Luận văn Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc (1941 - 1954)

Tài liệu Luận văn Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc (1941 - 1954): LUẬN VĂN: Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc (1941 - 1954) Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Từ thập kỷ sáu mươi đến nay, khối lượng lớn công trình nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh lần lượt được công bố ngày càng nhiều. Tuy nhiên, việc tìm hiểu sự nghiệp cách mạng, đặc biệt là tình cảm của Người với đồng bào Việt Bắc chưa thể xem là đã đầy đủ. Bởi vì, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, thì việc nghiên cứu, học tập công lao, sự nghiệp, tư tưởng của Người là việc làm thường xuyên, liên tục của nhiều thế hệ. Chiến khu Việt Bắc, cái nôi của cách mạng Việt Nam với những địa danh như: Pác Bó, Tân Trào, Tỉn Keo, Quảng Nạp, Đèo Đe, Núi Hồng... gắn liền với những năm tháng sống, chiến đấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đi vào những trang sử vẻ vang của dân tộc. Việt Bắc, núi sông và con người, địa lợi và nhân hòa, đã tạo nên thế đứng ban đầu cho công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước mà nòng cốt là phong trào cứu quốc của đồng ...

pdf100 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc (1941 - 1954), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc (1941 - 1954) Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Từ thập kỷ sáu mươi đến nay, khối lượng lớn công trình nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh lần lượt được công bố ngày càng nhiều. Tuy nhiên, việc tìm hiểu sự nghiệp cách mạng, đặc biệt là tình cảm của Người với đồng bào Việt Bắc chưa thể xem là đã đầy đủ. Bởi vì, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, thì việc nghiên cứu, học tập công lao, sự nghiệp, tư tưởng của Người là việc làm thường xuyên, liên tục của nhiều thế hệ. Chiến khu Việt Bắc, cái nôi của cách mạng Việt Nam với những địa danh như: Pác Bó, Tân Trào, Tỉn Keo, Quảng Nạp, Đèo Đe, Núi Hồng... gắn liền với những năm tháng sống, chiến đấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đi vào những trang sử vẻ vang của dân tộc. Việt Bắc, núi sông và con người, địa lợi và nhân hòa, đã tạo nên thế đứng ban đầu cho công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước mà nòng cốt là phong trào cứu quốc của đồng bào các dân tộc để tiến tới cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi trên phạm vi toàn quốc. Trong cuộc kháng chiến 9 năm, chính nơi đây không chỉ là Tổng hành dinh của Bộ chỉ huy tối cao, mà còn trở thành chiến lũy có "Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù" ngày càng vững chắc để tiến tới chiến thắng Điện Biên, chấn động địa cầu. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc giàu lòng yêu nước, giàu truyền thống cách mạng, hăng say lao động sản xuất, có tinh thần chịu đựng gian khổ, giúp đỡ, chăm sóc cán bộ hoạt động cách mạng như người thân trong gia đình, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ. Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, dành tình cảm sâu sắc và tin tưởng tuyệt đối vào sự giúp đỡ che chở của các dân tộc Việt Bắc. Người phát huy sức mạnh tổng hợp của "nhân hòa" Việt Bắc vào cuộc Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược. Tìm hiểu mối quan hệ giữa lãnh tụ Hồ Chí Minh với đồng bào các dân tộc Việt Bắc trong cách mạng và trong kháng chiến chống thực dân Pháp là một nhiệm vụ cần thiết không chỉ đắp bồi lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn có ý nghĩa lâu dài trong tương lai. Là một giáo viên lịch sử, đang giảng dạy trên thủ phủ Việt Bắc năm xưa - tôi thấy mình phải có trách nhiệm tìm hiểu và giáo dục cho thế hệ trẻ những di sản quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào các dân tộc Việt Bắc, góp phần thiết thực vào sự thành công cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" của Trung ương Đảng phát động. Xuất phát từ nhận thức đó, tôi chọn vấn đề Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc (1941 - 1954) làm đề tài luận văn. Về mặt khoa học, đề tài góp phần làm rõ một số vấn đề trong thời kỳ Hồ Chí Minh sống tại Việt Bắc lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 (1941 - 1945) và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954). Đề tài còn giúp hiểu rõ hơn vai trò của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và dân trong cách mạng giải phóng dân tộc. Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài góp phần đánh giá vai trò của lãnh tụ với quần chúng nhân dân, vai trò của quần chúng nhân dân với lãnh tụ trong lịch sử, thấy rõ mối quan hệ giữa Đảng và dân trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Qua đó rút ra được những bài học về việc xác định đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân, sức mạnh của nhân dân trong cách mạng; về mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và dân; về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc; về việc gần dân, quan tâm tới dân, hiểu dân để có những quyết sách đúng, đặc biệt là đối với đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi. Trong sự nghiệp đất nước ta đang trên đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, những bài học đó vẫn còn nguyên giá trị. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới đề tài, đã có không ít tác phẩm, hồi ức, truyện ký, công trình nghiên cứu lịch sử đề cập với các góc độ khác nhau. Trong tác phẩm: "Căn cứ địa Việt Bắc (1940-1945)" của TS. Hoàng Ngọc La - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tác giả đề cập đến vị trí chiến lược, truyền thống đấu tranh trong lịch sử, khẳng định vai trò căn cứ địa Việt Bắc trong lãnh đạo giành thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945. Tác phẩm "Lịch sử ATK Định Hóa trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954" của TS. Nguyễn Xuân Minh và Nguyễn Xuân Hùng - Huyện ủy Định Hóa, xuất bản 1997, khắc họa vị trí, vai trò chiến lược của ATK Định Hóa trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, đồng thời cũng nhắc đến ATK Định Hóa là nơi phát tích chiến dịch Điện Biên Phủ... Đại tướng Võ Nguyên Giáp, dành hẳn một chương: "Cuộc họp Tỉn Keo" trong cuốn "Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử", nhà xuất bản Chính trị quốc gia (tái bản 1998) nêu diễn biến Hội nghị của Bộ Chính trị do Hồ Chủ tịch chủ trì thông qua chủ trương, kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953-1954 và quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Tác giả tập trung trình bày quá trình tổ chức, chỉ huy chiến đấu và diễn biến dẫn tới thắng lợi tại mặt trận Điện Biên Phủ. Tác phẩm "Nhớ ơn Người" của Bế Minh Hà, Nxb Văn hóa dân tộc, 1990, tập hợp những bài hồi kí của các đồng chí lãnh đạo, các chiến sĩ cách mạng là người dân tộc thiểu số đã từng sống và làm việc với Bác. Ngoài ra, còn có bài viết của giáo sư tiến sĩ Nicôlai Niculin (Liên Xô) người đã từng gặp gỡ tiếp xúc với Bác. Tác phẩm "Hồ Chủ tịch với Việt Bắc", Nxb Dân tộc, 1960, gồm những bài hồi kí của những người được sống gần Bác Hồ ở Việt Bắc giai đoạn 1941-1945. Trong tác phẩm "Thơ ca cách mạng ở Việt Bắc (1936-1945)" của Triều Ân, Nxb Văn hóa dân tộc, 1977, tập hợp 141 bài của 20 tác giả trong đó có thơ ca của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác phẩm "Theo Bác đi chiến dịch" của Ngọc Châu và Hà Hữu Khiếu, Nxb Quân đội nhân dân, 2000, đồng chí Ngọc Châu, người trực tiếp bảo vệ Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc và Hà Nội đã viết lại những kỉ niệm của bản thân và đồng đội mỗi lần theo Bác đi công tác, được Bác dạy bảo đã trở thành những kỉ niệm ghi nhớ suốt đời của các cán bộ chiến sĩ trong đơn vị. Tác phẩm "Chiến đấu trong vòng vây" của Võ Nguyên Giáp (Hữu Mai ghi), Nxb Quân đội nhân dân, 1995, viết về vai trò lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc (1945 - 1954). Tác phẩm "Bác Hồ ở Việt Bắc", Nxb Việt Bắc, 1975, giới thiệu hoạt động của Bác ba thời kỳ ở Việt Bắc: trước Cách mạng Tháng Tám; kháng chiến chống Pháp; thời kì hòa bình. Cuốn sách tập hợp các hồi kí của nhân dân, cán bộ đã vinh dự được gặp, được làm việc và được Người huấn luyện và đào tạo ở Việt Bắc. Tác phẩm "Những ngày đầu" của Lê Dục Tôn, Nxb Việt Bắc, 1971, là hồi kí của một chiến sĩ đã tham gia xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức và lãnh đạo cứu quốc quân, xây dựng khu căn cứ Việt Bắc những ngày đầu cho đến Cách mạng Tháng Tám 1945. Tác phẩm "Bác Hồ chăm sóc cán bộ" của Lâm Ngọc Thụ, Nxb Văn học, 1995, nói về sự quan tâm săn sóc của Bác Hồ đối với cán bộ ngay từ những năm ở chiến khu Việt Bắc. Trong tác phẩm "Bác Hồ của chúng ta", tác giả Xuân Diệu đã viết về những kỉ niệm của nhà thơ về những năm tháng bên Bác ở chiến khu Việt Bắc. Trong bài "Mệnh lệnh gửi liên khu Việt Bắc chuyển các tỉnh trong liên khu" trong cuốn "Bác Hồ với nhân dân các dân tộc Lạng Sơn", Nxb Văn hóa thông tin 1995 tr 38: Bác viết mệnh lệnh gửi liên khu Việt Bắc ngày 6 tháng 8 năm 1950 yêu cầu các tỉnh chỉnh đốn phát triển chiến tranh du kích ở các xã. v.v... Ngoài các sách, còn có nhiều báo và tạp chí có bài viết về Bác Hồ trong thời gian ở Việt Bắc: Báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh chủ nhật, 7/10/2001 có bài: "Một đám cưới ở ATK", tác giả Trường Phước kể lại kỉ niệm về đám cưới của ông Nguyễn Anh Tuấn, hiệu phó, bí thư trường Đại học Tổng hợp Hà Nội tại ATK Việt Bắc năm 1947. Ông cũng là người từng được gặp và làm việc với Bác Hồ tại ATK Việt Bắc. Báo Lâm Đồng, 1998, có bài "Gặp lại người hai lần đưa đường cho Bác Hồ ở Việt Bắc "Nhớ ông cụ mắt sáng ngời", tác giả Phan Bùi Minh Đạt kể lại kỉ niệm sâu sắc của bác Đàm Riêu Toàn, người đã từng đóng vai con của "Già Thu", đưa đường cho Bác Hồ đi công tác thời kỳ ở Việt Bắc. Báo Bắc Ninh, 1998, có bài "Năm mươi năm trước: Tết chiến khu của chính phủ kháng chiến" tác giả Lê Xuân Kỳ kể lại tết Mậu Tý 1948, Bác và Chính phủ kháng chiến đã đón xuân ở An toàn khu Việt Bắc. Báo Quân đội nhân dân cuối tuần, 21/12/1997 có bài "Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng An toàn khu trung ương (ATK) và căn cứ địa Việt Bắc". Với tầm nhìn xa trông rộng Bác đã chọn căn cứ địa Việt Bắc để xây dựng ATK được nhân dân địa phương bảo vệ. Cán bộ ATK cũng hết lòng giúp đỡ địa phương xây dựng phong trào, chăm lo đời sống nhân dân. Đó là chủ trương đúng đắn và sáng tạo của Bác. Báo Hải Hưng, 8/8/1996, có bài "Bác Hồ với việc dự trữ muối trong kháng chiến chống Pháp", tác giả Nguyễn Lương Bằng đã viết về việc trong kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ đã cho vận chuyển 2 vạn tấn muối lên Việt Bắc để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài của dân tộc. Báo Giáo dục thời đại, 14/5/2000 có bài "Kể chuyện Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc", tác giả Lê Anh đã kể lại những mẩu chuyện về Bác những năm 1947-1950 ở Việt Bắc. Báo Thái Nguyên 17/5/2002 tác giả Đồng Khắc Thọ viết về những kỉ niệm đời thường của Bác Hồ thời kỳ Người ở ATK Việt Bắc - nơi thủ đô của cuộc kháng chiến chống Pháp qua lời kể của họa sĩ Phan Kế An người đã từng được gặp, vẽ Bác Hồ thời kỳ người ở ATK v.v... Tạp chí: Tạp chí Xưa và Nay, 6/1999 có bài "Tôi vẽ chân dung Bác Hồ ở Việt Bắc", qua hồi kí họa sĩ Phan Kế An mô tả hình ảnh Hồ Chí Minh bình dị nhưng vĩ đại. Tạp chí Xây dựng Đảng, 6/1998 có bài "Xây dựng ATK theo chủ trương của trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh (1946-1954)". Tạp chí Thế giới mới, 2/2002 có bài "Những người giúp Bác ung dung yên ngựa", đồng chí Vũ Kỳ kể lại việc Bác Hồ đặt tên cho những người trực tiếp giúp việc mình như: Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi, Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Tạp chí Xưa và Nay, 5/2004 có bài của Triệu Hồng Thắng, nguyên khu ủy viên khu Việt Bắc kể chuyện những lần được gặp Bác Hồ. Tạp chí Lịch sử quân sự, 12/ 2006 số 180 tr 34-38 có bài "Căn cứ địa ATK Việt Bắc "Một sáng tạo trong kháng chiến chống thực dân Pháp", tác giả Nguyễn Xuân Minh hệ thống lại quá trình xây dựng căn cứ địa Việt Bắc - ATK, trong kháng chiến chống thực dân Pháp. v.v... Chuyên đề khoa học: "Tình cảm của Bác Hồ đối với đồng bào các dân tộc miền núi trong thời gian Người ở Việt Bắc (1941 - 1945 và 1946 - 1954)" của Nguyễn Đình Lễ; Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ở Việt Nam, Hội thảo khoa học của ủy ban Dân tộc và miền núi, Nxb Chính trị quốc gia, 1996 - 2006 tr270 - 274. Tóm tắt: Gần một nửa thời gian sau 30 năm bôn ba hải ngoại đến khi qua đời, Bác Hồ đã sống gắn bó với Việt Bắc. Bác yêu và gắn bó với Việt Bắc... Chiến dịch Điện Biên Phủ, trận quyết chiến chiến lược đem đến thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam, chấm