Tài liệu Luận văn Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ: Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: “Hoàn thiện chính sách
huy động vốn tại Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Láng Hạ”
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang 1 Lớp Ngân hàng 42A
Lời Mở đầu
Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, nên kinh tế Việt Nam có
nhiều chuyển biến theo hướng tích cực theo hướng công nghiệp hoá- hiện
đại hoá nhằm đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghhiệp vào
năm 2020 trong đó phát huy nội lực trong nước là chính đồng thời tranh thủ
sự hỗ trợ từ bên ngoài. Như vậy nền kinh tế đòi hỏi phải cần một lượng vốn
rất lớn bởi vốn là yếu tố quan trọng góp phần vào thành quả chung của
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, dần đưa nước ta thoát khỏi tình
trạng nghèo nàn, tụt hậu, từ đó tiến nhanh, tiến chắc ngang với các nước
trong khu vực và thế giới. Điều này được thể hiện trong văn kiện đại hội
đảng IX “Chúng ta không thể thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nếu
không huy đ...
81 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 986 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: “Hoàn thiện chính sách
huy động vốn tại Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Láng Hạ”
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang 1 Lớp Ngân hàng 42A
Lời Mở đầu
Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, nên kinh tế Việt Nam có
nhiều chuyển biến theo hướng tích cực theo hướng công nghiệp hoá- hiện
đại hoá nhằm đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghhiệp vào
năm 2020 trong đó phát huy nội lực trong nước là chính đồng thời tranh thủ
sự hỗ trợ từ bên ngoài. Như vậy nền kinh tế đòi hỏi phải cần một lượng vốn
rất lớn bởi vốn là yếu tố quan trọng góp phần vào thành quả chung của
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, dần đưa nước ta thoát khỏi tình
trạng nghèo nàn, tụt hậu, từ đó tiến nhanh, tiến chắc ngang với các nước
trong khu vực và thế giới. Điều này được thể hiện trong văn kiện đại hội
đảng IX “Chúng ta không thể thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nếu
không huy động được nhiều nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung và dài hạn
trong nước mà “nòng cốt” để thực hiện được nhiệm vụ quan trọng này phải
là các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính ”.
Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tài chính trong việc
huy động vốn để tái cấp vốn cho nền kinh tế là quan trọng nhất. Tuy nhiên
ngân hàng là một loại hình doanh ngiệp đặc biệt kinh doanh chủ yếu trên
lĩnh vực tiền tệ cho nên bắt buộc phải hoạt động có hiệu quả để vừa đảm
bảo mục tiêu an toàn trong hoạt động vừa có thể đứng vững trong nên kinh
tế thị trường và qua đó thực hiện có hiệu quả vai trò dẫn vốn của mình.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ
là một chi nhánh thành viên của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam. Với hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực Nông nghiệp
Nông thôn. Cũng giống như các NHTM khác Chi nhánh rất quan tâm tới
nguồn vốn huy động từ nền kinh tế để có thể tiến hành hoạt động kinh
doanh. Thấy đươch tầm quan trọng của nguồn vốn huy động đối với hoạt
động của Chi nhánh, trong quá trình thực và nghiên cứu hoạt động của Chi
nhánh em chọn đề tài “Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại Chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ”
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề gồm có 3 chương:
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang 2 Lớp Ngân hàng 42A
Chương 1- Chính sách huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Chương 2-Thực trạng chính sách huy động vốn của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nôngthôn Chi nhánh Láng Hạ
Chương 3. Hoàn thiện chính sách huy động vốn của Chi nhánh Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ
Do thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm bản thân còn hạn chế nên
những vấn đề mà Em nêu ra không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong
nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị cán bộ thực tế
tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ để
đề tài được hoàn thiện hơn, có ý nghĩa thực tiễn hơn, góp phần hoàn thiện
chính sách huy động vốn của Chi nhánh.
Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình hướng dẫn chỉ bảo của thầy
giáo. Tiến sỹ Trần Đăng Khâm và toang thể cán bộ công nhân viên Chi
nhánh Láng Hạ đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Hà nội, tháng 05 năm 2004
Sinh viên: Nông Văn Thực
Chương 1. Chính sách huy động vốn của
Ngân hàng thương mại
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang 3 Lớp Ngân hàng 42A
1.1. Các hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử
phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Sự phát triển của kinh tế là điều kiện
và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng, đến lượt mình sự phát triển của hệ
thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Sản xuất phát triển dẫn đến lưu thông hàng hoá ngày càng được mở
rộng, khối lượng lưu thông ngày càng lớn, không chỉ trong mỗi địa
phương, trong mỗi quốc gia mà còn được lưu thông giữa các Quốc gia
trong khu vực, giữa các khu vực trên toàn thế giới. Tuy nhiên ở mỗi Quốc
gia lại sử dụng những đồng tiền khác nhau, với giá trị khác nhau, điều này
đã gây rất nhiều khó khăn trong quá trình lưu thông, trao đổi hàng hoá.
Trước thực tế đó một số Thương gia đã chuyển sang kinh doanh hàng hoá
đặc biệt (từ bỏ kinh doanh hàng hoá thông thường), đó là đổi tiền và kinh
doanh tiền tệ. Công việc của các thương gia này đã góp phần quan trọng
trong việc thu hẹp khoảng cách giữa các đồng tiền khác nhau, giúp quá
trình lưu thông hàng hoá thuận tiện, tiết kiệm thời gian cho các nhà buôn,
các thương gia. Mặt khác để đáp ứng nhu cầu thanh toán ngày càng lớn
của các thương gia, những người này kiêm luôn việc giữ hộ và thanh toán
hộ tiền, và trong trường hợp cần thiết họ còn tiến hàng cho các nhà buôn
vay tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán (với chi phí thoả thuận- hay còn gọi
là lãi suất).
Ngày nay, hệ thống ngân hàng (bao gồm ngân hàng Nhà nước và hệ
thống các Ngân hàng Thương mại) phát triển hiện đại hơn, có nhiều loại
hình dịch vụ hơn rất nhiều so với thủa sơ khai, tuy nhiên thì một số nghiệp
vụ của nó thì vẫn không thay đổi về bản chất, mà nó chỉ thuận tiện hơn,
tiện lợi hơn hình thức phục vụ đa dạng hơn. Hoạt động của hệ thống ngân
hàng ngay từ khi ra đời đã giữ vai trò quan trọng là huyết mạch và còn
thước đo sự hưng thịnh, suy thoái, hay trì trệ của một nền kinh tế.
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang 4 Lớp Ngân hàng 42A
Tóm lại, có thể thấy rằng sự ra đời của hệ thống ngân hàng là kết quả
của sự phát triển kinh tế nói chung và lĩnh vực lưu thông hàng hoá nói
riêng. Sự ra đời đó có thể ví như một trong những phát kiến vĩ đại của nhân
loại loài người.
Khái niệm Ngân hàng thương mại
Mặc dù trải qua lịch sử phát triển lâu dài nhưng cho đến nay, việc
đưa ra một khái niệm cụ thể về Ngân hàng thương mại thì vẫn còn là điều
gây nhiều tranh cãi của các nhà Kinh tế, bởi tại mỗi một thời điểm khác
nhau thì khái niệm lại có những thay đổi, đây lại cũng là một đặc thù của
lĩnh vực ngân hàng tài chính.
Theo các nhà Kinh tế học thế giới thì “Ngân hàng Thương mại là
một loại hình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ
và tín dụng”. Theo cách tiếp cận trên phương diện những loại hình dịch vụ
mà ngân hàng cung cấp thì “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ
chức tổ chức tài chính, cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất, đặc biệt là tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức nào trong nền kinh tế”. Theo
luật các tổ chức tín dụng của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được Quốc hội khoá X (kỳ họp tứ hai, từ ngày 21 tháng 11 đến ngày 12
tháng 12 năm1997) thông qua thì “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh
doanh tiền tệ, và các dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận
tiền gửi và sử dụng số tiền này cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán”.
Qua đây chúng ta có thể thấy rằng trên mỗi phương diện khác nhau,
tại mỗi quốc gia khác nhau lại có những quan niệm, nhin nhận khác nhau,
tuy nhiên tất cả điều đó đều cho chúng ta những cách hiểu sâu hơn về khái
niệm ngân hàng nói chung và Ngân hàng Thương mại nói riêng đồng thời
qua đó giúp chúng ta có hiểu rõ hơn về các hoạt độngvà những loại hình
dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
1.1.1.2. Các loại hình Ngân hàng thương mại
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang 5 Lớp Ngân hàng 42A
Bất kì một nền kinh tế nào cũng cần phải có các tổ chức đứng ra làm
trung gian trong việc điều tiết các nguồn tiền để đáp ứng các nhu cầu liên
quan đến tài chính tiền tệ. Ngày nay không chỉ có các ngân hàng thương
mại đảm nhận việc đó, mà còn có các tổ chức trung gian tài chính khác, với
khả năng tài chính mạnh mẽ cũng tiến hành tham gia cung cấp vốn và các
dịch vụ khác liên quan tới lĩnh vực tài chính tiền tệ.
a- Ngân hàng thương mại chia theo hình thức sở hữu
Ngân hàng thương mại Quốc doanh, là loại hình ngân hàng mà sở
hữu thuộc về Nhà nước, do Nhà Nước cấp ngân sách thành lậpvà trực tiếp
quản lý, điều hành. Nhà nước sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm liên quan tới nợ
và các nghĩa vụ về tài sản khác liên quan đến hoạt động của Ngân hàng
Thương mại. Thông thường nhà nước (Trung ương, hoặc Tỉnh) sẽ hỗ trợ về
tài chính và bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá cho nên ít khi các ngân hàng
này bị phá sản. Tuy nhiên trong một số trường hợp do hoạt động theo sự
chỉ đạo từ Nhà Nước cho nên sẽ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Ngân hàng thương mại cổ phần, đây là loại hình ngân hàng được
thành lập trên cơ sở góp vốn của các cổ đông, sự góp vốn có thể bằng hoặc
không bằng nhau giữa các Cổ đông tuỳ theo thoả thuận và khả năng của
các cổ đông. Theo quy định thì các cổ đông chỉ phải chịu trách nhiệm hữu
hạn về nghĩa vụ nợ và trách nhiệm tài sản khác tuỳ theo mức tỷ lệ cổ phần
mà mình sở hữu. Do vốn hình thành theo hình thức tập trung cho nên các
ngân hàng thương mại cổ phần có khả năng mở rộng quy mô và tăng nguồn
vốn nhanh, do vậy đây thường là các ngân hàng lớn. Phạm vi hoạt động rất
rộng, hình thức hoạt động đa năng, có nhiều Chi nhánh hoặc công ty con.
Nhưng nó thường chịu mức rủi ro cao từ cơ chế quản lý phân quyền. (Giữa
Tổng giám đốc và các giám đốc; giữa công ty mẹ và công ty con...).
Ngân hàng Thương mại Liên doanh, là loại hình ngân hàng thành lập
trên cơ sở sự hợp tác hoặc góp vốn của bên hoặc các bên của ngân hàng
nước này với bên hoặc các bên của ngân hàng quốc gia (có thể một hoặc
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang 6 Lớp Ngân hàng 42A
nhiều Quốc gia cùng góp vốn) khác, để tận dụng ưu thế của nhau. Tuỳ theo
thoả thuận và hiệp định ký kết giữa các bên.
Ngân hàng sở hữu tư nhân, là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng
vốn của mình. Loại ngân hàng này thường có quy mô nhỏ, phạm vi hoạt
động trong từng địa phương. Các ngân hàng này thường gắn liền với hoạt
động của các doanh nghiệp và cá nhân địa phương. Chủ ngân hàng thường
rất am hiểu khách hàng, vì vậy hạn chế được rủi ro. Tuy nhiên vì quy mô
và phạm vi nhỏ nên nó thường không đa dạng trong hoạt động, nên dễ dàng
gặp tổn thất khi mà địa phương đó gặp rủi ro.
b. Ngân hàng thương mại theo tính chất hoạt động
Ngân hàng chuyên doanh và đa năng, ngân hàng hoạt động theo
hướng chuyên doanh là ngân hàng chỉ cung cấp một số dịch vụ hạn chế tuỳ
thuộc vào thế mạnh, cũng như điều kiện mà ngân hàng có thể hoạt động..
Tính chuyên môn hoá cao cho phép các ngân hàng có được đội ngũ cán bộ
giàu kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ. Tuy nhiên loại hình ngân hàng này
thường gặp rủi ro lớn, khi mà ngành hoặc lĩnh vực mà mình hoạt động bị
xa sút. Ngân hàng chuyên doanh thường là ngân hàng có quy mô nhỏ,
phạm vi hoạt động hẹp, trình độ cán bộ do tập trung chuyên sâu nên không
đa dạng; hoặc là ngân hàng sở hữu của công ty. Thứ hai, ngân hàng hoạt
động theo hướng đa năng là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng
cho mọi đối tượng. Đây là xu hướng chủ yếu hiện nay của các ngân hàng
thương mại, nhất là ngân hàng thương mại lớn. Các ngân hàng này thường
là ngân hàng lớn (hoặc chủ sử hữu công ty lớn). Tính đa dạng sẽ giúp ngân
hàng trong việc tăng thu nhập và hạn chế rủi ro.
Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ, ngân hàng bán buôn là
ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho các ngân hàng khác, các công ty tài
chính, cho nhà nước, cho các doanh nghiệp quy mô lớn. Ngân hàng bán
buôn thường là ngân hàng lớn hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế,
cung cấp các khoản tín dụng lớn. Ngân hàng bán lẻ thường là các ngân
hàng cung cấp dịch vụ trực tiếp cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và các
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang 7 Lớp Ngân hàng 42A
cá nhân, với các khoản tín dụng nhỏ lẻ. Ngày nay xu hướng của các ngân
hàng thương mại ít ngân hàng chỉ bán lẻ hay chỉ bán buôn. Các ngân hàng
nhỏ thường bán lẻ, còn ngân hàng lớn vừa bán buôn, vừa bán lẻ.
