thời gian đóng góp và tiền lương làm căn cứ
đóng góp), các điều kiện lao động và biến cố rủi ro mà người lao động mắc phải. Điều
quan trọng nhất trong công tác quản lý chi BHXH là phải quản lý cụ thể, chính xác từng
đối tượng theo loại chế độ được hưởng và mức được hưởng, thời gian được hưởng của
họ.
Hai là, quản lý chi trả các chế độ BHXH. Việc chi trả các chế độ BHXH phải phù
hợp với từng loại đối tượng và từng loại trợ cấp, đảm bảo được nguyên tắc chi trả đúng
đối tượng, đúng chế độ, đầy đủ, kịp thời, chính xác và an toàn.
Hầu hết việc chi trả các chế độ BHXH cho người được hưởng đều bằng tiền mặt.
Khối lượng tiền mặt chi trả hàng tháng rất lớn, địa bàn chi trả rộng khắp các miền, vùng
trong cả tỉnh và đối tượng chi trả thường xuyên rất lớn, thời gian chi trả phải tập trung từ
1 đến 5 ngày trong tháng.
Có hai phương thức chi trả, đó là phương thức chi trả trực tiếp và phương thức chi trả
gián tiếp. Phương thức chi trả trực tiếp là việc chi trả cho người được hưởng các chế độ
BHXH được thực hiện trực tiếp do cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống BHXH chi
trả. Phương thức chi trả gián tiếp là việc chi trả cho người được hưởng các chế độ BHXH
được thực hiện bởi sử ủy quyền của cơ quan BHXH các cấp cho các đơn vị sử dụng lao
động hoặc các đại diện pháp nhân thuộc ủy ban nhân dân các phường, xã chi trả hộ thông
qua các đại lý chi trả.
Ba là, quản lý kinh phí chi BHXH. Để đạt được mục tiêu chi trả đầy đủ, kịp thời
cho các đối tưởng hưởng chế độ BHXH, một yêu cầu cần đặt ra là phải đảm bảo đủ
nguồn kinh phí để chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH, đảm bảo được yêu cầu chi trả
các chế độ BHXH cho người được hưởng; tránh tồn đọng quá lớn tiền mặt trong chi trả.
Để có cơ sở quản lý, điều hành và kiểm soát chặt chẽ nguồn kinh phí chi trả, BHXH các
huyện, Thành phố, Thị xã được mở các tài khoản chuyên chi BHXH ở hệ thống ngân
hàng. Các đơn vị chỉ được rút tiền từ các tài khoản trên để chi trả các chế độ BHXH,
không được sử dụng nguồn kinh phí này để chi trả cho bất kỳ một nội dung chi nào khác.
Nhờ đó mà BHXH tỉnh có thể kiểm tra, kiểm soát số kinh phí đã sử dụng và số kinh phí
còn dư trên tài khoản của đơn vị cấp dưới dễ dàng và thuận tiện.
* Kiểm tra thực hiện chi BHXH
Nội dung kiểm tra thực hiện chi BHXH gồm có:
- Kiểm tra việc giải quyết, thanh toán, chi trả các chế độ BHXH cho người được
thụ hưởng. Quá trình này liên quan trực tiếp đến người được thụ hưởng, đến cơ quan
BHXH và các cơ quan có liên quan như chủ sử dụng lao động, cơ quan giám định sức
khoẻ…
- Kiểm tra việc quản lý đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH thường
xuyên, tình hình biến đông tăng giảm đối tượng.
- Kiểm tra việc chấp hành công tác quyết toán, chấp hành công tác kế toán - thống
kê.
1.2.2.3. Quản lý chi trong cơ quan bảo hiểm xã hội
* Quản lý chi trong cơ quan BHXH
Chi trong cơ quan BHXH là chi cho hoạt động bộ máy, phục vụ toàn bộ hoạt động
quản lý của hệ thống BHXH và chi xây dựng cơ bản. Chi cho hoạt động bộ máy là những
khoản chi nhằm duy trì hoạt động quản lý thường xuyên của bộ máy quản lý BHXH.
Công tác quản lý chi hoạt động thường xuyên của hệ thống BHXH tập trung vào một số
nội dung cụ thể, đó là chi thường xuyên và chi không thường xuyên của cơ quan BHXH.
Thứ nhất, chi thường xuyên gồm chi thường xuyên trong định mức và chi thường
xuyên đặc thù. Chi thường xuyên định mức gồm năm khoản chi sau:
+ Các khoản chi thanh toán cho cá nhân: Tiền lương, tiền công, phụ cấp lương,
các khoản đóng góp theo lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể và các khoản thanh toán
khác cho cá nhân theo quy định.
+ Chi thanh toán dịch vụ công cộng, thuê mướn, vật tư văn phũng, thụng tin,
tuyờn truyền, liờn lạc;
+ Chi hội nghị, công tác phí trong nước, chi các đoàn đi công tác nước ngoài và
đón các đoàn khách nước ngoài vào Việt Nam;
+ Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn BHXH;
+ Chi mua sắm tài sản, trang thiết bị, phương tiện, vật tư, sửa chữa thường xuyên
tài sản cố định.
Chi thường xuyên đặc thù gồm các khoản chi sau:
+ Chi phục vụ công tác thu BHXH;
+ Chi phục vụ công tác chi trả BHXH;
+ Lệ phí chuyển tiền;
+ Chi phí in và cấp sổ BHXH;
+ Chi phí in mẫu biểu, chứng từ báo cáo;
+ Chi tuyên truyền về BHXH;
+ Chi vận chuyển, bảo vệ tiền;
+ Các khoản chi khác (nếu có) theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, chi không thường xuyên gồm chi đào tạo, đào tạo lại; chi nghiên cứu khoa
học; chi sửa chữa lớn tài sản cố định, chi mua sắm tài sản cố định.
* Quản lý chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của cơ quan BHXH
Chi đầu tư xây dưng cơ bản là một nội dung của chi trong cơ quan BHXH. Đó là
những khoản chi nhằm đảm bảo các điều kiện, phương tiện làm việc cho cán bộ, công
chức, viên chức của hệ thống như chi đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, trang bị phương
tiện làm việc như hệ thống máy vi tính (gồm cả chương trình phần mềm quản lý), thiết bị
điều hoà, bàn ghế, tủ hồ sơ…
Nội dung quản lý chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của hệ thống BHXH tập
trung vào hai nội dung.
Một là, quản lý chi xây dựng trụ sở làm việc. Quy mô đầu tư (diện tích làm việc,
cấp công trình), tổng mức đầu tư đối với từng dự án đầu tư xây dựng của từng cấp (tỉnh,
huyện), phù hợp với điều kiện của từng địa phương. Quản lý chất lượng và giá trị công
trình đảm bảo đúng quy trình quy phạm của Nhà nước quy định.
Hai là, quản lý chi cho phương tiện làm việc. Các khoản chi này phải đảm bảo
theo tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật và định mức trang bị, sử dụng do Nhà nước quy định.
Chương 2
thực trạng quản lý tài chính
của bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh trong giai đoạn từ 1995 đến nay
2.1. khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến quản lý tài
chính của bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh
Hà Tĩnh là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, phía bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía nam
giáp tỉnh Quảng Bình, phía tây giáp tỉnh Bôlikhămxay và Khămmuộn của Nước Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Lào và phía đông giáp Biển Đông. Diện tích tự nhiên của Hà Tĩnh
là 6.018,97 km2, trong đó, đất nông nghiệp chiếm 77,32%, đất phi nông nghiệp chiếm
11,87%; đất chưa sử dụng chiếm 10,81%.
Đặc điểm địa hình tỉnh Hà Tĩnh là đồi núi chiếm 80% diện tích tự nhiên, đồng bằng
có diện tích nhỏ, bị chia cắt bởi các dãy núi, sông suối.
Hà Tĩnh là tỉnh có nhiều loại khoáng sản có thể khai thác công nghiệp nhưng hầu
hết chưa được khai thác, đặc biệt là mỏ quặng sắt Thạch Khê có trữ lượng 544 triệu
tấn, lớn nhất nước. Khi đưa vào khai thác, mỏ sắt Thạch Khê sẽ trở thành một trung
tâm công nghiệp lớn và thu hút nhiều lao động của cả nước.
Hà Tĩnh có vị thế thuận lợi về giao thông, nằm trên tuyến giao lưu kinh tế Bắc -
Nam, Tây - Đông (Thái Lan - Lào - Biển Đông), với hệ thống đường sắt, đường bộ,
đường thuỷ. Cảng Vũng áng có thể cho tàu 5 - 15 vạn tấn ra vào thuận lợi…Với vị trí
thuận lợi như vậy, Hà Tĩnh hoàn toàn có đủ điều kiện để trở thành một trong những trung
tâm kinh tế, thương mại của khu vực Bắc Trung Bộ.
