Tài liệu Luận văn Hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước tỉnh Bến Tre: LUẬN VĂN:
Hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên
ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước
tỉnh Bến Tre
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lí của nhà nước, lĩnh vực tài chính - ngân sách nói chung và quản lý quỹ ngân sách
của Kho bạc nhà nước (KBNN) nói riêng đã có sự đổi mới căn bản, nhờ đó đã mang lại
những kết quả đáng khích lệ. Chi ngân sách nhà nước (NSNN) đã trở thành công cụ đắc
lực trong điều hành vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Chi tiêu NSNN những năm qua,
ngoài việc đảm bảo hoạt động có hiệu quả của bộ máy nhà nước, ổn định đời sống kinh tế -
xã hội, còn tạo tiền đề, những cơ sở vật chất quan trọng góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, tác động tích cực vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong từng khâu hoặc từng bộ phận của quy trình
quản lý chi NSNN nói chung và kiểm soát chi qua KBNN nói riêng còn bộc lộ những
khiếm k...
78 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1812 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước tỉnh Bến Tre, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên
ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước
tỉnh Bến Tre
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lí của nhà nước, lĩnh vực tài chính - ngân sách nói chung và quản lý quỹ ngân sách
của Kho bạc nhà nước (KBNN) nói riêng đã có sự đổi mới căn bản, nhờ đó đã mang lại
những kết quả đáng khích lệ. Chi ngân sách nhà nước (NSNN) đã trở thành công cụ đắc
lực trong điều hành vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Chi tiêu NSNN những năm qua,
ngoài việc đảm bảo hoạt động có hiệu quả của bộ máy nhà nước, ổn định đời sống kinh tế -
xã hội, còn tạo tiền đề, những cơ sở vật chất quan trọng góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, tác động tích cực vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong từng khâu hoặc từng bộ phận của quy trình
quản lý chi NSNN nói chung và kiểm soát chi qua KBNN nói riêng còn bộc lộ những
khiếm khuyết, kém hiệu quả. Năm 2006, kiểm toán nhà nước đối với ngân sách 2005 cho
thấy có 7.622,5 tỉ đồng thu, chi sai nguyên tắc phải xử lý, trong đó có 1.339,5 tỉ đồng là
tiền từ NSNN. Trong lĩnh vực chi thường xuyên, Kiểm toán nhà nước đã phát hiện nhiều
hình thức làm thất thoát, gây sai phạm như: lấy ngân sách cho vay, tạm ứng; tự chi các khoản
vượt thu, tăng thu; sử dụng ngân sách dự phòng sai qui định; hỗ trợ không đúng chế độ, chi
vượt tiêu chuẩn, định mức về mua sắm,... Riêng trong lĩnh vực chi tiêu hành chính, thất thoát
lên đến 661,8 tỉ đồng. Hầu hết các tỉnh được kiểm toán đều chi ngân sách thường xuyên vượt
dự toán. Cá biệt, có những tỉnh chi vượt dự toán rất cao, trên 100%.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tháng 12 năm 2005, Luật Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí được ban hành. Tất cả các bộ, ngành, địa phương và tổ chức đã tích cực triển khai
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tuy nhiên, tình trạng buông lỏng quản lý, vi phạm các
nguyên tắc quản lý tài chính, ngân sách, làm thất thoát tài sản của Nhà nước còn rất lớn.
KBNN với chức năng kiểm soát chi NSNN như “người gác cổng” giữ cho các chế độ về
chi tiêu ngân sách không bị phá vỡ, góp phần quan trọng trong việc thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí.
Bến Tre là một trong những tỉnh nghèo nhất nước, thu không đủ bù chi. Với nguồn
ngân sách hạn hẹp, lại phải dành một phần không nhỏ để chi cho đầu tư phát triển. Vì vậy,
để đảm bảo kinh phí đáp ứng cho các nhu cầu thường xuyên của bộ máy quản lý nhà nước
(QLNN) trên địa bàn tỉnh Bến Tre thì việc hoàn thiện kiểm soát chi nhằm tiết kiệm, chống
lãng phí trong chi thường xuyên là vấn đề cấp thiết đang được đặt ra. Đây cũng là lý do
của việc chọn đề tài: “Hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua
kho bạc nhà nước tỉnh Bến Tre”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do chi ngân sách là vấn đề hệ trọng, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực nên đến
nay đã có không ít công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này, chẳn hạn như:
- Đổi mới quản lý chi NSNN qua KBNN Đà Nẵng, của tác giả Phan Quản Thống,
Luận văn thạc sĩ, 1999.
- Quản lý chi NSNN qua Kho bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, của tác giả Lương
Quang Tịnh, Luận văn thạc sĩ, 2000.
- Đổi mới quản lý chi NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, của tác giả Đinh Cẩm
Vân, Luận văn thạc sĩ, 2000.
- Hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi,
của tác giả Dương Ngọc Ánh, Luận văn thạc sĩ, 2002.
- Kiểm soát chi thường xuyên từ NSNN qua KBNN Hà Nội - thực trạng và giải
pháp, của tác giả Phùng Quang Anh, Luận văn thạc sĩ, 2006.
-Quản lý ngân sách nhà nước, của tác giả Nguyễn Ngọc Hùng, Nxb Thống kê, Hà
Nội, 2006.
- Kiểm soát chi có chuyển về chất nhưng chưa mạnh, của tác giả Nguyễn Công Điều,
Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia, số 41/2005, tr.24-26.
- Kiểm soát chi ngân sách - giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN,
của tác giả Nguyễn Thị Chắt, Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia, số 38/ 2005.
- Một số ý kiến về công tác kiểm soát chi ngân sách qua KBNN, của tác giả Nguyễn
Văn Biểu, Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia, số 42/2005.
- Hiệu quả công tác kiểm soát chi thường xuyên qua một năm thực hiện Luật NSNN
sửa đổi, của tác giả Trần Thị Thảo, Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia, số 37/2005.
- Kiểm soát một cửa hay giao dịch một cửa, của tác giả Vĩnh Sang, Tạp chí Quản lý
ngân quỹ quốc gia, số 62/2007.
Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập đến một số vấn đề lí luận và thực tiễn về
chi thường xuyên NSNN và kiểm soát chi thường xuyên NSNN dưới những giác độ nhất
định. Hiện chưa có công trình nào nghiên cứu về kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua
Kho bạc nhà nước một cách toàn diện, tổng thể trong cả nước và đặc biệt là ở tỉnh Bến
Tre.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
có liên quan tới đề tài để đề xuất những giải pháp hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên
NSNN qua KBNN trên địa bàn tỉnh Bến Tre, bảo đảm cho việc quản lí, sử dụng NSNN
đúng quy định, đúng chế độ và có hiệu quả, góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí tài sản công.
Để hiện thực hoá mục đích nghiên cứu đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn đặt
ra là:
- Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý và kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN
trong điều kiện hiện nay.
- Phân tích thực trạng kiểm soát chi thường xuyên tại KBNN tỉnh Bến Tre trong
thời gian qua, chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân chủ yếu.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN
tỉnh Bến Tre phù hợp với bối cảnh mới hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là chi thường xuyên của NSNN tại KBNN trên
địa bàn tỉnh Bến Tre. Việc đánh giá thực trạng chi NSNN và kiểm soát chi thường xuyên
NSNN chủ yếu từ khi Luật NSNN năm 2002 có hiệu lực thi hành (2004) đến nay. Các giải
pháp và kiến nghị hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên NSNN định hướng cho đến năm
2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin; các quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu
của các công trình khoa học đã công bố.
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn bao gồm các
phương pháp toán học, các phương pháp thống kê, các phương pháp xã hội học và phương
pháp tiếp cận hệ thống. Trong đó, một số phương pháp cụ thể được chú trọng sử dụng
gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chứng, mô hình hoá...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Hệ thống hoá và làm rõ cơ sở lý luận về kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua
KBNN; phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động kiểm soát chi thường xuyên NSNN của
KBNN tỉnh Bến Tre. Từ đó, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát các
khoản chi thường xuyên của các đơn vị sử dụng NSNN qua KBNN Bến Tre, góp phần
thực hành tiết kiệm và chống lãng phí trong chi tiêu NSNN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được trình bày thành 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CHI THƯỜNG XUYÊN
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái quát về ngân sách nhà nước
NSNN là một phạm trù lịch sử, phản ánh các quan hệ kinh tế trong điều kiện kinh tế
hàng hoá - tiền tệ và được sử dụng như một công cụ để thực hiện chức năng của nhà nước.
Sự ra đời và tồn tại của NSNN gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhà nước.
Tuy đã tồn tại khá lâu, nhưng đến nay, NSNN vẫn được nhìn nhận dưới nhiều giác
độ khác nhau và khái niệm NSNN cũng chưa thống nhất. Nếu xem xét bề ngoài hay chỉ
quan tâm về mặt lượng thì ngân sách là bảng liệt kê các khoản thu và chi bằng tiền của nhà
nước trong một giai đoạn nhất định. Có ý kiến cho rằng, ngân sách là văn kiện được nghị
viện thảo luận và phê chuẩn mà trong đó, các nghiệp vụ tài chính của nhà nước được dự
kiến và cho phép. Một số ý kiến lại cho rằng, NSNN là kế hoạch thu chi tài chính hàng
năm của nhà nước được xét duyệt theo trình tự pháp định.
Theo Luật NSNN được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ hai thông qua ngày
16/12/2002: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo
đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước” [29].
Tuy nhiên, nếu nhìn nhận khái quát hơn và sâu xa hơn thì NSNN phản ánh các quan
hệ phân phối cơ bản của nền tài chính quốc gia. Về mặt kinh tế, NSNN thể hiện trong mối
quan hệ kinh tế - tài chính giữa nhà nước với các chủ thể của nền kinh tế trong quá trình
hình thành, phân bổ và sử dụng NSNN, quá trình phân phân phối và phân phối lại thu
nhập... nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước.
NSNN có tính niên hạn với niên độ hay năm tài khoá thường là một năm. Ở nước ta
hiện nay, năm ngân sách bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm
dương lịch. NSNN được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai,
minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Trong đó,
Quốc hội là cơ quan cao nhất có quyền quyết định dự toán và phê chuẩn quyết toán
NSNN.
NSNN có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng giám đốc.
Chức năng phân phối của NSNN bao gồm phân phối thu nhập và các yếu tố đầu vào của
sản xuất, đặc biệt là các nguồn lực tài chính. Chức năng giám đốc thể hiện ở việc giám sát,
đôn đốc, thanh tra, kiểm tra bằng đồng tiền gắn với quá trình thu, chi NSNN.
NSNN có vai trò rất to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội hiện đại. Vai trò đó thể
hiện trên các mặt như: vừa là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo thực hiện chức
năng của nhà nước, vừa là công cụ điều tiết vĩ mô kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội, khắc phục những khiếm khuyết của kinh tế thị trường, bảo đảm tiến bộ và công
bằng xã hội, góp phần bảo vệ môi trường.
NSNN có hai nội dung cơ bản là thu NSNN và chi NSNN. Thu NSNN bao gồm
những khoản tiền nhà nước huy động vào NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu và nhằm
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Phần lớn các khoản thu NSNN đều
mang tính bắt buộc. Theo pháp luật hiện hành của nước ta, hiện có 14 nhóm nguồn thu
khác nhau như: thuế; phí, lệ phí; thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; thu từ hoạt động
sự nghiệp; tiền thuê đất, sử dụng đất của Nhà nước; thu từ huy động vốn đầu tư các công
trình; đóng góp tự nguyện v.v. [13]. Trong đó, nguồn thu từ thuế, phí và lệ phí (thu thường
xuyên) chiếm tỷ trọng chủ yếu.
Chi NSNN là quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm trang trải cho các
chi phí của bộ máy nhà nước và thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh,
quốc phòng. Theo các nhà chuyên môn tài chính: "Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng
quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất
định" [17, tr.93].
Chi NSNN bao gồm nhiều khoản chi khác nhau tuỳ theo cách phân loại. Theo lĩnh
vực hoạt động, chi NSNN bao gồm: chi quản lý hành chính, chi đầu tư kinh tế, chi cho y
tế, chi cho giáo dục, chi cho phúc lợi xã hội, chi cho an ninh quốc phòng; theo mục đích
chi tiêu, chi NSNN bao gồm chi tích luỹ, chi tiêu dùng; theo thời hạn tác động của các
khoản chi, chi NSNN bao gồm: chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển và chi khác (như
chi cho vay, trả nợ, viện trợ...).
Chi thường xuyên là nhóm chi NSNN đặc biệt quan trọng, gồm rất nhiều khoản chi
và bao quát nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
1.1.2. Nội dung, vai trò của chi thường xuyên ngân sách nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chi thường xuyên ngân sách nhà
nước
Chi thường xuyên NSNN là các khoản chi nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của
nhà nước với các nội dung chủ yếu: chi tiền công, tiền lương; chi mua sắm hàng hoá, dịch vụ;
chi chuyển giao thường xuyên [17, tr.97].
Về thực chất, chi thường xuyên NSNN là quá trình phân phối lại nguồn vốn từ quỹ
tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm duy trì hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước
gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước đảm nhiệm.
Chi thường xuyên NSNN có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Một là, đại bộ phận các khoản chi thường xuyên từ NSNN đều mang tính ổn
định và có tính chu kỳ trong một khoảng thời gian hàng tháng, hàng quý, hàng năm.
Hai là, các khoản chi thường xuyên phần lớn nhằm mục đích tiêu dùng. Hầu hết các
khoản chi thường xuyên nhằm trang trải cho các nhu cầu về quản lý hành chính, hoạt động
sự nghiệp, về an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội và các hoạt động xã hội khác do
Nhà nước tổ chức. Các hoạt động này hầu như không trực tiếp tạo ra của cải vật chất. Tuy
nhiên, những khoản chi thường xuyên có tác dụng quan trọng đối với phát triển kinh tế vì
nó tạo ra một môi trường kinh tế ổn định, nâng cao chất lượng lao động thông qua các
khoản chi cho giáo dục - đào tạo.
Ba là, phạm vi và mức độ chi thường xuyên NSNN gắn liền với cơ cấu tổ chức bộ
máy nhà nước và việc thực hiện các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước
trong từng thời kỳ. Bởi lẽ, phần lớn các khoản chi thường xuyên nhằm duy trì bảo đảm
hoạt động bình thường, hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước. Hơn nữa, những quan
điểm, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước cũng ảnh hưởng trục
tiếp đến việc định hướng, phạm vi và mức độ chi thường xuyên NSNN.
Chi thường xuyên NSNN có vai trò rất quan trọng. Vai trò đó thể hiện trên các mặt
cụ thể như sau:
Thứ nhất, chi thường xuyên có tác động trực tiếp đến việc thực hiện các chức năng của
Nhà nước về quản lý kinh tế, xã hội, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến
chất lượng, hiệu quả của bộ máy QLNN.
Thứ hai, chi thường xuyên là công cụ để Nhà nước thực hiện mục tiêu ổn định và
điều chỉnh thu nhập, hỗ trợ người nghèo, gia đình chính sách, thực hiện các chính sách xã
hội... góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.