dứt gần một thế kỷ đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam. Hơn 60 năm qua, Điện Biên Phủ thu hút không ít người trong cuộc chiến và những học giả, nhà nghiên cứu, các tướng lĩnh của Nga, Trung Quốc, Cu Ba, Lào, Anh, Đức, Mỹ... tốn không ít giấy mực để lý giải: Tại sao quân đội viễn chinh Pháp thất bại trên chiến trường Điện Biên Phủ? Jules Roy, đại tá không quân cựu chiến binh người Pháp lên tận di tích chiến trường Điện Biên Phủ, khảo sát thực địa, gặp gỡ phỏng vấn các nhân chứng và các cựu chiến binh Việt Nam, cựu chiến binh người Pháp, đã cho ra mắt cuốn "Điện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp", Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, dịch và phát hành năm 2004, đề cập đến quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ từ chiến khu Việt Bắc mà không đi sâu tìm hiểu mối quan hệ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc và đồng bào Việt Bắc với Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn từ 1941 đến 1954. Với cách viết cô đọng, công phu, tác phẩm: "Hồ Chí Minh một chân dung" của Lady Borton và Thomas (Nhà xuất bản Thanh niên dịch, ấn hành 2003), nêu: Từ chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh cùng Bộ Tham mưu đã quyết định số phận của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Mặc dù có khá nhiều bài viết như đã nêu, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống về vấn đề Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đồng bào Việt Bắc giai đoạn từ 1941 đến 1954. Luận văn này tiếp thu có chọn lọc thành quả của các tác giả đi trước, coi đó là nguồn tài liệu tham khảo quý giá giúp chúng tôi nghiên cứu và hoàn thành đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích - Đề tài nhằm nghiên cứu tương đối có hệ thống và đầy đủ vấn đề Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc trong giai đoạn 1941-1954. - Làm rõ ý nghĩa của mối quan hệ "nhân hòa" giữa lãnh tụ Hồ Chí Minh với đồng bào các dân tộc Việt Bắc trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ - Sưu tầm tư liệu, nghiên cứu vấn đề Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc, từ đó lý giải mối quan hệ đó có tác dụng như thế nào, đưa tới thành công của Cách mạng Tháng Tám và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. - Rút ra bài học đoàn kết, thực hiện chính sách dân tộc, xây dựng hậu phương trong cách mạng. - Đề tài góp phần cung cấp những tư liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử địa phương cùng với những chuyên đề liên quan đến thời kỳ lịch sử này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là vấn đề Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc trong thời kỳ cách mạng 1941 - 1954, rút ra một số đánh giá, nhận xét chung về mối quan hệ giữa Đảng, Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Việt Bắc trong thời kỳ từ 1941 - 1954. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trong phạm vi không gian Việt Bắc. Tìm hiểu về các mối quan hệ giữa Bác Hồ với đồng bào Việt Bắc trên nhiều lĩnh vực trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954) - Phạm vi thời gian: giới hạn từ 1941 (khi Bác Hồ về nước) đến 1954 (khi Bác Hồ rời Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội). 5. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tư liệu - Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, 3, 4, 6, Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử tập 2, 3, 4, 5, các Văn kiện của Đảng, hồi kí của những cán bộ hoạt động cách mạng bên Bác Hồ... - Những bài viết, bài phát biểu của Bác Hồ, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đồng chí lão thành cách mạng trong những dịp về thăm và làm việc tại các địa phương ở Việt Bắc. - Lịch sử Đảng bộ các tỉnh, huyện trong chiến khu Việt Bắc và nhiều tài liệu khác. Những nguồn tư liệu trên được lưu trữ tại Thư viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, Thư viện Quốc gia, Văn phòng Tỉnh ủy Thái Nguyên, Văn phòng Tỉnh ủy Tuyên Quang, Văn phòng Tỉnh ủy Cao Bằng, Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Kạn, Trung tâm Lưu trữ ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Trung tâm lưu trữ ủy ban nhân dân Tỉnh Tuyên Quang, Trung tâm lưu trữ ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn, Sở Văn hóa Thông tin Thái Nguyên, Phòng Lịch sử, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thái Nguyên, Ban quản lý di tích Hồ Chí Minh tỉnh Cao Bằng. Trong quá trình thực hiện đề tài này, để đảm bảo tính chính xác và làm cho nội dung phong phú hơn, chúng tôi còn khai thác tư liệu từ các nhân chứng, từ điều tra thực địa. Tuy nhiên, do điều kiện khí hậu, cùng với việc di rời của các cơ quan và công tác lưu trữ, bảo quản chưa tốt, nên nhiều tư liệu của địa phương (nhất là những tư liệu viết tay của những năm 80 trở về trước) đã bị thất lạc, rách nát. Đó là những khó khăn trong quá trình sưu tầm và sử dụng tư liệu phục vụ đề tài này. Mặc dù vậy chúng tôi đã cố gắng hết sức khai thác từ nhiều nguồn, tiến hành đối chiếu, so sánh, phân tích để có được những sự kiện đáng tin cậy sử dụng trong luận văn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ mục đích của đề tài nghiên cứu là Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc (1941 - 1954), trên cơ sở nguồn tài liệu đã thu thập được, chúng tôi dựa trên quan điểm phương pháp luận mácxít trong nghiên cứu lịch sử và sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp phương pháp lôgíc. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp và khảo sát điền dã, để chọn lọc, bổ sung tư liệu nhằm tăng sức thuyết phục cho những vấn đề nghiên cứu. 7. Đóng góp của luận văn - Luận văn là công trình đầu tiên trình bày một cách tương đối có hệ thống quan hệ giữa Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc giai đoạn từ 1941 đến 1954. - Luận văn góp phần làm rõ việc hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh giai đoạn Người ở Việt Bắc là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Mảnh đất và con người Việt Bắc. Chương 2: Bác Hồ với đồng bào Việt Bắc (1941 - 1954) Chương 3: Giá trị lịch sử và bài học kinh nghiệm. Chương 1 Mảnh đất và con người Việt Bắc 1.1. Mảnh đất Việt Bắc 1.1.1. Lịch sử hình thành Việt Bắc, cái tên từ lâu đã trở thành thân quen với đồng bào cả nước và cũng không xa lạ với nhiều người trên thế giới. Qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dải đất này của Tổ quốc đã trở thành vị trí chiến lược quan trọng cả về quân sự và chính trị, là nơi từng diễn ra những cuộc giao tranh quyết liệt của dân tộc ta chống quân xâm lược phương Bắc. Đây từng là cái nôi của Cách mạng Tháng Tám và căn cứ địa của Trung ương trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Vào thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, Việt Bắc gồm 17 tỉnh (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Ninh, Bắc Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Sơn La, Lai Châu, Quảng Yên, Hải Ninh, Lào Cai và Châu Mai Đà) và Đặc khu Hồng Gai. Phía Đông giáp đường số 5; tây Nam trải dọc sông Hồng từ Gia Lâm - Trung Hà theo địa giới tỉnh Sơn La tới giáp biên giới bắc Lào; phía bắc giáp Trung Quốc từ Móng Cái đến Lai Châu. Diện tích rộng bằng năm phần sáu đất đai Bắc Bộ (gần 100.000 km2). Ngày 28 tháng 11 năm 1946, Việt Bắc chia thành bốn chiến khu (1, 10, 12, 14). Ngày 25 tháng 01 năm 1948, hợp thành hai liên khu (Liên khu 1 gồm Chiến khu 1 và 12, Liên khu 10 có chiến khu 10 và 14). Đến tháng 11 năm 1949 thống nhất hai liên khu thành Liên khu Việt Bắc. Tháng 7 năm 1952, lại tách một số tỉnh của Liên khu Việt Bắc (Yên Bái, Lai Châu, Lào Cai, Sơn La) thành lập khu Tây Bắc. Ngày 3 tháng 6 năm 1957, Việt Bắc lại được chia thành ba quân khu: Quân khu Việt Bắc, Quân khu Tây Bắc và Quân khu Đông Bắc. Ngày 29 tháng 6 năm 1976, Quân khu Việt Bắc và quân khu Tây Bắc sáp nhập thành quân khu 1. Đến ngày 26 tháng 5 năm 1978, Quân khu 1 lại tách các tỉnh phía Tây Bắc thành Quân khu 2. Tháng 4 năm 1979, Nhà nước ta tách tỉnh Quảng Ninh thành đặc khu Quảng Ninh thuộc Trung ương. "Việt Bắc" trong luận văn này đề cập tới là " Khu giải phóng Việt Bắc" được thành lập vào tháng 6/1945, gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn. Luận văn này nghiên cứu về: Hồ Chí Minh với đồng bào các dân tộc Việt Bắc (1941 - 1954), vì vậy chỉ chủ yếu tập trung nghiên cứu về một số nơi mà Hồ Chí Minh ở trong thời kỳ này đó là: Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên, vì điều kiện thời gian có hạn nên các nơi còn lại trong sáu tỉnh này chỉ điểm qua đôi nét. 1.1.2. Vị trí chiến lược Diện tích tự nhiên Việt Bắc khoảng 50.000 km2, chiếm 15% diện tích tự nhiên cả nước và bằng 32% diện tích tự nhiên miền bắc. Địa hình Việt Bắc đa dạng, nối liền phía Nam Trung Quốc là các cao nguyên đá vôi với những cảnh quan Các-xtơ, biểu hiện rõ nhất là các huyện phía Bắc và Đông Bắc tỉnh Cao Bằng và Hà Giang, ở độ cao từ 200 mét đến 300 mét so với mặt biển. Núi chiếm khoảng hai phần ba diện tích tự nhiên, ở độ cao từ 500 đến 600 mét đến 1.200 mét núi đá xen lẫn núi trùng điệp, hiểm trở. Đó là các sơn khối Bắc Sơn với dãy Cai - Kinh; cánh cung Ngân Sơn, cánh cung Sông Gâm với dãy Phja Daj (Pia-y-a) Phja Bjóc (Pia-u-uắc) và ngọn Tam Tao... "Rừng vàng" cung cấp cho nhân dân nhiều nguồn lợi, từ vật liệu dựng nhà cửa cho tới măng tươi, nấm hương, mộc nhĩ, củ mài, củ nâu, mật ong, dược liệu... rừng còn nhiều chim muông thú quý. Địa hình Việt Bắc cao về phía Bắc nhưng lại thấp dần về phía Nam và Tây Nam. Các huyện phía Nam của địa bàn Việt Bắc, thềm cổ được đồng bằng hóa trở thành vùng bán sơn địa là cái gạch nối giữa núi và đồng bằng. Việt Bắc là vùng núi nhưng cũng lắm sông suối, ao, hồ. Sông suối ở Việt Bắc có ở khắp nơi. Cao Bằng có sông Bằng Giang, sông Bác Vọng, sông Máng,... có hồ Thanh Hen, không những có nhiều cá tôm mà còn là những danh lam, thắng cảnh nổi tiếng. Mặc dầu sông ở Cao Bằng nhỏ hẹp chảy xiết và nhiều thác ghềnh, lưu lượng nước thấp về mùa khô, song vẫn có thể đi lại bằng thuyền mảng để chuyên chở lâm thổ sản. Theo sông Máng thuyền nhỏ có thể đi từ mỏ sắt (Sóc Giang) đến Tà Lùng, sát biên giới Việt -Trung. Lạng Sơn có sông Kỳ Cùng, sông Rạng, sông Chung, sông Bắc Khê và sông Văn Mịch từ Pát Xát (Quảng Ninh) qua thị xã Lạng Sơn sang Trung Quốc. Nhân dân ở vùng biên giới hai nước thường dùng mảng để chuyên chở hàng hóa. ở Hà Giang và Tuyên Quang, thuyền nhỏ đi từ Hà Giang theo sông Gâm về Tuyên Quang, thuyền lớn trên sông Lô ra tới Việt Trì. Tàu nhỏ ngược dòng sông Lô lên tới Tuyên Quang, thuyền lớn lên tới Bằng Mục Chiêm Hóa... ở Bắc Kạn và Thái Nguyên, ngoài sông Công (Thái Nguyên), có sông Cầu. Đó là con sông lớn nhất của hai tỉnh. Sông Cầu bắt nguồn từ Chợ Đồn chảy qua Bắc Kạn về Thái Nguyên. Bằng mảng và thuyền đồng bào chở ngô, khoai, sắn, nứa, mai, song, mây, gỗ, củ nâu, và cả than và quặng sắt về xuôi. Ngược lại thuyền nhỏ trong mùa khô và thuyền lớn trong mùa mưa có thể đi từ dưới xuôi, qua Đáp Cầu (Bắc Ninh), ngược dòng sông Cầu thả neo tại bến Đồng Mỗ để đưa tôm, cá khô, mắm, muối, đồ gốm... tới các huyện, tỉnh miền núi phía Bắc. Chợ Đồng Mỗ, trung tâm của tỉnh lỵ Thái Nguyên xưa kia trên bến dưới thuyền sầm uất. Bắc Kạn có hồ Ba Bể, một danh thắng nổi tiếng. Hệ thống sông ngòi ngang dọc chia cắt địa hình Việt Bắc thành muôn hình muôn vẻ, có núi hình con voi (núi Voi), có núi hình quạt (núi Quạt)... Sự xâm thực của nước mưa của dòng suối lộ thiên và của suối ngầm đã tạo ra nhiều hang động lớn ở núi đá vôi. Khảo cổ học đã phát hiện nhiều hang động, mái đá ngườm ở Võ Nhai (Thái Nguyên), Bắc Sơn, Bình Gia (Lạng Sơn)... là những di chỉ văn hóa khảo cổ thuộc thời đại đá cũ, hoặc đá giữa hay thời kỳ đá mới. Quá trình kiến tạo địa chất và tác động của tự nhiên, sự bồi đắp của các con sông đã tạo ra ở Việt Bắc những bồn địa khá màu mỡ. Ngoài các thung lũng lòng chảo, còn có các sườn núi, lưng đồi, các soi bãi dọc ven sông, suối là những nơi có thể canh tác tốt cho đồng bào. Việt Bắc có những cánh đồng khá rộng có thể gọi là miền đồng bằng nhỏ, như những cánh đồng Hòa An (Cao Bằng), Tràng Định (Lạng Sơn), Đại Từ, Phổ Yên, Phú Bình... (Thái Nguyên). Đó là những vùng đất đai màu mỡ. ở Việt Bắc, nhiệt độ trung bình hàng năm đạt từ 210C - 230C, tổng nhiệt độ hoạt động toàn năm khoảng 75000C - 80000C, tùy độ cao; lượng mưa khá dồi dào, nơi thấp nhất như Lạng Sơn cũng đạt 1.400 mm/năm, nhiều nơi đạt trên 2000 mm/năm... Do vậy, có thể nói rằng đất đai, khí hậu Việt Bắc đã tạo nên sự phong phú, đa dạng về thực vật và động vật; hình thành nhiều loại cây trồng, vật nuôi mang tính nhiệt đới và cả ôn đới. Việt Bắc giàu đẹp lại án ngữ ở phía Bắc Việt Nam, tiếp giáp với đất nước Trung Quốc bao la, trên một tuyến biên