Luận văn Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất xuất nhập khẩu Việt An

Tài liệu Luận văn Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất xuất nhập khẩu Việt An: LUẬN VĂN: Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất- xuất nhập khẩu Việt An Lời nói đầu Hội nhập quốc tế luôn tạo ra những cơ hội và triển vọng nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức to lớn.Cơ hội được tạo ra do sự mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu quả của nền kinh tế.Bên cạnh đó, những thách thức đặt ra cũng không nhỏ nhất là đối với những nước đang phát triển khi mà hội nhập sẽ đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường nội địa và đặt các ngành sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh gay gắt của nước ngoài.Đánh giá một cách tổng quan, chúng ta thấy rằng mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến mới trong quá trình hội nhập những nền kinh tế nước ta vẫn còn nhỏ bé và lạc hậu.Lợi thế so sánh của nước ta hiện nay trong quan hệ thương mại với các bạn hàng chủ yếu vẫn dựa trên các sản phẩm nông nghiệp, nguyên liệu thô và hiện nay, đang bắt đầu có sự chuyển dịch sang một số ngành công nghiệp nhẹ sử ...

pdf67 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1054 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất xuất nhập khẩu Việt An, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất- xuất nhập khẩu Việt An Lời nói đầu Hội nhập quốc tế luôn tạo ra những cơ hội và triển vọng nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức to lớn.Cơ hội được tạo ra do sự mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu quả của nền kinh tế.Bên cạnh đó, những thách thức đặt ra cũng không nhỏ nhất là đối với những nước đang phát triển khi mà hội nhập sẽ đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường nội địa và đặt các ngành sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh gay gắt của nước ngoài.Đánh giá một cách tổng quan, chúng ta thấy rằng mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến mới trong quá trình hội nhập những nền kinh tế nước ta vẫn còn nhỏ bé và lạc hậu.Lợi thế so sánh của nước ta hiện nay trong quan hệ thương mại với các bạn hàng chủ yếu vẫn dựa trên các sản phẩm nông nghiệp, nguyên liệu thô và hiện nay, đang bắt đầu có sự chuyển dịch sang một số ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều sức lao động như dệt may, giầy da….. Với xu thế phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới, cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt và khốc liệt. Thay vì một thị trường với những đối thủ cạnh tranh cố định, các doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường với những đối thủ cạnh tranh biến đổi nhanh chóng, những tiến bộ về công nghệ, những đạo luật mới, những chính sách quản lý mới thích hợp với từng thời kỳ kinh tế.Điều đó đòi hỏi mỗi một doanh nghiệp phải luôn coi chiến lược marketing là một triết lý của toàn công ty, chứ không phải chỉ là chức năng riêng biệt.Một lĩnh vực hay một ngành nào đó muốn tồn tại và phát triển trên thương trường thì phải có ưu thế về mọi mặt, phải có một chiến lược marketing rõ ràng. Và ngành dệt may ở Việt Nam cũng đang tìm cho mình một chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế.Đây là ngành công nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và đã đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Ngành may mặcViệt Nam thực sự khởi sắc từ đầu thập niên 90 và có tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Trên thị trường quốc tế, hàng may mặc có xuất xứ từ Việt Nam được đánh giá cao về chất lượng. Nhờ lợi thế về nguồn lao động dồi dào, giá nhân công thấp nên hàng may mặc của Việt Nam có khả năng cạnh tranh lớn trên thị trường. Hiện nay, các sản phẩm dệt may của Việt Nam ngày càng nâng cao về chất lượng, cạnh tranh về giá cả, đa dạng về mẫu mã, nên đã xâm nhập thành công vào một số thị trường lớn như:Mỹ, EU, Nhật Bản…… Song kể từ sau ngày 1-1-2005, việc bỏ quota nhập khẩu đối với các thành viên WTO đã làm cho bản đồ xuất khẩu dệt may thay đổi, dòng thương mại dệt may sẽ chuyển sang các thị trường có sức cạnh tranh cao hơn, đến với doanh nghiệp có khả năng đáp ứng tốt hơn về số lượng, chất lượng, giá cả, thời gian……Chính vì vậy, bất kỳ công ty sản xuất kinh doanh thuộc ngành may mặc luôn xác định được rằng việc xây dựng một chiến lược marketing luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với công ty. Xuất phát từ thực tế trên, trong thời gian thực tập tại công ty sản xuất- xuất nhập khẩu Việt An, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất- xuất nhập khẩu Việt An”. * Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm phân tích, đánh giá quá trình xây dựng chiến lược marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty trong thời gian qua. Đồng thời, đề tài cũng chỉ ra những thành công và những thách thức để qua đó thấy được ưu- nhược điểm của nó. Từ đó vận vận dụng tư duy kinh tế và cơ chế kinh doanh để đề xuất những biện pháp nhằm hoàn thiện quá trình hoạch địch chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của Công ty. * Giới hạn – phạm vi nghiên cứu đề tài: đề tài được chọn nghiên cứu ở khâu quan trọng, có nhiều mối quan hệ kinh tế và liên quan đến rất nhiều vấn đề trong và ngoài Công ty. Do không đủ điều kiện để đề cập toàn diện và giải quyết triệt để những vấn đề đặt ra. Vì vậy, giới hạn đề tài nghiên cứu trên góc độ tiếp cận môn học Marketing là chính. * Phương pháp nghiên cứu: phương pháp tiếp cận hệ thống và lôgic phương pháp phân tích số liệu, phương pháp so sánh. Các phương pháp này vừa phân tích biện chứng, vừa đặt nó vào hệ thống lớn của quá trình nghiệp kinh doanh ở Công ty. Luận văn tốt nghiệp được hoàn thiện với 3 chương: - Chương I : Một số lý luận cơ bản về chiến lược Marketing xuất khẩu của công ty kinh doanh quốc tế. - Chương II : Thực trạng chiến lược Marketing xuất khẩu mặt hàng may mặc của công ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An. - Chương III : Một số đề xuất nhằm hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An. Chương I: một số lý luận cơ bản về hoàn thiện chiến lược marketing xuất khẩu của công ty kinh doanh 1.1. Khái niệm, bản chất và vai trò của Marketing xuất khẩu. 1.1.1.Khái niệm về Marketing xuất khẩu. Trước khi tìm hiểu khái niệm Marketing xuất khẩu ta phải hiểu được khái niệm về marketing: - Theo Philip Kotler: Marketing là sự phân tích tổ chức kế hoạch hóa và khả năng thu hút khách của một công ty cũng như chính sách và hoạt động với quan điểm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của nhóm khách hàng đã lựa chọn. - Các nhà làm công tác Marketing ở Việt Nam đã đưa ra được định nghĩa Marketing phù hợp, đầy đủ và xác thực như sau : "Marketing là chức năng quản lý công ty về tổ chức và quản lý toàn bộ hoạt động kinh doanh từ việc phát hiện ra nhu cầu và biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực sự về một loại hàng cụ thể đến việc đưa hàng hóa đó đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng nhằm đảm bảo cho công ty thu được lợi nhuận cao nhất". Marketing bao gồm hai loại là Marketing nội địa và Marketing quốc tế. Một trong những hình thức của Marketing quốc tế được biểu hiện dưới hình thức Marketing xuất khẩu. Và Marketing xuất khẩu có thể hiểu là: "Marketing xuất khẩu là việc thực hiện các hoạt động kinh doanh định hướng dòng vận động hàng hóa và địch vụ của các công ty tới người tiêu dùng hoặc sử dụng ở nhiều quốc gia nhằm thu lợi nhuận cho công ty". 1.1.2. Bản chất và vai trò của Marketing xuất khẩu. a) Bản chất của Marketing xuất khẩu. Marketing xuất khẩu là một lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu chiếm lĩnh trên các thị trường nước ngoài. Sự khác nhau cơ bản giữa Marketing nội địa và Marketing quốc tế ở chỗ là các hoạt động Marketing quốc tế phản ánh mức độ phức tạp và tính đa dạng do phải đối phó với tính đa dạng của môi trường quốc tế. Bản chất của Marketing quốc tế là xem xét và cân đối giữa những thay đổi của các yếu tố môi trường bên ngoài và các chính sách Marketing hỗn hợp của công ty trên thị trường quốc tế. Nhà quản trị Marketing quốc tế có nhiệm vụ hệ thống hóa và thi hành các chính sách Marketing nhằm đảm bảo sự thích ứng giữa khả năng của doanh nghiệp với thị trường và môi trường của nó nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Chính điều này đòi hỏi các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường quốc tế phải đưa ra một chương trình Marketing bao gồm các vấn đề sau : đánh giá và lựa chọn thị trường, xác định phương thức hoạt động thích hợp và xác lập các chính sách Marketing của công ty trên thị trường quốc tế. b) Lợi ích của Marketing xuất khẩu. Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa, hoạt động xuất nhập khẩu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Trong đó sự đóng góp của Marketing xuất khẩu là rất cần thiết. Bởi vì bản thân hoạt động xuất nhập khẩu là một hoạt động vô cùng phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro khó có thể lường trước được như : những biến động về kinh tế-chính trị , xã hội, văn hóa, hệ thống pháp luật… của nước nhập khẩu. Qua đó, hoạt động Marketing xuất khẩu có thể đem lại những lợi ích to lớn cho mỗi doanh nghiệp. Thứ nhất, các công ty hoạt động trên phạm vi quốc tế có thể đạt mức doanh số lớn hơn nhờ thực hiện chuyển giao các khả năng riêng biệt của mình. Các khả năng riêng biệt này được hiểu là những điểm mạnh duy nhất cho phép công ty đạt được hiệu quả, chất lượng, đổi mới hoặc sự nhạy cảm với khách hàng cao hơn. Thứ hai, việc tham gia các hoạt động quốc tế cho phép doanh nghiệp có thể hạ thấp chi phí nhờ có được lợi thế quy mô và hiệu ứng "đường cong kinh nghiệm"; lợi thế quy mô cho phép giảm chi phí cố định của một sản phẩm do chia chi phí cố định theo mức sản lượng lớn. Tác động của đường cong kinh nghiệm sẽ làm giảm chi phí khả biến đơn vị sản phẩm do nâng cao kỹ năng, kỹ xảo của người lao động. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế theo quy mô có thể không có được nếu thị hiếu của khách hàng trong nước và những đặc điểm khác ở các nước khác nhau đòi hỏi một số các điều chỉnh sản phẩm – phụ thuộc vào các sản phẩm liên quan và phương pháp sản xuất ra sản phẩm đó. Ngoài ra, kinh doanh ở thị trường nước ngoài sẽ giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có những ý tưởng mới mẻ hay những phương pháp khác nhau để giải quyết vấn đề. Từng cá nhân sẽ phát triển kỹ năng quản lý chung của họ và nâng cao hiệu suất cá nhân. Họ sẽ trở nên năng động hơn, và nâng cao hiệu quả công việc. Những mối quan hệ và kinh nghiệm có được thông qua sự tiêu thụ, bán hàng ở thị trường nước ngoài có thể tạo cho công ty một lợi thế cạnh tranh trong nước của mình. Nhờ đó mà công ty đạt được mục tiêu đặt ra, có được lợi thế cạnh tranh và nâng cao hiệu quả kinh doanh. 