Tóm lại, có thể thấy các Ngân hàng Thương mại ngoài hoạt động
chính là nhận tiền gửi, phân phối lại nguồn vốn phục vụ nhu cầu của nền
kinh tế. Thì nó còn có chức năng quan trọng là chức năng tạo tiền và cung
cấp các dịch vụ nhất liên quan tới lĩnh vực tiền tệ mà các trung gian tài
chính khác không thể thực hiện được. Đồng thời nó cũng trực tiếp thực
hiện sách tiền tệ quốc gia, theo quy định của Ngân hàng nhà nước.
c. Các trung gian tài chính
Mặc dù không phải là ngân hàng thương mại nhưng các trung gian
tài chính này với tiềm lực tài chính lớn mạnh trong tay, họ cung cấp nhiều
loại hình dịch vụ, và hoạt động tương tự ngân hàng thương mại. Một số
trung gian tài chính chủ yếu hiện nay gồm;
Công ty Tài chính, Có thể là các công ty quốc doanh, công ty cổ
phần, với hoạt động chủ yếu cho vay để mua bán hàng hoá, dịch vụ bằng
nguồn vốn của mình. Nhận tiền gửi, phát hàng trái phiếu, tín phiếu, hoặc
vay của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
Công ty Cho thuê Tài chính (Cho thuê tài sản), là công ty cung cấp
tín dụng trung và dài hạn, thông qua các hợp động cho thuê tài sản với
khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hợp đồng thuê, khách hàng được mua
lại với giá ưu đãi (theo hợp đồng thuê mua), hoặc cũng có thể tiếp tục thuê
tài sản đó theo điều kiện đã thoả thuận và điều kiện gia hạn (nếu cần thiết).
Công ty Bảo hiểm, với tiềm lực về tài chính trong tay, ngày nay các
công ty Bảo Hiểm cũng hoạt động như một trung gian tài chính (một tổ
chức tín dụng) đứng ra huy động tiền của những người mua bảo hiểm (tiền
đóng phí của khách hàng) trên mọi lĩnh vực khác nhau, với lời hứa sẽ bù
đắp thiệt hại cho những người tham gia khi họ gặp rủi ro, tuỳ thuộc vào
mức độ thiệt hại, và loại hình bảo hiểm mà khách hàng tham gia. Như vậy
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang 8 Lớp Ngân hàng 42A
công ty Bảo hiểm sẽ có lượng tiền tạm thời nhàn rỗi rất lớn có thể tiến hành
hoạt động như một trung gian tài chính.
So với các ngân hàng thương mại thì các trung gian tài chính ngoài
những nghiệp vụ mà nó hoạt động giống như một ngân hàng thương mại,
thì nó có điểm khác biệt ở chỗ, nó không có chức năng tạo tiền cho nền
kinh tế, không nhận tiền gửi không kỳ hạn, không cung cấp dịch vụ thanh
toán và nhìn chung nó ít chịu sự ảnh hưởng hay phải thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước, hay của Chính
phủ. Đó chính là sự khác biệt cơ bản của các tài chính trung gian tài chính
so với các ngân hàng thương mại.
1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng thương mại
Cùng với chiều dài lịch sử hình thành ngân hàng thương mại ngày
nay khác xa so với ngân hàng thương mại thủa sơ khai, do nhu cầu kinh
doanh và sự cạnh tranh quyết liệt mà hệ thống ngân hàng thương mại đã
mở rộng rất nhiều loại hình dịch vụ tiện ích cung cấp cho khách hàng, mặc
dù mộ số nghiệp vụ truyền thống vẫn không thể tách rời so với hoạt động
của ngân hàng, sau đây chúng ta cùng tìm hiểu một số loại hình dịch vụ mà
ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế.
1.1.2.1. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Mua bán trao đổi ngoại tệ
Lịch sử cho thấy một trong những dịch vụ đầu tiên của ngân hàng là
dịch vụ được thực hiện là trao đổi ngoại tệ, theo đó ngân hàng sẽ đứng ra
mua một loại tiền tệ này đổi lấy một loại tiền tệ khác, để hưởng phí dịch vụ
và hưởn chênh lệch giá. Điều này rất quan trọng đối với khách du lịch quốc
tế khi di du lịch tại nước sở tại, đồng thời hiện nay các ngân hàng thương
mại còn thực hiện việc huy động vốn, cho vay bằng ngoại tệ và quan trọng
hơn nữa là việc thanh toán cho lĩnh vực Xuất, nhập khẩu hàng hoá cùng các
hoạt động khác liên quan đến hoạt động thương mại Quốc tế.
Nhận tiền gửi
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang 9 Lớp Ngân hàng 42A
Như phần trên đã trình bày, để có vốn để tiến hành hoạt động kinh
doanh thì các ngân hàng thương mại phải tiến hành huy động từ các thành
phần trong nền kinh tế. Ngân hàng sẽ tiếp nhận tất cả các nguồn tiền gửi
của dân cư, của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội nghề nghiệp với mức lãi suất phù hợp được công bố. Hiện nay khi
khách hàng tới gửi tiền thì Ngân hàng sẻ mở một tài khoản giúp khách
hàng thuận tiện trong giao dịch và kiểm tra.
Cho vay
Cho vay là hoạt động đem lại thu nhập chủ yếu đối với các Nước
đang phát triển (còn ở các Nước phát triển thì thu nhập chủ yếu lại là thu từ
phí hoạt động dịch vụ), hiện nay có một số loại hình cho vay như sau:
- Cho vay Thương mại và chiết khấu thương phiếu
Nghiệp vụ này suất hiện ngay từ thời kỳ đầu thành lập ngân hàng,
các ngân hàng sẽ chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các
doanh nghiệp địa phương, những người bán các khoản nợ (khoản phải thu)
của các khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp
từ chiết khấu sang cho vay trực tiếp đối với khách hàng, giúp họ có vốn để
mua hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và mua sắm trang thiết bị
sản xuất.
- Cho vay tiêu dùng
Trong lịch sử hình thành và phát triển thì hầu hết các ngân hàng
thương mại không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ
tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ song lại
có độ rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó chúng trở nên có mức sinh lời
thấp. Đầu thế kỷ XX, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi
khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi sự cạnh
tranh gay gắt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân
hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành và
tiềm năng. Nhiều ngân hàng thương mại lớn trên thế giới đã thành lập hẳn
phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai cho
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
10
Lớp Ngân hàng 42A
vay tiêu dùng đã trở thành loại hình tín dụng có mức tăng trưởng mạnh
nhất. Mặc dù trong thời gian gần đây tốc độ có chậm lại do cạnh tranh tín
dụng ngày càng lớn trong khi nền kinh tế đã phát triển với tốc độ chậm lại.
Tuy nhiên người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân
hàng và tạo ra một nguồn thu quan trọng.
- Cho vay tài trợ và đồng tài trợ dự án
Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ và
đồng tài trợ cho những chi phí xây dựng nhà máy mới, đặc biệt là trong các
ngành công nghệ cao và các dự án có quy mô vốn lớn, thời gian hoạt động
lâu dài. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao nên chúng
thường được thực hiện qua một hoặc nhiều công ty đầu tư, các thành viên
của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với việc tham gia của các nhà đầu tư
khác để chia sẻ rủi ro. Ngoài ra các ngân hàng còn tiến hành tài trợ cho các
chương trình văn hoá xã hội, các chương trình thể thao, các chương trình
phúc lợi xã hội...
Bảo quản vật có giá
Đây là nghiệp vụ có từ thời trung cổ khi mà ngân hàng đang còn ở
dạng sơ khai, các ngân hàng bảo quản vật có giá của khách hàng trong các
kho của mình. Một điều hấp dẫn là, các loại giấy tờ có giá này như giấy
chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về tài sản đang
được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền- đây chính là hình thức đầu
tiên của loại hình thanh toán Séc và Thẻ sau này. Ngày nay nghiệp vụ bảo
quản vật có giá thường do “phòng bảo quản” của ngân hàng thực hiện.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi các doanh nghiệp gửi tiền và ngân hàng, họ nhận thấy các ngân
hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả thay cho khách
hàng. Thanh toán qua ngân hàng, đã mở đầu cho hình thức thanh toán
không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không phải đến ngân hàng rút
tiền sau đó thực hiện thao tác thanh toán, mà chỉ cần viết lệnh yêu cầu ngân
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
11
Lớp Ngân hàng 42A
hàng thanh toán thay cho mình. Hoặc cũng có thể khách hàng mang giấy
(Séc, Uỷ nhiệm chi- UNC, do khách hàng khác ký phát) đến ngân hàng sẽ
nhận được tiền. Việc cung cấp dịch vụ thanh toán này đã góp phần quan
trọng trong việc tiết kiệm thời gian giao dịch cho cả ngân hàng lẫn khách
hàng, giảm thiểu chi phí, đặc biệt là ngân hàng sẽ mở rộng màng lưới của
mình để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, một cách nhanh chóng và thuận
tiện. Từ đó khuyến khích các doanh nghiệp, các cá nhân gửi tiền vào ngân
hàng và sử dụng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Do đó, một dịch vụ
mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch
(demand deposit), giúp cho người gửi tiền viết Séc, uỷ nhiệm chi (UNC) để
thanh toán cho việc mua hàng hoá, dịch vụ. Việc đưa ra loại hình dịch vụ
này được xem như là một trong những bước đi quan trọng nhất trong ngành
công nghiệp ngân hàng.
Quản lý ngân quỹ
Với chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp và nhiều cá nhân
khác trong nền kinh tế, các ngân hàng sẽ mở các tài khoản và giữ tiền cho
họ. Do đó mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng ngày càng chặt chẽ.
Mặt khác ngân hàng rất có kinh nghiệm trong việc quản lý ngân quỹ cho
nên họ đã cung cấp dịch vụ quản lý và đồng ý quản lý việc thu chi cho
khách hàng nhất là doanh nghiệp và tiến hành sử dụng phần thặng dư tiền
mặt tạm thời theo mục đích của ngân hàng cho đến khi khách hàng có nhu
cầu rút tiền hoặc thanh toán.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Đây là một trong nhiều loại hình nghiệp vụ mà ngân hàng áp dụng,
bởi lẽ hoạt động của ngành ngân hàng liên quan trực tiếp tới bức tranh toàn
cảnh về hoạt động của nền kinh tế. Do đó ngay từ khi thành lập các ngân
hàng đã phải chịu sự quản lý và điều tiết trực tiếp hoặc gián tiếp của Chính
phủ. Thông thương các ngân hàng phải cam kết mua một lượng trái phiếu
Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng nguồn tiền mà nó huy động
được. Các ngân hàng cam kết cho Chính phủ vay tiền, hoặc tiến hành tài
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
12
Lớp Ngân hàng 42A
trợ các dự án, chương trình của Chính phủ trong những trường hợp cần
thiết.
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Nhằm để bán các thiết bị, máy móc nhất là các thiết bị có giá trị lớn,
nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị.
Khi kết thúc hợp đồng thuê, khách hàng có thể tiến hành ra hạn hợp đồng
thuê tiếp, hoặc mua lại (nếu hợp đồng đó là hợp đồng thuê mua). Với tiềm
lực tài chính lớn mạnh của mình các ngân hàng thương mại cũng tiến hành
king doanh quyền lựa chọn thuê thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp
đồng thuê hoặc thuê mua, trong đó ngân hàng tiến hành mua thiết bị máy
móc cho khách hàng thuê, với các cam kết mà các bên thoả thuận, nhưng
thông thường khách hàng phải cam kết trả 2/3 giá trị tài sản thuê. Như vậy,
về thực chất đây là một hình thức cho vay của ngân hàng đối với khách
hàng, nó thường được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Do hoạt động của ngân hàng chủ yếu trên lĩnh vực tài chính tiền tệ,
nên ngân hàng thường tập trung các danh mục đầu tư cũng như đội ngũ
chuyên gia. Khi các cá nhân, các tổ chức, các doanh nghiệp có yêu cầu thì
ngân hàng tiến hành tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập,
chia tách doanh nghiệp, về mua bán chứng khoán. Đồng thời ngân hàng
cũng tiến hành quản lý tài sản hộ khách hàng, và trong nhiều trường hợp
ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ uỷ thác cho khách hàng như uỷ thác
đầu tư, uỷ thác phát hành, uỷ thác cho vay hộ.
Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán
So yêu cầu của sự cạnh tranh trong nền kinh tế, các ngân hàng
thương mại ngày càng quan tâm tói việc cung cấp càng nhiều dịch vụ cho
khách hàng càng tốt. Hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại đều cung
cấp dịch vụ mua bán chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ
phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không nhờ tới các nhà kinh
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
13
Lớp Ngân hàng 42A
doanh chứng khoán. Nhiều ngân hàng hiện nay đã thành lập hẳn ra các ty
chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Trong nhiều năm trở lại đây, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho
khách hàng (chủ yếu là bảo hiểm tiền gửi, hoặc bảo hiểm tín dụng), điều
này đảm bảo khả năng hoàn trả của khách hàng cho ngân hàng khi mà
không may khách hàng gặp rủi ro ảnh hưởng tới tình mạng sức khoẻ, hay
rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Cung cấp dịch vụ đại lí
Do nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan, một số ngân hàng
chưa có điều kiện mở Chi nhánh, hay văn phòng đại diện tại vùng, hoặc
quốc gia khác có quan hệ. Các ngân hàng thương mại lớn tiến hành cung
cấp dịch vụ ngân hàng đại lí cho các ngân hàng khác như, đại lý thanh toán
hộ, đại lý phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối cho
đồng tài trợ dự án...
Ngoài ra một số ngân hàng thương mại còn cung cấp các dịch vụ
khác như, dịch vụ hưu trí, dịch vụ quỹ hỗ trợ và trợ cấp,... Điều này cho
thấy xu hướng hoạt động đa năng của các ngân hàng thương mại ngày càng
đa dạng, nhiều dịch vụ mới được đưa vào hoạt động kinh doanh. Sao cho
có thể thu hút ngày càng nhiều khách hàng tới với ngân hàng càng tốt.
1.1.2.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Đối với ngân hàng thương mại, thì hoạt động huy động vốn luôn
được quan tâm hàng đầu, bởi vì nếu huy động được nhiều vốn thì ngân
hàng mới có khả năng mở rộng được hoạt động, cũng như quy mô của ngân
hàng. Ngày nay, trước sức ép của cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính,
đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có những chính sách thu hút nguồn
tiền ngày một linh hoạt, để từ đó đáp ứng cho hoạt động của ngân hàng.
Các phương thức huy động vốn mà hệ thống ngân hàng thương mại thường
áp dụng là;
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
14
Lớp Ngân hàng 42A
a. Theo đối tượng huy động
Huy động từ dân cư
Trên cơ cở hoạt động của mình ngân hàng thương mại tiến hành huy
động các nguồn tiền nhà rỗi trong dân cư, thông qua các hình thức tiết
kiệm, gửi thanh toán, ủy thác cho ngân hàng đầu tư. Tuy nhiên thì nguồn
tiền gửi trong dân cư bao giờ cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể (nếu không nói
là chủ yếu) của ngân hàng thương mại, Nguồn này vừa có tính ổn định cao,
thời hạn chủ yếu là trung và dài hạn, các khoản chi phí cho giao dịch đối
với nguồn này thường thấp về số tương đối, khách hàng mang tính ổn định
cao, ít biến động, rất thuận lợi cho việc hoạch định chính sách hoạt động
của ngân hàng nói chung và chính sách huy động vốn nói riêng.