giới ngày nay dài 751 km đi qua 15 huyện 97 xã. Do vậy ở thời đại nào, Việt Bắc cũng giữ một vị trí hết sức quan trọng. Việt Bắc núi rừng hiểm trở, nhiều nơi xung yếu, biên ải xa xôi, nhưng nhờ hệ thống giao thông đường bộ như những nhành cây trở về thân gốc, nên dù phải trèo đèo, lặn suối, Việt Bắc đều có thể liên lạc được tương đối nhanh, thuận lợi với trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước, xưa là Thăng Long nay là thủ đô Hà Nội. Nổi lên trong quan hệ giao lưu xuôi ngược và sự bang giao trong khu vực là các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên. Hệ thống giao thông thủy bộ trong nội địa và ra nước ngoài của Cao Bằng làm cho tỉnh Cao Bằng có vị trí quan trọng, có tầm chiến lược ở Việt Bắc không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, xã hội mà trên cả các mặt quân sự, chính trị. Với Lạng Sơn, hệ thống giao thông mở bốn phương trời làm cho Lạng Sơn có vị trí quan trọng chiến lược về quân sự và sầm uất cả về kinh tế; là nơi hội tụ, giao lưu, tiếp xúc xuôi ngược trong ngoài. Thái Nguyên là cửa ngõ của Việt Bắc, là đầu mối giao thông, nổi lên là chất hội tụ xuôi ngược, chất tiếp xúc miền xuôi lên, miền ngược xuống. Hội tụ và tiếp xúc là chất đặc thù về kinh tế và xã hội ở Thái Nguyên. Đồng thời về mặt quân sự, Thái Nguyên còn là bức phên giậu bảo vệ Thăng Long. Trong sự khai sinh về mặt địa lý, lãnh thổ và xã hội Việt Bắc có vị trí hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử. 1.2. Con người Việt Bắc 1.2.1. Truyền thống yêu nước và cách mạng Nhân dân các dân tộc ở Việt Bắc đã trải qua các thời kỳ lịch sử đánh giặc giữ nước. Nơi đây đã từng diễn ra những trận quyết chiến, chiến lược chống bọn bành trướng phương Bắc từ thuở xa xưa. Nơi đây cũng ghi những sự tích anh hùng qua các thời kỳ chống thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ xâm lược. Từ thời các vua Hùng, nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã phải chống giặc phương Bắc xâm lược. Truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương đánh đuổi giặc Ân qua đất Quế Dương đến Đa Phúc. Mười năm kháng chiến chống quân Tần (thế kỷ III trước công nguyên) hàng vạn quân giặc bị chặn đánh ngay từ biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn. Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, đã xuất hiện nhiều nữ tướng đánh giặc Hán trên đất Việt Bắc. Năm 981 quân xâm lược nhà Tống đã bị quân và dân ta đánh cho đại bại ở Chi Lăng (Lạng Sơn). Lần đầu tiên ải Chi Lăng trở thành mồ chôn quân xâm lược. Năm 1052, giặc Tống tiến vào Cao Bằng đã bị quân sĩ của Nùng Chí Cao tiêu diệt hàng ngàn tên, đánh đuổi ra khỏi biên giới. Năm 1072 nhà Tống lại chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Theo kế sách tiến công để tự vệ, năm 1075 Lý Thường Kiệt đã tổ chức tập kích táo bạo vào căn cứ xuất phát tiến công của kẻ thù bằng hai đạo thủy, bộ. Quân bộ do các tù trưởng của các dân tộc ít người như: Tôn Đản, Thân Cảnh Phúc... chỉ huy, vượt biên giới đánh thẳng vào sào huyệt địch trên đất Tống. Cuối năm 1076, khi quân Tống xâm lược nước ta, các đạo quân miền núi lại được giao nhiệm vụ giữ các nơi xung yếu ở Cao Bằng, Lạng Sơn đánh úp và quấy rối các toán quân giặc, tiêu diệt các đoàn tiếp tế của chúng. Mùa xuân 1077, nhà Lý thắng lớn trên phòng tuyến sông Như Nguyệt. Trong trận quyết chiến chiến lược này có sự đóng góp tích cực của những đội thổ binh, hương binh của các dân tộc miền núi và trung du. Sang thế kỷ XIII vùng đất thiêng liêng này lại ghi tiếp những chiến công oanh liệt của quân và dân đời Trần với ba lần đánh bại giặc Nguyên - Mông. Nhiều sự kiện lịch sử quan trọng và chiến công oanh liệt đã gắn liền với các tên người, tên đất của các địa phương Việt Bắc. Thế kỷ thứ XV, đồng bào các dân tộc Việt Bắc lại cùng cả nước vùng lên lật đổ ách thống trị nhà Minh. Vấp phải sự phản kháng quyết liệt ở Cao Bằng, tháng 8 năm 1407, đô đốc giặc là Cao Sĩ Văn khét tiếng dã man, tàn bạo cũng không áp đặt được chính quyền đô hộ tại đây và đã bị giết trên núi Quảng Nguyên. Tháng 11 năm 1410, nghĩa quân "áo đỏ" (nghĩa quân ra trận thường hay mặc áo đỏ mà thành tên gọi) xuất hiện ở Đại Từ (Thái Nguyên) đã liên tục tiến công giặc Minh buộc chúng phải điều quân từ Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang đến ứng cứu. Nghĩa quân chiến đấu rất anh dũng, linh hoạt và phát triển khắp vùng Việt Bắc lan rộng sang Tây Bắc và đến miền núi Thanh Nghệ. Đây là phong trào đấu tranh rộng lớn và kéo dài của các dân tộc ít người, đã gây cho địch nhiều tổn thất, khiến chúng không thể nào đặt vững được chính quyền đô hộ trên vùng núi rừng bao la, hiểm trở của Việt Bắc. Trong những năm 1812 - 1819, nhân dân Lạng Sơn có sự lãnh đạo của Hoàng Thiên Hữu, Nguyễn Hách, Nông Văn Lịch đã chiến đấu liên tục giải phóng nhiều vùng. Khi Lê Lợi dấy binh ở Lam Sơn thì Lưu Nhân Chú, Phạm Cuông (Thái Nguyên), Bế Khắc Triệu (Cao Bằng) đã nổi lên hưởng ứng. Một số người sau này lập công lớn, trở thành danh tướng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Năm cuối cùng của cuộc kháng chiến chống quân Minh, tổng binh Liễu Thăng chỉ huy 10 vạn quân theo đường Lạng Sơn tiến vào nước ta hòng cứu nguy cho đồng bọn đang bị vây khốn ở Đông Quan (Hà Nội). Khi đến chân núi Mã Yên Liễu Thăng cùng toàn bộ một vạn quân tiên phong của địch bị tiêu diệt. Trong trận này đội dân binh Chi Lăng đã lập công xuất sắc. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858), nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã cùng cả nước không cam chịu làm nô lệ, bền bỉ liên tiếp vùng dậy đấu tranh giải phóng quê hương, giành độc lập tự do. Khởi đầu là cuộc khởi nghĩa của Dương Đình Cúc (Thái Nguyên), kéo dài suốt 18 năm liền. Giặc Pháp đã nhiều lần tấn công lên Lạng Sơn nhưng đều bị thất bại. Trong các năm 1886 - 1888, Hoàng Đình Kinh lãnh đạo nhân dân Hòa Lạc (Hữu Lũng) vũ trang khởi nghĩa, chiếm dãy núi đá phía nam Châu Ôn làm căn cứ. Sau này để tỏ lòng ngưỡng mộ người khởi nghĩa, nhân dân gọi dãy núi đá Châu Ôn là dãy Cai Kinh. Những năm 1886 - 1905, dưới sự điều khiển của các hào trưởng, các nhà yêu nước tỉnh Cao Bằng nhân dân các dân tộc địa phương đã cầm vũ khí chống Pháp. Đó là các cuộc khởi nghĩa của Triệu Phúc Sinh (1886), Lương Tuấn Tú (1887 - 1895) Pa Deng (1889) là nữ thanh niên dân tộc H’Mông, Phà Nhi người dân tộc Dao. Tại Bắc Kạn trong những năm 1886 - 1895, cuộc chiến đấu kiên cường, bất khuất của nhân dân đã diễn ra sôi nổi, liên tục ở vùng Chợ Mới, lực lượng có tới 300 người. Nhiều trận đánh đã diễn ra, tiêu biểu là trận phục kích ở làng Vạn Yên (tháng 10 năm 1886), trận phản công ở Chợ Mới. Nghĩa quân của Mã Sinh Long hoạt động ở phía Bắc Chợ Mới và nam Giang Tiên đã chặn đường tiếp viện Sông Cầu - Chợ Mới, đồng bào liên tiếp gây ra cho địch nhiều khó khăn khi chúng làm đường số 3 lên Bắc Kạn. Phong trào đấu tranh của nông dân cũng tự phát bùng lên mạnh ở khắp nơi. Từ những cuộc khởi nghĩa của Lãnh Giang, Hai Kế (1888), Cai Biểu (1890) ở trung du, đồng bằng đến các đội nghĩa binh lớn của Đốc Tiều, Đốc Nghị, Tổng Bưởi (1889 - 1890), của Lưu Kỳ (1892), Hoàng Thái Nhân (1893 - 1894) ở miền thượng du, đã từng làm chủ nhiều vùng rộng lớn, gây cho địch nhiều tổn thất. Trong những năm 1892 - 1896 nông dân các huyện Võ Nhai, Định Hóa, Phổ Yên, Đại Từ, Phú Bình đã tự vũ trang và nhất loạt nổi dậy. Trong cả tám tổng 30 làng ở Võ Nhai, nhân dân vào rừng theo nghĩa quân đánh giặc. Riêng nghĩa quân của Đề Nguyên đã đánh 16 trận ở Đại Từ, diệt nhiều tên giặc. Phong trào đấu tranh sôi sục trong nhân dân đã thức tỉnh binh lính người Việt trong hàng ngũ giặc làm binh biến. Cuối năm 1892 binh lính đồn Hương Sơn (Đại Từ) đã quay súng chống lại giặc Pháp. Phong trào nghĩa binh lan rất nhanh. Lực lượng có hàng trăm người, liên tục chiến đấu cho đến năm 1896. Cuộc binh biến này lắng đi thì cuộc khởi nghĩa khác lại bùng lên ngày càng dữ dội hơn. Ngày 11 tháng 10 năm 1914, những người tù ở nhà giam Bắc Kạn do Lý Bảo Long lãnh đạo đã cảm hóa một số lính khố xanh, phá nhà tù, mở kho lấy vũ khí, rồi nổ súng vào nhà giám binh, dinh công sứ... làm chủ thị xã suốt từ sáng đến chiều. Sau đó rút quân về Na Rì xây dựng căn cứ, củng cố lực lượng. Đêm 30 rạng ngày 31 tháng 8 năm 1917, một cuộc binh biến của binh lính Thái Nguyên đã nổ ra dưới sự chỉ huy của Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến. Những người tù chính trị ở nhà giam thị xã phối với binh sĩ yêu nước được nhân dân địa phương và công nhân các mỏ quanh thị xã ủng hộ và cùng hành động. Những người nổi dậy đã phá nhà lao thả người tù, chiếm trại lính khố xanh, các công sở, tiến đánh Gia Sàng, chặn viện từ Hà Nội lên, từ Yên Bái xuống, làm thương vong hơn 100 tên giặc. Nghĩa quân làm chủ thị xã 6 ngày rồi rút về núi Tam Đảo xây dựng căn cứ. Dưới ách thống trị của giặc Pháp gần một thế kỷ, nhân dân các dân tộc Việt Bắc liên tiếp dấy lên tranh đấu, khi lẻ tẻ từng vùng, lúc đồng loạt khắp nơi, khi nông dân vùng lên, lúc binh sĩ người Việt làm binh biến. Tuy chỉ mới có tinh thần yêu nước, chưa có đường lối cách mạng chỉ đường, nhưng nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã thể hiện sức mạnh to lớn và truyền thống đấu tranh bất khuất của mình. Chính truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường của nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã trở thành một trong những cơ sở chủ yếu thuận lợi cho sự tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin và đường lối cách mạng của Đảng. Những cuộc đấu tranh tự phát chống thực dân Pháp liên tiếp nổ ra khắp các tỉnh trước đây, đến khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam dần dần chuyển sang tự giác ngày càng phát triển mạnh mẽ. Năm 1927, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã bí mật tổ chức nhóm thanh niên cách mạng ở Cao Bằng và Lạng Sơn để tuyển chọn thanh niên đưa ra nước ngoài học tập và kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 4 năm 1930, đồng chí Hoàng Đình Giong và một số đảng viên từ nước ngoài về tổ chức chi bộ Đảng đầu tiên ở Cao Bằng. Thời kỳ 1932 - 1935 mặc dù bị địch khủng bố nặng, phong trào của quần chúng tạm thời lắng xuống, nhưng Việt Bắc vẫn giữ được khí thế cách mạng. Các cơ sở Đảng vẫn tiếp tục được củng cố và phát triển ở những nơi có điều kiện, thêm nhiều chi bộ Đảng được thành lập ở các phủ, huyện như Hòa An, Tĩnh Túc, Hà Quảng, Quảng Uyên, Thạch An (Cao Bằng), Bắc Sơn (Lạng Sơn), Võ Nhai, Đại Từ, Định Hóa (Thái Nguyên). Trong những năm 1936 - 1939, từ miền núi đến trung du làn sóng đấu tranh liên tiếp dấy lên mạnh mẽ. 500 đồng bào các dân tộc Cao Bằng đòi quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống. Nông dân Võ Nhai đấu tranh chống bắt phu, bắt lính với khí thế mạnh mẽ buộc địch phải đổi tên tri châu đi nơi khác. Các làng Phú Thượng, Lâu Thượng (Thái Nguyên) lấy chữ kí đòi thả tù chính trị, ủng hộ phong trào bình dân... Trong khi phong trào cách mạng Việt Nam đang phát triển thì 9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Pháp đầu hàng phát xít Đức. ở Đông Dương, phát xít Nhật lợi dụng cơ hội này, từ phía Nam Trung Quốc kéo vào Lạng Sơn, nổ súng đánh quân Pháp (22/9/1940). Chỉ trong 48 giờ, các vị trí Pháp ở Na Sầm, Đồng Đăng, Điếm He, Lộc Bình lần lượt bị Nhật tiêu diệt. Quân Nhật chiếm thị xã Lạng Sơn, quân Pháp tháo chạy hoảng loạn. Dân tộc ta lại có thêm một kẻ thù mới là phát xít Nhật. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc lại thêm quyết liệt. Mặc dù thêm những khó khăn mới, phong trào cách mạng vẫn tiếp tục phát triển, cuộc đấu tranh ở Việt Bắc càng thêm sôi sục với những bước tiến mới. Tiêu biểu cho sự phát triển của phong trào cách mạng là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Bắc Sơn thuộc Châu Bắc Sơn là vùng núi phía Tây nam tỉnh Lạng Sơn, giáp châu Võ Nhai (Thái Nguyên). Nhân dân Bắc Sơn gồm các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Kinh vốn có truyền thống đấu tranh cách mạng. Năm 1933, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã đến xây dựng cơ sở ở xã Vũ Lăng, rồi thành lập chi bộ Đảng (25/9/1936) lãnh đạo nhân dân chống bọn hào lý bóc lột thành lập các tổ chức quần chúng cách mạng và các đội tự vệ chiến đấu. Mùa thu năm 1940, một bộ phận quân Pháp bị Nhật đánh theo hướng Bình Gia - Bắc Sơn về Thái Nguyên, dọc đường vứt bỏ súng đạn, quân dụng, cải trang làm thường dân, vào làng xin ăn. Nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của chi bộ địa phương đã kịp xông ra tước vũ khí của tàn quân Pháp. Ngày 25/9/1940, một số cán bộ, đảng viên thoát khỏi nhà tù Lạng Sơn, đã cùng chi bộ Bắc Sơn phát động quần chúng nổi dậy, lập ủy ban khởi nghĩa, vận động các tổng đoàn, xã đoàn và binh lính người Việt trong quân đội Pháp (vừa chạy về địa phương), theo cách mạng chống giặc cứu nước. Ngày 27 tháng 9 năm 1940, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, ủy ban khởi nghĩa huy động lực lượng tự vệ phục kích toán lính Pháp qua đèo Canh Tiến, rồi truy kích chúng về đèo Dập Dị. 20 giờ, đội tự vệ cùng với trên 600 người thuộc các xã Tam Hoa, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Bắc Sơn, Ngũ Viễn vũ trang bằng gậy tre, giáo mác, súng kíp, súng trường... kéo về châu lỵ Bắc Sơn quân khởi nghĩa chia làm ba cánh cùng tiến đánh đồn Mỏ Nhai. Tên tri châu Bắc Sơn ra lệnh cho lính nổ súng chống cự. Nhưng với khí thế tiến công, quân khởi nghĩa xốc tới, vừa bắn vừa kêu gọi binh lính trong đồn đầu hàng. Tên tri châu và cả trung đội lính đầy đủ súng hoảng sợ bỏ chạy. Bọn quan lại của nhiều địa phương đang tụ tập ở đây cũng tán loạn chạy theo. Trong đó có tri châu Điềm He, Thất Khê và tri phủ Tràng Định. Tên tri châu Thoát Lãng bị trừng trị tri châu Na Sầm bị dân bắt. Quân khởi nghĩa chiếm đồn Mỏ Nhài, thu súng đạn. Nhân dân và tự vệ tiếp tục triệt phá đồn Điềm He, Bình Gia. Tin chiến thắng truyền tới đâu, hàng ngàn đồng bào nơi đó reo hò, đốt đuốc, cầm dao, kiếm kéo về châu lỵ hỗ trợ tự vệ san bằng đồn bốt. Mờ sáng ngày 28/9 nhân dân các xã lân cận và đồng bào châu lỵ cùng nghĩa quân mít tinh mừng thắng lợi. Sau đó đoàn người tỏa ra khắp các ngả đường tiếp tục chặn đánh tàn quân Pháp, tước súng đạn của chúng và trấn áp bọn cường hào phản động, phá rã chính quyền địch. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đang lan rộng thì giặc Nhật thỏa hiệp với thực dân Pháp để cho Pháp rảnh tay đàn áp cách mạng Việt Nam. Quân Pháp đã tập trung lực lượng tiến đánh Bắc Sơn, chiếm lại châu lỵ, đốt phá làng bản, bắt bớ, tàn sát nhân dân rất dã man, hòng dập tắt cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Trước hoàn cảnh gay go quyết liệt đó, Đảng bộ và nhân dân các huyện Đại Từ, Phú Bình, Võ Nhai (Thái Nguyên), Đảng bộ các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang đã kịp thời đẩy mạnh hoạt động ở địa phương để hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Tại các địa phương trên ta đã mở rộng thêm cơ sở cách mạng, cử cán bộ, đảng viên lên Bắc Sơn tham gia chiến đấu vận động nhân dân quyên góp vũ khí, áo quần, thuốc men, diêm, muối và lương thực ủng hộ nghĩa quân; đồng thời thúc đẩy các phong trào địa phương liên tục đấu tranh, chia sẻ lực lượng địch, làm suy yếu sức tiến công của chúng lên Bắc Sơn. Ngoài những cuộc mít tinh, rải truyền đơn cổ vũ cuộc khởi nghĩa, nhiều nơi ở Việt Bắc đã thành lập các đội tự vệ, mở rộng phong trào luyện tập quân sự, chuẩn bị hoạt động khi có thời cơ. Xứ ủy Bắc Kỳ cử đồng chí Trần Đăng Ninh lên Bắc Sơn lãnh đạo phong trào, chống địch khủng bố, tập trung đảng viên và quần chúng tích cực lập đội du kích. Ngày 14 tháng 10 chiến khu Bắc Sơn được thành lập gồm các khu vực Nà Tấu, Sa Khao, Mỏ Đát, Bản Me, Nam Nhi. Ngày 16 tháng 10 năm 1940 đội du kích Bắc Sơn ra đời tại làng Đơn úy (xã Vũ Lăng) gồm 20 người, trang bị súng trường, súng kíp, dao quắm, mã tấu... Có Đảng lãnh đạo, có chính quyền nhân dân, lại có lực lượng vũ trang cách mạng, quần chúng càng phấn khởi, hăng hái tham gia đấu tranh chống giặc, khí thế cách mạng càng dâng cao. Quân du kích tiến hành vũ trang tuyên truyền trong nhân dân và liên tiếp trừng trị nhiều tên phản động đầu sỏ. Du kích Bắc Sơn tiến đánh Khuôn Bằng, đồng thời tịch thu tài sản của bọn đế quốc, Việt gian chia cho dân. Ngày 25 tháng 10, quân khởi nghĩa tiến công địch ở Vũ Lăng kêu gọi lính dõng theo cách mạng. Trước khí thế mãnh liệt của quân khởi nghĩa, tên châu úy và 100 lính đã tập trung chuẩn bị đi càn hoảng sợ bỏ chạy. Chính quyền địch ở các làng bản xung quanh cũng tan rã theo. Lá cờ đỏ cách mạng tung bay một vùng, chỉ trong vài ngày, lực lượng du kích đã có gần 200 người. Trên đà thắng lợi, quân du kích quyết định mở cuộc tấn công đồn Mỏ Nhài (Châu lỵ Bắc Sơn) lần thứ hai. Ngày 28 tháng 10, Đảng bộ Bắc Sơn tổ chức cuộc tuần hành thị uy lớn, có hàng ngàn người của chín xã, giương cao cờ đỏ, vũ khí thô sơ, và hỗ trợ lực lượng vũ trang giải phóng châu lỵ. Lợi dụng sơ hở của lực lượng cách mạng, bọn phản động đã dẫn quân Pháp từ đồng Mỏ Nhai theo đường tắt "đánh úp" cuộc mít tinh. Các chiến sĩ du kích kịp nổ súng chiến đấu bảo vệ nhân dân chạy thoát rồi phân tán về căn cứ. Giặc Pháp củng cố xong các vị trí ở Bắc Sơn điên cuồng tiến hành khủng bố nhân dân. Chúng tập trung quân đi đốt phá, bắt hàng trăm người đem về thị xã bắn giết cắm cọc bêu đầu ở Bắc Sơn. Chúng dồn làng tập trung quân để kiểm soát... phong trào Bắc Sơn lại gặp khó khăn đội du kích chuyển sang hoạt động phân tán, bám dân, tổ chức chống khủng bố. Tháng 11/1940 Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 họp tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh) đã chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng chuẩn bị điều kiện tiến tới khởi nghĩa. Hội nghị quyết định duy trì và bồi dưỡng lực lượng du kích Bắc Sơn làm vốn quân sự đầu tiên cho khởi nghĩa vũ trang rộng lớn sau này và quyết định chuyển hướng hoạt động của đội du kích Bắc Sơn từ quân sự sang chính trị, bí mật gây cơ sở quần chúng thành lập căn cứ du kích lấy vùng Bắc Sơn -Võ Nhai làm trung tâm. Một bộ phận du kích rút về Đình Cả, Tràng Xá (Thái Nguyên) hoạt động mở rộng căn cứ địa. Tiếng súng Bắc Sơn đã cổ vũ tinh thần cách mạng của nhân dân cả nước và cùng với khởi nghĩa Nam Kỳ đã báo hiệu thời kỳ mới của cách mạng, thời kỳ khởi nghĩa giành chính quyền. Từ khởi nghĩa Bắc Sơn ra đời đội du kích Bắc Sơn là lực lượng vũ trang do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo, sau này phát triển thành ba trung đội Việt Nam cứu quốc quân. Đội du kích Bắc Sơn cũng là lực lượng vũ trang tập trung đầu tiên của Việt Bắc. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc từ xa xưa đã có truyền thống yêu nước, sẵn sàng vùng lên đánh giặc khi bản làng, đất nước bị xâm lăng. Tinh thần đoàn kết, yêu nước của đồng bào được phát huy hơn bao giờ hết khi có Đảng lãnh đạo. Đặc biệt là từ khi Bác Hồ về nước, ánh sáng của Đảng như lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc dẫn dắt đồng bào làm cách mạng để tự giải phóng quê hương, đất nước mình. "Cao Bằng ngày xưa buồn lắm thôi Bóng núi rừng âm thầm đen tối Làng bản ta quanh năm nghèo đói Đời sao nghe lắm tiếng thở dài ... Bỗng giữa mùa đông, núi rừng náo nức " Ông cụ về !" tiếng suối ngân nga Ông cụ về cùng đất mẹ quê cha Sau những năm chân trời góc biển Ôi quê hương ruột già yêu mến ! Người ôm hôn mảnh đất xót xa Mảnh đất đau thương máu lệ chan hòa Từ đó nhân dân mím chặt môi Gạt nước mắt cùng toàn dân đứng dậy Như giữa mùa nước nguồn tuôn chảy Như lửa rừng bốc cháy đồi gianh Có gì ngăn được làn sóng đấu tranh Đã đến lúc phải thay trời đổi đất...." [19, tr. 28]. Ngày 28 tháng 1 năm 1941, sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài, Bác Hồ đã về Tổ quốc. Pác Bó - Cao Bằng là mảnh đất được Người đặt chân đầu tiên. Người đã gắn bó với mảnh đất Việt Bắc, với đồng bào các dân tộc Việt Bắc trong suốt thời gian dài, từ 1941 đến 1945, 1946 đến 1954. Tại căn cứ địa Việt Bắc, Bác Hồ và Trung ương Đảng ta đã lãnh đạo cả dân tộc ta làm Cách mạng Tháng Tám thành công và Kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Có Bác Hồ chỉ bảo, cuộc sống của đồng bào Việt Bắc được thay đổi, no ấm, hạnh phúc. Đồng bào ơn Đảng, ơn Bác muôn đời. 1.2.2. Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội ở Việt Bắc có 19 dân tộc anh em, sống xen kẽ nhau. Người Kinh chiếm 65% dân số, rồi đến dân tộc Tày, Nùng, H’Mông, Dao... Các dân tộc cư trú thành từng vùng. Người Tày, Nùng sống tập trung ở các tỉnh biên giới và một phần ở Bắc Thái. Nhiều gia đình người Nùng có quan hệ huyết thống, thân tộc với người Trung Quốc ở sát biên giới. Các dân tộc H’Mông, Dao... phần lớn sống trên núi cao hoặc lưng chừng núi. Người Kinh sống đông đúc ở trung du và đồng bằng, nhất là các khu công nghiệp, thị trấn, thị xã, thành phố. Các dân tộc sống gần gũi nhau, thông hiểu phong tục tập quán và hoàn cảnh sinh hoạt của nhau. Từ thực tế cuộc sống hàng ngàn năm phải dựa vào nhau nên các dân tộc sớm có truyền thống đoàn kết trong lao động sản xuất, trong đấu tranh với thiên nhiên với xã hội bất công, chống phỉ, chống ngoại xâm để bảo vệ cuộc sống hạnh phúc chung. Các dân tộc miền núi tính tình chất phác, thủy chung tin yêu, thẳng thắn, căm ghét sự lừa dối, rất ưu thích không khí vui vẻ hồn nhiên, hoạt động tập thể, nhất là giới nữ. 1.2.2.1. Kinh tế Trước Cách mạng Tháng Tám, các dân tộc còn ở những trình độ phát triển khác nhau, trong đó có thể chia làm hai hình thái kinh tế. - Kinh tế khai thác thể hiện ở các hình thức như săn bắt hái lượm, con người sống chủ yếu dựa vào những nguồn thức ăn sẵn có của tự nhiên. - Kinh tế sản xuất: Sản xuất nương rẫy; phương thức canh tác là "ngày cây ăn ngọn", nghĩa là phát rừng, phòng lửa đốt dọn sạch, lợi dụng màu đất và phần tro cây cỏ để gieo trồng, công cụ tiêu biểu cho phương thức trồng trọt này là con dao phát và chiếc gậy nhọn để chọc lỗ bỏ hạt. ở một số nơi cách làm nương của đồng bào Mông trên núi có tiến bộ, đồng bào biết dùng cày để làm nương và ruộng bậc thang, từ đó đã biết kỹ thuật cày ải qua đông. Về chăn nuôi có ngựa, lợn, gà, trâu, bò... đời sống của đồng bào không ổn định vì do du canh du cư, thực tế bỏ ra nhiều công sức, kết quả kinh tế rất thấp. Sản xuất ruộng nước: ở những vùng thấp, gần sông suối đồng bào canh tác ruộng nước. Đồng bào đã biết cày bừa làm cỏ, bón phân, đặc biệt có nhiều kinh nghiệm đào mương, đắp đập xây dựng hệ thống guồng tưới nước và máng dẫn nước để tưới cho đồng ruộng, nhất là ruộng bậc thang treo leo trên sườn núi. Đặc điểm của nền kinh tế này là tự cung, tự cấp, sản phẩm thừa mới đem ra thị trường bán. Theo cách thức làm ăn như vậy không thể nào khai thác và phát huy được hết những khả năng tiềm tàng của miền núi để xây dựng một nền kinh tế nhiều ngành, nhiều nghề phát triển. Ngày nay hình thái kinh tế nông nghiệp làm ruộng đang ngày càng phát triển, đồng bào các dân tộc thiểu số đã biết áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất: máy bơm nước, máy giặt, máy cày, sử dụng các loại phân hóa học để chăm bón đồng ruộng và thâm canh hai vụ, năng suất lao động ngày càng tăng. Bên cạnh đó đồng bào đã biết phát huy thế mạnh của vùng miền để trồng các loại cây công nghiệp: quế, hồi, mía đường... Chợ cũng được mọc lên ở vùng xa xôi hẻo lánh tạo điều kiện cho đồng bào có cuộc sống vật chất, tinh thần tiến bộ. 1.2.2.2. Xã hội Tổ chức xã hội ở mỗi dân tộc có sắc thái riêng. Bản của người Tày thường có từ 30 đến 50 nóc nhà, bản đông có tới 100 nóc nhà, giữa các bản đều có ranh giới. Trên bản có mường. Chế độ hôn nhân gia đình cũng có những nét khác nhau. Trước Cách mạng Tháng Tám, trong xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số Việt Bắc bị ảnh hưởng nặng nề chế độ gia trưởng phụ quyền cùng những tôn ti trật tự phong kiến. Người đàn ông làm chủ gia đình, làm chủ tài sản có quyền quyết định hết thảy mọi công việc trong nhà và tham gia công việc xã hội. Mặc dù vậy, quan hệ giữa các thành viên vẫn là bình đẳng tôn trọng nhau. Người gia trưởng muốn xử lý vấn đề gia đình trước tiên phải trao đổi với các thành viên trưởng thành... Cuộc sống gia đình hòa thuận, vợ chồng gắn bó thủy chung, ít khi người ta to tiếng với nhau khi đi nương, đi chợ. Khi gia đình thịt gà, người Tày - Nùng không quên chặt riêng hai đùi dành cho con trẻ, thể hiện rõ lòng yêu thương con trẻ ghi đậm trong tâm thức của người dân tộc. Người Dao có tục nhận con nuôi và con nuôi cũng được đối xử như con đẻ. Ngày nay đời sống xã hội của đồng bào có nhiều đổi mới, đặc biệt là chế độ gia trưởng không còn nữa. Quan hệ trong gia đình dần bình đẳng hơn. Mặc dù vậy sự phát triển kinh tế - xã hội không đều giữa các khu vực do nhiều nguyên nhân lịch sử và hoàn cảnh tự nhiên quyết định. Khu vực ở thấp có nhiều điều kiện thuận lợi về nhiều mặt thì phát triển cao hơn còn những khu vực cao hẻo lánh, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, giao thông trắc trở thì xã hội phát triển chậm hơn. 1.2.2.3. Văn hóa Trong lĩnh vực văn hóa vật chất, mỗi khu vực, mỗi dân tộc đều gắn với điều kiện tự nhiên và tập quán riêng. Nhà cửa của đồng bào các dân tộc chủ yếu là nhà sàn và nhà đất. Nhà sàn cũng có nhiều loại: nhà sàn của người Tày, Mường, Dao... mang những nét khác nhau như mái có hình mai rùa hoặc chữ nhật... Trang phục của mỗi dân tộc có nét đặc trưng riêng thể hiện qua các kiểu áo, quần, váy, cách trang trí hoa văn... Các cô gái dân tộc với bàn tay khéo léo và óc thẩm mỹ của mình đã tạo ra những bộ trang phục với những hoa văn sặc sỡ hài hòa về màu sắc, đa dạng về mô típ, mềm mại