Hà Tĩnh hiện nay có 12 huyện, thị, thành phố. Đó là các huyện Kỳ Anh, Cẩm
Xuyên, Thạch Hà, Lộc Hà, Hương Khê, Vũ Quang, Hương Sơn, Đức Thọ, Nghi Xuân,
Can Lộc, Thị Xã Hồng Lĩnh, Thành Phố Hà Tĩnh.
Năm 2007, tỉnh Hà Tĩnh có 1.361 doanh nghiệp đang hoạt động. Cả tỉnh có hai
trường đại học và cao đẳng, bốn trường trung học chuyên nghiệp, ba trường dạy nghề dài
hạn, một trung tâm xúc tiến việc làm và bốn trung tâm dạy nghề và xúc tiến việc làm của
các sở, ngành. Mỗi huyện có một trung tâm Kỹ thuật thực hành - Hướng nghiệp - Dạy
nghề làm công tác dạy nghề ngắn hạn và hướng nghiệp giáo dục phổ thông.
Hà Tĩnh hiện đang là một tỉnh nghèo so với các tỉnh Miền Trung và trong cả nước.
Điểm xuất phát của Hà Tĩnh thấp, nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm tỷ trọng
lớn trong GDP. Tích luỹ từ nội bộ kinh tế tỉnh thấp, cân đối thu chi ngân sách gặp nhiều
khó khăn. Đến nay, sản xuất chủ yếu vẫn là nông, lâm, thủy sản. Dân số nông thôn chiếm
tỷ lệ hơn 85% tổng dân số toàn tỉnh. GDP bình quân đầu người hơn 4.060 ngàn
đồng/năm. Giá trị xuất khẩu đạt 32USD/người/năm (cả nước 390 USD/người/năm).
Lương thực bình quân 360 kg/người/năm. Theo thống kê của Cục Thống kê và Sở Lao
động Thương binh và Xã hội của Hà Tĩnh, toàn tỉnh có 38% hộ đói nghèo (theo chuẩn
mới của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội).
Dân số Hà Tĩnh hiện có khoảng 1,289 triệu người với 0,678 triệu lao động (chiếm
52,6% dân số). Nguồn lao động mới bổ sung vào hàng năm khoảng 14 nghìn lao động.
Dân cư phân bố không đều, tập trung cao ở khu vực đồng bằng phía đông bắc tỉnh. Dọc
đường Hồ Chí Minh, dân cư thưa thớt. Mật độ dân số Thành Phố Hà Tĩnh là 2547
người/km2, trong khi huyện Hương Khê có mật độ dân số là 78 người/km2. Lao động làm
trong các ngành kinh tế là 630.022 người, trong nông - lâm ngư nghiệp là 515.693 người,
chiếm gần 81,9%; công nghiệp - xây dựng 39.217 người (6,2%), còn lại 11,9% làm việc
trong khu vực dịch vụ. Tuy nhiên, trình độ tay nghề của lao động trong tỉnh vẫn còn thấp.
Lao động qua đào tạo của toàn tỉnh có khoảng 25.000 người, chiếm 3,6% tổng số lao
động toàn tỉnh. Tỷ lệ lao động qua đào tạo dưới mọi hình thức chỉ khoảng 20%, thấp hơn
trung bình của cả nước. Cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế có sự chênh lệch lớn. 82% lao
động làm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản nhưng chỉ làm ra 43% GDP của Hà Tĩnh.
Cơ cấu đào tạo cũng như phân bố lao động theo lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý. Hiện nay
cả tỉnh có 19.195 người có trình độ đại học và cao đẳng; 235 người có trình độ thạc sĩ, 20
người có trình độ tiến sĩ và 3 giáo sư, phó giáo sư.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên toàn tỉnh là 0,8%, số người trong độ tuổi lao động tăng
vì vậy nhu cầu việc làm mới là khá cao. Trong giai đoạn 2006 - 2010, mỗi năm cần chỗ
làm mới cho trên 10 nghìn người, con số đó của giai đoạn 2011 - 2015 trên 15 nghìn
người.
Mặc dù vậy, trong những năm qua, kinh tế Hà Tĩnh đã có những bước phát triển rõ
rệt. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp,
dịch vụ giảm dần tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư nghiệp. Nhờ chuyển dịch cơ cấu đúng
hướng, năng suất lao động tăng liên tiếp qua các năm. Trong giai đoạn 1996-2007, tăng
năng suất lao động và các yếu tố tổng hợp khác đóng góp 70% - 72% vào tốc độ tăng
GDP, tăng số lượng lao động đóng góp vào tăng GDP vào khoảng 26-28%.
Công tác xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm đạt được những kết quả tích
cực. Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu đáng kể, biện pháp xóa đói
giảm nghèo đã được triển khai toàn diện và đạt kết quả tốt. Đời sống người nghèo, hộ
nghèo, vùng nghèo đã được cải thiện hơn trước. Trong 5 năm gần đây, đã tạo việc làm
cho hơn 14 ngàn người. Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm 28,8% (năm 2000) xuống còn 10,5%
(năm 2005). Tỷ lệ này của cả nước là 7% theo chuẩn cũ. Tuy vậy theo mức chuẩn nghèo
mới mà Bộ Lao động Thương binh và Xã hội công bố và áp dụng cho giai đoạn 2006-
2010, thì tỷ lệ nghèo đói của Hà Tĩnh còn cao: 38,62% (Bắc trung bộ là 29,4%).
Tỷ lệ lao động chưa có việc làm ở thành thị giảm từ 5,16% (năm 2000) đến nay chỉ
còn 3,5%. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng từ 77,49% (năm 2000) đến
nay lên 81% (xem Bảng 2.1).
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội tổng hợp của tỉnh Hà Tĩnh
giai đoạn 2003-2007
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2003 2004 2005 2006 2007
1. Tổng giá trị SPXH (tính
theo giá năm 1994)
3.407.326 3.731.459 4.064.828 4.451.862 4.839.174
- Tốc độ tăng trưởng
GDP
9,09% 9,51% 8,93% 9,52% 8,70%
2. Tổng giá trị SPXH tính
theo giá hiện hành
4.581.509 5.190.971 5.799.794 6.423.958 6.982.842
3. Tổng đầu toàn xã hội 948.200 1.120.507 2.327.000 2.267.845 3.360.078
- Tăng trưởng so với năm
trước
12,80% 18,17% 107,67% -2,54% 48,16%
4. GDP bình quân đầu ngư-
ời
3,57 4,03 4,49 4,98 5,25
Nguồn: Cục thống kê Hà Tĩnh 2007.
Mặc dù là một tỉnh có nhiều tiềm năng về khoáng sản và lợi thế tự nhiên nhưng hiện
tại Hà Tĩnh là một tỉnh kinh tế chưa phát triển. Vì vậy, đối tượng tham gia BHXH còn
thấp. Đến hết năm 2007, cả tỉnh mới có hơn 56.000 người tham gia BHXH, chiếm tỷ lệ
8,2 % tổng số lao động trên địa bàn tỉnh.
Hà Tĩnh có số lượng đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH tương đối đông.
Năm 2007 có 61.722 người thuộc diện này, trong đó, lực lượng hưu trí quân đội và hưu
công chức viên chức chiếm tỷ lệ lớn.
Trong quá trình thực hiện quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh có những thuận lợi
và khó khăn sau:
Thuận lợi, BHXH là lĩnh vực được mọi người dân hết sức quan tâm. Cấp uỷ, chính
quyền địa phương và các ngành các cấp liên quan quan tâm chỉ đạo kịp thời trong quá
trình thực hiện BHXH trên địa bàn. Các chủ sử dụng lao động và người lao động đã nhận
thức ngày càng rõ hơn về quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện BHXH.
Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành BHXH đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ của
ngành.Vì vậy trong những năm qua BHXH đã thực hiện tốt công tác quản lý tài chính
trên địa bàn.