- Huy động từ các doanh nghiệp
Các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, thông thường thì các
tổ chức này, không thường xuyên gửi tiền và ngân hàng với mục đích tiết
kiệm mà chủ yếu là dùng vào việc thanh toán. Trên cơ sở nắm bắt được chu
kì sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, chu kì hoạt động của các tổ
chức, mà ngân hàng đề nghị, hoặc khuyến khích doanh nghiệp, các tổ chức
gửi tiết kiệm theo một số quy định cụ thể mà hai bên thoả thuận, cũng như
quy định hiện hành của pháp luật. Một số doanh nghiệp Nhà Nước (doanh
nghiệp quốc doanh) không được phép gửi tiết kiệm thì họ lại gửi dưới hình
thức biến tướng của tiền gửi tiết kiệm là uỷ thác đầu tư.
- Huy động từ các tổ chức tín dụng
Đối với các ngân hàng thương mại khác, chỉ áp trong trường hợp
ngân hàng thương mại tạm thời thiếu hụt trong thanh toán cho khách hàng,
hoặc trong trường hợp ngân hàng thiếu hụt dự trữ theo quy định của Ngân
hàng Nhà Nước hoặc để đáp ứng những tình huống bất khả kháng. Tỷ trọng
của nguồn này thường thấp, tính ổn định không cao và không thường
xuyên. Các ngân hàng thương mại rất hạn chế sử dụng tới nguồn này.
b. Theo mục đích gửi tiền
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
15
Lớp Ngân hàng 42A
Tiền gửi tiết kiệm
Hoạt động này đem lại cho ngân hàng nguồn vốn chủ yếu trong tổng
nguồn vốn hoạt động. Thông qua tình hình thực tế của ngân hàng, các chỉ
số phát triển của nền kinh tế, nhu cầu sử dụng vốn hiện tại và dự báo trong
tương lai, mà các ngân hàng thương mại có chính sách huy động vốn hợp
lí, thường là công cụ lãi suất nhằm gây sự quan tâm của khách hàng, từ đó
thu hút khách hàng tới gửi tiền vào ngân hàng với những mục tiêu khác
nhau, tuỳ thuộc vào nhu cầu của khách gửi tiền và danh mục mà ngân hàng
cung cấp.
Tiền gửi thanh toán
Nguồn tiền này chủ yếu phục vụ nhu cầu thanh toán thường xuyên
hay tiêu dùng hàng ngày của khách hàng của ngân hàng, nó có tính ổn định
không cao, tuy nhiên các ngân hàng thương mại có thể dùng một phần của
nguồn nay để tiến hàng sử dụng theo mục đích của mình trên cơ sở tính
toán hợp lý quy luật biến động của loại tiền gửi này
Tiền gửi Uỷ thác đầu tư
Nhiều khách hàng (cả các cá nhân và tổ chức) của ngân hàng có
lượng tiền lớn trong tay, một là họ không có thời gian để đầu tư, hoặc là họ
thiếu thông tin nhưng cũng không muốn gửi tiết kiệm vì lãi suất thấp. Họ
uỷ thác cho ngân hàng đầu tư theo thoả thuận. Hoặc cũng có những doanh
nghiệp không được phép gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng cho nên họ biến
tường dưới hình thức uỷ thác đầu tư.
Các nguồn vốn vay khác như phát hành trái phiếu, tín phiếu, kỳ
phiếu, các lhoản nhàn rỗi tàm thời chưa sử dụng...
1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm chính sách huy động vốn của ngân hàng thương
mại
1.2.1.1. Khái niệm chính sách huy động vốn
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
16
Lớp Ngân hàng 42A
Ngân hàng thương mại hoạt động và phát triển được chủ yếu nhờ
vào lượng tiền mà nó huy động được từ nền kinh tế. Trong bối cảnh cạnh
tranh quyết liệt trong lĩnh vực tài chính tiền tệ như hiện nay, để có được
nguồn vốn lớn đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có những chính sách
huy động hợp lý, nhằm từ đó thu hút được lượng vốn cần thiết trong nền
kinh tế để phục vụ cho hoạt động của ngân hàng thương mại.
Chính sách huy động vốn của ngân hàng có thể hiểu đó là những
công cụ, cách thức và phương pháp, và chương trình cụ thể nhằm thu hút
sự chú ý của các cá nhân, các tổ chức và từ đó gửi tiền vào ngân hàng. Trên
cơ sở hai bên đều có lợi. Như vậy có thể dễ dàng nhận thấy chính sách huy
động vốn của ngân hàng thương mại cũng là một phần trong chính sách
Marketing mà các ngân hàng đang sử dụng, tuy nhiên thì nó luôn được
quan tâm và chịu sự giám sát chỉ đạo sát sao từ phía lãnh đạo ngân hàng.
1.2.1.2. Các yếu tố cấu thành chính sách huy động vốn
Mỗi ngân hàng đều có chính sách huy động vốn riêng của mình tuỳ
thuộc và nhu cầu và mục đích hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên thì không
phải lúc nào và bao giờ ngân hàng cũng có thể thực hiện được theo đúng
như yêu cầu của mình đã đặt ra, bởi lẽ hoạt động ngân hàng có liên quan
trực tiếp tới hoạt động nền kinh tế, nó là thước đo “sức khoẻ” của nền kinh
tế, mọi sự biến động của tình hình kinh tế xã hội đều ít nhiều tác động đến
hoạt động ngân hàng. Chính vì lý do đó mà có nhiều yếu tố tác động hay
cấu thành nên chính sách huy động vốn của ngân hàng.
- Tình hình thực tế của kinh tế- xã hội
Đây là một yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ tới công tác huy động vốn
của ngân hàng, vì tình kinh tế xã hội có ổn định, sự phát triển có bền vững
thì các thành phần kinh tế mới thực sự yên tâm khi đầu tư hoặc gửi tiền vào
ngân hàng. Chính vì vậy để hoạt động huy động vốn của ngân hàng thực sự
có hiệu quả trong mọi trường hợp thì không thực sự đơn giản với các ngân
hàng thương mại và cũng không phải ngân hàng nào cũng có thể đạt được.
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
17
Lớp Ngân hàng 42A
- Chính sách và quy định của Ngân hàng Nhà Nước
Hệ thống ngân hàng thương mại chịu sự quản lý điều hành trực tiếp
từ Ngân hàng Nhà Nước (một số quốc gia có thể do Bộ tài chính làm thay
công tác của Ngân hàng Nhà Nước). Như vậy các ngân hàng thương mại
đều phải tuân thủ nghiên túc các quy định mà Ngân hàng Nhà Nước đưa ra.
Trên cơ sở thực tế của tình hình kinh tế xã hội, các chính sách vĩ mô của
Chính phủ mà Ngân hàng Nhà Nước sẽ có những điều tiết hoạt động, buộc
các ngân hàng này phải tuân thủ. Trong các chính sách điều tiết đó thì việc
huy động vốn luôn được quan tâm và có sự giám sát chặt chẽ từ Ngân hàng
Nhà Nước và Chính phủ.
- Và cuối cung là chính sách huy động vốn mà ngân hàng thương mại áp
dụng
Đây là nhân tố quan trọng quyết định tới lượng vốn mà ngân hàng
thương mại huy động. Căn cứ vào nhu cầu cụ thể của ngân hàng thương
mại và các chính sách quy định của Ngân hàng Nhà Nước, Chính phủ mà
ngân hàng thương mại sẽ đưa ra phương thức huy động hợp lý, nhằm thu
hút tối đa lượng vốn mà ngân hàng có thể thực hiện.
1.2.2. Nội dung của chính sách huy động vốn
1.2.2.1. Các phương thức huy động vốn
a. Tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại, khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ
đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ tiền, tài sản và thanh toán hộ
khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp,
các tổ chức và dân cư. Cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế và
sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại. Ngày nay hầu hết
các ngân hàng thương mại đang dẩy mạnh huy động vốn thông qua các
chính sách cụ thể, rõ ràng và hiệu quả.
- Đối với tiền gửi thanh toán
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
18
Lớp Ngân hàng 42A
Vớ mục đích giao dịch, trên cơ sở phạm vi số dư có trên tài khoản
tiền gửi của khách hàng, ngân hàng sẽ thực hiện việc chi trả khi khách hàng
có yêu cầu hoặc có sự uỷ quyền. Các khoản thu nhập của khách hàng đều
có thể dễ dàng được ngân hàng nhập vào tài khoản. Hiện nay do yêu cầu
của cạnh tranh, các ngân hàng đều quan tâm tới việc rút ngắn thời gian giao
dịch cho khách hàng cho nên thủ tục mở tại khoản rất đơn giản, gọn nhẹ và
thuận tiện. Để thu hút khách hàng một số ngân hàng còn kết hợp tài khoản
tiền gửi thanh toán với cho vay (hay còn gọi là cho vay thấu chi), một số
ngân hàng sử dụng nhiều hình thức biến tướng của tài khoản tiền gửi thanh
toán để nâng lãi suất loại tiền gửi tương ứng này nhằm cạnh tranh với các
Tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại khác.
- Tiền gửi có kỳ hạn của các Doanh nghiệp, Tổ chức xã hội, Tổ chức xã hội
nghề nghiệp
Nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội sẽ
được chi trả trong một khoảng thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy
rất thuận tiện cho thanh toán song mức lãi suất thường rất thấp. Để đáp ứng
nhu cầu và khuyến khích người gửi tiền, tạo điều kiện khơi tăng nguồn vốn
cho mình, các ngân hàng đưa ra các hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Thông
thường khoản tiền gửi này không thuận tiện trong thanh toán như tiền gửi
thanh toán như ở trên, khi cần tiền khách hàng phải đến ngân hàng để thực
hiện rút tiền ra. Tuy nhiên để thu hút khách hàng gửi tiền vào ngân hàng
thường có mức lãi suất ưu đãi tương ứng với độ dài kỳ hạn gửi mà khách
hàng gửi tiền vào ngân hàng. Đây là một trong những yếu tố thu hút được
nhiều nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp và các tổ chức nói
trên.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư, các tâng lớp dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản tiền tạm thời chưa sử dụng
(các khoản tiền tiết kiệm) trong điều kiện có khả năng tiếp cận được với
ngân hàng, họ sẽ có thể gửi tiền nhằm mục tiêu an toàn và sinh lời đối với
các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn vốn. Nhằm thu hút ngày
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
19
Lớp Ngân hàng 42A
càng nhiều các khoản tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều có gắng khuyến
khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt trong nhà thay vì gửi
vào ngân hàng, bằng cách mở rộng màng lưới các Chi nhánh, các phòng
giao dịch đáp ứng nhu cầu huy động. Đưa ra hình thức huy động đa dạng
và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như mức lãi suất cạnh tranh với các
khoảng tiền gửi thời hạn khác nhau, lãi suất giữa tiết kiệm bằng đồng nội tệ
và tiết kiệm bằng đồng ngoại tệ, tiết kiệm bằng vàng,...). Ngân hàng có thể
mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm khác nhau cho
mỗi kỳ hạn và cho mỗi lần gửi khác nhau. Loại hình tiền gửi này không
nhằm mục đích thanh toán tiền hàng và dịch vụ song nó có thể dùng làm tài
sản thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác
Với mục tiêu là an toàn, thuận tiên và nhanh chóng trong thanh toán
cho khách hàng, các ngân hàng thương mại không chỉ duy trì tiền tại ngân
hàng của mình mà còn tiến hành gửi tiền tại ngân hàng thương mại khác.
Tuy nhiên thì quy mô của nó không lớn, thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong
tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng.
b. Nguồn đi vay
Nguồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, trong những trườn hợp cần thiết các ngân hàng thương mại vẫn
phải tiến hành đi vay thêm. Mặt khác tại nhiều quốc gia trên thế giới, ngân
hàng Trung ương thường quy định tỷ lệ giữa bắt buộc với nguồn tiền huy
động và vốn chủ sở hữu. Do vậy trong những trường hợp cần thiết, và trong
các giai đoạn cụ thể nhiều ngân hàng phải tiến hành vay mượn thêm để đáp
ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. Các nguồn mà ngân
hàng thương mại có thể vay đó là:
- Vay từ Ngân hàng Nhà nước
Đây là khoản vay nhằm giải quyết công việc cấp bách trong chi trả
của các ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
20
Lớp Ngân hàng 42A
trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán) các ngân hàng thương mại thường vay
Ngân hàng Nhà Nước (NHTW). Hình thức vay chủ yếu là tái cấp vốn hoặc
tái chiết khấu thương phiếu. Các thương phiếu được chiết khấu hoặc tái
chiết khấu thì trở thành tài sản của họ (của Ngân hàng Nhà Nước). Khi cần
tiền họ lại mang các thương phiếu này đến Ngân hàng Nhà Nước để chiết
khấu. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của ngân hàng thương mại giảm đi
và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại Ngân hàng Nhà Nước) tăng lên, Ngân
hàng Nhà Nước điều hành vay mượn một cách chặt chẽ; Ngân hàng thương
mại phải đáp ứng các điều kiện đảm bào và kiểm soát nhất định. Thông
thường Ngân hàng Nhà Nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có
chất lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với
mục tiêu của Ngân hàng Nhà Nước trong từng thời kỳ. Trong diều kiện
chưa có thương phiếu, Ngân hàng Nhà Nước cho ngân hàng thương mại
vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng.
- Vay từ các Tổ chức tín dụng và Ngân hàng thương mại khác
Đây là nghiệp vụ ngân hàng thương mại này đi vay ngân hàng
thương mại khác và vay của các TCTD trên thị trường tiền tệ liên ngân
hàng hoặc thị trường vốn. Các ngân hàng thương mại đang có dự trữ vượt
yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản huy động hoặc cho vay
giảm sẽ sẵn sàng cho ngân hàng thương mại khác vay để hưởng lãi suất cao
hơn. Ngược lại các ngân hàng thương mại đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu
vay mượn từ các ngân hàng khác để đảm bảo khả năng thanh khoản như,
đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách, và trong nhiều trường hợp nó
bổ sung hoặc thay thế nguồn từ Ngân hàng Nhà Nước (NHTW). Quá trình
vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân
hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý (hoặc Ngân hàng Nhà
Nước). Khoản vay có thể không cần đảm bảo bằng các chứng khoán của
Kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và ngân hàng đi
vay tăng lên.