1.2.Phân định nội dung và hoàn thiện chiến lược marketing xuất khẩu của công ty kinh doanh quốc tế. 1.2.1. Phân tích tình thế và thời cơ chiến lược marketing xuất khẩu Các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường quốc tế luôn cần tìm ra các cơ hội kinh doanh mới cũng như là luôn phải đưa ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro nhằm giúp doanh nghiệp luôn đạt được lợi nhuận cao. Do vậy, việc phân tích tình thế và thời cơ chiến lược marketing xuất khẩu có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xác lập chiến lược marketing của doanh nghiệp. Phân tích các cơ hội thị trường được tiến hành thông qua việc phân tích các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô như: nhân khẩu/kinh tế, công nghệ, chính trị/ luật pháp và văn hoá/ xã hội…và những yếu tố quan trọng của môi trường vĩ mô như: khách hàng, đối thủ cạnh tranh, kênh phân phối, người cung ứng có ảnh hưởng đến khả năng lợi nhuận của mình trên thị trường đó. Mỗi một đơn vị kinh doanh phải xây dựng một hệ thống marketing thông minh để theo dõi những xu hướng và những bước tiến quan trọng. Đối với mỗi xu hướng hay bước phát triển, Ban lãnh đạo cũng cần phải xác định những cơ hội và những mối đe doạ tiềm ẩn. *) Cơ hội marketing là một lĩnh vực nhu cầu mà công ty có thể kiếm lời ở đó.Cơ hội có thể liệt kê và phân loại theo mức độ hấp dẫn và xác suất thành công của nó. Xác suất thành công của công ty phụ thuộc vào chỗ sức mạnh của công ty có tương xứng với những yêu cầu then chốt để thành công không và có vượt lên trên được các đối thủ cạnh tranh không?Chỉ riêng khả năng thì không tạo nên lợi thế cạnh tranh. Công ty có thành tích cao nhất sẽ là công ty có thể tạo ra được giá trị lớn nhất cho khách hàng và duy trì được nó lâu dài. Xác suất thành công Mức cao thấp độ cao hấp dẫn thấp Ma trận cơ hội (1): cơ hội tốt nhất công ty nên có kế hoạch theo đuổi. (2) và (3) : những cơ hội này công ty nên theo dõi và xem xét. (4) : cơ hội quá nhỏ nên không cần xem xét. *) Mối đe doạ là một thách thức do một xu hướng hay một bước phát triển bất lợi tạo ra sẽ gây thiệt hại cho doanh số bán hàng hay lợi nhuận nếu không có biện pháp Marketing bảo vệ. Mối đe doạ được phân loại theo mức độ nghiêm trọng và xác suất xuất hiện của nó. Xác suất xuất hiện Mức Cao thấp độ cao nghiêm thấp trọng Ma trận đe doạ 1 2 3 4 1 2 3 4 (1): những mối đe doạ chủ yếu công ty cần có kế hoạch chuẩn bị đối phó với mọi bất ngờ. (2) và (3) : không đòi hỏi phải có kế hoạch đối phó với những bất ngờ nhưng cần theo dõi cẩn thẩn. (4) : mối đe doạ này có thể bỏ qua. 1.2.2.Hoạch định mục tiêu chiến lược Chiến lược Marketing xuất khẩu có 4 mục tiêu cơ bản sau: + Lợi nhuận + Vị thế của công ty + An toàn trong kinh doanh + Đảm bảo tính nhân bản trong chiến lược Marketing a) Lợi nhuận. Lợi nhuận là một yếu tố quan trọng nhất không thể thiếu được trong bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh nào. Nó đảm bảo cho công ty có thể tiếp tục được quá trình tái sản xuất mở rộng, đảm bảo cho công ty có thể tiếp tục được quá trình mua thêm các trang thiết bị mới và có khả năng đứng vững trên thị trường. Đối với nhà quản trị Marketing không chỉ quan tâm đến lợi nhuận kinh doanh mà còn quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận, phải tính toán được mức lợi nhuận cho từng mặt hàng, từng ngành hàng cụ thể. Và qua đó thấy được ngành hàng nào mang lại lợi nhuận cao cho công ty và cũng xác định quá trình Marketing nào sẽ mang lại kết quả tốt nhất. b) Đảm bảo vị thế của công ty. Xác định được tầm quan trọng của các yếu tố vô hình này trong sự ảnh hưởng tới hành vi mua bán của khách hàng trên thị trường. Các công ty thường mong muốn xây dựng được lòng tin đối với những người tiêu dùng cuối cùng trên thị trường nói chung và khách hàng của công ty nói riêng. Tuy nhiên, đạt được mục tiêu này là điều không dễ dàng đối với công ty và cũng không thể làm được trong một thời gian ngắn. Thế lực của công ty được thể hiện ở doanh số bán, thị phần mà công ty chiếm được, khả năng tích tụ và tập trung của công ty, khả năng liên doanh liên kết của công ty với các công ty khác. Nó đòi hỏi các công ty phải hết sức nỗ lực, có những chủ trương hành động đúng đắn, có những chương trình Marketing cụ thể và sự phân bố nguồn vốn hợp lý. c) An toàn trong kinh doanh. Trong quá trình cạnh tranh, các công ty luôn phải đối mặt với những tác động của các quy luật kinh tế (cung, cầu, cạnh tranh), những rủi ro, thách thức có thể xảy ra là rất lớn. Do đó, mục tiêu này không kém phần quan trọng đối với công ty. Và để xác định mục tiêu này đòi hỏi: + Các yếu tố marketing-mix phải thích ứng và phù hợp với thực tế đặc biệt của thị trường khi có sự thay đổi. + Tùy theo thế lực công ty, chọn vùng an toàn trong kinh doanh + Chấp nhận quy luật chung của môi trường kinh doanh + Chấp nhận mạo hiểm để khai thác và đạt tới tần suất lợi nhuận cao d) Đảm bảo tính nhân bản cho công ty. Khi triển khai chiến lược Marketing đòi hỏi công ty không được phá vỡ môi trường sinh thái, không vi phạm tiêu chuẩn đạo đức của xã hội, dân tộc đồng thời tích cực giáo dục, nuôi dưỡng thị trường theo chiều hướng văn minh và tính hiện đại trong tiêu dùng. 1.2.3. Hoạch định marketing mục tiêu Muốn kinh doanh thành công trên thị trường nước ngoài thì trước khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường khác, bất kỳ công ty kinh doanh quốc tế nào việc hoạch định Marketing mục tiêu là vô cùng quan trọng. Hoàn thành tốt công việc này chính là đã tạo tiền đề hay là điểm tựa để phát triển các bước tiếp theo. Việc hoạch định Marketing mục tiêu bao gồm các hoạt động sau: a) Lựa chọn thị trường mục tiêu. Các công ty sản xuất – xuất nhập khẩu sẽ phải trả lời câu hỏi: + Tỷ lệ mà nó sẽ mở rộng hoạt động quốc tế là bao nhiêu? + Quốc gia nào sẽ xâm nhập? + Phân đoạn thị trường nào phải cung ứng? + Phân bổ nguồn lực và nỗ lực như thế nào cho tốt? Dựa trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố như tình thế – thời cơ chiến lược Marketing xuất khẩu; các công ty kinh doanh quốc tế phải đưa ra những căn cứ với phương pháp lựa chọn như sau: * Những căn cứ lựa chọn : - Về chính trị: + Thể chế chính trị của các quốc gia đó có thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của công ty không? + Sự ổn định hay bất ổn định về mặt chính trị của quốc gia đó. - Về điều kiện tự nhiên. - Về dân số. - Các biến số kinh tế: GDP, GNP. - Trình độ phát triển công nghệ kỹ thuật. - Nhóm căn cứ vào quy chế tiền tệ : + Hình thức bảo hộ mậu dịch. + Tình hình tiền tệ, lạm phát, diễn biến của tỷ giá hối đoái. - Căn cứ thương mại : + Quy mô và tính năng động thị trường. + Sự cạnh tranh quốc tế. + Tham gia các liên kết kinh tế. - Các yếu tố văn hóa, thói quen tiêu dùng tôn giáo. b) Xác định phương thức xuất khẩu. Bao gồm: * Xuất khẩu gián tiếp. * Hợp tác xuất khẩu. * Xuất khẩu trực tiếp. Phương thức xuất khẩu được coi là phương thức xâm nhập thị trường quốc tế phổ biến và đơn giản nhất từ trước tới nay. Xuất khẩu là phương thức đầu tiên được các công ty kinh doanh quốc tế lựa chọn để tiến hành xâm nhập thị trường quốc tế. Xuất khẩu có thể được tổ chức theo nhiều cách thức khác nhau phụ thuộc vào số lượng và loại hình trung gian thương mại. * Xuất khẩu gián tiếp. Là phương thức sử dụng các đại lý xuất khẩu hoặc các công ty thương mại quốc tế hoặc bán hàng cho chi nhánh của các tổ chức nước ngoài đặt ở trong nước. Với việc sử dụng phương thức xuất khẩu này, các công ty sẽ không phải đối mặt với nhiều rủi ro trong kinh doanh, đặc biệt khi các tổ chức nước ngoài sở hữu hoàn toàn về hàng hóa thì rủi ro hầu như là không có. Có thể xem đây là hình thức bán hàng trong nước. Loại hình xuất khẩu này là phù hợp với các công ty mà mục tiêu mở rộng ra thị trường nước ngoài và nguồn lực cho việc xâm nhập thị trường quốc tế là hạn chế. Và tất nhiên, lợi nhuận thu về là không nhiều do công ty phải chia sẻ cho nhà xuất khẩu trung gian một khoản phí khá lớn. Tuy nhiên, việc sử dụng loại hình xuất khẩu này công ty sẽ gặp một số rủi ro cụ thể như : Thứ nhất, công ty sẽ hạn chế vệ việc kiểm soát được mức độ thấp toàn bộ cách thức hàng hóa và dịch vụ được bán ở thị trường nước ngoài, sản phẩm có thể được bán qua những kênh phân phối không thích hợp với dịch vụ và nỗ lực hạn chế xúc tiến không hiệu quả, không đúng với mục tiêu mong đợi của công ty. Rất có thể ảnh hưởng lớn đến uy tín và hình ảnh của công ty trên thị trường nước ngoài làm mất những cơ hội hiếm có để mở rộng thị trường. Thứ hai, đó là khả năng xác lập mối liên hệ trực tiếp với thị trường quốc tế của công ty là hạn chế. Thông tin thị trường giữa doanh nghiệp sản xuất và người tiêu dùng là bị ngăn cách một cách gián tiếp qua trung gian thương mại, thông tin có thể không còn chính xác hoặc sai sự thật. Đồng thời, công ty sẽ rất khó khăn trong nắm bắt thị hiếu tiêu dùng luôn thay đổi ở nước ngoài. Từ đó việc tạo ra sản phẩm nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu tiêu dùng của khách hàng là khó khăn. Thứ ba, khả năng bị mất thương hiệu là rất cao nếu công ty không tìm cách đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu độc quyền sản phẩm của công ty. Việc công ty sử dụng kênh phân phối gián tiếp không hẳn đã là bước đầu tiên có hiệu quả để tiến hành mở rộng thị trường quốc tế. Do đó, đòi hỏi công ty cân nhắc cẩn thận cho những chiến lược lâu dài phát triển và tăng trưởng ở thị trường quốc tế. * Hợp tác xuất khẩu. Phương thức này thích hợp cho các công ty hạn chế nguồn lực hoặc khối lượng bán không đủ lớn để thiết lập một bộ phận xuất khẩu mà lại muốn kiểm soát được thị trường quốc tế ở mức độ nào đó. Trong trường hợp này công ty thỏa thuận với một công ty khác để phối hợp các hoạt động nghiên cứu, xúc tiến thương mại, vận tải, phân phối, tiêu thụ và các hoạt động khác liên quan đến thị trường xuất khẩu. Việc sử dụng phương thức này cho phép công ty có thể xâm nhập được thị trường quốc tế mà vẫn có thể kiểm soát được phần nào các hoạt động phân phối bán hàng, xúc tiến thương mại nguồn thông tin thị trường là cập nhật hơn phương thức xuất khẩu gián tiếp do có sự ràng buộc về trách nhiệm giữa hai bên được nêu rõ trong hợp đồng thỏa thuận. Tất nhiên, lợi nhuận thu về lúc này vẫn chưa là tối đa hóa do bị phân chia với đối tác. * Xuất khẩu trực tiếp. Khi mà khối lượng xuất khẩu đủ lớn và công ty muốn tập trung nguồn lực của mình vào phát triển thị trường quốc tế thì việc thiết lập tổ chức (chi nhánh, bộ phận) xuất khẩu là thích hợp. Tổ chức xuất khẩu này có thể bố trí ở trong nước hoặc ở thị trường nước ngoài. Trong trường hợp này, tổ chức xuất khẩu có thể đảm nhiệm tất cảc các chức năng xuất khẩu, từ việc xác định thị trường tiềm năng, phân đoạn thị trường, thu xếp thủ tục chứng từ xuất khẩu, vận tải cho đến hoạch định triển khai kế hoạch Marketing bao gồm giá, xúc tiến, phân phối sản phẩm cho thị trường quốc tế. Xuất khẩu trực tiếp thường đòi hỏi chi phí cao hơn và ràng buộc nguồn lực lớn để phát triển thị trường. Tuy nhiên, công ty đã đạt được nỗ lực bán hàng và xúc tiến hiệu quả hơn, cho phép công ty duy trì và kiểm soát được ở mức độ cao tất cả các điều kiện mà trong đó sản phẩm được bán ở thị trường quốc tế. Mặt khác, xuất khẩu trực tiếp còn cho phép công ty có sự liên hệ trực tiếp với thị trường, nắm bắt được phản ứng của thị trường để tìm ra những cơ hội mới và xu hướng mới của thị trường, quản lý các hoạt động, nắm bắt, hiểu biết các đối thủ cạnh tranh để điều chỉnh những kế hoạch thích ứng. c) Lựa chọn các loại hình chiến lược Marketing xuất khẩu. - Định dạng thời cơ và tăng trưởng cường độ :Với chiến lược này, thực sự có ý nghĩa nếu như một công ty đã không khai thác hết những thời cơ có trong các nhãn hiệu và các thị trường hiện hữu của mình. Các thời cơ tăng trưởng bao gồm 3 dạng sau : + Thâm nhập thị trường : các công ty có thể tìm cách gia tăng doanh số của sản phẩm hiện có trong những thị trường hiện có thông qua nỗ lực tiếp thị năng động. + Mở rộng thị trường : các công ty tìm cách gia tăng doanh số qua việc đưa sản phẩm hiện có vào các thị trường mới. + Khai thác thị trường : các công ty tìm cách gia tăng doanh số qua việc triển khai những sản phẩm mới có liên quan mật thiết hoặc cải thiện những sản phẩm cho những thị trường hiện có. - Xuất phát từ những nguyên lý để thành công, các công ty phải thực hiện việc làm hài lòng khách hàng tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh của mình. Các loại hình Marketing chiến lược phải thích nghi đối với nhu cầu của người tiêu dùng, cũng như đối với các chiến lược của những đối thủ cạnh tranh. + Marketing chiến lược dẫn đạo thị trường : một công ty nếu đang khống chế được một thị trường, có thể áp dụng một hoặc nhiều chiến lược dẫn đạo thị trường. Công ty có thể cố gắng mở rộng toàn bộ thị trường bằng cách mở rộng, thu hút khách hàng mới, tính năng đa dạng hơn và công dụng mới. Công ty có thể tăng thị phần của mình bằng cách đầu tư nhiều hơn, để thu hút khách hàng bên đối thủ cạnh tranh tung ra những sản phẩm tiếp thị mới để hạ thủ đối thủ cạnh tranh, trước khi họ trở thành mối đe dọa chính yếu. + Marketing chiến lược thách đố thị trường : Những nhà thách đố thị trường là những công ty đứng hàng thứ hai hiện nay đang năng nổ tấn công các đối thủ cạnh tranh để đạt được thị phần nhiều hơn. Công ty thuộc loại này có thể tấn công vào các công ty hàng đầu và các công ty khác có cùng quy mô, tầm cỡ như họ hoặc những công ty có tính chất địa phương và khu vực nhỏ hơn. + Marketing chiến lược theo sau : những công ty sử dụng chiến lược theo sau thị trường tìm kiếm thị phần và lợi nhuận ổn định bằng cách đi theo sau các chương trình tiếp thị, giá, mặt hàng của đối thủ cạnh tranh, giữ khách hàng hiện có và thu hút thị phần nhiều hơn ở những cái mới mà không gây nên sự trả đũa từ các công ty hàng đầu hay các đối thủ cạnh tranh khác. Nhiều công ty đi theo sau thị trường khôn khéo thu được nhiều lợi nhuận hơn các công ty hướng đạo. + Marketing chiến lược tiềm phục : Những công ty nhỏ trong một thị trường hoặc thậm chí công ty lớn cũng chưa có sự định vị chắc chắn. Họ đi sâu vào phục vụ những khoảng khuyết trên thị trường mà các đối thủ cạnh tranh chính yếu xem nhẹ hoặc bỏ qua. Các công ty này thường tránh đối đầu với các công ty mạnh hơn bằng cách chuyên môn hóa theo thị trường khách hàng, mặt hàng hoặc Marketing – mix. Bằng chiến lược này, các công ty có thị phần ít vẫn có thể đạt được lợi nhuận như những đối thủ cạnh tranh mạnh hơn mình. Việc lựa chọn chiến lược thị trường Marketing quốc tế phụ thuộc vào