Luận văn Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay

Tài liệu Luận văn Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay: V LUẬN VĂN: Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong sự nghiệp đổi mới, nhất là trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, từng bước vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, khai thác và sử dụng tốt nhất mọi tiềm năng về thể chất và trí tuệ, mọi khả năng sáng tạo của từng người và của toàn thể cộng đồng dân tộc có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đặc biệt là việc bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực trẻ lại càng có ý nghĩa quan trọng, vì nó sẽ quyết định mức độ thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta, quyết định chúng ta có đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hay không. Đồng thời, đây cũng là sự chuẩn bị về mọi mặt cho thế hệ trẻ bước vào thế kỷ XXI một c...

pdf82 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1065 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
V LUẬN VĂN: Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong sự nghiệp đổi mới, nhất là trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, từng bước vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, khai thác và sử dụng tốt nhất mọi tiềm năng về thể chất và trí tuệ, mọi khả năng sáng tạo của từng người và của toàn thể cộng đồng dân tộc có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đặc biệt là việc bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực trẻ lại càng có ý nghĩa quan trọng, vì nó sẽ quyết định mức độ thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta, quyết định chúng ta có đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hay không. Đồng thời, đây cũng là sự chuẩn bị về mọi mặt cho thế hệ trẻ bước vào thế kỷ XXI một cách vững chắc, tự tin, sánh vai cùng với tuổi trẻ trên thế giới. Đại hội X của Đảng xác định rõ: “Đối với thế hệ trẻ, thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đội ngũ sinh viên là một trong những bộ phận quan trọng của thế hệ trẻ đất nước ta hiện nay. Sinh viên chính là những người lao động có trình độ cao trong tương lai, là nguồn lực chủ yếu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Hiện nay, số lượng sinh viên ở Tây Nguyên là khá lớn. Bồi dưỡng, giáo dục cho họ khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, những kiến thức về mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan phù hợp với yêu cầu chung của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Trong bối cảnh kinh tế, chính trị trên thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, trên địa bàn Tây Nguyên các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Đảng và Nhà nước ta với nhiều thủ đoạn, âm mưu nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, lôi kéo và tha hoá thế hệ trẻ, nhằm làm cho thế hệ trẻ bị phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời nền kinh tế thị trường cũng có nhiều tác động tiêu cực đối với sinh viên. Điển hình là các biểu hiện của lối sống thực dụng, tâm lý trông chờ vào may rủi, một bộ phận đang chịu ảnh hưởng thế giới quan tôn giáo, duy tâm… Thực tế ở Tây Nguyên đã xuất hiện một bộ phận không nhỏ sinh viên có lối sống mơ hồ về chính trị, phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thậm chí suy thoái về đạo đức… và, họ đang bị các thế lực phản động kích động, lôi kéo. Điều tai hại là, với “hành trang” tư duy ấy, đang tiềm tàng trong họ những triển vọng không đáng mong đợi của những người mang vị thế chủ nhân tương lai của đất nước. Xây dựng một thế giới quan khoa học cho sinh viên là nhiệm vụ chiến lược trong quá trình giáo dục đội ngũ lao động dự bị và cũng là những chủ nhân tương lai của dân tộc, theo đó, lại là công việc vô cùng cần thiết. Chính vì vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho của đội ngũ sinh viên ở Tây Nguyên là nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài “Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đền đề tài Vấn đề thế giới quan duy vật biện chứng ở nước ta từ trước đến nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu. Chẳng hạn, Bùi Ngọc có bài viết “Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch sử”, đăng ở Tạp chí thông tin khoa học xã hội, 1981, số 8. Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích sự hình thành và phát triển của thế giới quan khoa học là một tất yếu lịch sử. Ở một góc độ khác, Lê Xuân Vũ khẳng định “Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống tinh thần của nhân dân ta”, Tạp chí Cộng sản, 186, số 6. Trong đó tác giả đã có sự lý giải khá thuyết phục tầm quan trọng của thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống xã hội Việt Nam. Hay như tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn đã tiếp cận vấn đề thế giới từ khía cạnh sinh học, trong bài “Một số khía cạnh về vai trò của sinh học hiện đại đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học”, đăng ở Tạp chí Triết học 1988, số 3. Ngoài một số bài viết trên, còn có một số luận án và luận văn cũng nghiên cứu vấn đề thế giới quan. Bùi Ỉnh đã nghiên cứu “Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1988. Còn Trần Thước tập trung nghiên cứu thế giới quan của riêng đội ngũ trí thức: “Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức ở Việt Nam”, Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1993. Trần Thanh Hà, Trần Viết Quân, Nguyễn Thị Luyến... tập trung nghiên cứu thế giới quan của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở một khu vực nhất định. Nếu Trần Thanh Hà nghiên cứu “Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ đảng viên người dân tộc Kh’mer ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1993, thì Trần Viết Quân lại đi sâu tìm hiểu vấn đề “Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002. Còn Nguyễn Thị Luyến và Bùi Kiến Thưởng lại tìm đến đối tượng là sinh viên hay học viên, như “Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên các trường Đại học, Cao Đẳng ở Hà Nội hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005 của Nguyễn Thị Luyến. Hay“Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị tỉnh Hà Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học của Bùi Kiến Thưởng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004. Tất cả những tác giả trên đã đề cập đến: - Khái niệm thế giới quan nói chung, thế giới quan khoa học nói riêng, cấu trúc và chức năng của thế giới quan. - Tầm quan trọng và tính tất yếu của việc xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho các đối tượng như: sinh viên, học viên, cán bộ nói chung trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. - Nêu ra những nhân tố cơ bản trong việc hình thành, tác động phát triển thế giới quan duy vật biện chứng. - Đưa ra một số giải pháp cụ thể và những quan điểm nhằm bồi dưỡng và phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho một số đối tượng cụ thể. Riêng vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện chưa có tác giả nào bàn tới. Xuất phát từ tình hình thực tế biểu hiện thế giới quan của sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên, từ tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối với thế hệ trẻ và đối với đội ngũ sinh viên, với mong muốn đóng góp một phần vào sự nghiệp bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, tôi chọn đề tài: “Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay”. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích của luận văn Trên cơ sở phân tích thực trạng của việc giáo dục thế giới duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay, tác giả luận văn đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho tầng lớp này. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Luận văn tập trung làm sáng tỏ những nội dung chủ yếu sau: - Phân tích vai trò, tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng; xác định những nhân tố tác động đến thế giới quan và quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên. - Làm rõ thực trạng, những vấn đề đặt ra trong quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quá trình này cho sinh viên Tây Nguyên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu thực trạng và bước đầu đưa ra một số giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả nhằm giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên các trường Đại học, Cao Đẳng ở Tây Nguyên trong giai đoạn 10 năm gần đây (2000 - 2009) từ góc độ triết học. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Từ các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục thế giới quan, nhận thức luận…cho thế hệ trẻ và sinh viên, tác giả kế thừa những thành tựu lý luận của các tác giả về những vấn đề có liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học… 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Luận văn góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên. - Đánh giá đúng thực trạng và bước đầu đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho họ. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần làm sáng tỏ những cơ sở khoa học nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục - đào tạo ở các trường Đại học, Cao Đẳng. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết. Chương 1 THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY 1.1. THẾ GIỚI QUAN VÀ THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG 1.1.1. Thế giới quan Do yêu cầu tự nhiên và tất yếu của cuộc sống, con người không chỉ thích nghi với hoàn cảnh bên ngoài một cách thụ động mà luôn luôn phải tìm cách biến đổi nó nhằm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của mình. Để đạt được mục đích đó, con người nảy sinh nhu cầu tìm hiểu giới tự nhiên cũng như chính bản thân mình. Từ đó một loạt vấn đề xuất hiện: Thế giới quanh ta là gì? Bản chất của nó ra sao? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và biến đổi của nó? Con người là gì? Con người có vị trí như thế nào trong thế giới đó? Cuộc sống con người có ý nghĩa gì?... Trả lời những câu hỏi này sẽ hình thành ở con người những quan điểm, quan niệm nhất định về thế giới, về vị trí con người trong thế giới ấy. Đó là cơ sở để hình thành thế giới quan của con người. Thế giới quan xuất hiện từ thời nguyên thuỷ, song với tư cách là một khái niệm khoa học thì được nghiên cứu và xuất hiện vào thế kỷ XVIII, do Kant - nhà triết học cổ điển Đức nêu ra. Các nhà triết học người Đức nửa đầu thế kỷ XIX và các nhà triết học sau này đã tiếp tục sử dụng khái niệm trên trong các học thuyết của mình. Tiếp nối truyền thống đó, C.Mác và Ph.Ăngghen, đã kế thừa và phát triển thành một thế giới quan khoa học trên lập trường duy vật biện chứng. Khái niệm thế giới quan hiện nay đã được nhiều nhà khoa học đương đại nghiên cứu và tiếp cận ở nhiều cấp độ và đưa ra các định nghĩa khác nhau. Trong Từ điển Triết học, các nhà khoa học Liên Xô đưa ra định nghĩa thế giới quan là: “toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm và niềm tin quy định hướng hoạt động và quan hệ của từng người, của tập đoàn xã hội, của một giai cấp hay xã hội nói chung đối với thực tại”[56, tr.539]. Theo một tác giả khác, thế giới quan là “một hệ thống nhất định những lời giải đáp những vấn đề cội nguồn của thế giới và nguồn gốc của tri thức, về vị trí của con người trong thế giới, về ý nghĩa của cuộc sống và đặc trưng của tiến bộ xã hội”[25, tr.42]. Hay một quan niệm khác: Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một chủ thể về thế giới, về những hiện tượng về tự nhiên và xã hội và các quy luật phát triển của chúng, về bản thân con người, về vị trí, vai trò của con người trước thế giới. Nói một cách khác, thế giới quan là phản ánh tồn tại vật chất và xã hội của con người [53, tr.10]. Từ những quan điểm về thế giới quan ở trên chúng tôi quan niệm rằng: Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một người hoặc một tập đoàn người, một giai cấp hay toàn xã hội về thế giới và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó, về chính bản thân cuộc sống con người và loài người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Trên cơ sở đó, thế giới quan định hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo thế giới của họ, điều chỉnh hành vi của con người trong cuộc sống hàng ngày. Hiểu thế giới quan với nghĩa như vậy là bao hàm cả nhân sinh quan, tức là toàn bộ những quan niệm về cuộc sống của con người và loài người. Thế giới quan hình thành trên cơ sở những hiểu biết của con người về tự nhiên, về xã hội và về chính bản thân con người. Như vậy, có thể khẳng định rằng thế giới quan là lập trường sống của chủ thể. Bởi vì, nếu được trang bị thế giới quan đúng đắn và khoa học sẽ giúp chủ thể có lập trường vững vàng trước những biến động của cuộc sống, trước những tác động của những tư tưởng khác biệt hoặc đối lập. Cũng theo cách hiểu thế giới quan như trên, thì thế giới quan gồm có thế giới quan cá nhân, thế giới quan giai cấp và thế giới quan xã hội. Thế giới quan cá nhân là những kinh nghiệm sống, những tri thức của cá nhân nhất định về tự nhiên, xã hội và con người xung quanh. Tri thức tích luỹ được giúp cá nhân có lập trường để bảo vệ những quan điểm của riêng mình. Tri thức và niềm tin của mỗi người được phát triển đến một mức độ nào đó sẽ tạo nên lý tưởng sống của người đó. Như vậy, sự hình thành thế giới quan cá nhân là một quá trình lâu dài và phụ thuộc nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khác nhau. Chẳng hạn như: trình độ hiểu biết của từng người, chế độ xã hội, địa bàn sinh sống, điều kiện vật chất và tinh thần của cá nhân, và nhất là yếu tố giáo dục. Chính vì vậy, phẩm chất của thế giới quan cá nhân có thể thể thay đổi theo những yếu tố và điều kiện đó. Do đó, việc giáo dục thế giới quan đúng đắn, khoa học cho cá nhân là rất cần thiết cho một xã hội tiến bộ. Thế giới quan giai cấp là hệ thống những quan điểm của một giai cấp về thế giới, về con người và về vị trí, vai trò, lợi ích của giai cấp ấy, nó phản ánh vị thế (tiến bộ hay lạc hậu) của giai cấp đó trong tiến trình của lịch sử. Thế giới quan xã hội là hệ thống những quan điểm về thế giới, về vị trí con người trong thế giới được xây dựng trên những phạm trù, nguyên lý; được trình bày trong học thuyết của giai cấp thống trị trong đó lợi ích của giai cấp thống trị “được trình bày như đại diện cho lợi ích của toàn xã hội”. Thế giới quan xã hội do các nhà tư tưởng, các nhà lý luận xây dựng nên, nó có thể khoa học, có thể không khoa học. Điều này phải được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh là khoa học hay không. Về kết cấu (cấu trúc) của thế giới quan thường bao gồm những yếu tố sau: - Tri thức: cũng giống như mọi ý thức xã hội, thế giới quan bao gồm những tri thức về tự nhiên, xã hội và con người nhưng không phải mọi tri thức đều là tri thức về thế giới quan. Mà chỉ là những tri thức nào biểu thị quan điểm chung về tồn tại và về nhận thức mới là những tri thức về thế giới quan. Trong nội dung tri thức về thế giới quan thì những tri thức triết học đóng vai trò nền tảng của mọi thế giới quan ở các giai đoạn phát triển của nó. - Niềm tin: niềm tin là một động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo hiện thực của con người, nó được phát triển trên cơ sở tri thức. Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt, nó có vai trò to lớn trong hoạt động của con người. Nếu con người làm một việc gì đó, mà không có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của tư tưởng thì con người sẽ bị tước mất những rung động ý chí, khát vọng, nghị lực, lòng nhiệt tình, sự cổ vũ cần thiết đối với công việc, đặc biệt là đối với những công việc xã hội rộng lớn. Niềm tin giúp con người có nghị lực để có thể vượt qua được những giây phút hiểm nghèo và dám hy sinh vì những mục đích cao cả. Như vậy, niềm tin được xác lập trên cơ sở của tri thức khoa học sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. - Lý tưởng: đó là sự kết hợp niềm tin và tri thức vào một tiêu chí, hình mẫu, sự hoàn thiện, mục tiêu tối cao của ý nguyện và hoạt động thực tiễn, mô hình tuyệt vời trong thực tế đối với một cá nhân, một nhóm người hay một xã hội. Lý tưởng giúp con người định hình được cuộc sống, sống có mục đích, có khát vọng. Như vậy, trong ba yếu tố cấu thành thế giới quan, tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi đã trở thành niềm tin của con người qua sự thể nghiệm lâu dài trong cuộc sống của họ và sự hình thành lý tưởng là sự phát triển ở trình độ cao của thế giới quan. Trong lịch sử phát triển của xã hội, thế giới quan được thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng khác nhau, nhưng tập trung ở ba hình thức chủ yếu: thế giới quan thần thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học. Thế giới quan thần thoại: là những quan niệm sơ khai về thế giới của người nguyên thuỷ. Nó là kết quả của những cảm xúc ban đầu của người nguyên thuỷ về thế giới và con người mà trong đó có sự hoà quyện giữa cái có thật và cái hoang tưởng, cái hiện thực và cái hư ảo, cái lý trí và cái tín ngưỡng, tư duy và cảm xúc… Thế giới quan tôn giáo: là sự phản ánh một cách hư ảo hiện thực. Nó xuất phát trong bối cảnh trình độ nhận thức và thực tiễn của con người còn thấp kém, khi con người bất lực hoàn toàn trước sức mạnh “thần thánh” của tự nhiên (sấm sét, bão lụt, động đất, thú dữ, hạn hán…) và sức mạnh “thần bí” của xã hội (bệnh tật, nỗi khổ cực, áp bức, thống trị…). Trong điều kiện đó, con người đã thần thánh hoá các lực lượng tự nhiên và các thế lực xã hội, gán cho chúng một sức mạnh siêu nhiên. Có thể nói rằng, đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là ở “niềm tin sợ hãi” của con người vào sự tồn tại và sức mạnh siêu nhiên của thần thánh. Đồng thời, là sự bày tỏ nguyện vọng được giải thoát khỏi những khổ đau để vươn tới hạnh phúc vĩnh hằng. Yếu tố nền tảng trong thế giới quan tôn giáo là niềm tin tôn giáo, bao gồm cả niềm tin vào khả năng đạt tới cuộc sống tốt đẹp. Thế giới quan triết học: là trình độ cao của thế giới quan. Nó ra đời trên cơ sở trình độ nhận thức của con người đã đạt đến sự khái quát hoá, trừu tượng hoá. Hơn nữa, thế giới quan triết học thường được các lực lượng xã hội sử dụng để truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp mình. Thế giới quan triết học diễn tả những vấn đề của thế giới bằng hệ thống lý luận các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nó không chỉ trình bày các quan điểm của mình, mà còn luận chứng cho các quan điểm ấy bằng lý tính và những cơ sở khoa học nhất định. Khi phân biệt thế giới quan triết học với các thế giới quan khác C.Mác viết: Các vị hướng về tình cảm, triết học hướng về lý trí; các vị nguyền rủa, than vãn, triết học dạy bảo, các vị hứa hẹn thiên đường và toàn bộ thế giới, triết học không hứa hẹn gì cả ngoài chân lý; các vị đòi hỏi tin tưởng tín ngưỡng của các vị, triết học không đòi hỏi tin tưởng vào các kết luận của nó, nó đòi hỏi kiểm nghiệm những hoài nghi; các vị doạ dẫm, triết học an ủi. Và, thật thế, triết học biết cuộc sống khá đầy đủ để hiểu rằng những kết luận của nó không bao dung sự khao khát hưởng lạc và lòng vị kỷ - của cả thiên giới lẫn thế giới trần tục [32, tr.416]. Có thể chia thế giới quan triết học thành thế quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Thế giới quan duy tâm thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần, vai trò quyết định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới nói chung, bao gồm tự nhiên, xã hội và con người. Thế giới quan duy tâm bao gồm thế giới quan duy tâm khách quan và thế giới quan duy tâm chủ quan. Thế giới quan duy tâm khách quan coi cơ sở của thế giới vật chất là thế giới tinh thần đã có trước và sinh ra thế giới các sự vật, hiện tượng. Còn thế giới quan duy tâm chủ quan thì tuyệt đối hoá vai trò của cảm giác, coi nó là cơ sở để tạo nên mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới. Thế giới quan duy vật thừa nhận bản chất thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí của con người trong cuộc sống hiện thực. Thế giới quan duy vật gồm thế giới quan duy vật thời cổ đại, thế giới quan siêu hình và đỉnh cao là thế giới quan duy vật biện chứng. Như vậy, thế giới quan triết học là thế giới quan có trình độ cao nhất trong các nấc thang của thế giới quan. Bởi tri thức triết học mang tính khái quát cao và triết học là hệ thống những quan điểm chung nhất của con người về thế giới và về vị trí vai trò của con người trong thế giới đó. 1.1.2. Thế giới quan duy vật biện chứng Thế giới quan duy vật biện chứng là đỉnh cao của thế giới quan triết học và cũng là đỉnh cao của thế giới quan đã có trong lịch sử. Có thể khẳng định rằng: Thế giới quan duy vật biện chứng là hệ thống những quan niệm khoa học chung nhất về tự nhiên, xã hội và con người cùng những định hướng giá trị của con người mang giá trị hiện thực trong mối quan hệ, vận động, biến đổi và phát triển. Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan của giai cấp công nhân, đó là thế giới quan có sự thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học. Tính khoa học thể hiện ở chỗ nó không chỉ cắt nghĩa sự tồn tại, vận động của thế giới từ các yếu tố vật chất, mà còn thấy sự đa dạng, phong phú của thế giới vật chất và mối quan hệ của bản thân thế giới đó cũng như sự vận động, biến đổi không ngừng của nó. Do đó, thế giới quan duy vật biện chứng nhìn nhận thế giới khách quan một cách thực sự khoa học nhất. Nó là sự kế thừa nền tảng tri thức của nhân loại tiến bộ. Tri thức của thế giới quan duy vật biện chứng là sự khái quát hoá cao của tri thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học tư duy trong quá trình vận động và phát triển của tri thức nhân loại. Tính cách mạng thể hiện ở chỗ, thế giới quan duy vật biện chứng không thừa nhận bất cứ một cái gì là tuyệt đích, cuối cùng. Nó thừa nhận sự phát triển như một nguyên lý phổ biến của thế giới khách quan; chống lại mọi sự bảo thủ, trì trệ, ngưng đọng từ tư duy cho đến hành động. Vì vậy nó tạo ra tinh thần cách mạng trong con người, tạo ra ý thức cải biến thế giới khách quan để phục vụ cuộc sống của con người. Thế giới quan duy vật biện chứng không thoả hiệp với bất kỳ một tư tưởng phản khoa học nào. Nó có tính phê phán, tính chiến đấu cao để cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Do đó, thế giới quan duy vật biện chứng không chỉ giúp con người khám phá và giải thích thế giới mà con giúp con người tìm ra cách cải tạo thế giới. Thế giới quan duy vật biện chứng gồm ba yếu tố cơ bản quan hệ hữu cơ với nhau: đó là tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng. Những tri thức của thế giới quan duy vật biện chứng là những tri thức khác nhau và khái quát các hoạt động thực tiễn của con người. Tri thức trong thế giới quan duy vật biện chứng bao gồm chủ nghĩa duy vật, phép biện chứng, các khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Những tri thức đó góp phần định hướng cho con người trong hoạt động cải tạo hiện thực. Trong đó, những tri thức của Triết học Mác - Lênin đóng vai trò nền tảng, là hạt nhân lý luận của thế giới quan duy vật biện chứng. Bởi vì: - Triết học Mác - Lênin giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên cơ sở thực tiễn. Theo chủ nghĩa duy vật mác-xít, một mặt, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất suy cho cùng quyết định ý thức; mặt khác, ý thức cũng tác động trở lại đối với vật chất. Ý thức phản ánh hiện thực không chỉ trong quá trình hiện thực tác động một cách giản đơn lên nó mà điều quan trọng là phản ánh trong quá trình con người cải tạo, biến đổi hiện thực. Đây là quan hệ tác động hai chiều trên cơ sở thực tiễn. Cái vật chất muốn được “di chuyển và cải biến trong bộ óc” phải thông qua hoạt động thực tiễn. Trái lại, ý thức muốn tác động vào thế giới vật chất để làm biến đổi nó thì cũng phải thông qua hoạt động thực tiễn. Nhờ có hoạt động thực tiễn mới biến những chương trình, kế hoạch của con người thành hiện thực vật chất. Bằng hoạt động thực tiễn con người cải biến sự vật trong hiện thực, từ đó cải biến sự vật trong tư tưởng. Như vậy, thực tiễn trở thành khâu trung gian giữa cái vật chất và cái tinh thần. - Triết học Mác - Lênin là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Bởi triết học trước Mác, chủ nghĩa duy vật thường tách rời phép biện chứng. Điều này thể hiện rõ nhất ở chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII. Mặt khác, phép biện chứng lại được chủ nghĩa duy tâm phát triển, nhất là trong triết học Hêghen. Vì vậy để xây dựng triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ và phép biện chứng duy tâm, từ đó tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan và phương pháp luận, giữa lý luận và phương pháp, giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Như vậy, chủ nghĩa duy vật mác-xít là chủ nghĩa duy vật biện chứng, còn phép biện chứng mác-xít là phép biện chứng duy vật. - Triết học Mác - Lênin là chủ nghĩa duy vật triệt để. Bởi thiếu sót lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước Mác là tính chất duy vật không triệt để, tức duy vật trong tự nhiên nhưng lại duy tâm trong xã hội. Khi nghiên cứu và phát triển chủ nghĩa duy vật, Mác đã mở rộng học thuyết nhận thức tự nhiên đến nhận thức xã hội loài người, và ông đã khắc phục được thiếu sót trên, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Với quan niệm duy vật về lịch sử của Mác, loài người tiến bộ đã có một công cụ vĩ đại trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. - Triết học Mác - Lênin là thế giới quan của giai cấp công nhân, nhưng lợi ích của giai cấp công nhân lại phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động. Cho nên sự ra đời của triết học Mác, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao động có được một thế giới quan thực sự của mình. Đó là thế giới quan cách mạng và khoa học, là vũ khí tư tưởng trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi áp bức bóc lột. Về tri thức khoa học, cho đến nay toàn bộ tri thức khoa học mà nhân loại đạt được vẫn chỉ chứng minh một điều: trong vũ trụ không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang vận động. Vật chất thể hiện dưới nhiều hình thức, muôn hình, muôn vẻ, nhưng suy cho cùng là thực tại khách quan, tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người. Thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Ý thức suy cho cùng cũng chỉ là một thuộc tính đặc biệt của một dạng vật chất có tổ chức cao, đó là bộ óc con người và chỉ là sản phẩm duy nhất của bộ óc người. Như vậy, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất, đó là thế giới vật chất. Nó tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận, không được sinh ra và không bị mất đi. Điều này đã minh chứng rằng những tri thức của triết học mác-xít vẫn là hạt nhân của thế giới quan khoa học hiện đại - thế giới quan duy vật biện chứng. Yếu tố cơ bản thứ hai của thế giới quan duy vật biện chứng là niềm tin khoa học, đó là niềm tin có cơ sở từ những tri thức khoa học và gắn kết giữa tri thức khoa học với hoạt động thực tiễn. Niềm tin khoa học giúp con người tin tưởng vào những hành động hướng tới chân lý, xác định những mục tiêu cao cả để vươn tới. Yếu tố thứ ba trong cấu trúc thế giới quan duy vật biện chứng là lý tưởng cách mạng. Lý tưởng cách mạng trong thế giới quan duy vật biện chứng là sự kết hợp giữa tri thức khoa học và niềm tin khoa học. Đó là lý tưởng cao đẹp. Nó vừa là mục tiêu cao cả mà con người hướng tới, vừa là động lực thôi thúc con người hành động, thiếu lý tưởng con người cảm thấy mất phương hướng, mất niềm tin và cảm thấy cuộc đời thật tẻ nhạt. Chính lý tưởng khơi dậy sự nỗ lực nhận thức, sự nồng nhiệt của tình cảm, sự mãnh liệt của ý chí và quyết tâm trong hành động giúp con người vươn tới mục tiêu cao cả không quản gian khổ, hy sinh. Lý tưởng cách mạng là sự thống nhất giữa tri thức, tình cảm, ý chí sẵn sàng hoạt động, trong đó yếu tố tri thức khoa học đóng vai trò quan trọng nhất bởi lý tưởng chỉ thật sự có tính hiện thực khi nó được xây dựng trên cơ sở niềm tin vững chắc vào chân lý mà tri thức khoa học đem lại. Vì vậy, lý tưởng có tác dụng như ngọn đèn định hướng thúc đẩy con người hoạt động một cách tự giác, thông minh, sáng tạo và quả cảm để đạt tới đối tượng của niềm tin, cuộc sống chỉ cao quí khi con người sống có lý tưởng. Sống có lý tưởng, có hoài bão ước mơ, con người sẽ nhân đôi ý nghĩa cuộc sống của chính mình, giúp con người vươn lên làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân. 1.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY 1.2.1. Sự cần thiết phải giáo dục giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Sinh viên hay còn gọi là “thanh niên sinh viên”, là thuật ngữ dùng để chỉ những người đang học tập tại các trường Đại học, Cao Đẳng. Độ tuổi trung bình từ 18 đến 25. Việc xác định độ tuổi của sinh viên được các nhà khoa học thống nhất lấy mốc bắt đầu từ sau tuổi phổ thông trung học và kết thúc vào khoảng 25 tuổi, vì ở độ tuổi này con người đã hoàn thành sự phát triển về thể chất. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đặc biệt quan tâm đến thế hệ này và đánh giá rất cao vai trò, vị trí của họ trong sự nghiệp cách mạng. C.Mác cho rằng: thanh niên là cội nguồn sức sống của dân tộc, còn Ph.Ăngghen đề xuất tư tưởng: thanh niên không thể đứng ngoài chính trị, chính hiện thực của đời sống đã, đang và sẽ cuốn hút lớp trẻ vào đời sống chính trị. Ông nhấn mạnh rằng, thanh niên không bao giờ thoả mãn với lý tưởng trước đây, họ muốn được tự do hơn trong hành động, họ khao khát lập chiến công và vì sự đổi mới, họ sẵn sàng hiến dâng cả máu và cuộc đời mình. Thanh niên sẽ có đủ sức lực và tài năng để giải quyết những mâu thuẫn đang nảy sinh trong đời sống của đất nước. Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cho rằng: “Thanh niên là nguồn sinh lực chiến đấu của cách mạng”. Khi khẳng định vị trí, vai trò của thanh niên, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã chú ý rất nhiều đến nhiệm vụ giáo dục thanh niên, coi đó là biện pháp hàng đầu để đào tạo con người mới với tư cách là chủ thể sáng tạo có ý thức của xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Những quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin về vị trí, vai trò của thanh niên là yếu tố cực kỳ quan trọng trong việc hình thành những quan điểm của Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, là một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc chuẩn bị cho cái tương lai đó [43, tr.185]. Trong Di chúc, Người căn dặn: bồi dưỡng thế hệ cho cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Ngày nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với vai trò tiên phong trong sự nghiệp này, thanh niên, đặc biệt là thanh niên trí thức - mà hôm nay họ là sinh viên - là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp đó. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khoá X) khẳng định: Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển, thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước. Do đó, để hoàn thành sứ mệnh của mình, đòi hỏi thanh niên phải có bản lĩnh, trình độ, hoài bão và có lý tưởng cách mạng, tuyệt đối trung thành với đường lối lãnh đạo của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới mà Đảng và nhân dân ta đang thực hiện. Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, ảnh hưởng tự giác, chủ động đến con người đưa đến sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách. Nói cách khác giáo dục là quá trình hoạt động thống nhất hữu cơ giữa hai mặt dạy và học. Trong quá trình giáo dục, bao giờ cũng có một hệ thống cần phải giải quyết đó là: mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, nội dung, chương trình, giảng viên, động cơ dạy và học cùng các phương tiện giáo dục khác, nhằm đào tạo con người đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong từng giai đoạn lịch sử. Trong xã hội có giai cấp, giáo dục cũng mang tính giai cấp nhằm đào tạo ra lớp người phục vụ và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội và của chế độ xã hội mà họ xây dựng. Tính giai cấp được bộc lộ rất đa dạng trong nền giáo dục của mỗi quốc gia khác nhau, mỗi chế độ khác nhau. Giáo dục theo quan điểm phong kiến nhằm đào tạo ra những con người trung hiếu. Còn giáo dục theo quan điểm tư bản chủ nghĩa nhằm tạo ra con người thạo việc và tích cực, những nhà buôn, những nhà công nghiệp để phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản… Giáo dục theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm tạo ra những con người phát triển toàn diện: “Biết thấm nhuần tổng số những kiến thức của nhân loại mà chủ nghĩa cộng sản là kết quả bởi vì tương lai của loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên”[33, tr.262]. Ở nước ta, giáo dục trước hết là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, trách nhiệm của các ngành và mọi người trong xã hội. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người được phát triển toàn diện, có phẩm chất chính trị, đạo đức, tri thức khoa học, có năng lực tư duy lý luận, có một nền học vấn hiện đại. V.I.Lênin từng nhấn mạnh: “Họ phải hiểu rằng, điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại, và họ không có nền học vấn đó thì chủ nghĩa cộng sản chỉ là một nguyện vọng mà thôi”[29, tr.175]. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng nhằm làm cho sinh viên nắm được những nội dung cơ bản của thế giới quan duy vật biện chứng và hướng cho sinh viên vận dụng lý luận đó vào thực tiễn một cách sáng tạo. Từ đó, sinh viên sẽ phát triển nhân cách một cách hài hoà: biết lĩnh hội tri thức đã học, biết biến tri thức đó thành niềm tin và lý tưởng cao cả của mình, tức là vận dụng tri thức đó vào cải tạo hiện thực. Bản chất của giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng là quá trình tác động đồng bộ, tích cực, có định hướng, có kế hoạch vào ý thức của sinh viên, nâng cao khả năng nhận thức, năng lực tư duy và hướng dẫn sinh viên hoạt động thực tiễn theo một chương trình, mục tiêu cụ thể xác định nào đó. Như vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng là một bộ phận của giáo dục xã hội nhằm phát triển con người toàn diện. Con đường trực tiếp, năng động và sáng tạo nhất để hình thành thế giới quan khoa học và cách mạng cho sinh viên là con đường giáo dục. Mục tiêu của giáo dục không chỉ là cung cấp những tri thức về nội dung, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của thế giới quan duy vật biện chứng mà còn làm cho chúng thâm nhập vào cấu trúc nội tại đời sống tinh thần của chủ thể - sinh viên và biến kiến thức trong khoa học mà sinh viên đã được tiếp nhận thành giá trị, niềm tin, lý tưởng, lập trường thế giới quan tương ứng. Nhờ đó mà sinh viên sẽ hình thành thế giới quan khoa học và cách mạng của chính mình, hình thành phương pháp tu dưỡng, rèn luyện, hình thành những phẩm chất chính trị, đạo đức của chính sinh viên. 1.2.2. Nội dung và những nguyên tắc cơ bản trong giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay 1.2.2.1. Nội dung giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay phải giáo dục ba thành tố cơ bản cấu thành thế giới quan duy vật biện chứng. Thứ nhất, giáo dục hệ thống tri thức khoa học cơ bản, toàn diện, hiện đại và phương pháp tư duy biện chứng. Hệ thống tri thức khoa học bao gồm tri thức khoa học tự nhiên, tri thức khoa học xã hội và đặc biệt là tri thức triết học - hạt nhân của thế giới quan. Tri thức khoa học tự nhiên: đây là nhân tố rất cơ bản để hình thành thế giới quan duy vật biện chứng, vì khoa học tự nhiên nghiên cứu những vấn đề cội nguồn của thế giới, về những quy luật vận động của tự nhiên. Đó là những chất liệu để khái quát thành thế giới quan duy vật biện chứng. Hầu như tất cả các môn khoa học tự nhiên đều là cơ sở để hình thành thế giới quan duy vật. Đặc biệt là hoá học nghiên cứu sự chuyển hoá từ vô cơ đến hữu cơ, từ hữu cơ đến sự sống. Sinh học nghiên cứu những quá trình biến hoá, quá trình phát triển của hệ thần kinh, quá trình tiến hoá của các loài, việc xác định nguồn