Vay trên thị trường vốn
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
21
Lớp Ngân hàng 42A
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng thương mại cũng
đi vay bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiều, tín phiếu, trái phiếu) trên
thị trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung
và dài hạn dẫn đến không có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài
hạn. Do vậy các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn
tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông
thường đây là khoản vay không có bảo đảm. Những ngân hàng có uy tín
hoặc trả lãi cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường
khó vay mượn trực tiếp bằng cách này, họ thường phải thông quan ngân
hàng đại lý hoặc thông qua sự bảo lãnh của ngân hàng thương mại lớn. Khả
năng vay mượn còn phụ thuộc vào tình hình phát triển của thị trường tài
chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng.
Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị
trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn
thích hợp. Các vấn đề về chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ...
cũng được các ngân hàng quan tâm.
c. Các nguồn khác
Nguồn uỷ thác
Đây là nghiệp vụ mà thông qua đó ngân hàng thương mại cung cấp
dịch vụ uỷ thác như cho vay, đầu tư, uỷ thác cấp phát, giải ngân, thu ngân
hộ... Các hoạt động này tạo nên nguồn vốn uỷ thác tại ngân hàng. Ngày
nay, cùng với sự phát triển của các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ
chức kinh tế, xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của các ngân hàng, có
nguồn tài chính, đã sử dụng màng lưới ngân hàng như là kênh dẫn vốn tới
các mục tiêu. Và kết quả là hình thành nguồn uỷ thác, làm tăng nguồn vốn
của ngân hàng.
Nguồn trong thanh toán
Các khoản thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn
thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ đsể mở L/C,...). Những
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
22
Lớp Ngân hàng 42A
ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư tiền từ của
các ngân hàng thành viên để chuyển về thực hiện cho vay.
- Nguồn khác, các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả,
Tiền khấu hao tài sản nhưng chưa dùng,...
1.2.2.2. Nội dung chính sách huy động vốn
Chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại là một trong
những yếu tố quyết định tới sự thành công của công tác huy động vốn. Bởi
tại mỗi thời kỳ, thậm chí tại các thời điểm khác nhau nhu cầu vốn của ngân
hàng cũng có những thay đổi khác nhau. Do đó mà chính sách huy động
vốn cũng thường xuyên có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình của
ngân hàng thương mại. Có rất nhiều nhân tố cấu thành chính sách huy động
vốn, tuy nhiên ở đây ta chỉ xem xét một số nội dung của chính sách huy
động vốn:
- Chính sách thu hút khách hàng
Bất kỳ một ngân hàng nào cũng rất quan tâm tới chính sách này, nó
bao gồm toàn bộ những nội dung liên quan tới hoạt động, kinh doanh của
ngân hàng. Sự thành công hay thất bại của một ngân hàng được quyết định
bởi khả năng thu hút khách hàng. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu
phạm vi chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại mà thôi. Như
đã trình bày, chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại ở mỗi
thời điểm có nhữ thay đổi khác nhau, nó phụ thuộc trực tiếp vào bối cảnh
kinh tế xã hội, nguồn vốn và nhu cầu thực tế của ngân hàng như thời điểm
đầu năm, giữa năm, cuối năm, hay tính chất mùa vụ của ngành nghề của
khác hàng của ngân hàng. Tương ứng với các thời kỳ này thì của các ngân
hàng thương mại cũng có những nhu cầu vốn khác nhau.
Trường hợp ngân hàng đang có nhu cầu sử dụng vồn lớn, bên cạnh
các chính sách khác, ngân hàng thương mại sẽ tập trung một số biện pháp
cần thiết, nhằm huy động được càng nhiều vốn càng tốt, thông qua hình
thức gửi tiết kiệm, đầu tư hoặc uỷ thác cho ngân hàng đầu tư. Hoặc cũng có
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
23
Lớp Ngân hàng 42A
thời kỳ, nhu cầu về vốn của ngân hàng giảm, trong khi khách hàng vẫn tiếp
tục gửi tiền vào ngân hàng. Vì ngân hàng không được phép từ chối nhận
tiền của khách hàng, khi khách hàng gửi vào ngân hàng, do đó mà ngân
hàng có thể dùng công cụ lại xuất (giảm lãi suất đầu vào) để từ đó làm nản
lòng khách hàng, và làm giảm lượng tiền gửi của khách hàng. Tuy nhiên thì
không phải lúc nào ngân hàng cũng áp dụng mức lãi suất như trong trường
hợp thứ hai, vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của khách hàng truyền
thống và chiến lược cạnh trạnh của ngân hàng do đó mà nó hiếm khi được
áp dụng. Các chính sách mà ngân hàng thương mại áp dụng để phục vụ cho
công tác huy động vốn nó bao gồm các chính sách như Marketing, Lãi suất,
danh mục dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, cùng các chính sách khác liên
quan đến mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
- Chính sách về lãi suất
Lãi suất được hiểu là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong
một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Như
vậy lãi suất liên quan trực tiếp tới các nguồn tiền mà ngân hàng huy động.
Trong lịch sử phát triển của ngành ngân hàng thì, công cụ lãi suất
luôn được coi là một yếu tố góp phần tạo lập nguồn vốn cho ngân hàng
thông qua huy động từ nền kinh tế. Đã có những thời kỳ có ngân hàng
thương mại để thu hút đươc vốn đầu tư những lĩnh vực có lợi nhuận cao mà
đã đưa ra mức lãi suất kỷ lục lên đến 114%/năm. Mặc dù tại mỗi thời kỳ
khác nhau thì mức lãi suất của ngân hàng đưa ra là khác nhau nhưng vẫn
phải đảm bảo yếu tố hấp dẫn với khách hàng, vừa giữ chân khách hàng
truyền thống đồng thời vừa tìm kiếm thêm khách hàng mới. Ngày nay, do
yêu cầu của cạnh tranh, và quy định của luật pháp, cũng như sự ra đời của
các liêm minh hiệp hội ngân hàng, thì công cụ lãi suất không còn là công
cụ hữu hiệu của các ngân hàng nữa mà thay vào đó là chất lượng công tác
phục vụ khách hàng, chất lượng dịch vụ ngân hàng cung cấp...
- Chính sách mở rộng màng lưới Chi nhánh
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
24
Lớp Ngân hàng 42A
Bên cạnh 2 chính sách trên và các yếu tố khác thì chính sách mở
rộng màng lưới Chi nhánh, các Phòng giao dịch của ngân hàng cũng là điều
kiện không thể thiếu trong chính sách huy động vốn mà ngân hàng áp dụng.
Mở rộng màng lưới không chỉ giúp ngân hàng nâng cao khả năng huy động
vốn, mà còn đáp ứng nhiều mục tiêu mà ngân hàng đề ra. Mặc dù ngày nay,
các dịch vụ tiện ích của ngân hàng đã được nhiều ngân hàng áp dụng,
nhưng dù sao đi chăng nữa thì không thể coi trọng mở rộng màng lưới của
ngân hàng. Điều đó tạo trong xã hội niềm tin và cảm giác an toàn khi đến
với ngân hàng. Bên cạnh công tác mở rộng màng lưới, thì các nhà hoạch
định chiến lược cũng không thể bỏ qua yếu tố vị trí địa lý, phục vụ công tác
đặt Chi nhánh, phòng giao dịch cho ngân hàng của mình. Một Chi nhánh ở
tại vị trí đông dân cư, khu đô thị, khu công nghiệp sẽ là một môi trường lý
tưởng cho mọi hoạt động của ngân hàng và nhất là công tác huy động vốn
của ngân hàng. Ngược lại tại những vùng mà khả năng phát triển kinh tế,
xã hội còn hạn chế, thì không phải ngân hàng sẽ bỏ qua, mà nhiều lúc ngân
hàng phải chấp nhận hoạt động kinh doanh thua lỗ để từ đó dần tạo mối
quan hệ, dần mở rộng thị trường.
Song song với việc mở rộng màng lưới, các phòng giao dịch, NHTM
cầm phải quan tâm tới đặc điểm kinh tế xã hội tại khu vự đó, để trên cơ sở
đó có sự thay đổi trong hoạt động sao cho phù hợp với thực tế như, thay đổi
giờ giao dịch đối với những vùng mà hoạt động kinh tế có thời gian kết
thúc muộn so với giờ hành chính, hay sáng sớm tinh mơ, chiều tối, hoặc
cũng có thể làm việc cả ngày nghỉ, ngày lễ tết... Nếu làm tốt được điều này
các ngân hàng thương mại không chỉ làm tốt công tác huy động vốn mà còn
đáp ứng những nhu cầu, mục tiêu khác mà ngân hàng đưa ra.
- Chính sách về mở rộng quan hệ với các TCTD, các NHTM, các cá nhân, các tổ
chức xã hội
Mối quan hệ với các tổ chức này giúp cho các ngân hàng thương mại
trong việc hoạch định chiến lược hợp lý. Điều đặc biệt là với các tổ chức,
các cá nhân, các doanh nghiệp, có mối quan hệ trực tiếp sẽ giúp các ngân
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
25
Lớp Ngân hàng 42A
hàng thương mại trong việc dự báo các luồng tiền sẽ thay đổi. Quan trọng
hơn là, trên cơ sở mối quan hệ mật thiết trên mà ngân hàng sẽ có những ưu
tiên hợp lý khuyến khích với từng thành phần khách hàng.
- Chính sách Marketing
Marketing được hiểu, đó là hệ thống các chiến lược, biện pháp
chương trình, kế hoạch hoạt động, nhằm tác động vào toàn bộ quá trình tổ
chức cung ứng dịch vụ của ngân hàng nhằm sử dụng một cách tốt nhất
trong việc làm thoả mãn khàch hàng mục tiêu. Về mặt lý thuyết, hoạt động
marketing bao hàm gần như tất cả các nội dung liên quan tới hoạt động của
ngân hàng thương mại, trong đó có hoạt động của chính sách huy động
vốn. Thông qua việc tìm hiểu, xem xét đánh giá các yếu tố của môi trường
kinh tế vi mô, cũng như yếu tố vĩ mô. Các nhà hoạch định marketing sẽ đưa
ra chương trình, nội dung hoạt động sao cho phù hợp. Chính sách
marketing gồm sự tác động của nhiều nhân tố như; Phương pháp địng giá
(xác định lãi suất), chính sách sản phẩm (cung ứng những dịch vụ mà ngân
hàng có khả năng), chính sách phân phối, chính sách khuyếch trương- giao
tiếp,...
- Chính sách hỗ trợ tư vấn khách hàng
Đây là hoạt động, mà thông qua đó ngân hàng sẽ hỗ trợ và tư vấn
cho khách hàng về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực tài chính- tiền tệ-
ngân hàng và quan trọng hơn là giúp khách hàng có được danh mục đầu tư,
lựa chọn các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Thông qua nghiệp
vụ này ngân hàng sẽ giúp khách hàng hiểu rõ tác dụng của việc không sử
dụng tiên mặt trong lưu thông và tác dụng của việc gửi tiền, tài sản vào
ngân hàng hơn là cất trữ trong nhà.
-Chính sách chăm sóc khách hàng
Hoạt động của chính sách này góp phần giúp ngân hàng củng cố
được mối quan hệ với khách hàng, đồng thời thông qua đó có thể mở rộng
được phạm vi hoạt động. Bởi con người, ai cũng vậy rất muốn được đề cao
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
26
Lớp Ngân hàng 42A
mình và muốn dược người khác quan tâm. Vì vậy chính sách này giúp cho
ngân hàng củng cố thêm mối quan hệ qua lại giữa ngân hàng và khách
hàng. Một ngân hàng muốn thành công thì cần phải biết, kết hợp tổng thể
mọi chính sách, và quan trọng hơn cả chính là quan tâm và chăm sóc khách
hàng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách huy động vốn của ngân
hàng Thương Mại
Huy động huy động vốn là một trong những nội dung hoạt động
quan trọng của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên thì hoạt động này không
phải là hoạt động độc lập, mà có mối quan hệ biện chứng với các hoạt động
khác của ngân hàng thương mại. Hơn nữa với chức năng là một trung gian
tài chính, vừa là nơi tập trung vốn, vừa là nơi phân phối lại tín dụng, do đó
mà hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại chịu sự ảnh hưởng
cuỉa rất nhiều nhân tố khác nhau, cả nhân tố chủ quan lẫn nhân tố khách
quan, các nhân tố này trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới hoạt động của
ngân hàng thương mại.
1.3.1. Nhân tố khách quan
Đây là nhân tố không nằm trong sự kiểm soát của ngân hàng thương
mại, song nó lại có tác động lớn tới hoạt động và kết quả kinh doanh của
ngân hàng thương mại nói chung cũng như công tác huy động vốn nói
riêng. Và như vậy, sẽ ảnh hưởng tới chính sách huy động vốn mà ngân
hàng đang thực hiện.
1.3.1.1. Tình hình kinh tế xã hội
Nền kinh tế có ổn định, phát triển bền vững, thu nhập bình quân đầu
người có cao, trình độ học vấn của dân cư có cao, xã hội ổn định thì sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động và phát triển của ngân hàng thương mại.
Bởi khi đó tiết kiệm trong xã hội sẽ cao, khả năng tin tưởng vào hoạt động
của ngành ngân hàng sẽ ngày càng được nâng lên. Một hệ qủa tất yều là
làm cho các thành phần kinh tế sẽ gửi tiền vào ngân hàng theo từng mục
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
27
Lớp Ngân hàng 42A
tiêu cụ thể. Và ngược lại nếu trong vùng kinh tế đó có tình hình xã hội bất
ổn định, tốc độ phát triển của kinh tế còn hạn chế... Điều này làm cho tiết
kiệm trong xã hội đạt mức thấp, thêm vào đó là tâm lý ưa dùng tiền mặt,
chưa có thái độ quan tâm thực sự tới các loại hình dịch vụ mà ngân hàng
cung cấp, và do đó việc thực hiện chính sách huy động vốn của ngân hàng
thương mại gặp nhiều khó khăn.
Ngoài ra, chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại còn
chịu những tác của các nhân tố như tỷ lệ lạm phát của đồng tiền. Sự suy
thoái của nền kinh tế, thậm trí là cả sự phát triển “bong bóng” quá nóng của
nền kinh tế. Các nhân tố này ít nhiều đều có ảnh hưởng tới hoạt động của
ngân hàng thương mại, có nhân tố ảnh hưởng rất mạnh, ảnh hưởng tới sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng.