Thứ ba, thông qua chi thường xuyên, Nhà nước thực hiện điều tiết, điều chỉnh thị
trường để thực hiện các mục tiêu của Nhà nước. Nói cách khác, chi thường xuyên được
xem là một trong những công cụ kích thích phát triển và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thứ tư, chi thường xuyên là công cụ ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh.
Thông qua chi thường xuyên, Nhà nước thực hiện các chính sách xã hội, đảm bảo ổn định,
an toàn xã hội và an ninh, quốc phòng.
1.1.2.2. Nội dung chi thường xuyên ngân sách nhà nước
Nội dung chi thường xuyên NSNN được phân biệt theo lĩnh vực chi, đối tượng chi
và tính chất chi tiêu. Cụ thể như sau:
Theo lĩnh vực chi trả, chi thường xuyên NSNN bao gồm 12 nội dung chi theo luật
định [13], cụ thể như sau:
- Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin văn học
nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, các sự nghiệp xã hội khác;
- Các hoạt động sự nghiệp kinh tế;
- Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội;
- Hoạt động của các cơ quan nhà nước;
- Hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam;
- Hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn Lao động Việt
Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam;
- Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
- Phần chi thường xuyên thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà
nước;
- Hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội;
- Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội;
- Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp;
- Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.
Theo đối tượng chi trả, chi thường xuyên NSNN bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Các khoản chi cho con người thuộc khu vực hành chính - sự nghiệp như: tiền
lương, tiền công, phụ cấp, phúc lợi tập thể, y tế, vệ sinh, học bổng cho học sinh và sinh
viên v.v..
- Các khoản chi về hàng hoá, dịch vụ tại các cơ quan nhà nước như: văn phòng
phẩm, sách, báo, dịch vụ viễn thông và thông tin, điện, nước, công tác phí, chi phí hội nghị
v.v..
- Các khoản chi hỗ trợ và bổ sung nhằm thực hiện các chính sách xã hội hay thực
hiện điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước.
- Các khoản chi trả lãi tiền vay trong và ngoài nước.
- Các khoản chi khác.
Theo tính chất của từng khoản chi, nội dung chi thường xuyên NSNN bao gồm các
khoản như sau:
- Chi thanh toán cá nhân: là các khoản chi liên quan trực tiếp đến con người như:
chi tiền lương, phụ cấp lương, tiền công, chi học bổng, sinh hoạt phí của học sinh, sinh
viên, chi đóng bảo hiểm xã hội cho người hưởng lương từ NSNN, chi tiền thưởng, phúc lợi
tập thể.
- Chi nghiệp vụ chuyên môn: là các khoản chi đảm bảo hoạt động thường xuyên của
đơn vị thụ hưởng NSNN như: chi mua văn phòng phẩm, chi trả dịch vụ công cộng, chi
mua hàng hoá vật tư, công cụ dụng cụ dùng trong công tác chuyên môn của từng ngành,
chi bảo hộ lao động, trang phục, đồng phục và các khoản khác.
- Chi mua sắm, sửa chữa: chi mua sắm đồ dùng, trang thiết bị, phương tiện làm
việc, sửa chữa lớn tài sản cố định và các khoản khác.
- Chi khác: là các khoản chi ngoài các khoản chi nêu trên chẳng hạn như: chi hoàn
thuế giá trị gia tăng, chi xử lý tài sản được xác lập sở hữu nhà nước và các khoản khác.
1.1.2.3. Điều kiện cấp phát, thanh toán các khoản chi thường xuyên ngân sách
nhà nước
Khác với nhiều loại chi tiêu khác, chi thường xuyên từ NSNN phải tuân thủ những
quy định pháp luật rất chặt chẽ. Cụ thể như sau:
Một là, các khoản chi đã có trong dự toán NSNN được giao, trừ các trường hợp sau:
- Trong trường hợp vào đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách và phương án phân
bổ ngân sách chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, cơ quan Tài chính
và KBNN tạm cấp kinh phí cho các nhiệm vụ chi sau: chi lương và các khoản có tính chất
tiền lương; chi nghiệp vụ phí và công vụ phí; một số khoản chi cần thiết khác để bảo đảm
hoạt động của bộ máy, trừ các khoản mua sắm trang thiết bị, sửa chữa; chi cho dự án
chuyển tiếp thuộc các chương trình quốc gia.
- Chi từ nguồn tăng thu so dự toán được giao và từ nguồn dự phòng ngân sách theo
quyết định của cấp có thẩm quyền.
Hai là, bảo đảm đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quy định.
Ba là, đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN hoặc người được ủy quyền quyết
định chi.
Bốn là, trường hợp sử dụng vốn, kinh phí NSNN để mua sắm trang thiết bị, phương tiện
làm việc và các công việc khác phải qua đấu thầu hoặc thẩm định giá thì còn phải tổ chức đấu thầu
hoặc thẩm định giá theo quy định của pháp luật;
Năm là, các khoản chi có tính chất thường xuyên được chia đều trong năm để chi;
các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một số thời điểm như mua sắm,
sửa chữa lớn và các khoản chi có tính chất không thường xuyên khác phải thực hiện theo
dự toán quý được đơn vị dự toán cấp I giao cùng với giao dự toán năm.
1.2. KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC QUA
KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà
nước qua kho bạc nhà nước
Kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN là việc KBNN sử dụng các công cụ
nghiệp vụ của mình thực hiện thẩm định, kiểm tra, kiểm soát các khoản chi thường xuyên
NSNN qua KBNN nhằm đảm bảo các khoản chi đó được thực hiện đúng đối tượng, đúng
chế độ, tiêu chuẩn, định mức do Nhà nước quy định và theo những nguyên tắc, hình thức,
phương pháp quản lý tài chính của Nhà nước.
Kiểm soát chi thường xuyên NSNN có một số đặc điểm như sau:
Một là, kiểm soát chi thường xuyên gắn liền với những khoản chi thường xuyên nên
phần lớn công tác kiểm soát chi diễn ra đều đặn trong năm, ít có tính thời vụ, ngoại trừ
những khoản chi mua sắm tài sản, sửa chữa lớn tài sản cố định...
Hai là, kiểm soát chi thường xuyên diễn ra trên nhiều lĩnh vực và rất nhiều nội dung
nên rất đa dạng và phức tạp. Chính vì thế, những quy định trong kiểm soát chi thường
xuyên cũng hết sức phong phú, với từng lĩnh vực chi có những quy định riêng, từng nội
dung, từng tính chất nguồn kinh phí cũng có những tiêu chuẩn, định mức riêng...
Ba là, kiểm soát chi thường xuyên bị áp lực lớn về mặt thời gian vì phần lớn những
khoản chi thường xuyên đều mang tính cấp thiết như: chi về tiền lương, tiền công, học
bổng... gắn với cuộc sống hàng ngày của cán bộ, công chức, học sinh, sinh viên; các khoản
chi về chuyên môn nghiệp vụ nhằm đảm bảo duy trì hoạt động thường xuyên của bộ máy
nhà nước nên những khoản chi này cũng đòi hỏi phải được giải quyết nhanh chóng. Bên
cạnh đó, tất cả các đơn vị thụ hưởng NSNN đều có tâm lý muốn giải quyết kinh phí trong
những ngày đầu tháng làm cho cơ quan kiểm soát chi là KBNN luôn gặp áp lực về thời
gian trong những ngày đầu tháng.
Bốn là, Kiểm soát chi thường xuyên thường phải kiểm soát những khoản chi nhỏ, vì
vậy cơ sở để kiểm soát chi như hoá đơn, chứng từ... để chứng minh cho những nghiệp vụ
kinh tế đã phát sinh, thường không đầy đủ, không rõ ràng, thiếu tính pháp lý... gây rất
nhiều khó khăn cho cán bộ kiểm soát chi, đồng thời cũng rất khó để có thể đưa ra những
quy định bao quát hết những khoản chi này trong công tác kiểm soát chi.
1.2.2. Nguyên tắc, nội dung và quy trình kiểm soát chi thường xuyên ngân sách
nhà nước qua Kho bạc nhà nước
1.2.2.1. Nguyên tắc và thủ tục kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước
qua Kho bạc nhà nước
Việc quản lý chi và kiểm soát chi thường xuyên NSNN được thực hiện theo những
nguyên tắc sau:
Một là, tất cả các khoản chi NSNN phải được kiểm tra, kiểm soát trước, trong và
sau quá trình cấp phát, thanh toán. Các khoản chi phải có trong dự toán NSNN được duyệt,
đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và đã
được thủ trưởng đơn vị sử dụng kinh phí NSNN chuẩn chi.
Hai là, tất cả các cơ quan, đơn vị sử dụng kinh phí NSNN phải mở tài khoản tại
KBNN; chịu sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan tài chính, KBNN trong quá trình lập, phân
bổ, và thực hiện dự toán được giao.
Ba là, mọi khoản chi NSNN phải được hạch toán bằng đồng Việt Nam theo từng
niên độ ngân sách, cấp ngân sách và theo Mục lục NSNN. Các khoản chi NSNN bằng
ngoại tệ, hiện vật, ngày công lao động được quy đổi và hạch toán chi bằng đồng Việt Nam
theo tỷ giá ngoại tệ, giá hiện vật, ngày công lao động do cơ quan có thẩm quyền quy định.
Bốn là, trong quá trình quản lý, cấp phát, quyết toán chi NSNN, các khoản chi sai
phải thu hồi giảm chi. Căn cứ vào quyết định của cơ quan tài chính hoặt cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, KBNN thực hiện thu hồi giảm chi NSNN.
Năm là, KBNN có trách nhiệm kiểm soát các hồ sơ, chứng từ, điều kiện chi và
thực hiện cấp phát, thanh toán kịp thời các khoản chi NSNN theo đúng quy định; tham
gia với các cơ quan tài chính, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong việc kiểm
tra tình hình sử dụng NSNN và xác nhận số thực chi NSNN qua KBNN của các đơn vị
sử dụng NSNN. KBNN có quyền tạm đình chỉ, từ chối thanh toán, chi trả và thông báo
cho đơn vị sử dụng NSNN biết, đồng thời gửi cơ quan tài chính đồng cấp giải quyết
trong các trường hợp: chi không đúng mục đích, đối tượng theo dự toán được duyệt; chi
không đúng chế độ, định mức chi tiêu, không đủ các điều kiện theo quy định.
Thủ tục kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước được thực hiện theo luật
định. Căn vào yêu cầu quản lý, mục đích sử dụng kinh phí khi cấp phát thanh toán các
khoản chi thường xuyên, KBNN đòi hỏi các khoản chi đó phải đáp ứng các thủ tục sau:
- Dự toán năm được giao (gửi một lần vào đầu năm), nhu cầu chi quý đã gửi KBNN
(gửi một lần vào cuối quý trước).
- Giấy rút dự toán NSNN có chữ ký của thủ trưởng, kế toán trưởng đơn vị sử dụng
NSNN hoặc người được uỷ quyền.
Ngoài ra, tuỳ theo tính chất của từng khoản chi, các hồ sơ và chứng từ thanh toán
cần thiết đối với từng loại chi như sau:
Thứ nhất, chi thanh toán cá nhân, bao gồm chi tiền lương, chi học bổng và sinh hoạt
phí của học sinh, tiền thuê người lao động - cần có đủ hồ sơ, văn bản được cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt. Chẳng hạn, đối với các khoản chi tiền lương, cần có các văn bản,
giấy tờ sau:
- Bảng đăng ký biên chế, quỹ lương đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt (gửi lần đầu);
- Danh sách những người hưởng lương và phụ cấp lương (gửi lần đầu);
- Bảng tăng, giảm biên chế và quỹ tiền lương được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt (nếu có).
Thứ hai, chi nghiệp vụ chuyên môn đòi hỏi phải có các hồ sơ chứng từ có liên quan
như: hoá đơn bán hàng, phiếu xuất kho kiêm hoá đơn bán hàng, các chứng từ gốc khác có
liên quan của đơn vị cung cấp hàng hoá, dịch vụ khi giao hàng hoặc thực hiện hợp đồng
dịch vụ.
Thứ ba, chi mua sắm đồ dùng, trang thiết bị, phương tiện làm việc, sửa chữa lớn tài
sản cố định cần có các giấy tờ như: dự toán chi quý về mua sắm, sửa chữa lớn tài sản cố
định được cấp có thẩm quyền duyệt; quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu hoặc quyết
định chỉ định thầu của cấp có thẩm quyền (đối với trường hợp mua sắm phương tiện làm
việc, sửa chữa lớn phải thực hiện đấu thầu theo quy định); hợp đồng mua bán hàng hóa,
dịch vụ; phiếu báo giá của đơn vị cung cấp hàng hoá, dịch vụ (đối với những trường hợp
mua sắm nhỏ không có hợp đồng mua bán); hoá đơn bán hàng, vật tư, thiết bị; các hồ sơ,
chứng từ khác có liên quan.
Thứ tư, các khoản chi khác đòi hỏi phải có bảng kê chứng từ thanh toán có chữ ký
của thủ trưởng, kế toán trưởng đơn vị sử dụng NSNN hoặc người được uỷ quyền; các hồ
sơ chứng từ khác có liên quan.
1.2.2.2. Nội dung và qui trình kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước
Nội dung kiểm soát chi NSNN nói chung và kiểm soát chi thường xuyên nói riêng
thể hiện qua ba giai đoạn kiểm soát: kiểm soát trước khi chi, kiểm soát trong khi chi và
kiểm soát sau khi chi.
Kiểm soát trước khi chi là kiểm soát việc lập, quyết định, phân bổ dự toán chi
NSNN. Đây là khâu đầu tiên trong chu trình kiểm soát chi. Nó giúp nâng cao chất lượng
dự toán, tránh tình trạng giao dự toán quá thấp không đủ kinh phí hoạt động cho đơn vị
hoặt giao dự toán quá cao dễ dẫn đến lãng phí trong sử dụng NSNN.
Kiểm soát trong khi chi là kiểm soát quá trình thực hiện dự toán nhằm đảm bảo các
khoản chi phải đủ điều kiện theo quy định trước khi xuất quỹ NSNN chi trả cho đối tượng
thụ hưởng NSNN. Kiểm soát trong khi chi là khâu chủ yếu của chu trình kiểm soát chi và
cũng là nhiệm vụ quan trọng nhất của KBNN trong việc quản lý chi quỹ NSNN. Kiểm soát
trong khi chi giúp ngăn chặn kịp thời những khoản chi không đúng chế độ quy định, tránh
lãng phí và thất thoát tiền và tài sản nhà nước.
Kiểm soát sau khi chi là kiểm tra tình hình sử dụng kinh phí của đơn vị sử dụng
NSNN sau khi KBNN đã xuất quỹ NSNN. Kiểm soát sau khi chi do các cơ quan có thẩm
quyền quyết định dự toán, cơ quan kiểm toán và cơ quan tài chính đảm nhiệm.
