Luận văn Hiệu quả kinh doanh ở Công ty Giầy Thăng Long; thực trạng và giải pháp

Tài liệu Luận văn Hiệu quả kinh doanh ở Công ty Giầy Thăng Long; thực trạng và giải pháp: 1 Luận văn Hiệu quả kinh doanh ở Công ty Giầy Thăng Long thực trạng và giải pháp 2 LỜI NÓI ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm của công ty luôn phải đối mặt sự cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại và những biến động không ngừng trong môi trường kinh doanh. Để đạt được các mục tiêu trong môi trường kinh doanh luôn biến động này các doanh nghiệp cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực như: nguồn lực về vốn, về con người, không ngừng tổ chức cơ cấu lại bộ máy hoạt động... Thực chất những việc này là doanh nghiệp thực hiện hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là thước đo tổng hợp, phản ánh năng lực sản xuất và trình độ kinh doanh của một doanh nghiệp, là điều kiện quyết định sự thành bại của tất cả các doanh nghiệp nói chung và Công ty Giầy Thăng Long nói riêng. Để khai thác triệt để các nguồn lực khan hiếm nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hoá thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, các Công ty cần phải n...

pdf71 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Hiệu quả kinh doanh ở Công ty Giầy Thăng Long; thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn Hiệu quả kinh doanh ở Công ty Giầy Thăng Long thực trạng và giải pháp 2 LỜI NÓI ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm của công ty luôn phải đối mặt sự cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại và những biến động không ngừng trong môi trường kinh doanh. Để đạt được các mục tiêu trong môi trường kinh doanh luôn biến động này các doanh nghiệp cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực như: nguồn lực về vốn, về con người, không ngừng tổ chức cơ cấu lại bộ máy hoạt động... Thực chất những việc này là doanh nghiệp thực hiện hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là thước đo tổng hợp, phản ánh năng lực sản xuất và trình độ kinh doanh của một doanh nghiệp, là điều kiện quyết định sự thành bại của tất cả các doanh nghiệp nói chung và Công ty Giầy Thăng Long nói riêng. Để khai thác triệt để các nguồn lực khan hiếm nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hoá thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, các Công ty cần phải nâng cao hiệu quả kinh doanh, tiến hành đánh giá các kết quả đã thực hiện và đưa ra các giải pháp, biện pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả. Vấn đề hiệu quả kinh doanh luôn được ban lãnh đạo Công ty giầy Thăng Long quan tâm xem đây là thước đo và công cụ thực hiện mục tiêu kinh doanh tại Công ty. Với những kiến thực thu được trong quá trình học tập và xuất phát từ thực tế của Công ty, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh, trong thời gian thực tập ở Công ty Giầy Thăng Long cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS. Phan Kim Chiến em đã chọn đề tài: "Hiệu quả kinh doanh ở Công ty Giầy Thăng Long thực trạng và giải pháp" làm chuyên đề thực tập. Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần: Chương I: Nâng cao hiệu quả kinh doanh là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp. Chương II: Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty Giầy Thăng Long 3 Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và định hướng phát triển giai đoạn 2005 - 2010 của Công ty Giầy Thăng Long CHƯƠNG I NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH LÀ MỤC TIÊU HÀNG ĐẦU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP I. QUAN NIỆM VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH 1. Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh Đối với tất cả các doanh nghiệp , các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong nền kinh tế thị trường, với các cơ chế quản lý khác nhau, nhưng trong mỗi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp cũng có các mục tiêu khác nhau. Trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, mọi doanh nghiệp đều có mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hóa lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này mọi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp thích ứng với các biến động của thị trường, phải thực hiện việc xây dựng các kế hoạch kinh doanh, các phương án kinh doanh, phải kế hoạch hóa các hoạt động của doanh nghiệp và đồng thời tổ chức thực hiện chúng một cách có hiệu quả. Trong quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện các hoạt động quản trị trên, các doanh nghiệp phải luôn luôn kiểm tra đánh giá tính hiệu quả của chúng. Muốn kiểm tra đánh giá các hoạt động sản xuất kinh doanh chung của doanh nghiệp cũng như từng lĩnh vực, từng bộ phận bên trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp không thể thực hiện việc tính hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh đó. Vậy thì hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh là gì? Để hiểu được phạm trù hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh thì trước tiên chúng ta tìm hiểu xem hiệu quả kinh tế nói chung là gì. Từ trước đến nay có rất nhiều tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế: 4 - Theo P.Samuellson và W.Nordhaus thì "hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một cách hàng loạt hàng hóa mà không cắt giảm một loạt hàng hóa khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó". Thực chất của quan niệm này là đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực sản xuất trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả cao. Có thể nói mức hiệu quả ở đây mà tác giả đưa ra là cao nhất, là lý tưởng và không có mức hiệu quả cao hơn nữa. - Hai tác giả Wohe và Doring lại đưa ra hai khái niệm về hiệu quả kinh tế. Đó là hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị giá trị. Theo hai ông thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau: "Mối quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng tính theo đơn vị hiện vật (chiếc, kg…) và lượng các nhân tố đầu vào (giờ lao động, đơn vị thiết bị, nguyên vật liệu…) được gọi là tính hiệu quả có tính chất kỹ thuật hay hiện vật", "Mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí kinh doanh phải chi ra trong điều kiện thuận lợi nhất và chi phí kinh doanh thực tế phải chi ra được gọi là tính hiệu quả xét về mặt giá trị" và "để xác định tính hiệu quả về mặt giá trị người ta còn hình thành tỷ lệ giữa sản lượng tính bằng tiền và các nhân tố đầu vào tính bằng tiền". Khái niệm hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị của hai ông chính là năng suất lao động, máy móc thiết bị và hiệu suất tiêu hao vật tư, còn hiệu quả tính bằng giá trị là hiệu quả hoạt động quản trị chi phí. - Theo các tác giả khác: Có một số tác giả cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ giữa tỷ lệ tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí. Các quan điểm này mới chỉ đề cập đến hiệu quả của phần tăng thêm chứ không phải của toàn bộ phần tham gia vào quy trình kinh tế. Một số quan điểm lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả nhận được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Điển hình cho 5 quan điểm này là tác giả Manfred Kuhu, theo ông: "Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh". Đây là quan điểm được nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng vào tính hiệu quả kinh tế của các quá trình kinh tế. Một khái niệm được nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước quan tâm chú ý và sử dụng phổ biến đó là: Hiệu quả kinh tế của một số hiện tượng (hoặc một quá trình) kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu xác định. Đây là khái niệm tương đối đầy đủ phản ánh được tính hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ các quan điểm về hiệu quả kinh tế thì ta có thể đưa ra khái niệm về hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp như sau: hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, tiền vốn và các yếu tố khác) nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra. 2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh Khái niệm hiệu quả kinh doanh đã cho thấy bản chất của nó là phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Tuy nhiên để hiểu rõ và ứng dụng được phạm trù hiệu quả kinh doanh vào việc xác lập các chỉ tiêu, các công thức cụ thể nhằm đánh giá tính hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì chúng ta cần làm rõ những vấn đề sau: - Thứ nhất: phạm trù hiệu quả kinh doanh thực chất là mối quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để sử dụng các yếu tố đầu vào và có tính đến các mục tiêu của doanh nghiệp. Mối quan hệ so sánh ở đây có thể là so sánh tuyệt đối và cũng có thể là so sánh tương đối. Về mặt so sánh tuyệt đối thì hiệu quả kinh doanh là: H = K - C trong đó: H: hiệu quả kinh doanh 6 K: kết quả đạt được C: chi phí bỏ ra để sử dụng các nguồn lực đầu vào Còn về so sánh tương đối thì: H = K/C Do đó để tính được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ta phải tính kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Nếu xét mối quan hệ giữa kết quả và hiệu quả thì kết quả nó là cơ sở để tính ra hiệu quả kinh doanh, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể là những đại lượng có khả năng đong, cân, đo đếm như số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu bán hàng, lợi nhuận, thị phần…. như vậy kết quả sản xuất kinh doanh thường là mục tiêu của doanh nghiệp. - Thứ hai: phải phân biệt hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế xã hội với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp: hiệu quả xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu về xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường là: giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong phạm vi toàn xã hội phạm vi từng khu vực, nâng cao trình độ văn hóa, nâng cao mức sống, đảm bảo vệ sinh môi trường… Còn hiệu quả kinh tế xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu cả về kinh tế xã hội trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như trên phạm vi từng vùng, từng khu vực của nền kinh tế. - Thứ ba: hiệu quả trước mắt với hiệu quả lâu dài: các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào mục tiêu của doanh nghiệp do đó mà tính chất hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở các giai đoạn khác nhau. Xét về tính lâu dài thì các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp là lợi nhuận và các chỉ tiêu về doanh lợi. Xét về tính hiệu quả trước mắt (hiện tại) thì nó phụ thuộc vào các mục tiêu hiện tại mà Doanh nghiệp đang theo đuổi. Trong thực tế để thực mục tiêu bao trùm lâu dài của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, có rất nhiều doanh nghiệp hiện tại 7 không đạt được mục tiêu là lợi nhuận mà lại thực hiện các mục tiêu nâng cao năng suất và chất lượng của sản phẩm, nâng cao uy tín danh tiếng của doanh nghiệp, mở rộng thị trường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu… do đó mà các chỉ tiêu hiệu quả ở đây về lợi nhuận là không cao nhưng chỉ tiêu có liên quan đến các mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp là cao thì chúng ta không thể kết luận là doanh nghiệp đang hoạt động không có hiệu quả, mà phải kết luận là doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả. Như vậy các chỉ tiêu hiệu quả mà tính hiệu quả trước mắt có thể là trái với các chỉ tiêu hiệu quả lâu dài, nhưng mục đích của nó lại là nhằm thực hiện chỉ tiêu hiệu quả lâu dài. 3. Phân loại hiệu quả kinh doanh 3.1. Hiệu quả kinh doanh Hiệu quả kinh doanh hay hiệu quả tài chính là hiệu quả thu được từ hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Biểu hiện trực tiếp của hiệu quả kinh doanh là số lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp thu được hoặc lỗ phải chịu. Hiệu quả kinh doanh được tính bằng chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Hiệu quả kinh doanh được xác định trong mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra với thu nhập mang lại trong quá trình kinh doanh dưới hình thái tiền tệ đối với một dịch vụ kinh doanh hoặc tổng thể các dịch vụ kinh doanh trong một thời gian nhất định. Hiệu quả kinh doanh có tính chất trực tiếp nên có thể định hướng được dễ dàng. Theo các nhà kinh tế học hiện đại thì: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh trình độ và chất lượng sản xuất kinh doanh được xác định bằng tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Hay: Hiệu quả kinh tế (hiệu quả kinh doanh) của một tổ chức kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ quản lý và năng lực