về kiểu dáng, thuận lợi cho lao động trên nương, tiện cho việc đi lại trên đường đèo, dốc núi. Như váy của phụ nữ Mông trắng được làm bằng lanh trắng, váy Mông Hoa màu chàm có thêu hoặc in hoa văn ở gấu váy, váy hình nón cụt, xếp nếp xòe rộng. Trang phục của người Dao mang nhiều vẻ, gắn với từng nhóm địa phương như Dao quần trắng, Dao Tiền, Dao quần chẹt, Dao Đỏ... Những ngành nghề thủ công cũng gắn bó với nông nghiệp, với môi trường sinh thái miền núi phát triển, có sản phẩm nổi tiếng trong vùng hay cả nước: bàn ghế trúc Lạng Sơn, Cao Bằng, thổ cẩm của người Tày, Nùng... Đồng bào ở nơi đây cũng như đồng bào các dân tộc thiểu số ở các vùng miền khác nhau đều có tín ngưỡng vạn vật hữu linh và có đủ loại hồn và thần. Có phúc thần được thờ cúng như: Thổ công thổ địa, thần núi, thần sông... Đồng bào có quan niệm hồn tổ tiên trú ngụ tại bàn thời, vẫn tiếp tục can dự vào cuộc sống của con cháu, nên việc thờ cúng tổ tiên trở thành một hình thái tôn giáo phổ biến trong gia đình đồng bào (đây là nét đẹp chung của đời sống văn hóa người Việt). Việc ma cháy, giữa các khu vực, các dân tộc có sự khác nhau trong nghi thức và hình thức mai táng. Khi có người chết đồng bào thường báo cho những người trong cùng làng biết để đến giúp đỡ. Trước đây việc tang của người Tày- Nùng theo tục lệ "Thọ mai gia lễ", sau khi tế lễ chôn, không đốt xác. Người Mông - Dao, có vùng khi có người chết sau 24 giờ thì đem chôn cất, rồi làm ma khô... Việc tang của đồng bào các dân tộc được tổ chức chu đáo gồm nhiều thức ăn, vật hiến tế người đã khuất vì các dân tộc này tin rằng người chết sang thế giới bên kia cũng vẫn hoạt động như người sống, vẫn cần đến những vật phẩm đó. Các dân tộc ở Việt Bắc nói riêng và các vùng khác trên đất nước ta nói chung còn lưu giữ được nhiều tri thức văn hóa dân gian, dân ca, âm nhạc, múa... cùng những lễ hội rất phong phú. Như dân ca Mường, dân ca Mông, tục ngữ người Tày - Nùng, hát như Sli, hát lượn của người Tày- Nùng, múa ô của người Mông....Hình thức, phong cách thể hiện nghệ thuật của các dân tộc có khác nhau nhưng nội dung tư tưởng tình cảm giống nhau đều do nhân dân lao động sáng tạo trong quá trình lao động và sản xuất và chiến đấu. Chương 2 Bác Hồ với đồng bào Việt Bắc 2.1. Xây dựng lực lượng chính trị Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề xây dựng lực lượng chính trị trong cách mạng. Nói đến việc xây dựng lực lượng chính trị, trước hết và cơ bản là xây dựng lực lượng và tạo dựng phong trào quần chúng. Sau khi về nước, tháng 5/1941 (từ 10 - 19/5), Bác đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương. Hội nghị đã xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ cấp thiết của cách mạng Đông Dương lúc bấy giờ: "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được" [64, tr. 130]. Thấm nhuần tư tưởng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc cho rằng cách mạng muốn thành công phải có lực lượng lớn mạnh, phải biết đoàn kết thật rộng rãi, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, do đó nhiệm vụ của người cán bộ là phải bám sát quần chúng, phải "tuyên truyền cho từng người", "giác ngộ phát động lòng yêu nước, căm thù giặc, xây dựng tổ chức Việt Minh cho thật vững". Muốn làm được việc đó người cán bộ phải quán triệt tư tưởng " lấy dân làm gốc, như cá dựa vào nước "phải biết quý trọng dân". Người căn dặn trong công tác cũng như trong sinh hoạt người cán bộ phải "làm cho dân tin, dân yêu, dân phục". Muốn vậy phải trung thành, thực thà với cách mạng, với lợi ích của nhân dân, phải kính già yêu trẻ, đoàn kết với mọi người, đứng đắn với phụ nữ... phải đứng vững khi quần chúng gặp khó khăn, phải xông vào chỗ nguy nan để giải quyết những khó khăn cho quần chúng... Có vậy mới vận động được quần chúng... lực lượng ta mới mạnh, cách mạng mới thành công. Người chỉ thị cho các đồng chí lãnh đạo Cao Bằng "phải luôn luôn phân công người và có kế hoạch bám làng dân thường xuyên... xa quần chúng là người cách mạng sẽ mất hết tác dụng" [4, tr. 25]. Nguyễn ái Quốc chú trọng xây dựng lực lượng cách mạng của quần chúng, tăng cường khối đoàn kết toàn dân. Người yêu cầu cán bộ phải bám sát dân, tuyên truyền, giác ngộ, vận động quần chúng. Người chỉ thị cho các đồng chí lãnh đạo Cao Bằng phải luôn phân công người và có kế hoạch bám làng, bám dân thường xuyên, bởi xa quần chúng người cách mạng sẽ mất hết tác dụng. Người đặc biệt chú trọng đến việc tuyên truyền giác ngộ quần chúng, lôi cuốn đồng bào vùng cao, vừa nghèo, văn hóa thấp, lại bị bọn đế quốc và tay sai kìm kẹp chặt chẽ. Để làm được việc này, Người cho thí điểm thành lập Mặt trận Việt Minh, một hình thức tổ chức nhằm quy tụ, tập hợp lực lượng quần chúng. Nhờ sự chỉ đạo sát sao, bền bỉ của Hồ Chí Minh và sự kiên trì của các chiến sĩ cách mạng trung kiên, các tổ chức Việt Minh đã phát triển rất mạnh. Sau ba tháng thí điểm, Việt Minh ở ba châu: Hòa An, Hà Quảng, Yên Bình đã có hơn 2000 người, đủ các dân tộc tham gia vào các tổ chức cứu quốc [25, tr. 83]. Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh trên cả nước, nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng. Sau hội nghị, hình thức tuyên truyền của Việt Minh chủ yếu là vạch trần tội ác của Nhật, Pháp và tay sai, khơi dậy lòng yêu nước, ý chí đấu tranh giành độc lập dân tộc của mỗi người dân. Hoạt động tích cực của Việt Minh đã cuốn hút mạnh mẽ mọi tầng lớp nhân dân ở Cao Bằng. Phong trào phát triển nhanh, mạnh đã đưa đến việc thành lập ủy ban Việt Minh huyện Hà Quảng (6/ 1944). Cùng với việc tổ chức, xây dựng Mặt trận Việt Minh, để tuyên truyền, giáo dục, vận động, tập hợp rộng rãi quần chúng, Hồ Chí Minh đã sáng lập và chỉ đạo tờ báo Việt Nam độc lập. Đâylà tờ báo, có vai trò quan trọng trong thời kỳ Người ở Việt Bắc. Mục đích báo như Người đã nêu rõ: "Việt Nam độc lập" thổi kèn loa. Kêu gọi dân ta trẻ lẫn già Đoàn kết vững bền như khối sắt Để cùng nhau cứu nước ta". Tuân chỉ mục đích đó, trong tất cả 36 số đầu của tờ báo (từ số 101 đến 135), những bài viết của Bác thường là thơ và có tranh minh họa đều nhằm vào việc vạch trần những thủ đoạn dã man của Nhật - Pháp và tay sai, đồng thời kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội gồm nông dân, công nhân, thương nhân, viên chức, binh lính, thanh niên, phụ nữ, trẻ em đoàn kết một lòng, xây dựng lực lượng theo phương châm "đồng tâm đoàn kết". Bởi "không có gì mạnh bằng đoàn kết", có đoàn kết mới đánh tan quân thù. Với báo Việt Nam độc lập, phương pháp tuyên truyền của Bác đã đạt đến nghệ thuật tuyệt vời của báo chí cách mạng xuất bản bí mật trước khi nhân dân ta giành được chính quyền, nhất là báo chí địa phương. ảnh hưởng của báo Việt Nam độc lập không chỉ giới hạn trong phạm vi tỉnh Cao Bằng, mà còn lan rộng sang các tỉnh bạn, bởi mỗi câu thơ, mỗi đoạn văn vần của báo hết sức tự nhiên, xác đáng, nhưng cũng ngắn gọn dễ hiểu, súc tích và rất dễ thuộc, dễ đi vào lòng người dân. Do đó đã đưa đến một hiện tượng đặc sắc là sự xuất hiện những xã, những tổng, và những châu "hoàn toàn Việt Minh". Quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng chính trị được coi là nhiệm vụ quan trọng trong thời kỳ tiền khởi nghĩa. Thể hiện rõ tư tưởng coi trọng nhân tố con người, xem đó là điều cốt lõi để giành thắng lợi cho cách mạng. Thành công của việc xây dựng lực lượng chính trị và phát động quần chúng đã góp phần quan trọng vào thắng lợi Cách mạng Tháng Tám. 2.2. Công tác đào tạo cán bộ và xây dựng Đảng Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Xuất phát từ tư tưởng đó, ở tất cả mọi thời kỳ cách mạng, Hồ Chí Minh đều rất chú trọng đến công tác đào tạo cán bộ, đặc biệt là ở thời kỳ chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tháng Giêng năm 1941, khi chuẩn bị về nước - hướng chọn là Cao Bằng, Hồ Chí Minh đã tổ chức một lớp huấn luyện chính trị cho trên 40 thanh niên yêu nước, phần đông là người Cao Bằng, làm nòng cốt cho cuộc trở về Trung Quốc của Người. Tại lớp huấn luyện này, Người đã bồi dưỡng công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng cho số cán bộ này và chỉ đạo xây dựng thí điểm Mặt trận Việt Minh ở Cao Bằng. Chính từ những cơ sở Việt Minh đầu tiên này đã tạo ra chỗ đứng chân, cơ sở cách mạng, cơ sở Đảng vững chắc để đầu năm 1941 Người về nước hoạt động, trực tiếp lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ta bước vào một thời kỳ đấu tranh mới. Hội nghị Trung ương 8 do Nguyễn ái Quốc chủ trì đã nhấn mạnh: "Việc đào tạo cán bộ nay đã thành công tác gấp rút, không thể bỏ qua một giờ, một phút. Tất cả các cấp bộ chỉ huy của Đảng phải đặc biệt chú trọng công tác này" [11, tr. 128]. Sau này trong quá trình chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, Người lại nhấn mạnh: "Phong trào có lúc lên có lúc xuống, nếu có được đội ngũ cán bộ, cán bộ trong Đảng và cán bộ ngoài Đảng, có được một đội ngũ cán bộ cốt cán thì lúc phong trào lên sẽ tốt, lúc khó khăn phong trào xuống cũng vững vàng thôi. Vì vậy phải hết sức chú trọng cán bộ" [52, tr. 2]. Xuất phát từ quan điểm đúng đắn đó, ngay khi trực tiếp bắt tay xây dựng căn cứ địa Cao Bằng, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã chăm lo, đào tạo, rèn luyện, xây dựng một đội ngũ cán bộ vững mạnh, lấy đó làm hạt nhân để gây dựng phong trào. Người còn chỉ thị cho các đồng chí Trung ương cùng hoạt động với Người phải hết sức quan tâm tới công tác này. Ngay từ khi đặt chân lên đất Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, mặc dù bận nhiều công việc chỉ đạo phong trào cách mạng trong toàn quốc, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc vẫn giành nhiều thời gian, công sức quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ cho tỉnh. Trong công tác cán bộ, Người quan tâm đặc biệt tới đạo đức cách mạng. Người nói, muốn làm công tác tốt thì mỗi cán bộ phải xây dựng tu dưỡng cho mình đạo đức cách mạng, "Không được tự kiêu, tự mãn như ông tướng phong kiến mà phải khiêm tốn" [88, tr. 21]; "phải biết hy sinh cho cách mạng, nhưng không được hy sinh vô ích" [88, tr. 68], phải biết kết hợp hài hòa lợi ích của quốc gia, dân tộc với lợi ích gia đình, phải là một người hết lòng vì dân vì nước, đồng thời "còn phải là người con tốt của gia đình" [4, tr. 25]. Đi đôi với việc đào tạo cán bộ và gắn chặt với công tác cán bộ, Nguyễn ái Quốc rất coi trọng việc củng cố và phát triển Đảng ở các vùng căn cứ. Người đã cử cán bộ giỏi nhiều kinh nghiệm đến giúp Đảng bộ Cao Bằng lãnh đạo, thực hiện các chủ trương của Đảng, đồng thời trực tiếp thí điểm các hình thức xây dựng lực lượng. Những hội viên cứu quốc đã từng được thử thách qua sự khủng bố của địch được lựa chọn, bồi dưỡng và kết nạp vào Đảng. Nhờ vậy, tuy khó khăn ác liệt, tổ chức Đảng vẫn phát triển, đưa đến việc thành lập Châu ủy ở ba huyện thí điểm Việt Minh, rồi nhân ra các huyện khác. Đại hội Đảng bộ Cao Bằng (5/1942) là kết quả của sự khôi phục tổ chức Đảng ở căn cứ địa. Giữa năm 1942, Nguyễn ái Quốc quyết định mở hai lớp huấn luyện về Đảng cho khoảng 20 cán bộ trong tỉnh ủy Cao Bằng. Chính sự phát triển của Đảng bộ là cơ sở để thúc đẩy phong trào Việt Minh phát triển. Các tổ chức cứu quốc phát triển lại cung cấp nhiều đảng viên mới cho Đảng bộ. Nhờ vậy căn cứ địa được mở rộng ra các tỉnh lân cận thành căn cứ Cao - Bắc - Lạng, đồng thời với việc xuất hiện liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng để lãnh đạo phong trào. Lãnh tụ Nguyễn ái Quốc cũng rất quan tâm đến việc bảo vệ cán bộ cách mạng. Trong hoàn cảnh lực lượng của ta còn yếu hơn địch rất nhiều, lại bị bọn đế quốc tay sai với mưu mô, thủ đoạn nham hiểm tìm cách vây bắt tiêu diệt cán bộ cán bộ, hòng dập tắt phong trào cách mạng của nhân dân ta, thì việc bảo vệ cán bộ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Một trong những biện pháp bảo vệ đội ngũ cán bộ do Người đề ra là nguyên tắc hoạt động rất bí mật. Người đã phân tích, bí mật không có nghĩa là xa rời dân, thoát ly với phong trào. Đề phòng khuynh hướng này, Người nói: "Chúng ta ở rất bí mật. Nhưng đó là bí mật với tụi tổng đoàn, với bọn mật thám, bọn Tây, bọn thống trị chứ không phải bí mật với nhân dân" [4, tr. 21]. Người còn luôn nhắc nhở cán bộ phải kiên trì, bền gan chiến đấu tránh tư tưởng nóng vội, phải tin tưởng tuyệt đối ở thắng lợi của cách mạng, không hoang mang, dao động sờn lòng trước sự khủng bố của kẻ thù. Người nói: "Đánh giặc thì có lúc tiến có lúc lùi, cách mạng nhất định thành công. Nhưng là phải đánh giặc lâu dài, gian khổ thì mới giành được độc lập hoàn toàn", làm cách mạng như người leo dốc, càng gần tới đỉnh càng lắm gian nan. Do đó, Người luôn động viên các cán bộ "phải có quyết tâm", "phải hy sinh hơn nữa", "phải cố gắng" [108, tr. 171] và phải thường xuyên rèn luyện về mọi mặt để "khi gặp biến" thì "có thể lanh lẹ ứng