Kiểm soát chi NSNN qua KBNN được tiến hành theo ba nội dung cơ bản như sau:
- Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ chi: Chứng từ chi phải được lập
đúng mẫu qui định đối với từng khoản chi. Chẳng hạn, với chi dự toán bằng tiền mặt, khi
sử dụng kinh phí thường xuyên áp dụng mẫu C2- 04/NS, kinh phí chương trình mục tiêu
quốc gia sử dụng mẫu C2- 04b/NS, dự toán ngân sách xã sử dụng mẫu C2- 02/NS; trên
chứng từ phải ghi đầy đủ các yếu tố theo đúng nguyên tắc lập chứng từ kế toán, các yếu tố
ghi trên chứng từ phải đảm bảo tính đúng đắn; phải có đầy đủ con dấu, chữ ký của chủ tài
khoản, kế toán trưởng (hoặc người được uỷ quyền) đúng với mẫu dấu, chữ ký đã đăng ký
tại Kho bạc khi mở tài khoản.
- Kiểm tra các điều kiện chi theo chế độ quy định, bao gồm các khoản chi phải còn
đủ số dư dự toán để thực hiện chi trả; bảo đảm dúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp
có thẩm quyền quy định; có đầy đủ các hồ sơ, hoá đơn, chứng từ liên quan tùy theo tính
chất của từng khoản chi.
- Kiểm tra tồn quỹ NSNN của cấp ngân sách tương ứng với khoản chi. Tồn quỹ
ngân sách phải đủ để cấp phát theo yêu cầu của đơn vị sử dụng NSNN (KBNN tỉnh,
KBNN huyện không phải kiểm tra tồn quỹ NSNN cấp trung ương khi chi NSTW).
Quy trình kiểm soát chi thường xuyên qua KBNN được thực hiện chủ yếu ở khâu
kiểm soát trong khi chi bao gồm các bước cụ thể sau:
Một là, căn vào dự toán được phân bổ, nhu cầu chi quý đã gửi KBNN và theo yêu
cầu nhiệm vụ chi, đơn vị sử dụng NSNN lập giấy rút dự toán ngân sách, kèm theo hồ sơ
thanh toán gửi KBNN nơi giao dịch. Trường hợp được cơ quan có thẩm quyền thông báo
điều chỉnh nhu cầu chi quý thì đơn vị chỉ được chi trong giới hạn điều chỉnh.
Hai là, KBNN nơi giao dịch kiểm tra hồ sơ thanh toán, các điều kiện chi theo quy
định và giấy rút dự toán ngân sách của thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN hoặc của người
được uỷ quyền. Nếu đủ điều kiện theo quy định thì thực hiện việc chi trả, thanh toán cho
đơn vị thụ hưởng NSNN.
- Trường hợp chưa có đủ điều kiện thực hiện thanh toán trực tiếp qua KBNN ở tất
cả các khoản chi thì được phép cấp tạm ứng đối với một số khoản chi theo quy định của
Bộ trưởng Bộ Tài chính. Sau khi hoàn thành công việc và có đủ chứng từ thanh toán thì
chuyển từ tạm ứng sang thực chi.
- Trường hợp các khoản chi chưa đủ điều kiện chi theo quy định (không có trong dự
toán được duyệt, không đúng đối tượng, tiêu chuẩn, định mức, không đủ hồ sơ, chứng từ
hợp pháp, hợp lệ...), KBNN từ chối chi trả và thông báo cho đơn vị, cơ quan tài chính cùng
cấp biết để xử lý. Thủ trưởng cơ quan KBNN là người có quyền đưa ra quyết định từ chối
và hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định từ chối của mình.
1.2.2.3. Công cụ kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua Kho bạc
nhà nước
Một là, công cụ kế toán NSNN. Kế toán NSNN là một trong những công cụ quan
trọng gắn liền với hoạt động quản lý NSNN của KBNN. Nó có vai trò tích cực trong việc
quản lý, điều hành và kiểm soát hoạt động thu, chi NSNN. Kế toán NSNN phản ánh chính
xác, đầy đủ, kịp thời tình hình thu, chi NSNN, qua đó cung cấp những thông tinh cần thiết
để các cơ quan chức năng điều hành ngân sách có hiệu quả cao. Một trong những chức
năng quan trọng của kế toán NSNN là hạch toán kế toán, kiểm tra tình hình cấp phát kinh
phí NSNN. Nó là công cụ chủ yếu để kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN. Cụ
thể, kế toán NSNN cung cấp số liệu tồn quỹ NSNN, số liệu về tình hình nhập, xuất, tồn dự
toán chi của đơn vị sử dụng NSNN. Đây là một trong những căn cứ quan trọng để KBNN
xem xét các khoản chi của đơn vị có đủ điều kiện hay không từ đó đưa ra quyết định cấp
phát hay từ chối cấp phát. Về nguyên tắc, các khoản chi thường xuyên của mõi đơn vị sử
dụng NSNN không được vượt quá số tồn dự toán của đơn vị đó và không được vượt quá
tồn quỹ NSNN.
Hai là, công cụ mục lục NSNN. Hệ thống Mục lục NSNN là bảng phân loại các
khoản thu, chi NSNN theo hệ thống tổ chức nhà nước, ngành kinh tế và các mục đích kinh
tế - xã hội do Nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ công tác lập, chấp hành, kế toán, quyết
toán NSNN và phân tích các hoạt động kinh tế tài chính thuộc khu vực nhà nước.
Mục lục NSNN là một trong những công cụ quan trọng, không thể thiếu trong công
tác kiểm soát chi. Nội dung, kết cấu và cách sử dụng công cụ Mục lục NSNN là một trong
những cơ sở đánh giá khả năng quản lý NSNN của một quốc gia. Hệ thống Mục lục
NSNN có bao quát được các hoạt động kinh tế và các giao dịch kinh tế của Nhà nước thì
việc thu thập, phân tích và xử lý số liệu mới đầy đủ; từ đó cung cấp thông tin đầy đủ, kịp
thời cho công tác lập dự toán NSNN, điều hành, quản lý, kiểm soát NSNN; đồng thời
cung cấp thông tin cần thiết phục vụ việc đề ra các quyết định phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, công cụ định mức chi ngân sách. Định mức chi ngân sách là một chuẩn mực
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định đối với từng nội dung chi NSNN. Định mức
chi ngân sách là cơ sở để tính toán khi lập dự toán và cũng là căn cứ để KBNN đối chiếu
với từng khoản chi của đơn vị sử dụng NSNN trong quá trình kiểm soát chi NSNN. Mức
chi thực tế của từng nội dung chi không được vượt quá định mức chi đối với nội dung đó.
Định mức chi có định mức tuyệt đối và định mức tương đối. Định mức tuyệt đối là mức
chi đối với một nội dung cụ thể. Định mức tương đối là tỷ lệ giữa các nội dung chi khác
nhau. Chẳng hạn, Thông tư 79/2005/TT- BTC ngày 15/09/2005 có quy định: cơ quan, đơn
vị có thể sử dụng nguồn kinh phí đào tạo để hỗ trợ một phần chi phí cho cán bộ trong đơn
vị đi học đại học, trên đại học nhưng tổng số kinh phí hỗ trợ không quá 10% tổng kinh phí
đào tạo được giao hàng năm [4].
Bốn là, công cụ hợp đồng mua sắm tài sản công. Hợp đồng mua sắm tài sản công là
cở sở để KBNN kiểm soát các khoản chi về mua sắm tài sản, xây dựng nhỏ và sửa chữa
lớn tài sản cố định. Giá trị hợp đồng, thời hiệu hợp đồng, bản thanh lý hợp đồng... là căn
cứ để KBNN thanh toán cho đơn vị cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Những hợp đồng có giá trị
lớn phải thông qua các hình thức đấu thầu theo quy định. Chẳng hạn, mua sắm tài sản
thuộc dự toán mua sắm thường xuyên có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên phải tổ chức đấu
thầu rộng rãi.
Năm là, công cụ tin học. Đây là công cụ hỗ trợ cho công tác kiểm soát chi. Về
mặt kỷ thuật, công tác kiểm soát chi thường xuyên có thể thực hiện bằng phương pháp
thủ công. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của tin học, một số khâu của công tác kiểm soát chi
được tiến hành nhanh chóng và chính xác hơn rất nhiều so với thực hiện theo phương
pháp thủ công. Chẳng hạn, kiểm soát mức tồn quỹ ngân sách, mức tồn dự toán của từng
đơn vị sử dụng ngân sách, kiểm soát mục lục ngân sách. Công cụ tin học còn có ý nghĩa
đặc biệt đối với công tác kế toán và công tác thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN.
1.2.3. Các yếu tố tác động đến kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước
qua Kho bạc nhà nước
Chi NSNN và kiểm soát chi thường xuyên NSNN là mội quá trình liên quan đến tất
cả các cấp, các ngành và nhiều cơ quan đơn vị. Đồng thời nó cũng chịu tác động bởi nhiều
yếu tố, trong đó có một số yếu tố chủ yếu sau:
Một là, yếu tố thể chế, pháp lí. Trong nhóm yếu tố này, Luật Ngân sách nhà
nước được coi là yếu tố rất quan trọng, là một trong những căn cứ chủ yếu để kiểm soát
NSNN nói chung và kiếm soát chi thường xuyên NSNN nói riêng.
Luật NSNN qui định vai trò và trách nhiệm của KBNN trong quản lý quỹ NSNN,
kiểm soát và kế toán các khoản chi NSNN. Luật NSNN sửa đổi năm 2002 có những điều
khoản liên quan đến KBNN trong công tác chi NSNN. Chẳng hạn, Điều 7 quy định:
KBNN là cơ quan quản lý quỹ NSNN; Điều 56 quy định: căn cứ vào dự toán NSNN được
giao và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách quyết định chi
gửi KBNN. KBNN kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu cần thiết theo quy định của
pháp luật và thực hiện chi ngân sách khi có đủ các điều kiện quy định; trách nhiệm của
KBNN được quy định tại điều 58 như sau: thủ trưởng cơ quan KBNN có quyền từ chối
thanh toán, chi trả các khoản chi không đủ các điều kiện quy định và phải chịu trách nhiệm
về quyết định của mình. Về kế toán ngân sách, Điều 61 tại Khoản 2 quy định: KBNN tổ
chức thực hiện hạch toán kế toán NSNN; định kỳ báo cáo việc thực hiện dự toán thu, chi
ngân sách cho cơ quan tài chính cùng cấp và cơ quan nhà nước hữu quan; số liệu quyết
toán chi của đơn vị sử dụng NSNN phải được đối chiếu và được KBNN nơi giao dịch xác
nhận [29].
Hai là, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NSNN. Hệ thống chế độ, tiêu chuẩn, định
mức chi NSNN là căn cứ quan trọng để xây dựng dự toán và là cơ sở không thể thiếu để
KBNN kiểm soát các khoản chi tiêu từ NSNN. Để công tác kiểm soát chi có chất lượng
cao thì hệ thống chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi phải đảm bảo tính chất sau: tính đầy đủ,
nghĩa là nó phải bao quát hết tất cả các nội dung chi phát sinh trong thực tế thuộc tất cả các
cấp, các ngành, các lĩnh vực; tính chính xác, nghĩa là phải phù hợp với tình hình thực tế;
tính thống nhất, nghĩa là phải thống nhất giữa các ngành, các địa phương và các đơn vị sử
dung NSNN.
Ba là, dự toán NSNN. Đây là một trong những căn cứ quan trọng để KBNN thực
hiện kiểm soát chi NSNN. Chất lượng dự toán chi ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
kiểm soát chi thường xuyên. Vì vậy để nâng cao chất lượng kiểm soát chi thường xuyên
qua KBNN thì dự toán chi NSNN phải đảm bảo tính kịp thời, chính xác, đầy đủ và chi tiết
để làm căn cứ cho KBNN kiểm tra, kiểm soát quá trình chi tiêu của đơn vị.
Bốn là, tổ chức bộ máy và thủ tục kiểm soát chi. Bộ máy kiểm soát chi phải được tổ
chức gọn nhẹ, tránh trùng lắp chức năng, phù hợp quy mô và khối lượng các khoản chi phải
qua kiểm soát. Thủ tục kiểm soát chi thường xuyên phải rõ ràng, đơn giản nhưng đảm bảo tính
chặt chẽ trong trong quản lý chi tiêu NSNN, không tạo khe hở cho kẻ xấu lợi dụng gây thất
thoát, lãng phí NSNN.
Năm là, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm soát chi. Trình độ
và năng lực cán bộ kiểm soát chi là nhân tố quyết định chất lượng công tác kiểm soát chi.
Vì vậy, cán bộ kiểm soát chi phải có trình độ chuyên sâu về quản lý tài chính, am hiểu về
các lĩnh vực chuyên ngành mình quản lý, có khả năng phân tích, xử lý thông tin được cung
cấp và giám sát đối chiếu với các quy định hiện hành của Nhà nước, có phẩm chất đạo đức
tốt để có thể vừa làm tốt công tác kiểm soát chi vừa đảm bảo tính trung thực, khách quan,
không lợi dụng quyền hạn, trách nhiệm được giao để vụ lợi hay có thái độ hách dịch, sách
nhiễu đối với đơn vị trong quá trình kiểm soát chi.
Sáu là, ý thức chấp hành của các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN. Nếu thủ trưởng
các đơn vị sử dụng NSNN có tính tự giác cao trong việc chấp hành chế độ chi tiêu NSNN
thì các khoản chi đảm bảo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức, đảm bảo có đầy đủ hồ sơ,
chứng từ hợp pháp, hợp lệ... từ đó giúp cho việc kiểm soát chi của KBNN được thuận lợi,
nhanh chóng, tránh tình trạng phải trả lại hồ sơ, chứng từ, thông báo từ chối cấp phát... gây
lãng phí thời giờ và công sức. Do vậy, cần làm cho đơn vị sử dụng NSNN thấy được trách
nhiệm của mình trong tất cả các khâu của quy trình ngân sách.
1.2.4. Sự cần thiết phải hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà
nước qua Kho bạc nhà nước
Việc hoàn thiện kiểm soát chi NSNN xuất phát từ những yêu cầu khách quan. Cụ
thể như sau:
Một là, hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên NSNN nhằm phù hợp với quy định
pháp luật hiện hành, đặc biệt là Luật NSNN sửa đổi. Luật NSNN và nhiều văn bản quy
phạm pháp luật sau đó đã có những điều chỉnh, sửa đổi rất căn bản đối với hoạt động
NSNN nói chung và chi NSNN nói riêng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng đối với kiểm soát
chi NSNN nói chung và kiểm soát chi thường xuyên NSNN nói riêng. Vì vậy, KBNN cũng
phải đổi mới cơ chế kiểm soát chi nói chung và kiểm soát chi thường xuyên nói riêng cho phù
hợp với Luật NSNN sửa đổi và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Hai là, yêu cầu đặt ra là các khoản chi NSNN phải đảm bảo đúng mục đích, tiết
kiệm và có hiệu quả. Hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên sẽ góp phần quan trọng trong
việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tập trung mọi nguồn lực tài chính để phát triển
kinh tế - xã hội, chống các hiện tượng tiêu cực, chi tiêu lãng phí, góp phần kiềm chế lạm
phát, ổn định tiền tệ và lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia.
Ba là, việc hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua Kho bạc nhà nước
nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những tiêu cực của các đơn vị sử dụng ngân sách;
đồng thời, phát hiện những kẻ hở trong quản lý để kiến nghị, sửa đổi, bổ sung kịp thời, làm
cho cơ chế quản lý, kiểm soát chi NSNN ngày càng được hoàn thiện và chặt chẽ hơn.