kinh doanh của tổ chức đó nhằm đảm bảo thu được kết quả cao nhất theo những mục tiêu đã đặt ra với chi phí thấp nhất. 8 Hiệu quả kinh tế là thước đo tổng hợp, phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế cần được xem xét 1 cách toàn diện về cả mặt định tính và định lượng. - Về định tính: Hiệu quả kinh tế được phản ánh ở trình độ và năng lực quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thể hiện sự đóng góp của doanh nghiệp với toàn xã hội. - Về định lượng: hiệu quả kinh tế của một tổ chức kinh doanh được đo lường bằng hiệu số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Chênh lệch giữa kết quả và chi phí càng lớn thì hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ quản trị kinh doanh: Khi tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào thì các doanh nghiệp đều phải huy động và sử dụng các nguồn lực mà doanh nghiệp có khả năng có thể tạo ra kết quả phù hợp mà doanh nghiệp đã đề ra. Để thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cũng như các mục tiêu khác, các nhà doanh nghiệp phải sử dụng nhiều phương pháp, nhiều công cụ khác nhau. Hiệu quả kinh doanh là một trong những công cụ hữu hiệu nhất là để cho nhà quản trị thực hiện chức năng quản trị của mình. Thông qua việc tính toán hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (các hoạt động có hiệu quả hay không và hiệu quả đạt được ở mức độ nào), mà cho phép các nhà quản trị phân tích tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó đưa ra được các biện pháp điều chỉnh thích hợp trên cả hai phương diện giảm chi phí, tăng kết quả nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Với tư cách là một công cụ quản trị kinh doanh, hiệu quả kinh doanh không chỉ được sử dụng để kiểm tra, đánh giá và phân tích trình độ sử dụng tổng hợp các nguồn lực đầu vào trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà còn được sử dụng để kiểm tra đánh giá trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào trong phạm vi doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận cấu thành của doanh nghiệp. Do vậy 9 xét trên phương diện lý luận và thực tiễn thì phạm trù hiệu quả kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng và không thể thiếu được trong việc kiểm tra đánh giá và phân tích nhằm đưa ra các giải pháp tối ưu nhất, lựa chọn được các phương pháp hợp lý nhất để thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp đã đề ra. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp các nhà quản trị còn coi hiệu quả kinh tế như là các nhiệm vụ, các mục tiêu để thực hiện. Vì đối với các nhà quản trị khi nói đến các hoạt động sản xuất kinh doanh thì họ đều quan tâm đến tính hiệu quả của nó. Do vậy mà hiệu quả kinh doanh có vai trò là công cụ để thực hiện nhiệm vụ quản trị kinh doanh đồng thời vừa là mục tiêu để quản trị kinh doanh. 3.2. Hiệu quả kinh tế xã hội Hiệu quả kinh tế xã hội của một hoạt động kinh tế xác định trong mối quan hệ giữa hoạt động đó với tư cách là tổng thể các hoạt động kinh tế hoặc là một hoạt động cụ thể về kinh tế với nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội. Hiệu quả kinh tế xã hội là lợi ích kinh tế xã hội mà hoạt động kinh tế mang lại cho nền kinh tế quốc dân và cho đời sống xã hội, được thể hiện ở mức độ đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội như: phát triển sản xuất, tăng thu cho ngân sách, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Hiệu quả kinh tế xã hội có tính chất gián tiếp rất khó định lượng nhưng lại có thể định tính: "Hiệu quả kinh tế xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự phát triển". Hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong nhiều trường hợp, hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội vận động cùng chiều, nhưng lại có một số trường hợp hai mặt đó lại mâu thuẫn với nhau. Có những hoạt động kinh doanh không mang lại lợi nhuận, thậm chí có thể thua thiệt, nhưng doanh nghiệp vẫn kinh doanh vì lợi 10 ích chung để thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội nhất định điều đó xảy ra đối với các doanh nghiệp công ích. 3.3. Hiệu quả tổng hợp Chi phí bỏ ra là yếu tố cần thiết để đánh giá và tính toán mức hiệu quả kinh tế. Xét trên góc độ tính toán, có các chỉ tiêu chi phí tổng hợp (mọi chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh) và chi phí bộ phận (những hai phí cần thiết để thực hiện nhiệm vụ đó). - Hiệu quả tổng hợp thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và tổng chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất hay kinh doanh. Việc tính toán hiệu quả chi phí tổng hợp cho thấy hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp hay nền kinh tế quốc dân. Còn việc tính và phân tích hiệu quả của các chi phí bộ phận cho thấy sự tác động của những yếu tố nội bộ sản xuất kinh doanh đến hiệu quả kinh tế nói chung. Về nguyên tắc, hiệu quả chi phí tổng hợp thuộc vào hiệu quả chi phí thành phần. Nhưng trong thực tế, không phải các yếu tố chi phí thành phần đều được sử dụng có hiệu quả, tức là có trường hợp sử dụng yếu tố này nhưng lại lãng phí yếu tố khác. Nói chung muốn thu được hiệu quả kinh tế, hiệu quả do sử dụng các yếu tố thành phần nhất thiết phải lớn hơn so với tổn thất do lãng phí các yếu tố khác gây ra. 3.4. Hiệu quả của từng yếu tố - Hiệu quả sử dụng vốn Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp được thể hiện qua hiệu suất sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. + Vốn lưu động: Cần có những biện pháp tích cực hơn để đẩy nhanh tốc độ quay của vốn lưu động, rút ngắn thời gian thu hồi vốn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. + Hiệu quả sử dụng vốn cố định 11 Hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp được thể hiện qua sức sản xuất và mức sinh lợi của tài sản cố định. Hai chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp càng cao. - Hiệu quả sử dụng lao động của doanh nghiệp Đánh giá ở mức sinh lợi bình quân của lao động trong năm. Năng suất lao động bình quân đầu người của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần chú trọng đến việc sử dụng lao động, biểu hiện bằng số lao động giảm và sản lượng tăng dẫn đến chi phí thấp về tiền lương. 12 II. NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH LÀ MỤC TIÊU HÀNG ĐẦU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện trên 3 lĩnh vực sau: Trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, nền kinh tế càng phát triển thì môi trường cạnh tranh càng trở nên gay gắt và khốc liệt. Để tồn tại và phát triển được đòi hỏi các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh và thắng thế trong cạnh tranh, muốn như thế doanh nghiệp phải nâng cao được hiệu quả. Do đó nâng cao hiệu quả của kinh doanh là một điều tất yếu. * Đối với doanh nghiệp - Muốn tham gia cạnh tranh và thắng thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp phải trả lời được các câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Muốn trả lời được những câu hỏi này doanh nghiệp phải tiến hành hết sức thận trọng, có sự tính toán kỹ lưỡng và chắc chắn vì hầu hết các nguồn lực của doanh nghiệp, của xã hội là có hạn, mà nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ ngày càng tăng, chất lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ ngày càng cao. * Đối với người lao động Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ có sự tác động trực tiếp tới đời sống của họ, nếu như doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cao, tạo công ăn việc làm, cuộc sống được nâng lên nhờ tăng lương, các khoản thưởng, chế độ xã hội, ngược lại nếu như các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả sẽ có nhiều người lao động bị thất nghiệp, lương thấp ảnh hưởng tới đời sống của họ. * Đối với Nhà nước 13 Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả tạo ra nguồn thu cho ngân sách thông qua thuế, làm giảm gánh nặng cho xã hội do tạo ra công ăn việc làm cho người lao động 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, nó có liên quan tới tất cả các mặt trong hoạt động kinh doanh, do đó chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau: * Nhân tố thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của doanh nghiệp Trong nền kinh tế, thị trường là một trong các yếu tố cơ bản quyết định quá trình tái sản xuất. Thị trường đầu vào ảnh hưởng tới tính liên tục và tính hiệu quả của sản xuất, còn thị trường đầu ra quyết định quá trình tái sản xuất và tính hiệu quả trong kinh doanh. * Nhân tố kỹ thuật và công nghệ Nhân tố này cho phép các doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng và hạ giá thành sản phẩm nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh, tăng vòng quay của vốn lưu động, tăng lợi nhuận, đảm bảo thực hiện yêu cầu quy luật tái sản xuất mở rộng * Nhân tố về tổ chức Quá trình sản xuất trong doanh nghiệp nhân tố này bảo đảm cho dây chuyền sản xuất cân đối, cho phép doanh nghiệp khai thác tới mức tối đa các yếu tố vật chất trong sản xuất đó mà góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. * Nhân tố về quản lý Nhân tố này tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng hợp lý và tiết kiệm các yếu tố vật chất trong quá trình kinh doanh, giúp lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra những quyết định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp chính xác, kịp thời tạo ra những động lực to lớn để khuyến khích sản xuất phát triển. * Nhân tố về lực lượng lao động 14 Trong doanh nghiệp, lực lượng lao động tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bằng lao động sáng tạo của con người có thể tạo ra công nghệ mới, thiết bị máy móc mới, nguyên vật liệu mới… có hiệu quả hơn hoặc cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất hiệu quả kinh tế so với trước. Trong thực tế máy móc hiện đại đến đâu nếu không có con người sử dụng thì cũng không thể phát huy được tác dụng. Ngược lại nếu có máy móc thiết bị hiện đại mà con người không có trình độ sử dụng, trình độ kỹ thuật và trình độ tổ chức quản lý không những tăng được hiệu quả kinh doanh mà còn tốn kém chi phí bảo dưỡng sửa chữa vì những sai lầm, hỏng hóc do không biết sử dụng gây ra. * Nhân tố thông tin Thông tin được coi là đối tượng lao động của các nhà quản trị và nền kinh tế. Để kinh doanh thành công được trong điều kiện cạnh tranh gay gắt ở cả trong nước và quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm bắt được nhiều thông tin. * Nhân tố về vận dụng đòn bẩy kinh tế Nhân tố này cho phép doanh nghiệp khai thác tới tối đa tiềm năng về lao động, tạo điều kiện cho mọi người, mọi khâu và các bộ phận trong doanh nghiệp phát huy được đầy đủ quyền chủ động sáng tạo trong quá trình sản xuất kinh doanh. 3. Các biện pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh 3.1. Nghiên cứu khảo sát và nắm bắt nhu cầu thị trường Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi giữa người mua và người bán, sản xuất hàng hóa phát triển một mức độ nào đó sẽ hình thành cơ chế thị trường, cơ chế thị trường là một mô hình kinh tế xã hội lấy giá trị, giá cả và lợi nhuận làm nền tảng cho việc điều chỉnh những ứng xử của các tổ chức và cá nhân trong mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người, hoạt động của nó tuân theo quy luật cạnh tranh, dưới sự quản lý điều tiết của Nhà nước bằng luật pháp và các đòn bẩy kinh tế… 15 Thị trường là một phạm trù riêng vốn có của sản xuất hàng hóa. Hoạt động cơ bản của nó được thể hiện thông qua hai nhân tố có mối liên quan mật thiết với nhau: - Nhu cầu hàng hóa - dịch vụ - Khả năng cung cấp hàng hóa dịch vụ đó. Từ thị trường ta xác định được mối tương quan giữa cung và cầu. Thị trường còn là nơi kiểm nghiệm giá trị của hàng hóa - dịch vụ và biết được hàng hóa dịch vụ đó có đáp ứng được nhu cầu của thị trường, có được thị trường chấp nhận hay không. Trong cơ chế kinh tế hiện nay cạnh tranh là điều kiện, tiền đề cho sự phát triển kinh tế. Trên thị trường, các doanh nghiệp đều hoạt động và cạnh tranh với nhau, điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm bắt nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đầy đủ các thông tin về thị trường để đưa ra các biện pháp tác động thích hợp tới quá trình kinh doanh của mình nhằm giành ưu thế trong cạnh tranh. Đó sẽ là điều kiện để cho doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh. Nhu cầu của thị trường rất đa dạng đòi hỏi phải luôn luôn đáp ứng ngày một cao hơn về mọi mặt như chất lượng, mẫu mã… Chỉ trên cơ sở nắm bắt chính xác đầy đủ và kịp thời nhu cầu của thị trường thì doanh nghiệp mới có căn cứ để lập chiến lược kinh doanh, lựa chọn phương án kinh doanh thích hợp trên cơ sở căn cứ vào tiềm lực của mình để tổ chức