phó", không chịu rèn luyện thì rồi ra không thành người chiến sĩ cách mạng mà lại thành quan cách mạng. Với những kinh nghiệm hoạt động cách mạng dày dạn và với tầm nhìn xa trông rộng, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã thấy trước những khó khăn của công cuộc xây dựng lực lượng cách mạng trong cả nước cũng như ở Cao Bằng. Do đó trong công tác đào tạo cán bộ, Người rất chú trọng việc tạo dựng một đội ngũ trung kiên để "phòng khi nước xuống". Người ví phong trào cách mạng như nước thủy triều, đội ngũ trung kiên như hàng cọc, cọc đóng chắc thì mới giữ được phù sa. Từ nhận thức rõ tầm quan trọng của đội ngũ trung kiên, Người đã chỉ thị cho Đảng bộ Cao Bằng "cứ một trăm người thì phải cố chọn lấy 3 trung kiên, không thì một cũng được, nhưng phải chọn người thật tin cậy, thật trung thành" [108, tr. 171]. Song Người cũng nhắc nhở chọn trung kiên phải theo từng thời kỳ, mỗi lần bị khủng bố là mỗi lần sàng lọc trung kiên và điều quan trọng là phải rèn luyện trung kiên trong thực tế đấu tranh. Trong công tác cán bộ, Nguyễn ái Quốc rất chú trọng tới lực lượng thanh niên coi đây là lực lượng xung kích của phong trào. Trong thời kỳ ở Cao Bằng, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã nắm bắt được một đặc điểm quan trọng, đó là Cao Bằng một tỉnh đa số dân cư là đồng bào các dân tộc ít người, do đó việc đào tạo cán bộ người dân tộc là một việc làm quan trọng. Người nhận thức được rằng đội ngũ cán bộ người dân tộc sẽ tạo thuận lợi cho sự phát triển của phong trào cách mạng, vừa tạo được sự bình đẳng, đoàn kết vững chắc giữa các dân tộc trước hết là giữa các cán bộ trong Đảng, trong đoàn thể. Từ thực tế đó Người đã chỉ thị: "Phải quý trọng các cán bộ dân tộc ít người" [108, tr. 171]. Để chống âm mưu chia rẽ của kẻ thù, đồng thời rèn luyện tính chủ động, tích cực cho các cán bộ địa phương, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc thường căn dặn các cán bộ trung ương, các cán bộ người Kinh không đứng trong các tổ chức các cấp của địa phương, không làm thay, không bao biện mà chỉ giúp đỡ tận tình. Không chỉ coi trọng công tác cán bộ về mặt tư tưởng, lý luận, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc còn trực tiếp bắt tay vào công việc đào tạo đội ngũ cán bộ, kiên trung, làm nòng cốt cho phong trào. Ngoài 40 cán bộ được huấn luyện ở Tĩnh Tây (Trung Quốc) trước khi về nước, khi ở Pác Bó (Hà Quảng) cũng như lúc ở Hòa An hoặc Nguyên Bình, Người còn mở nhiều lớp đào tạo cán bộ các cấp. Nhờ sự dạy bảo sát sao, cặn kẽ, nghiêm khắc của Người mà những đồng chí được đào tạo đã trở thành các cán bộ chủ chốt ở địa phương, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Trung tướng Bằng Giang (chủ tịch ủy ban Hành chính khu tự trị Việt Bắc, Tư lệnh trưởng Quân khu Việt Bắc) kể lại cảm xúc về Hồ Chí Minh trong lớp huấn luyện đầu tiên do Người trực tiếp tổ chức, lãnh đạo và giảng dạy, tại Làng Nậm Quang, gần biên giới Việt - Trung, cách Pác Bó khoảng hơn mười cây số như sau: Tại lớp học này, Hồ Chí Minh trực tiếp phụ trách giảng dạy. Ngôn ngữ và cách giảng của Người rất dễ nhớ, dễ thuộc. Nội dung chính là giảng về chương trình Việt Minh: toàn dân đoàn kết đánh Pháp đuổi Nhật. Khi giảng về đoàn kết, Hồ Chí Minh lấy ví dụ hình ảnh bó đũa, nếu tách từng chiếc ra thì bẻ dễ gẫy; trái lại nếu để cả bó thì không tài nào bẻ được. Và Người nhấn mạnh đó là khối đại đoàn kết toàn dân. Đại ý Bác nói: nếu nhân dân ta triệu người như một, đoàn kết thành một khối rắn chắc, thì đế quốc Pháp, Phát xít Nhật không tài nào khuất phục được. Đối với những vấn đề trừu tượng khác, Người cũng giảng giải bằng những thí dụ có hình ảnh cụ thể như vậy. … Trong nội dung giảng dạy, ngoài vấn đề đoàn kết là vấn đề được Bác thường nhấn mạnh, vấn đề công tác bí mật cũng hay được Bác nhắc đến. Bác dạy: hoạt động trong vòng vây của đế quốc, đầy rẫy mật thám chỉ điểm, cán bộ phải tuyệt đối giữ bí mật, lại phải vận động nhân dân cũng biết giữ bí mật thì bí mật mới giữ được hoàn toàn; nhân dân phải thực hiện "ba không": không biết, không nghe, không thấy; cán bộ phải thực hiện đúng sáu chữ: "lai vô ảnh, khứ vô hình", lúc đến cũng như lúc đi, không được để lại dấu vết gì... Một điều nữa, Bác thường nhắc anh em chúng tôi là: Phải tuyệt đối trung thành với cách mạng, với chủ nghĩa cộng sản; khó khăn không từ, gian nan không nản, bảo đảm giữ vững khí tiết cách mạng, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc… [4, tr. 21-25]. Khoảng giữa năm 1941, tại Pắc Bó (Cao Bằng), Nguyễn ái Quốc tổ chức lớp huấn luyện chính trị - quân sự ngắn hạn cho cán bộ địa phương. Người trực tiếp giảng một số nội dung: Về tình hình thế giới; về tình hình trong nước và nhiệm vụ của cách mạng trước mắt, về năm bước công tác quần chúng; về chiến thuật du kích, các hình thức đánh du kích... Sau khi huấn luyện, Nguyễn ái Quốc đóng vai một quần chúng, các học viên làm người tuyên truyền cách mạng. Sau khi học tập, Người nhận xét chỗ sai chỗ đúng của từng học viên [63, tr. 141-142]. Khoảng cuối tháng 6 năm 1941, Nguyễn ái Quốc yêu cầu các đồng chí Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp) và Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng) chọn một số thanh niên Cao Bằng đi học lớp vô tuyến điện ở Liễu Châu (Trung Quốc). Để động viên thanh niên đặc biệt là học tập quân sự, Nguyễn ái Quốc đã viết bài "Hoan nghênh thanh niên học quân sự" theo thể lục bát. Mở đầu, Người phân tích nguyên nhân nỗi khổ cực của đồng bào ta: Nước ta mất nước đã lâu rồi, Đồng bào cực khổ, suốt đời gian nan! Suốt đời chịu kiếp lầm than, Sưu cao thuế nặng, cơ hàn xót xa! Vì ai tan cửa nát nhà Chồng lìa vợ, con lìa cha tơi bời? Vì ai non nước rã rời Giống nòi sỉ nhục chơi vơi thế này? Vì giặc Nhật, vì giặc Tây! ... Người chỉ rõ: Muốn đánh Nhật, muốn đánh Tây, Thanh niên ta phải ra đây học hành. Một là học việc nhà binh. Hai là học biết tình hình người ta Thanh niên là chủ nước nhà Phải cho oanh liệt mới là thanh niên. [63, tr. 143]. Đặc biệt tháng 5 và tháng 6 năm 1942, tại hai địa điểm là hang Pác Tháy (còn gọi là hang Lênin) ở Lũng Hoái thuộc xã Phú Thăng, khu Lam Sơn (nay là xã Hồng Việt) Châu Hòa và hang Kéo Quảng (còn gọi là hang Các Mác) thuộc Tổng Ngần, xã Gia Bằng (nay là xã Minh Tân) Châu Nguyên Bình, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã mở hai lớp huấn luyện cho 20 cán bộ chủ chốt của tỉnh và các châu ở Cao Bằng, thời gian mỗi lớp khoảng một tuần. Nội dung giảng dạy gồm ba vấn đề: Sơ lược về Chủ nghĩa cộng sản, Điều lệ Đảng và lịch sử Đảng cộng sản Bôn-sê-vích Nga. Đó là những vấn đề lý thuyết trừu tượng rất khó hiểu, nhưng với phương pháp giảng dạy của Bác, giảng theo lối vấn đáp - những vấn đề lý thuyết mới lạ ấy trở thành rất sinh động cụ thể, dễ hiểu. Sau mỗi bài giảng, Bác lại cho phép học viên có thắc mắc gì thì cứ nêu câu hỏi, Bác sẽ giải đáp. Có đồng chí hỏi: - Thưa lão đồng chí ! ở miền núi thì lấy núi rừng làm căn cứ địa. Thế còn ở đồng bằng không có địa hình hiểm trở thì sao ạ? Bác cười và bảo: - Có núi thì dựa vào núi, có sông thì dựa vào sông, không có núi có sông thì dựa vào người làm sông núi. Bác nhắc đến bốn từ chữ Hán "Nhân sơn - nhân hải". Bác giảng thêm: ở đâu có người là ở đó có núi rừng, có biển cả, ta tổ chức, động viên sức mạnh của quần chúng thành rừng thành biển mà dựa vào... Nghe Bác giảng giải, chúng tôi càng hiểu thêm. Thì ra căn cứ địa vững chắc nhất của cách mạng chính là lòng dân, chính là sức mạnh đoàn kết chiến đấu của toàn dân! [4, tr. 28]. Ngoài nội dung chính trị, học viên còn được học về chiến thuật du kích. Bác cũng trực tiếp làm giảng viên về vấn đề này. Bác nói những kinh nghiệm về "du kích bạn", và giảng rất kỹ lưỡng về chiến thuật đánh du kích áp dụng vào hoàn cảnh thực tiễn của nước ta. Bác nói: đánh du kích chủ yếu phải dùng mưu mẹo mà đánh, với phương châm lấy ít đánh nhiều, lấy vũ khí thô sơ chống vũ khí hiện đại, phải biến hóa như thần, lúc ẩn lúc hiện "lai vô ảnh, khứ vô hình", nay đánh đông, mai đánh tây, làm cho địch chết dần chết mòn... [4, tr. 28]. Sau Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương, theo chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc, nhiều cán bộ ưu tú của Đảng như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Thiết Hùng, Cao Hồng Lĩnh... tiếp tục đến Cao Bằng hoạt động. Các đồng chí đã tích cực tham gia vào công tác đào tạo cán bộ. Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã mở 3 lớp huấn luyện cán bộ ở Nguyên Bình. Tại Hòa An 6 lớp đào tạo cán bộ Việt Minh cho phong trào Hòa An và các địa phương khác trong tỉnh cũng được liên tiếp tổ chức... Các lớp huấn luyện cán bộ đã thu hút đông đảo các hội viên trong các đoàn thể cứu quốc của đồng bào các dân tộc ở cả vùng thấp lẫn vùng cao như Tày, Nùng, Mông, Dao... đào tạo đội ngũ cán bộ cho tỉnh Cao Bằng và cho cả các tỉnh phụ cận [108, tr. 178]. Dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh, với sự giúp đỡ của các cán bộ Trung ương và với sự hoạt động tích cực của Đảng bộ Cao Bằng, công tác cán bộ đạt nhiều kết quả. Chỉ tính từ tháng 6/1941 đến tháng 4/1942, ở Cao Bằng đã có 300 cán bộ được bồi dưỡng, huấn luyện [108, tr. 179]. Để có được cán bộ cốt cán về quân sự, lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng tỉnh ủy Cao Bằng đã chọn cử người đi học quân sự dài hạn ở nước ngoài. Tính đến tháng 10 năm 1944, đã có 70 cán bộ đi học như các đồng chí Lê Quảng Ba, Trần Hùng Sơn, Lê Thiết Hùng, Thế An, Bằng Giang, v.v... [119, tr. 28]. Từ những hạt nhân nòng cốt này, các cơ sở cách mạng, các tổ chức cứu quốc nhanh chóng sinh sôi nảy nở khắp mọi địa phương trong tỉnh. Xây dựng thành công đội ngũ cán bộ trung kiên là một thắng lợi quan trọng của Đảng bộ Cao Bằng, thắng lợi của những chủ trương chính sách, biện pháp đúng đắn sáng tạo và sự chỉ đạo thực hiện tài tình của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc. Các cán bộ, đảng viên và quần chúng được tôi luyện về cả lý luận và thực tiễn là cơ sở quan trọng để thu hút quần chúng, thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên những bước vững chắc. Trải qua hơn nửa thế kỉ dưới ách áp bức, đô hộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật, sau Cách mạng Tháng Tám, vận mệnh dân tộc đứng trước muôn vàn khó khăn về cả kinh tế, chính trị, xã hội... Người lao động Việt Nam lần đầu tiên được làm chủ tư liệu sản xuất, đồng thời là người làm chủ xã hội, họ là những người nông dân thuần túy, chất phác chịu thương chịu khó. Tuy nhiên họ còn thiếu về kinh nghiệm quản lý, tổ chức các đoàn thể, bộ máy hành chính ở cơ sở; một bộ phận không nhỏ cán bộ còn thiếu kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm lãnh đạo và phẩm chất đạo đức cách mạng. Trước thực tế đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác đào tạo nguồn lực cán bộ. Ngay trong những ngày đầu trở lại hoạt động ở ATK Trung ương Định Hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chăm lo công tác đào tạo cán bộ các cấp. Tại căn lán đơn sơ trên đồi Khau Tý, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng, Chính phủ đề ra nhiều chủ trương, chính sách, sắp xếp lại bộ máy lãnh đạo cuộc kháng chiến. Vào đầu tháng 10-1947, giữa lúc cơ quan Trung ương Đảng và chủ lực của ta đang chống trả những cuộc tấn công của thực dân Pháp lên Việt Bắc, Bác đã hoàn thành cuốn sách "Sửa đổi lối làm việc" với bút danh X.Y.Z, một tác phẩm có ý nghĩa lớn trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, rèn luyện tu dưỡng đạo đức tác phong cho cán bộ đảng viên trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quân đội. Sách gồm 6 phần: I - Phê bình và sửa chữa, II - Mấy điều kinh nghiệm, III - Tư cách và đạo đức cách mạng, IV - Vấn đề cán bộ, V- Cách lãnh đạo, VI - Chống thói ba hoa. Người căn dặn "Phải sửa đổi lề lối làm việc của Đảng". 