nhiều nhân tố như : các nhân tố thuộc doanh nghiệp, về sản phẩm, về thị trường và các nhân tố Marketing. Trên cơ sở xác định chiến lược lựa chọn theo thị trường, các doanh nghiệp có thể sử dụng các phương pháp khác nhau để thực hiện sự lựa chọn đó. 1.2.4. Xác lập và triển khai các yếu tố Marketing hỗn hợp. Marketing mix là tập hợp những công cụ marketing mà công ty sử dụng để theo đuổi những mục tiêu marketing của mình trên thị trường mục tiêu. Trong marketing – mix có bốn yếu tố gọi là bốn P. Đó là sản phẩm(Product), giá cả( Price), tiêu thụ(Place) và xúc tiến(Promotion). Những biến marketing cụ thể của mỗi yếu tố P được liệt kê trong hình sau: Chủng loại Chất lượng Mẫu mã Sản phẩm Phân phối Tên nhãn Tính năng Bao bì Kích cỡ Giá cả Khuyến mãi Giá quy định Kích thích tiêu thụ Chiết khấu Quảng cáo Bớt giá Lực lượng bán hàng Kỳ hạn thanh toán Quan hệ với công chúng Điều kiện trả chậm Marketing trực tiếp a) Quyết định về sản phẩm xuất khẩu. Sản phẩm xuất khẩu là những sản phẩm mà khách hàng hay người tiêu dùng mua ở thị trường nước ngoài để tiêu dùng nhằm thỏa mãn về vật chất hoặc tinh thần. Sự cạnh tranh, phát triển kỹ thuật, những nhu cầu mới của khách hàng là những điều bức xúc đòi hỏi doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện về sản phẩm của mình. Doanh nghiệp có thể đạt được bằng cách mua lại bằng sáng chế, giấy phép, triển khai mặt hàng mới, cải tiến mặt hàng cũ. - Kế hoạch hóa và phát triển sản phẩm xuất khẩu có các hình thức : + Giữ nguyên cách phổ biến có nghĩa là khi sản xuất hàng hóa cho thị trường nước ngoài không có sự thay đổi nào. Việc giữ nguyên cách phổ biến có sức hấp dẫn vì nó không đòi hỏi chi phí thêm, không đòi hỏi trang bị lại sản xuất hay thay đổi lại biện pháp kích thích. Nhưng xét về lâu dài, đó có thể là hình thức tốn kém. + Cải tiến hay thay đổi sản phẩm hiện tại : cho phù hợp với những điều kiện hay sở thích của địa phương. Công ty có thể gia tăng hiệu quả sử dụng sản phẩm, thay đổi hình dáng, màu sắc của bao bì, tăng thêm các dịch vụ bổ trợ trước, trong và sau khi bán để Marketing mix Thị trường mục tiêu Kênh Phạm vi Danh mục hàng hoá Điạ điểm Dự trữ Vận chuyển tăng tính thích ứng, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. - Quyết đinh bao bì : bao bì có thể là cách rẻ nhất, nhanh nhất và dễ nhất để thích ứng một sản phẩm vào một thị trường. Bao bì là nhằm bảo vệ và khuyếch trương sản phẩm. Khi thiết kế bao bì phải chú ý đến thị hiếu thẩm mỹ và phải thuận tiện cho việc vận chuyển và sử dụng. - Quyết định nhãn mác : chức năng quan trọng nhất của nhãn mác là để nhận biết sản phẩm và người sở hữu nhãn hiệu đó. Do vậy, nhãn mác phải phù hợp với từng loại sản phẩm, rõ ràng, dễ gây ấn tượng và phải tạo sự khác biệt với các nhãn mác của sản phẩm khác nhưng tuân thủ theo pháp luật, phù hợp với quan niệm và thị hiếu của khách hàng. b) Quyết định về giá xuất khẩu. Đây là một trong những quyết định khó khăn nhất trong lĩnh vực hoạt động Marketing xuất khẩu. Việc định giá xuất khẩu thường đối mặt với một số vấn đề như sau : * Mối quan hệ giữa giá xuất nhập khẩu và giá nội địa. - Giá xuất nhập khẩu cao hơn giá nội địa : mối quan hệ này được xác định trên cơ sở chi phí ban đầu cho việc tổ chức xâm nhập thị trường nước ngoài tăng lên đáng kể, chi phí phân phối, bán hàng có thể cao hơn so với thị trường nội địa do sự phức tạp của hệ thống phân phối, thủ tục và chiết khấu thương mại cao. - Định giá xuất khẩu ngang bằng với giá trong nước : phù hợp với công ty lần đầu tiên tham gian xuất khẩu, chưa nắm đầy đủ các điều kiện ở thị trường nước ngoài. - Định giá xuất khẩu thấp hơn giá trong nước : định giá xuất khẩu trong điều kiện giao hàng FOB thấp hơn giá trong nước xuất phát từ những lý do sau: + Mức thu nhập thấp ở một số thị trường nước ngoài có thể đòi hỏi công ty định giá thấp hơn để đạt được mục tiêu khối lượng. + Sự cạnh tranh ở thị trường nước ngoài quyết liệt buộc công ty phải định giá thấp. + Công ty nhận thấy rằng thậm chí xuất khẩu với giá FOB thấp hơn giá nội địa nhưng do các chi phí vận tải, thuế và các chi phí khác phát sinh cao nên sản phẩm được bán ở nước ngoài với giá cao hơn. + Công ty có thể cho rằng những chi phí xuất khẩu thực tế thấp vì những chi phí nghiên cứu và phát triển điều hành và một số chi phí khác được hạch toán vào sản phẩm được bán ở thị trường trong nước. * Những quyết định giá xuất khẩu : Tìm ra những mức giá ở thị trường nước ngoài hợp lý là một nhiệm vụ của Marketing xuất khẩu. Hơn nữa các công ty xuất khẩu cần phải định hướng thị trường trong những quyết định giá và điều kiện thanh toán, điều kiện giao hàng. Dưới đây ta xem xét những quyết định liên quan đến giá cả và những điều kiện bán cho những nhà nhập khẩu : - Quyết định về đồng tiền tính giá. - Định giá xuất khẩu thích ứng với điều kiện cơ sở giao hàng tương ứng. - Định giá xuất khẩu thích ứng với phương thức thanh toán c) Quyết định phân phối xuất khẩu. Để kết nối giữa công ty với khách hàng của mình trên thị trường quốc tế, công ty cần nghiên cứu để đưa ra những chiến lược phân phối cho phù hợp với nguồn lực của mình. * Chiến lược phân phối nước ngoài : Đây là một kế hoạch mục tiêu nhằm đạt được mục tiêu phân phối giữa các quốc gia của công ty ở thị trường nước ngoài. Đối với chiến lược này, chỉ quan tâm đến lựa chọn đánh giá và kiểm soát các thành viên kênh. * Chiến lược phân phối quốc tế : Là một kế hoạch mục tiêu nhằm đạt được mục tiêu phân phối giữa các quốc gia của công ty. Công ty cần lựa chọn và quản lý các thành viên kênh, đồng thời ra quyết định về nguồn cung cấp, dự trữ và vận chuyển cùng với hệ thống kiểm soát hậu cần nhằm hỗ trợ đạt được các mục tiêu của công ty. * Chiến lược phân phối toàn cầu : Là một kế hoạch mục tiêu nhằm đạt được đồng thời các mục tiêu phân phối trên thị trường toàn cầu và trên thị trường nước ngoài của công ty. Công ty cần phải có những quyết định về nguồn cung cấp, dự trữ, vận chuyển cũng như kênh địa phương cho từng thị trường. Ngoài ra công ty cần phát triển hệ thống phân phối đan chéo quốc gia và một tập hợp các hệ thống phân phối nước ngoài để hỗ trợ đồng thời việc giành được mục tiêu của công ty. Tùy theo khả năng của mình mà công ty cần lựa chọn một hoặc một số chiến lược phù hợp và thiết lập một quy trình phân phối chung theo các bước sau : - Thiết lập chính sách phân phối xuất khẩu - Thiết lập các mục tiêu của kênh phân phối và các hạn chế của kênh phân phối. - Xác lập hệ thống các kênh phân phối thế vị. - Đánh giá kênh phân phối xuất khẩu. - Lựa chọn các thành viên kênh. - Quản trị các mối quan hệ kênh. d) Quyết định xúc tiến thương mại trong Marketing xuất khẩu. * Khái niệm : Xúc tiến thương mại là một lĩnh vực hoạt động Marketing đặc thù và có chủ định của công ty kinh doanh nhằm định hướng vào việc chào hàng, chiêu khách và xác định mội quan hệ thuận lợi nhất giữa công ty và tập khách hàng tiềm năng trong điểm để triển khai có hiệu quả chiến lược và các xúc tiến Marketing hỗn hợp của công ty kinh doanh. * Các quyết định về xúc tiến : Các quyết định xúc tiến có quan hệ lẫn nhau và gồm các hình thức sau: - Bán hàng cá nhân : người bán hàng truyền đạt một cách trực diện đến khách hàng tiềm năng. - Quảng cáo : đó là các thông điệp bán hàng qua các phương tiện thông tin đại chúng với điều kiện người làm quảng cáo phải trả tiền. - Xúc tiến bán : đó là tất cả các hoạt động bán hàng mang tính chất bổ xung và củng cố việc bán hàng cá nhân và quảng cáo. Các hoạt động này thị trường không định kỳ và có thời gian tồn tại tương đối ngắn. Các hình thức xúc tiến : . Catalog cho nước ngoài. . Hàng mẫu. . Xuất bản phẩm về công ty hay tổ chức. . Triển lãm và hội chợ. . Các tài liệu khác liên quan. - Quan hệ công chúng : là một quan hệ kinh doanh đặc thù nhằm đánh giá thái độ của một nhóm liên quan nhận biết được các yếu tố ảnh hưởng đến lợi ích của nhóm này nhằm hướng được sự hiểu biết và tin tưởng của họ đối với hoạt động kinh doanh của công ty. 1.2.5.Triển khai chiến lược 1.2.5.1) Ngân sách cho chiến lược Marketing xuất khẩu Đây là yếu tố quan trọng mang tính quyết định, xác thực và khả năng thực thi chiến lược Marketing xuất khẩu của công ty kinh doanh quốc tế.Chiến lược Marketing xuất khẩu được xây dựng thì ngay từ bước đầu là các hoạt động nghiên cứu thị trường quốc tế của công ty cũng đòi hỏi một lượng kinh phí không nhỏ.Tiếp đến, các chi phí phát sinh và chi phí cho việc thực thi chiến lược., biến chiến lược trở thành hiện thực đối với hoạt động của công ty kinh doanh quốc tế. Vốn là yếu tố đặc biệt quan trọng đầu tiên đối với mọi hoạt động của công ty kinh doanh. Với công ty kinh doanh quốc tế muốn mở rộng kinh doanh ra thị trường quốc tế hoặc là chiếm lĩnh được thị phần là cao, thắng lợi trong cạnh tranh…..Tất cả hoạt động này đều đòi hỏi công ty phải bỏ ra một khoản chi phí không nhỏ. Công ty kinh doanh quốc tế phảI dự đoán được mức chi phí cho việc thực thi và triển khai chiến lược của mình. Từ đó công ty xác định được kết quả của chiến lược và mức lợi nhuận đem lại có thể. Việc thực hiện chiến lược marketing quốc tế cho công ty bao gồm nhiều công đoạn và ở mỗi công đoạn lại cần các chi phí là khác nhau. Công ty kinh doanh quóc tế phải tính toán thật kỹ lưỡng cho việc xác lập ngân quỹ sao cho phù hợp với tổng công đoạn nhằm đảm bảo cho chiến lược marketing xuất khảu của công ty là khả thi và hiệu quả 1.2.5.2)Nguồn lực của công ty kinh doanh quốc tế Tận dụng được lợi thế có nguồn lao động dồi dào, với giá lao động rẻ, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đang chiếm ưu thế hơn so với các doanh nghiệp xuất khẩu trong khu vực,. Tuy nhiên, chất lượng nguồn lao động này không cao do chưa được đầu tư đúng mức trong việc hướng nghiệp, đào tạo chuyên sâu…..Do vậy, dẫn đến năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, trình độ quản lý yếu kém cũng dẫn đến chi phí cao và năng suất thấp nên khó đáp ứng được việc giao hàng đúng hạn. Hơn nữa, ngành dệu may của vn hiện nay cũng có trang bị các thiết bị tân tiến nhưng số lượng các loại máy này chỉ chiếm một phần nhỏ khoảng 30-40% trong tổng thể dây chuyến sản xuất.Thêm vào đó, khẩu thiết kế mẫu mã. tạo mẫu còn yếu kém nên chúng ta chủ yếu còn may gia công theo mẫu đặt sẵn của nước ngoài. Nói chung đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam , sự hiểu biết về quy trình , nội dung và cách thức quản trị chiến lược marketing nói riêng còn nhiều hạn chế.Khả năng sắp xếp các quy trình quản trị chiến lược marketing xuất khẩu còn đơn giản và theo nhiều chiều hướng khác nhau. Do vậy chưa đảm bảo tính nhất quán, doanh nghiệp chưa xác định được mục tiêu chiến lược lâu dài mà mới chỉ chú trọng đến các mục tiêu ngắn hạn.Việc tổ chức các hoạt động môi trường marketing quốc tế và hệ thống tổ chức thông tin marketing mặc dù đã được các doanh nghiệp chú ý đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. 1.2.5.3) Kế hoạch hành động của công ty Sau khi thu thập thông tin về thị trường mục tiêu, các nhà quản trị của doanh nghiệp cần phải phân tích, đánh giá và xây dựng một kễ hoạch mục tiêu. Kế hoạch marketing là biểu hiện cụ thể nhất về sự linh hoạt của một doanh nghiệp bao gồm bốn yếu tố: sản phẩm, giá, phân phối và xúc tiến.Nếu một kế hoạch có thể có khả năng thực hiện được thì cần xem xét nên hoàn thiện điểm nào, để nó hoàn chỉnh trước khi đI vào thực hiện. Thông thường, việc kiểm tra thường xuyên những thông tin ở những môi trường ổn định là rất cần thiết.Nó có thể giúp doanh nghiệp tránh gặp phải những thay đổi bất thường, những rủi ro mà có thể ảnh hưởng xấu đến kế hoạch marketing của doanh nghiệp . Và mỗi một chu kỳ hoặc một giai đoan của quá trình sản xuất, các doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch để có thể dự tính trong năm nay, công ty có thể đạt giá trị sản xuất là bao nhiêu, đạt doanh thu và lợi nhuận cao hay thấp.Đến cuối kỳ hoạt động, công ty có thể so sánh giữa giá trị thực tế hoạt động của công ty với mức kế hoạch đã đề ra từ đầu để từ đó tìm ra những nguyên nhân khi không đạt đúng mức kế hoạch và đồng thời phát huy ngày cang cao yếu tố đã giúp công ty vượt mức kế hoach. 