kinh doanh mang lại hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Để nắm bắt được các thông tin thị trường doanh nghiệp cần phải: - Tổ chức hợp lý việc thu thập các nguồn thông tin từ các loại thị trường - Phân tích và xử lý chính xác, kịp thời các thông tin đã thu nhập được. Từ hai bước trên xác định nhu cầu của thị trường mà doanh nghiệp có khả năng đáp ứng. Việc nghiên cứu khảo sát và nắm bắt nhu cầu thị trường đang phải trả lời được các câu hỏi sau: 16 - Những loại thị trường nào có triển vọng nhất đối với hàng hóa - dịch vụ của doanh nghiệp - Giá cả, chi phí và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp với nhu cầu về hàng hóa - dịch vụ của những loại thị trường đó. Trên cơ sở đó doanh nghiệp sẽ xác định cho mình một chiến lược phát triển thị trường tối ưu, xây dựng phương án kinh doanh giúp cho doanh nghiệp luôn chủ động trong kinh doanh, xử lý kịp thời các tình huống có thể xảy ra trong quá trình kinh doanh, giúp cho doanh nghiệp có thể hạn chế đến mức tối đa các rủi ro. 3.2. Chuẩn bị tốt các điều kiện, yếu tố cần thiết cho quá trình kinh doanh Chuẩn bị tốt các điều kiện, yếu tố cần thiết cho quá trình kinh doanh có ý nghĩa quan trọng, nó là điều kiện để nâng cao hiệu quả kinh doanh góp phần làm tăng khả năng hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch và phương án kinh doanh cả về số lượng, chất lượng và tiến độ thực hiện. Việc chuẩn bị đầy đủ các điều kiện và yếu tố cho quá trình kinh doanh bao gồm: * Nhân tố đầu vào nguyên vật liệu Nội dung cơ bản nhất của quá trình sản xuất đó là quá trình lao động. Quá trình lao động làm thay đổi hình dáng, kích thước tính chất hóa lý của đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm công nghiệp với chất lượng càng cao thỏa mãn ngày càng đầy đủ nhu cầu đa dạng của thị trường. Như vậy, nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất, trực tiếp cấu tạo nên thực thể của sản phẩm. Mặt khác nhân tố đầu vào của các doanh nghiệp sản xuất vật chất là nguyên vật liệu. Do đó trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành một cách liên tục, không bị gián đoạn hoặc không thể tiến hành được. - Nguyên vật liệu phải đầy đủ vì thiếu nguyên vật liệu dẫn tới các quá trình sản xuất sẽ bị gián đoạn hoặc không thể tiến hành được. 17 Việc cung cấp nguyên vật liệu phải kịp thời, điều này sẽ đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được diễn ra liên tục, không bị gián đoạn. - Chất lượng của nguyên vật liệu phải đảm bảo vì chất lượng của nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, đến việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu từ đó dẫn đến hiệu quả của việc sử dụng vốn. - Chi phí cho nguyên vật liệu chiếm một tỷ trọng cao trong cơ cấu giá thành, do đó giảm chi phí nguyên vật liệu tới mức thấp nhất đồng nghĩa với hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh và nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Nguyên vật liệu hay nói cách khác nhân tố đầu vào không những giữ vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, nó còn giữ vai trò quan trọng trong lĩnh vực quản lý giá thành và tài chính trong doanh nghiệp. Vì vấn đề đặt ra đối với yếu tố này trong công tác quản lý là phải cung ứng đúng tiến độ, số lượng, chủng loại, quy cách và với chi phí thấp nhất. Chỉ trên cơ sở đó mới đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh doanh. * Nhân tố máy móc thiết bị, công nghệ: Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt và khốc liệt thì nhân tố máy móc thiết bị và công nghệ có vai trò ngày càng quan trọng và có tính quyết định. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Máy móc thiết bị và công nghệ tiến bộ sẽ làm cho năng suất lao động tăng, chất lượng sản phẩm tăng, điều đó ảnh hưởng đến giá thành và khả năng cạnh tranh, từ đó tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhân tố này cũng tác động đến thị trường, đến người cung cấp, ảnh hưởng tới khách hàng, đến vị thế cạnh tranh và quá trình sản xuất của doanh nghiệp trên thị trường. Một yếu tố cũng hết sức quan trọng đó là công nghệ kỹ thuật, các nhân tố về kỹ thuật công nghệ có vai trò càng quan trọng ngày càng có tính chất quyết định. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh vì chính nó làm tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm do đó ảnh hưởng tới giá thành và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 18 Công nghệ thông tin, tin học tiến bộ cho doanh nghiệp thu thập, xử lý, truyền đạt thông tin kinh tế xã hội phục vụ cho hoạt động kinh doanh và lưu trữ thông tin từ đó tạo ra các điều kiện phát triển cho doanh nghiệp. * Nhân tố lao động Lao động là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất, trong đó lao động là yếu tố quan trọng. Muốn cho mọi hoạt động sản xuất đạt hiệu quả cao, cần phải hình thành một cơ cấu lao động tối ưu trong doanh nghiệp. Cơ cấu lao động tối ưu khi lực lượng lao động đảm bảo đủ số lượng ngành nghề, chất lượng, giới tính và lứa tuổi, đồng thời được phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác giữa các bộ phận và các cá nhân với nhau, bảo đảm mọi người đều có việc làm,mọi khâu, mọi bộ phận đều có người phụ trách và sự ăn khớp, đồng bộ trong từng đơn vị và trên phạm vi toàn doanh nghiệp. Cơ cấu lao động tối ưu là cơ sở để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành cân đối, nhịp nhàng liên tục, là cơ sở để đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác doanh nghiệp phải xây dựng cho mình các định mức lao động để làm căn cứ xác định chất lượng sản phẩm, lượng lao động hao phí, không những thế doanh nghiệp phải sử dụng hợp lý và tiết kiệm sức lao động là biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả kinh doanh. 3.3. Tổ chức quá trình kinh doanh theo phương án kinh doanh đã đề ra * Tăng sản lượng sản xuất và tiêu thụ Trong cơ chế thị trường để tồn tại đứng vững trong điều kiện cạnh tranh, bản thân các doanh nghiệp ngoài việc tăng sản lượng hàng hóa sản xuất ra còn phải tăng sản lượng tiêu thụ từ đó tăng lợi nhuận. Sản phẩm sản xuất ra phải tiêu thụ được sao cho phù hợp với quy luật tái sản xuất mở rộng, tăng được sản lượng hàng hóa sản xuất tức là doanh nghiệp đã tận dụng được các yếu tố lao động, máy móc thiết bị, thời gian và sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm nguyên vật liệu để từ đó hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường như vậy sẽ tăng được sản lượng hàng hóa tiêu thụ. 19 * Giảm chi phí Trong nền kinh tế có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với cạnh tranh, muối thắng lợi trong cạnh tranh thì vấn đề giảm một đồng chi phí làm tăng một đồng lợi nhuận, hơn nữa các doanh nghiệp sẽ quyết định mức sản xuất và tiêu thụ hàng hóa tùy theo chi phí và giá bán hàng. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao động vật hóa và hao phí lao động sống cần thiết mà doanh nghiệp đó bỏ ra để tiến hành hoạt động kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Sự tham gia của các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp có sự khác nhau nó hình thành chi phí tương ứng. Vậy khi các doanh nghiệp giảm được chi phí sản xuất kinh doanh xuống là đã hạ được giá thành và tăng khả năng hàng đầu của các doanh nghiệp là phấn đấu giảm chi phí hạ giá thành, tăng lợi nhuận. * Tăng năng suất lao động Việc tăng năng suất lao động phụ thuộc vào các yếu tố như chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho quá trình kinh doanh, phát triển trình độ đội ngũ lao động như đào tạo mở lớp tại doanh nghiệp, cử đi học… tạo động lực cho tập thể và cá nhân người lao động vì lao động sáng tạo của con người là nhân tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh, khi lực lượng lao động có trình độ cao thì có thể khai thác tối đa nguyên vật liệu, công suất máy móc, thiết bị công nghệ tiên tiến, việc phân công bố trí công việc cho người lao động phù hợp với trình độ năng lực không những tăng suất mà còn tại ra sự phấn khởi hăng say và tâm lý tốt cho người lao động. * Công tác quản trị và tổ chức sản xuất Đây cũng là vấn đề lớn góp phần nâng cao năng suất lao động. Vì cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp mà thích ứng với môi trường kinh doanh, nhanh nhạy với sự thay đổi của môi trường, bộ máy của doanh nghiệp phải gọn nhẹ, năng động, linh hoạt giữa các bộ phận của doanh nghiệp phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn chế độ trách nhiệm tránh sự chồng chéo và 20 nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi người, nâng cao tính chủ động sáng tạo trong kinh doanh thì sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động. 3.4. Tổ chức quá trình tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ Việc tổ chức quá trình tiêu thụ hàng hóa dịch vụ sẽ làm cho hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp lưu thông, không bị ứ đọng, giúp cho vòng quay của vốn lưu động tăng nhanh, làm giảm chi phí tiêu thụ và do đó lợi nhuận thu được cao dẫn tới tăng hiệu quả kinh doanh. Muốn vậy phải thực hiện các biện pháp cụ thể để tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng tăng. * Tổ chức kênh tiêu thụ Doanh nghiệp có thể áp dụng tiêu thụ phù hợp với doanh nghiệp sao cho có lợi nhất. - Kênh trực tiếp Hàng hóa từ doanh nghiệp sản xuất được bán thẳng đến người tiêu dùng. Hình thức này đảm bảo mối quan hệ trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng, giúp doanh nghiệp có thể nắm bắt được nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng nhất để đáp ứng nhu cầu đó. - Kênh gián tiếp Là hình thức trong đó sử dụng trung gian tùy theo số lượng trung gian mà có thể có kênh tiêu thụ dài hay ngắn khác nhau. Qua việc tiêu thụ bằng trung gian sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng được thị trường, chi phối được thị trường rộng lớn, tăng khả năng cạnh tranh thông qua lợi thế của trung gian về vị trí đặt cửa hàng, kinh nghiệm tiêu thụ. * Tổ chức mạng lưới phân phối, khuyến khích đại lý Để thực hiện tốt kế hoạch tiêu thụ của mình, doanh nghiệp không ngừng mở rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. Với mạng lưới phân phối rộng sẽ giúp cho hàng hóa tới tay người tiêu dùng một cách nhanh nhất. Mặt khác doanh nghiệp cũng phải có chế độ khuyến khích các đại lý tự tìm kiếm những khách hàng lớn tại cơ sở của mình. * Sử dụng các phương pháp hỗ trợ tiêu thụ 21 Đây là biện pháp góp phần không nhỏ đến kết quả tiêu thụ sản phẩm khiến cho sản phẩm của doanh nghiệp được nhiều người biết đến và tiêu thụ thường xuyên chính là các hoạt động hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm. Hoạt động quảng cáo là hoạt động rất phổ biến trong cơ chế thị trường, hoạt động này có mục đích tuyên truyền về các sản phẩm, giới thiệu về công ty với mọi người và từ đó kích thích nhu cầu mua hàng của họ Đưa sản phẩm của doanh nghiệp tới bán và giới thiệu các các hội chợ triển lãm, bằng cách này người tiêu dùng có thể trực tiếp tìm hiểu sản phẩm về doanh nghiệp. Thông qua đó doanh nghiệp có thể tìm kiếm khách hàng. Dịch vụ bán hàng hiện nay được các doanh nghiệp trong và ngoài nước đặt lên hàng đầu có thể thực hiện dưới các hình thức như hỗ trợ vận chuyển cho khách hàng ở xa, cho những người mua hàng với số lượng lớn. Điều này sẽ khuyến khích các khách hàng mua nhiều sản phẩm của doanh nghiệp để được hưởng dịch vụ sau khi bán hàng. Bảo hành, đổi hàng bị hỏng do lỗi kỹ thuật của doanh nghiệp, điều này khiến khách hàng sẽ yên tâm khi sử dụng các sản phẩm hàng hóa mà doanh nghiệp sản xuất. Đồng thời khuyến khích việc tăng mức tiêu thụ sản phẩm ở các đại lý bằng những khoản tiền thưởng khiến cho những người bán hàng của doanh nghiệp càng thêm năng động tìm kiếm khách hàng, tìm kiếm thị trường mới. Hoạt động hỗ trợ của các doanh nghiệp đã góp phần không nhỏ tới kết quả tiêu thụ sản phẩm. * Nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm Doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới máy móc thiết bị công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm đưa ra nhiều mẫu mã của sản phẩm. Việc hạ giá thành sản phẩm giúp cho doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh, hàng hóa được tiêu thụ nhanh nhờ giá hạ hơn đối thủ, chất lượng sản phẩm lại tốt hơn vì giá đóng vai trò trong quyết định mua hàng của khách hàng, nó ảnh hưởng tới kết quả tiêu thụ. 22 - Thực hiện chính sách giá cả có chiết khấu, giảm giá cho các đại lý chi nhánh của công ty nhằm khuyến khích họ mua lượng hàng lớn và bán được nhiều hàng, tích cực hơn trong việc tiêu thụ sản phẩm. - Chính sách giá cả theo thị trường. Tại mỗi khu vực, vùng địa lý khác nhau nên có những mức giá khác nhau sao cho phù hợp với cùng loại sản phẩm. - Chính sách giá cạnh tranh: Doanh nghiệp áp dụng mức giá thấp khi muốn xâm nhập thị trường mới hay muốn cạnh tranh với đối thủ trên thị trường, điều này giúp sản phẩm tiêu thụ nhanh hơn, khách hàng dễ chấp nhận hơn sản phẩm của doanh nghiệp. 