60 năm đã trôi qua, ngày nay trong công cuộc đổi mới, những lời dạy của Bác cách đây hơn nửa thế kỷ vẫn giữ nguyên giá trị. Khi đến ở làm việc tại đồi Khau Tý, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị anh em cơ quan giúp việc thành lập một tổ dân vận có nhiệm vụ giúp cán bộ địa phương, nhân dân hiểu đường lối kháng chiến của Đảng, tổ chức dạy học cho thiếu nhi, giúp dân thu hoạch mùa màng và thu thập nguyện vọng của dân báo cáo lên Người. Đến đâu, Bác cũng nhắc nhở và phân công cán bộ đi vào các bản ở xung quanh để nắm tình hình nhân dân, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người địa phương. Người thường căn dặn chiến sĩ, cán bộ làm gì cũng phải có người nòng cốt, đào tạo cán bộ. Bây giờ ta chưa có nhiều điều kiện làm lớn thì ta đào tạo những thanh niên, gái, trai tập trung lại đây, huấn luyện bồi dưỡng. Bác giao nhiệm vụ cho cán bộ mở lớp dạy chữ, đào tạo cán bộ dân tộc. Bác cho chương trình học gồm những bài: "Mặt trận Việt Minh trước đây và mặt trận Liên Việt ngày nay", "Chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Chính phủ", "Nhà nước dân chủ nhân dân", "Đạo đức cách mạng"... Bác theo dõi sát từng bài giảng và nghe phản ánh, thảo luận từng bài một. Khi tổng kết, mỗi học viên đều viết thu hoạch. Bác xem rất kỹ từng bản và đánh dấu những chỗ học viên tỏ ra chưa hiểu... Từ Việt Bắc, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng đã cho ra đời nhiều quyết định quan trọng về việc thành lập các Phân hiệu võ bị, các trường Lục quân, các lớp bổ túc cán bộ quân sự... Ngày 12-3-1948, Bộ Quốc phòng ra nghị định (số 88- BCH) thành lập trường Quân Chính trung cấp. Khóa học đầu tiên có 110 học viên. Chương trình huấn luyện gồm đường lối kháng chiến, xây dựng căn cứ địa, xây dựng và tổ chức huấn luyện du kích, tổ chức chỉ huy chiến đấu. Tính đến tháng 5-1950, nhà trường liên tục mở được 5 khóa học, với 675 học viên, kịp thời bổ sung nguồn cán bộ chỉ huy cho các đơn vị trên các chiến trường toàn quốc. (Bổ sung trường Tô Hiệu). 2.3. Xây dựng lực lượng vũ trang Xuất phát từ quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang. Đầu 1941, Bác Hồ đã chọn một số cán bộ gửi ra nước ngoài học tập quân sự, trong đó có một số học vô tuyến điện ở Liễu Châu (Trung Quốc). Mỗi học viên được nhận một tên mới, lý lịch mới. Theo Hoàng Quốc Việt, Phan Việt Bắc, mười người được chọn là: 1. Nông Văn Chí (tên thật là Đơ), bí danh Phan Việt Bắc. 2. Nguyễn Văn Chí (tên thật là Liên), bí danh Đông Tùng. 3. Lưu Minh Đức (tên thật là Lưu Khải Hoàn) 4. Lý Đạt Thành (tên thật là Hoàng Văn Ròng), bí danh Hoàng Việt Huy. 5. Lý Quang Vinh (tên thật là Đoàn Văn Mưu), bí danh Dương Công Khởi 6. Nguyễn Hữu Hào (tên thật là Nguyễn Văn Khanh), bí danh Vũ Lâm 7. Đoàn Hồng Sơn (tên thật là Đoàn Văn Ngô) 8. Trần Quốc Quang bí danh Hoàng Hoa. 9. Triệu Văn Minh chưa rõ tên thật và bí danh 10. Phạm Văn Quý, chưa rõ tên thật và bí danh. [63, tr. 142]. Trong thời gian ở Cao Bằng, Bác đã biên soạn, biên dịch một số tài liệu quân sự để cán bộ và quần chúng học tập như: Cách đánh du kích, Cách huấn luyện cán bộ quân sự của Khổng Minh, Phép dùng binh của Tôn Tử, Kinh nghiệm du kích Tàu,... Trong năm 1941, Nguyễn ái Quốc đã viết cuốn "Cách đánh du kích". Đây là một trong những tác phẩm đầu tiên của Nguyễn ái Quốc về quân sự. Tác phẩm được phổ biến trong các đoàn thể cách mạng trong thời kỳ 1941 - 1945. Tháng 5/1944, cuốn sách được Tổng bộ Việt Minh xuất bản và phát hành rộng rãi dùng làm tài liệu huấn luyện tại các trường quân chính ở Việt Bắc trong những ngày chuẩn bị cuộc Cách mạng Tháng Tám. Bác chủ trương, hễ tổ chức Việt Minh phát triển đến đâu thì gây dựng lực lượng vũ trang đến đó. Cuối năm 1941, Người chỉ thị thành lập tiểu đội du kích thoát ly đầu tiên của tỉnh Cao Bằng, do đồng chí Lê Quảng Ba làm đội trưởng. Người còn soạn 10 điều kỷ luật (sau này phát triển thành 10 lời thề của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và trở thành Lời thề danh dự của Quân đội ta sau này) và chiến thuật cơ bản của du kích để đội vũ trang học tập và thực hiện. Sách Phép dùng binh của Tôn Tử do Hồ Chí Minh dịch được Việt Minh xuất bản. Mở đầu sách, Người giới thiệu "ông Tôn Tử là một người quân sự có tiếng nhất ở Trung Quốc. Ông sinh hơn 2000 năm trước"... và chỉ rõ "nguyên tắc của Tôn Tử chẳng những đúng về quân sự, mà dùng về chính trị cũng rất hay", cần thiết cho công tác quân sự và chính trị của cán bộ. Bác đã viết về vấn đề quân sự trong tập "Nhật ký trong tù". Đối với những tài liệu thời cổ đại Trung Quốc, Người không dịch "nguyên xi, mà chọn lọc nội dung phù hợp với Việt Nam, kết hợp với kinh nghiệm chiến tranh hiện đại để các chiến sĩ ta áp dụng có hiệu quả trong chiến đấu. Người chỉ thị tổ chức các lớp quân chính để đào tạo cán bộ quân sự. Thực hiện chỉ thị này, đầu năm 1942, lớp quân chính khóa I được tổ chức ở Pác Bó. Mặc dù bận nhiều việc, Bác vẫn dành thời gian trực tiếp đến giảng bài ở nhiều lớp huấn luyện quân sự. Người giới thiệu kinh nghiệm đánh du kích của Liên Xô, Trung Quốc và vận dụng kinh nghiệm đó vào hoàn cảnh nước ta. Bác nói "Đánh du kích chủ yếu phải dùng mưu mẹo mà đánh với phương châm lấy ít địch nhiều, lấy vũ khí thô sơ chống vũ khí hiện đại, phải biến hóa như thần, lúc ẩn, lúc hiện, lai vô ảnh khứ vô tung, nay đánh đông, mai đánh Tây, làm cho địch chết dần chết mòn..." [4, tr. 28]. Nhiều cán bộ Cao Bằng trưởng thành từ những lớp huấn luyện này đã trở thành chỉ huy cách đơn vị vũ trang trong tỉnh, trong liên khu và trong cả nước sau này. Bằng việc tổ chức các đội du kích ở Cao Bằng và huấn luyện cách đánh du kích, Bác Hồ đã thực hiện lời chỉ dẫn của Ph. Ăngghen, lãnh tụ quân sự thiên tài của giai cấp vô sản thế giới: Một dân tộc muốn giành độc lập cho mình thì không giới hạn trong những phương thức thông thường để tiến hành chiến tranh. Khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh cách mạng, các đội du kích ở khắp mọi nơi đó là phương thức duy nhất nhờ đó mà một dân tộc nhỏ có thể chiến thắng được một dân tộc lớn, một đội quân ít mạnh hơn có thể chống trả được một đội quân mạnh hơn và có tổ chức hơn. Để đánh đuổi được đế quốc Pháp, đế quốc Nhật, cách mạng Việt Nam không thể chỉ dừng lại ở xây dựng những đội du kích, với cách đánh du kích. Nhưng ở buổi đầu thì xây dựng đội du kích, đánh du kích là phù hợp. Cuối tháng 9 năm 1944, từ Trung Quốc về tới Pác Bó, Bác Hồ đã ra hai chỉ thị quan trọng quyết định tới sự phát triển của lực lượng vũ trang và phong trào cách mạng ở Cao Bằng, ở Cao - Bắc - Lạng và cả nước. Đó là chỉ thị hoãn chủ trương "phát động chiến tranh du kích" (thực chất là khởi nghĩa) của Liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng và chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng trong cuộc họp tháng 7/1944 đã nhận định: Căn cứ vào tình hình thế giới, tình hình trong nước và tình hình Cao - Bắc - Lạng, điều kiện để phát động chiến tranh du kích trong liên tỉnh đã chín muồi và chuẩn bị "phát động chiến tranh du kích". Ngày giờ phát động sẽ chờ cuộc họp sau quyết định. Sau khi nghe báo cáo về tình hình và nghị quyết của Liên tỉnh ủy, Bác Hồ đã quyết định hoãn việc phát động chiến tranh du kích trong liên tỉnh. Người phân tích: Nghị quyết mới căn cứ vào tình hình Cao - Bắc - Lạng, chưa căn cứ vào tình hình toàn quốc, tức là thấy bộ phận mà không thấy toàn thể. Trong nước nhiều nơi chưa sẵn sàng khởi nghĩa, cán bộ, vũ khí đều phân tán, thiếu hẳn một lực lượng nòng cốt. Trong điều kiện ấy, nếu phát động chiến tranh du kích theo quy mô quá rộng tất nhiên sẽ thất bại vì bọn đế quốc sẽ tập trung toàn lực vào để đàn áp. Người nhận định: Bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kỳ tổng khởi nghĩa toàn dân chưa đến. Cho nên, nếu chúng ta chỉ hoạt động trong vòng chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào tiến tới. Nhưng nếu phát động chiến tranh du kích ngay thì sẽ bị quân địch làm cho nguy khốn. Đã đến lúc cuộc đấu tranh phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự, cần phải tìm mọi hình thức thích hợp thì mới có thể đi tới thành công. Bác đã đề ra phương châm kết hợp hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự để đẩy mạnh phong trào, tạo điều kiện tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Người nhấn mạnh: Muốn xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, chủ yếu phải dựa vào nhân dân, muốn tiến hành đấu tranh vũ trang phải dựa vào và kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị của quần chúng. Các đoàn thể cách mạng của quần chúng càng được củng cố và phát triển, quần chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang. Chủ trương sáng suốt của Bác đã tránh cho phong trào cách mạng và lực lượng vũ trang Cao - Bắc - Lạng những tổn thất lớn. Ngay sau đó, Người đề ra chủ trương thích hợp để đẩy mạng công tác chuẩn bị khởi nghĩa: Lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của quân đội Nhân dân Việt Nam). Với nhiệm vụ chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến, thực hành vũ trang tuyên truyền kêu gọi và tổ chức toàn dân đứng dậy, chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sau này, làm đòn bẩy cho cao trào cách mạng toàn quốc. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân chủ lực đàn anh. Bản chỉ thị thành lập Đội được viết như một bức thư ngắn gọn đặt trong vỏ bao thuốc lá nhưng "có tính chất cương lĩnh quân sự của Đảng ta, bao gồm những vấn đề chủ yếu về đường lối quân sự của Đảng, như kháng chiến toàn dân, động viên và vũ trang toàn dân, nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang và phương châm xây dựng ba thứ quân của lực lượng vũ trang, phương thức hoạt động kết hợp quân sự với chính trị của lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên tắc tác chiến và chiến thuật du kích của lực lượng vũ trang nhân dân" [108, tr. 185]. Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là một chủ trương sáng suốt của Hồ Chí Minh trong tình hình thực tế ở Việt Nam lúc bấy giờ. Thực hiện Chỉ thị của Người, ngày 22/12/1944, tại Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Trong số 34 chiến sĩ của Đội có hơn 20 người con của Cao Bằng. Nghiên cứu bản chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, những tài liệu quân sự, chính trị do Người biên soạn, những chủ trương do Người đề ra để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, và những lời dặn dò đối với cán bộ, chiến sĩ, cho thấy Hồ Chí Minh là người đầu tiên nêu rõ những quan điểm quân sự của Đảng ta một cách có hệ thống, là người đã đặt cơ sở cho nền lý luận quân sự hiện đại Việt Nam. Hồ Chí Minh là người sáng lập lực lượng vũ trang cách mạng, là người cha thân yêu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng và Hồ Chí Minh, được sự đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân, lực lượng vũ trang cách mạng đã phát triển nhanh chóng. Trung đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã nhanh chóng phát triển thành quân Giải phóng Việt Nam, anh dũng đi đầu trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. 2.4. Xây dựng căn cứ địa cách mạng Trải qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã từng chọn những địa bàn hiểm yếu, xây dựng lực lượng, làm bàn đạp tấn công kẻ thù. Thế kỉ thứ VI, Triệu Quang Phục trong đấu tranh chống quân Lương, đã biết dựa vào vùng đầm Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) để xây dựng lực lượng, chờ thời cơ thuận lợi tiến lên đánh đuổi quân lương, giải phóng đất nước. Lê Lợi, Nguyễn Trãi xây dựng căn cứ địa Lam Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hóa) mở đầu cuộc kháng chiến chống quân Minh, làm nên sự nghiệp lớn (thế kỉ XV). Sau 10 năm chiến đấu ròng rã đã quét sạch quân xâm lược Minh ra khỏi bờ cõi nước ta. Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh (thế Kỉ XVIII) cũng mở đầu sự nghiệp chói lọi bằng việc thành lập căn cứ địa ở ấp Tây Sơn và miền núi rừng Quy Nhơn. Trong phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trước khi có Đảng lãnh đạo, Trương Định đã xây dựng căn cứ ở Gò Công, Tân An Gia Định; Nguyễn Trung Trực xây dựng căn cứ kháng chiến ở Hòn Chông, Rạch Giá; Đinh Công Tráng xây dựng căn cứ Ba Đình; Nguyễn Thiện Thuật xây dựng căn cứ ở vùng Bãi Sậy, Hưng Yên; Phan Đình Phùng kéo dài 10 năm kháng chiến nhờ vào căn cứ Vụ Quang, Hương Khê, Hà Tĩnh; Hoàng Hoa Thám đã tung hoành 30 năm chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược trong vùng rừng núi hiểm trở Yên Thế, Bắc Giang... Mặc dù các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta cuối cùng đều thất bại vì những người lãnh đạo chưa đề ra được một đường lối kháng chiến đúng đắn và phương pháp đấu tranh thích hợp, song việc xây dựng căn cứ địa đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho Đảng ta sau này. Trong lịch sử chống ngoại xâm, ông cha ta biết lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng, sông ngòi, đầm lầy, ao hồ xây dựng căn cứ đánh giặc. Kế thừa kinh nghiệm của ông cha ta trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, khi về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng (1/1941), lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và chọn điểm dừng chân, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Căn cứ vào nhiều yếu tố, Bác đã chọn Cao Bằng là điểm đứng chân. + Yếu tố địa: Cao Bằng thông với Trung Quốc bằng những con đường mòn, những con sông nhỏ mà dân hai bên đi lại đó "chính là điểm thuận tiện, chỗ mạnh của những người yêu nước, nhưng lại là điểm nghịch, chỗ yếu của bọn thống trị ở mọi cấp độ" [108, tr. 62]. Từ Cao Bằng có thể đi sang Trung Quốc bằng cả đường sông (sông Năng) và đường bộ (Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Trùng