gốc của loài người từ động vật đã đánh tan tất cả các quan niệm duy tâm tôn giáo về sự hình thành con người. Chính vì thế mà từ thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật đã gắn liền với khoa học tự nhiên. Các nhà triết học phần lớn đều là các nhà khoa học tự nhiên. Khoa học xã hội: khoa học xã hội nói chung đều luận giải mối quan hệ giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, nghiên cứu sự vận động, biến đổi của xã hội từ những vận động, biến đổi của những điều kiện kinh tế. Vì vậy, những kiến thức về lịch sử, xã hội học, chính trị học… cũng đều là cơ sở để hình thành thế giới quan duy vật. Tri thức triết học: trong việc xây dựng thế giới quan cho con người, triết học luôn giữ vai trò chủ đạo, với tư cách là kinh nghiệm hàng thế kỷ trong việc suy tư một cách có phê phán - phản tư về những vấn đề định hướng cuộc sống của từng người cũng như của toàn thể loài người. Các nhà triết học dù ở thời đại nào cũng đều cố gắng làm rõ những vấn đề tồn tại của con người, đặt ra và giải quyết những câu hỏi như: con người là gì? Nó có hy vọng và định hướng vào cái gì?... Có thể nói, tri thức triết học là hạt nhân của thế giới quan. Triết học Mác - Lênin là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, là toàn bộ những quan điểm của con người về thế giới, nghiên cứu vị trí của con người trong vũ trụ nói chung và trong xã hội nói riêng. Đó chính là cơ sở để con người nhìn nhận thế giới một cách toàn diện, cung cấp cho con người những tri thức tổng hợp, khái quát về thế giới. Thứ hai, giáo dục hệ thống niềm tin vào chân lý những giá trị xã hội nhân đạo. Đó là giáo dục cho sinh viên niềm tin vào tính chất của thời đại, vào tính tất yếu của chế độ xã hội chủ nghĩa, vào sự giải phóng con người và xã hội loài người trong tương lai. Tin vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và cuối cùng là tin vào chính bản thân mình. Bởi vì, giáo dục niềm tin khoa học, nhất là quan điểm và niềm tin triết học Mác - Lênin tạo nên nền tảng- hạt nhân của toàn bộ thế giới quan duy vật biện chứng. Nó giúp cho sinh viên nhận thức được quy luật chung nhất của thế giới, hiểu được bản chất của con người, sự năng động sáng tạo của ý thức của con người trong việc cải tạo thế giới, khả năng của con người tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện như hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy…Từ đó giúp sinh viên từng bước có niềm tin vào chính bản thân mình trong học tập, rèn luyện, hình thành những phẩm chất nhân ái, vượt khó, tin vào những giá trị tốt đẹp của con người. Thứ ba, giáo dục lý tưởng sống cao đẹp, tiến bộ và tích cực, sẵn sàng hành động vì lý tưởng đó. Lý tưởng sống cao đẹp của sinh viên ngày nay là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là học tập, rèn luyện vì ngày mai lập thân, lập nghiệp, vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Mỗi sinh viên phải biết phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh. Sinh viên là những người có tuổi đời còn trẻ, họ có nhiều hoài bão ước mơ, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng vượt qua mọi thử thách, cống hiến sức lực và trí tuệ của mình cho mục tiêu cao cả của dân tộc. Nhưng ở họ lại có những hạn chế, tuổi đời còn ít, kinh nghiệm sống chưa nhiều, lại thiếu từng trải, vì vậy trong cuộc sống nhiều lúc tỏ ra bồng bột, chưa thực sự chín chắn trong suy nghĩ và hành động. Do đó, cần phải giáo dục hướng dẫn sinh viên hình thành lý tưởng cao đẹp, biết biến lý tưởng thành hiện thực, biết cụ thể hoá lý tưởng của mình trong cuộc sống lao động, học tập và sinh hoạt. Lý tưởng cao đẹp là những giá trị chỉ đạo, điều khiển hoạt động, hành vi hàng ngày của mỗi sinh viên. Nó không hình thành một cách tự phát trong mỗi sinh viên mà phải thông qua giáo dục mới có được. Lý tưởng cao đẹp chỉ được xây dựng trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng, ở đó có sự thống nhất giữa khoa học và niềm tin, giữa lý trí và tình cảm. 1.2.2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng Trên cơ sở xác định nội dung giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên đã nêu trên, để quá trình giáo dục này đạt hiệu quả cao, chủ thể giáo dục cần quan tâm, quán triệt tốt những nguyên tắc cơ bản sau: Thứ nhất, nguyên tắc tính Đảng. Đây là nguyên tắc chủ đạo trong nội dung giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng. Thực chất nó yêu cầu việc công khai trong đánh giá các hiện tượng của đời sống xã hội trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết đấu tranh bảo vệ và khẳng định lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, lợi ích của thế hệ trẻ, vì thế nguyên tắc này còn bao gồm cả việc đấu tranh không khoan nhượng với những quan niệm phản khoa học, xa lạ, thù địch với những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin - hạt nhân của toàn bộ thế giới quan duy vật biện chứng. Mặt khác, tính Đảng mác-xít là tính Đảng triệt để khách quan, là tính Đảng tiến bộ nhất, thật sự khoa học, bởi đây là sự nghiên cứu hiện thực một cách có hệ thống, đặc biệt là nghiên cứu tính mâu thuẫn biện chứng của hiện thực để tìm ra chân lý. Do vậy, chỉ có thể dựa trên nguyên tắc tính Đảng mác-xít chúng ta mới đi đến khẳng định chắc chắn rằng: chủ nghĩa tư bản nhất định bị phủ định bởi chủ nghĩa xã hội là xu thế tất yếu của lịch sử xã hội loài người. Thứ hai, nguyên tắc khách quan. Đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên. Việc phản ánh một cách khách quan, trung thực như tự nó có; nhìn thẳng vào sự thật với những thành tựu và thiếu sót, khuyết điểm, cả những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta sẽ là việc làm có ý nghĩa quan trọng cho việc hoạt động thực tiễn của lớp trẻ nhất là sinh viên, phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế, khó khăn, tranh thủ thời cơ vượt qua trở ngại để vươn lên trong học tập và cuộc sống. Sinh viên là những người có trình độ học vấn cao, do đó trong giáo dục nói chung, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng nói riêng không thể dùng cách nói vòng vo để che đậy những khuyết điểm, sai lầm mà chúng ta đã mắc phải. Nếu sự không trung thực bị phát hiện thì sự phản kháng và sự hoài nghi trong sinh viên sẽ diễn ra vô cùng phức tạp, nó sẽ tác động tiêu cực tới công tác giáo dục tư tưởng, chính trị. Việc phản ánh, đánh giá khách quan những vấn đề chính trị - xã hội của đất nước sẽ giúp cho sinh viên hiểu rõ hơn vai trò, trách nhiệm của mình đối với cộng đồng, dân tộc từ đó xác định mục tiêu phấn đấu cho mình một cách đúng đắn, hình thành một thế giới quan khoa học. Thứ ba, nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Trong giáo dục nguyên tắc lịch sử - cụ thể là một nguyên tắc rất quan trọng, phép biện chứng duy vật đã chỉ rõ mỗi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong không gian và thời gian xác định, đồng thời nó không tách khỏi với sự ràng buộc của thế giới xung quanh. Bản thân hoàn cảnh ra đời và tồn tại quyết định bản chất của sự vật, quy định sự vận động và biến đổi của nó. Thực chất quan điểm này yêu cầu khi xem xét bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào cũng phải tính đến điều kiện ra đời, tồn tại và biến đổi của chính nó. Do đó, khi giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên, ngoài các chuẩn mực chung cần phải chú ý đến những đặc điểm đặc thù của khu vực Tây Nguyên. Thứ tư, nguyên tắc thực tiễn. Đây là nguyên tắc có tính quyết định trong việc hiện thực hoá thế giới quan duy vật biện chứng. Hoạt động giáo dục tư tưởng sẽ không đem lại sự thay đổi nào trong hiện thực nếu như không được vật chất hoá. Nó chỉ phát huy tác dụng khi những tư tưởng đó được tuyên truyền tới quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân chấp nhận và trở thành phong trào quần chúng, thúc đẩy họ hoạt động trong cải tạo hiện thực khách quan. Việc thực hiện tốt nguyên tắc thống nhất lý luận với thực tiễn sẽ đẩy nhanh quá trình vật chất hoá tư tưởng. Lý luận được khái quát hoá từ thực tiễn nhưng chính thực tiễn mới là tiêu chuẩn kiểm tra tính đúng đắn của lý luận, thước đo của chân lý. Nguyên tắc lý luận thống nhất với thực tiễn không chỉ được hiểu là việc thực hiện hành vi theo tư tưởng đã khái quát mà nó cần thể hiện sự thống nhất ngay cả trong quá trình khái quát tư tưởng. Quán triệt tốt nguyên tắc này trong giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên chính là thực hiện tốt mối liên hệ của việc giáo dục thế giới quan với cuộc sống. Chúng ta phải tiến hành giáo dục thông qua các tổ chức hoạt động thực tiễn. Không gì hiệu quả bằng việc chúng ta tạo cơ hội để sinh viên được kiểm chứng những gì mình biết, vận dụng vào giải thích những vấn đề xã hội. Người sinh viên được coi là có thế giới quan duy vật biện chứng không đơn giản là người được giáo dục về thế giới quan duy vật biện chứng đó mà chủ yếu là đã biết chuyển hoá nhận thức, thành mục tiêu, thành niềm tin, trở thành động lực tự giác đấu tranh thực hiện thế giới quan đó trong hiện thực, chỉ có trong thực tiễn, bằng thực tiễn sinh viên mới có điều kiện cần thiết để thực hiện sự chuyển hoá đó. Thực hiện nguyên tắc thực tiễn trong giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên là yêu cầu khách quan và là cách làm khoa học. Trong giai đoạn hiện nay việc khơi dậy những phong trào hoạt động thực tiễn thiết thực, như: phong trào sáng tạo trẻ, phong trào tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng, hoạt động về nguồn, thắp nến tri ân… 1.2.3. Vai trò của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối với sinh viên nói chung và sinh viên ở Tây Nguyên nói riêng hiện nay Khi khẳng định sự cần thiết và nội dung cũng như quán triệt những nguyên tắc trong quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên, chúng tôi cho rằng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên có những vai trò sau: Một là, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần xây dựng niềm tin, lý tưởng sống cao đẹp cho sinh viên Giáo dục cho sinh viên nắm vững những nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ thế giới quan khoa học, giúp họ nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan của thời đại của đất nước, với tất cả những mối quan hệ giai cấp, dân tộc. Trong thế giới quan duy vật biện chứng mà triết học (bao gồm cả chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) cùng với các khoa học khác đã khẳng định sự phát triển của lịch sử xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên với những quy luật nhất định của nó. Từ đó, nó luận chứng về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, khi sinh viên được thấm nhuần sâu sắc thế giới quan duy vật biện chứng, sẽ tạo ra ở họ niềm tin về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và họ sẽ hành động vì lý tưởng cao đẹp đó - lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Hai là, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần xây dựng phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh Giáo dục đạo đức cho sinh viên ngày nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác giáo dục đào tạo ở các trường Đại học, Cao Đẳng, bởi vì nó là cơ sở nền tảng hình thành con người mới, những lực lượng quan trọng trong sự nghiệp thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong khi ấy trên thực tế đã xuất hiện một bộ phận không nhỏ sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Tây Nguyên, có lối sống thực dụng, suy thoái đạo đức. Trước thực trạng đó, thì việc xây dựng phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay là một trong những vấn đề cấp bách. Nhưng vấn đề là làm thế nào để xây dựng phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh cho sinh viên trong điều kiện khó khăn, những tác động khách quan của cơ chế thị trường và các thế lực thù địch đang thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, chống chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong thời gian qua, chúng đã tìm mọi cách gieo rắc trong sinh viên lối sống thực dụng, ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, sùng bái đồng tiền. Vì vậy, vấn đề cốt lõi hiện nay là phải trang bị cho sinh viên thế giới quan duy vật biện chứng một cách toàn diện và vững chắc, khi đó sẽ hình thành ở sinh viên nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa. Nó sẽ giúp cho sinh viên thấy được giá trị, ý nghĩa và mục đích sống của con người, “không có gì quý hơn độc lập tự do”, do vậy, tình cảm, ý chí và đạo đức cách mạng trong bản thân sinh viên được nâng lên. Đó là “bức tường thép” để ngăn chặn lối sống vô đạo đức, thực dụng trọng đồng tiền trong sinh viên hiện nay. Ba là, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng góp phần rèn luyện phương pháp tư duy khoa học nhằm khắc phục những tư tưởng duy tâm, tôn giáo. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, khoa học được hiểu là một hình thái ý thức xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, khoa học tồn tại mang tính độc lập tương đối với các hình thái ý thức xã hội khác. Khoa học phân biệt với các hình thái ý thức xã hội khác ở đối tượng, hình thức phản ánh và mang một chức năng xã hội riêng biệt. Như vậy có thể hiểu tư duy khoa học là tư duy mang tính khoa học, nó cần thiết cho mọi người trong xã hội. Đối với hoạt động học tập của sinh viên nói chung, vai trò của năng lực tư duy khoa học - tư duy biện chứng thể hiện ở sự tìm hiểu, phân tích, lý giải những vấn đề cụ thể của các môn học theo chuyên ngành đào tạo. Thực tế cho thấy, để tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề cụ thể của các môn học theo chuyên ngành đào tạo, cần đứng vững trên quan điểm duy vật, nắm vững và vận dụng linh hoạt, sáng tạo phương pháp luận duy vật biện chứng. Hiện nay, trong sinh viên nói riêng và thế hệ trẻ nói chung đang đứng trước một thực tế là có sự dao động về thế giới quan. Thế giới quan duy tâm và phương pháp tư duy siêu hình đang hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của họ. Thế giới quan duy vật biện chứng đang được giáo dục thông qua hệ thống nội dung chương trình, nhưng thực tiễn của đất nước có sự thay đổi lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, hơn nữa thế giới lại có sự biến động to lớn, đó là chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, chủ nghĩa tư bản đang vẫn còn thể hiện sức sống của mình về tiềm lực kinh tế và quân sự. Các nước tư bản lại có điều chỉnh mới về chính sách… Thực tiễn đó đang đặt ra cho sinh