Về khó khăn, trong những năm qua, các doanh nghiệp nợ đọng BHXH vẫn còn
nhiều. Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không tham gia
BHXH còn chiếm tỷ lệ lớn, việc vi phạm BHXH chưa được xử lý nghiêm, chậm được xử
lý. Mặt khác, Hà Tĩnh là tỉnh có đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH lớn, địa
bàn tương đối rộng, nằm ở cả vùng sâu, vùng xa. Lượng chi trả tiền mặt hàng tháng tương
đối lớn. Năm 2007, chi trả bình quân 85 tỷ đồng/tháng. Trong khi đó, phương tiện vận
chuyển đến các điểm chi trả chủ yếu bằng phương tiện xe máy. Do đó việc đảm bảo an
toàn tiền mặt trong chi trả là vấn đề khó khăn đối với BHXH Hà Tĩnh. Hơn nữa, việc xử
lý đối với các hành vi vi phạm BHXH chưa cao. Mức xử phạt còn thấp, chưa đủ sức răn
đe các hành vi vi phạm BHXH. Cơ chế thực hiện xử phạt chưa đồng bộ. Cơ quan BHXH
không được trực tiếp giao nhiệm vụ xử lý mà phụ thuộc vào cơ quan thanh tra về lao
động và chính quyền các cấp nên việc xử lý không kịp thời, hiệu quả của việc xử lý
không cao. Bên cạnh đó, kinh tế Hà Tĩnh còn nghèo, tốc độ tăng trưởng chưa cao, sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn không ổn định, lương của người lao
động tham gia BHXH còn thấp. Do đó, mức hưởng chế độ BHXH của người lao động rất
khó đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình họ.
2.2. Tổ chức bộ máy quản lý bảo hiểm xã hội và thực trạng quản lý tài chính
của bảo hiểm xã hội Hà tĩnh
2.2.1. Quá trình hình thành tổ chức bộ máy quản lý của bảo hiểm xã hội Hà
Tĩnh
Ngày 16/02/1995, Chính phủ ban hành Nghị định 19/CP về việc thành lập BHXH
Việt Nam với cơ cấu ba cấp: Cấp trung ương; cấp tỉnh, thành phố và cấp huyện, thị xã.
Theo Quyết định 14aQĐ/TC-CB của Tổng giám dốc BHXH Việt Nam, BHXH Hà Tĩnh
được thành lập ngày 15/6/1995 và chính thức đi vào hoạt động ngày 01/8/1995, trên cơ sở
tiếp nhận nhiệm vụ từ Sở lao động Thương binh và Xã hội, Liên đoàn Lao động, Sở Tài
chính, Cục Thuế. Bộ máy tổ chức quản lý BHXH Hà Tĩnh gồm cơ quan BHXH tỉnh và
BHXH ở 12 huyện, thị, thành phố.
Ngày 24/01/2002, thực hiện Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về việc chuyển Bảo hiểm y tế Việt Nam về BHXH Việt Nam, BHXH Hà Tĩnh tiếp
nhận bàn giao tài chính, tài sản và công chức, viên chức của Bảo hiểm y tế tỉnh.
Theo Quyết định 1620/2002/QĐ-BHXH-TCCB, ngày 17/12/2002 của Tổng giám đốc
BHXH Việt Nam, BHXH Hà Tĩnh là đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam, có chức năng tổ
chức thực hiện các chính sách, chế độ BHXH trên địa bàn tỉnh, chịu sự quản lý trực tiếp, toàn
diện của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam, chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ
của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.
Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý tài chính BHXH ở Hà Tĩnh được phân thành hai
cấp. BHXH tỉnh là đơn vị dự toán cấp 2; BHXH các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là
đơn vị dự toán cấp 3. Các đơn vị dự toán cấp 2, cấp 3 có tư cách pháp nhân đầy đủ, thực
hiện hạch toán kế toán, báo cáo quyết toán hoạt động tài chính của từng đơn vị; đồng thời
thực hiện hạch toán kế toán, tập trung toàn ngành tại BHXH tỉnh và báo cáo về BHXH
Việt Nam.
Bảo hiểm xã hội huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh là cơ quan trực thuộc Bảo
hiểm xã hội tỉnh, đặt tại huyện, nằm trong hệ thống tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt
Nam, có chức năng giúp Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh tổ chức thực hiện các chính
sách, chế độ bảo hiểm xã hội và quản lý tài chính bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện.
Bảo hiểm xã hội huyện chịu sự quản lý trực tiếp toàn diện của Giám đốc Bảo hiểm xã hội
tỉnh, chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của Uỷ ban nhân dân huyện. Bảo hiểm
xã hội huyện có tư cách pháp nhân, có trụ sở đặt tại huyện lỵ, có dấu, tài khoản riêng. Nhiệm
vụ và quyền hạn của Bảo hiểm xã hội huyện là xây dựng chương trình, kế hoạch năm, trình
Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện; hướng dẫn đơn vị sử dụng
lao động lập danh sách tham gia bảo hiểm xã hội; đôn đốc, theo dõi việc thu nộp bảo hiểm xã
hội theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Bảo hiểm xã hội tỉnh; tiếp nhận kinh
phí, danh sách và tổ chức chi trả cho các đối tượng hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội do Bảo
hiểm xã hội tỉnh chuyển đến theo phân cấp. Theo dõi việc thay đổi địa chỉ, danh sách tăng,
giảm đối tượng hưởng chế độ trong quá trình chi trả; tổ chức ký kết hợp đồng trách nhiệm và
quản lý mạng lưới chi trả bảo hiểm xã hội ở xã, phường, thị trấn; quản lý công chức, viên
chức, tài chính và tài sản thuộc Bảo hiểm xã hội huyện theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội
Việt Nam và Bảo hiểm xã hội tỉnh.
Các đơn vị trực tiếp thực hiện nghiệp vụ quản lý tài chính ở BHXH tỉnh là Phòng
Kế hoạch - Tài chính và Phòng thu BHXH.
Phòng Kế hoạch - Tài chính có chức năng giúp Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh thực
hiện công tác kế hoạch và quản lý tài chính, tổ chức hạch toán, kế toán của hệ thống Bảo
hiểm xã hội tỉnh theo quy định của pháp luật. Có nhiệm vụ chủ trì phối hợp với các phòng
nghiệp vụ và Bảo hiểm xã hội huyện để lập, giao kế hoạch và tổng hợp đánh giá tình hình
thực hiện kế hoạch tài chính: Thu, chi bảo hiểm xã hội, chi quản lý bộ máy, chi đầu tư
xây dựng,…hàng quý, năm trong hệ thống Bảo hiểm xã hội tỉnh; chuyển kịp thời tiền thu
bảo hiểm xã hội vào tài khoản của Bảo hiểm xã hội Việt Nam theo quy định; tổ chức cấp
kinh phí kịp thời để chi trả cho đối tượng hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội; tổ
chức cấp phát và quản lý kinh phí chi cho hoạt động quản lý bộ máy, kinh phí đầu tư xây
dựng cơ bản, sửa chữa lớn, mua sắm trang thiết bị và các nguồn kinh phí khác của Bảo
hiểm xã hội tỉnh; thực hiện đầy đủ các chế độ, định mức chi tiêu tài chính, tổ chức hạch
toán, kế toán đúng chế độ kế toán theo quy định; hướng dẫn, kiểm tra Bảo hiểm xã hội
huyện thực hiện đúng các nghiệp vụ quản lý tài chính, hạch toán, kế toán theo chế độ quy
định; chủ trì phối hợp với các phòng nghiệp vụ thực hiện xét duyệt và tổng hợp quyết
toán tài chính quý, năm do Bảo hiểm xã hội tỉnh quản lý; theo dõi, lưu trữ, quản lý chứng
từ, sổ sách kế toán theo quy định; thực hiện chế độ thông tin, tổng hợp báo cáo tài chính
tháng, quý, năm theo quy định.
Phòng thu BHXH có chức năng giúp Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh quản lý và
thực hiện nhiệm vụ thu bảo hiểm xã hội đối với các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã
hội theo quy định của pháp luật; có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch thu bảo hiểm xã hội theo kế
hoạch hàng năm và phân bổ chỉ tiêu kế hoạch thu cho Bảo hiểm xã hội huyện trên cơ sở kế
hoạch đã được Bảo hiểm xã hội Việt Nam giao; thực hiện thu bảo hiểm xã hội của người sử
dụng lao động, người lao động và các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định;
hướng dẫn kiểm tra, đôn đốc việc thu bảo hiểm xã hội đối với Bảo hiểm xã hội huyện; thẩm
định số liệu thu bảo hiểm xã hội gửi phòng Kế hoạch - Tài chính; quản lý, kiểm tra Bảo hiểm
xã hội huyện và các tổ chức sử dụng lao động lập danh sách tham gia bảo hiểm xã hội, theo
dõi biến động tăng, giảm đối tượng; tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện thu bảo
hiểm xã hội, đề xuất giải pháp xử lý những vướng mắc trong thực hiện công tác thu bảo hiểm
xã hội và kiến nghị biện pháp mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh.