3.5. Thực hiện đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của thị trường Để thực hiện hệ thống các mục tiêu kinh tế xã hội đã định, trong quá trình sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp phải xác định được cơ cấu sản xuất sản phẩm chính. Đó là cơ cấu sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường, trên cơ sở khả năng của doanh nghiệp cho phép tối đa hóa lợi nhuận. Trong điều kiện nhu cầu thị trường rất đa dạng và thường xuyên biến động, tiến bộ khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp phải được coi là cơ cấu động, nghĩa là phải liên tục hoàn thiện và đổi mới. Đó là một trong những điều kiện bảo đảm doanh nghiệp thích ứng với môi trường kinh doanh để tồn tại và phát triển. Đổi mới cơ cấu sản phẩm được thực hiện theo nhiều hướng khác nhau: - Thu hẹp danh mục sản phẩm bằng cách loại bỏ những sản phẩm lỗi thời, những sản phẩm có sức cạnh tranh kém và những sản phẩm không có khả năng tạo ra lợi nhuận - Giữ nguyên chủng loại sản phẩm đang sản xuất nhưng cải tiến, hoàn thiện về hình thức, hoàn thiện về nội dung, tạo ra nhiều kiểu dáng. - Bổ sung thêm vào danh mục sản phẩm những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu thị trường và xu hướng phát triển của khoa học công nghệ. - Chuyển hóa vị trí các sản phẩm trong cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp, bằng cách thay đổi định lượng sản xuất của mỗi loại. III. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NGÀNH DA GIẦY VIỆT NAM 23 Theo thống kê sơ bộ, kim ngạch xuất khẩu giầy dép của nước ta năm 2004 đạt hơn 2,76 tỷ USD (trong đó cặp túi xách trên 160 triệu USD), tăng 22% so với mức kim ngạch đạt được trong năm 2003. Giầy dép, cặp túi xách Việt Nam đã xuất khẩu được sang gần 100 thị trường trên thế giới. Các thị trường xuất khẩu chính của nước ta là EU, Mỹ. Trong bối cảnh môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay thì mức kim ngạch này thực sự khẳng định nỗ lực lớn lao của các doanh nghiệp nói riêng và toàn ngành da giầy Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài, nếu phát huy hết nội lực của mình thì ngành da giầy Việt Nam còn có thể đạt được những thành tích cao hơn nhiều. Những hạn chế của ngành Da Giầy nước ta bao gồm khâu thiết kế mẫu mã chưa được đẩy mạnh, thương hiệu sản phẩm chưa được khẳng định, xúc tiến thương mại chưa mạnh, các chính sách của Nhà nước dành cho ngành da giầy chưa nhiều và cũng chưa mang lại hiệu quả cao. Bước sang năm 2005, ngành giầy dép nước ta sẽ tiếp tục có những điều kiện thuận lợi để duy trì và đẩy mạnh đà tăng trưởng hiện nay. - Thứ nhất, nhu cầu tiêu thụ giầy dép, cặp túi xách trong nước và trên thế giới vẫn tiếp tục tăng trong những năm tới. Mức tiêu thụ giầy dép, cặp túi xách của các nước Châu Âu trong năm 2004 ước đạt 1,135 tỷ đôi trong khi nhu cầu tiêu thụ vào khoảng 2,41 tỷ đôi. Nhập khẩu ròng giầy dép của Châu Âu dự báo sẽ tiếp tục tăng nhẹ, đạt mức khoảng 1,1 tỷ - 1,2 tỷ đôi. Cũng giống như các nước Châu Âu, nhu cầu tiêu thụ giầy dép, cặp túi xách các loại của các nước Châu Mỹ tiếp tục tăng trong những năm tới, đạt trên 3,3 tỷ đôi giầy trong khi năng lực sản xuất của khu vực này ước tính chỉ đạt trên 1 tỷ đôi. - Thứ hai, từ tháng 1/2005, EU sẽ bắt đầu tiến hành điều tra giầy dép nhập khẩu có nguồn gốc từ Trung Quốc nhằm bảo hộ sự phát triển của ngành giầy dép trong khu vực. Ngược lại, giầy dép xuất khẩu của nước ta sang thị trường EU sẽ tiếp tục được hưởng những ưu đãi về thuế quan (GSP) 24 - Thứ ba, một số đối thủ cạnh tranh khá mạnh của ngành giầy dép nước ta như Thái Lan, Indonesia đang có những biểu hiện đi xuống và tỏ ra kém cạnh tranh rõ rệt. Ngành giầy dép Indonesia từ năm 2002 đến nay luôn bị giảm sút. Nhiều nhà máy sản xuất đã buộc phải đóng cửa do không tiêu thụ được sản phẩm. Số lượng các công ty sản xuất giầy dép của Indonesia giảm từ 112 công ty xuống còn 90 công ty. Hai loại giầy được tập trung sản xuất nhiều của Indonesia là giầy bảo hộ lao động và giầy thể thao, nhưng việc bán hàng của các loại giầy này phụ thuộc vào nhãn hiệu nước ngoài. Hơn nữa, môi trường kinh doanh tại thị trường Indonesia lại không ổn định. Do vậy, người mua dễ dàng quay sang các nước khác để bảo đảm việc giao hàng tốt hơn. Cũng giống như Indonesia, ngành giầy dép của Thái Lan cũng đang trên đà xuống dốc. Kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan từ năm 2000 đến nay liên tục giảm mạnh nhất là xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm (ngoại trừ năm 2003, kim ngạch xuất khẩu của nước này đạt mức tăng trưởng 3,4%). Tính trong 10 tháng đầu năm 2004 kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Thái Lan giảm tới 8,15% so với cùng kỳ năm 2003, chỉ đạt khoảng 660 triệu USD. Các thị trường xuất khẩu chính của Thái Lan là Mỹ, EU, Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này giảm khá mạnh. Trong đó, xuất khẩu sang Mỹ và Bỉ giảm tới 15% về kim ngạch so với 10 tháng đầu năm 2003. - Thứ tư, da giầy hiện được xem là một trong ba nhóm ngành công nghiệp mũi nhọn của nước ta với nhiều lợi thế cạnh tranh và giải quyết được một số vấn đề xã hội với nguồn lao động dồi dào, không đòi hỏi đầu tư quá nhiều vốn, phù hợp với hoàn cảnh, môi trường của Việt Nam, phù hợp với nguồn lực tài chính, thị trường nước ta. Do đó, ngành da giầy sẽ được chú trọng đầu tư hơn nữa nhằm mang lại hiệu quả hơn, tạo ra sức cạnh tranh mạnh hơn theo chiến lược tăng trưởng tập trung đến năm 2020. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi trên, ngành giầy dép Việt Nam vẫn tiếp tục phải đối mặt với những trở ngại đáng kể. Thứ nhất, chưa chủ động được nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Thứ hai, công nghệ sản xuất chưa hiện đại và còn phụ thuộc vào nước ngoài. Và bài toán nan giải đối với ngành giầy 25 dép là xây dựng thương hiệu. Đã có nhiều bài học về sự thất bại do không có thương hiệu. Đầu tiên, trong những năm 50-60 Trung tâm sản xuất giầy dép lớn nhất và các nhãn hiệu giầy nổi tiếng của thế giới được đặt tại Italia, những năm 70 lại chuyển sang Nhật Bản, những năm 80 ở Đài Loan và Hàn Quốc. Cho đến khi các nước này hiểu ra vấn đề thì mọi sự đã rồi. Ngành giầy dép các nước này đã rơi vào tình trạng vô phương cứu chữa. Tất cả các hãng nổi tiếng đã dời bỏ sang các nước khác. Trước những khó khăn trên, để tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng tốt, trước hết ngành da giầy nước ta cần phải đầu tư mạnh cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ thiết kế, cải tiến kỹ thuật nhằm áp dụng những công nghệ hiện đại nhất vào sản xuất để tăng năng suất lao động, đồng thời tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt. Bên cạnh đó cần giảm thiểu mọi chi phí sản xuất khác có liên quan. Có như vậy mới tạo được sự cạnh tranh về giá cả hàng hoá. Ngoài ra, cần tiếp tục duy trì các thị trường truyền thống và tích cực thâm nhập thị trường mới. Vấn đề then chốt cuối cùng là mỗi doanh nghiệp từng bước xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình, góp phần mang lại hiệu quả và sự phát triển bền vững cho toàn ngành da giầy Việt Nam. 26 CHƯƠNG II PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY GIẦY THĂNG LONG I. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY 1. Lịch sử hình thành và phát triển Cụng ty giầy Thăng Long được thành lập theo Quyết định số 210/QD/TCLD ngày 14/04/1990 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ (nay là Bộ Công nghiệp) với tên gọi Nhà máy giầy Thăng Long. Sau đó, ngày 23/03/1993 theo Quyết định thành lập lại Doanh nghiệp nhà nước trong Nghị định 386/HDBT (nay là Thủ Tướng Chính Phủ) và Quyết định số 397/CNN- TCLD của Bộ Công nghiệp nhẹ, nhà máy giầy Thăng Long được đổi tên thành Công ty giầy Thăng Long Tờn giao dịch chớnh của cụng ty : Thang Long Shoes Company Trụ sở chớnh : 411-Nguyễn Tam Trinh-Hai Bà Trưng-Hà Nội Công ty có tổng diện tích 8067m2, trong đó 2600m2 là xây dựng nhà xưởng sản xuất, phần cũn lại là nhà kho, phũng làm việc, nhà để xe và đường giao thông nội bộ Công ty giầy Thăng Long có quá trỡnh hỡnh thành và phỏt triển chưa dài, nhưng công ty đó khụng ngừng phấn đấu để phát triển và đứng vững trên thị trường. Công ty đó đạt được những thành tựu đáng kể qua các giai đoạn phát triển của mỡnh Giai đoạn 1990-1993 Theo luận chứng kỹ thuật được duyệt, công ty giầy Thăng Long được thành lập với số vốn là 300.000.000d, mục tiêu sản xuất kinh doanh của công ty là gia công mũ giầy cho các nước Xó Hội Chủ Nghĩa mà chủ yếu là Liờn Xụ ( cũ )với cụng suất là 4.000.000 đôi mũ giầy / năm. Trong những năm đầu khi mới thành lập, công ty đó xõy dựng được 2 xưởng sản xuất và một số công trỡnh phục vụ sản xuất kinh doanh. Nhưng đến năm 1992, tỡnh hỡnh 27 kinh tế chớnh trị ở cỏc nước Liên Xô và Đông Âu có nhiều biến động, các đơn đặt hàng với các nước này bị cắt đứt. Mặt khác, quá trỡnh sản xuất kinh doanh của công ty lại mang tính thời vụ, thời gian ngừng sản xuất kéo dài (khoảng 3 tháng: tháng 5, tháng 6 và tháng 7) đó gõy ảnh hưởng xấu đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Trước tỡnh hỡnh đó, lónh đạo công ty cùng toàn thể công nhân viên đó cựng nhau tỡm hướng đi mới cho công ty. Kết quả là công ty đó tỡm được thị trường mới, cải tiến sản xuất, chuyển sang giầy vải xuất khẩu.Công ty vừa đầu tư xây dựng, vừa đào tạo lại đội ngũ công nhân viên để chuẩn bị sản xuất cho giại đoạn sau Từ sau năm 1993 tới nay: Đây là giai đoạn công ty thực sự chuyển hẳn từ sản xuất kinh doanh theo cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Công ty đó chủ động tỡm kiếm thị trường để ký hợp đồng trực tiếp với các công ty nước ngoài. Hàng năm, công ty luôn tổ chức chế thử và cải tiến mẫu mó cho phự hợp với thị hiếu của khỏch hàng, chỳ trọng việc nõng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm. Công ty đó tạo ra uy tớn về chất lượng mặt hàng và khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Các hoạt động, các giá trị tạo ra của công ty tăng không ngừng Kể từ năm 1996 công ty đó bắt đầu làm ăn có lói với những bạn hàng lớn, tên tuổi sản phẩm của công ty ngày càng có uy tín lớn trong nước và trên thị trường quốc tế Ngoài việc phỏt triển sản xuất, cụng ty còn nhận Nhà máy giầy Chí Linh (đóng trên địa bàn Chí Linh-Hải Dương) làm đơn vị thành viên vào năm 1999 và đến năm 2000, với tinh thần tương thân tương ái, công ty đó nhận thờm xớ nghiệp giầy Thỏi Bỡnh (đóng trên địa bàn thị xó Thỏi Bỡnh) làm đơn vị thành viên. Vỡ 2 đơn vị này đều không có khả năng duy trỡ và phỏt triển sản xuất, cụng nhõn khụng cú cụng ăn việc làm Trong suốt quỏ trỡnh từ khi thành lập đến nay, công ty luôn hoàn thành kế hoạch đặt ra, hoàn thành suất sắc nghĩa vụ đối với nhà nước. Công ty đó được tặng thưởng nhiều bằng khen các cấp như bằng khen của Bộ Công nghiệp, UBNN thành phố Hà Nội …về các thành tích đó đạt được 28 2. Đặc điểm chung của công ty 2.1. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty giầy Thăng Long Hoạt động của công ty là hoạt động độc lập, tự chủ, tự hạch toán trên cơ sở lấy thu bù chi, khai thác nguồn vật tư, nhân lực, tài nguyên đất nước, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Từ những đặc điểm ngành nghề mà công ty tiến hành hoạt động kinh doanh, công ty có những chức năng và nhiệm vụ sau : Chức năng : Căn cứ vào giấy phép đăng ký kinh doanh và quyết định thành lập doanh nghiệp của công ty, công ty có 2 chức năng chủ yếu sau : Chức năng sản xuất: Công ty sản xuất giầy dép và các sản phẩm khỏc từ da. Chức năng kinh doanh xuất khẩu trực tiếp : Theo giấy phép kinh doanh số 102.037/GP cấp ngày 26/8/1993 thỡ phạm vi kinh doanh xuất khẩu của cụng ty là : Xuất khẩu giầy dộp, tỳi cặp da do cụng ty sản xuất và nhập khẩu vật tư, nguyên vật liệu, mỏy múc thiết bị phục vụ cho sản xuất của cụng ty Nhiệm vụ: Thông qua đặc điểm ngành nghề kinh doanh của công ty, hỡnh thức sở hữu của cụng ty, cụng ty cú một số nhiệm vụ chủ yếu sau : Thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trên cơ sở chủ động và tuân thủ nghiêm chỉnh quy định của pháp luật Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường, đưa ra kiến nghị và đề xuất với Bộ Thương mại và Nhà nước giải quyết những vướng mắc trong kinh doanh Tuân thủ những pháp luật của nhà nước về quản lý tài chớnh, quản lý xuất nhập khẩu và giao dịch đối ngoại, nghiêm chỉnh thực hiện những cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại thương và các hợp đồng liên quan tới sản xuất kinh doanh của công ty Quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, đồng thời tự tạo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, đầu tư mở rộng, đổi mới trang thiết bị, tự bù đắp chi phí, tự cân đối gữa nhập khẩu- xuất khẩu , đảm bảo sản xuất kinh doanh có lói và làm trũn nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước 29 Nghiờn cứu thực hiện cú hiệu quả cỏc biện phỏp nõng cao sức cạnh tranh và mở rộng thị trường tiêu thụ Quản lý, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên để theo kịp sự đổi mới của đất nước 2.2. Sản phẩm sản xuất Sản phẩm chính của Công ty giày Thăng Long là giày vải xuất khẩu ( giày basket, giày cao cổ, giày thể thao…) theo đơn đặt hàng với công ty nước ngoài FOOTTECH, NOVI, YEONBONG…ngoài ra Công ty còn sản xuất giày thể thao tiêu thụ trong nước. Do vậy phải yêu cầu về tiêu chuẩn đối với các loại giày là khá cao về chất lượng, về mẫu mã và sản xuất phải đúng theo yêu cầu của khách hàng. Đặc điểm của loại sản phẩm là có thể để lâu, không bị hao hụt nên cũng dễ dàng quản lý. Đơn vị tính đối với các sản phẩm này là đôi. Do yêu cầu của quản lý và theo đơn đặt hàng nên khi sản xuất xong, sản phẩm thường được đóng thành kiện, số lượng giày trong một kiện phụ thuộc vào giày người lớn hay trẻ em. Về số lượng: Số lượng sản xuất nhiều hày ít căn cứ vào các đơn đặt hàng, các hợp đồng kinh tế đã ký kết và tình hình tiêu thụ trên thị trường, từ đó Công ty có kế hoạch sản xuất giày với số lượng phù hợp. Quá trính sản xuất rất ngắn và nhanh kết thúc để có thể kịp thời gian giao hàng như đã ký kết. Về chất lượng: Với những sản phẩm giày liên doanh, xuất khẩu với bên đối tác tự cung ứng nguyên vật liệu hoặc là nguyên vật liệu nhập ngoại thì tiến hành nhập nguyên vật liệu từ nước ngoài, còn lại Công ty sử dụng nguyên vật liệu trong nước có chất lượng cũng khá cao, sản phẩm của Công ty có chất lượng cao, mẫu mã hình dáng đẹp, phong phú và đa dạng nên đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước và ngoài nước, sản phẩm ngày càng được các bạn hàng tín nhiệm. 2.3. Thị trường tiêu thụ Do lĩnh vực kinh doanh của cụng chủ yếu là giầy xuất khẩu, do vậy khỏch hàng của cụng ty chủ yờỳ là khỏch ngoại quốc. Mặt hàng chủ yếu của công ty chủ yếu xuất sang thị trường khối EU như các nước Anh, Pháp, Ba 30 lan, Đức, Italia, … với những khỏch hàng truyền thống là FOOTTECH, FEREAST,KINBO, HEUNGIL, FT…và hỡnh thức tiờu thụ sản phẩm là xuất khẩu trực tiếp theo giỏ FOB Ngoài ra, sản phẩm của công ty cũng có mặt trên thị trường nội địa, song chưa nhiều so với hàng xuất khẩu. Hiện nay công ty cũng đang xúc tiến nghiên cứu mở rộng thị trường nội địa, công ty đó cú một số hoạt động xúc tiến thương mại ở thị trường trong nước, tham gia các cuộc triển lóm hàng cụng nghiệp tại Việt Nam, tỡm kiếm cỏc đơn vị hoặc cá nhân làm đại lý cho cụng ty…Như vậy, khách hàng của cụng ty rất phong phú 2.4. Nguồn cung ứng nguyờn vật liệu Do công ty nằm trên đường Nguyễn Tam Trinh, rất gần với một số doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu như Công ty dệt 8/3 và Công ty dệt vải công nghiệp –cung cấp vải cho công ty, Công ty Total Phong Phú- cung cấp chỉ may cho công ty…giúp cho Công ty có nhiều thuận lợi trong việc được cung ứng vật tư kịp thời, nhanh chóng, tiết kiệm thời gian vận chuyển Nguồn cung ứng nguyên vật liệu của công ty chủ yếu là ở trong nước (chiếm 80% giá trị đơn hàng) cũn lại là nhập từ nước ngoài. Do nền kinh tế có tính cạnh tranh nên công ty luôn lựa chọn những cơ sở có uy tín, chất lượng tốt, giá rẻ, đáp ứng được nhu cầu sản xuất của đơn vị- làm đơn vị cung ứng nguyên vật liệu cho công ty 2.5. Tỡnh hỡnh sử dụng vốn Mặc dù là Doanh nghiệp nhà nước nhưng vốn được hỡnh thành từ Ngõn sỏch nhà nước của Công ty chiếm tỷ lệ không cao. Tỷ trọng VCSH/Tổng NV thấp, trong khi đó vốn vay của công ty chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn, các nguồn vay chủ yếu huy động từ Ngân hàng và huy động từ các nguồn khác. Vốn đầu tư vào SXKD chiếm tỷ lệ cao nhất trong năm 2005 (chủ yếu sử dụng vào máy móc, cải tạo nhà xưởng, phục vụ sản xuất ). Bên cạnh đó, nguồn vốn bổ sung hàng năm cao, năm cao nhất đạt 4,23% ( năm 2005) Vốn lưu động của công ty chiếm tỷ trọng lớn và tăng trưởng đều qua các năm. 31 Dưới đây là một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp STT Chỉ tiêu 2005 1 Bố trí cơ cấu vốn - TSCĐ / TS (%) 45,51 - TSLĐ/TS (%) 54,49 2 Tỷ suất lợi nhuận - TSLN/DT (%) 0,04 - TSLN/Vốn (%) 0,25 3 Tình hình tài chính - Tỷ lệ nợ phải trả /TS (%) 88,31 - Khả năng thanhtoán (%) +Quát: TSLĐ/Nợ ngắn hạn 81,86 + Thanh toán nhanh: tiền hiện có/ nợ ngắn hạn 1,39 3. Bộ máy tổ chức ở công ty Giầy Thăng Long 3.1. Phương thức quản lý Công ty giầy Thăng Long được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến chức năng. Đây là một cơ cấu quản lý mà toàn bộ cụng việc quản lý được giải quyết theo một kênh liên hệ đường thẳng giữa cấp trên và cấp dưới trực thuộc. Chỉ có lónh đạo quản lý ở từng cấp mới cú nhiệm vụ và quyền hạn ra mệnh lệnh chỉ thị cho cấp dưới ( tức là mỗi phũng ban xớ nghiệp của cụng ty chỉ nhận quyết định từ một thủ trưởng cấp trên theo nguyên tắc trực tuyến ) Giám đốc của công ty là người ra quyết định cuối cùng, nhưng để hỗ trợ cho quá trỡnh ra quyết định của Giám đốc thỡ cần phải cú cỏc bộ phận chức năng. Các bộ phận chức năng này không ra lệnh một cách trực tiếp cho các đơn vị cấp dưới mà chỉ nghiên cứu, chuẩn bị các quyết định cho lónh đạo, quản lý và thực hiện việc hướng dẫn lập kế hoạch, tổ chức thực thi, kiểm tra giám sát việc thực hiện các mục tiêu trong phạm vi chức năng chuyên môn của mỡnh. 3.2. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý Công ty giầy Thăng Long là đơn vị hạch toán độc lập, có quyền tự tổ chức, quản lý để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mỡnh. Người 32 quản lý cao nhất là giỏm đốc, sử dụng tất cả các phương pháp Kinh tế- Tài chính để điều hành quản lý cụng ty và chịu trỏch nhiệm trước nhà nước về mọi hoạt động của công ty. Bộ máy quản lý của cụng ty được thể hiện ở sơ đồ sau: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý -Giám đốc công ty : Là người điều hành, quản lý chung, giữ vị trớ quan trọng nhất và chịu trỏch nhiệm về mọi hoạt động của công ty -Ba phó giám đốc công ty : Chỉ đạo trực tiếp việc sản xuất sản phẩm theo đơn đặt hàng tại Xớ nghiệp giầy Hà Nội, Xớ nghiệp giầy Thỏi Bỡnh và Nhà mỏy giầy Chớ Linh -Phũng tổ chức hành chớnh : Gồm 15 người, có một trưởng phũng chỉ đạo chung và có 2 phó phũng phụ trỏch hai bộ phận +Bộ phận tổ chức : Tuyển sinh đào tạo, kỷ luật lao động, giải quyết các chế độ chính sách, và tiền lương, BHXH…. Giám đốc Phũng Tài chớnh-Kế toỏn Phũng Tổ chức hành chớnh P. Kế hoạch vật tư P. Bảo vệ-Quõn sự P. Kỹ thuật cụng nghệ P. Thị trường và giao dịch PX cơ điện Phó giám đốc (trực tiếp ) Phó giám đốc (trực tiếp ) Phó giám đốc (thường trực) XN giầy Thỏi Bỡnh XN giầy Chớ Linh XN giầy Hà Nội 33 +Bộ phận hành chính : Chăm lo sức khoẻ của cán bộ công nhân viên, môi trường,vệ sinh, phục vụ lễ tân, tiếp khách và lo những phương tiện cho cán bộ làm việc -Phũng thị trường và giao dịch với nước ngoài : Gồm 8 người, 1 trưởng phũng và 1 phú phũng đảm nhiệm việc giao dịch với khách hàng về đơn đặt hàng, làm thủ tục liên quan đến nhập khẩu nguyên vật liệu và xuất khẩu giầy -Phũng Kế hoạch-Vật tư : gồm 23 người, có 1 trưởng phũng và 1 phú phũng. Nhiệm vụ của phũng là tổ chức mua nguyờn vật liệu, bảo quản, giao nhận nguyờn vật liệu, điều hành sản xuất giữa các xí nghiệp, nhà máy -Phũng kỹ thuật : Gồm 10 người, có 1 trưởng phũng và 3 phú phũng. Phũng kỹ thuật đảm nhận việc xác nhận nguyên vật liệu đủ tiêu chuẩn để nhập kho và đi vào sản xuất theo đúng từng đơn hµng, làm định mức kinh tế - kỹ thuật, hướng dẫn kiểm tra, theo dừi quy trỡnh cụng nghệ và đối ngoại về công tác kỹ thuật, theo dừi cỏc chỉ tiờu cơ bản của đơn hµng -Phũng phát triển mẫu : Gồm 34 người, có 1 trưởng phũng, 2 tổ trưởng phụ trách việc may mũ giầy và tổ hoàn thiện giầy. Phũng phỏt triển mẫu cú nhiệm vụ nghiờn cứu mẫu mó, làm đối mẫu, nghiên cứu pha chế cao su, sản xuất thử trước khi đi vào sản xuất hµng loạt -Phũng Tài chớnh - Kế toỏn : Gồm 8 người, có 1 trưởng phũng và 2 phú phũng giỳp việc cho giỏm đốc quản lý tài chớnh, tổ chức hạch toỏn kế toỏn, thống kờ theo dừi chế độ và pháp luật hiện hành -Phũng Bảo vệ - Quõn sự : Gồm 16 người, có 1 trưởng phũng và 1 phú phũng, phũng này cú nhiệm vụ bảo vệ tài sản của cụng ty, giữ gỡn trật tự, hàng năm tuyển quân sự theo chỉ tiêu của Quận -Phân xưởng cơ điện : Gồm 19 người, là phân xưởng phục vụ về sửa chữa máy móc, thiết bị điện phục vụ cho toàn công ty -Xớ nghiệp giầy Hà Nội : Gồm đầy đủ các phũng ban ở trờn cụng ty như Phũng hành chớnh, Phũng tài chớnh kế toỏn, Phũng kế hoạch vật tư, Phũng giỏm sỏt chất lượng… nhưng với quy mô nhỏ hơn. Xí nghiệp được chia thành 34 5 phân xưởng: Phân xưởng chuẩn bị sản xuất, phân xưởng cán ép, phân xưởng may, phân xưởng gũ giầy, phõn xưởng hoàn thiện +Phân xưởng chuẩn bị sản xuất : Đảm nhận khâu đầu tiên của công đoạn sản xuất giầy đó là bồi vải, pha cắt thành những bán thành phẩm đồng bộ, in tem, in mặt tẩy và chuẩn bị mọi thứ nguyên vật liệu để phục vụ cho các phân xưởng may, phân xưởng gũ giầy +Phân xưởng cán ép : Phụ trách toàn bộ phần cao su của một đôi giầy gồm cán luyện cao su thành đế giầy, ép tem, pho hậu, xoải +Phân xưởng may : Nhận bán thành phẩm của phân xưởng chuẩn bị sản xuất để may mũ giầy +Phân xưởng giầy : Nhận mũ giầy của phân xưởng may, cao su và đế của phân xưởng cao su để gũ thành giầy +Phân xưởng hoàn thiện : Nhận giầy đó gũ qua lưu hóa, làm vệ sinh công nghiệp, xâu dây giầy, bao gói giầy hoàn chỉnh chờ làm thủ tục xuất hàng -Xớ nghiệp giầy Thỏi Bỡnh : Gồm đầy đủ các phũng ban như ở công ty nhưng quy mô nhỏ hơn và không có phũng thị trường và giao dịch với nước ngoài. Về tài chính, xí nghiệp hạch toán phụ thuộc. Về sản xuất, khi có lệnh sản xuất phát ra từ công ty, phũng kế hoạch vật tư điều chuyển vật tư về Thái Bỡnh (theo định mức vật tư của đơn hàng). Từ đó, xí nghiệp tiến hành triển khai sản xuất hàng theo quy trỡnh cụng nghệ mà phũng kỹ thuật đó ban hành -Nhà máy giầy Chí Linh : Quy mô giống như nhà máy giầy Thái Bỡnh, cỏc phũng ban , đơn vị trong công ty có quan hệ bỡnh đẳng và cùng hỗ trợ nhau làm việc với mục đích đem lại lợi ích chung cho công ty 35 4. Đặc điểm sản xuất của công ty Giầy Thăng Long Sơ đồ quy trỡnh cụng nghệ sản xuất giầy Để sản xuất một đôi giầy hoàn chỉnh cần qua các công đoạn sau ; Phân xưởng chuẩn bị sản xuất lĩnh nguyên vật liệu ở kho theo định mức vật tư của từng lệnh sản xuất mà phũng Kế toỏn - Vật tư đó ban hành. Kết hợp với quy trỡnh kỹ thuật mà phũng Kỹ thuật Cụng nghệ và KCS đó lập, phân xưởng bắt đầu tiến hành sản xuất : Vải được bồi với mộc mành hoặc với xốp hoặc phin (tuỳ theo yêu cầu của khách hàng) để làm mặt tẩy. Sau đó vải bồi được chặt thành mũ giầy, chặt độn, chặt mặt tẩy, nẹp ô-de…Phân xưởng chuẩn bị bán thành phẩm để chuyển sang phân xưởng may mũ giầy Phân xưởng may mũ giầy : Tiếp nhận các chi tiết là sản phẩm của phân xưởng chuẩn bị sản xuất chuyển sang và tiến hành may mũ giầy hoàn chỉnh. Công đoạn may này đũi hỏi cụng nhõn phải cú tay nghề cao, cẩn thận vỡ cú nhiều chi tiết rất khó như: đấu hậu, nẹp Ô-de, đường viền…Mũ giầy phải Cao su, hoỏ chất PX cỏn luyện và PX ộp Cỏc loại vải PXmay Mũ giầy PX giầy Đế giầy PX chuẩn bị sản xuất Bỏn thành phẩm pha cắt Thựng Carton,dõy giầy, giấy gúi, giấy nhột, tỳi nilon… Giầy hoàn chỉnh Kho thành phẩm 36 được vệ sinh sạch sẽ, kiểm hoá từng đôi, đạt yêu cầu mới chuyển sang phân xưởng giầy để gũ thành giầy hoàn chỉnh Phân xưởng cán – ép : Có nhiệm vụ chế biến cao su từ nguyên liệu là cao su hoặc các loại hoá chất khác. Trước tiên, cán luyện thô cao su, đưa chất xúc tác để cán tinh cao su, sau đó đưa hỗn hợp này vào máy cán, cán mỏng theo quy trỡnh kỹ thuật, chặt thành đế cán, bím giầy pho hậu, nẹp Ô-de. Nếu giầy có sử dụng đế đúc thỡ hỗn hợp này được chuyển sang phân xưởng ép để ép thành đế giầy Phân xưởng giầy nhận mũ giầy từ phân xưởng máy và đế cao su từ phân xưởng cán ép, phân xưởng tiến hành gũ giầy bằng cỏc phom giầy, sản phẩm giầy được lưu hoá, tẩy bẩn, làm vệ sinh sạch sẽ và chuyển cho phân xưởng hoàn thiện Phân xưởng hoàn thiện nhận sản phẩm từ phân xưởng giầy sau đó hoàn thành nốt các công đoạn sau cùng là sỏ dây giầy, nhét giấy vào mũi giầy, làm vệ sinh, kiểm tra sản phẩm đủ phẩm chất, sắp sếp thành đôi, cho vào túi nilon hoặc vào hộp giầy tuỳ theo yờu cầu của khỏch hàng và chờ xuất hàng. II. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY GIẦY THĂNG LONG 1. Thực trạng sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây 1.1. Tình hình sản xuất Hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty Giầy Thăng Long thời kỳ 2003 - 2005 được thể hiện qua bảng 1 dưới đây: 37 Bảng 3: Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty thời kỳ 2003 - 2005 Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 Tốc độ phát triển % 04/03 05/04 1. Tổng SPSX đôi 3708052 4346350 4609243 117,21 106,05 - Giầy xuất khẩu đôi 1297818 1782003 2627269 137,3 147,43 - Giầy nội địa đôi 2490234 2564347 1981974 137,3 77,3 2. Danh thu Tr.đ 103582 107694 127883 103,96 118,75 Doanh thu nội địa Tr.đ 67328,3 63539,46 54989,69 94,4 86,54 Doanh thu xuất khẩu Tr.đ 36253,7 44154,54 72983,31 121,79 165,08 3. Nộp ngân sách Tr.đ 1597,00 2380,20 2633,52 149,07 110,64 4. Lợi nhuận Tr.đ 902 1309,6 1438 145,19 109,8 Nguồn: Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh 2003 - 2005 Qua bảng trên ta thấy được tổng sản phẩm sản xuất của Công ty có xu hướng tăng. Tổng sản phẩm sản xuất năm 2004 đạt 106,05% so với 2003, đáng chú ý thị trường xuất khẩu có xu hướng tăng mạnh. Có thể khẳng định rằng do sản lượng xuất khẩu tăng, dẫn tới doanh thu từ xuất khẩu cũng tăng làm cho kết quả doanh thu của toàn công ty cũng tăng. Doanh thu tăng đều qua các năm, trong năm 2004 đạt 107694 triệu đồng bằng 103,96% so với năm 2003, năm 2005 đạt 127883 triệu đồng bằng 118,75% so với năm 2004. Do giá trị xuất khẩu tăng làm cho doanh thu dẫn đến nộp ngân sách cho Nhà nước có xu hướng tăng, cụ thể năm 2003 nộp ngân sách đạt 1597 triệu đồng, năm 2004 nộp 2380,2 triệu đồng, năm 2005 nộp 2633,52 triệu đồng. Do nhờ tiết kiệm được chi phí đầu vào, giảm phí lưu thông… nên lợi nhuận của công ty vẫn đảm bảo tăng đều qua các năm. Năm 2004 đạt 1.309,6 triệu đồng tăng 45,19% so với năm 2003, năm 2005 đạt 1.438 triệu đồng tăng 9,8% so với năm 2004. Vì giá trị xuất khẩu công nghiệp tăng và xuất khẩu tăng lợi nhuận của công ty vẫn ổn định. Đây là một trong những thành công do Công ty hướng vào thị trường nội địa, các thị trường truyền thống, đồng thời nâng cao 38 chất lượng, mẫu mã hình thức sản phẩm để nâng cao thế chủ động trong việc cạnh tranh trên thị trường kể cả trong và ngoài nước. 1.2. Tình hình xuất khẩu của Công ty Kết quả hoạt động xuất khẩu của công ty được phản ánh qua bảng 2,3 dưới đây. Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu của Công Ty Giầy Thăng Long (Giai đoạn 2003 - 2005) Đơn vị tính: USD Năm Kim ngạch xuất khẩu Tỷ tọng (%) 2003 2004 2005 1.434.624 2.372.056 4.297.941 18 29 53 Cộng 8.225.293 100% Nguồn: Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu các năm của Công ty Giầy Thăng Long. Bảng 5: Kết quả xuất khẩu của công ty giai đoạn 2003 - 2005 Đơn vị tính: USD Chỉ tiêu năm Tổng doanh thu Doanh thu từ xuất khẩu Tỷ lệ (%) Giá trị sản xuất TB XK/DT DT XK 2003 18.196 15.953 87 131 156 2,4 2004 31.295 18.805 85,6 171 180 3,2 2005 56.127 53.253 96 224 233 5,9 Nguồn: Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu Công ty Giầy Thăng Long Qua hai bảng số liệu trên, ta có thể thấy được một số đặc điểm quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty trong những năm gần đây. Kim ngạch đang có xu hướng tăng dần, đây là một kết quả đáng phấn khởi bởi thị trường và các bán hàng quen thuộc từ các nước XHCN và đặc biệt là Liên Xô đã không còn nữa khi hệ thống các nước này tan vỡ. Sự vực dậy và vươn lên khó khăn trong những năm đầy gian truân và thử thách đã dần qua đi. Trên cơ sở những mối quan hệ với các bạn hàng của những năm trước đó, Công ty đã chủ động ký kết được nhiều hợp đồng có giá trị, số 39 lượng hợp đồng lớn. Trong năm 2003, hoạt động mở rộng thị trường cũng được xúc tiến mạnh mẽ và Công ty đã biết chú trọng và tập trung khai thác vào các thị trường Tây Âu- nơi có nhu cầu giầy lớn nhất hiện nay. Chính vì vậy kim ngạch xuất khẩu của Công ty ngày càng tăng, góp phần không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành phát triển. Tỷ lệ doanh thu từ xuất khẩu cũng có xu hướng tăng nhanh. Điều đó có thể phản ánh phần nào chiến lược kinh doanh hướng về xuất khẩu của Công ty ngày càng khả quan, Công ty đã chọn thị trường quốc tế và thị trường mục tiêu mà Công ty cần phải chiếm lĩnh được. Việc hướng hoạt động kinh doanh sản phẩm giầy vào xuất khẩu giúp Công ty khai thác triệt để được các lợi thế so sánh như: giá nhân công rẻ, chính sách khuyến khích và trợ giá cho hoạt động xuất khẩu của Chính phủ… Khai thác được thị trường rộng lớn mà ta đang có rất nhiều lợi thế. Tỷ trọng doanh thu từ xuất khẩu trong tổng doanh thu luôn luôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng theo từng năm. Năm 2003 là 15.953 USD, năm 2004 là 28.805 và năm 2005 là 53.253 USD, điều đó chứng tỏ hoạt động xuất khẩu của Công ty là rất quan trọng. Do đó chỉ cần một biến động nhỏ của thị trường thế giới là ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của Công ty, một sự thay đổi thị hiếu ở một quốc gia nào đó mà Công ty xuất khẩu sang làm giảm khối lượng sản phẩm và làm ảnh hưởng lớn đến doanh thu. Vì vậy Công ty rất quan tâm đến hoạt động xuất khẩu cũng như sự thay đổi thị hiếu trên thị trường thế giới. Trong những năm gần, đơn giá trung bình của hàng xuất khẩu là rất thấp, nhưng qua từng năm đơn giá đã dần tăng lên. Việc tăng lên này không phải thể hiện sự trượt giá của mặt hàng tiêu dùng hay bị ảnh hưởng của lạm phát mà nó thể hiện. Một là, sự vững vàng của Công ty trên thị trường quốc tế trong hoạt động đàm phán, giao dịch Công ty đã không bị ép giá, thể hiện nghệ thuật giao tiếp và đàm phán ngày càng được tăng lên. Hai là, chiến lược kinh doanh của Công ty hướng vào các sản phẩm ngày càng có chất lượng cao, từng bước tiếp cận thị trường khó tính như EU, Mỹ… nơi mà chất lượng sản phẩm và mẫu mã là điều tối quan trọng. 40 Ba là, tay nghề công nhân ngày càng được nâng cao, có thể đảm bảo sản xuất được sản phẩm có chất lượng tốt, hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Bốn là, Công ty đã mạnh dạn đầu tư máy móc, trang thiêt bị thông qua hai dây chuyền sản xuất khép kín (từ khâu mũi giầy cho đến khâu cắt dán) và có tính tự động hóa cao… Có thể nói hoạt động xuất khẩu có một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của công ty Giầy Thăng Long, nó là tiền đề cho mọi hoạt động khác của công ty. Nếu xét theo khía cạnh thị trường, Công ty đã gặp phải rất nhiều khó khăn khi mới thành lập và đặc biệt là những năm khủng hoảng tài chính của các nước trong khu vực và trên thế giới cụ thể là. Trong những năm đầu của thập kỷ 90, với sự tan vỡ của hệ thống các nước XHCH và Đông Âu, những thị trường truyền thống dần dần bị mất đi, sự khó khăn của công ty những ngày mới thành lập đôi lúc tưởng như không thể vượt qua. Hơn thế nữa, đến những năm 1997 - 1998 cuộc khủng hoảng tài chính của các nước trong khu vực và trên thế giới đã ảnh hưởng lớn đến việc xuất khẩu của công ty sang thị trường các nước bị khủng hoảng… Trước tình hình đó công ty quyết định chuyển hướng sang thị trường Đông Âu (EU), bám sát thị trường truyền thống nơi mà công ty đang có lợi thế so với các công ty của Hàn Quốc, Đài Loan… đã thực sự giúp công ty từng bước thoát khỏi khó khăn và vững bước phát triển, được thể hiện qua bảng 4 dưới đây. Bảng 6: Cơ cấu doanh thu theo thị trường của công ty Giầy Thăng Long Đơn vị tính: USD Nước 2003 2004 2005 Tỷ trọng % 2002 2003 2004 Đức 597.275 1.530.068 1.152.191 41,6 64,5 26,8 Italia 229.543 495.608 1.353.671 16 20,8 31,5 Anh 198.591 88.812 556.274 13,9 4 12,9 Pháp 95.297 20.856 9.309 6,6 0,8 7,9 Thụy Sĩ 92.163 40.185 6,4 1,7 Áo 67.249 56.235 4,7 2,4 Tây Ban Nha 101.276 132.093 7,1 5,5 Mexico 53.230 8.208 3,7 0,3 41 Nga 112.840 2,6 Hà Lan 784.656 8,3 Tổng 1.434.624 2.372.065 4.279.941 100 100 100 Nguồn: Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu trực tiếp của Công ty Hiện nay, 4 thị trường chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của công ty là: Đức, Italia, Pháp, Anh. Trong đó Đức, Italia là bạn hàng lâu dài của Công ty. Trị giá xuất khẩu sang các này bao giờ cũng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Do sản phẩm giầy dép của Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng trong những năm tới và lượng giầy dép xuất khẩu sang thị trường Eu cũng một ngày tăng vào khoảng 25% tổng số lượng xuất khẩu, khi đó chúng ta không được hưởng ưu đãi về thuế quan mà sẽ bị áp dụng hạn ngạch. Từ thực tế đó Công ty đã chủ động tìm kiếm để mở rộng khu vực thị trường khác như: Bắc Mỹ, Nhật Bản, Nga… 2. Phân tích hiệu quả kinh doanh 2.1. Hiệu quả kinh tế tổng hợp * Chỉ tiêu tổng hợp Bảng 7: Hiệu quả kinh doanh của công ty Giầy Thăng Long Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 So sánh  Tốc độ phát triển (%) 04/03 05/04 04/03 05/04 1. Doanh thu 103582 107694 127883 4112 20187 103,96 119 2. Chi phí 102680 106384,4 126445 3704,4 20060,6 104 119 2.1. Chi phí SX 96225 116272 93880 20047 -22392 121 81 2.2. Chi phí lưu thông 5415 8271,4 8405 2856,4 133,6 153 102 2.3. Thuế tiêu thụ 1040 2030 3971 990 1941 195 196 3. Lợi nhuận (1-2) 902 1309,6 1438 407,6 128,4 145 110 Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động SXKD của Công ty thời kỳ 2003 - 2005 - Doanh thu Qua các số liệu của bảng ta thấy doanh thu các năm sau đều cao hơn năm trước. Năm 2004 doanh thu tăng thêm 3,96% so với năm 2003, tương 42 đương với 4112 triệu đồng. Doanh thu năm 2005, tăng 23,46% tương ứng với 20187 triệu đồng. - Chi phí Chi phí sản xuất có xu hướng giảm, năm 2004 tăng 21% so với năm 2003 tương đương 20.047 tr.đ, đây là năm có chi phí sản xuất nhiều nhất trong kỳ, đến năm 2005 lại giảm 19% so với năm 2004 tương đương 22.392 tr.đ Do chi phí lưu thông tăng lên so với các năm trước, cụ thể chi phí lưu thông năm 2004 tăng lên 53% so với năm 2003 tương đương 2856,4 tr.đ (cao nhất trong 3 năm). Trong khi đó chi phí lưu thông năm 2005 chỉ tăng 2% so với năm 2004 tương đương 133,6 tr.đ, nhưng doanh thu năm 2005 vẫn giảm so với năm trước. Thuế tiêu thụ sản phẩm tăng đều qua các năm, qua số liệu ta thấy năm 2004 tăng lên 95% tương đương 900 tr.đ so với năm 2003 và năm 2005 tăng lên 96% tương đương 1941 tr.đ. Vậy nguyên nhân chính là do thuế tăng cao qua các năm. - Lợi nhuận: lợi nhuận các năm sau đều cao hơn năm trước mặc dù doanh thu năm 2004 có giảm so với năm 2003. Có được điều này là do công ty đã giảm được nhiều chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh. Năm 2004 lợi nhuận tăng thêm đến 45% so với năm 2003, tương ứng với 407,6 triệu đồng. Năm 2005 tuy doanh thu giảm nhưng lợi nhuận vẫn tăng 10% so với năm 2004. * Chỉ tiêu tỷ suất Các chỉ tiêu tỷ suất như: doanh thu/vốn; doanh thu/chi phí; lợi nhuận/vốn là lợi nhuận/chi phí được xác định theo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Bảng 8: Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh của công ty STT Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 So sánh  04/03 03/04 1 Doanh thu Tr.đ 103582 107694 127883 4112 20189 2 Chi phí SX Tr.đ 96225 116272 93880 20047 -22392 3 Vốn kinh doanh Tr.đ 65000 74000 88000 9000 13000 43 4 Lợi nhuận Tr.đ 902 1309,6 1438 407,6 128,4 5 Doanh thu/vốn ( 1 : 3) 1,5937 1,4553 1,4532 -0,14 -0,0021 6 Doanh thu/chi phí (1 : 2) 1,0765 0,9262 1,3622 -0,1503 0,436 7 Lợi nhuận/doanh thu (4:1) 0,0087 0,01216 0,01124 0,00346 -0,00092 8 Lợi nhuận/chi phí (4:2) 0,00937 0,01126 0,01532 0,00189 0,00406 9 Lợi nhuận/vốn (4: 3) 0,01388 0,01770 0,01634 0,00382 -0,00136 Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động SXKD của Công ty thời kỳ 2003 - 2005. 44 2.2. Hiệu quả kinh tế sử dụng từng yếu tố Hiệu quả sử dụng từng yếu tố có nhiều, ở đây chỉ đánh giá hiệu quả của các yếu tố sau: - Hiệu quả sử dụng vốn cố định - Hiệu quả sử dụng vón lưu động Bảng 9: Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VCĐ & VLĐ STT Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 So sánh  04/03 03/04 1 Doanh thu Tr.đ 103582 107694 127883 4112 20189 2 Vốn cố định Tri.đ 17.000 21.000 27.000 4000 6000 3 Vốn lưu động Tr.đ 65000 74000 88000 9000 13000 4 Lợi nhuận Tri.