Bốn là, tình trạng lãng phí và vi phạm chế độ chi tiêu NSNN còn phổ biến. Phần lớn
các đơn vị hưởng kinh phí NSNN luôn có xu hướng xây dựng dự toán chi cao hơn nhu cầu
thực tế và trong quá trình chấp hành dự toán thì luôn tìm cách sử dụng hết phần kinh phí
đã được cấp mà không chú trọng đến tiết kiệm và hiệu quả trong sử dụng kinh phí NSNN,
từ đó dẫn đến các khoản chi sai chế độ, không đúng đối tượng, vượt tiêu chuẩn, định
mức… Thậm chí, một số đơn vị nguỵ tạo chứng từ để hợp thức hoá các khoản chi sai chế
độ. Vì vậy, KBNN cần phải có giải pháp tăng cường kiểm soát các khoản chi NSNN qua
KBNN đảm bảo phát hiện và ngăn chặn kịp thời các khoản chi sai chế độ của đơn vị sử
dụng ngân sách. Đồng thời, cũng góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của các ngành, các
cấp, các cơ quan, đơn vị có liên quan đến quản lý và sử dụng NSNN.
1.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC Ở MỘT SỐ ĐỊA
PHƯƠNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA
1.3.1. Kinh nghiệm kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua Kho
bạc Nhà nước ở một số địa phương
1.3.1.1. Kinh nghiệm kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua Kho
bạc Nhà nước Long An
KBNN Long An thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01/04/1990. Từ đó đến nay,
KBNN Long An luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, trong đó một nhiệm vụ
trọng tâm là quản lý quỹ NSNN và kiểm soát chi thường xuyên NSNN.
Long An là một trong những tỉnh có nguồn thu NSNN lớn trong khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long. Từ năm 1990 đến năm 2006, tổng thu NSNN trên địa bàn tỉnh là
19.178 tỷ đồng, riêng năm 2006 số thu đạt 3.061 tỷ đồng, tăng 35 lần so với năm 1990 và
bằng 135% so với năm 2005.
Đi đôi với công tác thu NSNN, KBNN Long An thực hiện tốt công tác cấp phát và
kiểm soát chi NSNN, đảm bảo các khoản chi đều có trong dự toán được duyệt, đúng đối
tượng, đúng chế độ tiêu chuẩn, định mức quy định, giải quyết kịp thời mọi khó khăn,
vướng mắc trong quá trình thực hiện, vừa đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc quản lý, vừa
tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sử dụng ngân sách. Qua công tác kiểm soát chi,
KBNN Long An đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN, tham gia tích cực
vào công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phòng chống tham nhũng. Từ năm
1990 đến năm 2006, tổng số chi NSNN qua KBNN Long An là 17.680 tỷ đồng. Tính riêng năm
2006, tổng chi NSNN là 2.996 tỷ đồng, tăng 44 lần so với năm 1990, bằng 169% so với năm
2005. Thông qua công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN, KBNN Long An đã từ chối hàng
ngàn món tiền với tổng số tiền lên đến hàng tỷ đồng. Tính riêng năm 2006, KBNN Long An đã
từ chối thanh toán 493 món với tổng số tiền là 1,850 tỷ đồng [36].
Để đạt được kết quả trên, KBNN Long An đã tập trung làm tốt một số công tác sau:
- Nâng cao hiểu biết về pháp luật liên quan đến quản lý NSNN và các quy định trong
công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN. Ngay từ khi Luật NSNN có hiệu lực và các chế độ
về quản lý chi được ban hành, KBNN Long An đã tổ chức triển khai đến toàn thể cán bộ công
chức thuộc KBNN Long An. Đồng thời, Kho bạc phối hợp với cơ quan tài chính tham mưu cho
UBND, HĐND tỉnh ban hành các chế độ về chi NSĐP, tổ chức triển khai Luật NSNN và các
văn bản liên quan cho các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN trên địa bàn.
- Nghiên cứu ứng dụng tin học vào công tác chi và kiểm soát chi chi thường xuyên.
Công tác tin học được KBNN Long An phát triển rất sớm và đã hỗ trợ đắc lực cho công
tác chi ngân sách và kiểm soát chi thường xuyên NSNN. Tại Kho bạc tỉnh và tất cả các
KBNN huyện trực thuộc đều có hệ thống mạng nội bộ và nối mạng về KBNN tỉnh. Các
chương trình ứng dụng phục vụ cho công tác chi và kiểm soát chi được triển khai trong
toàn hệ thống như: Chương trình KTKB phục vụ cho công tác kế toán và kiểm soát chi
thường xuyên, Chương trình KHKB phục vụ kiểm soát chi vốn sự nghiệp kinh tế và vốn
chương trình mục tiêu quốc gia. Đặc biệt, chương trình thanh toán điện tử đã giúp cải thiện
công tác thanh toán trong hệ thống KBNN. Những khoản thanh toán trước đây khi thực
hiện bằng phương pháp thủ công phải mất vài ngày thì hiện nay chỉ mất vài phút với sự hỗ
trợ của chương trình thanh toán điện tử.
- Chú trọng công tác tổ chức cán bộ. KBNN Long An xem cán bộ là nhân tố
quyết định trong việc mang lại những thành quả to lớn của đơn vị. Đơn vị đã chọn
lọc, sắp xếp quy hoạch đội ngũ cán bộ công chức vào những vị trí phù hợp. Tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ CBCC với nhiều hình thức. Năm 1990
KBNN Long An chỉ có 28 cán bộ có trình độ đại học, chiếm 17,8% tổng số CBCC
trong đơn vị, trong khi số chưa qua đào tạo là 76 người, chiếm 48,7%. Đến năm 2006,
cán bộ có trình độ đại học là 78, chiếm 35,5%, số CBCC chưa qua đào tạo chỉ còn
35%. Sự nâng lên về trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ kiểm soát chi là nguyên
nhân quan trọng dẫn đến sự nâng lên về chất lượng công tác kiểm soát chi [36].
1.3.1.2. Kinh nghiệm kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước
Bà Rịa - Vũng Tàu với quy trình kiểm soát chi “một cửa”
Nhằm thực hiện cải cách hành chính, đơn giản hóa các khâu nghiệp vụ trong hoạt
động quản lý NSNN, nhưng vẫn bảo đảm an toàn và tiết kiệm, Kho bạc tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu đã triển khai quy trình “Kiểm soát chi NSNN theo cơ chế một cửa”. Sau một thời gian
thực hiện, quy trình này đã phát huy tác dụng, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế cần khắc
phục.
Năm 2007, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản mới quy định lại một số cơ chế,
chính sách, quy trình nghiệp vụ, chế độ, định mức chi NSNN như: mua sắm phương
tiện đi lại, kiểm soát thanh toán vốn đầu tư, dự án và chương trình mục tiêu quốc gia,
công tác phí, hội nghị, tiếp khách... Theo đó, HĐND và UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
cũng đã có các văn bản triển khai thực hiện những quy định về chế độ, định mức chi
tiêu của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho Kho bạc tỉnh hoàn thành nhiệm vụ
kiểm soát chi ngân sách, góp phần thực hiện tốt Luật Phòng chống tham nhũng và Luật
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Riêng công tác chi thường xuyên, Kho bạc tỉnh đã
kiểm soát thanh toán 1.480 tỷ đồng, hướng dẫn cho 615 lượt đơn vị lập lại chứng từ, bổ
sung hồ sơ cho đúng chế độ chi tiêu và đã từ chối chi 175 khoản chi sai quy định với số
tiền 2,739 tỷ đồng, chiếm 0,2% tổng số chi thường xuyên [37]. Qua đó, góp phần nâng
cao trách nhiệm của đơn vị sử dụng NSNN trong việc chấp hành chế độ, chính sách
quản lý tài chính.
Trong công tác kiểm soát chi, Kho bạc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu luôn cải tiến quy
trình nghiệp vụ để giảm bớt thủ tục hành chính, chống lãng phí và thực hành tiết kiệm.
Quy trình “giao dịch một cửa” đã được triển khai tại Văn phòng Kho bạc tỉnh từ ngày
1- 10- 2007 để tiếp nhận, luân chuyển, xử lý hồ sơ, trình ký và trả kết quả thanh toán
chi cho các đơn vị sử dụng ngân sách. Khách hàng chỉ giao dịch với một bộ phận
nghiệp vụ của Kho bạc lúc nộp hồ sơ đề nghị thanh toán và nhận lại kết quả duyệt chi
(xem Sơ đồ 1.1).
Sau một thời gian thực hiện quy trình giao dịch “một cửa” trong kiểm soát chi, Kho
bạc Bà Rịa - Vũng Tàu đã tạo điều kiện thuận lợi và tiết kiệm thời gian cho các khách
hàng là đơn vị thụ hưởng ngân sách đến giao dịch thanh toán. Tuy nhiên, trong điều kiện
biên chế nhân sự không tăng, lại phải bố trí một số cán bộ nghiệp vụ để thực hiện quy trình
“một cửa” nên áp lực công việc tăng cao, nhất là tại bộ phận nghiệp vụ trực tiếp giao dịch
một cửa với khách hàng.
Do đặc thù khách hàng đến giao dịch với nhiều nội dung chi, nhiều loại hồ sơ chi
nên việc tách bạch hồ sơ để giao cho cán bộ kho bạc, đối với khách cũng còn nhiều lúng
túng. Khối lượng công việc không đồng đều, cán bộ giao dịch thuộc Phòng Kế toán thì
khối lượng hồ sơ giao nhận quá lớn trong khi cán bộ thuộc Phòng Kế hoạch tổng hợp thì
khối lượng hồ sơ giao nhận rất ít. Cán bộ giao dịch “một cửa” không phải là người trực
tiếp xử lý hồ sơ, chứng từ nên đôi khi có những giải đáp thắc mắc không thoả mãn khách
hàng nên một số khách hàng muốn làm việc trực tiếp với cán bộ kiểm soát chi.
Sơ đồ 1.1: Mô hình giao dịch “một cửa” tại KBNN tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Nguồn: KBNN tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 2007.
(1) Khách hàng nộp hồ sơ, chứng từ chi cho bộ phận “một cửa”. Tuỳ theo loại hồ sơ
mà chọn cán bộ giao dịch phù hợp.
(2) Chuyển hồ sơ, chứng từ cho cán bộ kiểm soát chi theo từng phòng nghiệp vụ
tương ứng.
(3) Trình giám đốc duyệt chi.
(4) Chuyển trả kết quả (đã duyệt chi) cho bộ phận “một cửa”.
(5) Trả kết quả cho khách hàng.
1.3.2. Một số bài học rút ra về kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước
đối với Kho bạc nhà nước tỉnh Bến Tre
Từ những kinh nghiệm kiểm soát thường xuyên NSNN tại các KBNN ở các địa
phương nêu trên, có thể rút ra một số bài học đối với KBNN tỉnh Bến Tre như sau:
Phòng
Kế toán
(3c)
Giám đốc
Phòng Kế
hoạch tổng hợp
Phòng Thanh
toán vốn đầu tư
(3b) (3a)
(2c) (4a) (2b) (2a) (4b)
(4c)
Đơn vị sử dụng NSNN
(khách hàng)
(1b) (5b) (5a)
Bộ phận giao dịch “một cửa”
Cán bộ
P.Kế toán
Cán bộ
P.KHTH
Cán bộ
P.TTVĐT
(1a) (1c)
(5c)
Một là, phải nhận thức được rằng công tác kiểm soát chi không phải chỉ đơn thuần
là công việc của KBNN mà nó bao gồm nhiều khâu liên quan đến nhiều cấp, ngành và
nhiều cơ quan, đơn vị. Vì vậy, để thực hiện tốt công tác kiểm soát chi thường xuyên
NSNN qua KBNN, Kho bạc phải biết phối hợp tốt với các cơ quan đơn vị trên địa bàn,
tranh thủ sự hỗ trợ của cấp ủy, chính quyền địa phương, chủ động tham mưu cho
UBNN, HĐND các cấp ban hành nhanh chóng và đầy đủ các văn bản thuộc lĩnh vực
ngân sách để Kho bạc có cơ sở pháp lý thực hiện kiểm soát các khoản chi ngân sách do
địa phương quản lý.
Hai là, nhận thức tầm quan trọng của yếu tố con người trong công tác quản lý
NSNN và kiểm soát chi thường xuyên. Để công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN
qua KBNN ngày càng hoàn thiện hơn thì trước hết đội ngũ cán bộ công chức KBNN nói
chung và cán bộ kiểm soát chi thường xuyên nói riêng cũng phải được hoàn thiện. Để làm
được điều đó, Kho bạc phải tăng cường công tác cán bộ trong tất cả các khâu từ tuyển
dụng, bố trí, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng... Việc bố trí cán bộ làm công tác kiểm soát
chi, không chỉ chú trọng khả năng chuyên môn mà còn phải chọn người có đạo đức tốt,
liêm khiết, công minh.
Ba là, tăng cường ứng dụng tin học vào các hoạt động nghiệp vụ KBNN, đặc biệt
là công tác quản lý và kiểm soát chi NSNN.
Bốn là, đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực kiểm soát chi thường xuyên.
Nghiên cứu và áp dụng quy trình giao dịch “một cửa” trong kiểm soát chi với mô hình tiên
tiến sao cho vừa tạo thuận lợi cho khách hàng vừa nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát
chi.
Chương 2
THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC TỈNH BẾN TRE
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA TỈNH BẾN TRE CÓ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội của tỉnh Bến Tre
Đặc điểm tự nhiên:
Bến Tre là một trong 12 tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long được hợp thành bởi
3 cù lao lớn (An Hoá, Bảo, Minh) và do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long (sông Tiền,
sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên) bồi tụ hình thành. Phía Bắc giáp tỉnh
Tiền Giang có ranh giới chung là sông Tiền; phía Tây và Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và Trà
Vinh, có ranh giới chung là sông Cổ Chiên; phía Đông giáp biển Đông với chiều dài bờ
biển là 65 km. Điểm Cực nam nằm trên vĩ độ 9048’ Bắc, điểm Cực bắc nằm trên vĩ độ
10020’ Bắc, điểm Cực đông nằm trên kinh độ 106048’ Đông, điểm Cực tây nằm trên kinh
độ 1050 57’ Đông.
Diện tích tự nhiên của tỉnh là 2.356,7 km2, trong đó đất nông nghiệp chiếm 70%
diện tích.
Dân số của toàn tỉnh theo thống kê năm 2006 là 1.358.314 người, mật độ dân số là
576 người/km2.
Cả tỉnh có 8 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 1 thị xã và 7 huyện; trong đó bao
gồm 7 thị trấn, 9 phường và 144 xã [14].
Tình hình kinh tế- xã hội
Cơ cấu kinh tế của tỉnh Bến Tre đang chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng khu vực
công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong tổng sản phẩm trên địa bàn tăng lên, khu vực
nông nghiệp giảm dần. Đến năm 2006, tỷ trọng giá trị nông - lâm - ngư nghiệp là 53,34%,
công nghiệp - xây dựng 18,21% và dịch vụ 28,44% (năm 2005 là: 56,92% : 16,97% : 26,10%).