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy BHXH Hà Tĩnh
2.2.2. Thực trạng quản lý tài chính của bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh
Quản lý tài chính BHXH được thực hiện trên cơ sở pháp lý là các văn bản chính
sách do Chính Phủ, Bộ Tài Chính ban hành quy định về các vấn đề quản lý tài chính
Giám Đốc
và các Phó Giám
Đốc
Phòng
Thu
BHXH
Phòng
Chế độ
Chính
sách
Phòng
Kiểm
Tra
Phòng
Kế
hoạch
tài
chính
Phòng
Giám
định
y tế
Phòng
Công
nghệ
thông
tin
Phòng
Cấp và
quản lý
sổ thẻ
Phòng
Quản
lý
tiếp
nhận
hồ sơ
Phòng
Tổ
Chức
cán
bộ
Phòng
Hành
chính
tổng
hợp
BHXH các huyện, thị
xã, thành phố
Trực Tiếp
Báo cáo
Phối hợp
BHXH. Đó là các Quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/01/1998 ban hành Quy chế
quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam; Quyết định số 100/2001/QĐ-TTg sửa đổi, bổ
sung một số điều của quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam ban hành kèm theo
quyết định số 20/1998/QĐ-TTg; Quyết định 02/2003/QĐ-TTg ngày 02/01/2003 ban hành
quy chế quản lý tài chính BHXH Việt Nam (sau khi sát nhập Bảo hiểm y tế về BHXH Việt
Nam) Quyết định số 144/2005/QĐ-TTg ngày 14/6/2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của
quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam ban hành kèm theo quyết định số
02/2003/QĐ-TTg. Quyết định 41/2007/QĐ-TTg ngày 29/3/2007 hướng dẫn quản lý tài chính
BHXH Việt Nam sau khi thực hiện Luật BHXH. Các thông tư hướng dẫn thực hiện của Bộ
Tài Chính như : Thông tư số 85/1998/TT-BTC ngày 25/06/1998 hướng dẫn quy chế quản lý
tài chính đối với BHXH Việt Nam; Thông tư số 66/2001/TT-BTC ngày 22/08/2001 hướng
dẫn sửa đổi một số điều của Thông tư số 85/1998/TT-BTC hướng dẫn quy chế quản lý tài
chính đối với BHXH Việt Nam; Thông tư số 58/2007/TT-BTC ngày 12/06/2007 hướng dẫn
quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam. Các Quyết định như Quyết định số 1058a-
TC/QĐ/KT ngày 29/09/1995; Quyết định số 1124-TC/QĐ/CĐKT ngày 12/12/1996; Quyết
định số 140/1999/QĐ-BTC ngày 15/11/1999; Quyết định số 18/2004/QĐ-BTC ngày
16/02/2004; Quyết định số 51/2007/QĐ-BTC ngày 22/6/2007, áp dụng cho các đơn vị thuộc
BHXH Việt Nam.
2.2.2.1. Thực trạng quản lý thu bảo hiểm xã hội
* Xây dựng kế hoạch thu bảo hiểm xã hội
Kế hoạch thu của BHXH Hà Tĩnh được xây dựng trên cơ sở các quy định của Chính
phủ, đồng thời dựa trên các quy định của BHXH Việt Nam về phân cấp thu BHXH và
quy trình thu BHXH.
Theo quy định về phân cấp quản lý thu BHXH, BHXH tỉnh tổ chức thu BHXH của
các đơn vị sử dụng lao động có trụ sở chính đóng trên địa bàn tỉnh bao gồm: Các đơn vị
do Trung ương quản lý; các đơn vị do tỉnh trực tiếp quản lý; các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài; các đơn vị, tổ chức quốc tế; các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử
dụng số lao động lớn.
BHXH huyện thu BHXH các đơn vị có trụ sở chính đóng trên địa bàn huyện bao gồm:
Các đơn vị do huyện trực tiếp quản lý; các đơn vị ngoài quốc doanh; các xã, phường, thị trấn;
các đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiệm vụ thu.
Đối với các đơn vị sử dụng lao động có các đơn vị trực thuộc, đóng trụ sở và hoạt
động trên địa bàn nhiều tỉnh, thì nộp BHXH tại cơ quan BHXH tỉnh, nơi đóng trụ sở
chính; đơn vị sử dụng lao động muốn để các đơn vị trực thuộc nộp BHXH tại nơi đơn vị
trực thuộc đóng trụ sở, phải có văn bản đề nghị và có ý kiến của cơ quan BHXH tỉnh nơi
đóng trụ sở chính đồng ý.
Hàng năm, các đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm lập danh sách số lao động
tham gia BHXH, quỹ tiền lương và số tiền đóng BHXH với cơ quan BHXH trực tiếp
quản lý thu BHXH. Cơ quan BHXH có trách nhiệm kiểm tra, đối chiếu, xác nhận số lao
động có đóng tiền BHXH, tổng số tiền đóng BHXH của đơn vị sử dụng lao động và của
từng người lao động; đồng thời ghi vào sổ BHXH của từng người lao động về thời gian
đóng BHXH, số tiền đóng BHXH để làm căn cứ duy nhất giải quyết các chế độ BHXH
cho người lao động.
Về quy trình quản lý thu BHXH, kể từ khi thành lập (1995) đến nay, Bảo hiểm xã
hội Việt Nam đã năm lần thay đổi quy định quy trình quản lý thu để phù hợp với thực tế
quản lý của từng thời kỳ. Từ những quy định tạm thời về công tác thu BHXH, đến nay, đã
có quy định chính thức và riêng cho công tác thu. Từng khâu trong công tác thu đã được
quy định cụ thể và có cơ chế quản lý phù hợp. Đặc biệt là khâu quản lý số tiền đã thu
BHXH qua hệ thống tài khoản chuyên thu ở ngân hàng, kho bạc từ địa phương đến Trung
ương. BHXH Việt Nam cũng đã xây dựng được hệ thống mẫu biểu quản lý thu tương đối
hoàn chỉnh áp dụng trong toàn quốc. Các tiêu thức của mẫu biểu đã đáp ứng được yêu cầu
quản lý, phù hợp với tình hình thực tế. Các bước triển khai thực hiện nghiệp vụ thu được
chuyên môn hoá cao, giảm bớt các thủ tục rườm rà, đảm bảo việc thực hiện thu, đối chiếu
số thu và chuyển tiền thu nhanh chóng hiệu quả và an toàn.
Từ tháng 9/1995 đến tháng 12/1996 quy trình quản lý thu BHXH được thực hiện
theo Quyết định số 211/BHXH ngày 26 tháng 9 năm 1995 của Tổng Giám đốc BHXH Việt
Nam. Từ tháng 01/1997 đến tháng 12/1999, quy trình quản lý thu BHXH được thực hiện
theo Quyết định số 177/ BHXH ngày 30 tháng 12 năm 1996 của Tổng Giám đốc BHXH Việt
Nam. Từ tháng 01/2000 đến tháng 6/2003, quy trình quản lý thu BHXH được thực hiện theo
Quyết định số 2902/1999/QĐ- BHXH ngày 23 tháng 11 năm 199 của Tổng Giám đốc Bảo
hiểm xã hội Việt Nam. Quyết định này đã cụ thể hoá về nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên
tham gia BHXH trong việc thu nộp BHXH và quản lý và tổ chức thu BHXH. Từ tháng
7/2003 đến nay, quy trình quản lý thu BHXH, BHYT bắt buộc được thực hiện theo Quyết
định số 722/QĐ- BHXH-BT ngày 26 tháng 5 năm 2003 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội
Việt Nam. Từ tháng 01/2007 đến nay, quy trình quản lý thu BHXH được thực hiện theo
Quyết định số 902/QĐ- BHXH ngày 26 tháng 6 năm 2007 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã
hội Việt Nam. Quyết định này được ban hành sau khi Luật BHXH được triển khai thực hiện
từ ngày 01 tháng 01 năm 2007. Các quy định về quản lý thu BHXH bắt buộc được tổ chức
thực hiện qua các giai đoạn có một số nội dung như sau:
Một là, đối tượng tham gia BHXH đã từng bước được mở rộng, từ chỗ ở phạm vi
hẹp trong khu vực nhà nước đến chỗ mở rộng ra khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người
lao động.
Hai là, về mức đóng được tăng dần. Phương thức đóng thì vẫn quy định theo tháng
cùng với thời gian nhận tiền lương, tiền công của người lao động, trừ một số trường hợp
các doanh nghiệp sản xuất theo thời vụ được phép đóng BHXH theo quý hoặc sáu tháng
một lần.