đ 902 1438 407,6 128,4 5 Sức sinh lời VCĐ (4 : 2) 0,05306 0,06236 0,05326 0,0093 -0,0091 6 Sức sản xuất vốn CĐ (1: 2) 6,093 5,128 4,736 -0,965 -0,392 7 Sức sinh lời vốn LĐ (4 : 3) 0,014 0,018 0,0165 0,004 -0,0015 8 Số vòng quay (1 : 3) 1,6 1,46 1,453 -0,14 -0,007 Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động SXKD của Công ty thời kỳ 2003 - 2005 3. Đánh giá ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty 3.1. Ưu điểm Các kế hoạch sản xuất kinh doanh xuất khẩu tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí cho Công ty. Điều này đặc biệt quan trọng khi năng lực tài chính công ty không được dồi dào. Kế hoạch sản xuất kinh doanh xuất khẩu đề ra các mục tiêu cụ thể, các phương pháp hành động và thời gian thực hiện (thường theo quý hoặc theo năm). Những số liệu cụ thể trong các kế hoạch sẽ là những mục tiêu nhận thấy mà toàn bộ công nhân viên trong công ty sẽ vươn tới. 45 Kế hoạch sản xuất kinh doanh xuất khẩu của công ty đã giúp cho công ty chủ động trong các khâu từ khâu mua nguyên vật liệu đầu vào, quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Kế hoạch sản xuất kinh doanh đề ra nhiệm vụ mà theo đó ban lãnh đạo lập ra các phương án và trình tự vận động cần thiết để thực hiện các mục tiêu. Do đó công ty có thể phần lớn cơ bản các phương tiện vật chất nhằm thực hiện có hiệu quả kế hoạch đã đề ra. Kế hoạch sản xuất kinh doanh xuất khẩu giúp cho công ty cân nhắc và đánh giá các tiềm năng hiện có và đầu tư có trọng điểm,huy động mọi nguồn lực cho các vấn đề quan trọng, kịp thời hành động trước khi vấn đề trở nên cấp bách, tìm ra các giải pháp cho các vấn đề đó, đồng thời phối hợp với các cơ hội của thị trường để tăng khả năng thích ứng và tăng khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường 3.2. Tồn tại Phương thức kinh doanh dựa vào các kế hoạch như hiện nay không cho phép công ty thấy rõ được định hướng trong cả một giai đoạn (dài hơn một năm). Do chỉ thực hiện quản lý theo kế hoạch cho nên công ty khó thích ứng được với ảnh hưởng môi trường luôn biến động phức tạp. Cho nên, Công ty đã giảm khả năng nắm bắt cơ hội, tăng các nguy cơ liên quan đến môi trường kinh doanh, đe dọa trực tiếp đến hoạt động kinh doanh đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Nếu như công ty cứ duy trì cách thức như vậy, công ty sẽ dần mất đi thế chủ động trước các đối thủ cạnh tranh ngày càng lớn. 3.3. Nguyên nhân của những tồn tại Từ khi thành lập tới nay, việc sản xuất kinh doanh của Công ty thực hiện chủ yếu do có chỉ tiêu của công ty da giầy đưa xuống. Các mục tiêu dài hạn của công ty cũng đồng thời là định hướng dài hạn mà công ty Giầy Thăng Long cần phải vươn tới. Do đó việc xây dựng một chiến lược kinh doanh đặc 46 biệt là chiến lược kinh doanh xuất khẩu dựa trên sự đánh giá môi trường kinh doanh là chưa có cơ sở thực hiện và mang lại tính khả thi. Công ty Giầy Thăng Long là một doanh nghiệp Nhà nước thực hiện chức năng kinh doanh chủ yếu là sản xuất các giấy dép xuất khẩu, tuy kimn gạch xuất khẩu hàng năm tăng tương đối nhanh song đó chỉ là kết quả đạt được từ kiểu làm ăn thiếu sự chủ động (chủ yếu các đơn đặt hàng tự tìm đến với công ty). Hàng năm ban lãnh đạo có lên kế hoạch kinh doanh xuất khẩu nhưng các kế hoạch này thiếu luận chứng về sự phân tích các điều kiện môi trường (chưa chú trọng đến công tác nghiên cứu thị trường), do đó không đề ra được các chiến lược sản xuất kinh doanh xuất khẩu sát thực. Tóm lại, Nguyên nhân chính của những tồn tại trong các kế hoạch sản xuất và kinh doanh xuất khẩu của Công ty Giầy Thăng Long tập trung vào thiếu vắng sự phân tích đánh giá các điều kiện môi trường kinh doanh, xác định mục tiêu chiến lược dài hạn và các giải pháp để thực hiện mục tiêu đó. Do đó các khả năng nắm bắt cơ hội, các mối đe dọa và khả năng cạnh tranh của Công ty Giầy ngày càng gia tăng. Để khắc phục được những tồn tại trên, giải pháp tốt nhất cho Công ty là phải xây dựng một chiến lược kinh doanh thích ứng với sự biến động và cạnh tranh gay gắt của môi trường kinh doanh trong các nước như trên thế giới. Do vậy ngay từ bây giờ công ty cần có những chiến lược, sách lược để đề ra định hướng phát triển khả năng sản xuất kinh doanh và mở rộng thị trường cho Công ty Giầy Thăng Long. 47 CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY GIẦY THĂNG LONG I. MỤC TIÊU VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY TRONG GIAI ĐOẠN 2007 - 2010 1. Quan điểm về định hướng phát triển của Công ty Căn cứ vào mục tiêu chiến lược của toàn ngành và của Tổng Công ty Giầy Việt Nam, căn cứ vào thực trạng tình hình phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây cũng như căn cứ vào những kết quả bước đầu nghiên cứu thị trường, Công ty Giầy Thăng Long đã xác định các định hướng kế hoạch cho những năm tới: + Khẳng định quan điểm hướng ra xuất khẩu với phương hướng chuyển mạnh từ gia công sang mua nguyên liệu, bán thành phẩm, bảo đảm nâng cao thành quả, tăng nhanh tích lũy, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu. + Coi trọng thị trường nội địa, khai thác tối đa năng lực, nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của tiêu dùng trong nước về các mặt hàng thông dụng, trang phục, nhu cầu bảo hộ lao động và đáp ứng các nhu cầu sản xuất công nghiệp khác. + Chú trọng khâu thiết kế và triển khai mẫu mã các mặt hàng sản xuất, ứng dụng các công nghệ tiên tiến, đổi mới thiết bị và đồng bộ hoá tạo thế chủ động trong sản xuất bán hàng, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển của Công ty như mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong những năm tiếp theo. + Cố gắng tìm nguyên vật liệu thay thế nhập ngoại, tự tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên vật liệu trong nước (kể cả các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu) với giá rẻ, ổn định, đáp ứng yêu cầu chất lượng. + Bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề của Công ty bảo đảm tiếp thu nhanh chóng sự chuyển dịch 48 sản xuất, sự chuyển giao kỹ thuật, công nghệ… từ các nước phát triển, phấn đấu làm chủ trong sản xuất, không bị lệ thuộc vào đối tác nước ngoài. + Cần chú trọng đầu tư chiều sâu để cân đối lại các dây chuyền sản xuất cho đồng bộ, bổ sung thiết bị lẻ thay thế các máy móc cũ đã quá lạc hậu, cải tạo, nâng cấp một số trang thiết bị, đổi mới công nghệ nhằm: Tăng sản lượng, tăng năng suất thiết bị và năng suất lao động,giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng mặt hàng, khắc phục sự ô nhiễm môi trường. + Tìm kiếm và phát triển nguồn lực tài chính, ưu tiên các dự án đầu tư mở rộng và đầu tư mới nhằm gia tăng năng suất, đảm bảo đạt trình độ công nghệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đáp ứng các mục tiêu trong chiến lược phát triển của Công ty đến năm 2010 và những năm tiếp theo đó. 2. Định hướng phát triển trong giai đoạn 2007 - 2010 2.1. Định hướng chung + Công ty chủ động phấn đấu tăng trưởng với nhịp độ nhanh và hiệu quả, duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 15%, mục tiêu đến năm 2007 công ty sẽ sản xuất khoảng 9 triệu đôi giầy và xuất khẩu đạt trên 25 triệu USD, đến năm 2010 mức sản xuất phải đạt khoảng 15 triệu đôi giầy xuất khẩu đạt 41 triệu USD. Các chỉ tiêu đó được thể hiện qua bảng sau: Bảng 10: Một số chỉ tiêu sản xuất kinh doanh đến năm 2010 của công ty Giầy Thăng Long STT Chỉ tiêu ĐVT Dự kiến 2007 Dự kiến 2010 1 Tổng doanh thu 1000đ 278.600.000 522.000.000 2 Doanh thù XK 1000đ 260.000.000 510.000.000 3 Doanh thu nội địa 1000đ 9.300.000 13.000.000 4 SXKD sản phẩm giầy các loại Đôi 8.900.000 15.000.000 49 5 Nộp ngân sách 1000đ 5.600.000 13.000.000 6 Số lao động Người 1.970 2.250 Nguồn: Định hướng phát triển của Công ty đến năm 2010 2.2. Định hướng phát triển thị trường xuất khẩu sản phẩm của công ty đến năm 2010 Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu tiêu dùng đòi hỏi ngày một nâng cao. Xu hướng tiêu dùng nhằm vào các chủng loại giầy dép phong phú về mẫu mã, chất lượng bảo đảm, giá cả phù hợp. Đối với từng khu vực kinh tế và thương mại khác nhau có thị hiệu tiêu dùng giầy dép khác nhau. Để định hướng thị trường tiêu thụ cần căn cứ vào xu hướng tiêu dùng trên các thị trường cụ thể. * Thị trường xuất khẩu - Thị trường EU: Đây là thị trường lớn, với 360 triệu dân, có sức tiêu dùng giầy dép cao (6-7 đôi/người/năm). Hàng năm EU có nhu cầu nhập khẩu giầy dép với khối lượng lớn. Trong số giầy dép tiêu dùng, nhu cầu cho bảo vệ chân chỉ là 35%, còn lại 65% là giầy dép mẫu mốt thời trang, đòi hỏi rất cao về chất lượng sản phẩm và hình thức mẫu mã. Do đời sống được nâng cao, xu hướng tiêu dùng ở đây về giầy da là có nhiều hơn (có độ bền cao, giữ dáng tốt trong quá trình sử dụng, mềm mại, độ ẩm thấp mồ hôi tốt…). - Thị trường Đông Âu: Là thị trường có số dân tương đối lớn, trên 300 triệu người, mức độ tiêu dùng bình quân 5-6 đôi/người/năm, có sức tiêu thụ lớn, yêu cầu chất lượng không quá cao, không cần hạn ngạch, xu hướng tiêu dùng các loại giầy dép phổ thông. Tuy nhiên, do đồng tiền ở đây không ổn định, việc buôn bán trao đổi mạo hiểm theo phương thức chính thống, có triển vọng hợp tác theo phương thức đổi hàng, sản xuất tại chỗ của các nước sở tại hạn chế, nhu cầu nhập khẩu lớn. - Thị trường Nhật Bản: Nhật Bản là một cường quốc có tiềm năng rất lớn về sản xuất giầy dép nhưng do thiếu lao động đơn giá nhân công tăng, chi phí sản xuất cao nên đã chuyển dịch sang các nước khác. Hiện nay, Nhật Bản 50 có nhu cầu nhập khẩu khá lớn khoảng 250 triệu đôi trong một năm. Tuy nhiên, thị trường này đòi hỏi rất cao về chất lượng sản phẩm, các loại mẫu mốt cũng phải đa dạng và phong phú, phải phù hợp với truyền thống của người dân Nhật. - Thị trường Mỹ và Bắc Mỹ: Với số dân 260 triệu người, bình quân tiêu thụ giầy dép 6-7 đôi/người/năm. Đây là thị trường hấp dẫn nhiều bạn hàng mậu dịch trên thế giới. Xu hướng tiêu dùng các chủng loại giầy dép mang tính quốc tế cao, kiểu dáng đẹp, mang nhãn mác của các hãng nổi tiếng. Hàng năm tiêu dùng 1,3 tỷ đôi/năm trên thị trường giầy ở đây có rất nhiều triển vọng. * Thị trường nội địa Là thị trường hiện nay còn đang rất yếu, chưa tập trung khai thác, trong thời gian qua lượng tiêu thụ sản phẩm giầy da tuy có xu hướng tăng nhưng không đáng kể, do vậy chỉ có số ít doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường nội địa như Giầy vải Thượng Đình, Vinagiay, Bistis…, do đó các doanh nghiệp phải cạnh tranh trên thị trường nội địa là rất khó khăn. Sau khi Việt Nam gia nhập thành viên AFTA, thị trường nội địa sẽ là "Sân chơi" của các nước trong khu vực (các nước trong khu vực cũng và đã đang hướng đầu tư vào lĩnh vực giầy ở Việt Nam). Với số dân gần 80 triệu người hiện nay vào khoảng 100 triệu người vào năm 2010 mỗi năm nhu cầu tiêu thụ trong thời kỳ này khoảng 200 triệu đôi, đây sẽ là thị trường có tiềm năng rất lớn. Do vậy, nó vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với Ngành da giầy Việt Nam nói chung và đối với công ty Giầy Thăng Long nói riêng, cho nên Công ty cần phải nhận thức rõ đựơc vấn đề này để có những chiến lược sản xuất kinh doanh cho phù hợp với sự đòi hỏi ngày càng lớn của thị trường. Từ phân tích trên định hướng thị trường tiêu thụ sản phẩm đến năm 2010 của công ty. + Hình thành mạng lưới tiêu thụ xuyên suốt trên phạm vi cả nước, tài chính các đại lý, các cửa hàng lẻ để dần thoả mãn thị hiếu và nhu cầu tiêu 51 dùng, tài chính nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường, chú trọng mẫu mốt thưòi trang để vươn lên chiếm lĩnh thị trường. + Tăng cường và phát triển mối quan hệ sẵn có với các khách hàng truyền thống thuộc các thị trường EU như Pháp, Đức… + Thu hút lượng khách hàng tiềm năng và mở rộng thị trường sang Mỹ, Nhật, Đông Âu (Nga). + Tìm và nối lại bạn hàng truyền thống bị mất trước kia, hướng sang thị trường Mỹ Latinh (Mexico). Bởi thị trường này ngược mùa với Châu Âu, cho nên Công ty cần tận dụng cơ hội để mở rộng phạm vi thị trường cho công ty mình để lượng sản phẩm xuất khẩu được ổn định trong năm, giảm bớt tính thời vụ của sản phẩm đồng thời còn giúp cho công ty luôn có nguồn thu từ xuất khẩu ổn định, để tăng doanh thu trong công ty, người lao động có việc làm thường xuyên, thu nhập ổn định + Cần có chiến lược trong nước, đồng thời tài chính mạng lưới tiêu thụ tại các thành phố lớn, khu công nghiệp trọng tâm, khu dân cư, vùng nông thôn… để đáp ứng yêu cầu của đông đảo người tiêu dùng, tạo thế cạnh tranh với các công ty Giầy trong nước cũng như các nước trong khu vực. + Từng bước chuyển đổi phương thức sản xuất, tăng hiệu quả và vươn tới tiêu thụ cho khách hàng trực tiếp đối với hàng xuất khẩu, tổ chức hệ thống giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm thông qua các bạn hàng nước ngoài. + Chú trọng đào tạo thiết kế mẫu thời trang, đào tạo đội ngũ tiếp thị trẻ, có năng lực để giới thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng, giúp công ty chuyển đổi phương thức kinh doanh nhanh chóng. + Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để hoà nhập vào khu vực thông qua đầu tư phát triển, tổ chức mở rộng sản xuất, ứng dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO - 9000, góp phần đưa các sản phẩm của công ty có vị trí trên thị trường quốc tế.Tăng cường các hoạt động hội chợ, hội thảo, tìm hiểu và giao lưu quốc tế. 52 Căn cứ vào xu hướng tiêu dùng trên các thị trường, công ty Giầy