Cơ cấu lao động thay đổi theo hướng tích cực, lao động nông nghiệp giảm còn 79,83%;
công nghiệp - xây dựng 7,14% và dịch vụ 13,03%. Thế mạnh của nông nghiệp Bến Tre
là phát triển vườn dừa, vườn cây ăn trái và nuôi trồng, đánh bắt thuỷ, hải sản. Công
nghiệp chưa phát triển, chủ yếu là gia công hàng dệt may, chế biến thuỷ, hải sản và một
số mặt hàng có nguồn gốc từ cây dừa như: cơm dừa nạo sấy, bột sữa dừa, than hoạt
tính... Thương mại, dịch vụ có bước phát triển tích cực, thị trường đô thị phát triển, thị
trường nông thôn khởi sắc. Các dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, tín dụng, bảo
hiểm và một số dịch vụ khác phát triển khá. Du lịch phát triển nhanh, doanh thu tăng
bình quân 20,4%/năm; đã xây dựng và phát triển được nhiều điểm du lịch, nhất là du
lịch sinh thái.
Giáo dục - đào tạo phát triển cả về qui mô và chất lượng. Công tác phổ cập giáo dục
tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở đã hoàn thành sớm hơn dự kiến. năm 2006,
cả tỉnh 1 trường cao đẳng, 3 trường trung học chuyên nghiệp, 40 trường phổ thông trung
học, 135 trường phổ thông cơ sở, 191 trường tiểu học, 161 trường mẫu giáo và nhà trẻ.
Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân được quan tâm. Công tác phòng, trị
bệnh đạt kết quả tốt. Việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ thầy thuốc, nhất là ở tuyến cơ sở
được chú trọng. Các hoạt động thông tin tuyên truyền, văn hóa, văn nghệ, có tiến bộ, nội
dung và hình thức được đổi mới. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển rộng, ngày càng
phong phú, góp phần nâng cao dân trí và nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Hoạt động chăm sóc người có công với cách mạng, trợ giúp các đối tượng khó khăn
duy trì và mở rộng. Thông qua các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội,
giải quyết việc làm, nâng cao dân trí, cải thiện kết cấu hạ tầng, nhà ở... đã tạo cơ hội và
điều kiện cho người nghèo tham gia sản xuất, tiếp cận với các dịch vụ xã hội, tăng thu
nhập, cải thiện đời sống.
2.1.2. Thực trạng hệ thống ngân sách và hoạt động ngân sách nhà nước ở tỉnh
Bến Tre
2.1.2.1. Hệ thống ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre
Hệ thống NSNN trên địa bàn tỉnh bến tre gồm một phần NSTW và ngân sách các
cấp chính quyền địa phương.
Ngân sách các cấp chính quyền địa phương gồm:
- Ngân sách cấp tỉnh
- Ngân sách cấp huyện, thị xã (gọi chung là ngân sách cấp huyện). Ngân sách cấp
xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).
Sơ đồ 2.1: Hệ thống NSNN trên địa bàn tỉnh Bến Tre
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG
NGÂN SÁCH CẤP TỈNH
NGÂN SÁCH CẤP HUYỆN
NGÂN SÁCH CẤP XÃ
Nguồn: Tác giả tổng hợp dựa trên quy định pháp luật hiện hành.
Quan hệ giữa ngân sách các cấp được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
- NSTW và ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được phân định nguồn thu
và nhiệm vụ chi cụ thể theo luật định.
- Thực hiện việc bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo
công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Số bổ sung này là khoản thu
của ngân sách cấp dưới.
- Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên ủy quyền cho cơ quan quản lý cấp
dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình, thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách
cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó.
- Ngoài việc bổ sung nguồn thu và ủy quyền thực hiện nhiệm vụ chi, không được
dùng ngân sách của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp khác.
2.1.2.2. Hoạt động ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre
● Thu NSNN giai đoạn 2004- 2007
Kết quả hoạt động thu NSNN giai đoạn 2004 - 2007 được thể hiện qua số liệu sơ đồ
2.2 (xem thêm Phụ lục 1 trang 72):
Sơ đồ 2.2: Thu NSNN tỉnh Bến Tre giai đoạn 2004-2007
1.334.188
1.006.973
1.571.956
1.191.824
2.199.067
1.581.864
2.961.943
840.320
0
500.000
1.000.000
1.500.000
2.000.000
2.500.000
3.000.000
3.500.000
Năm 2004 Dự toán
Năm 2004 Thực thu
Năm 2005 Dự toán
Năm 2005 Thực thu
Năm 2006 Dự toán
Năm 2006 Thực thu
Năm 2007 Dự toán
Năm 2007 Thực thu
Nguồn: KBNN tỉnh Bến Tre năm 2004-2007 [19], [20], [21], [22].
Tổng thu NSNN trên địa bàn năm 2007 là 2.961.943 triệu đồng, so với cùng kỳ năm
trước bằng 134,69%. Trong đó, tổng số thu NSĐP là 1.515.693 triệu đồng, đạt 176,79% dự
Đơn vị tính: triệu đồng
toán thu và bằng 146,87% năm 2006.
Thu cân đối ngân sách trên địa bàn năm 2006 là 889.775 triệu đồng đạt 148,95% dự
toán, so với năm 2006 bằng 101,59%. Trong đó, một số nội dung thu đạt và vượt dự toán
năm như:
- Thu từ các DNNN do địa phương quản lý: 50.232 triệu đồng đạt 133,95% dự toán,
chiếm tỷ trọng 5,64% trên tổng số thu cân đối NSĐP. Số thu vượt dự toán do các DNNN
thực hiện cổ phần hoá bắt đầu kinh doanh có hiệu quả và thời hạn miễn giảm thuế đã hết.
- Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết chiếm tỉ trọng cao trong tổng số thu NSĐP.
Trong năm 2007, thu 400.651 triệu đồng, đạt 154,1% dự toán, chiếm 45,02% tổng thu cân
đối NSĐP.
- Thu thuế khu vực NQD: 208.248 triệu đồng, đạt 101,58% dự toán, so cùng kỳ
năm trước bằng 132,23%.
- Thu tiền sử dụng đất: 100.078 triệu đồng đạt 333,59% dự toán, chiếm 12,25% tổng
thu cân đối NSĐP. Nguyên nhân đạt cao do các ngành chức năng đẩy nhanh tiến độ bán
quyền sử dụng đất công trên địa bàn thị xã Bến Tre.
- Một số nội dung thu khác cũng vượt dự toán đầu năm như: thu lệ phí trước bạ,
thuế nhà đất, thu tiền cho thuê mặt đất, mặt nước...
Bên cạnh những nội dung thu vượt dự toán, một số nội dung thu không đạt dự toán
như:
- Thu từ các DNNN do trung ương quản lý: 90.880 triệu đồng, đạt 77,28% dự toán.
Nguyên nhân thu không đạt dự toán là do phải hoàn thuế giá trị gia tăng cho Bưu điện
(khoản đầu tư mua sắm tài sản lớn), đơn vị có có khoản thuế tiêu thu đặc biệt lớn là Công
ty Thuốc lá Bến Tre, trong năm 2007 nộp hụt so với chỉ tiêu 22.100 triệu đồng.
- Phí xăng dầu trong năm cũng đạt thấp chỉ có 69,89% do sản lượng dầu tiêu thụ
không đạt kế hoạch và chỉ tiêu của Bộ Tài chính giao cao hơn chỉ tiêu của Tổng Công ty
Xăng dầu Việt Nam giao cho các công ty xăng dầu trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
- Một số nội dung thu không đạt khác như: thuế thu nhập, thu phí và lệ phí trên địa
bàn.
● Chi NSNN giai đoạn 2004- 2007:
Tình hình chi NSNN trên địa bàn tỉnh Bến Tre giai đoạn 2004- 2007 được thể hiện
sơ đồ 2.3 dưới đây (xem thêm Phụ lục 2 trang 76):
Sơ đồ 2.3: Chi NSNN tỉnh Bến Tre giai đoạn 2004 - 2007
851.231
1.329.929
1.004.373
1.767.738
1.188.224
2.357.657
1.576.864
3.215.260
0
500.000
1.000.000
1.500.000
2.000.000
2.500.000
3.000.000
3.500.000
Năm 2004 Dự toán
Năm 2004 Thực chi
Năm 2005 Dự toán
Năm 2005 Thực chi
Năm 2006 Dự toán
Năm 2006 Thực chi
Năm 2007 Dự toán
Năm 2007 Thực chi
Nguồn: KBNN tỉnh Bến Tre năm 2004-2007 [19], [20], [21], [22].
Từ tình hình chi NSNN của tỉnh Bến Tre năm 2007 có thể rút ra một số nhận xét
như sau:
Chi NSTW trên địa bàn là 329.119 triệu đồng, bằng 140,8% tổng chi NSTW năm
2006. Trong đó, chi thường xuyên là 158.993 triệu đồng, chiếm 48,3% tổng chi NSTW;
chi đầu tư xây dựng cơ bản 170.126 triệu đồng, chiếm 51,7% tổng chi NSTW.
Chi NSĐP năm 2007 là 2.886.141 triệu đồng, bằng 135,9% tổng chi NSĐP năm
2006. Trong đó, chi cân đối ngân sách là 1.792.781 triệu đồng, đạt 136,1% dự toán. Nguồn
để giải quyết số tăng chi chủ yếu từ số tăng thu ngân sách, số Trung ương hỗ trợ thêm để
thực hiện các mục tiêu chỉ định, số kết dư và số thu chuyển nguồn từ năm 2006 sang. Bao
gồm một số nội dung chi chủ yếu như sau:
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản (không bao gồm chi từ nguồn thu xổ số kiến thiết):
299.859 triệu đồng đạt 111,78% dự toán, chiếm tỷ trọng 10,38% trên tổng chi NSĐP.
Chi đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn thu xổ số kiến thiết là 236.438 triệu đồng, đạt
90,9% dự toán, chiếm 8,19% tổng chi NSĐP.
- Chi thường xuyên: 1.329.877 triệu đồng, đạt 134,98% dự toán, chiếm tỷ trọng
46,08% trên tổng chi NSĐP. Trong đó, các mục chi cụ thể như sau:
+ Chi sự nghiệp giáo dục – đào tạo và dạy nghề: 566.685 triệu đồng, đạt 116,16%
dự toán. Nhìn chung, khoản chi cho sự nghiệp giáo dục hàng năm đều đảm bảo được các
khoản chi thường xuyên trong đó có dành phần kinh phí trang thiết bị cơ sở vật chất, đáp
Đơn vị tính: triệu đồng
ứng tương đối đầy đủ và kịp thời cho nhu cầu của việc dạy và học.
+ Chi sự nghiệp y tế 150.401 triệu đồng, đạt 127,84% dự toán, bằng 159,74% số chi
năm 2006. Nguyên nhân chi vượt dự toán đầu năm là do có bổ sung kinh phí để thực hiện các
khoản chi phòng chống dịch bệnh, chi khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi, mua thẻ khám
chữa bệnh cho người nghèo.
+ Chi sự nghiệp khoa học, công nghệ là 7.413 triệu đồng, đạt 94,43% dự toán, bằng
105,96% số chi năm 2006.
+ Chi quản lý hành chính và đảng, đoàn thể là 266.220 triệu đồng, đạt 139,81% dự
toán, chiếm 14,85% tổng chi cân đối NSĐP và bằng 123,27% số chi năm 2006. Số chi
vượt dự toán đầu năm do trong năm có bổ sung kinh phí thực hiện một số yêu cầu phát
sinh đột xuất.
+ Chi đảm bảo xã hội: 158.519 triệu đồng, đạt 647,84% dự toán đầu năm. Số chi trong
năm tăng cao so với dự toán do bổ sung kinh phí khắc phục hậu quả bảo số 9 và kinh phí tổ
chức kỷ niệm 60 năm ngày thương binh liệt sỹ.
+ Chi sự nghiệp kinh tế là 87.296 triệu đồng, đạt 101,32% dự toán đầu năm và bằng
135,3% năm 2006.
2.2. THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC TỈNH BẾN TRE
2.2.1. Thực trạng tổ chức bộ máy, cán bộ kiểm soát chi thường xuyên ngân
sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre
2.2.1.1. Tổ chức bộ máy kho bạc và bộ máy kiểm soát chi thường xuyên tại Kho
bạc Bến Tre
● Tổ chức bộ máy Kho bạc nhà nước tỉnh Bến Tre
KBNN được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương. Tại tỉnh Bến Tre,
KBNN được tổ chức từ tỉnh đến huyện theo đơn vị hành chính của tỉnh gồm một văn phòng
KBNN tỉnh và bảy KBNN huyện trực thuộc.
Sơ đồ 2.4: Tổ chức bộ máy KBNN Bến Tre
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp dựa trên quy định pháp luật hiện hành.
Về mô hình tổ chức, KBNN Bến Tre được tổ chức theo Quyết định số 235/2003/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ [33]; Quyết định số 210/2003/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài
chính [11]; Quyết định số 747/KB/QĐ/TCCB và Quyết định 748 /KB/QĐ/TCCB của Tổng
giám đốc KBNN [34], [35].
● Tổ chức hệ thống kiểm soát chi thường xuyên:
Trong hoạt động nghiệp vụ của KBNN, hoạt động kiểm soát chi thường xuyên gắn
liền với nghiệp vụ chi thường xuyên NSNN. Vì vậy, bộ máy kiểm soát chi thường xuyên
không chỉ đơn thuần gồm các bộ phận trực tiếp thực hiện công việc kiểm soát chi mà bao
gồm cả các bộ phận có liên quan trong dây chuyền chi thường xuyên NSNN. Xét dưới góc
độ này, bộ máy kiểm soát chi thường xuyên tại KBNN Bến Tre gồm:
- Ban giám đốc KBNN: có quyền quyết định cấp phát hay từ chối cấp phát các
khoản chi NSNN.
Ban Giám Đốc
Bộ phận
KHTH
Bộ phận
Kho quỹ
Bộ phận
Kế toán
BAN GIÁM ĐỐC
Phòng
Kế
hoạch
tổng
hợp
Phòng
Kế toán
Phòng
Thanh
toán
vốn đầu
tư
Phòng
Kho
quỹ
Phòng
Kiểm
tra,
kiểm
soát
Phòng
Tổ chức
cán bộ
Phòng
Tin học
Phòng
HC
Tài vụ
Quản trị
Văn phòng KBNN tỉnh
KBNN huyện
- Phòng Kế KHTH (tại KBNN tỉnh), bộ phận KHTH (tại KBNN huyện): chịu trách
nhiệm kiểm soát các khoản chi thuộc nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia, vốn sự
nghiệp kinh tế.
- Phòng Kế toán (tại KBNN tỉnh), bộ phận kế toán (tại KBNN huyện): kiểm soát
các khoản chi thường xuyên (không thuộc chương trình mục tiêu quốc gia và vốn sự
nghiệp kinh tế), thực hiện thanh toán cho đơn vị cung cấp hàng hoá, dịch vụ (đối với
những khoản thanh toán không dùng tiền mặt), hạch toán kế toán các khoản chi theo chế
độ kế toán hiện hành.
- Phòng Kho quỹ: chi tiền mặt cho đơn vị sử dụng NSNN trong trường hợp cấp phát
bằng tiền mặt.