1.2.6.Kiểm soát chiến lược Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả đòi hỏi các nhà quản trị công ty phảI tiến hành kiểm tra, kiểm soát các hoat dộng marketing vì trong , quá trình triển khai kế hoạch marketing có nhiều yếu tố phát sinh mà các nhà chiến lược marketing không thể lường trước được. Lãnh đạo công ty đã tiến hành triển khai kế hoạch hàng năm thông qua các chỉ tiêu kinh tế; -Phân tích doanh số bán để định lượng và đánh giá được doanh số tăng hay giảm so với dự kiến, tìm nguyên nhân để có biện pháp -Phân tích thị phần để biết được mức độ chiếm lĩnh thị trường của công ty là bao nhiêu, tăng hay giảm và đang ở vị trí nào? -Phân tích chi phí marketing để đảm bảo công ty không chi quá mức, theo dõi quyết định chi phí cho các hoạt động đó có phù hợp với mục tiêu của công ty hay chưa. Việc phân tích được các chỉ tiêu kinh tế trên là cơ sở cho các nhà quản trị chiến lược có thể phân tích được khả năng sinh lời trên từng thị trường cụ thể 1.3.Hệ thống chỉ tiêu đánh giá 1. Tồng kim ngạch xuất khẩu được tính bằng tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu quy đổi ra USD: Mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu: Tổng kim ngạch năm thực hiện K= *100% Tổng kim ngạch năm trước 2. Chỉ tiêu lợi nhuận thực tế P = Doanh số xuất khẩu – Giá vốn – Tổng chi phí 3. Tỷ suất lợi nhuận Lợi nhuận P = *100% Doanh số 4. Mức độ mở rộng thị trường được đánh giá qua: *) Danh mục mặt hàng: tính bằng tỷ số mặt hàng doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu - Khu vực thị trường: số thị trường đã và sẽ tiến hành xuất khẩu *) Tỷ trọng chiếm lĩnh thị trường: Tổng giá trị thực tế của doanh nghiệp K= *100% Tổng giá trị mặt hàng xuất khẩu của cả nước *) Chỉ tiêu thời gian hoà vốn: d Xi = P-V *) Hiệu quả xuất nhập khẩu HqXNK = TG nhập-TG xuất- TG bán ngoại tệ- TG mua ngoại tệ ( TG: tỷ giá) Chi phí mua+ Phí+ Thuế (VND) Tỷ giá xuất= Tổng số ngoại tệ thu được Doanh số bán lô hàng nhập(VND) Tỷ giá nhập = Tổng số ngoại tệ bỏ ra để mua lô hàng *) Hiệu quả xuất khẩu: HX = Tỷ giá mua ngoại tệ –Tỷ giá xuất *) Doanh thu lãi xuất khẩu: TX DX = CX Trong đó:+ TX :thu nhập do xuất khẩu tính bằng ngoại tệ được quy đổi ra VND theo tỷ giá công bố của ngân hàng( sau khi trừ tổng chi phí) + CX: tổng chi phí cho xuất khẩu Chương II: Thực trạng chiến lược marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất - xuất nhập khẩu việt an 2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty. 2.1.1. Giới thiệu sơ lược về công ty. Tháng 4 năm 1993 công ty sản xuất – kinh doanh Trường An được thành lập trực thuộc ban tài chính Quản trị trung ương, là công ty được góp vốn bởi các đơn vị : Tổng công ty may Việt Tiến, Bộ công nghiệp nhẹ thành ủy Hà Nội, công ty nông thổ sản I, Ban tài chính trung ương và Bộ Thủy sản. Ngày 1-4-1994 do cơ cấu góp vốn của các công ty liên kết được xem xét và xác định lại chủ yếu là của nhà nước và tổ chức toàn thể, công ty đã chuyển đổi và thành lập lại vẫn có tên là công ty Trường An, là doanh nghiệp trực thuộc Ban tài chính quản trị trung ương. Ngày 1-7-1995 do quy mô sản xuất kinh doanh được mở rộng, đa dạng hóa loại hình hoạt động, đủ sức hoạt động kinh doanh độc lập. Ban Tài chính quản trị trung ương đã sát nhập công ty Trường An vào Tổng công ty Hồ Tây sau khi trả lại vốn cho các đơn vị liên kết. Ngày 4-12-1995 theo quyết định số 4299/QĐUB công ty đổi tên chính thức thành công ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An trực thuộc Tổng công ty Hồ Tây. Là công ty mới thành lập, bộ máy tổ chức và hoạt động kinh doanh bắt đầu hình thành theo mô hình tự chủ và chịu trách nhiệm hạch toán độc lập. Từ năm 1996, công ty bắt đầu bắt tay vào sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Từ đó đến nay công ty đã không ngừng phấn đấu khắc phục mọi khó khăn, sáng tạo trong lao động, mỗi cá nhân đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và tham gia tích cực các công việc của công ty nói riêng và Tổng công ty nói chung. Công ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An là một doanh nghiệp nhà nước, công ty hoạt động trên cơ sở nguồn vốn được cấp, sử dụng có hiệu quả và bảo toàn phát triển vốn do Tổng công ty giao nhằm duy trì sản xuất kinh doanh. + Tên hiện tại : Công ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An. + Tên giao dịch : VAPROMEXCO (Việt An Production Export – Import Company). + Địa chỉ : Số 239 - Đặng Tiến Đông - Đống Đa – Hà Nội. + Tel : 84-4-8572091. + Fax : 84-4-8572075. + AIC N0 : 001.1.37.3856 tại Ngân hàng Ngoại thơng 198 Trần Quang Khải - Hà Nội. 2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực kinh doanh sản xuất chủ yếu. a) Chức năng của công ty. - Sản xuất, xuất nhập cung cấp những tiến bộ khoa học kỹ thuật, các thiết bị kỹ thuật thích hợp cùng với các đơn vị thành viên. - Nhận xuất nhập khẩu ủy thác các sản phẩm may mặc đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. b) Nhiệm vụ của công ty. - Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch hàng năm phù hợp với nhiệm vụ của Tổng công ty giao và nhu cầu chung của thị trường. - Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ, phương thức quản lý tiêu thụ từ chuyển nhượng tài sản sử dụng để tái đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ của công ty. - Tự tạo nguồn vốn, bảo toàn vốn của công ty và sản xuất có hiệu quả từ nguồn vốn đó. - Thực hiện các nghĩa vụ với người lao động theo quy định của Bộ luật lao động, Luật Công đoàn. - Thực hiện chế độ báo cáo thống kê, kế toán, báo cáo định kỳ theo quy định của Tổng công ty và công ty tự chịu trách nhiệm về tính xác thực của nó. - Tuân thủ và chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. c) Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu. - Sản xuất, gia công hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng may mặc. - Kinh doanh hàng may mặc, sản phẩm chủ yếu bao gồm : áo jacket các loại, áo sơ mi,quần áo lao động…. 2.1.3. Cơ cấu bộ máy tổ chức, nhân sự và cơ sở vật chất kinh doanh của công ty Việt An. a) Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty Việt An. b) Ban quản lý nhân sự chung. Với sơ đồ bộ máy quản lý này, công ty Việt An đã tổ chức có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tận dụng được hết khả năng nguồn nhân lực sẵn có của mình. Giám đốc công ty có vai trò nhất trong toàn công ty, là người chỉ đạo chung, có trách nhiệm cá nhân tước các quyết định tổ chức, sản xuất và phân công nhiệm vụ và quyền hạn cho các phòng ban. Trong ban giám đốc công ty, ngoài Giám đốc có hai phó giám đốc là : phó giám đốc kinh doanh và phó giám đốc sản xuất. Hai phó giám đốc này có nhiệm vụ quản lý và điều hành từng lĩnh vực cụ thể là sản xuất và kinh doanh của công ty, giúp giám đốc quản lý sâu từng bộ phận nhân sự, sau đó có báo cáo thường xuyên tình hình hoạt động cụ thể của lĩnh vực mình phụ trách cho giám đốc công ty. Ngoài ra, công ty còn có một số các phòng ban khác nhau, đảm nhiệm một nhiệm vụ cụ thể như phòng tổ chức hành chính và lao động tiền lương; phòng tài chính kế toán; phòng kế hoạch tổng hợp; phòng kỹ thuật; phòng xuất – nhập khẩu; xưởng may. Các phòng ban này đều đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, góp phần tạo sự phát triển chung cho công ty trong thời gian qua. Xưởng may I và II đều có cơ cấu tổ chức giống nhau. Mỗi xưởng đều có bộ phận kỹ thuật xưởng, bộ phận đóng gói, tổ cắt, tổ may. Có hai xởng có trách nhiệm tiến hành sản xuất theo kế hoạch được giao một cách độc lập, có chức năng riêng nhưng vẫn có quan hệ mật thiết với nhau. Nguyên vật liệu chính được giao cho tổ cắt, cắt thành bán thành phẩm dựa vào định mức kỹ thuật do phòng kỹ thuật của công ty thiết kế. Mỗi tổ may nhận bán thành phẩm cắt và đảm nhiệm may cho đến khi thành sản phẩm. Việc phân tổ may giúp cho Giám đốc. phó giám đốc phụ trách sản xuất theo dõi và quản lý dễ Giám đốc Phòng kinh doanh Phó giám đốc kinh doanh Phòng kế toán tài chính Phòng tổ chức hành Phòng KT tổng hợp Phó giám đốc sản Bảo vệ Y tế Phòng kỹ thuật Xưởn g may Xưởn g may Nhà kho Nhà kho Phòn g XNK dàng hơn. Bảng chỉ tiêu lao động của công ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An trong giai đoạn 2001-2004. c) Cơ sở vật chất kinh doanh của công ty Việt An. Lúc mới thành lập, công ty chỉ có 225 máy móc thiết bị về may mặc các loại, tổng giá trị tài sản 18,25 tỷ đồng. Với sự cố gắng đầu t đến nay, công ty đã có khoảng 498 máy móc thiết bị về sản xuất may mặc với nhiều chủng loại nhập từ Nhật, Tây Đức, Hungary … Dây chuyền sản xuất của công ty đã mang tính chuyên môn hóa, do đó phân chia trách nhiệm rõ ràng từ khâu "trải vải giác mẫu" đến "đóng gói", "nhập kho" … Tính cho đến thời điểm hiện nay, công ty có đủ khả năng sản xuất các loại sản phẩm có chất lợng cao. Tuy nhiên trong thời gian tới, để nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh cho sản phẩm, công ty Việt An vẫn tiếp tục nghiên cứu và đầu t thêm nhiều loại máy móc thiết bị tự động, công nghệ hiện đại để có thể sản xuất nhiều mặt hàng cao cấp hơn, chủng loại đa dạng hơn, đáp ứng nhanh chóng kịp thời cho các đơn đặt hàng lớn của nớc ngoài. d) Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh chủ yếu của công ty trong những năm gần đây. Qua bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Việt An nhận thấy rằng : Năm Tổng doanh thu (triệu đồng) Kim ngạch XNK (100 USD) Nộp ngân sách (triệu đồng) Lợi nhuận (triệu đồng) Thu nhập bình quân (1000đ) 2001 63.892 30.801 415.25 431.1 804.3 2002 68.340 32.155 397.32 557.15 835.1 STT Chỉ tiêu ĐVT 2001 2002 2003 2004 1 Tổng số lao động Người 2670 2960 3071 3378 + Trình độ đại học Người 962 938 970 1080 + Công nhân kỹ thuật Người 1708 2022 2001 2298 2 Thu nhập bình quân Nghìnđồng 804,3 835,1 918,6 943,3 2003 88.038 39.403 326.92 561.88 1918.6 2004 177.330 35.975 665.94 1232.22 1943.3 Trong 4 năm trở lại đây, doanh thu của công ty có xu hớng tăng lên đều đặn. Năm 2003 đạt 88.038 triệu đồng, tăng lên 28.8% so với năm 2002, và năm 2004 tăng vợt bậc 101% đạt mức doanh thu rất cao là 177330 triệu đồng. Điều này phản ánh hoạt động kinh doanh của công ty là có hiệu quả. Cũng qua bảng kết quả trên cho thấy, kim ngạch của hoạt động xuất nhập khẩu của công ty luôn có sự biến đổi. Đạt mức kinh doanh thấp nhất là 30801000 USD vào năm 2001, cao nhất là năm 2003 với 39403000 USD, tăng hơn 22.54% so với năm 2002. Tuy nhiên, đến năm 2004, kim ngạch xuất nhập khẩu lại giảm 8.69% so với năm 2003 chỉ đạt 35975000 USD. Việc giảm kim ngạch giá trị xuất - nhập khẩu là do thị trờng xuất khẩu chính của công ty đã giảm từ 20 nớc vào năm 2003 xuống 14 nớc vào năm 2004. Và trong thời gian tới công ty đang có kê hoạch nhằm lấy lại những thị trờng đã mất và tìm kiếm một số thị trờng mới để đẩy mạnh mc kim ngạch cũng nh doanh thu của công ty cao hơn. Tình hình nộp ngân sách Nhà nớc của công ty giảm dần từ năm 2001 đến năm 2003, thấp nhất là 320.92 triệu đồng vào năm 2003, cao nhất trong 4 năm qua là 665.94 triệu đồng vào năm 2004, dạt tăng 103.7% so với năm 2002. Kết quả này cho thấy công ty đang ngày đóng góp cho Nhà nớc là cao, góp phần trong việc xây dựng, phát triển nền kinh tế xã hội của đất nớc ngày một vững mạnh đi lên. Một số chỉ tiêu quan trọng nhất trong bảng kết quả trên đó là lợi nhuận qua các năm 2001, 2002, 2003 và 2004 của công ty. Trong 3 năm liên tục 2001 đến 2003, lợi nhuận của công ty giảm hơn so với năm 2001. Năm 2002 đạt 557.15 triệu đồng giảm 61.07% so với năm 2001. Năm 2003 là 61.88 triệu đồng chỉ bằng 60.73% so với năm 2001 tuy cao hơn 0.85% so với năm 2002. Tuy nhiên ,với những chiến lợc và kế hoạch kinh doanh hiệu quả ,công ty đang dần vợt qua đợc giai đoạn suy thoái về lợi nhuận . Đến năm 2004 ,kết quả đáng mừng là công ty đã thu đợc những khoản lợi nhuận cao là 1231.22 triệu đồng ,vuợt 119.3%so với năm 2003. Kết quả này đã cho thấy những cố gắng và nỗ lực hết mình của các nhân viên trong công ty cũng nh chứng tỏ hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng có hiệu quả hơn. Lợi nhuận của công ty đang từng bớc ổn định và có xu hớng tăng dần . Đó là kết quả đóng góp của rất nhiều sự cố gắng làm việc của cán bộ công nhân viên trong công ty. Do đó ,thu nhập bình quân đầu ngời của họ cũng là những con số tăng dần .Năm 2002 là 1035.1 triệu đồng tăng 3.07% so với năm 2001. Vào năm 2004 tăng 2.42% so với năm 2003 với mức lơng là 1043.3 triêu đồng/đầu ngời . Tóm lại ,qua bảng kết quả kinh doanh chủ yếu của công ty trong những năm gần đây đã phản ánh được hoạt động kinh doanh của công ty đang ngày càng có hiệu quả .Và điều này đã là những viên gạch cơ bản ,vững chắc để giúp công ty tự xây dựng cho mình thành công ty kinh doanh quốc tế có thơng hiệu ,khẳng định đợc vị trí ,vai trò trên thị trờng quốc tế trong thời gian tới . 2.2.Thực trạng chiến lược marketing xuất khẩu sản phẩm của công ty 2.2.1.Thực trạng tình thế và thời cơ chiến lược marketing xuất khẩu *) Những thời cơ của công ty Trong thời kỳ toàn cầu hoá hiện nay, thị trường kinh doanh được mở rộng và đó là cơ hội cho các công ty kinh doanh nói chung và công ty sản xuất-xuất nhập khẩu Việt An nói riêng trong việc phát triển mở rộng thị trường. Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, công ty đã tự hạch toán kinh tế độc lập phù hợp với quy định của Nhà nước. Việc tự hạch toán sẽ giúp cho công ty chủ động trong sản xuất kinh doanh , chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng. Qua đó sẽ giúp cho công ty nâng cao được tính tự chủ và kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua nhiều năm, công ty vẫn luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình của Bộ Thương mại, Hiệp hội dệt may, Tổng cục hải quan… …đã thúc đẩy hoạt động của công ty phát triển . Hơn nữa, sản phẩm của công ty đã được chứng nhận ISO 9002….nên đã giúp cho việc tiêu thụ sản phảm của công ty ngày càng nhiều hơn. Với một lợi thế là nguồn lao động dồi dào trong đó tỉ lệ cán bộ trên Đại học là 1080 trên tổng sô 3378 lao động trong công ty đã giúp công ty luôn nắm bắt kịp thời những biến đổi của môi trường kinh doanh, nhận biết đươcnhững nguy cơ, rủi ro đang tồn tại. *) Những thách thức đối với công ty Phương thức sản xuất chính của công ty vẫn là gia công quốc tế nến sự chủ động trong chiến lược sản xuất kinh doanh của công ty còn hạn chế. Nguyên phụ liệu đa phần là nhập khẩu ở nước ngoài do đó hiệu quả kinh tế còn thấp, đời sống cán bộ công nhân viên chưa cao. Máy móc của công ty phần lớn là các máy móc cũ,tốn nhiều nguyên liệu mà năng suất sản xuất không cao nên chi phí vào máy móc lạc hậu còn tốn kém. Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ nên xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh lớn như Trung quốc, ấn độ…….Do vậy mà công ty đang gặp nhiều khó khăn trong cuộc cạnh tranh khốc liệt nhằm giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu.Tuy công ty đã nhận thức được những đối thủ cạnh tranh của mình nhưng công ty chưa có những chiến thuật và chiến lược hiệu quả để vượt lên trước đối thủ. Không những vậy, công ty chưa có đội ngũ marketing có trình độ cao để đáp ứng việc nghiên cứu và tìm hiểu thị trường nên công ty chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng. Công ty không chỉ chia sẻ thị phần với các đối thủ ngoài nước mà còn phảI đương đầu với các doanh nghiệp dệt may trong nước có tên tuổi như: May 10, Việt Tiến,Thăng Long….Vì thế, công ty không thể đứng yên mà trông chờ vào các đơn đặt hàng của khách hàng truyền thống mà cần phải cố gắng tìm kiếm các bạn hàng mới và chú trọng vào việc cải tiến mẫu mã nếu không công ty có thể sẽ rơi vào nguy cơ tụt hậu. 2.2.2.Thực trạng mục tiêu chiến lược của công ty Lợi nhuận luôn là mục tiêu chiến lược hàng đầu đối với bất kỳ công ty kinh doanh quốc tế nào.Và trong 4 năm từ 2001 đến 2004, lợi nhuận của công ty sản xuất-xuất nhập khẩu Việt An không ngừng tăng lên.Năm 2002 là 444,21 triệu đồng tăng 10.37% so với năm 2001 nhưng thấp hơn so với năm 2003 là 40.1%.Và năm 2004 công ty đạt mức lợi nhuận là 856.5 triệu đồng vượt năm 2003 là 37.2%.Qua những kết quả trên đã chứng tỏ công ty sản xuất- xuất nhập khẩu Việt Anđã thực hiện tốt mục tiêu chiến lược quan trọng của công ty . Lợi nhuận của công ty ngày càng tăng cao nhưng không đồng nghĩa với việc vị thế của công ty được khẳng định. Phương thức xuất khẩu chính của công ty vẫn là hoạt động gia công quốc tế nên công ty không được phép gắn logo của công ty. Chính vì vậy người tiêu dùng không được biết đến xuất xứ của sản phẩm từ công ty.Chính vì sự giới hạn trên mà thương hiệu của công ty vẫn còn bị lu mờ trên thị trường quốc tế. Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mạnh mẽ và luôn diễn ra những cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau và với các thị trường nước ngoài nên mục tiêu đẩm bảo tính nhân bản trong các công ty rất khó trong việc thực hiện mục tiêu. Mục tiêu này nhằm đảm bảo sự cạnh tranh công bằng và lành mạnh giữa các doanh nghiẹp .Tuy nhiên, trong năm 2004 vừa qua đã có nhiều doanh nghiẹp dệt may tham gia mua bán quotas.Các công ty đó đã đặt mục tiêu lợi nhuận trên hết mà không nghĩ đến mục tiêu này. Qua gần 10 năm hoạt động, công ty sản xuất-xuất nhập khẩu Việt An vẫn luôn xứng đáng là một trong những doanh nghiẹp dệt may vừa hoạt động kinh doanh có hiệu quả vừa đảm bảo được tính nhân bản sâu sắc Tuy phương thức gia công quốc tế không mang lại lợi nhuận cao như phương thức xuất khẩu trực tiếp nhưng nó đảm bảo cho công ty tránh được những rủi ro cao. Nguồn lực của công ty còn chưa mạnh nên việc công ty lựa chọn hình thức xuất khẩu trực tiếp cần có sự tính toán, có chiến lược cúng như kế hoạch marketing hợp lý để giảm thiểu những rủi ro xuống mức thấp nhất có thể. 2.2.3.Thực trạng marketing mục tiêu của công ty a) Lựa chọn thị trường mục tiêu Hoạt động kinh doanh chính của công ty sản xuất-xuất nhập khẩu Việt An chủ yếu là hướng về xuất khẩu và gia công đã đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển ngành may mặc của cả nước. Vì vậy, thị trường xuất khẩunước ngoài luôn được công ty tìm kiếm quan tâm, khai thác và chú trọng. Để có được những cơ sở cho việc lựa chọn thị trường, công ty sản xuất-xuất nhập khẩu Việt An đã đánh giá thực trạng các loại thị trường như sau: *)Thị trường EU: đây là thị trường trọng điểm gồm nhiều nước công nghiệp phát triển như Anh, Pháp,Đức….Thu nhập của họ tương đối cao. Do đó sản phẩm may mặc ngoài việc thoả mãn nhu cầu cơ bản của con người còn phải làm tăng vẻ đẹp, quý cách, dáng vẻ thanh lịch hay sang trọng….thích hợp với thị hiếu tiêu dùng.Vì vậy thị trường EU đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao mẫu mã thiết kế không chỉ phù hợp, đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế của riêng từng nước mà còn phải phù hợp với toàn khối EU. Năm 2002, giá trị xuất khẩu của thị trường EU chiếm tỷ trọng là 46.27% là thị trường xuất khẩu đứng đầu của công ty và thứ hai là thị trường Mỹ với 23.87% tổng giá trị xuất khẩu của công ty .Tuy nhiên , sau năm 2003 ,thị trường Mỹ đã vươn lên đứng đầu với Eu đứng vị trí thứ hai. Bên cạnh đó ,khi xâm nhập thị trường Eu ,công ty gặp khó khăn khi phải đối đầu với nhiều đối thủ mạnh như : Trung Quốc ,ấn Độ , Indonexia…. Trước năm 2005, công ty thuận lợi khi được hưởng thuế suất MFN và chịu hạn ngạch . Nhưng sau năm 2005 công ty Việt An nói riêng và ngành may mặc Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thử thách cam go hơn khi EU xoá bỏ hạn ngạch. * Thị trường Mỹ : là một trong những cường quốc kinh tế, khoa học, công nghệ và quân sự hàng đầu trên thế giới, với GDP hàng năm vượt trên 9000 tỷ USD và nhập khẩu hàng năm trên 1100 tỷ USD. Chính vì sự lớn mạnh như vậy nên Mỹ luôn là thị trường đầy tiềm năng của công ty. Năm 2002, khi công ty mới xâm nhập vào thị trường này chỉ mới đạt 6348440 USD với tỷ trọng là 23,87% giá trị tổng kim ngạch. Nhưng đến năm 2003, đã đạt tới 10474710 USD và vươn lên trở thành thị trường số một của công ty với tỷ trọng cao là 39,8 % ; trong đó khi EU chiếm tỷ trọng là 37,78% giá trị tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Tuy nhiên, Mỹ là một thị trường lớn, rất hấp dẫn nhưng đồng thời cũng là thị trường rất khó tính, luôn có những yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, đơn đặt hàng thường lớn, thời hạn giao hàng ngắn nên thương gây nhiều áp lực cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Không chỉ vậy, các nhà nhập khẩu Mỹ luôn đặt hàng mức giá thấp hơn các đối tác như : EU, Nhật Bản … Mà thị trường Mỹ quá xa so với doanh nghiệp nên chi phí vận tải, bảo hiểm chuyên chở hàng xuất khẩu cao nên dẫn tới chi phí kinh doanh sẽ tăng cao như vậy làm giảm tính cạnh tranh về sản phẩm may mặc của công ty. * Thị trường Đông á : là thị trường gần gũi với Việt Nam không chỉ đơn thuần về khoảng cách địa lý mà cả sự tương đồng về nét văn hóa. Hàng năm công ty xuất khẩu một lượng sản phẩm lớn sang các nước Đông á này. Tuy nhiên đây không phải là thị trường tiêu thụ mà là các thị trường thuê công ty ở Việt Nam gia công để tái xuất khẩu sang nước thứ ba. Do vậy, trong thời gian tới đòi hỏi công ty tìm các giải pháp tăng trưởng trong xuất khẩu trực tiếp, giảm gia công xuất khẩu qua trung gian là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. * Thị trường CHLB Nga và Đông Âu : là thị trường truyền thống của công ty nên có nhiều thuận lợi trong việc nắm bắt, tiếp cận và hiểu biết rõ các cơ hội của thị trường này. Và đồng thời, đây cũng là thị trường nhập khẩu hàng dệt may khá dễ tính. Tuy nhiên, hiện nay hàng sản phẩm xuất khẩu của công ty sang thị trường này vấp phải sự cạnh tranh với hàng Trung Quốc và các nước trong khu vực Đông á. Thêm vào đó là tình hình chính trị và kinh tế ở Nga mấy năm gần đây không ổn định dẫn đến kim ngạch xuất khẩu của công ty vào thị trường này không ổn định. * Thị trường khác : ngoài các thị trường chính trên, công ty Việt An còn xuất khẩu sang một số thị trường khác như Bắc Mỹ, úc … Đây là những thị trường khá khó tính và kim ngạch xuất khẩu của công ty sang thị trường này là không đáng kể. Nhưng hy vọng trong thời gian tới , sẽ là những thị trường tiềm năng, có nhiều triển vọng của công ty. b) Thực trạng hình thức xuất khẩu của công ty. Hiện nay công ty đang sử dụng ba loại hình thức xuất khẩu chủ yếu : đó là xuất khẩu trực tiếp ; xuất khẩu gián tiếp và hợp tác xuất khẩu. Cả ba hình thức này được công ty sử dụng có hiệu quả và có sự đan xen kết hợp giữa các phương thức với nhau. * Xuất khẩu trực tiếp. Hình thức xuất khẩu này của công ty chiếm tỷ lệ từ 30 đến 36% hàng xuất khẩu của công ty. Với hình thức này công ty có điều kiện giao dịch trực tiếp và mở rộng quan hệ với nhiều bạn hàng mới. Không chỉ có vậy, nhờ phương thức này công ty có thể kiểm soát được các thông số Marketing xuất khẩu, kiểm soát được chi phí và lợi nhuận. Lợi nhuận không bị chia sẻ cho những nhà trung gian. * Xuất khẩu gián tiếp. Tỷ lệ hàng xuất khẩu theo phương thức này khá nhỏ, khoảng 10 đến 15%. Chủ yếu là công ty áp dụng với các đơn hàng của các công ty may trong nước. Xuất khẩu theo phương thức này an toàn hơn trong kinh doanh, tận dụng được nguồn vốn, lao động nhàn rỗi, không phải triển khai lực lượng bán hàng ở nước ngoài, hạn chế được các rủi ro có thể xảy ra ở thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, lợi nhuận công ty sẽ không cao, không xây dựng được uy tín, tiếng tăm trên thị trường và không được bạn hàng quốc tế biết đến sản phẩm công ty sản xuất ra. * Hợp tác xuất khẩu. Công ty hợp tác xuất khẩu với bạn hàng dưới hình thức gia công đặt hàng quốc tế. Việc gia công xuất khẩu của công ty chỉ thu được một phí gia công dao động khoảng 2,5 – 2,7% giá trị sản phẩm và đơn đặt hàng thường là từ các bạn hàng của Việt Nam ở các nước Đông á.Tuy phương thức xuất khẩu này không mang lại cho công ty lợi nhuận cao, chưa phải là phương thức tối ưu nhưng công ty có thể tận dụng được dây chuyền công nghệ, thiết bị công xưởng, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu ngoại tệ và khắc phục được tình trạng thiếu nguyên vật liệu gia công sản xuất, học hỏi mẫu mã thiết kế từ các công ty nước ngoài đặt hàng. 2.2.4. Thực trạng triển khai hoạt động chiến lược Marketing Mix của công ty. a) Quyết định về sản phẩm xuất khẩu. Hoạt động kinh doanh của công ty sản xuất xuất nhập khẩu Việt An chủ yếu là xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài, thị trường chưa chiếm tỷ trọng cao. Và trong thời gian tới, công ty sẽ tiến hành chú trọng vào thị trường này. Và sản phẩm của công ty bao gồm : áo jacket, áo sơmi, găng tay da, quần áo lao động, khăn mặt, áo váy nữ … và các sản phẩm khác. Thông qua bảng số liệu sau sẽ thấy được quyết định về sản phẩm may mặc xuất khẩu của công ty như thế nào ? STT Sản phẩm Số lượng (chiếc) Trị giá (1000USD) Tỷ trọng (%) 1 áo jacket 915.002 11437.52 52.9 2 áo sơmi 557.508 2843.3 13.15 3 Quần áo lao động 649.089 3634.89 16.81 4 Găng tay da 1310.064 393.02 1.82 5 áo váy nữ 75.265 978.445 4.52 6 Khăn mặt 974.912 389.964 1.8 7 Sản phẩm may khác 174.188 1940.06 9.0 8 Tổng 4656.028 21617.2 100 Tình hình sản xuất và tiêu thụ một số sản phẩm chính của công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Việt An năm 2004. Qua bảng số liệu trên nhận thấy mặt hàng chủ đạo của công ty là áo jacket, quần áo lao động và áo sơmi. Với tỷ trọng cao nhất 52.9% của mặt hàng áo jacket và quần áo lao động là 16.81% cùng với 13.15% của áo sơmi đã và đang là những sản phẩm được các thị trường nước ngoài đánh giá cao và là thế mạnh của công ty. Bên cạnh những sản phẩm chủ lực này, công ty vẫn luôn tìm kiếm và phát triển các sản phẩm khác để đảm bảo tăng doanh thu xuất khẩu. * Quyết định về chất lượng hàng xuất khẩu. Các sản phẩm may mặc của công ty sản xuất Việt An chủ yếu dành cho xuất khẩu. Do đó sản phẩm phải đáp ứng được với các tiêu chuẩn, điều kiện và thị hiếu tiêu dùng của từng thị trường. Công ty thiết lập một quy trình công nghệ với hai khâu kiểm tra chất lượng là KCS đầu và KCS cuối. Trong đó KCS đầu làm nhiệm vụ kiểm tra chất lượng nguyên liệu