1.3.1.2. Hành lang Pháp lý và Chính sách vĩ mô của Nhà Nước
Tại mỗi một quốc gia trên thế giới, mọi hoạt động của ngân hàng
thương mại trong đó có hoạt động huy động vốn đều phải chịu sự điều tiết
của các chế tài của luật pháp, và sự điều hành giám sát và quản lý từ phía
Ngân hàng Nhà Nước, để phục vụ những mục đích mà Chính phủ ban hành
hay Ngân hàng Nhà Nước đề ra. Các ngân hàng thương mại trong trường
hợp cần thiết phải tiến hành mua trái phiếu Chính phủ do Chính phủ (mà
đại diện lad Kho Bạc Nhà Nước) phát hành, theo những quy định cụ thể
của Ngân hàng Nhà Nước. Với mục tiêu an toàn và an ninh tiền tệ của mỗi
quốc gia mà Ngân hàng Nhà Nước có quy định mức vốn tối đa được phép
huy động theo một tỷ lệ nhất định nào đó so với vốn chủ sở hữu của ngân
hàng thương mại. Ngoài ra hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại
còn chịu sự tác động nhiều cơ quan, nhiều chế tài pháp luật khác, tuỳ theo
mức độ của mối quan hệ trong hoạt động kinh doanh.
1.3.1.3. Môi trường cạnh tranh
Hoạt động của ngân hàng thương mại không chỉ đơn thuần trong
cạnh tranh như thủa mới ra đời. Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
28
Lớp Ngân hàng 42A
ngân hàng thương mại, mà ngày nay nó còn bao gồm các Tổ chức tín dụng,
công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, và các loại hình dịch vụ mà
các tổ chức khác cung cấp. Như Bảo hiểm, tiết kiệm Bưu điện, ... Các yếu
tố này phần nào làm ảnh hưởng tới chính sách huy động vốn của ngân
hàng. Nó đòi hỏi các ngân hàng phải có những điều chỉnh sao cho phù hợp
với từng thời kỳ, vừa để giữ khách hàng truyền thống, vừa có thể tìm kiếm
thêm khách hàng mới.
1.3.1.4. Thói quen tiêu dùng của xã hội
Đây là một nhân tố có ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động huy động
vốn của ngân hàng. ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển khi mà văn
minh tiền tệ phát triển thì lượng tiền mặt trong lưu thông trong nền kinh tế
rất nhỏ, người dân chủ yếu dùng các dịch vụ tiện ích mà ngân hàng cung
cấp. Còn ở các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển thì lượng tiền mặt
lưu thông trong nền kinh tế lại chiếm tỷ trọng khá cao, người dân nơi này ít
dùng các phương tiện thanh toán, dịch vụ tiện ích mà ngân hàng cung cấp,
vì vậy đã làm ảnh hưởng, và gây khó khăn trong việc thực hiện chính sách
huy động vốn của ngân hàng.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
Là nhân tố nội tại bên trong ngân hàng, thuộc khả năng kiểm soát
của ngân hàng, so với các nhân tố khách quan, nhân tố chủ quan ảnh hưởng
tới tất cả mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong các hoạt động đó
có hoạt động huy động vốn và chính sách huy động vốn của ngân hàng.
Mặt khác, các nhân tố này mang tính phù hợp với tình hình thực tế hoạt
động của ngân hàng, nhất là chính sách huy động vốn hơn nhân tố khách
quan các yếu tố cấu thành bao gồm;
1.3.2.1. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Chiến lược kinh doanh của ngân hàng thường phụ thuộc vào tình
hình thực tế và những mục tiêu của ngân hàng, mà ngân hàng có những
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
29
Lớp Ngân hàng 42A
chiến lược kinh doanh khác nhau. Khi chiến lược thay đổi nó sẽ có tác
động ngay tới chính sách huy động vốn của ngân hàng và như vậy, nó sẽ
ảnh hưởng tới quy mô vốn của ngân hàng.
1.3.2.2. Nội dung chính sách huy động vốn mà ngân hàng áp dụng
Như đã phân tích nội dung của chính sách huy động vốn thường
xuyên được thay đổi theo mục tiêu mà ngân hàng theo đuổi, cũng như
chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Khi có nhu cầu về vốn lớn ngân
hàng thương mại có thể đưa ra nhiều biện pháp, công cụ, cách thức khác
nhau nhằm thu hút nhiều nguồn tiền từ nền kinh tế gửi vào ngân hàng để từ
dó phục vụ cho nhu cầu về vốn của ngân hàng. Và cũng khẳng định rằng
chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại không bao giờ được
giữ nguyên mà nó thương xuyên thay đổi, nhưng cũng chỉ nhằm mục đích
mà ngân hàng thương mại đã đề ra và tạo tiền đề cho những thời kỳ hoạt
động tiếp sau.
1.3.2.3. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Năng lực cạnh tranh nó có thể là vô hình hay hưu hình, song nó
chính là bộ mặt của ngân hàng. Năng lực cạnh tranh, có vai trò quan trọng
trong hoạt động của chính sách huy động vốn và đồng thời nó còn là uy
tín, sức mạnh trong công cạnh tranh, là lòng tin trong dân chúng, ...
Ngày nay trước xu thế của cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt thì
đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải tự mình khẳng định mình trong môi
trường cạnh tranh, từ đó vươn lên trong hoạt động kinh doanh.
Chương 2. Thực trạng chính sách huy động vốn của
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Chi nhánh Láng Hạ
2.1. Khái quát về Chi nhánh NHNo& PTNT Láng Hạ
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
30
Lớp Ngân hàng 42A
2.1.1. Lịch sử hình thành
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, được
thành lập theo nghị định số 53-HĐBT ngày 226/3/1986 của Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) với tên gọi đầu tiên là ngân
hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam và qua hai lần đổi tên; lần thư nhất
mang tên: Ngân hàng Nông nhiệp Việt Nam; lần thứ hai theo quyết định số
280/QĐ- NHNN đổi tên Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành NHNo&
PTNT (NHNo& PTNT VN) (Tên giao dịch quốc tế là Vietnam Bank for
Agriculture and Rural Development; Viết tắt: VBA & RD); hoạt động theo
mô hình Tổng công ty 90.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ
(Chi nhánh Láng Hạ- CNLH) được thành lập theo quyết định số 334/QĐ-
NHNo- 02 của Tổng giám đốc NHNo& PTNT Việt Nam, về việc thành lập
Chi nhánh Láng Hạ. Là Chi nhánh cấp 1, trực thuộc sự quản lý trực tiếp từ
NHNo& PTNT, ngày 17/03/1997 Chi nhánh chính thức đi vào hoạt động,
với mục đích mở rộng hoạt động của hệ thống NHNo& PTNT Việt Nam
(NHNo Việt Nam) trong cả nước cũng như tìm kiếm cơ hội vươn ra thị
trường bên ngoài.
Chi nhánh Láng Hạ, là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ, với đầy đủ tư cách pháp nhân, có con dấu, có bảng cân đối kế toán,
bảng cân đối tài sản riêng. Hiện tại trụ sở chính của CNLH là ở số 24 Láng
Hạ, Quận Đống Đa- Thành phố Hà Nội.
Sau hơn 6 năm thành lập và đi vào hoạt động kinh doanh, CNLH đã
có những bước phát triển đáng kể, trên mọi bình diện, đáp ứng mục tiêu
của NHNo Việt Nam, cũng như Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam trong việc
mở rộng hoạt động, phát triển cả về chất lượng và quy mô cũng như các
hoạt động khác của của toàn Chi nhánh.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
31
Lớp Ngân hàng 42A
Cơ cấu tổ chức của CNLH bao gồm Ban Giám đốc với một Giám
đốc, 01 Phó Giám đốc thường trực, 01 Phó Giám đốc phụ trách kinh doanh,
và 8 phòng chức năng. Cơ cấu tổ chức và điều hành của Chi nhánh được
thể hiện trong sơ đồ sau.
Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Láng Hạ
Các phòng chức năng của Chi nhánh bao gồm; Phòng Kế toán- Ngân
quỹ (bao gồmTổ điện toán); Phòng Hành chính- Quản trị, hai phòng này do
Phó giám đốc Thường trực trực tiếp quản lý, điều hành; các phòng: Phòng
Thanh toán Quốc tế; Phòng Kế hoạch- Nguồn Vốn; Phòng Tín dụng, do
Phó giám đốc phụ trách kinh doanh trực tiếp điều hành và quản lý; Các
phòng còn lại do Giám đốc quản lý và chỉ đạo hoạt động là: Phòng Tổ chức
Cán bộ và Đào tạo; Phòng Kiểm soát và Phòng Thẩm định; CNLHcó một
Chi nhánh cấp 2 trực thuộc đó là Chi nhánh Bách Khoa, và một phòng giao
dịch trực thuộc Chi nhánh Bách Khoa đó là phòng giao dịch Lò Đúc.
Về cơ cấu tổ chức cán bộ của Chi nhánh là, tính đến hết ngày
31/12/2003 Chi nhánh có 183 Cán bộ Viên chức (CBCNV) trong đó Ban
Giám đốc có 03 người; Phòng Kế toán- Ngân quỹ (gồm Tổ điện toán) 50
người; Phòng Hành chính Quản trị 13 người; Phòng Thanh toán Quốc tế 15
người; Phòng Tín dụng 25 người; Phòng Tổ chức Cán bộ và Đào tạo 05
Phòng
Tín
dụng
Phòng
K.hoạch
Nguồn
Vốn
Phòng
Thanh
Toán
Quốc Tế
phòng
TCCB
& ĐT
phòng
Thẩm
định
CN
Bách
khoa
Các
phòng
giao
dịch
Phó
Giám
đốc KD
Phòng
Kiểm
soát
Phó
Giám
đốc
Các
phòng
giao dịch
Phòng
H. Chính
Quản trị
Phòng
kế toán
Giám đốc
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
32
Lớp Ngân hàng 42A
người; Phòng Kế hoạch- Nguồn Vốn 05 người; Phòng Thẩm định 03
người;
05 Phòng giao dịch: Số 02 Ngõ Trạm 09 người; Số 03, 36 Doãn Kế
Thiện 06 người; Trung Kính (Trung Hoà Cầu Giấy) 06 người; 06 Hàng Mã
06 người; 07 Đào Tấn 06 người; Chi nhánh Bách Khoa 28 người (trong đó
07 người của Phòng giao dịch phố Lò Đúc).
Bảng 1: Trình độ chuyên môn của CBCNV trong Chi nhánh
Trình độ Số CBCNV (người) Tỷ lệ (%)
Trên Đại học 03 1,60%
Đại học, Cao đẳng 139 75,90%
Trung, Sơ cấp 18 9,80%
Chưa qua đào tạo khác 23 12,50%
Tổng Số 183 100,00%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động Kinh năm 2003)
Trong tổng số CBCNV của Chi nhánh có tới 22,30% mới chỉ qua
đào tạo trung sơ cấp và chưa qua đào tạo khác, nguyên nhân này là do Chi
nhánh đã tiếp nhận số CBCNV từ Công ty In ngân hàng 31 người (năm
2001) và từ Công ty Vàng Bạc Đá quý Việt Nam 30 người (năm 2003) hầu
hết mới chỉ sơ qua đào tạo; Tuy nhiên gần 80% CBCNV của Chi nhánh có
trình độ Cao đẳng, Đai học và trên Đại học, do đó đây là nguồn tiềm lực rồi
rào về nhân sự của Chi nhánh trong tương lai.
2.1.3. Nghiệp vụ kinh doanh của Chi nhánh Láng Hạ
Trao đổi và mua bán ngoại tệ, Một trong những nghiệp vụ ngân hàng đầu
tiên là trao đổi ngoại tệ. Ngân hàng đứng ra mua bán hoặc trao đổi một loại
đồng tiền này lấy một loại đồng tiền khác để hưởng chênh lệch giá hoặc thu
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
33
Lớp Ngân hàng 42A
phí dịch vụ, thực hiện thanh toán hoặc làm ngân hàng đại lý phục vụ cho
hoạt động Xuất- nhập khẩu, và như trao đổi thương mại.
Nhận tiền gửi, một trong những nguồn quan trọng hình thành nên
nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh là các khoản tiền gửi. Chi nhánh mở
dịch vụ nhận tiền gửi của người có tiền mang tới gửi với cam kết hoàn trả
đúng hạn. Khách hàng sẽ nhận được một khoản tiền lãi trên khoản tiền gửi
của mình tuỳ thuộc vào hình thức và thời hạn của các khoản tiền gửi và
mức lãi suất công bố, hoặc thoả thuận giữa ngân hàng với khách hàng.
Cho vay, bằng những khoản tiền huy động được ngân hàng sẽ cho các
tổ chức kinh tế và cá nhân vay với lãi suất cao hơn lãi suất huy động. Ngân
hàng sẽ nhận được phần chênh lệch để bù đắp những chi phí cho hoạt động
và một phần lợi nhuận. Đây là nghiệp vụ mang lại nguồn thu chủ yếu cho
ngân hàng;
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, ngân hàng mở tài
khoản cho khách hàng bằng nhiều hình thức. Khách hàng sẽ nhận được séc
và khi thanh toán khách hàng không cần dùng tiền mặt trực tiếp, việc thanh
toán sẽ được ngân hàng thực hiện, hay cũng có thể ngân hàng sẽ thực hiện
yêu cầu của khách hàng để thanh toán, chuyển tiền thông qua hệ thống
mạng điện tử liên ngân hàng. Ngày nay, do sự phát triển của khoa học công
nghệ, nên hệ thống ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng dịch
vụ rút tiền tự động thông qua hệ thống máy rút tiền tự động (ATM-
Automatic Teller Machine) On_line 24/24 giờ giúp khách hàng giao dịch thuận
tiện với ngân hàng.
Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế, ngân hàng thực hiện chuyển tiền,
nhờ thu, mở và thanh toán L/C phục vụ khách hàng trong và ngoài nước,
dịch vụ ngân hàng đại lý;
Bảo quản vật có giá, ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật
có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản của ngân hàng và thu phí;
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
34
Lớp Ngân hàng 42A
Bảo lãnh, ngân hàng có thể đứng ra bảo lãnh cho khách hàng về khả
năng thanh toán đối với đối tác của họ nhất là đối tác nước ngoài;
Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ;
Cung cấp các dịch vụ và môi giới chứng khoán;
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm;
Cung cấp các dịch vụ ngân hàng đại lý, cho các ngân hàng thương mại
khác trong cả nước, hoặc đại lý cho ngân hàng thương mại nước ngoài tại
Việt Nam khi mà nó chưa có Chi nhánh hay văn phòng đại diện tại Việt
Nam,;
Thực hiện các chương trình, các dự án của NHNo& PTNT Việt
Nam, Như Dự án nâng cấp tổng đài điện thoại của Bộ Bưu chính viễn
thông Việt Nam, Cùng một số dự án khác mà có chỉ định hoặc mời tham
gia.