2.2.1.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ kiểm soát chi thường xuyên của Kho bạc Bến
Tre
Trong thời gian đầu mới thành lập, đội ngũ cán bộ thuộc KBNN Bến Tre nói
chung còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Thời gian gần đây, được sự quam
tâm của Lãnh đạo Kho bạc nhà nước Bến Tre đối với lĩnh vực tổ chức cán bộ mà công
tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đã được đẩy mạnh từ đó trình độ và
năng lực của đội ngũ cán bộ thuộc KBNN Bến Tre được nâng lên đáng kể. Tính riêng
lực lượng kiểm soát chi thường xuyên, đến năm 2007 trình độ chuyên môn được thống
kê như bảng 2.1:
Bảng 2.1: Trình độ cán bộ kiểm soát chi thường xuyên thuộc KBNN
Bến Tre năm 2007
Bộ phận kiểm soát chi Biên chế
Trình độ
Đại học, cao đẳng Trung cấp
Phòng Kế toán 15 10 5
Phòng Kế hoạch tổng hợp 5 4 1
Bảy KBNN huyện 52 27 25
Trong đó:
- Bộ phận kế toán 38 20 18
- Bộ phận kế hoạch tổng hợp 14 7 7
Nguồn: KBNN Bến Tre, 2007.
Xét về trình độ chuyên môn, đội ngũ cán bộ kiểm soát chi thường xuyên đã
được nâng lên cơ bản đáp ứng được nhu cầu công tác. Nhưng về trình độ ngoại ngữ
và tin học thì còn khá yếu đặc biệt là cán bộ thuộc các KBNN huyện và cán bộ có
tuổi đời cao. Vì vậy, phần nào không đáp ứng được yêu cầu công tác trong điều kiện
ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác nghiệp vụ ngày càng cao theo xu hướng
hiện nay của
ngành KBNN.
2.2.2. Thực trạng quy trình kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước
qua kho bạc nhà nước Bến Tre
Kiểm soát thanh toán chi thường xuyên NSNN qua KBNN tỉnh Bến Tre được thể
hiện như Sơ đồ 2.5 dưới đây.
Sơ đồ 2.5: Kiểm soát thanh toán chi thường xuyên NSNN qua KBNN Bến Tre
Nguồn: KBNN tỉnh Bến Tre 2007.
(1) Đơn vị sử dụng ngân sách gửi lệnh chuẩn chi và các hồ sơ liên quan vào Kho
bạc yêu cầu cấp phát, thanh toán.
CB kiểm
soát chi
P.KHTH
Trưởng
phòng
KHTH
(1b)
Kế toán
trưởng
Kế toán
chi
(1a)
(4)
(5)
(3a)
(6c)
Đơn vị
sử dụng ngân sách
Thủ quỷ
Giám Đốc
Kho bạc
Kế toán
thanh
toán
Đơn vị cung cấp
hàng hoá, dịch vụ
(6b) (6a)
(7b) (7a) (2)
(3b)
1a) Chứng từ và hồ sơ do Phòng KTKS;
1b) Chứng từ và hồ sơ do Phòng KHTH kiểm soát (các khoản chi sự nghiệp kinh tế,
chương trình mục tiêu quốc gia);
(2) Cán bộ kiểm soát chi thuộc Phòng KHTH kiểm soát chứng từ và hồ sơ chi theo
chế độ, nếu không đủ điều kiện chi thì lập quyết định từ chối cấp phát. Sau đó chuyển hồ
sơ đã kiểm soát cho Trưởng phòng KHTH;
(3) Trưởng phòng KHTH thẩm tra lại chứng từ, hồ sơ;
3a) Trưởng phòng KHTH ký kiểm soát chứng từ và chuyển cho Phòng Kế toán nếu
đồng ý cấp phát, thanh toán;
3b) Trưởng phòng KHTH kiểm tra quyết định từ chối cấp phát và chuyển cho Giám
đốc Kho bạc;
(4) Kế toán chi: kiểm soát chứng từ và hồ sơ chi do đơn vị sử dụng ngân sách gửi
đến theo chế độ. Nếu đủ điều kiện chi thì hạch toán kế toán theo chế độ, nếu không đủ điều
kiện chi thì lập quyết định từ chối cấp phát.
- Hạch toán kế toán đối với chứng từ do Phòng KHTH chuyển sang.
- Chuyển hồ sơ, chứng từ đã hoạch toán, quyết định từ chối cấp phát (nếu có) cho
Trưởng phòng Kế toán.
(5) Trưởng phòng Kế toán thẩm tra lại chứng từ, hồ sơ, quyết định từ chối cấp phát
(nếu có), ký kiểm soát chứng từ và chuyển cho Giám đốc Kho bạc;
(6) Giám đốc Kho bạc ký duyệt cấp phát hoặc ký quyết định từ chối cấp phát.
6a) Chứng cấp phát bằng tiền mặt sau khi được Giám đốc ký duyệt được chuyển
cho bộ phận kho quỹ.
6b) Chứng cấp phát thanh toán trực tiếp cho đơn vị cung cấp hàng hoá, dịch vụ sau khi
được Giám đốc ký duyệt được chuyển cho bộ phận kế toán thanh toán.
6c) Quyết định từ chối cấp phát được Giám đốc ký và gửi lại cho đơn vị sử dụng
NSNN.
7a) Bộ phận kho quỹ xuất quỹ tiền mặt để chi cho đơn vị sử dụng NSNN.
7b) Bộ phận kế toán thanh toán thực hiện thanh toán cho đơn vị cung cấp hàng hoá,
dịch vụ thông qua các kênh thanh toán chuyển khoản.
2.2.3. Thực trạng kiểm soát các nội dung chi thường xuyên ngân sách nhà
nước qua Kho bạc nhà nước tỉnh Bến Tre
2.2.3.1. Kiểm soát chi thường xuyên của đơn vị hành chính sự nghiệp
Kiểm soát chi thường xuyên của đơn vị hành chính sự nghiệp bao gồm kiểm soát
chi thanh toán cho cá nhân, kiểm soát chi nghiệp vụ chuyên môn, kiểm soát chi mua sắm
và chi khác. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, kiểm soát các khoản chi thanh toán cho cá nhân.
Nội dung chi thanh toán cho cá nhân bao gồm: tiền lương, tiền công, phụ cấp lương,
học bổng học sinh, sinh viên, tiền thưởng, phúc lợi tập thể... được phản ánh từ mục 100
đến mục 108 và mục 122, 124 của mục lục NSNN hiện hành (nhóm mục chi thanh toán cá
nhân). KBNN Bến Tre thực hiện kiểm soát các khoản chi thuộc nhóm mục chi này như
sau:
Kiểm soát các khoản chi lương và phụ cấp lương:
- Đầu năm, đơn vị sử dụng NSNN gửi Kho bạc dự toán chi NSNN năm được
duyệt trong đó có khoản chi về lương và phụ cấp lương, bảng đăng ký biên chế quỹ
lương được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (Sở Nội vụ duyệt cho đơn vị sử dụng
NSNN cấp tỉnh; phòng nội vụ duyệt cho đơn vị cấp huyện; đơn vị trung ương đóng trên
địa bàn tỉnh do cơ quan chủ quản cấp trên duyệt).
- Trong năm, khi có sự thay đổi về biên chế, quỹ lương, đơn vị sử dụng NSNN phải
bổ sung bảng đăng ký điều chỉnh đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
- Hàng tháng, khi nhận giấy rút dự toán NSNN kèm danh sách chi trả lương, phụ
cấp lương và bảng tăng, giảm biên chế, quỹ lương (nếu có) do đơn vị sử dụng NSNN gửi
đến, Kho bạc đối chiếu danh sách chi trả lương, phụ cấp lương với bảng đăng ký biên chế -
quỹ lương năm hoặc bảng đăng ký điều chỉnh, kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của giấy rút
dự toán, kiểm tra số dư dự toán, tồn quỹ ngân sách… Nếu chưa đủ điều kiện thanh toán do
hồ sơ chưa đầy đủ, sai các yếu tố trên chứng từ thì trả lại hồ sơ và hướng dẫn đơn vị hoàn
chỉnh hồ sơ theo quy định. Nếu phát hiện chi không đúng chế độ; tồn quỹ ngân sách, số dư
dự toán không đủ cấp phát thì từ chối cấp phát, thông báo và trả hồ sơ cho đơn vị. Nếu đủ
điều kiện cấp phát, Kho bạc thực hiện cấp thanh toán cho đơn vị để chi trả cho người được
hưởng (trường hợp đầu năm, đơn vị chưa được giao dự toán, Kho bạc chỉ cấp tạm ứng cho
đơn vị. Khi đơn vị được giao dự toán, Kho bạc thực hiện thanh toán tạm ứng cho đơn vị và
thu hồi dự toán đã ứng).
Kiểm soát chi học bổng, sinh hoạt phí đối với học sinh, sinh viên:
Bao gồm chi về học bổng khuyến khích học tập, học bổng chính sách, phần thưởng
khuyến khích học tập, sinh hoạt phí cán bộ đi học... được thể hiện trên mục chi 103 của
MLNS hiện hành.
- Đầu năm ngân sách, các trường có học sinh, sinh viên hưởng học bổng, sinh hoạt
phí phải gửi Kho bạc: dự toán chi NSNN năm được cấp có thẩm quyền giao trong đó có
khoản chi về học bổng, sinh hoạt phí; Bảng đăng ký học bổng, sinh hoạt phí do nhà
trường lập vào đầu năm hoặc đầu mõi học kỳ sau khi có kết quả xét cấp học bổng, sinh
hoạt phí của hội đồng nhà trường.
- Hàng tháng, khi nhận giấy rút dự toán NSNN kèm bảng tăng, giảm học bổng, sinh
hoạt phí (nếu có), kế toán xử lý tương tự như kiểm soát chi lương và phụ cấp lương ở phần
trên.
Kiểm soát các khoản thanh toán cho các cá nhân thuê ngoài:
Căn cứ vào dự toán NSNN được cấp có thẩm quyền giao; nội dung thanh toán theo
hợp đồng kinh tế; hợp đồng lao động; giấy rút dự toán NSNN của đơn vị, KBNN thực hiện
thanh toán trực tiếp cho người được hưởng hoặc cấp qua đơn vị để thanh toán cho người
được hưởng.
Kiểm soát chi thu nhập tăng thêm từ nguồn kinh phí tiết kiệm của đơn vị tự chủ:
- Trong năm, sau khi thực hiện quý trước, nếu xét thấy đơn vị có khả năng tiết kiệm
được kinh phí; thủ trưởng đơn vị căn cứ vào số kinh phí dự kiến tiết kiệm được, lập giấy
rút dự toán NSNN (ghi rõ nội dung chi trả thu nhập tăng thêm từ nguồn kinh phí tiết kiệm)
để tạm chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức trong đơn vị theo quý; Kho bạc thực
hiện cấp tạm ứng cho đơn vị theo mức thủ trưởng đơn vị đề nghị đảm bảo trong phạm vi
dự toán được giao và tối đa không vượt quá 60% quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ một quý
(đối với cơ quan nhà nước thực hiện chế độ tự chủ), 40% số chênh lệch thu lớn hơn chi
(đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm
một phần chi phí hoạt động), 50% số kinh phí tiết kiệm được (đối với đơn vị sự nghiệp
ngân sách bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động)
- Kết thúc năm ngân sách, sau khi đơn vị xác định được chính xác số thực tiết kiệm,
căn cứ vào đề nghị thanh tóan tạm ứng (phần tạm ứng chi thu nhập tăng thêm) của đơn vị,
Kho bạc làm thủ tục thanh toán phần chi thu nhập tăng thêm cho đơn vị và thu hồi phần
kinh phí đã tạm ứng. Mức thanh toán thu nhập tăng thêm cả năm so với mức tiền lương
cấp bậc, chức vụ không vượt quá 1 lần (đối với cơ quan nhà nước thực hiện chế độ tự chủ
và đơn vị sự nghiệp ngân sách bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động), 2 lần (đối với đơn vị sự
nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động), không giới hạn (đối với đơn vị sự nghiệp tự
đảm bảo chi phí hoạt động). Trường hợp đơn vị đã tạm ứng vượt quá số thực tiết kiệm, Kho
bạc cho chuyển tạm ứng sang năm sau để thực hiện thu hồi bằng cách giảm trừ vào số tiết
kiệm năm sau của đơn vị.
Thứ hai, kiểm soát các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn.
Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn gồm: chi thanh toán dịch vụ công cộng, chi
mua vật tư văn phòng, chi thông tin, tuyên truyền, liên lạc, chi hội nghị, công tác phí...
Kho bạc căn cứ vào nhóm mục chi nghiệp vụ chuyên môn trong dự toán NSNN
được cấp có thẩm quyền giao; các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi nghiệp vụ chuyên môn
cho từng lĩnh vực; giấy rút dự toán NSNN của đơn vị sử dụng NSNN và các hồ sơ, chứng
từ có liên quan (trừ các khoản thanh toán văn phòng phẩm, công tác phí cước điện thoại
được đơn vị thực hiện chế độ tự chủ khoán theo quy chế chi tiêu nội bộ) nếu đủ điều kiện
thì thực hiện thanh toán cho đơn vị.
- Khi dự toán nhóm mục chi nghiệp vụ chuyên môn không đủ để chi, đơn vị sử
dụng NSNN có thể chi từ dự toán của nhóm mục chi khác (dự toán của nhóm mục chi
khác có thể chi cho tất cả các mục) song phải hạch toán đúng mục chi.
- Đối với cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện chế độ tự chủ,
Kho bạc căn cứ tiêu chuẩn, định mức chi tiêu được quy định tại quy chế chi tiêu nội bộ của
đơn vị để kiểm soát. Trường hợp đơn vị thực hiện chế độ tự chủ quyết định chi vượt quá
mức chi quy định tại Quy chế chi tiêu nội bộ, nhưng không vượt quá mức chi do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành, thì KBNN chấp nhận thanh toán khi có văn bản đề nghị
của thủ trưởng đơn vị.
- Đối với các đơn vị sử dụng NSĐP, khi thực hiện mua sắm các dụng cụ, trang thiết
bị có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên phải được cơ quan tài chính đồng cấp thẩm định giá.
Thứ ba, kiểm soát chi mua đồ dùng, trang thiết bị, phương tiện làm việc, sửa
chữa lớn tài sản cố định và xây dựng nhỏ.
- Đối tượng kiểm soát bao gồm: các khoản chi mua sắm, sửa chữa tài sản cố định
(vô hình hoặc hữu hình) như: bằng sáng chế, phần mềm máy tính, ô tô, tàu thuyền, máy vi
tính, máy phô tô, trang thiết bị kỹ thuật chuyên dùng có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên; các
khoản chi xây dựng nhỏ như: trụ sở, văn phòng, đường điện, cấp thoát nước...
- Dự toán được giao thuộc nhóm mục chi mua sắm, sửa chữa trong dự toán chi
thường xuyên bao gồm các mục: 118 (sửa chữa lớn), 144(tài sản vô hình), 145 (tài sản
dùng trong chuyên môn).