Ba là, quy định tiền lương làm căn cứ đóng BHXH từng bước được nâng lên theo
mức thu nhập của người lao động và được giới hạn mức trần tối đa nhằm tạo công bằng
trong đóng và hưởng.
Bốn là, về công tác quản lý được phát triển theo hướng phân định rõ chức năng,
quyền hạn và trách nhiệm của người sử dụng lao động, đại diện người sử dụng lao động
và cơ quan nhà nước
Hàng năm, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, các đơn vị dự toán phải
xây dựng kế hoạch thu BHXH trong năm. Từ năm 1995 - 1999, công tác lập kế hoạch thu
chỉ quy định trách nhiệm của BHXH cấp tỉnh và cấp huyện. Từ năm 2000 đến năm 2006
Quyết định số 2902/1999/QĐ - BHXH ngày 23/11/1999 của Tổng giám đốc BHXH Việt
Nam đã quy định rõ trách nhiệm của BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh và huyện. Thời hạn
nộp kế hoạch thu được quy định lại trước ngày 31/10 hàng năm với mục đích BHXH Việt
Nam có thể tổng hợp và xem xét, giao chỉ tiêu kế hoạch thu cho BHXH cấp tỉnh sao cho
phù hợp. Từ năm 2007 trở đi, theo Quyết định số 902/QĐ - BHXH, ngày 26/6/2007 của
Tổng giám đốc BHXH Việt Nam thực hiện theo Luật BHXH.
Về cơ bản, quy trình lập kế hoạch thu theo quy định tại Quyết định số 2902/1999/QĐ
- BHXH, Quyết định số 722/2003/QĐ - BHXH và Quyết định số 902/QĐ - BHXH không
khác nhau; nhưng những quy định trong Quyết định số 722/2003/QĐ - BHXH và Quyết định
số 902/QĐ - BHXH có tính khoa học hơn, thể hiện ở chỗ, BHXH Việt Nam lập kế hoạch thu
không chỉ dựa trên kế hoạch thu do BHXH tỉnh gửi đến mà còn căn cứ vào tình hình thực
hiện kế hoạch năm của BHXH các địa phương cũng như tình hình phát triển kinh tế - xã hội.
Quy trình lập kế hoạch thu theo quy định tại Quyết định số 902/QĐ - BHXH ngày
26/6/2007 như sau: BHXH huyện căn cứ vào Danh sách lao động, quỹ lương trích nộp
BHXH của các đơn vị và đối tượng tham gia BHXH do BHXH huyện quản lý để thực
hiện kiểm tra, đối chiếu, tổng hợp và lập 2 bản kế hoạch thu BHXH năm sau, một bản lưu
tại BHXH huyện, một bản gửi BHXH tỉnh trước ngày 20/10 hàng năm.
BHXH tỉnh căn cứ danh sách lao động, quỹ lương trích nộp BHXH của các đơn vị do
BHXH tỉnh trực tiếp thu, thực hiện kiểm tra, đối chiếu, lập kế hoạch thu BHXH năm sau.
Đồng thời tổng hợp kế hoạch thu BHXH của các huyện, lập hai bản, một bản lưu tại BHXH
tỉnh, một bản gửi BHXH Việt Nam trước ngày 31/10.
BHXH Việt Nam căn cứ tình hình thực hiện kế hoạch năm của BHXH các địa
phương và tình hình phát triển kinh tế xã hội, căn cứ kế hoạch thu BHXH do BHXH các
tỉnh lập để giao số kiểm tra về thu BHXH cho BHXH các tỉnh trước ngày 15/11 hàng
năm.
Căn cứ số kiểm tra của BHXH Việt Nam giao cho, BHXH tỉnh đối chiếu với tình
hình thực tế trên địa bàn đang quản lý, nếu chưa phù hợp thì phản ánh về BHXH Việt
Nam để xem xét, điều chỉnh.
BHXH tỉnh căn cứ dự toán thu BHXH của BHXH Việt Nam giao, tiến hành phân
bổ dự toán thu BHXH cho các đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh và BHXH huyện trước ngày
15/01 của năm kế hoạch để triển khai thực hiện.
Việc lập kế hoạch thu đóng vai trò quan trọng, đòi hỏi đơn vị lập kế hoạch phải
nắm rõ tình hình thực tế và tốc độ phát triển về lao động, quỹ lương trên địa bàn được
phân cấp quản lý. Cán bộ làm công tác này phải có trình độ nghiệp vụ vững, am hiểu và
dự đoán được những diễn biến của tình hình kinh tế - xã hội trong nước, trong địa bàn và
của các đơn vị sử dụng lao động. Lập kế hoạch thu sát với tình hình thực tiễn thì công tác
thu sẽ thuận lợi, đảm bảo khai thác tối đa tiềm năng. Ngược lại, công tác thu sẽ trở nên
khó khăn, nặng nề do phải chạy theo chỉ tiêu kế hoạch quá cao. Kế hoạch thu và kết quả
thực hiện kế hoạch thu của BHXH Hà Tĩnh được thể hiện trên Bảng 2.2.
Bảng 2.2: Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHXH của tỉnh Hà Tĩnh (giai đoạn
2003 - 2007)
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
Số kế hoạch 96,5 101 130 146 187
Số thực hiện 96,85 101,3 131 151 194
Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch 100,3% 100,3% 100,7% 103,4% 103,7%
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh [6].
Số liệu bảng 2.2 cho thấy, việc thực hiện kế hoạch thu được giao ở BHXH Hà Tĩnh
qua các năm sát với thực tế. Kế hoạch thu BHXH và thực hiện sát nhau. Điều đó cho thấy
công tác lập kế hoạch thu được chú trọng hơn nên số dự toán thu đề ra hàng năm chỉ chênh
lệch từ 0 - 4% so với số thực thu BHXH.
Để xây dựng và thực hiện kế hoạch thu BHXH, cơ quan quản lý đã tập trung vào ba
nội dung.
Một là, quản lý đối tượng tham gia BHXH; hai là quản lý quỹ lương trích nộp
BHXH; ba là quản lý tiền thu BHXH.
Về quản lý đối tượng tham gia BHXH.
Quản lý đối tượng tham gia BHXH là một trong những vấn đề mấu chốt của nghiệp vụ
thu BHXH. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng kế hoạch thu BHXH
Bảng 2.3: Đối tượng tham gia BHXH của tỉnh Hà Tĩnh
Đơn vị tính: Người
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
Số đối tượng tham gia BHXH 43.484 45.139 51.353 54.189 56.578
Trong đó:
Khối Hành chính sự nghiệp,
Đảng, Đoàn thể
28.184 28.797 29.209 29.970 29.430
Khối Doanh nghiệp
Nhà nước
11.661 11.650 11.007 9.684 9.406
Khối Doanh nghiệp ngoài
Quốc doanh
2.259 2.785 4.294 6.607 7.891
Khối Doanh nghiệp có vốn đầu
tư Nước ngoài
212 231 230 286 311
Ngoài công lập 1.137 1.567 2.057 2.444 2.881
Hợp tác xã 31 109 386 587 756
Xã, phường 4.432 4.224 4.151 4.373 5.612
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh [6].
BiÓu ®å 2.1: Lao ®éng tham gia BHXH Hµ TÜnh
(tõ n¨m 2003 -2007)
0
4000
8000
12000
16000
20000
24000
28000
32000
2003 2004 2005 2006 2007
HCSN, § ¶ng, ®oµn thÓ DNNN DN NQD Khèi kh¸c
(Sè ®èi t î ng: Ng êi)
Qua số liệu Bảng 2.3, chúng ta có thể thấy rằng, số lao động hàng năm đều tăng lên.
Trong đó, khối hành chính sự nghiệp, Đảng, Đoàn thể, xã phường cơ bản ổn định hàng năm
không biến động lớn. Biến động nhiều nhất là khối doanh nghiệp Nhà nước và khối doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Điều đó phản ánh đúng tình hình phát triển kinh tế xã hội trong
những năm qua. Các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá, cơ cấu lại lao động phù
hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh, do đó, số lao động giảm. Các doanh nghiệp tư nhân,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,... được cấp giấy phép thành lập với số lượng
lớn ngày càng tăng qua các năm vì vậy đã thu hút một lực lượng lớn lao động tham gia
BHXH. Lao động tham gia BHXH ở khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn ít.
Điều đó cho thấy ở Hà Tĩnh chưa có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đóng trên địa bàn hoạt
động sản xuất kinh doanh.