2.1.4. Một số kết quả kinh doanh chủ yếu trong vài năm trở lại đây
2.1.4.1. Giai đoạn 1997- 2000
Trong 4 năm đầu hoạt động mặc dù gặp không ít khó khăn trong việc
tiếp cận, chiếm lĩnh thị phần thị trường Thành thị và tìm kiếm, thu hút
khách hàng nhưng Chi nhánh cũng đã đạt được những kết quả rất khả quan.
Kết qủa năm sau cao hơn hẳn so với năm trước, thậm trí còn cao gấp nhiều
lần.
Bảng 02: Kết quả hoạt động kinh doanh qua các năm
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
35
Lớp Ngân hàng 42A
Năm Chỉ tiêu 31/12/1997 31/12/1998 31/12/1999 31/12/2000
Tổng nguồn vốn (tỷ đồng) 202 685 1.131 2.043
Dư nợ (tỷ đồng) 51 81 154 661
Kế toán- Ngân quỹ (ngàn tỷ) 5 27 28 53
Thanh toán Quốc tế (triệu USD) 2,5 83 96 125
Mua bán Ngoại tệ (triệu USD) 2,0 42 64 164
Nguồn: Lịch sử Chi nhánh NHNo& PTNT Láng Hạ 3/1997-3/2003
Về tổng nguồn vốn, qua bảng trên chúng ta thấy năm 1997 dù chỉ có 7
tháng hoạt động mà Chi nhánh đã có kết quả huy động vốn khá khả quan,
đạt 202 tỷ đồng, sang năm 1999 đạt 685 tỷ đồng gấp hơn 3 lần năm 1997,
con số này gần như tăng gần gấp đôi qua các năm 1999, 2000, là 1.131 tỷ
đồng và 2.043 tỷ đồng.
Về tổng dư nợ, của Chi nhánh chiếm tỷ trọng cao so với tổng nguồn
vốn hoạt động tại thời điểm 31/12 hàng năm, Con số dư nợ đạt 51 tỷ đồng
năm 1997 chiếm 25,25% tổng nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh, lên 81
tỷ đồng năm 1998 chiếm 11,82% tổng nguồn vốn, tăng58,82% so với cùng
kì năm 2001; con số này là 154 tỷ đồng và 661 tỷ đồng, chiếm 13,62%;
32,35% tổng nguồn vốn hoạt động trong 2 năm 1999 và 2000, mức tăng
trưởng so với năm trước là 90,12% và 329,22% ; năm 2001 con số này
sang là 1.030 tỷ đồng, tăng 55,82% so với năm 2000 và chiếm tỷ trọng
39,02% trong tổng nguồn vốn hoạt động. Mặc dù trong 2 năm 1999, 2000
tỷ lệ dư nợ của năm 2000 có cao hơn so với năm 1999, điều này cho thấy
lượng vốn đầu tư cho trung và dài hạn của Chi nhánh ngày càng tăng, Chi
nhánh đã chú trọng đầu tư vào các dự án có thời gian thu hồi vốn dài, tạo
được năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Đặc biệt trong tổng dư nợ của Chi
nhánh không có nợ quá hạn, nợ xấu.
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
36
Lớp Ngân hàng 42A
Về công tác Kế toán- Ngân quỹ, tổng doanh số thanh toán qua các năm,
từ 5 ngàn tỷ năm 1997, lên 27 ngàn tỷ năm 1998 (gấp 5,4 lần năm trước),
năm 1998 con số này là 28 ngàn tỷ, năm 2000 là 53 ngàn tỷ. Đặc biệt, hiện
nay CNLH là đầu mối thanh toán cho 30 tỉnh thành trong cả nước, riêng
doanh số thanh toán bù trừ đã đạt hàng trăm tỷ một ngày, thậm trí có ngày
lên tới hàng nghìn tỷ đồng.
Về công tác Thanh toán Quốc tế, mặc dù có nhiều khó khăn khi mới đi
vào hoạt động nhưng Chi nhánh cũng đã có những kết quả đáng mừng qua
các năm hoạt động và phát triển sau này. Riêng năm 1997 với con số khiêm
tốn 2,5 triệu USD (các ngoại tệ quy về giá trị đồng USD); sang năm 1998
con số này tăng lên gấp 33,5 lần với tổng số là 83 triệu USD; năm 1999 là
96 triệu USD; năm 2000 là 125 triệu USD, tăng 30,21% so với năm 1999,
và 50,60% so với năm 1998.
Doanh số mua bán ngoại tệ, qua các năm cũng là kết quả đáng tự hào;
năm 1997 chỉ đạt 2,0 triệu USD, sang năm sau 1998 con số này tăng lên
gấp 21 lần tương đương 42 triệu USD; năm 1999 tuy tốc độ tăng không cao
như năm 1998 nhưng cũng đạt 64 triệu USD, năm 2000 đạt 146 triệu USD
(gấp 2,8 lần năm 1999).
Với những kết quả như trên cho chúng ta thấy khả năng mở rộng
quy mô hoạt động và nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh đạt hiệu
quả ngày một cao, đây sẽ là tiền đề vững chắc cho Chi nhánh thực hiện
những bước đi mang tính chiến lược trong các năm đầu của thế kỷ XXI.
2.1.4.2. Giai đoạn 2001- 2003
Với kết quả đã đạt được trong gần 4 năm thành lập và đi vào hoạt
động vừa qua, đã tạo ra cho CNLH một chỗ đứng vững chắc trong lòng
Thủ đô Hà Nội. Với màng lưới các phòng giao dịch, Chi nhánh trực thuộc.
Đội ngũ cán bộ viên chức nhiệt tình, năng động, sáng tạo trong công tác.
Chi nhánh đã đặt quan hệ rộng lớn với các doanh nghiệp trong và ngoài
quốc doanh, tại Thủ đô Hà nội và các địa phương khác trong cả nước,... Tất
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
37
Lớp Ngân hàng 42A
cả đã tạo điều kiện cho Chi nhánh đạt được kết quả cao ngay từ những năm
đầu của thế kỷ thứ XXI.
a. Hoạt động huy động vốn
Trong 3 năm 2001, 2002, 2003 CNLH không ngừng quan tâm tới
công tác huy động vốn, luôn coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm trong hoạt động của Chi nhánh. Với vị trí địa lý thuận lợi, ngay giữa
lòng Thủ đô, nơi mà thu nhập quốc dân bình quân đạt tỷ lệ cao so với cả
nước. Chi nhánh đã không ngừng quảng cáo, tuyên truyền trên các phương
tiện thông tin đại chúng, nhất là các tạp chí chuyên ngành của Ngành. Cùng
với việc nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng và thái độ phục vụ của Cán bộ
Viên chức, Chi nhánh đã rất thành công trong hoạt động huy động vốn
cũng như thực hiện chính sách huy động vốn. Kết quả cụ thể công tác huy
động vốn của Chi nhánh trong các năm được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 03. Nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh Láng Hạ
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Thực hiện +/-
Bình quân 31/12/2001 31/12/2002 31/12/2003
Nguồn vốn kinh doanh 2.630 3.812 4.037 703,5
Vốn huy động 1.930 2.962 3.137 603,5
Vay từ các TCTD, vay khác - - - -
Vốn UTĐT (trừ NHCS) 700 850 900 100
Sử dụng vốn Trung Ương - - - -
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002, 2003)
Qua bảng trên ta thấy, tính đến hết ngày 31/12/2003 tổng nguồn vốn
kinh doanh của Chi nhánh là 4.037 (tỷ đồng- làm tròn số, và các loại ngoại
tệ được quy về VND theo tỷ giá tại thời điểm tính) tăng 105,90% so với
năm 2002, là 3.812 tỷ đồng. Tăng 153,50% so với cùng kỳ năm 2001,
tương đương 2.630 (tỷ đồng). Trong tổng nguồn vốn kinh doanh thì nguồn
vốn huy động là 3.138 năm 2003, chiến tỷ trọng 73,37% so với tổng nguồn
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
38
Lớp Ngân hàng 42A
vốn, tăng 105,94% so với năm 2002 (là 2.926 tỷ đồng), và bằng 162,59%
của năm 2001 (1.930 tỷ đồng). Nguồn vốn uỷ thác của CNLH qua các năm
cũng có sự tăng trưởng cả về số tương đối và số tuyệt đối, năm 2001 là 700
tỷ đồng, năm 2002 lên 850 tỷ đồng tăng 21,43% so với năm trước, năm
2003 con số này là 900 tỷ đồng tăng 5,88% so với năm 2002, và 28,57% so
với năm 2001. Điều này khẳng định rằng uy tín của Chi nhánh ngày càng
được nâng cao, hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả. Đồng thời Chi
nhánh cũng nắm trong tay danh mục các dự án lớn đang và sẽ đầu tư, cho
nên nhu cầu về vốn là rất lớn, thêm vào đó Chi nhánh cũng thực hiện tài trợ
hoặc đồng tài trợ các dự án có quy mô vốn lớn cần sự hợp tác.
Ngoài ra trong hoạt động của mình CNLH, đã đảm bảo khả năng
thanh khoản, không để tình trạnh thiếu hụt dự trữ hay mất khả năng thanh
toán cho khách hàng, điều này thể hiện quan việc Chi nhánh không phải
vay vốn của các tổ chức tín dụng, các NHTM, hay vay của Ngân hàng Nhà
Nước để đáp ứng nhu cầu dự trữ hay thanh toán của mình
b. Hoạt động Sử dụng vốn
Cũng như các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác, hoạt
động của CNLH chủ yếu là hoạt động tín dụng, trong đó hoạt động cho vay
chiếm tỷ trọng lớn nhất và mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng.
Trên một địa bàn tập trung nhiều doanh nghiệp Nhà Nước, và các loại hình
doanh nghiệp khác, đã tạo thuận lợi cho Chi nhánh trong việc cấp tín dụng,
bởi nó vừa an toàn vừa đảm bảo khả năng thu nợ, cùng các mục tiêu khác
của Chi nhánh. Tình hình dư nợ của Chi nhánh qua các năm được thể hiện
trong bảng số liệu sau:
Bảng 04. Hoạt động tín dụng của Chi nhánh Láng Hạ
(Đơn vị: tỷ đồng)
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
39
Lớp Ngân hàng 42A
Chỉ tiêu
Thực hiện +/-
Bình
quân
31/12/2001 31/12/2002 31/12/2003
Tổng nguồn vốn kinh doanh 2.630 3.812 4.037 703,5
Theo thời hạn vay 1.030 1.466 1.515 242,5
- Ngắn hạn 197 501 642 222,5
- Trung hạn và dài hạn 833 965 873 20
Theo loại hình doanh nghiệp 1.030 1.466 1.515 242,5
-Doanh nghiệp Nhà Nước 1013 1382 1210 98,5
-DN ngoài Quốc doanh 14 67 267 126,5
-Cho vay tiêu dùng và cầm cố 3 17 38 17,5
Theo đồng tiền vay 1.030 1.466 1.515 242,5
- Nội tệ 601 1090 1005 202
-Ngoại tệ (quy về VND) 429 376 510 40,5
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)
Nhìn một cách tổng thể, mức tăng trưởng tín dụng của Chi nhánh
qua các năm đạt tỷ lệ cao, mức tăng trưởng bình quân là 242,5 (tỷ đồng).
Trong đó dư nợ trung và dài hạn có chiều hướng tăng mạnh, điều này cho
chứng tỏ Chi nhánh đã tập chung có chiều sâu và các dự án có quy mô lớn,
thời gian hoàn vốn dài. Đối với DNNN (Doanh nghiệp Nhà Nước) Mặc dù
chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn tín dụng nhưng đang có xu hướng
giảm xuống, điều này là do Chi nhánh đã quan tâm hơn tới các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, một thị trường rộng lớn, trong tương lai thì đó là
khách hàng chủ yếu của Chi nhánh nói riêng và các tổ chức tín dụng, các
ngân hàng thương mại nói chung. Mặt khác cho thấy tỷ lệ cho vay bằng
ngoại tệ của Chi nhánh cũng có chiều hướng tăng ngày càng cao, tuy so về
số tuyệt đối còn thấp nhưng về tương đối khá cao.
Năm 2003 mức độ cho vay tăng không đáng kể 3,34% so với năm
2002, 47,08% so với năm 2002 là do trong năm có một số hợp đồng cấp tín
dụng cho các dự án trung và dài hạn nhưng chưa giải ngân. Do tách Chi
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
40
Lớp Ngân hàng 42A
nhánh Bà Triệu (trực thuộc CNLH) về Chi nhánh Đông Hà Nội làm dư nợ
của Chi nhánh giảm 146 (tỷ đồng).
c. Kết quả hoạt động khác
Bên cạnh các hoạt động trên, CNLH còn tiến hành nhiều hoạt động
khác như hoạt động Thanh toán Quốc tế, hoạt động mua bán Ngoại tệ,
Công tác Kế toán- Ngân quỹ và cuối cùng là kết quả hoạt động kinh doanh
được thể hiện trên tài khoản 946A (Quỹ thu nhập). Số liệu cụ thể được
trình bày ở bảng sau:
Bảng 05. Kết quả hoạt động khác của Chi nhánh Láng Hạ
Chỉ tiêu Thực hiện 31/12/2001 31/12/2002 31/12/2003 +/-
Kết quả tài chính (tỷ đồng) 37,000 48,000 102,000 32,500
Kế toán- Ngân quỹ (tỷ đồng) 64.009 80.000 132.804 34.397
Thanh toán Quốc tế (triệu USD) 152,172 241,000 527,000 187,41
Mua bán Ngoại tệ (triệu USD) 182,000 266,000 362,000 90,000
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)
Qua bảng trên, qua các năm kết quả phản ánh đều có xu hướng tăng
mạnh, năm sau cao hơn năm trước. Trong các chỉ tiêu trên có chỉ tiêu
Thanh toán quốc tế và mua bán ngoại tệ đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất.
Kết quả đó là do Chi nhánh đã tiến hành thanh toán cho một số hoạt động
phục vụ xuất nhập khẩu, mở rộng màng lưới thanh toán (lên 3 Chi nhánh);
thứ hai là làm dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng bạn trong và
ngoài nước. Từ tháng 8 năm 2001 Chi nhánh đã làm đại lý thanh toán kiều
hối (đại lý cho ngân hàng ACB và Western Union- cho ngân hàng
Industrial Bank và các ngân hành khác). Riêng đối với công tác kế toán
ngân quỹ, do Chi nhánh làm đầu mối thanh toán cho hơn 30 ngân hàng
trong cả nước (nhất là khu vực Miền bắc) cho nên doanh số thanh toán bình
quân qua các năm đạt rất cao, trung bình đạt 66,51%/năm, tương đương
92.271 tỷ đồng.