- Hồ sơ chứng từ liên quan đến từng khoản chi gồm: hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch
vụ, biên bản nghiệm thu, thanh lý hợp đồng; quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu hoặc chỉ
định thầu (đối với khoản mua sắm, sửa chữa có giá trị lớn phải thực hiện đấu thầu theo quy
đinh); phiếu báo giá của đơn vị cung cấp hàng hoá, dịch vụ (đối với những trường hợp mua
sắm nhỏ không có hợp đồng mua bán); hoá đơn bán hàng; các hồ sơ, chứng từ khác có liên
quan.
- Căn cứ giấy rút dự toán và các hồ sơ chứng từ có liên quan do đơn vị sử dụng
NSNN gửi đến, Kho bạc kiểm tra, kiểm soát hồ sơ, chứng từ chi nếu đủ điều kiện thì làm
thủ tục thanh toán trực tiếp bằng chuyển khoản hoặc thanh toán bằng tiền mặt qua đơn vị
sử dụng NSNN để chi trả cho đơn vị cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Trường hợp các khoản
chi chưa đủ điều kiện thanh toán trực tiếp, KBNN thực hiện cấp phát tạm ứng cho đơn vị
sử dụng NSNN. Sau khi thực hiện chi, đơn vị sử dụng NSNN gửi hóa đơn, chứng từ và các
hồ sơ khác có liên quan kèm theo giấy đề nghị thanh toán tạm ứng đến Kho bạc, KBNN
kiểm tra, kiểm soát nếu đủ điều kiện thì làm thủ tục chuyển từ cấp tạm ứng sang thanh toán
tạm ứng.
Thứ tư, kiểm soát chi thường xuyên khác của đơn vị hành chính.
Nhóm mục chi khác trong dự toán được giao của đơn vị sử dụng ngân sách bao
gồm các mục của mục lục NSNN không nằm trong 3 nhóm mục chi thanh toán cho cá
nhân, chi nghiệp vụ chuyên môn, chi mua sắm sửa chữa và các mục từ mục 147 đến mục
150. Kho bạc thực hiện kiểm soát, thanh toán những khoản chi thuộc nhóm mục chi khác
như sau:
- Đối với những khoản chi đơn vị đề nghị thanh toán trực tiếp, Kho bạc kiểm tra,
kiểm soát các hồ sơ, chứng từ và điều kiện chi theo quy định và thanh toán trực tiếp cho
đơn vị cung cấp hàng hoá, dịch vụ;
- Đối với những khoản chi chưa đủ điều kiện thanh toán trực tiếp, căn cứ vào số dư
dự toán, giấy rút dự toán ngân sách, KBNN thực hiện cấp tạm ứng cho đơn vị. Đầu tháng
sau, chậm nhất vào ngày 5 hàng tháng, đơn vị sử dụng NSNN lập bảng kê chứng từ thanh
toán gửi Kho bạc. Căn cứ vào bảng kê chứng từ thanh toán và đối chiếu với các điều kiện
chi NSNN, nếu đủ điều kiện quy định, thì Kho bạc thanh toán tạm ứng cho đơn vị.
2.2.3.2. Kiểm soát chi chương trình mục tiêu quốc gia
Một số chương trình mục tiêu quốc gia được kiểm soát chi qua KBNN Bến Tre
gồm: Chương trình Xoá đói giảm nghèo và Việc làm; Chương trình Dân số và Kế hoạch
hoá gia đình; Chương trình mục tiêu quốc gia Phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch
nguy hiểm và HIV/AIDS, Chương trình Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn;
Chương trình Về văn hoá; Chương trình Giáo dục và Đào tạo; Chương trình Phòng, chống
tội phạm; Chương trình Phòng, chống ma tuý; Chương trình Vệ sinh an toàn thực phẩm;
Chương trình quốc gia về Việc làm (Quyết định 101/2007/QĐ-TTg); Chương trình
quốc gia về bảo hộ lao động, an tòan lao động, vệ sinh lao động (Quyết định
233/2006/QĐ-TTg); Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn
(Chương trình 135); Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng (Dự án 661).
Phần chi thường xuyên thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia được cấp phát
dưới hai hình thức: hình thức cấp phát bằng dự toán và hình thức kinh phí ủy quyền.
- Hình thức cấp phát bằng dự toán: khi sử dụng hình thức này, các khỏan chi cho
chương trình mục tiêu quốc gia được cơ quan chủ quản giao trong dự toán chi NSNN của
đơn vị sử dụng NSNN. Quy trình kiểm soát các khoản chi này được thực hiện như kiểm
soát các khoản chi thường xuyên của đơn vị hành chính sự nghiệp đã trình bày ở trên.
- Đối với các khoản chi uỷ quyền cho các chương trình mục tiêu quốc, có hai
trường hợp:
+ Trường hợp cơ quan nhận uỷ quyền cấp phát kinh phí uỷ quyền cho các đơn vị sử
dụng NSNN theo dự toán, thì KBNN kiểm soát và cấp thanh phát cho các đơn vị như hình
thức cấp phát bằnh dự tóan.
+ Trường hợp cơ quan tài chính nhận uỷ quyền dùng uỷ nhiệm chi để chi trực tiếp
cho đơn vị sử dụng kinh phí uỷ quyền, KBNN thanh toán, chi trả theo uỷ nhiệm chi của cơ
quan tài chính và chỉ kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của ủy nhiệm chi.
2.2.3.3. Kiểm soát chi thường xuyên khác
Chi thường xuyên khác ngoài các khoản nêu trên, bao gồm chi cho hoạt động
của Đảng, chi an ninh quốc phòng. Kiểm soát các khoản chi này cụ thể như sau:
- Kiểm soát các khoản chi cho hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam:
Kinh phí hoạt động của các tổ chức đảng trên địa bàn tỉnh Bến Tre được cấp phát
qua Kho bạc bằng hình thức lệnh chi tiền. Khi nhận được lệnh chi tiền của cơ quan tài
chính, Kho bạc chỉ kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ, đối chiếu mẫu dấu, chữ ký
và chuyển kinh phí vào tài khoản tiền gửi của tổ chức đảng mở tại Kho bạc. Khi có nhu
cầu chi tiêu, tổ chức đảng lập chứng từ rút tiền từ tài khoản tiền gửi và gửi đến Kho bạc.
Kho bạc chỉ kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ, đối chiếu mẫu dấu, chữ ký và
thực hiện chi trả theo qui định.
- Kiểm soát, thanh toán các khoản chi an ninh, quốc phòng:
Về nguyên tắc, các đơn vị sử dụng NSNN thuộc và trực thuộc Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng phải thực hiện đúng quy định của Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn thực
hiện Luật NSNN, phải chịu sự kiểm soát của KBNN đối với các khoản chi NSNN qua
KBNN. Song, do tính chất hoạt động nghiệp vụ đòi hỏi sự bảo mật cao nên có một số nội
dung chi đơn vị tự kiểm soát và chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của nội dung chi,
KBNN không kiểm soát đối với các nội dung chi này.
Những khoản chi có yêu cầu bảo mật cao trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng bao
gồm: Các khoản chi liên quan đến quân số, biên chế, tổ chức (tiền lương, các loại phụ cấp,
trợ cấp; các loại tiền ăn, các khoản chi cho tuyển quân, ra quân, các khoản chi tính theo
định mức tổ chức, biên chế); các khoản chi liên quan đến đối tượng giam giữ; các khoản
chi mua sắm, đầu tư xây dựng và bảo quản, sửa chữa các tài sản chuyên dùng phục vụ an
ninh, quốc phòng; các khoản chi mua sắm vật tư chuyên dùng cho mục đích an ninh, quốc
phòng; các khoản chi cho công tác huấn luyện, diễn tập, chuyển quân, vận chuyển hàng an
ninh, quân sự, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu; các khoản chi thực hiện các dự án, chương
trình đặc biệt, chương trình, đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ phục vụ an ninh,
quân sự; các khoản chi mật phí (tình báo, an ninh); các khoản chi liên quan đến hoạt động
nghiệp vụ chuyên môn của ngành công an.
KBNN Bến Tre thực hiện kiểm soát các khoản chi an ninh, quốc phòng như sau:
- Đối với các khoản chi có yêu cầu bảo mật cao, kho bạc chỉ thực hiện kiểm tra tính
hợp lệ của chứng từ thanh toán, số dư dự toán mà không yêu cầu cung cấp các hồ sơ kèm
theo các khoản chi để kiểm soát. Sau khi kiểm tra, nếu đủ điều kiện thì tiến hành cấp phát
cho đơn vị.
- Đối với các khoản chi không thuộc các nội dung có yêu cầu bảo mật cao, kho bạc
thực hiện kiểm soát về chứng từ, hồ sơ thanh toán, số dư dự toán và thực hiện quy trình
kiểm soát, cấp phát thanh toán tương tự như Kiểm soát, thanh toán các khoản chi thường
xuyên của đơn vị hành chính sự nghiệp đã trình bày ở trên.
2.2.4. Tình hình hiện đại hoá kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước
tại Kho bạc nhà nước tỉnh Bến Tre
Hiện đại hoá kiểm soát chi thường xuyên NSNN có nhiều nội dung, trong đó việc
ứng dụng công nghệ thông tin hay tin học hoá nghiệp vụ NSNN nói chung và kiểm soát
chi NSNN nói riêng là nội dung cơ bản nhất.
Việc tin học hoá hoạt động nghiệp vụ KBNN nói chung và nghiệp vụ kiểm soát chi
thường xuyên nói riêng đã được KBNN Bến Tre đặc biệt quan tâm và triển khai thực hiện
từ rất sớm. Đồng thời cũng xem đây là một trong những điều kiện quan trọng để làm tốt
nhiệm vụ quản lý quỹ NSNN và tăng cường hiệu quả hoạt động kiểm soát chi qua KBNN.
Trong thời gian qua, các ứng dụng tin học đã đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp
thông tin nhanh chóng để phục vụ yêu cầu quản lý, điều hành ngân sách của lãnh đạo
KBNN và các cơ quan chức năng trên địa bàn.
Đã có nhiều chương trình ứng dụng phục vụ công tác chi NSNN và kiểm soát chi
thường xuyên NSNN được đưa vào sử dụng, chẵng hạn như:
- Chương trình kế toán kho bạc (KTKB): hỗ trợ công tác hạch toán kế toán ngân
sách trên máy vi tính theo chế độ kế toán thống kê. Và qua đó đã cung cấp các báo cáo kế
toán vừa nhanh chóng vừa chính xác. Chương trình còn cung cấp các tiện ích hỗ trợ công
tác kiểm soát chi thường xuyên như: cung cấp thông tin về số dư dự toán, tình hình thanh
toán, tạm ứng của từng đơn vị sử dụng NSNN. Chương trình có khả năng quản lý dự toán
của đơn vị sử dụng ngân sách chi tiết đến từng nhóm mục chi và tự động khống chế không
cho đơn vị chi vượt tổng mức dự toán được giao; chương trình còn có khả năng quản lý
tồn quỹ ngân sách của từng huyện, từng xã và khống chế không để chi ngân sách của từng
huyện, xã vượt mức tồn quỹ ngân sách của huyện, xã đó.
- Chương trình thanh toán điện tử: hỗ trợ thanh toán trực tiếp giữa các KBNN
huyện, KBNN tỉnh trên toàn quốc, giúp công tác thanh toán vừa an toàn vừa nhanh chóng.
Những khoản thanh toán trước đây khi thực hiên bằng phương pháp thủ công phải mất
nhiều ngày hiện nay chỉ cần thực hiện trong vài phút.
- Chương trình KHKB hỗ trợ quản lý, kiểm soát, thanh toán các dự án, chương trình
mục tiêu quốc gia.
- Chương trình tổng hợp báo cáo: hỗ trợ lập các báo cáo theo chế độ kế toán thống
kê trên cơ sở số liệu được cung cấp từ chương trình KTKB để phục vụ cho công tác quản
lý, điều hành và quyết toán ngân sách. Với những báo cáo hàng trăm trang, chương trình
tổng hợp báo cáo chỉ thực hiện trong vài phút, với những báo này nếu làm thủ công phải
mất hàng tháng.
Song song với việc phát triển các chương trình ứng dụng thì công nghệ truyền
thông cũng được chú trọng. Tại KBNN tỉnh và tất cả các KBNN huyện trực thuộc đều có
hệ thống mạng nội bộ và nối mạng về KBNN tỉnh. Các số liệu phát sinh tại các KBNN
huyện trực thuộc được truyền về KBNN tỉnh hàng ngày. Vì vậy, ngay trong ngày hôm sau,
tại KBNN tỉnh đã có thể tổng hợp được số liệu chi NSNN trên địa bàn toàn tỉnh.
2.2.5. Kết quả đạt được và những hạn chế trở ngại trong kiểm soát chi thường
xuyên ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước Bến Tre
2.2.5.1. Một số kết quả đạt được trong kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà
nước qua Kho bạc nhà nước tỉnh Bến Tre
Từ khi Luật NSNN sửa đổi năm 2002 có hiệu lực từ năm 2004, cùng các văn bản
pháp luật khác được ban hành, KBNN Bến Tre đã hết sức chú trọng công tác kiểm soát chi
nói chung và kiểm soát chi thường xuyên nói riêng nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng NSNN.
Để triển khai thực hiện có hiệu quả luật NSNN trong công tác kiểm soát chi, KBNN
Bến Tre đã chuẩn bị chu đáo trên nhiều mặt từ việc sắp xếp, bố trí lại bộ máy; trang bị cơ
sở vật chất; tổ chức nghiên cứu, tập huấn cho nhân viên kho bạc về Luật NSNN sửa đổi; tổ
chức hội nghị khách hàng để triển khai về quy trình, thủ tục, và những điều kiện cần thiết
trong cấp phát NSNN đối với đơn vị sử dụng NSNN. Qua đó công tác kiểm soát chi
thường xuyên của KBNN Bến Tre đã mang lại những kết quả cụ thể sau:
- Qua công tác kiểm soát chi thường xuyên, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan,
đơn vị trong việc quản lý chi NSNN cũng được quy định rõ ràng hơn, từ đó góp phần nâng
cao hiệu quả sử dụng kinh phí NSNN. Cụ thể, đã tăng cường được tính chủ động của cơ
quan tài chính trong việc điều hành NSNN; KBNN, từ chỗ chỉ đơn thuần chấp hành xuất
quỹ NSNN theo lệnh chuẩn chi của cơ quan tài chính hoặc đơn vị sử dụng NSNN, đến nay
đã chuyển sang thực hiện kiểm tra, kiểm soát theo thực tế chi tiêu của đơn vị, đảm bảo các
khoản chi phải đúng chế độ quy định; Về phía đơn vị sử dụng NSNN cũng đã tăng cường
được tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của kế toán trưởng và thủ trưởng đơn vị trong quá
trình chi tiêu. Từ đó, các đơn vị sử dụng NSNN không còn tự do rút tiền để chi tiêu như
trước đây, mà chỉ khi nào có nhu cầu chi thực sự và có đầy đủ các điều kiện chi theo qui
định thì Kho bạc mới xuất quỹ NSNN. Vì vậy, tình trạng căng thẳng giả tạo của NSNN đã
dần được loại bỏ.