ở đây cũng cần nhận thấy rằng, thực tế thời gian qua một số chủ sử dụng lao động
nhận thức không nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
việc đóng BHXH cho người lao động. Do đó, vẫn còn không ít doanh nghiệp gian lận
trong kê khai số lao động tham gia nộp BHXH, trốn tránh đóng BHXH cho người lao
động. Theo số liệu của Sở lao động - Thương binh và Xã hội, đến hết năm 2007, tỉnh Hà
Tĩnh có 1.442 doanh nghiệp các loại, thu hút 44.480 lao động, trong đó, mới chỉ có có
574 doanh nghiệp nộp BHXH cho 18.364 lao động, chiếm tỷ lệ 40% doanh nghiệp và
41% lao động tham gia BHXH. Một số đơn vị làm ăn không có hiệu quả, công nhân
không có việc làm phải ra làm ngoài và nộp nghĩa vụ BHXH cho doanh nghiệp dẫn đến gánh
nặng tài chính đối với doanh nghiệp. Cá biệt ở một số đơn vị, công nhân phải đóng toàn bộ
20% BHXH. Khoản đóng góp này so với mức thu nhập của công nhân là quá cao. Do vậy
nhiều người đã buộc phải xin ra khỏi biên chế. Một bộ phận doanh nghiệp lo sợ về gánh nặng
15% nộp BHXH phải tính vào chi phí doanh nghiệp nên đã sử dụng các hình thức như không
ký kết hợp đồng lao động, hoặc ký kết hợp đồng lao động ít hơn lao động thực tế, ký thời hạn
hợp đồng với người lao động dưới 3 tháng…Một bộ phận doanh nghiệp ngoài quốc doanh có
đăng ký sản xuất kinh doanh nhưng không trích nộp BHXH cho người lao động, tìm mọi
cách né tránh trốn đóng BHXH.
Về quản lý quỹ lương trích nộp BHXH, đây cũng là cơ sở quan trọng để lập kế hoạch
thu BHXH. Cơ quan BHXH quản lý tốt quỹ lương trích nộp BHXH sẽ là điều kiện xây dựng
kế hoạch thu BHXH sát với thực tế (xem Bảng 2.4).
Bảng 2.4: Tình hình quỹ lương trích nộp BHXH ở tỉnh Hà Tĩnh
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Quỹ lương trích nộp
BHXH
386,8 399,5 491,6 683,3 828,4
Trong đó:
Khối Hành chính sự
nghiệp, Đảng, Đoàn thể
253 258 314 435 506
Khối Doanh nghiệp 92 93 106 129 144
Khối Doanh nghiệp
ngoài Quốc doanh
13,7 16,5 31 61 89
Khối Doanh nghiệp có
vốn đầu tư Nước ngoài
1,7 2,2 3 3,3 4
Ngoài công lập 4,2 5,7 8,4 13 19
Hợp tác xã 0,05 0,3 1,2 3 4,4
Xã, phường 25 26 28 39 62
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh [6]
Số liệu trên cho thấy quỹ lương tăng liên tục qua các năm. Điều đó cũng có nghĩa là
số lao động có thu nhập tăng. Tuy nhiên, số liệu trên đây chưa phản ánh đúng quỹ lương
thực tế phải trích nộp BHXH trên địa bàn tỉnh. Như vậy, với việc không khai báo đầy đủ
lao động, theo đó, quỹ lương trích nộp BHXH của đơn vị cũng không được kê khai đúng,
đủ. Đây là vấn đề phổ biến xảy ra ở nhiều đơn vị sử dụng lao động, nhất là khối các đơn
vị sản xuất kinh doanh không có hiệu quả.
* Tổ chức thu BHXH
Tổ chức thu của BHXH Hà Tĩnh đã được thực hiện khá tốt. Hàng tháng, cơ quan
BHXH tiến hành thông báo nợ BHXH đến các chủ sử dụng lao động, tăng cường công tác
tuyên truyền cho chủ sử dụng lao động, người lao động có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về
công tác BHXH thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: truyền hình, đài,
báo… Cơ quan BHXH biểu dương kịp thời các đơn vị làm tốt công tác BHXH đồng thời
đưa ra công luận các đơn vị cố tình không thực hiện nghĩa vụ nộp BHXH, nợ đọng
BHXH kéo dài. Mặt khác, công tác cấp, quản lý và kiểm tra cấp sổ BHXH được BHXH
Hà Tĩnh coi trọng, xác định sổ BHXH là một trong những công cụ quan trọng trong quản
lý thu BHXH của người lao động, của đơn vị. Đây cũng là cơ sở gắn việc thực hiện nghĩa
vụ trích nộp BHXH với quyền lợi được hưởng các chế độ BHXH. Hơn nữa cơ quan
BHXH cử cán bộ chuyên quản thu BHXH thường xuyên bám sát doanh nghiệp đôn đốc
thực hiện nộp BHXH. Đồng thời tổ chức làm việc trực tiếp với các đơn vị nợ đọng
BHXH để cùng đơn vị tháo gỡ khó khăn, trên cơ sở giúp doanh nghiệp hiểu rõ và nhận
thức đúng đắn về công tác BHXH từ đó doanh nghiệp cam kết việc thực hiện nộp BHXH.
Ngoài ra, cơ quan BHXH còn triệt để áp dụng nguyên tắc có thu nộp BHXH đầy đủ mới
giải quyết chế độ chính sách BHXH.
Với những biện pháp nói trên tổ chức thu của BHXH Hà Tĩnh đã đạt được những kết quả
quan trọng. Số tiền thu BHXH ngày càng tăng liên tục qua các năm.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều doanh nghiệp nợ tiền BHXH, chủ yếu tập trung ở các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh. Số tiền BHXH nợ đọng còn khá lớn. Tại thời điểm 31/12/2007,
tổng dư nợ của BHXH Hà Tĩnh là 8,7 tỷ, trong đó khối các doanh nghiệp nợ 6,9 tỷ, chiếm
79,3% tổng số nợ BHXH của cả tỉnh [6].
* Kiểm tra thực hiện thu BHXH
Kiểm tra thực hiện thu BHXH là một nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên của cơ
quan BHXH, nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm về thu BHXH. Cơ
quan quản lý thu BHXH là đơn vị kiểm tra thường xuyên việc thu BHXH. Mặt khác,
Giám đốc BHXH tỉnh có thể ra quyết định kiểm tra một số đơn vị sử dụng lao động và
BHXH các huyện, thị xã, thành phố. Uỷ ban Nhân dân tỉnh quyết định thành lập các đoàn
thanh tra liên ngành, bao gồm BHXH - Liên đoàn Lao động - Sở Lao động Thương binh
và Xã hội. Đoàn thanh tra liên ngành cũng có thể tiến hành kiểm tra việc đóng BHXH của
một số đơn vị sử dụng lao động.
Từ năm 1995 đến năm 2007, Hà Tĩnh đã tổ chức nhiều cuộc kiểm tra về công tác
thu BHXH, qua kiểm tra có một số vấn đề nổi lên.
ở các đơn vị sử dụng lao động, qua kiểm tra cho thấy các doanh nghiệp đã có nhiều
cố gắng và có ý thức trách nhiệm thực hiện đóng BHXH cho người lao động. Tuy tình
hình sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nhưng họ vẫn
đóng nộp đầy đủ BHXH, đảm bảo chế độ BHXH cho người lao động. Tuy nhiên, qua
kiểm tra, vẫn còn tình trạng một số doanh nghiệp cố tình trốn tránh việc tham gia BHXH
cho người lao động; một số doanh nghiệp khác kê khai không đầy đủ số lao động phải
tham gia BHXH bắt buộc theo luật định, hoặc đăng ký mức lương tham gia BHXH thấp,
bằng mức lương tối thiểu làm ảnh hưởng đến chế độ, quyền lợi của người lao động; tình
trạng đóng BHXH không kịp thời và nợ đọng.
Nhiều doanh nghiệp chỉ thực hiện ký hợp đồng thời vụ và không tham gia đóng BHXH
cho người lao động. Thực hiện Quyết định số 1023/QĐ-LĐTBXH ngày 15/9/2006 của Giám
đốc Sở Lao động Thương binh và Xã hội, đoàn kiểm tra liên ngành đã tiến hành kiểm tra và kết
quả cho thấy, ở Tổng công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh, có 509 lao động chỉ
được ký hợp đồng thời vụ trong nhiều năm và không được tham gia BHXH. Tương tự
như vậy, tại Công ty May xuất khẩu Thành công Hà Tĩnh, có 156 người, Công ty Cổ phần
Gạch ngói Cầu họ có 66 người, Công ty Cổ phần Xây dựng số 1 có 122 người, Công ty
Cổ phần xây dựng Sông Đà 27 có 220 người cũng không được tham gia BHXH. Một số
doanh nghiệp nợ BHXH vẫn còn lớn như Công ty Cổ phần Xây dựng số 1 nợ 200 triệu
đồng, Công ty Công trình 474 nợ 435 triệu đồng, Công ty Xây dựng Cầu đường nợ 297,5
triệu đồng...