Khánh, Hà Quảng) có rất nhiều cửa khẩu và hàng trăm lối mòn. Đó chính là điều kiện thuận lợi khi ta cần "Thoái". Còn "Tiến", thì từ Cao Bằng nối với Bắc Kạn - Thái Nguyên - Hà Nội bằng quốc lộ số 3; mà Thái Nguyên là gạch nối giữa đồng bằng và miền núi. Nối với Thái Nguyên là nối được với tất cả các vùng rừng núi Đông Bắc và Tây Bắc đất nước phát triển về xuôi. Từ Cao Bằng theo quốc lộ 4 về Lạng Sơn, một điểm giao thông quan trọng trên con đường quốc tế và xuyên Việt. Như vậy từ Cao Bằng khả năng phát triển của cách mạng là hết sức rộng mở. Hơn nữa Cao Bằng về địa lý, còn phải kể đến yếu tố hiểm trở. "Chính vì yếu tố này mà mảnh đất Cao Bằng trở thành nơi dung thân, đợi thời của những ai chống đối lại chính quyền hiện hành" [108, tr. 62]. + Yếu tố nhân: Người dân tộc đầu tiên mà Nguyễn ái Quốc tiếp xúc là một người Tày Cao Bằng. Đó là Hoàng Văn Nọn, tức Hoàng Tú Hưu, trong đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương, tham dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcơva vào tháng 7/1935. Trong thời gian lưu lại Matxcơva dự lớp học ngắn hạn của Trường Đại học Phương Đông, Hoàng Văn Nọn đã được Nguyễn ái Quốc giúp đỡ tận tình và qua đó Người có được những ấn tượng tốt đẹp về anh và vùng quê Cao Bằng. Hoàng Văn Nọn và một người đồng hương là Hoàng Đình Giong là những người Cao Bằng đầu tiên lựa chọn con đường cách mạng của Nguyễn ái Quốc, anh là người đầu tiên xây dựng chi bộ Đảng đầu tiên ở Cao Bằng, đầu tiên ở Việt Bắc là chi bộ Nặm Lìn, Hòa An, Cao Bằng vào tháng 4/1930. Dưới ảnh hưởng của chi bộ này hàng loạt cho bộ khác đã ra đời. So với các tỉnh giáp với Trung Quốc, Cao Bằng có phong trào Cộng sản sớm nhất và vững chắc nhất. Đó là một điểm mạnh của Cao Bằng để Nguyễn ái Quốc chọn hướng "đột nội". Đặc biệt là đầu tháng Giêng năm 1941, trong thời điểm quyết định lựa chọn, Nguyễn ái Quốc gặp Hoàng Văn Thụ, đại diện của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ta từ trong nước ra. Qua báo cáo của Hoàng Văn Thụ, Người đã nắm được tình hình, đặc biệt là tính giác ngộ của nhân dân Cao Bằng tương đối cao và cán bộ lãnh đạo khá vững vàng. Lời đề nghị của Hoàng Văn Thụ hợp với suy nghĩ của Nguyễn ái Quốc, nên Người đã chọn Cao Bằng là chỗ đứng chân của mình khi về Tổ quốc. Cao Bằng là nơi có địa thế hiểm trở, bí mật, có "hàng rào quần chúng" bảo vệ tốt và có đường rút lui. Đó là hang Cóc Bó, thuộc bản Pác Bó huyện Hà Quảng. Từ 28/1/1941, Nguyễn ái Quốc với bí danh Già Thu cùng với những đồng chí thân cận sống tại hang đá này. Từ đó hang Cốc Bó trở thành đầu nguồn của cách mạng. Cao Bằng với vị trí "địa lợi" và "nhân hòa" đã trở thành chỗ đứng chân đầu tiên khi Nguyễn ái Quốc về nước sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài. Từ đó mà đến tháng 6/1945 ta có khu giải phóng gồm 6 tỉnh (Cao - Bắc - Lạng, Hà - Tuyên - Thái). Cắt nghĩa lý do chọn Cao Bằng, Hồ Chí Minh phân tích: Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể công, lúc khó khăn có thể thủ [108, tr. 24-25]. Cao Bằng giữ vị trí chiến lược quan trọng có thể tiến lên uy hiếp địch, mở rộng ra các vùng xung quanh. Từ Cao Bằng có đường bộ xuống phía nam, nối liền với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, nhiều của nhiều người, có đường ra vùng duyên hải Đông Bắc sang hoặc sang Tây Bắc và đường thông sang Trung Quốc, liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Đường quốc lộ số 3 và số 4 là hai con đường chính nối liền Cao Bằng với các tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ. Quốc lộ 3 và 4 tạo thế nối liền giữa Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn - Thái Nguyên. Trong khi Nguyễn ái Quốc quyết định chọn Cao Bằng xây dựng thành trung tâm căn cứ địa Cách mạng của cả nước, thì Trung ương Đảng ở trong nước chọn Bắc Sơn (Lạng Sơn) và Võ Nhai (Thái Nguyên) xây dựng thành một trung tâm căn cứ địa cách mạng. Nhờ đó, ta có thể dễ dàng mở "con đường quần chúng cách mạng" đánh thông liên lạc từ Cao Bằng xuống Bắc Sơn - Võ Nhai và sau đó nhờ cơ sở Đảng ở Thái Nguyên có thể bắt liên lạc được với Trung ương Đảng ở miền xuôi, gắn phong trào cách mạng Cao Bằng với phong trào chung toàn quốc. Trong lúc Pháp - Nhật đang tăng cường đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng của nhân dân ta, tổ chức Đảng và cơ sở quần chúng cách mạng ở nhiều nơi bị phá vỡ phải chuyển vào hoạt động bí mật, thì việc chọn Cao Bằng xây dựng căn cứ địa cách mạng là một quyết định kịp thời. Nguyễn ái Quốc đã khéo chọn địa bàn xây dựng căn cứ địa cách mạng, giữ được thế trận, một mặt có được địa bàn hoạt động ở Cao Bằng, mặt khác tạo điều kiện bảo vệ và mở rộng địa bàn hoạt động từ Cao Bằng qua Bắc Kạn, Lạng Sơn sang Hà Giang, Tuyên Quang và xuống Thái Nguyên, hoàn toàn có lợi cho phong trào cách mạng ở Việt Bắc và toàn quốc. Tháng 5 năm 1945, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã tới bước ngoặt quyết định. Ngày 8 tháng 5 năm 1945 phát xít Đức đã ký kết đầu hàng Đồng Minh không điều kiện. Thất bại của phát xít Nhật ở châu á chỉ còn tính từng ngày, giờ. Nhân dân ta vô cùng phấn khởi, càng thêm tin tưởng vào khả năng của mình là sẽ giành được thắng lợi trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Hạ tuần tháng 5 năm 1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào. Sau khi nghe Ban thường vụ Trung ương báo cáo về tình hình chung cả nước và Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, Người chỉ thị: Vùng giải phóng miền núi Bắc bộ đã bao gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng bên ngoài gồm một bộ phận các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên, địa thế nối liền nhau, cho nên cần thành lập một khu căn cứ cách mạng rộng lớn lấy tên là Khu giải phóng (sau này, trong một bức thư gửi đồng bào Việt Bắc nhân ngày Quốc khánh 2 tháng 9 năm 1947 Hồ Chủ tịch gọi đó là căn cứ địa Việt Bắc). Đồng thời Người chỉ thị khẩn trương chuẩn bị Hội nghị Cán bộ toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân. Chấp hành chỉ thị của Hồ Chủ tịch, ngày 4 tháng 6 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh đã triệu tập đại biểu 6 tỉnh Cao - Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái về dự hội nghị chính thức thành lập Khu giải phóng. Khu giải phóng đặt dưới sự lãnh đạo của ủy ban chỉ huy lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Hội nghị đã thông qua những chủ trương, chính sách thực hiện trong khu giải phóng, nhằm làm cho khu giải phóng trở thành căn cứ kháng Nhật kiểu mẫu, là nơi đóng các cơ quan đầu não của Đảng và Chính phủ cách mạng lâm thời, khẩn trương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ nổi dậy Tổng khởi nghĩa. Tân Trào được chọn làm Thủ đô của khu giải phóng. Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị, ngày 4 tháng 6 năm 1945, căn cứ địa Việt Bắc được xúc tiến xây dựng vững chắc về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Về chính trị, mười chính sách lớn của Việt Minh được thực hiện trong căn cứ địa Việt Bắc. ủy ban nhân dân cách mạng các cấp cũng được củng cố và xây dựng thêm. Mặt trận Việt Minh - hiện thân của khối đoàn kết toàn dân cũng được củng cố và phát triển. Về quân sự, một hệ thống ủy ban quân sự được thành lập từ cấp khu cho đến cấp châu. ủy ban quân sự khu giải phóng đặt dưới sự lãnh đạo của ủy ban lâm thời khu giải phóng. Về kinh tế, trong khu giải phóng, ủy ban nhân dân cách mạng các cấp đã lãnh đạo, động viên nhân dân tích cực sản xuất, thực hành tiết kiệm, ổn định đời sống. Về văn hóa xã hội, ngay sau khi căn cứ địa Việt Bắc ra đời, phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ diễn ra sôi nổi, đặc biệt là trong tầng lớp thanh niên nam nữ... Việc bài trừ mê tín, các hủ tục, các nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, trộm cắp... được tiến hành. Đồng thời việc phổ biến nội dung thực hiện "đời sống mới" được các hội cứu quốc và chính quyền cách mạng các cấp chú ý hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân thực hiện. Nhiều nơi như Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hóa (Tuyên Quang), Định Hóa (Thái Nguyên) v.v... nhân dân các dân tộc đặc biệt là dân tộc ít người ở vùng cao bên cạnh việc dùng thuốc nam chữa bệnh đã bắt đầu làm quen với việc sử dụng thuốc Tây y. ở những địa phương trên có y tá phụ trách, giúp đỡ nhân dân trong việc tiêm thuốc, phòng và chữa bệnh. Cuộc sống có văn hóa từng ngày đi lên. Chỉ trong vòng hai tháng (từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1945), một thời gian không lâu, nhưng bộ mặt căn cứ địa Việt Bắc đã biến đổi vô cùng mau chóng. Dưới sự lãnh đạo của ủy ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng do chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, nhân dân các dân tộc đã phát huy cao độ lòng yêu nước và nhiệt tình cách mạng, hăng hái xây dựng căn cứ địa Việt Bắc vững mạnh về mọi mặt. Căn cứ địa Việt Bắc là hình ảnh của nước Việt Nam mới thu nhỏ. Khi thời cơ cách mạng đến, với tinh thần "dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập" [50, tr. 267] của Hồ Chủ tịch, bão táp cách mạng cuồn cuộn dâng lên. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cách mạng Tháng Tám thành công mở ra một kỉ nguyên mới vô cùng vẻ vang cho dân tộc ta - kỉ nguyên độc lập, tự do, dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp vĩ đại đó của Cách mạng Tháng Tám, căn cứ địa Việt Bắc đã có phần đóng góp xứng đáng. Trong Cách mạng Tháng Tám, sự ra đời của căn cứ địa Việt Bắc là quá trình đấu tranh cách mạng đầy hy sinh, gian khổ của nhân dân các dân tộc Việt Bắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đứng đầu là Hồ Chí Minh, nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, chiến đấu vô cùng dũng cảm, đoàn kết chặt chẽ, làm nên thắng lợi huy hoàng. Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và của toàn dân tộc Việt Nam, đã lái con thuyền Cách mạng Tháng Tám đến bến vinh quang. Người còn trực tiếp đặt những viên gạch đầu tiên và từng bước xây dựng nên căn cứ địa Việt Bắc vững chắc. Quá trình hình thành và phát triển của căn cứ địa Việt Bắc cùng với những thành tích của nó, gắn liền với sự hoạt động của Hồ Chí Minh trong những năm chuẩn bị và tiến hành Cách mạng Tháng Tám. Sau ngày cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử đồng chí Phạm Văn Đồng và một số cán bộ ở lại Việt Bắc giúp đồng bào xây dựng cuộc sống mới về mọi mặt, qua đó củng cố thêm căn cứ địa cách mạng để làm hậu phương vững chắc nếu chiến tranh xảy ra. Từ giữa năm 1946, một số cán bộ của Đội công tác đặc biệt lần lượt lên Việt Bắc. Sau khi khảo sát nắm tình hình, cân nhắc trên mọi phương diện, Đội đã báo cáo lên Trung ương, Bác Hồ và Bộ Chính trị quyết định trở lại Việt Bắc, chọn các huyện Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương (Thái Nguyên), Chợ Đồn (Bắc Kạn), Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa (Tuyên Quang) mà trung tâm là Định Hóa, Sơn Dương, Yên Sơn, Chợ Đồn, làm địa bàn xây dựng An toàn khu (ATK) của Trung ương. Nhận được Chỉ thị của Trung ương về việc xây dựng An toàn khu (ATK), các đơn vị ủy ban hành chính và ủy ban kháng chiến huyện của các địa phương, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhân dân nêu cao tinh thần cảnh giác, bảo vệ cán bộ và cơ quan, đồng thời ra sức giúp đỡ sức người, sức của xây dựng đại bản doanh. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta nổ ra trong khi tiềm lực kinh tế, quân sự so với đối phương còn nhỏ yếu, hầu như không có dự trữ. Đảng ta nhận định, muốn giành thắng lợi chúng ta không thể "đem toàn lực dốc vào một trận hòng phân thắng bại" (Trường Chinh), mà phải có thời gian để chuyển hóa, phát triển lực lượng. Vào nửa đầu tháng 11-1946, Trung ương Đảng, Chính phủ quyết định thành lập Đội công tác đặc biệt do Trần Đăng Ninh, ủy viên Trung ương Đảng phụ trách, gồm đại biểu của các ngành quân sự, an ninh, chính quyền, đoàn thể làm nhiệm vụ nghiên cứu và chọn địa điểm an toàn để đặt các cơ quan đầu não kháng chiến. Việt Bắc "cái nôi" của Cách mạng Tháng Tám, lại vinh dự được Đảng và Bác Hồ chọn làm căn cứ địa, trung tâm chỉ đạo cuộc kháng chiến cả nước. Cuối năm 1946, chủ trương của Trung ương Đảng thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Một mặt giam chân địch tại các khu đô thị, mặt khác ta gấp rút chuẩn bị công tác tổng di chuyển các cơ quan, kho tàng, thiết bị máy móc được tiến hành khẩn trương đưa lên An toàn khu Trung ương. Vào đầu năm 1947, đợt tổng di chuyển căn bản hoàn thành. Hầu hết các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận, Bộ Quốc phòng, các tổ chức đoàn thể, cơ quan kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dụ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc (1941 - 1954).pdf
Tài liệu liên quan