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
41
Lớp Ngân hàng 42A
2.2. Thực trạng chính sách huy động vốn của Chi nhánh NHNo&
PTNT Láng Hạ
2.2.1. Tình hình chung về công tác huy động vốn
Ngân hàng Thương mại hoạt động không phải bằng nguồn vốn tự có
mà chủ yếu bằng nguồn vốn huy động, do vậy mà hoạt động huy động vốn
luon được coi là nhiệm vụ trọng tâm và luôn được ưu tiên hàng đầu, bởi nó
quyết định đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại. CNLH với
vị trí địa lý thuận lợi, nằm giữa trung tâm Thủ đô Hà nội, nơi tập trung dân
cư đông đúc, tập trung nhiều tổ chức, doanh nghiệp mức thu nhập bình
quân đầu người và tốc độ phát triển kinh tế vào hàng nhất nhì trong cả
nước. Thấy được tầm quan trọng của của mình, cũng như công tác huy
động vốn CNLH đã rất quan tâm và trú trọng tới hoạt động huy động vốn,
coi nguồn vốn huy động là nguồn chính của Chi nhánh (Chi nhánh không
có trong tay lượng vốn chủ sơ hữu mà mình cần mình, mà phần này thuộc
sự quản lý và sử dụng của NHNo Việt Nam). Trải qua gần 7 năm hoạt động
và phát triển, nhất là trong các năm trở lại đây. Mặc dù còn non trẻ, song
Chi nhánh đã thực hiện rất thành công công tác cũng như chính sách huy
động vốn, và đã thu hút được nhiều nguồn khác nhau, giúp Chi nhánh có
vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh. Năm 1997 tổng lượng vốn hoạt
động kinh doanh của Chi nhánh là 202 tỷ đồng trong đó lượng vốn huy
động chiếm tỷ trọng là 100%, thì sang năm 1998, tổng lượng vốn hoạt động
kinh doanh lên tới 685 tỷ đồng trong đó vốn huy động chiếm 70,80%, còn
lại là vốn uỷ thác, giấy tờ có giá, con số này tường ứng qua các năm 1999,
2000 là 1.131 tỷ đồng, 2000 trong đó vốn huy động chiếm 60,12%,
70,00%. Điều này khẳng định vốn huy động luôn là nguồn quan trọng bậc
nhất cho hoạt động của Chi nhánh Láng Hạ.
Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, công tác huy động vốn
của Chi nhánh đã có những bước tăng trưởng đáng kể và ổn định, năm sau
cao hơn năm trước
Biểu 01: Tổng nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh qua các năm
850 9003.500
4.000
4.500
Tû ®ång
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
42
Lớp Ngân hàng 42A
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003
Qua bảng trên ta thấy qua so với tổng nguồn vốn hoạt động kinh
doanh thì lượng vốn huy động của Chi nhánh ngày càng tăng cả về số
lượng và chất lượng. Tỷ trọng vốn huy động trong tổng vốn hoạt động của
Chi nhánh là 73,38% năm 2001, tăng 37,86% so với năm 2000; năm 2002
là 77,70% tăng so với năm 2001 là 53,47%. Sang năm 2003 tăng 175 tỷ
đồng tương đương 5,91% so với năm 2001 và chiếm tỷ trọng 77,71% trên
tổng nguồn vốn, nếu so sáng với năm 2001 con số này là 1.207 tỷ đồng
tương đương tăng 62, 54%.
2.2.2. Các chính sách huy động vốn mà Chi nhánh áp dụng
Nguồn vốn huy động, có vai trò quan trọng và luôn luôn chiếm tỷ
trọng đáng caotrong tổng nguồn vốn hoạt động của mỗi NHTM nói chung
và CNLH cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trải qua quá trình phát triển
của mình, không phải bao giờ và lúc nào hoạt động huy động vốn và những
chính sách mà ngân hàng đưa ra để huy động cung thành công. Bởi nó chịu
sự tác động của ngiều nhân tố cả chủ quan lẫn khách quan. Một chính sách
phù hợp cho công tác huy động vốn, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách
cần phải có sự tổng hợp, phân tích, đánh giá tất cả mọi yếu tố tác động đến
hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như của toàn xã hội.
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
43
Lớp Ngân hàng 42A
Thấy được tầm quan trọng của công tác huy động vốn cũng như việc
xây dựng chính sách huy động vốn. Trong những năm quan CNLH đã có
rất nhiều những biện pháp, cách thức khác nhau, trong một số trường hợp
Chi nhánh kết hợp với các ngân hàng bạn khác trong cùng hệ thống hoặc
trực tiếp với NHNo Việt Nam thực hiện khuyếch trương, quảng cáo, nhằm
thu hút khách hàng đặt quan với Chi nhánh, nhất là khách hàng đến gửi
tiền, mua trái phiếu hoặc uỷ thác đầu tư cho ngân hàng.
Để phát huy và nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn, trong
các năm qua CNLH đã đưa ra nhiều nội dung khác nhau chính sách huy
động vốn với nhiều nội dung khác nhau, và dã đạt được những thành qủa
đáng mừng, nó bao gồm các chính sách.
2.2.2.1. Chính sách thu hút khác hàng
Với vị trí đặc biệt quan trọng của mình trên địa bàn Hà nội, cũng như
của ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, CNLH đã rất quan tâm tới việc thu
hút khách hàng, đến giao dịch và đặt quan hệ, không chỉ là khách hàng
truyền thống, mà còn cả khách hàng tiền năng, những doanh nghiệp lớn,
những công ty lớn có quy mô hoạt động rộng khắp cả nước, trong đó có
một số doanh nghiệp, công ty hoạt động trong lĩnh vực Xuất nhập khẩu và
thương mại quốc tế. Đối với những khách hàng này, bao giờ Chi nhánh
cũng có những ưu đãi trong các giao dịch tại ngân hàng như ưu đãi về lãi
suất đầu vào, lãi suất đầu ra được tính toán ở mức hợp lý, khi khách hàng
có nhu cầu đều được ngân hàng quan tâm và ưu tiên thực hiện. Hoặc trong
một số trường hợp ngân hàng khuyến khích khách hàng sử dụng sản phẩm
dịch vụ và những tiện ích mà mình cung cấp, nhằm từ đó thu hút được
nhiều khách hàng.
Ngoài ra CNLH còn đặt quan hệ với các Chi nhánh ngân hàng bạn
trong và ngoài hệ thống để từ đó, nâng cao khả năng, và giảm thiểu những
chi phí trong khả năng có thể vừa tiết kiệm cho Chi nhánh vừa tiết kiệm chi
phí và thời gian giao dịch cho khách hàng, tạo cảm giác và ấn tượng tốt đẹp
trong tâm trí khách hàng.
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
44
Lớp Ngân hàng 42A
2.2.2.2. Chính sách về mở rộng màng lưới giao dịch
Ngay từ ngày đầu mới thành lập và đi vào hoạt động CNLH đã rất
quan tâm tới việc mở các rộng màng lới trực thuộc và các phòng giao dịch,
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Chi nhánh. Tính đế hết
ngày 31/12/2003, Chi nhánh có một Chi nhánh cấp 2 trực thuộc là Chi
nhánh Bách Khoa, màng lưới giao dịch gồm 05 phòng giao dịch trực thuộc
Chi nhánh và 01 phòng giao dịch trực thuộc Chi nhánh Bách Khoa. Hiện
Chi nhánh đang có kế hoạch mở thêm nhiều Chi nhánh, phòng giao dịch
khác nữa.
Các Chi nhánh hoạt động ngày càng có hiệu quả, và tự khẳng định
được sự lớn mạnh của mình cũng như khả năng tự chủ về tài chính trong
hoạt động kinh doanh. Đây là điều đáng mừng đối với việc thực hiện chính
sách huy động vốn của CNLH và những hoạt động của nó sẽ là cầu nối
giữa khách hàng với Chi nhánh. Từ đó tăng cường mối quan hệ với Chi
nhánh và dần thu hẹp khoảng cách giữa cán bộ ngân hàng với khách hàng,
tạo tiền đề cho việc thực hiện thành công chính sách huy động vốn mà Chi
nhánh đề ra.
2.2.2.3. Tổ chức Cán bộ và Đào tạo
Một ngân hàng muốn hoạt động tốt, không chỉ phụ thuộc vào chính
sách hợp lý (hợp đối tượng khách hàng, hợp tình hình thực tế), cũng như
một màng lưới rộng khắp mà còn phụ thuộc trực tiếp và nhân tố con người.
Con người có thể thực hiện những việc mà không cái gì khác có thể thay
thế được, chính vì vậy mà Chi nhánh đã ngày càng quan tâm tới công tác
đào tạo CBVC cũng như công tác tuyển chọn ngay từ đầu vào, hiện tại số
cán bộ viên chức có trình độ đại học cao đẳng, và trên đại học chiếm tới
77,60%, trong quá trình hoạt động Chi nhánh đã thường xuyên cử cán bộ đi
học các lớp nghiệp vụ, nghiệp vụcao cấp do NHNo Việt Nam hoặc Ngân
hàng Nhà Nước tổ chức, để từ đó nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
và nhất là trình độ ngoại ngữ.
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
45
Lớp Ngân hàng 42A
2.2.2.4. Nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin, Dịch vụ và Tiện ích
Đứng trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, và cùng với sự tiến bộ
vượt bậc của lĩnh vực công nghệ thông tin, CNLH đã tiến hành lắp đặt
mạng máy tính nội bộ (LAN) cho tất cả các phòng ban và Ban Giám đốc,
và nối mạng Internet, tạo thuận lợi trong trao đổi thông tin với các đơn vị
khác ngoài Chi nhánh. Ngoài ra Chi nhánh còn quan tâm tới việc mở rộng
màng lới giao dịch trên cơ sở mạng diện tử Internet như tư vấn, cung cấp
dịch vụ chuyển tiền điện tử liên ngân hàng với các ngân hàng trong và
ngoài hệ thống. Đặc biệt, Chi nhánh cùng kết hợp với NHNo Việt Nam
cung cấp dịch vụ rút tiền tự động (dùng thẻ rút tiền qua mạng ATM), do
vậy đã thu hút được sự quan tâm rất lớn của khách hàng, giúp ngân hàng
thực hiện thành công chính sách huy động vốn.
2.2.2.5. Chính sách Marketing
Chính sách Marketing, như đã trình bày, ngày càng được các ngân
hàng thương mại quan tâm và đẩy mạnh thực hiện, mặc dù Chi nhánh chưa
có phòng chức năng riêng cho công tác marketing, cho nên công tác này
chủ yếu do phòng Kế hoạch- Nguồn vốn và phòng Kế toán thực hiện.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các báo chí, tạp chí chuyên
ngành, Chi nhánh đã quảng bá rộng rãi hình ảnh của mình trong tâm trí
khách hàng (khách hàng truyền thống và khách hàng tiền năng), cùng với
việc đẩy mạnh các hoạt động marketing, Chi nhánh còn thực hiện nhiều
biện pháp nhằm khuyến khích khách hàng gửi tiền vào Chi nhánh thông
qua các hình thức tiết kiện dự thưởng, tiết kiệm bậc thang.
Tất cả những chính sách trên đã giúp cho Chi nhánh, thực hiện thành
công chính sách huy động vốn, giúp Chi nhánh có lượng vốn cần tiết để
tiến hành các hoạt động kinh doanh.
2.2.3. Kết quả đạt được
Cùng với các biện pháp nhăm nâng cao hiệu quả hoạt động của Chi
nhánh, việc thực hiện triệt để và đồng bộ, nhất quán các chỉ tiêu hoạt động
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
46
Lớp Ngân hàng 42A
của chính sách huy động vốn. Trong thời gian vừa qua lượng vốn mà
CNLH huy động được đạt mức tăng trưởng cao cả về con số tương đối và
cón số tuyệt đối ở tất cả mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình doanh
nghiệp, các tổ chức, cá nhân khác.
2.2.3.1. Theo nguồn huy động
Đối với ngân hàng thương mại việc xác định một cách chính xác,
đầy đủ và trọng tâm các nguồn hình thành nên nguồn vốn là vô cùng quan
trọng, bởi nó liên quan hàng loạt các yếu tố, nội dung của việc hoạch định
chính sách huy động vốn, đặc biệt là xây dựng kế hoạch hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Để từ đó có thế xác định chính xác lượng vốn mà
ngân hàng có thể huy động được, thông qua việc tìm hiểu nắm bắt được các
quy luật của hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của các thành
phần kinh tế đó. Sẽ giúp cho ngân hàng điều tiết các luồng tiền sao cho hợp
lý, từ đó đảm bảo tính thanh khoản của ngân hàng ở mức cao nhất. Cơ cấu
nguồn vốn hình thành theo nguồn huy động của CNLH được thể hiện trong
bảng số 07 sau.
Bảng 06: Phân theo nguồn hình thành
(Đơn vị: tỷ đồng)
Thực hiện
Chỉ tiêu
31/12/2001 31/12/2002 31/12/2003 +/-
B. quân Số tiền %/SNV Số tiền %/SNV Số tiền %/SNV
Nguồn vốn hoạt động {SNV=A+B} 2.630 100% 3.812 100% 4.037 100% 703,5
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
47
Lớp Ngân hàng 42A
A. Vốn huy động {A= 1+2+3+4} 1.930 73,4% 2.962 77,7% 3.137 77,7% 603,5
1. Tiền gửi Dân cư 619 23,5% 734 19,3% 957 23,7% 169
2. Tiền gửi của tổ chức kinh tế 971 36,9% 1.362 35,7% 1.476 36,6% 252,5
3. Tiền gửi của TCTD, QHT 217 8,25% 422 11,1% 630 15,6% 206,5
4. Giấy tờ có giá 123 4,86% 444 11,6% 74 1,80% (24,5)
B. Vốn UTĐT (trừ NHCS) 700 26,6% 850 22,3% 900 22,3% 100
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)
Trong đó: SNV: Tổng nguồn vốn hoạt động; QHT: Quỹ hỗ trợ
Qua bảng số liệu cho thấy nguồn vốn huy động của Chi nhánh liên
tục tăng qua các năm, và luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn
hoạt động của Chi nhánh. Điều này được thể hiện qua tốc độ tăng trưởng
của tổng nguồn vốn hoạt động qua các năm, mức tăng trưởng trung bình là
703,5 tỷ đồng/năm. Nguồn vốn huy động của Chi nhánh qua các năm cụ
thể như sau, năm 2001 đạt 1.930 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 73,40% so với
tổng vốn hoạt động, thì sang năm 2002, tăng lên 1.032 tỷ đồng tương
đương 53,47%, năm 2003 con số này là 3.137 tỷ đồng, tăng 5,91% so với
năm 2002, và bằng 1,625 lần so với cùng thời kỳ năm 2001. Mức tăng
trưởng bình quân của vốn huy động của Chi nhánh là 603,5 tỷ đồng/năm
đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 29,96%/năm.