Thăng Long định hướng chiến lược tiêu thụ cho các khu vực thị trường đến năm 2010 như sau: 53 Bảng 11: Mục tiêu sản phẩm tiêu thụ trên một số thị trường đến năm 2010 của công ty giầy Thăng Long Thị trường Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 SLSP (đôi) Tỷ trọng (%) SLSP (đôi) Tỷ trọng (%) SLSP (đôi) Tỷ trọng (%) EU 3.400.000 89,5 5.560.000 63,5 8.300.000 52,2 Mỹ 15.000 0,4 1.310.000 14,7 2.950.000 18,6 Đông Âu 18.000 0,5 1.060.000 11,9 2.930.000 18,4 Nội địa 350.000 9,2 880.000 9,9 1.170.000 10,8 Tổng 3.783.000 100 8.900.000 100 15.890.000 100 Nguồn định hướng phát triển sản phẩm của Công ty đến năm 2010. Tuy nhiên hiện nay, số lượng của công ty vào các khu vực này còn ở mức khiêm tốn, do đó công ty cần phải chuẩn bị mọi điều kiện để tăng thị phần thị trường vào các thị trường này đặc biệt là khi Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN). Dự kiến đến năm 2008 trở đi thị trường Mỹ sẽ là thị trường trọng điểm của công ty. Như vậy, định hướng thị trường kinh doanh xuất khẩu của Công ty Giầy Thăng Long đến năm 2010 tập trung vào 3 khu vực thị trường mục tiêu chính đó là: thị trường truyền thống EU, thị trường Mỹ và Bắc Mỹ và các thị trường tiềm năng Đông Âu. Ngoài những thị trường trọng điểm của chiến lược mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty còn rất chú trọng một số thị trường như châu Á (Nhật Bản), Mỹ Latinh (Mexico)… Đặc biệt quan tâm hơn nữa đến việc mở rộng và phát triển thị trường nội địa là một thị trường thực sự có nhiều tiềm năng, dân số khá đông, thu nhập còn thấp cho nên yêu cầu về chất lượng cũng như hình thức mẫu mã thời trang là không cao, khả năng đáp ứng của công ty là để thoả mãn, tuy nhiên cần phải ý thức rõ ràng điều kiện kinh tế của người dân ngày càng được nâng cao do đó việc thường xuyên đổi mới công nghệ sản xuất cũng như mẫu mã sản phẩm là một việc làm thường xuyên để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng 54 của thị hiếu người tiêu dùng, đồng thời tăng sức cạnh tranh với các doanh nghiệp sản xuất giầy dép trong nước cũng như các nước trong khu vực. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY Để thực hiện được những phương hướng, mục tiêu đề ra trong những năm tới, đòi hỏi công ty phải hoàn thiện chính bản thân mình. Sau đây là một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. 1. Tăng cường công tác điều tra nghiên cứu thị trường Ngày nay không một doanh nghiệp nào bắt tay vào kinh doanh mà lại không muốn gắn kinh doanh của mình với thị trường. Hiểu về thị trường của mình sẽ là cơ sở vững chắc cho thành công của doanh nghiệp. Trách nhiệm này thuộc về những người có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường trong công ty. Do vậy, công ty cần phải có lực lượng nghiên cứu thị trường đủ mạnh mẽ cả về chất lượng và số lượng. Đứng trước giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang mở cửa nền kinh tế thị trường sản phẩm giầy da ngày càng trở nên đa dạng và có rất nhiều đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước đang tham gia trên thị trường, bên cạnh đó tâm lý người tiêu dùng ngày càng trở nên phức tạp thay đổi thường xuyên. Để nắm bắt những biến đổi của thị trường đòi hỏi công ty cần có biện pháp để nâng cao chất lượng trong khâu nghiên cứu thị trường. Một giải pháp nên thực hiện đó là tăng cường công tác nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường ở đây là việc tiến hành các hoạt động nắm bắt thị trường về nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, các phản ứng của người tiêu dùng đối với các sản phẩm của công ty, thu thập thông tin về sự đánh giá so sánh của người tiêu dùng về sản phẩm của công ty đối với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh để từ đó có chiến lược sản xuất kinh doanh hiệu quả. Thị trường của công ty tập trung chủ yếu ở miền Bắc và Miền Trung, còn thị trường miền Nam đang trong thời kỳ phát triển và đây là thị trường đầy tiềm năng của công ty. Bằng việc tổ chức nghiên cứu thị trường, không chỉ thị trường miền Bắc và thị trường miền Trung mà điều quan trọng là nắm bắt được thông tin về thị trường miền Nam sẽ tạo cho công ty nắm được cơ hội để chiếm lĩnh thị trường này. Để đẩy mạnh hơn nữa sức tiêu thụ cho hàng hoá của công ty, một giải pháp hữu hiệu là cần tăng cường công tác tiếp thị, 55 marketing nhằm giữ vững thị trường và phát triển thị trường trong nước cả về bề rộng và chiều sâu, tìm kiếm những mối quan hệ nhằm tiếp cận các bạn hàng trong khu vực và trên thế giới. Trước mắt công ty cần có chiến lược xuất khẩu sản phẩm của mình ra các bạn hàng mà công ty đã đặt quan hệ từ lâu. Song song với nó, công ty cần mở thêm các cửa hàng bán lẻ tại các khu đô thị lớn sẽ thúc đẩy khả năng tiêu thụ rất cao. Ngoài ra, công ty cũng có thể sử dụng biện pháp quảng cáo để thực hiện mục đích mở rộng thị trường của mình, việc hoạt động quảng cáo, giao tiếp và khuyếch trương của Công ty giầy Thăng Long trong những năm gần đây đã được coi trọng, tuy nhiên để phát triển hơn nữa công ty cũng cần cố gắng nhiều hơn nữa. Bên cạnh quảng cáo sản phẩm của mình, công ty có thể tăng cường một số hoạt động yểm trợ bán hàng khác như: tham gia các hội chợ, tham gia các hoạt động quần chúng, mở rộng các hoạt động chiêu thị khác. 2. Xây dựng chính sách sản phẩm và chính sách giá cả hợp lý Nhu cầu về giầy càng trở nên đa dạng về chủng loại và có sai khác nhau về nhu cầu giữa các loại thị trường. Vì vậy, để khai thác hết tiềm năng của các đoạn thị trường, cần xây dựng những chính sách đa dạng hoá sản phẩm một cách khả thi, mở rộng tuyến sản phẩm. * Chính sách sản phẩm: Để xây dựng được một chính sách sản phẩm hợp lý, trước hết Công ty phải dựa trên kết quả nghiên cứu thị trường, phân tích vòng đời giá cả của sản phẩm, phân tích nhu cầu và tình hình cạnh tranh trên thị trường. Một chính sách sản phẩm được coi là đúng đắn khi nó giúp Công ty sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có chất lượng, số lượng, mức giá được thị trường chấp nhận, đảm bảo cho Công ty có sự tiêu thụ chắc chắn, có lợi nhuận và mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín sản phẩm của Công ty. Dựa vào nội lực thực tế của mình trong những giai đoạn nhất định thì cần phải có một chiến lược cụ thể phù hợp với từng giai đoạn. Đối với công ty giầy Thăng Long trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện chiến lược sản phẩm sau: 56 - Thứ nhất Công ty phải không ngừng thay đổi mầu mã của hàng hoá sao cho phục vụ được các yêu cầu đa dạng của khách hàng. Những mẫu mã mới phải được thiết kế dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường sao cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của khách hàng ở từng khu vực. Chẳng hạn, khách hàng ở Châu Âu thích những sản phẩm cao cấp dùng đơn giản nhẹ nhàng nhưng lại đòi hỏi nguyên liệu cao cấp và quá trình sản xuất có hàm lượng công nghệ cao, khách hàng Đài Loan thì tiêu dùng các loại sản phẩm từ cao cấp, trung bình, đến rẻ tiền... Để có được nhiều loại mẫu mã phù hợp với từng sở thích Công ty nên phát động các cơ sở sản xuất thiết kế mẫu mới và khuyến khích quyền lợi cho những người thiết kế mẫu mới. - Thứ hai, Công ty nên tập chung vào những sản phẩm không chỉ đáp ứng được nhu cầu thị trường khu vực mà còn có thể đáp ứng được nhu cầu nhiều cấp khác nhau theo hướng: + Những sản phẩm trung bình: dùng nguyên liệu rẻ để sản xuất, những sản phẩm có hàm lượng công nghệ thấp. + Những sản phẩm cao cấp: dùng nguyên liệu tốt để sản xuất, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. + Công ty nên chú trọng hơn nữa trong việc sản xuất giầy thể thao giầy nam, giầy trẻ em. Hiện nay Công ty mới chỉ tập chung vào việc sản xuất, xuất khẩu sản phẩm giầy nữ thời trang. - Thứ ba, chất lượng sản phẩm quyết định uy tín kinh doanh vì vây, Công ty phải chú trọng đến vấn đề chất lượng và coi đây là vấn đề then chốt. Xu hướng kinh doanh có hiệu quả nhất đối với các doanh nghiệp là đa dạng hoá các mặt hàng sản xuất trên cơ sở tập trung chuyên môn hoá một số mặt hàng mũi nhọn. Tập trung chuyên môn hoá cho phép các doanh nghiệp khai thác lợi thế và mặt hàng, giá cả, chất lượng. Đa dạng hoá cho phép doanh nghiệp khai thác giảm rủi ro khi có biến động bất lợi về mặt hàng nào đó. Với chiến lược kinh doanh này doanh nghiệp có thể đạt hiệu quả kinh doanh cao. Thực tế Công ty giầy Thăng Long chủ yếu tập trung vào sản xuất kinh doanh giầy vải và một số giầy dép giả da với mẫu mã đơn điệu (chủ yếu là do khách hàng cung cấp). Trong những năm tới Công ty nên tập chung vào sản xuất 57 nhiều loại mặt hàng đa dạng về kích cỡ, chủng loại phong phú, thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Do đặc điểm sản phẩm giầy luôn có sự thay đổi mẫu mã. kiểu dáng và chu kỳ vòng đời sản phẩm ngắn, sự thay đổi về mẫu mã lại không cần thay đổi công nghệ nhiều. Công ty nên thường xuyên thay đổi mẫu mã sản phẩm dựa trên cơ sở thay đổi mầu sắc, kiểu dáng. Sự thay đổi này được thực hiện đơn giản chỉ cần sử dụng các loại nguyên vật liệu khác. Tóm lại, trong chính sách sản phẩm có rất nhiều vấn đề cần giải quyết như chất lượng sản phẩm, sự cải tiễn mẫu mã,... nếu công ty giải quyết tốt sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. * Xây dựng chính sách giá cả hợp lý Giá cả sản phẩm không chỉ là phương tiện tính toán mà còn là công cụ bán hàng. Chính vì lý do đó, giá cả là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ của công ty. Hiện nay giá cả của công ty căn cứ vào: + Giá thành sản xuất chế biến sản phẩm. + Mức thuế nhà nước quy định. + Quán hệ cung cầu trên thị trường. Tuỳ theo sự biến động của các yếu tố mà mức giá được điều chỉnh theo từng thời điểm. Việc xác lập một chính sách giá hợp lý phải gắn với từnh giai đoạn, mục tiêu của chiến lược kinh doanh, chu kỳ sống của sản phẩm đối với từng khu vực thị trường, từng đối tượng khách hàng. Ngoài ra chính sách giá cũng không tách rời với chính sách sản phẩm của công ty. Cụ thể là: - Thứ nhất, một mức giá cao hơn được áp dụng với một thị trường nhất định, khi sản phẩm có vị trí đứng chắc trên thị trường hay sản phẩm có chất lượng cao. - Thứ hai, một mức giá thấp hơn khi sản phẩm đang ở giai đoạn suy thoái, khi công ty đang có ý định xâm nhập thị trường, theo đuổi mục tiêu doanh số. - Thứ ba, Công ty nên thực hiện nhiều mức giá đối với các loại sản phẩm khác nhau ở các loại thị trường khác nhau. 58 Một điều đáng lưu ý là giá cả sản phẩm phải tính đến yếu tố cạnh tranh. Do đó phải phân tích, lựa chọn nghiên cứu kỹ khi đặt giá, tránh bị ép giá thua thiệt trong cạnh tranh. 3. Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm Nâng cao chất lượng sản phẩm là nhân tố hàng đầu và quan trọng về sự tồn tại và phát triển của Công ty, điều đó thể hiện ở chỗ: - Chất lượng sản phẩm là nhân tố quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, là nhân tố tạo dựng uy tín, danh tiếng cho sự tồn tại va phát triển lâu dài của doanh nghiệp. - Tăng chất lương sản phẩm tương đối với tăng năng suất lao động xã hội, nhờ tăng chất lượng sản phẩm dẫn đến tăng giá trị sử dụng và lợi ích kinh tế trên một đơn vị chi phí đầu vaò, giảm lượng nguyên vật liệu sử dụng tiết kiệm tài nguyên, giảm chi phí sản xuất. Nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. - Chất lượng sản phẩm là công cụ có nghĩa quan trọng trong việc tăng cường và nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm được hình thành trong suốt quá trình từ chuẩn bị sản xuất đến sản xuất và nhập kho thành phẩm. Vì vậy, trong quá trình sản xuất cần phải thực hiện các biện pháp quán triệt nghiệp vụ để kiểm tra chất lượng sản phẩm, Công ty cần phải thực hiện đầy đủ các bước của công đoạn sản xuất. a. Toàn bộ nguyên vật liệu sản xuất như cao su, hoá chất, keo...cần được kiểm tra theo các tiêu chuẩn kiểm tra nguyên vật liệu của nhà nước (TCVN ) hoặc tiêu chuẩn ngành. b. Khi hỗn luyện cao su phải lấy mẫu kiểm tra nhanh về: - Độ dẻo - Độ chín sống - Độ biến mầu của cao su. c. Với vải đã bồi cần kiểm tra: - Mức bám dính vải với vải - Mức bám dính mút với vải. 59 - Độ thấm keo lên mặt vải. - Vải tráng keo có đều hay bị loang ố. d. Kiểm tra các loại keo: - Keo dùng cho bồi, tráng vải - Keo dùng cho gò giầy - Keo dùng dán pho mũi e. Kiểm tra công nghệ sản xuất - Các chi tiết của giầy dập ra có đúng mẫu không - Có đúng mầu sắc và đủ chi tiết trong một đôi không - Kiểm tra xem nồi lưu hoà có đủ nhiệt độ, áp lực, thời gian lưu hoà. f. Kiểm tra chất lượng sản phẩm cuối cùng. Tất cả các sản phẩm sản xuất ra đều đưa lên băng chuyền lưu hoà song cần phải kiểm tra trước khi đưa và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Hiệu quả kinh doanh ở Công ty Giầy Thăng Long thực trạng và giải pháp.pdf