- Thông qua kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN Bến tre, một mặt tạo điều
kiện cho các đơn vị sử dụng NSNN chấp hành việc sử dụng kinh phí NSNN theo đúng dự toán
được duyệt, đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhà nước quy định, đặc biệt là việc xây dựng,
sửa chữa, mua sắm trang thiết bị đã dần đi vào nề nếp, theo đúng qui chế đấu thầu và chế độ hoá
đơn chứng từ. Tình trạng chạy kinh phí cuối năm, rút tiền về quỹ của đơn vị để toạ chi... cũng
dần được hạn chế. Vì vậy, hiệu quả sử dụng vốn NSNN ngày càng được nâng cao.
Cụ thể, Từ năm 2004 đến năm 2007, mỗi năm KBNN Bến Tre đã thực hiện chi từ
quỹ NSNN hàng ngàn tỷ đồng. Thông qua công tác kiểm soát chi thường xuyên, mõi năm
KBNN Bến Tre đã phát hiện hàng trăm khoản chi của đơn vị chưa chấp hành đúng chế độ,
thủ tục cấp phát và từ chối cấp phát hàng trăm triệu đồng. Số liệu cụ thể được thể hiện ở
Bảng 2.2 dưới đây.
Bảng 2.2: Tình hình kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN
Bến Tre giai đoạn 2004 - 2007
Chỉ tiêu Đơn vị Tổng số 2004 2005 2006 2007
Tổng chi NSNN Tỷ đồng 8.670 1.330 1.768 2.357 3.215
Chi thường xuyên đã qua kiểm soát chi Tỷ đồng 3.706 595 782 1.007 1.322
Trong đó: - NSTW Tỷ đồng 402 32 87 124 159
- NSĐP Tỷ đồng 3.304 563 695 883 1.163
Số món chưa đủ điều kiện cấp phát Món 506 88 181 132 105
Số tiền từ chối cấp phát Tỷ đồng 1,95 0,38 0,61 0,57 0,40
Nguồn: KBNN Bến Tre 2004- 2007 [19], [20], [21], [22].
Bảng 2.2 trên cho thấy: trong 4 năm từ năm 2004 đến năm 2007, qua kiểm soát
chi thường xuyên, KBNN Bến Tre đã kiểm soát 3.706 tỷ đồng, phát hiện 506 khoản chi
không đủ điều kiện cấp phát, từ chối cấp phát 1.953 triệu đồng. Các vi phạm của đơn vị
chủ yếu là: chi vượt định mức, sai đối tượng, chi vượt dự toán, không đủ thủ tục theo
quy định, sai mục lục NSNN...
- Cùng với việc đảm bảo kinh phí NSNN được sử dụng đúng mục đích, thanh toán
đúng đối tượng, kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN trong thời gian qua còn
góp phần vào việc kiểm soát chặt chẽ tình hình sử dụng tiền mặt và ổn định lưu thông tiền
tệ.
2.2.5.2. Những hạn chế, trở ngại trong kiểm soát chi thường xuyên ngân sách
nhà nước qua Kho bạc Bến Tre và nguyên nhân chủ yếu
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua
KBNN Bến Tre đã bộc lộ một số hạn chế, trở ngại cần khắc phục như sau:
Thứ nhất, vướng mắc khi thực hiện chi NSNN theo dự toán.
Chi NSNN theo dự toán là phương thức cấp phát tiên tiến tạo sự chủ động cho đơn
vị sử dụng NSNN trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, do cơ chế tạm cấp
kinh phí, ứng trước dự toán nên nhiều bộ, cơ quan, ban ngành ở Trung ương và địa phương
còn ỷ lại, dẫn đến việc phân bổ và giao dự toán không đúng quy định ảnh hưởng tới chi
tiêu của đơn vị sử dụng ngân sách và công tác kiểm soát chi của kho bạc. Cụ thể như:
- Về thời gian phân bổ và giao dự toán. Theo quy định của Luật NSNN, việc phân
bổ và giao dự toán ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách phải hoàn thành trước
ngày 31 tháng 12 năm trước. Dự toán được cấp từ đầu năm nhằm tạo sự chủ động cho đơn
vị sử dụng NSNN trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, khắc phục tình trạng “xin –
cho” trong cơ chế cấp phát bằng hạn mức kinh phí trước kia. Tuy nhiên dự toán được cơ
quan có thẩm quyền quyết định và phân bổ còn chậm. Còn rất nhiều Bộ, ngành ở trung
ương và địa phương giao dự toán trễ so với thời gian quy định, cá biệt, có trường hợp
đến quý II dự toán mới được giao cho đơn vị sử dụng NSNN. Trong những tháng đầu
năm, khi chưa có dự toán được giao, đơn vị chỉ được ứng trước dự toán để chi cho các
nhu cầu thiết yếu, vì vậy gây khó khăn rất lớn cho đơn vị sử dụng NSNN và công tác
kiểm soát chi thường xuyên của KBNN.
- Về chất lượng dự toán. Các đơn vị sử dụng NSNN căn cứ vào nhiệm vụ được giao
và định mức chi tiêu do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định để lập dự toán năm.
Do định mức chi tiêu thường không đầy đủ và nhanh chóng lạc hậu so với thực tế nên các
đơn vị sử dụng NSNN luôn tìm cách để nâng cao dự toán chi dẫn đến lãng phí trong khâu
chấp hành dự toán. Do thiếu căn cứ khoa học và năng lực lập dự toán của một số đơn vị sử
dụng NSNN còn hạn chế nên dự toán của các đơn vị lập ra có thể thừa hoặc thiếu, thậm chí
vừa thừa vừa thiếu (thừa ở nội dung này nhưng thiếu ở nội dung khác). Vì vậy, trong quá
trình chấp hành dự toán chi, đơn vị phải xin bổ sung hoặc điều chỉnh dư toán nhiều lần làm
tăng khối lượng công việc của cơ quan Kho bạc, gây lãng phí thời gian và công sức.
Bảng 2.3: Tình hình bổ sung dự toán chi thường xuyên tại văn phòng KBNN Bến Tre
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm
NSTW Ngân sách tỉnh Ngân sách huyện Ngân sách xã
Số lần Số tiền Số lần Số tiền Số lần Số tiền Số lần Số tiền
2004 50 18.428 390 132.255 52 2.596 77 3.963
2005 37 6.291 533 72.277 96 2.437 70 4.394
2006 52 16.381 498 44.328 65 399 109 3.899
2007 40 19.968 716 62.292 102 4.122 165 8.630
Nguồn: KBNN Bến Tre các năm 2004- 2007.
Bảng 2.4: Tình hình điều chỉnh dự toán chi thường xuyên tại Văn phòng KBNN Bến
Tre
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm
NSTW Ngân sách tỉnh Ngân sách huyện Ngân sách xã
Số lần Số tiền Số lần Số tiền Số lần Số tiền Số lần Số tiền
2004 21 12.502 152 67.962 30 341 134 501
2005 26 16.867 360 42.602 65 1.125 182 592
2006 46 29.768 346 84.419 70 364 182 316
2007 32 75.618 260 42.614 65 1.552 192 871
Nguồn: KBNN Bến Tre các năm 2004- 2007.
Việc phân bổ và giao dự toán cũng còn nhiều bất cập:
+ Hiện tượng giao dự toán nhiều lần theo từng quý hoặc chừa lại một khoản dự
phòng để cấp bổ sung nhiều lần trong năm vẫn còn diễn ra ở một số đơn vị gây khó khăn cho
Kho bạc trong việc hạch toán và quản lý dự toán chi.
+ Hầu hết các đơn vị sử dụng NSĐP theo cơ chế khoán biên chế và kinh phí quản lý
hành chính đều được giao hai loại dự toán: dự toán giao thực hiện chế độ tự chủ và dự
toán giao không thực hiện chế độ tự chủ. Các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện chế
độ tự chủ được giao dự toán thành hai phần: phần dự toán chi thường xuyên và phần dự
toán chi không thường xuyên. Theo quy định, mỗi loại dự toán có chế độ kiểm soát chi
khác nhau, nhưng trên thực tế, có những khoản chi khó có thể phân biệt phải chi từ loại
dự toán nào.
+ Đơn vị dự toán cấp I khi giao dự toán cho các đơn vị trực thuộc còn sử dụng sai
mẫu biểu; không đầy đủ thông tin về mục lục NSNN, loại dự toán...; dự toán được phân bổ
và giao cho các đơn vị sử dụng NSNN ở nhiều địa bàn khác nhau do nhiều KBNN quản lý
nên từng kho bạc không thể đối chiếu số dự toán được giao với mức phân bổ dự toán đã
được cơ quan tài chính thẩm tra.
+ Một trong những điều kiện để Kho bạc thực hiện cấp phát là khoản chi phải có
trong dự toán được giao. Trên thực tế, Kho bạc chỉ nhận được quyết định của đơn vị dự
toán cấp I (hoặc cấp II) giao dự toán cho đơn vị dự toán cấp III. Trong quyết định chỉ có
tổng mức dự toán được giao và chi tiết đến từng nhóm mục chi. Vì vậy, Kho bạc chỉ kiểm
soát được khoản chi có vượt tổng mức dự toán hay không mà không thể kiểm tra được nội
dung chi có trong dự toán hay không.
Thứ hai, về chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi.
Hệ thống quy định chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi chưa bao quát hết tất cả các nội
dung chi, những nội dung đã được định mức thì nhanh chóng bị lạc hậu do lạm phát làm
cho các đơn vị thiếu căn cứ để lập dự toán, các cơ quan quản lý thiếu căn cứ để phê duyệt
dự toán, Kho bạc thiếu căn cứ để kiểm soát chi, cơ quan thanh tra, kiểm toán thiếu cơ sở để
kết luận sự sai phạm của một số khoản chi. Các văn bản quy định về chế độ, tiêu chuẩn,
định mức do không bao quát hết các nội dung chi nên thường có mục “khác” (ví dụ: trong
4 nhóm mục chi có nhóm mục thứ tư là nhóm mục chi khác; trong MLNS, mõi mục chi
đều có tiểu mục 99 là tiểu mục “khác”; Quyết định 78/2001/QĐ- TTg ngày 16/05/2001
quy định về tiêu chuẩn, định mức sử dụng điện thoại công vụ, có nội dung: Ngoài các
cán bộ được trang bị điện thoại cố định, điện thoại di động theo quy định... căn cứ vào
tính chất và yêu cầu công việc thực sự cần thiết mà Bộ trưởng... quyết định trang bị
điện thoại cho cán bộ trực tiếp đảm nhận các công việc đặc biệt. Nhưng không có quy
định thế nào là công việc thực sự cần thiết và công việc đặc biệt). Đây chính là những
khe hở để các cơ quan, đơn vị lợi dụng để thực hiện các khoản chi sai mà cơ quan kiểm
soát chi không có cơ sở để từ chối cấp phát. Mặt khác một số chế độ, định mức chi do
địa phương ban hành trái với qui định của trung ương gây khó khăn cho Kho bạc trong
kiểm soát chi chẵng hạn như về chế độ trang bị và thanh toán cước điện thoại: Theo
Quết định 78/2001/QĐ- TTg thì Bí thư tỉnh uỷ, chủ tịch HĐND tỉnh, chủ tịch UBND
tỉnh được thanh toán không quá 300.000 đồng/máy/tháng đối với điện thoại cố định tại
nhà riêng và không quá 500.000 đồng/tháng đối với điện thoại di động. Nhưng theo
quyết định 2479/UBND- TMXDCB của UBND tỉnh Bến tre thì Bí thư tỉnh uỷ, chủ tịch
HĐND tỉnh, chủ tịch UBND tỉnh được thanh toán cước điện thoại di động và điện thoại
nhà riêng không giới hạn (theo thực tế sử dụng), ngoài ra, còn quy định trang bị và
thanh toán cước điện thoại di động cho các đối tương không thuộc quyết định
78/2001/QĐ- TTg như: Giám đốc, phó giám đốc các sở, ban, ngành tỉnh; chánh, phó
văn phòng tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh; bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch
HĐND, UBND cấp huyện...
Thứ ba, những trở ngại trong thực hiện chế độ kiểm soát chi thường xuyên.
+ Việc kiểm soát chi đối với những khoản xây dựng nhỏ và sửa chữa lớn tài sản cố
định từ kinh phí thường xuyên còn nhiều bất cập. Trên thực tế, chưa có văn bản quy
định rõ thế nào là xây dựng nhỏ, thế nào là sửa chữa lớn và thế nào là sửa chữa thường
xuyên... để có chế độ kiểm soát phù hợp. Về thủ tục kiểm soát chi cũng chưa thống
nhất. Theo thông tư 79/BTC và công văn 1187/KBNN thì hồ sơ thanh toán đối với xây
dựng nhỏ, sửa chữa lớn gồm quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu hay chỉ định thầu,
hợp đồng, hoá đơn và các hồ sơ liên quan. Có đơn vị gửi hồ sơ cho Kho bạc giống như
hồ sơ thủ tục của một dự án đầu tư xây dựng cơ bản, nghĩa là đầy đủ báo cáo kinh tế kỹ
thuật, quyết định phê duyệt thiết kế, quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu hoặc chỉ
định thầu, hợp đồng xây dựng, bảng tính khối lượng xây lắp, bản nghiệm thu khối
lượng hoàn thành, phiếu giá... Và cán bộ kiểm soát chi thường xuyên không biết phải
kiểm soát các hồ sơ này như thế nào.
+ Đối với các khoản chi tiền ăn cho hội nghị. Theo quy định, chỉ chi cho đối
tượng không hưởng lương nhưng trên thực tế Kho bạc không thể kiểm tra được thành
phần tham dự hội nghị có bao nhiêu người không hưởng lương.
+ Trong thanh toán chi phí tiếp khách, dù đã có quy định mức chi cụ thể cho từng
đối tượng nhưng không có quy định số lượng người tiếp và cũng không quy định đơn vị
phải cung cấp danh sách khách được tiếp nên Kho bạc không có cơ sở để áp dụng định
mức chi trong kiểm soát. Ngoài ra, việc xác định số lượng và đối tượng khách cũng hết
khó khăn và thiếu cơ sở vì không có quy định đơn vị phải cung cấp cho Kho bạc các hồ sơ
chứng minh về việc tiếp khách của đơn vị.
Thứ tư, trở ngại trong hình thức cấp phát.
- Hình thức cấp phát bằng lệnh chi tiền. Theo hình thức này Kho bạc chỉ việc
xuất quỹ ngân sách, chuyển tiền vào tài khoản hoặc cấp tiền mặt cho tổ chức, cá nhân
được hưởng ngân sách theo lệnh của cơ quan tài chính mà không phải thực hiện kiểm
soát chi. Nhiệm vụ kiểm soát các khoản chi này được giao cho cơ quan tài chính. Như
vậy, công tác kiểm soát chi cùng lúc có hai cơ quan đảm trách nên dễ dẫn đến thiếu
thống nhất và không đồng bộ. Trên thực tế hình thức cấp phát này còn bị cơ quan tài
chính lạm dụng để ra lệnh cho Kho bạc cấp phát các khoản chi thường xuyên mà
không muốn gặp phải cơ chế kiểm soát chi thường xuyên từ phía KBNN.
- Hình thức "ghi thu, ghi chi" được áp dụng phổ biến đối
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước tỉnh Bến Tre.pdf