ở các đơn vị thuộc hệ thống BHXH Hà Tĩnh, qua kiểm tra việc thực hiện các quy
định của Nhà nước, của BHXH Việt Nam về thu BHXH, có thể thấy rằng, về cơ bản,
BHXH ở các huyện, thị xã, thành phố đã chấp hành nghiêm chỉnh, đúng các quy định về
quy trình thu BHXH. Tuy nhiên, quản lý thu BHXH còn có hạn chế. Cán bộ chuyên quản
thu BHXH ở một số địa phương chưa thực hiện đầy đủ các bước trong quá trình thẩm định
hồ sơ tham gia BHXH ban đầu của người lao động. Việc đối chiếu xác định công nợ hoặc đối
chiếu số liệu thu gộp hai ba quý một lần, khai thác nguồn thu BHXH còn thụ động, chủ yếu
trông chờ các đơn vị sử dụng lao động tự đến đăng ký tham gia.
Tuy nhiên, các cuộc kiểm tra liên ngành có sự tham gia của Sở lao động thương
binh và xã hội và Liên đoàn lao động tỉnh vẫn còn ít, kết quả xử lý sau kiểm tra chưa cao.
2.2.2.2. Thực trạng quản lý chi các chế độ bảo hiểm xã hội
* Lập kế hoạch chi các chế độ BHXH
Hàng năm, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, cơ quan BHXH huyện tổng
hợp kế hoạch chi BHXH của các đơn vị sử dụng lao động và dự kiến điều chỉnh tăng
giảm số các đối tượng hưởng BHXH tăng, giảm các chế độ trợ cấp BHXH thường xuyên
trên địa bàn, gửi cơ quan BHXH tỉnh theo mẫu. Kế hoạch chi BHXH được gửi chậm nhất
vào ngày 30 tháng 9 cho kế hoạch năm sau. Việc xây dựng kế hoạch chi được căn cứ vào
các nội dung sau.
i) Căn cứ vào số người đang hưởng chế độ BHXH và kinh phí chi cho các chế độ
BHXH trên địa bàn, theo nguồn do Ngân sách Nhà nước cấp và nguồn quỹ BHXH đảm
bảo.
ii) Căn cứ vào dự toán đơn vị cấp dưới lập gửi lên, đơn vị cấp trên kiểm tra và giao
chỉ tiêu kế hoạch cho đơn vị dự toán cấp dưới để làm căn cứ tổ chức thực hiện và đánh
giá kết quả hoàn thành công tác của đơn vị.
iii) Căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch được giao và các quy định về quản lý chi, các đơn
vị tổ chức thực hiện theo các chỉ tiêu kế hoạch được giao. Tổ chức hạch toán, kế toán,
thống kê các nghiệp vụ kinh tế phát sinh kịp thời, đầy đủ vào trong hệ thống chứng từ, sổ
sách kế toán theo quy định. Cuối quý và cuối năm, BHXH các huyện, thị xã, thành phố
đều phải lập báo cáo quyết toán tài chính của đơn vị và gửi lên BHXH tỉnh. BHXH tỉnh
kiểm tra, xét duyệt báo cáo quyết toán của BHXH các huyện trước khi ra thông báo chuẩn
y quyết toán cho đơn vị dự toán cấp dưới
* Tổ chức thực hiện chi các chế độ BHXH
Để thực hiện chi trả chế độ BHXH chính xác kịp thời, trước hết cần phải quản lý đối
tượng chi trả.
Về quản lý đối tượng chi trả chế độ BHXH
Đối tượng được chi trả chế độ BHXH gồm hai loại là đối tượng hưởng chế độ
BHXH dài hạn và đối tượng hưởng chế độ BHXH ngắn hạn.
Đối tượng hưởng chế độ BHXH dài hạn bao gồm những người hưởng các chế độ
hưu trí, mất sức, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiêp, tử tuất. Các đối tượng được hưởng
chế độ BHXH dài hạn ở Hà Tĩnh khá đông, thường xuyên có biến động về số lượng do
tăng mới bổ sung, chết hoặc hết thời hạn được hưởng chế độ BHXH. Do đó, quản lý đối
tượng được chi trả BHXH dài hạn khá phức tạp. Trước đây, (từ năm 1995 đến 1998), việc
chi trả chế độ BHXH được cơ quan BHXH uỷ quyền cho các xã, phường. Danh sách đối
tượng được hưởng chế độ BHXH do xã, phường lập. Do số lượng đối tượng loại này rất
lớn, không có nhiều biến động nên việc đối chiếu hồ sơ và danh sách chi trả rất phức tạp
và tốn nhiều công sức và không tránh khỏi sai sót. Từ năm 1998 đến nay, BHXH đã triển
khai chương trình quản lý đối tượng chi trả bằng phần mềm máy tính, đồng thời thực hiện
việc in danh sách chi trả tại BHXH tỉnh, với tổng số 62.000 người được hưởng chế độ
BHXH dài hạn. Việc đổi mới quản lý đối tượng chi trả BHXH đã hạn chế được nhiều sai
sót và giảm thiểu được thời gian và sức lực của những người quản lý đối tượng khi đối
chiếu giữa hồ sơ và danh sách chi trả thực tế. Cùng với việc quản lý đối tượng bằng máy
tính, BHXH Hà Tĩnh còn chỉ đạo BHXH cấp huyên đối chiếu giữa danh sách chi trả và
hồ sơ lưu tại huyện. Trường hợp thiếu hồ sơ, cơ quan BHXH sẽ thực hiện sao lục tại
phòng Tiếp nhận và quản lý hồ sơ BHXH tỉnh. Bảng 2.5 và Bảng 2.6 dưới đây cho thấy
số đối tượng được hưởng BHXH dài hạn đã được BHXH Hà Tĩnh quản lý từ năm 1995
đến nay.
Bảng 2.5: Tổng hợp đối tượng hưởng chế độ BHXH
từ nguồn Ngân sách Nhà nước
Đơn vị tính: Người
Thời điểm HQ HC MSLĐ
TNLĐ
BNN
P.Vụ
TNLĐ
ĐSCB ĐSND
Tổng
số
31/12/1995 5.812 32.345 10.185 167 10 7.853 232 56.604
31/12/1996 5.758 31.845 10.174 178 10 7.778 227 55.970
31/12/1997 5.693 31.362 10.120 204 10 7.693 231 55.313
31/12/1998 5.593 30.908 10.018 254 10 7.680 206 54.669
31/12/1999 5.515 30.445 9.962 278 9 7.530 195 53.934
31/12/2000 5.433 29.942 9.833 285 9 7.253 159 52.914
31/12/2001 5.362 29.454 9.682 293 9 7.222 145 52.167
31/12/2002 5.275 28.910 9.538 289 8 7.268 117 51.405
31/12/2003 5.195 28.389 9.402 288 9 7.353 102 50.738
31/12/2004 5.093 27.865 9322 279 9 7.473 91 50.032
31/12/2005 4.979 27.233 9.036 282 9 7.521 80 49.140
31/12/2006 4.784 26.440 8.801 317 6 7.796 73 48.217
31/12/2007 4.664 25.856 8.638 315 5 7.803 67 47.348
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh [2].
Bảng 2.6: Tổng hợp đối tượng hưởng chế độ BHXH từ nguồn quỹ BHXH
Đơn vị tính: Người
Thời điểm HQ HC HX
TNLĐ-
BNN
P.vụ
TNLĐ
Tuất
ĐSCB
Tuất
ĐSND
Tổng
số
31/12/1995 10 12 0 14 0 32 1 69
31/12/1996 47 77 0 32 0 133 4 293
31/12/1997 142 193 0 63 0 325 6 729
31/12/1998 216 433 0 104 1 476 7 1.237
31/12/1999 341 878 0 140 2 707 7 2.075
31/12/2000 436 1.418 32 168 2 887 8 2.951
31/12/2001 490 2.105 121 186 2 1.009 8 3.921
31/12/2002 592 2.942 159 246 5 1.204 9 5.157
31/12/2003 649 3.911 179 300 5 1.399 9 6.452
31/12/2004 733 5.638 292 340 10 1.536 13 8.562
31/12/2005 808 7.210 403 405 12 1.674 11 10.523
31/12/2006 902 9041 427 423 3 1.812 12 12.620
31/12/2007 1.041 10.541 438 470 3 1.868 13 14.374
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh [3].