đầu vào, trong quá trình sản xuất có các lỗi như thừa chỉ, đường may bị vặn vẹo, nhăn nhúm … còn KCS cuối sẽ kiểm tra mẫu sản phẩm một cách chặt chẽ ở đầu ra trước khi sản phẩm được đóng gói và xuất xưởng. Sản phẩm đã qua giai đoạn kiểm tra cuối là sản phẩm hoàn chỉnh hay gọi là thành phẩm đủ để xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Chất lượng sản phẩm xuất khẩu là vấn đề mà công ty đặt lên hàng đầu bởi chính nó sẽ quyết định được người dùng có chấp nhận hay không. Và điều đó cũng sẽ quyết định tới hiệu quả kinh doanh của công ty. * Quyết định về bao bì, bao gói sản phẩm xuất khẩu. - Về bao bì : đối với từng đơn hàng cụ thể công ty sẽ tiến hành đóng gói theo yêu cầu của khách hàng theo như thỏa thuận trong hợp đồng. Khi đó bao bì có thể là do khách hàng cung cấp hoặc là do công ty tự thiết kế phù hợp với loại sản phẩm. Tuỳ vào từng loại sản phẩm mà trong công ty có những bao bì phù hợp riêng. Thông thường bao bì sản phẩm của công ty được thiết kế làm hai lớp : lớp bên trong là lớp túi PE và lớp bên ngoài là các thùng Cattông dầy nhằm đảm bảo chất lượng hàng hóa tốt nhất. - Về nhãn mác : nhãn mác của công ty về hình thức chưa thật sự tạo được nét đặc trưng nổi bật riêng nên chưa thu hút được sự hấp dẫn, chú ý của người tiêu dùng. Các sản phẩm xuất khẩu trực tiếp của công ty luôn có tên nhãn là VAPROMEXPO, tuy nhiên với những sản phẩm chủ đạo của công ty là áo jacket, quần áo lao động và áo sơmi thì công ty chưa tạo được biểu tượng bên ngoài áo để khách hàng có thể nhận biết ngay sản phẩm của công ty, mà nhãn mác mới chỉ khiêm tốn nằm ở vị trí bên trong cổ áo. Và đây cũng là vấn đề mà công ty đang dần khắc phục. *Quyết định về sản phẩm mới xuất khẩu. Trong những năm gần đây, công ty đã chú trọng nhiều trong việc tìm hiểu xu hướng và thị hiếu tiêu dùng mới của khách hàng quốc tế. Công ty đã có phòng ban thiết kế với những nhà thiết kế được đào tạo giỏi. Tuy nhiên, sự đầu tư chưa cao và có trọng điểm nên chưa thu được kết quả cao. Do vậy, việc phát triển sản phẩm mới của công ty còn gặp nhiều khó khăn, đa phần là bắt chước kiểu dáng nước ngoài và thay đổi một vài chi tiết để tạo ra sản phẩm xuất khẩu. b) Quyết định về giá xuất khẩu. Việc định giá cho sản phẩm may mặc xuất khẩu của công ty thường dựa trên những cơ sở xem xét sau : - Định hướng mục tiêu của công ty là : đảm bảo việc xâm nhập thị trường, tối đa hóa lợi nhuận hay là nhằm dành được vị thế trên thị trường. - Mức cầu và mức thu nhập của mỗi thị trường là khác nhau nên sẽ đưa các mức giá bán khác nhau. - Nghiên cứu giá bán của các đối thủ cạnh tranh. - Lựa chọn kỹ thuật định giá dựa trên việc tính toán các chi phí liên quan và cộng thêm phần lợi nhuận mục tiêu của công ty. * Quyết định về đồng tiền tính giá. Công ty thường sử dụng đồng tiền tính giá là đôla Mỹ (USD) vì đây là đồng ngoại tệ mạnh, dễ chuyển đổi, ổn định và mang tính thanh toán cao trên thế giới. * Quyết định chiết giá. - Chiết giá thương mại. - Chiết giá mua với số lượng lớn. - Chiết giá vì thanh toán sớm. - Chiết giá theo thời vụ : đưa ra mức giá ưu đãi đối với các mặt hàng trái vụ để khuyến khích khách mua hàng, tránh tình trạng hàng tồn kho, phải mất thêm chi phí nhà kho, bảo quản … * Quyết định về điều kiện giao hàng và thanh toán. - Điều kiện giao hàng : thường sử dụng phương thức giao hàng theo FOB Hải Phòng hoặc FOB Nội Bài. - Điều kiện thanh toán : theo phương thức L.C hoặc T.T. c) Quyết định về phân phối xuất khẩu. Hiện tại công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Việt An đang hoạt động kinh doanh với ba phương thức xuất khẩu chính là : xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu gián tiếp và gia công xuất khẩu. Tuy nhiên với phương thức gia công xuất khẩu công ty không cần chú trọng nhiều vào việc xây dựng mạng lưới phân phồi bằng hai phương thức xuất khẩu còn lại. Tương ứng với mỗi phương thức xuất khẩu khác nhau, công ty có các kênh phân phối khác nhau. Và hiện nay công ty đang có 2 kênh phân phối sau: *) Kênh 1: Kênh phân phối này là công ty xuất khẩu sản phẩm may mặc thông qua việc uỷ quyền cho một đơn vị khác xuất khẩu hàng hoá cho công ty. Công ty sẽ mất một phí uỷ thác tương đối lớn. Tuy phương thức phân phối này giúp cho công ty tránh được sự cố rủi ro trong xuất khẩu nhưng làm hạn chế với việc tiếp cận thị trường của công ty. *) Kênh 2: Với kênh này, công ty ký kết hợp đồng trực tiếp với khách hàng nước ngoài.Đây là kênh được công ty quan tâm và hướng tới nhiều nhất vì nó mang lại lợi nhuận cao, cơ hội tiếp cận trực tiếp với các đối tác, nắm bắt được thị trường quốc tế. Những thông tin phản hồi lại từ khách hàng luôn là vấn đề quan trọng trong việc vạch ra các phương hướng, chiến lược trong hoạt động kinh doanh của công ty. d) Quyết định về hình thức quảng cáo và xúc tiến thương mại Trong những năm gần đây, với mục đích đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, hoạt động xuất khẩu, công ty sản xuất- xuất nhập khẩu Việt An đã rất quan tâm đến công tác xuất khẩu xúc tiến thương mại nhằm tạo nhiều cơ hội giới thiệu sản phẩm của công ty cũng như được tiếp xúc và nhận được những thông tin phản ánh từ người tiêu dùng. Các hoạt động quảng cáo xúc tiến bán hàng được chủ yếu thực hiện qua một số hình thức sau: + Quảng cáo trên báo chí, tập san: giới thiệu về công ty,các sản phẩm mới của công ty với khách hàng trong và ngoài nước.Hiện tại, các báo tạp chí trong nước được sử dụng đó là: Diễn đàn doanh nghiệp, Thời trang Việt Nam, Tạp chí Dệt may…. + Chào hàng: cũng được công ty thường xuyên sử dụng qua hai cách tiếp cận như: Công ty Công ty XNK trong Nhà nhập khẩu Người tiêu dùng Công ty Nhà nhập khẩu Người tiêu dùng catalogue và hàng mẫu. +Tham gia hội chợ triển lãm +Quảng cáo trên mạng: giúp các doanh nghiệp, các quốc gia, người tiêu dùng quốc tế được gắn kết với nhau hơn, khắc phục được khoảng cách không gian.Tuy nhiên, công ty Việt An mới chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm thông tin thị trường, còn hạn chế trong việc tìm kiếm khách hàng, đối tác trên mạng và công ty chưa hoàn thành được trang Web của mình.Và trong thời gian tới công ty sẽ có trang Web chính thức giới thiệu, quảng bá về công ty. 2.2.5. Thực trạng triển khai chiến lược của công ty Triển khai chiến lược marketing là một quá trình biến các kế hoạch marketing thành những nhiệm vụ hành động cụ thể và đảm bảo chắc chắn rằng những nhiệm vụ đó được thực hiện một cách hiệu quả nhất. a) Ngân sách dành cho triển khai chiến lược Công ty đã có chính sách phân bổ ngân sách cho các phòng ban chức năng với mục tiêu đẩy mạnh các hoạt động m, qua đó nâng cao khả năng kinh doanh và tạo lập uy tín của công tytrên thị trường. Nguồn ngân sách này được công ty trích ra từ quỹ đầu tư và phát triển của công ty. Song thực tế nguồn ngân sách này là còn hạn chế nên chưa thực sự đúng với tiềm năng của hoạt động marketing xuất khẩu của công ty. Chính vì thế mà hiệu quả thu lại là chưa cao.Việc phân bổ ngân sách dành cho hoạt động marketing được công ty là còn hạn chế,công ty cần chú trọng và phát triển hơn nữa để phát triển thị trường xuất khẩu , thực hiện các quyết định về sản phẩm xuất khẩu như chủng loại, chất lượng, bao bì, nhãn mác.Các quyết định về phân phối và tiêu thụ sản phẩm đặc biệt là các hoạt động xúc tiến thương mại hỗn hợp củacông ty. a) Nguồn lực của công ty Sự thành công về kết quả sản xuất kinh doanh của công ty là sự phản ánh những nỗ lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên. Nó phản ánh năng lực của những người quản lý cũng như tay nghề của những người lao động. Công ty có đội ngũ công nhân viên đông đảo.Tuy nhiên đội ngũ lao động tại bộ phận marketing của công ty hoạt động chưa có hiệu quả.Trình độ nghiệp vụ marketing và ngoại ngữ của họ còn yếu nên hạn chế rất nhiều khi tiếp xúc trực tiếp với đối tác nước ngoài. Các nguồn thông tin liên quan đến thị trường xuất khẩu và những biến động của môI trường thì có rất nhiều nhưng việc lựa chọn thông tin, phân tích và đưa ra những kết luận cuối cùng cho việc hoạch định chiến lược marketing, bộ phận marketing củacông ty còn gặp nhiều khó khăn.Biết được những tồn tại hạn chế nên công ty đã không ngừng đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ marketing cho các cán bộ công nhân viên. c) Kế hoạch hành động Thông qua bảng tổng hợp kết quả qua 2 năm 2003 và 2004 sẽ cho ta biết công ty đã thực hiện kế hoạch hành động như thế nào? Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2003 Năm 2004 Kế hoạch Thực hiện Kế hoạch Thực hiện Tổngkim ngạch XK USD 17896322 20325742 20756000 21617200 Thị trường XK chính Nước 20 20 21 17 Doanh thu Tr.đồng 78392 88038 91350 117330 Dựa vào bảng kết quả trên nhận thấycông tythực hiện tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu vượt 13.5% so với kế hoạch dự kiến vào năm 2003. Còn năm 2004 công ty đạt 21617200 USD tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 4.2% so với kế hoạch.Tổng kim ngạch xuất khẩu thực hiện vào năm 2003 và 2004 vượt xa so với kế hoạch cũng đã góp phần làm doanh thu của công ty cũng vượt so với kế hoạch. Năm 2003 tăng 9639 triệu đồng so với kế hoạch và năm 2004 cao hơn kế hoạch ban đầu là 28,4%.Qua những con số này cho thấycông tyđã thực hiện rất có hiệu quả kê hoạch hành động của mình.Việc triển khai kế hoạch hành động của công ty tốt đã mang lại cho công ty nhiều lợi nhuận nên công ty nên tiếp tục giữ vững và duy trì tốt hơn nữa. 2.2.6. Thực trạng kiểm soát chiến lược marketing Kiểm soát chiến lược marketing là một khâu quan trọng trong hoạt động thực hiện chiến lược marketing củacông ty.Nếu như bước đầu tiên của thực hiện chiến lược marketing không đúng thì sẽ kéo theo tất cả các khâu còn lại đều chệch hướng. Tuy nhiên, khâu kiểm soát chiến lược marketing củacông tychưa được chú trọng.Công ty chưa thiết lập được hệ thống tiêu chuẩn để kiểm soát chiến lược. Và ngân sách dành cho khâu này là không đáng kể do vậy kiểm soát chiến lược marketing của công ty rất lỏng lẻo. 2.3. Đánh giá chung Từ năm 2001- 2004, với những nỗ lực không ngừng, công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Việt An đã có những kết quả khả quan trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu củacông ty. Và kết quả đó được đánh giá tổng hợp qua bảng sau: Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2001 2002 2003 2004 Tổng kim ngạch XK USD 18976100 19117248 20325742 21617200 Thị trường XKchính Nước 23 23 20 17 Lợi nhuận Tr.đồng 402.51 444.21 625.07 856.5 Doanh thu Tr.đồng 63892 68340 88038 117330 Tỷ suất lợi nhuận % 0.63 0.65 0.71 0.73 Nộp ngân sách Tr.đồng 415.25 397.32 326.92 665.94 Lương bình quân Nghìn đ/ng/tháng 804.3 835.1 918.6 943.3 Qua bảng tổng hợp kết quả trên nhận thấy tuy thị trường xuất khẩu của công ty giảm xuống từ 20 nước vào năm 2003 xuống 17 nước vào năm 2004 nhưng không làm doanh thu và tỷ suất lợi nhuận củacông tygiảm xuống.Điều này có nghĩa rằng công ty đã chú trọng khai thác có “ chiều sâu” thị trường xuất khẩu thay vì chạy theo “ chiều rộng”. Nhìn vào bảng kết quả trên thấy tỷ suất lợi nhuận của công tykhông ngừng tăng lên chứng tỏ công tyđang sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Và qua bảng đánh giá này, công ty sản xuất -xuất nhập khẩu Việt An đã nhìn nhận thấy được những ưu điểm và nhược điểm cùng nguyên nhân tồn tại trong công tác thực hiện chiến lượckinh doanh marketing xuất khẩu như sau: 1.Ưu điểm -Công ty đã giữ vững và biết cách khai thác thị trường trọng điểm có hiệu quả - Biết củng cố và duy trì những sản phẩm tiêu thụ mạnh và biết đa dạng hoá chủng loại, mẫu mã và chú trọng quan tâm đến thị hiếu tiêu dùng của từng loại thị trường. - Chú ý việc đầu tư công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm tạo sức cạnh tranh. - Thực hiện các hợp đồng ký kết với độ tin cậy cao, đảm bảo uy tín cho công ty - Phương pháp định giá linh hoạt, hợp lý, thích ứng với sự biến động của từng thị trường. 