Nhìn một cách tổng thể, trong tổng nguồn vốn mà ngân hàng huy
động được thì nguồn tiền gửi của các TCKT và dân cư chiếm tỷ trọng lớn
nhất, trên 50% tổng nguồn vốn hoạt động và thường xuyên chiếm từ 70 đến
80% so với tổng lượng vốn huy động, phần còn lại là của các TCTD, nguồn
vốn uỷ thác đầu tư, và phát hành các giấy tờ có giá khác.
Ngoài các nguồn huy động và các khoản tiền gửi trên thì Chi nhánh
còn huy động vốn qua hình thức phát hành các loại giấy tờ có giá, tuy
không tốc độ tăng trưởng không thực sự bền vững qua các năm, năm 2001
lượng vốn này là 123 tỷ đồng chiếm 6,37% so với tổng lượng vốn mà Chi
nhánh huy động, trong đó kỳ phiếu chiếm 63,41%, kỳ phiếu chiếm 65,59%.
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
48
Lớp Ngân hàng 42A
Sang năm 2002, nguồn vốn huy động này đạt con số 444 tỷ đồng (chủ yếu
là kỳ phiếu), tăng so với năm 2001 là 260,98%, chiếm tỷ trọng so với tổng
vốn huy động là 14,99%. Năm 2003 con số này là 74 tỷ đồng, chỉ chiếm có
2,36% so với tổng nguồn vốn huy động và chỉ bằng 16,17% so với năm
2002 (số tuyệt đối giảm 370 tỷ đồng) và bằng bằng 60,16% so với năm
2001 (tương đương giảm 49 tỷ đồng)
Bên cạnh các nguồn trên thì Chi nhánh cũng rất quan tâm tới nguồn
tiền gửi của các TCTD, mặc dù đây là nguồn có tính ổn định không cao và
không thường xuyên trong xuốt các thời kỳ hoạt động trong năm. Bởi đây
là nguồn gửi chủ yếu nhằm mục đích thanh toán và chi trả dưới hình thức
ngân hàng đại lý và dịch vụ tương ứng. Tuy nhiên qua phân tích cho thấy
nguồn này chiếm tỷ trọng bình quân khoảng 10% so với tổng nguồn vốn
hoạt động, năm 2001 lượng tiền mà các TCTD, các NHTM, là 217 tỷ đồng
chiếm 8,25% so với tổng nguồn vốn hoạt động, và bằng 11,24% so với
tổng nguồn vốn kinh doanh. Năm 2002 tăng lên so với năm 2001 là 205 tỷ
đồng tương đương 94,47%, chiếm 11,07% và 190,32% so với cùng kỳ năm
2001. Mức tăng trưởng bình quân là 206,5 tỷ đồng, con số tương đối là
71,80%.
Ngoài ra Chi nhánh còn tiếp nhận một lượng uỷ thác đầu tư khá lớn
của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp Nhà
Nước, các doanh nghiệp này tuỳ theo tính chất hoạt động và ngành nghề
kinh doanh mà không được phép gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng
theo quy định của Nhà Nước, và như vậy họ biến tướng nguồn tiền
nhàn rỗi thay vì gửi tiết kiệm, họ uỷ thác cho ngân hàng để đầu tư. Mức
tăng trưởng của nguồn này qua các năm đạt khá cao và ổn định, năm sau
cao hơn năm trước, tốc độ tăng trưởng bình quân là 100 tỷ đồng/năm,
tương đương 13,66%/năm. Tỷ trọng của nguồn này khá cao, trung bình là
23,74% so với tổng vốn hoạt động kinh doanh, và bằng 31,22% so với tổng
vốn mà Chi nhánh huy động được.
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
49
Lớp Ngân hàng 42A
Như vậy có thể thấy nguồn vốn của CNLH được hình thành từ nhiều
nguồn và có cơ cấu đa dạng khác nhau, sự tăng trưởng không ngừng và của
nguồn vốn huy động tại Chi nhánh cho thấy việc thực hiện đồng bộ, nhất
quán các biện pháp, nghiệp vụ, và hàng loạt chính sách khác nhau nhất là
chính sách huy động vốn, đã mang lại cho Chi nhánh những kết quả rất
đáng mừng.
Trong các nguồn hình thành trên, thì nguồn uỷ thác đầu tư và một
phần nhỏ của các doanh nghiệp, các tổ chức là ổn định hơn cả, nó vừa có
tính biến động thấp, và thông thường nó mang tính chu kỳ nhất định. Điều
này tạo thuận lợi lớn cho Chi nhánh trong việc đảm bảo khả năng thanh
khoản. Còn các nguồn khác nhìn chung không ổn định, tính biến động cao,
ngân hàng không thể dự báo chính xác chu kỳ biến động và như vậy khó có
thể yên tâm sử dụng vào hoạt động kinh doanh và vào những mục đích, và
với nguồn này nếu có sử dụng thì phải tiến hành dự trữ một khoản lớn (theo
quy định của Ngân hàng Nhà Nước, và dự trữ thanh toán của Chi nhánh-
nếu cần thiết) nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Và cuối cùng, chúng ta có thể thấy rằng việc xác định cơ cấu nguồn
vốn huy động của ngân hàng là vô cùng quan trọng, nó vừa giúp Chi nhánh
duy trì hoạt động ổn định, xây dựng được chính xác chiến lược lâu dài, đặc
biệt là xác định được đúng đối tượng khách hàng, từ đó có những chính
sách hợp lý, tạo điều kiện để nâng cao hiệu hoạt động kinh doanh, cũng
như việc hoạch định chính sách huy động vốn của Chi nhánh Láng Hạ.
2.2.3.2. Theo thời hạn huy động
Ngân hàng thương mại muốn hoạt động thực sự có hiệu quả, ngoài
việc xác định một cách chính xác cơ cấu nguồn hình thành, thì không thể
không quan tâm tới tính chất kỳ hạn của các nguồn huy động. Thời hạn của
các nguồn huy động giúp ngân hàng phân tích một cách chính xác mức độ
biến động, cơ cấu để từ đó có phương án sử dụng hợp lý. Nhất là việc xây
dựng nguồn vốn để tài trợ cho những dự án có quy mô lớn, thời hạn hoàn
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
50
Lớp Ngân hàng 42A
vốn lâu. Cơ cấu theo thời hạn huy động của CNLH qua các năm được thể
hiện trong bảng sau.
Bảng 07: Bảng cơ cấu nguồn hình thành theo thời hạn huy động
(Đơn vị: tỷ đồng- các đồng ngoại tệ quy về VND)
Thực hiện
Chỉ tiêu
31/12/2001 31/12/2002 31/12/2003 +/-
b.q Số tiền %/SNV Số tiền %/SNV Số tiền %/SNV
Tổng nguồn vốn {A+B} 2.630 100,0% 3.812 100,0% 4.037 100,0% 703,5
A.Vốn huy động {A=1+2+3} 1.930 73,4% 2.962 77,7% 3.137 77,7% 603,5
1.Tiền gửi không kỳ hạn 468 17,80% 962 25,2% 1.046 25,9% 289
-Tiền gửi thanh toán 398 15,3% 841 22,1% 1021,5 25,3% 312
-Tiền gửi tiết kiệm 22 0,84% 20 0,50% 20,99 0,52% (0,5)
-Tiền gửi các TCTD& KB 48 1,83% 101 2,60% 3,51 0,09% (22,5)
2. Tiền gửi kỳ < 12 tháng 887 33,7% 863 22,7% 1.053 26,1% 83
-Kỳ hạn dưới 1 tháng 411 15,6% 324 8,50% 634 15,7% 117,5
-Kỳ hạn trên 1 tháng 476 18,1% 539 14,2% 419 10,4% (34,5)
3.Tiền gửi kỳ > 12 tháng 575 21,9% 1.137 29,8% 1038 25,7% 231,5
-Tiết kiệm thường 483 14,6% 388 10,2% 487 12,1% 52
-Giấy tờ có giá 123 4,68% 423 11,1% 74 1,80% (25)
-Tiết kiệm bậc thang - - - - 165 4,10% 82,5
-Tiền gửi khác 69 2,62% 326 8,50% 313 7,70% 122
B.Vốn UTĐT (trừ NHCS) 700 26,6% 850 22,3% 900 22,3% 100
(Nguồn: Phòng kế hoạch- Nguồn vốn)
Qua bảng trên cho thấy, nguồn vốn ngắn hạn tại CNLH chiến tỷ
trọng lớn, tỷ trọng bình quân so với tổng số vốn hoạt động là 50,47%, và
chiếm tới 66,17% so với tổng nguồn vốn huy động. Năm 2001, nguồn ngắn
hạn tại Chi nhánh là 1.355 tỷ đồng chiếm 70,21% so với tổng vốn huy
động, sang năm 2002 là con số này là 1.825 tỷ đồng tăng so với năm 2001
là 470 tỷ đồng tương đương 34,69%, năm 2003 đạt 2.092 tỷ đồng chiếm tỷ
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
51
Lớp Ngân hàng 42A
trọng 61,61% so với tổng vốn huy động. Trong đó nguồn tiền gửi nhằm
mục đích thanh toán và dưới 1 tháng chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng
nguồn huy động của Chi nhánh, tỷ trọng trung bình 61,11%/năm so với
tổng nguồn vốn hoạt động kinh doanh và 47,30%/năm so với lượng vốn
huy động của Chi nhánh. Hai nguồn này có mức tăng trưởng khá nhanh,
năm sau cao hơn năm trước, doanh số hàng năm đạt hàng trăm tỷ, mức tăng
trưởng bình quân hàng năm là 406,5 tỷ đồng. Điều này cho thấy, nguồn tiền
gửi chủ yếu nhằm mục đích thanh toán qua hệ thống ngân hàng (kể cả tiền
gửi tiết kiệm có thời hạn dưới 1 tháng). Trên cơ sở số dư trên tài khoản tiền
gửi của khách hàng ngân hàng cung cấp một số phương tiện thanh toán như
Séc, UNC, UNT, dịch vụ rút tiềt tự động qua mạng máy tính, ATM kết hợp
với thái độ phục vụ nhiệt tình, tinh thông nghiệp vụ của cán bộ phòng kế
toán ngân quỹ (phòng có mật độ tiếp xúc với khách hàng nhiều nhất của
ngân hàng) đã gây được cảm tình và niềm tin cho khách hàng tới quan hệ
và giao dịch.
Bên cạnh nguồn tiền gửi nhằm mục đích thanh toán và khoản tiết
kiệm dưới 1 tháng, thì nguồn tiền tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi của các
tổ chức kinh tế, TCTD, Quỹ hộ trợ..., mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ chỉ từ 2-
3%, nhưng nó lại có tính ổn định tương đối cao (có thể thời hạn các nguồn
riêng lẻ thì ngắn nhưng nếu xét tổng thể thì nó luôn luôn có một lượng số
dư nhất định) và như vậy ngân hàng có thể tính toán tỷ lệ sử dụng sao cho
hợp lý nhằm thực hiện những mục đích của mình. Trong nguồn tiền gửi
ngắn hạn, nguồn có thời hạn trên 1 đến 12 tháng chiếm tỷ trọng bình quân
khá cao trong tổng nguồn vốn hoạt động kinh doanh của Chi nhánh qua các
năm với tỷ trọng 14,36%/năm, nguồn này có mức biến động cao và không
ổn định qua các năm. Với sự nhận thức của khách hàng ngày càng cao, việc
sử dụng tiền mặt nhiều hoặc tích trữ trong nhà ngày càng hiếm, nó làm
nguồn tiền gửi không kỳ hạn tăng lên đáng kể, đây là một trong những
nguyên nhân quan trọng trong việc làm giảm lượng vốn có thời hạn từ 1
đến 12 tháng của Chi nhánh.
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
52
Lớp Ngân hàng 42A
Nếu so sánh nguồn tiền gửi ngắn hạn với nguồn trung và dài hạn, thì
nguồn tiền gửi trung dài hạn thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn
vốn hoạt động của Chi nhánh mức trung bình là là 25,80%/năm.
Qua biểu trên cho thấy, nguồn trung và dài hạn có tốc độ tăng trưởng
khá cao qua các năm, điều này là do Chi nhánh đã áp dụng các biện pháp
và hình thức khác nhau như, mở loại hình tiết kiệm dự thưởng với tiền gửi
trung và dài hạn (cho những món có giá trị trên 5 triệu VND, hoặc ngoại tệ
trị giá tương đương 300 USD trở lên), tiết kiện bậc thang, phát hành giấy tờ
có giá.
Mặc dù tình hình kinh tế chính trị trong và ngoài nước có nhiều bất
ổn đã gây ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động của NHTM nói chung và
CNLH nói riêng. Nếu so sánh với năm 2001 thì tốc độ tăng trưởng nguồn
vốn khá cao, và tương đối ổn định mức biến động nhìn chung không lớn.
Mức tăng trưởng bình quân của nguồn trung và dài hạn qua các năm là
231,5 tỷ đồng. Trong đó tiền gửi tiết kiệm bậc thang có mức tăng trưởng
tuyệt đối cao 165 tỷ đồng (mức trung bình là là 82,5 tỷ đồng) tiếp đến là
nguồn tiền gửi khác và tiết kiệm thường vẫn chiếm vị trí cao, tương đương
là 52 và 122 tỷ đồng/năm. Với giấy tờ có giá có mức tăng trưởng bình quân
Biểu 02: Cơ cấu nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của CNLH
575
887
468
1.137
863
962
1038
1.053
1.046
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
Tû ®ång
2001 2002 2003
N¨m
TiÒn göi kh«ng kú h¹n
TiÒn göi kú h¹n díi 12 th¸ng
TiÒn göi kú h¹n trªn 12 th¸ng
Thực tập Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng- Tài chính
Sv Nông Văn Thực Trang
53
Lớp Ngân hàng 42A
âm (âm 25 tỷ đong/năm) là vì năm 2003 lượng vốn này giảm rất mạnh cả
về tương đối và lẫn tuyệt đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn tốt nghiệp- Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ (2).pdf