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Nguån NS Nhµ n í c Nguån Quü BHXH
Nguån NS nhµ n í c Nguån Quü BHXH
BiÓu ®å 2.2: § èi t- î ng h- ëng chÕ ®é BHXH TØnh Hµ TÜnh
tõ n¨m 1995 - 2007(Sè ®èi t î ng: Ng êi )
Bên cạnh việc quản lý đối tượng hưởng các chế độ BHXH dài hạn, BHXH còn phải
quản lý chi trả đối tượng hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn. Đối tượng này gồm những
người hưởng trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khoẻ, hưởng trợ
cấp một lần và truy lĩnh. Những người được hưởng trợ cấp BHXH ngắn hạn (ốm đau) đây
là những người lao động đang tham gia BHXH không may bị ốm đau hoặc người lao
động con ốm phải nghỉ việc. Cơ quan BHXH phải thanh toán trợ cấp BHXH trong thời
gian người lao động nghỉ ốm. Chế độ BHXH thai sản được áp dụng đối với lao động nữ
mang thai; lao động nữ sinh con; người lao động nhận nuôi con nuôi dưới bốn tháng tuổi;
người lao động đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản. Chế độ BHXH nghỉ
dưỡng sức được áp dụng đối với người lao động sau thời gian nghỉ ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động - bệnh nghề nghiệp vẫn chưa phục hồi sức khoẻ.
Trong thời gian vừa qua, việc quản lý đối tượng chi trả BHXH ở BHXH Hà Tĩnh đã
đạt được nhiều kết quả tốt, đã phát hiện nhiều trường hợp hưởng quá thời hạn quy định
như mất sức lao động, tuất quá tuổi... Tuy nhiên, việc quản lý đối tượng được hưởng
BHXH ở Hà Tĩnh còn gặp một số khó khăn, hạn chế. Hệ thống tài liệu quản lý đối tượng
chưa có đủ dữ liệu để nhận diện đối tượng nhất là những trường hợp đối tượng ở vùng
sâu, vùng xa bị chết rất khó quản lý.
Về phương thức chi trả chế độ BHXH
Hiện nay hàng tháng, BHXH Hà Tĩnh tổ chức cấp phát cho BHXH các huyện, thị,
thành phố với số tiền 80 tỷ đồng dùng để chi trả cho các loại đối tượng hưởng BHXH.
Việc tổ chức chi trả được thực hiện theo hai phương thức chính là chi trả trực tiếp và chi
trả gián tiếp. Chi trả trực tiếp là việc cơ quan BHXH các cấp trực tiếp chi trả chế độ
BHXH đến từng đối tượng hưởng BHXH. Chi trả gián tiếp là việc cơ quan BHXH thông
qua các đại lý ở xã, phường và đơn vị sử dụng lao động uỷ quyền thanh toán chi trả các
khoản trợ cấp BHXH cho người hưởng chế độ BHXH
Về phương thức chi trả các chế độ BHXH dài hạn, BHXH Hà Tĩnh đã phân cấp cho
BHXH cấp huyện tổ chức thực hiện. Hầu hết các cơ quan BHXH cấp huyện ở Hà Tĩnh
đều áp dụng hai phương thức chi trả chế độ BHXH dài hạn. Một là, phương thức chi trả
trực tiếp, do cán bộ cơ quan BHXH trực tiếp thực hiện. Hai là, phương thức chi trả gián
tiếp, cơ quan BHXH chi trả thông qua các đại lý ở các xã, phường. Cơ quan BHXH
huyện ký hợp đồng uỷ quyền cho các đại lý chi trả chế độ cho các đối tượng.
Trong thời gian qua, việc tổ chức quản lý và thực hiện chi trả các chế độ của
BHXH Hà Tĩnh về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của các đối tượng. Tuy nhiên, trong
thực hiện chi trả vẫn còn khó khăn đó là hàng tháng Hà Tĩnh phải chi trả một số lượng
tiền mặt lớn, nhất là vào những dịp tết Nguyên đán phải chi 2 tháng lương hưu và trợ
cấp BHXH trước tết cho đối tượng hưởng BHXH. Trong khi đó, tội phạm trên địa bàn
ngày càng có xu hướng gia tăng, phương tiện quản lý an toàn tiền mặt trong quá trình
chi trả chưa đảm bảo. BHXH cấp huyện không có phương tiện vận chuyển tiền đi chi
trả phải đi thuê phương tiện hàng tháng. Đối tượng đến nhận lương hưu và trợ cấp
BHXH nhưng không có sổ lĩnh tiền lương nên việc chi trả gặp khó khăn khi thực hiện
như xếp thứ tự, nhận diện đối tượng. Một vấn đề nữa là các đối tượng nhận lương hưu
và trợ cấp BHXH cũng đồng thời là đối tượng người có công. Trong khi đó, chi trả
lương hưu và trợ cấp BHXH do ngành BHXH thực hiện còn chi trả trợ cấp người có
công do ngành lao động thương binh và xã hội thực hiện. Lịch chi trả hai loại chế độ
này thường lệch nhau. Do đó, các đối tượng hưởng chế độ phải đi lĩnh hai lần, rất mất
thời gian và công sức.
Dù là chi trả trực tiếp hay chi trả gián tiếp, một yêu cầu đặt ra là việc chi trả phải
đảm bảo nhanh, thanh quyết toán kịp thời, tiền chi trả đảm bảo đủ, đúng, đến tận tay đối
tượng. Thực tế quản lý chi trả của BHXH Hà Tĩnh thời gian qua đã đạt được yêu cầu đó
(xem Bảng 2.7).
Bảng 2.7: Tình hình chi trả chế độ của BHXH Hà Tĩnh
(từ năm 2003 - 2007)
Đơn vị: % so với tổng kinh phí chi trả
Phương thức
chi trả
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Bình
quân
Trực tiếp 46 46 47 50 53 48,4
Gián tiếp 54 54 53 50 47 51,6
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh [2], [3].
Về phương thức chi trả chế độ BHXH ngắn hạn (ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức),
cơ quan BHXH Hà Tĩnh đã uỷ quyền cho các đơn vị sử dụng lao động thực hiện chi trả
cho người lao động của đơn vị.
Đối với chi trả chế độ trợ cấp một lần và truy lĩnh, BHXH tỉnh phân cấp toàn bộ
cho BHXH cấp huyện thực hiện các khoản chi đó. Các chế độ đó gồm: Trợ cấp lần
đầu cho người lao động có thời gian công tác trên 30 năm đối với nam và trên 25 năm
đối với nữ; chi 1 lần cho người lao động chưa đủ điều kiện nghỉ hưu; trợ cấp tử tuất
một lần và mai táng phí của người đang lao động hoặc nghỉ hưu chết; trợ cấp tai nạn
lao động - bệnh nghề nghiệp một lần cho cán bộ công chức tại chức, bị tai nạn hoặc
bệnh nghề nghiệp; chi truy lĩnh điều chỉnh chế độ cho đối tượng đã hưởng trợ cấp hàng
tháng theo chính sách Nhà nước.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, có khoảng trên 56 ngàn người lao động tham
gia BHXH. Đây cũng là số người được hưởng chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức. Các
đối tượng này được phân bổ ở các vùng địa lý rất khác nhau. Do đó, việc tổ chức chi trả
và kiểm soát quá trình chi trả rất phức tạp. Tuy nhiên, các cơ quan BHXH đã quản lý việc
chi trả chế độ BHXH cho người lao động khá tốt. Bảng 2.8 cho thấy kết quả chi trả chế
độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức cho người lao động ở Hà Tĩnh tham gia BHXH từ
năm 2003 đến nay.
Bảng 2.8: Tình hình chi trả chế độ ốm đau, thai sản và nghỉ dưỡng sức
tại Hà Tĩnh (2003 - 2007)
Đơn vị tính: Nghìn đồng
Chế độ Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
ốm đau 3.967.000 4.890.000 5.790.000 6.232.000 6.545.000
Thai sản 4.945.000 5.578.000 6.456.000 7.542.000 8.231.000
Dưỡng sức 2.310.000 2.401.000 2.941.000 4.001.000 3.527.000
Tổng chi 11.222.000 12.869.000 15.187.000 17.775.000 18.303.000
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh [4].
Về quy trình chi trả chế độ BHXH
Quy trình chi trả chế độ BHXH dài hạn được thực hiện theo quy định của BHXH
Việt Nam (Xem sơ đồ 2.2)
Sơ đồ 2.2: Quy trình chi trả chế độ BHXH thường xuyên
dài
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Hoàn thiện quản lý tài chính của Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh.pdf