2.Nhược điểm - Lựa chọn thị trường xuất khẩu củacông ty luôn mang tính bị động, đa phần khách hàng tự tìm đến công tyđể ký kết các hợp đồng. -Chú trọng nhiều phương thức gia công quốc tế - Xuất khẩu sang thị trườngnước ngoài còn phải thông qua nhiều kênh trung gian nên sự phản ánh thông tin lại từ thị trườngkhông còn chân xác và chậm trễ - Chất lượng, mẫu mã chưa đáp ứng tốt tiêu chuẩn quốc tế và thị hiếu người tiêu dùng - Chưa khai thác và đầu tư có hiệu quả hoạt động quảng cao, xúc tiến thương mai - Chưa xây dựng được thương hiệu riêng 3.Các nguyên nhân tồn tại - Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mang tính bị động nhiều, phụ thuộc vào các đối tác tại thị trườn gnước ngoài.Do vậy, công ty giảm khả năng tự sáng tạo ra sản phẩm mới, thương hiệu bị núp bóng dưới thương hiệu bên đặt hàng gia cồng -Ngân sách đầu tư cho hoạt động marketing còn hạn chế - Bộ phận marketing củacông tytrình độ còn yếu.Nên việc tìm kiếm, phân tích thông tin gặp nhiều khó khăn, Vì thế, các nhà quản trịcông tyđưa ra những chiến lượckinh doanh chưa hợp lý - Nguồn nguyên liệu chủ yếu là nhập khẩu dẫn đến giá thành sản phẩm cao, khó cạnh tranh với các đối thủ khác. Chương III.những đề xuất hoàn thiện chiến lược marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất- xuất nhập khẩu Việt An 3.1. Dự báo những tác động của môi trường 3.1.1. Dự báo những tác động của môi trường tới ngành dệt may Việt Nam Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn. Những biến đổi đó một mặt tạo ra cơ hội thuận lợi cho các nước đang trên đà phát triển có thể nắm bắt được và vươn tới nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế- xã hội. Mặt khác cũng đặt ra những thách thức, những vấn đề phức tạp hơn mà mỗi quốc gia phải đối phó giải quyết. Ngành dệt may là một trong những ngành mũi nhọn để đưa nước ta ngày càng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Tương lai của ngành dệt may Việt Nam sau năm 2005 sẽ như thế nào sau khi Hiệp định dệt may ATC chấm dứt hiệu lực? Từ ngày 1-1-2005 xoá bỏ hạn ngạch đối với những nước là thành viên của WTO. Điều này đã làm ngành dệt may Việt Nam đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường thế giới chừng nào Việt Nam chưa là thành viên WTO. Ngoài ra, những diễn biến kinh tế không thuận lợi tại một số thị trường hạn ngạch quan trọng của Việt Nam như: Mỹ, EU có thể làm tăng xu hướng bảo hộ ngành dệt may trong các nước. Hơn nữa, EU giảm hoặc miễn thuế hoàn toàn cho 5 nước sau thảm hoạ sóng thần :Sulanka, TháI Lan, ấn độ, Indonexia và Bangladesh giúp năm nước có lơị thế hơn so với Việt Nam. 3.1.2 Dự báo những tác động của môi trường tới công ty sản xuất xuất nhập khẩu Việt An Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Asean, gia nhập Apec, AFTA và đang trong quá trình đàm phán ký kết gia nhập hiệp hội WTO.Đó là những cơ hội lớn giúp sản phẩm may mặc công ty sản xuất xuất nhập khẩu Việt An có thể thâm nhập vào thị trường thế giới. Tuy nhiên,kinh tế mở cửa đồng nghĩa với nó là cạnh tranh ngày một khốc liệt giữa các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước, đặc biệt là sự xâm nhập của các công ty hàng dệt may quốc tế mạnh như Trung Quốc, ấn độ…..Hơn nữa công ty còn phải chịu sức ép cạnh tranh từ những đối thủ cạnh tranh trong nước như: May 10, Thăng Long, Việt Tiến….nên đòi hỏi công ty cần phải hoạch định chiến lược marketing hợp lý . 3.1.3.Dự báo chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam tới năm 2010 Việt Nam đang phải đối mặt với sức ép của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá của thế giới và khu vực.Đặc biệt là khi nước ta gia nhập khu mậu dịch tự do AFTA, tiến tới gia nhập WTO…….sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các nước như Trung Quốc, ấn độ….đồng thời là hạn ngạch và thuế nhập khẩu của các nước dần là không còn ưu đãi các nước ta. Mục tiêu phát triển tăng tốc của ngành dệt may nhằm nâng cao lượng nội địa trong sẩn phẩm xuất khẩu từ 25% lên 50% trong năm 2005 và 70% trong năm 2010 để nâng cao giá trị xuất khẩu, đồng thời giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.Với chiến lược này được Chính phủ ký quyết định số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23-4-2001 với mục tiêu là : “ Đưa ngành dệt may Việt Nam trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm của cả nước, là mũi nhọn về xuất khẩu, thoả mãn ngày càng cao nhu câu tiêu dùng trong nước và ngoài nước tạo nhiều việc làm cho người lao động nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc với nền kinh tế khu vực và thế giới”. *) Nội dung của chiến lược: - Đối với ngành dệt: kinh tế Nhà nước là nòng cốt giữ vững vai trò chủ đạo, đầu tư phát triển phải gắn liền với bảo vệ môi trường, đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến, chú trọng công tác thiết kế sản phẩm mới, tổ chức lại hệ thống chất lượng quốc tế - Đối với ngành may: đẩy mạnh những doanh nghiệp may nhà nước, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư và phát triển ngành may nhất là ở các vùng đông dân cư, nhiều lao động thủ công. + Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thiết kế mẫu thêm nhiều sản phẩm mới, cảI tiến công tác quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý lại hệ thống sản xuất, áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm và nâng cao tính cạnh tranh sản phẩm may Việt Nam trên thị trường thế giớ. + Đẩy mạnh đầu tư vào việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang trồng bông, dâu tằm, các loại cây có nhiều sợi, tơ nhân tạo công nghệ phẩm, thuốc nhuộm….nhằm phục vụ tốt hơn việc cung ứng nguyên liệu cho ngành dệt may nước nhà. + Khuyến khích mọi hình thức đầu tư để phát triển cơ khí dệt may tiến tới cung ứng đầy đủ phụ tùng lắp ráp và chế tạo thiết bị may nhằm hạn chế việc nhập khẩu thiết bị ngoại *) Các chỉ tiêu chủ yếu đặt ra: + Kim ngạch xuất khẩu: -Năm 2005 : đạt từ 4000-5000 triệu USD -Năm 2010 : từ 8000-9000 triệu USD + Sử dụng lao động: -Năm 2005 thu hút từ 2.5 đến 3.0 triệu lao động -Năm 2010 : từ 4.0 đến 4.5 triệu lao động + Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên liệu phụ nội địa trên sẩn phảmdệt may xuất khẩu - Năm 2005: đạt trên 50% - Năm 2010 : trên 70% + Vốn đầu tư phát triển - Tổng vốn đầu tư phát triển dệt may giai đoạn 2001-2005: 35000 tỷ đồng - Tổng vốn đầu tư phát triển dệt may giai đoạn 2005-2010: 30000 tỷ đồng - Tổng vốn đầu tư phát triển vùng nguyên liệu đến năm 2010 đạt 1500 tỷ đồng. 3.1.4.Dự báo chiến lược kinh doanh của công ty trong thời gian tới năm 2010 a) Mục tiêu của công ty trong thời gian tới năm 2010 Mục tiêu của công ty là đầu tư hiện đại hoá dây chuyền công nghệ để nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh sản phẩm, chuyển dần việc gia công sang mua nguyên liệu bán thành phẩm và tăng khả năng tự cung ứng nguồn nguyên liệu trong nước phục vụ xuất khảu , phấn đấu làm chủ sản xuất và giảm dần sự lệ thuộc vào đối tác nước ngoài. Theo kế hoạch: + Năm 2006: công ty sản xuất 7.975 triệu sản phẩm với kim ngạch ước tính đạt 36.3 triệu USD. + Năm 2010: công ty sản xuất 13.707 triệu sản phẩm với kim ngạch đạt 59.6 triệu USD. b) Nhiệm vụ cụ thể của công ty trong thời gian tới Để đạt mục tiêu cụ thể nêu trên công ty cần làm tốt các việc sau: -Duy trì và mở rộng thị trường truyền thống đồng thời phát triển những thị trường mới bằng cách tăng cường những sẳnphẩm có chất lượng cao, đa dạng về chủng loại, khôi phục lại thị trường CHLB Nga thông qua các chương trình của Chính phủ. - Tiếp tục đầu tư chiều sâu và đầu tư mới một số cơ sở sản xuất mặt hàng may mặc có công nghệ tiên tiến, trang thiết bị hiện đại nhằm tăng thêm sức cạnh tranh cho mặt hàng hiện nay - Chú trọng nhiều hơn nữa vào việc chuyển đổi phương thức sản xuất từ gia công sang tự sản xuất và xuất khẩu trên cơ sở:\ + Đẩy mạnh công tác tiếp thị, xúc tiến thương mại bằng cách trực tiếp tiếp cân thị trường với khách hàng + Tăng cường đầu tư vào lĩnh vực thiết kế triển khai mẫu mốt sản phẩm mới + Có kế hoạch chủ động cung cấp được nguyên liệu từ trong nước + Đổi mới phương thức kinh doanh, đào tạo cán bộ kinh doanh có đủ trình độc chuyên nghiệp đặc biệt là chuyên viên marketing quốc tế. - Nâng cao uy tín của công ty trên thị trường.Đây là một tài sản vô hình vô cùng quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường 3.2.Đề xuất hoàn thiện chiến lược marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất xuất nhập khẩu Việt An 3.2.1.Hoàn thiện tình thế và thời cơ chiến lược marketing xuất khẩu. 3.2.1.1) Môi trường bên trong của công ty *) .Những điểm mạnh của công ty Công ty có qui mô sản xuất lớn, chủng loại sản phẩm là đa dạng có khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Công ty có lực lượng lao động nhân công dồi dào và có tay nghề cao cho phép công ty có thể sản xuất được sản phẩm với chất lượng cao. Thêm vào đó công ty có một dây chuyền sản xuất hiện đại với công nghệ cao được nhập từ Đức, Đài loan ….cho phép công ty có thế sản xuất sản phẩm với qui mô lớn đồng đều về chất lượng.Công ty có chi phí cho nhân công rẻ làm tăng khả năng cạnh tranh về giá Công ty có ưu thế trong việc sản xuất áo jacket, áo sơ mi và quần áo lao động. *) Những mặt yếu của công ty Công ty đã đầu tư vào những máy móc thiết bị hiện đại nhưng những máy móc này chỉ chiếm một phần nhỏ khoảng 30-40% so với tổng thể máy móc của công ty . Do vậy, công ty gặp nhiều khó khăn khi máy móc thiết bị thiếu đồng bộ, lạc hậu, tốn nhiều nguyên liệu, thời gian nhưng hiệu quả sản xuất lại không cao. Ngành dệt phát triển còn chậm so với khu vực và trên thế giới. Do đó, không cung ứng được vải cho ngành may xuất khẩu hiện đã phát triển khá nhanh. Công ty không chỉ phải nhập nguyên liệu vải mà hầu hết các phụ liệu khác cũng phải nhập ngoại. Một thách thức khác nữa là trình độ nghiệp vụ kinh doanh quốc tế và marketing của công ty còn hạn chế làm cho công ty giảm khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Hơn nữa do công ty thiếu vốn chi cho hoạt động quảng cáo và xúc tiến thương mại ngay cả trong lĩnh vực thiết kế thời trang tạo ra các dòng sẩn phẩm mới. Do vậy, công ty không đáp ứng được nhu cậu và thị hiếu thay đổi của người tiêu dùng. 3.2.1.2) Môi trường quốc tế *) Những cơ hội Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN, gia nhập APEC,AFTA và đặc biệt là đang trong quá trình đàm phán ký kết gia nhập hiệp hội WTO-tổ chức thương mại lớn nhất thế giới. Cùng với đó là hiện nay xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá khu vực đang diễn ra tất yếu. Đó sẽ là những cơ hội lớn cho hàng Việt Nam nói chung cũng như sản phẩm của công ty sản xuất- xuất nhập khẩu Việt An nói riêng có cơ hội được hoà nhập và lưu thông.Khả năng trao đổi về lao động chuyên gia, khoa học kỹ thuật công nghệ bằng phát minh sáng chế giữa các quốc gia, các doanh nghiệp là rất lớn. Là cơ hội tốt hơn cho công ty có khả năng mở rộng thêm bạn hàng, đối tác trong kinh doanh lâu dài trên khắp thế giới và khu vực. *) Những thách thức Cùng với những cơ hội mà xu thế quốc tế hiện nay đem lại, công ty sản xuất-xuất nhập khẩu Việt An cũng đang phải chịu những nguy cơ và thách thức không nhỏ. Đó là khả năng phải đối đầu với những đối thủ cạnh tranh mạnh tầm cỡ quốc tế như các công ty của ấn độ, Trung quốc…..và nguy cơ mất thị phần trên các thị trường quốc tế là rất lớn nếu công ty không có những chiến lược đề ra ứng phó một cách kịp thời và hiệu quả. Trong điều kiện hội nhập, kinh tế nước ta là mở cửa, công ty sẽ không nhận được sự bảo trợ của Chính phủ nữa khi đó sẽ là rất khó khăn cho bước đầu tự thân đứng trên thị trường. Nguồn nguyên liệu của công ty phần lớn phải nhập từ nước ngoài. Hiện nay công ty đang phải đối mặt với vấn đề là thiếu nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước. Điều này là có ảnh hưởng lớn đến chi phí giá thành cho sản phẩm đầu ra. 3.2.1.3) Môi trường quốc gia a) Môi trường trong nước *) Những cơ hội Kinh tế nước ta đang mở cửa, với phương châm hội nhập cùng phát triển đa phương hoá, đa dạng hóa các thành phần kinh tế trong nước. Chính sách khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước. Cùng với đó là chính sách tạo hành lang pháp lý của Nhà nước cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là ngày một thông thoáng hơn. Chính sách ưu tiên cho ngành dệt may trong nước phát triển và hướng ngoại. Thêm vào đó là các thành viên trong Hiệp hội Dệt may Việt Nam là không ngừng ngày một lớn mạnh, tăng cường khả năng liên kết, tương trợ hợp tác đồng phát triển, môi trường cạnh tranh ổn định, thể chế chính trị của Nhà nước là ổn định. *) Những thách thức Cùng với những cơ hội mà trong xu thế kinh tế quốc tế hiện nay đang diễn ra và ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế Việt Nam là những thách thức không nhỏ. Những thách thức này là có tác động trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của công ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An. Những khó khăn này là: - Kinh tế mở cửa đồng nghĩa với nó là cạnh tranh ngày một khốc liệt giữa cac doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Trong đó đặc biệt là sự xâm nhập của các công ty kinh doanh hàng dệt may quốc tế mạnh của Trung quốc, ấn độ….. - Công ty không nhận được sự ưu tiên của Nhà nước, sự bảo hộ là không còn, do chính sách tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài đồng hoạt động, vì một môi trường kinh doanh của Việt Nam là cạnh tranh lành mạnh. - Chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của nước ta ở đâu đó là còn nhiều thủ tục rườm rà, phức tạp chưa thực sự thông thoáng tạo đà phát triển cho các công ty kinh doanh quốc tế .Chẳng hạn như: chính sách về thuế xuất nhập khẩu, công tác thu thuế, thủ tục hải quan, luật chống cạnh tranh, thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu, luật chống gian lận thương mại- buôn lậu… -Nhà nước chưa thực sự có chính sách quản lý, hỗ trợ khuyến khích các vùng sản xuất và cung ứng nguồn nguyên liệu cho ngành may mặc trong nước. Phần lớn các công ty dệt may Việt Nam là phụ thuộc vào thị trường nguyên liệu nước ngoài, dẫn đến giá thành sản xuất là cao, luôn bị động trong hoạt động của mình. 3.2.1.4) Môi trường ngoài nước Để đánh giá sự tác động của môi trường quốc ngoại là có sự tác động lên việc hình thành lên chiến lược Marketing xuất khẩu mặt hàng may mặc của mình, công ty đi tiến hành nghiên cứu và phân tích nhu cầu tiêu thụ của một số thị trường tiêu dùng hàng may mặc lớn trên thế giới. Như thị trường EU, thị trường Mỹ- Bắc Mỹ, thị trường Nhật Bản và thị trường Đông âu. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu tiêu dùng đòi hỏi ngày càng cao. Xu hướng tiêu dùng nhằm vào các chủng loại mặt hàng phong phú về mẫu mã với giá cả là phù hợp và chất lượng được đảm bảo. Song với từng khu vực thị trường thì nhu cầu này là khác nhau. 3.2.1.4) Môi trường ngoài nước Phương thức xuất khẩu chính của công ty là gia công quốc tế nên công ty không được gắn logo, nhãn mác của mình vào sản phẩm gia công. Do vậy, người tiêu dùng tại thị trường nước ngoài chưa biết đến thương hiệu của công ty. Như vậy công ty cũng chưa khẳng định được vị thế trên thị trường quốc tế. Chính vì vậy, đòi hỏi công ty nên dần dần giảm tỷ trọng hàng gia công tăng tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp để được quyền sư dụng logo, nhãn mác của mình,Nhờ đó, công ty có thể xây dựng được hình ảnh thưong hiệu đối với khách hàng và từng bước khẳng định được vị thế của công ty. 3.2.3. Hoàn thiện marketing mục tiêu a) Lựa chọn thị trường xuất khẩu Hoạt động sản xuất kinh doanh chính của công ty sản xuất xuất nhập khẩu Việt Anlà xuất khảu . Do vậy, việc tìm kiếm, khai thác, duy trì và phát triển các thị trường xuất khảu ở nước ngoài là rất quan trọng, Chính vì vậy, cần có sự đánh giá, phân tích để hoàn thiện hơn trong việc lựa chọn thị trường xuất khảu . *) Thị trường Mỹ: là thị trường tiêu thụ giàu có nhất thế giới.Đây là thị trường rộng lớn và hấp dẫn nên có nhiều đối thủ cạnh tranh cũng đang cố gắng thâm nhập .Do vậy, công ty nên đầu tư nhiều thời gian và công sức cho thị trường này.Quan trọng hơn, công ty phải chú ý đến tập quán thương mại của Mỹ, luật pháp Mỹ.Mỹ có thói quen thường yêu cầu mua hàng F.O.B tức là mua thẳng hàng thành phẩm.Vì thế, doanh nghiệp phảI đảm bảo từ khâu tổ chức nguồn nguyên liệu, sản xuất cho tới khâu bao bì, đóng gói đưa cho khách hàng.Đơn hàng nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ thường có giá trị lớn, thời hạn thanh toán lại ngắn nên công ty cần phảI xem xét khả năng hợp tác với công ty khác để cung cấp, giao hàng đúng hạn *) Thị trường EU: tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường này đang có xu hướng giảm dần do thị trường EU đang ngập tràn những sản phẩm may mặc của Trung quốc.Và đây cũng là thị trường khó tính, yêu cầu cao đối với sản phảm xuất khảu .Công ty không nên đối đầu với Trung quốc mà tìm kiếm “ khe hở “ tại thị trường này.Ví dụ Đức cũng là một thị trường tiềm năng, ít khó tính hơn, không đòi hỏi cao quá về mẫu mã, kiểu cách chỉ quan tâm đến chất lượng. Và những yêu cầu đó công ty có thể đáp ứng đươc.Đây có thể là cơ hội mới cho công ty . *) Thị trường Đông á: công ty bị sức ép cạnh tranh lớn với các đối thủ mạnh như Trung quốc trên thị trường các nứoc như: Hàn quốc, Đài loan, Hồng Kông……..do một số các nước này có địa lý gần nhau.Tuy nhiên, Trung quốc chỉ nhận những đơn hàng lớn nên bỏ ngỏ các đơn hàng nhỏ tại thị trường Đông á.Do vậy, công ty nên quan tâm đến thị trường này. *) Thị trường Nhật Bản: có đặc điểm truyền thống rất cao, ít chạy theo mốt thời thượng.Tuy nhiên, kim ngạch xuất khảu của công ty vào thị trường này rất nhỏ nhưng trong thời gian tới nhiều nhà nhập khẩu Nhật bản sẽ chuyển đơn hàng sang vn, Điều đó làm tăng thêm thị phần cho các công ty xuất khảu hàng may mặc tại Việt Nam. b) Hình thức xuất khẩu Theo các phân tích về thực trạng phương thức xuất khâủ của công ty thấy rằng công ty đang dần tăng tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp, Tuy nhiên, với phương thức này công ty còn ít kinh nghiệm nên cần cẩn trọng trong việc mở rộng, thâm nhập và ký kết hợp đồng đối với các đối tác. Và để nâng cao tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp cần: Thứ nhất, đảm bảo cung cấp nguyên phụ liệu: công ty cần cố gắng tạo nguồn nguyên liệu có chất lượng tốt để sản xuất sản phẩm may mặc có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Kết hợp phát triển sản xuất phụ liệu trong nước với việc tranh thủ đàm phán để giành quyền chủ động chọn nhà cung cấp phụ liệu cho sản phẩm may. Thứ hai, từng bước tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín trên thị trường quốc tế. Để có thể xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm của công ty phải được kinh doanh bằng các nhãn mác của chính mình trên thị trường quốc tế.Muốn đạt được điều này công ty cần: + Tập trung đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẫu mã vải cũng như sản phẩm may. + Tổ chức tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Thứ ba, chú trọng công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ở nhiều nước, đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp là điều kiện bắt buộc. Hiện tại, công ty chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian hoặc gia công cho các nước khác. Để có thể xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm dệt may của công ty cần khẳng định vị trí của mình trên thị trường thế giới bằng nhãn hiệu của chính mình. Tuy nhiên, việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải chịu chi phí có khi lên tới hàng ngàn USD. Vì vậy, để tiết kiệm các chi phí công ty có thể kết hợp các công ty may khác để cùng đăng ký một nhãn hiệu xuất khẩu chung cho từng loại sản phẩm. Đồng thời công ty vẫn tiếp tục duy trì phương thức hợp tác xuất khẩu – gia công quốc tế. Với phương thức này công ty sẽ tăng cường giải quyết vấn đề lao động trong nước hiện nay, học hỏi kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng quản trị từ phía đối tác. Cuối cùng với phương thức xuất khảu gián tiếp trong thời gian tới, công ty nên giảm dần tỷ trọng của nó và tiến tới không sử dụng phương thức này vì lợi nhuận đem lại rất thấp.Và công ty không thể kiểm soát được hoạt động của các trung gian thương mại này ngoài thị trường nước ngoài. 3.2.4. Hoàn thiện chiến lược marketing – mix a) Chính sách sản phẩm Trong chiến lược sản phẩm hàng may mặc, công ty sản xuất xuất nhập khẩu Việt An phải xác định những mặt hàng may mặc chủ lực và có tính chất lâu dài như : áo sơ mi, áo jacket và một số mặt hàng khác nên được xác định là mặt hàng chính.Vì những sản phẩm này luôn chiếm tỷ trọng lớn phù hợp với nhu cầu thị trường khác nhau. Chất lượng sản phẩm là đòi hỏi khách quan của thị trường đối với mỗi loại sản phẩm, điều đó rất quan trọng trong việc phát triển kinh doanh của công ty may Việt An.Bởi trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt nhất là sau năm 2005 khi hạn ngạch và các hàng rào phi thuế quan khác được bãi bỏ, thị phần của công ty sẽ phụ thuộc phần lớn vào khả năng cạnh tranh “ phi giá cả” trong đó cạnh tranh về chất lượng hàng hoá trở thành yếu tố quyết định trong cạnh tranh….Do vậy tạo cho sản phẩm may xuất khẩu một chất lượng cao luôn là mục tiêu hàng đầu của bất kỳ một doanh nghiệp may xuất khẩu nào Để nâng cao chất lượng sản phẩm công ty có thể áp dụng các biện pháp: + Tăng cường kiểm tra chặt chẽ nguyên phụ liệu đầu vào. Đồng thời hoàn thiện công tác bảo quản tốt nguyên phụ liệu, sản phẩm. + áp dụng tốt đúng quy trình của hệ thống tiêu chuẩn đo lường chất lượng như: ISO 9000, ISO 14000, SA 8000…. + Nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ phòng quản lý chất lượng. + Tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất, xuất khẩu theo đúng yêu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, cũng cần sự đa dạng hoá sản phẩm, cải tiến mẫu mã,thay đổi một số chất liệu, gam màu phong phú dần thay thế những sản phẩm không được ưa chuộng nữa.Trong thời gian đầu, khi công ty còn gặp nhiều khó khăn trong việc thiết kế mẫu mã, chưa tạo ra nhiều kiểu mẫu sáng tạo thì có thể học hỏi từ đối thủ cạnh tranh.Khi đã nắm rõ được xu hướng tiêu dùng của thị trường xuất khảu , công ty nên dần dần sáng tạo sản phẩm mới riêng cho công ty nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh và hình ảnh của công ty trên thị trường quốc tế. Để phát triển sản phẩm mới công ty cần có những nguồn thông tin sau: - Nghiên cứu thị trường, chú ý đến thị hiếu tiêu dùng thay đổi của khách hàng, từ đó có thể cho ra đời những sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu đó. - Chú ý đến các sản phẩm mới của đối thủ cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. - Tăng cường công tác đào tạo và tuyển dụng đội ngũ cán bộ thiết kế thời trang. - Các thông tin phản ánh từ phía khách hàng, nhà phân phối trung gian thương mại quốc tế.Sau khi đã thu thập đầy đủ các thông tin cần thiết công ty cần tiến hành xây dựng và phát triển sản phẩm mới theo một quy trình sau: Sơ đồ quy trình phát triển sản phẩm mới cho công ty sẩn xuất Việt An . Trong chính sách sản phẩm, công ty cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề nhãn mác của sản phẩm. Trong gia công hàng xuất khẩu, công ty cần tăng cường thương lượng với chủ hàng quyền được gắn nhãn mác và địa điểm gia công trên sản phẩm gia công. Bên cạnh đó, công ty cần phải đẩy nhanh quá trình củng cố tạo dựng thương hiệu. Đây là mục tiêu dài hạn của các doanh nghiệp dệt may Việt nam nói chung và của công ty may Việt An nói riêng trong thời gian tới. Nếu công ty Việt An làm được điều này thì sản phẩm của công ty sẽ có vị trí tốt hơn trên thị trường Mỹ. Trước mắt, công ty cần triển khai các hoạt động như: + Công ty cần tổ chức tốt hoạt động nghiên cứu nhãn hiệu, công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu + Có kế hoạch hợp tác với các viện mốt trong nước. + Cần đầu tư tốt việc thiết kế sản phẩm mới, nghiên cứu đưa ra ý tưởng mới phù hợp nhu cầu của người tiêu dùng. Nghiên cứu nhu cầu thị trường về Xây dựng ý tưởng về sản phẩm mới Phát triển mẫu sản phẩm mới Tiến hành các Giới thiệu sản phẩm Hoàn thiện các đặc tính của Chưa đạt Đạt + Khắc phục khó khăn về thiếu nguồn tài chính và nhân lực có trình độ trong khâu thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm thông qua việc trao đổi bản quyền giữa các công ty và tranh thủ sự hỗ trợ từ phía các nhà nhập khẩu. Ngoài ra khâu đóng gói bao bì chưa được chú trọng do hạn chế trong sản xuất gia công.Nhưng khi đã xuất khẩu trực tiếp thì cần có đầu tư thích đáng. Vì bao bì sản phẩm không chỉ có chức năng bảo vệ sản phẩm mà còn có chức năng thông tin quảng cáo cho công ty. Bao bì sản phẩm khẳng định một phần giá trị sản phẩm nếu bao bì được thiết kế đẹp đẽ sẽ hấp dẫn khách hàng hơn.Và yếu tố quan trọng nũa là bao bì của công ty nên được làm từ những nguyên liệu dễ tái sử dụng, không gây ô nhiễm môi trường- đây là vấn đề mà các quốc gia phát triển như Nhật Bản và các nước thuộc khối EU quan tâm b) Chính sách giá sản phẩm Trong tình hình quốc tế hiện nay, việc định giá cho một sản phẩm xuất khảu là rất khó khăn và phức tạp. Đối với công ty , khi xâm nhập vào các thị trường khác nhau, việc áp dụng chính sách giá không nên giống nhau và dựa trên cơ sở phân tích kỹ lưỡng mối quan hệ giữa các yếu tố chi phí, các điều kiện thị trường cạnh tranh và chính sách chung của công ty . Việc định giá cho các sản phẩm xuất khẩu cuẩ công ty theo mô hình sau: Các nhân tố trong nước: -Giá mua nguyên vật liệu -Các chi phí khác - Các mục tiêu, chiến lược marketing của công ty -Tình hình cạnh tranh trong nước - Các yếu tố Các quy định giá xuất khẩu: -Các mục tiêu định giá -Các chiến lược định giá - Phương pháp định giá -Các mức giá Các nhân tố nước ngoài: -Nhu cầu về sản phẩm ở thị trường nước ngoài. -Giá và các chiến lược marketing của các đối thủ cạnh tranh - Các ảnh hưởng về luật pháp, chính trị Sơ đồ quá trình định giá sản phẩm xuất khẩu cho công ty sản xuất Việt An Qua mô hình định giá trên mà công ty có thể áp dụng chiến lược định giá cao hay thấp tuỳ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất- xuất nhập khẩu Việt An.pdf
Tài liệu liên quan