viên sự lựa chọn định hướng. Vì vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho sinh viên để họ có khả năng giải thích những vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống một cách khách quan và khoa học. Hiểu được tính cách mạng và khoa học của lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, hiểu đường lối, chính sách của Đảng, họ sẽ có khả năng khắc phục được những sai lầm trong nhận thức, chống lại những tư tưởng phản khoa học và cách mạng, chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo. Như vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ngày nay để bản thân họ có một thế giới quan khoa học, hình thành ở họ một phương pháp luận khoa học để giúp họ tránh khỏi những vấp váp, sai lầm trong suy nghĩ và hành động. Bốn là, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng giúp sinh viên có phương pháp nhận thức và hành động đúng đắn, trở thành những người có ích cho xã hội, thực sự là những người chủ tương lai của công cuộc xây dựng đất nước ta ngày càng to đẹp, hùng cường hơn. Thế giới quan duy vật biện chứng là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Vì vậy, thông qua việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên, phương pháp nhìn nhận, cải tạo thế giới sẽ được hình thành và phát triển. Mặt khác, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng là phương pháp rèn luyện tư duy lý luận cho người học, chủ yếu là gắn lý luận với thực tiễn. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng không những cung cấp tri thức khoa học ở trong nhà trường mà còn hướng dẫn chỉ đạo cho sinh viên biết đem lý luận đã học vào rèn luyện trong đời sống thực tiễn, biến những tri thức thành những phong trào hành động, vào những việc làm cụ thể có ích cho bản thân và xã hội. Đó là sự thống nhất giữa học và hành, lời nói và việc làm. Như vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp cho sinh viên tham gia vào hoạt động thực tiễn đạt kết quả tốt và cũng là quá trình giúp cho sinh viên rèn luyện năng lực giải quyết cộng việc của mình, cũng như tự rèn luyện mình để hoà nhập vào hoạt động chung của xã hội. Tóm lại, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay có một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng để sinh viên có lập trường cách mạng vững vàng, để nhận ra được cuộc đấu tranh gay go phức tạp giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa ngày nay để thấy rõ được sự xuyên tạc của bọn cơ hội, bọn phản động muốn bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện thế giới có những diễn biến phức tạp. Hơn nữa, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp cho sinh viên có phương pháp luận khoa học, từ đó họ có niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng ta. Một khi đã có lập trường và niềm tin thì sinh viên tham gia vào thực tiễn cuộc sống với tư cách người lao động có trình độ cao, lao động một cách tự giác, sáng tạo phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vào bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 1.3. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THẾ GIỚI QUAN VÀ VIỆC GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY 1.3.1. Sự tác động của những điều kiện trong nước và quốc tế 1.3.1.1. Những điều kiện quốc tế Tình hình thế giới vào những năm cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI đang có những biến đổi lớn, sự kiện chính trị tác động mạnh mẽ đến việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Sự sụp đổ ấy diễn ra trên diện rộng và diễn biến nhanh làm cho cả thế giới phải bàng hoàng kinh ngạc. Trước sự kiện ấy, đã có biết bao câu hỏi được đặt ra và có nhiều cách trả lời khác nhau. Điều này phải được làm rõ trong quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên, nếu không sinh viên sẽ mơ hồ về sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội trong tiến trình lịch sử, hoài nghi về học thuyết Mác - Lênin, thiếu ý chí phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế thế giới, xu thế toàn cầu hoá đang trở nên phổ biến. Cả thế giới đang sôi động trong một thị trường tự do, vừa hợp tác vừa cạnh tranh, hàng hoá ngày càng đa dạng, phong phú phục vụ mọi đối tượng tiêu dùng. Điều đó, làm cho bộ mặt của đời sống nhân dân thế giới ngày một no đủ hơn. Những nước nghèo và nhân dân các nước nghèo từng bước tiếp cận được với những sản phẩm tiên tiến của thời đại. Tầng lớp trí thức ngày càng được coi trọng, nền kinh tế tri thức đã trở thành xu thế tất yếu của thời đại. Hơn nữa, những năm qua, việc áp dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại vào đời sống kinh tế - xã hội làm xuất hiện nhu cầu phải xã hội hoá về sở hữu, về quản lý và đặc biệt là nâng cao đời sống của nhân dân. Chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh như: cổ phần hoá đối với một bộ phận công nhân; điều tiết thu nhập, thuê đội ngũ chuyên gia quản lý… Điều đó đã chứng minh chủ nghĩa tư bản còn có khả năng phát triển kinh tế và làm dịu xung đột xã hội. Vì vậy, nếu không có cái nhìn tổng thể, khách quan và sâu xa thì những hiện tượng trên đang “tô hồng” chủ nghĩa tư bản; làm cho bộ phận không nhỏ nhân dân thế giới nói chung, nhân dân ta nói riêng, trong đó có sinh viên tưởng rằng chủ nghĩa tư bản đang thay đổi bản chất để có xu hướng ngày càng một tốt đẹp hơn. Chính vì vậy mà hơn bao giờ hết phải giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng trong nhà trường để cho sinh viên hiểu rằng sự điều chỉnh ấy của chủ nghĩa tư bản không làm giảm đi sự phân cực giữa giai cấp tư sản đang giàu lên nhanh chóng với những người lao động nghèo, và những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản không hề mất đi. Trong xu thế toàn cầu hoá, chúng ta mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới. Song phải làm sao để giữ được bản sắc văn hoá dân tộc vì quá trình hội nhập kinh tế thì không thể không hội nhập cả văn hoá - xã hội. Vì vậy, khi tiếp thu những tinh hoa văn hoá của thế giới cần phải giáo dục cho sinh viên hình thành ở họ một “chất miễn dịch”, làm cho họ biết chắt lọc những gì là giá trị đích thực, những gì phù hợp với cốt cách của con người Việt Nam. 1.3.1.2. Những điều kiện trong nước Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng từng bước được hiện thực hoá. Sự tăng trưởng của kinh tế là một minh chứng, chính nhờ những thành tựu trong quá trình đổi mới, sinh viên đã thấy được sự đúng đắn của đường lối đổi mới và ý thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thấy được tầm quan trọng của nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trách nhiệm học tập của mình. Cũng vì vậy mà niềm tin của sinh viên đối với sự lãnh đạo của Đảng ngày càng vững chắc. Đây là điều kiện khách quan thuận lợi đối với công tác giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên. Sự tác động của cơ chế thị trường kích thích tính tự giác học tập của sinh viên, nó sẽ bớt đi tính thụ động, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, vào gia đình; sự tác động của cơ chế thị trường cũng phát huy tính tích cực giảng dạy và nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên. Từ đó làm cho chất lượng đào tạo được nâng lên. Mặt khác, kinh tế thị trường tuân theo quy luật giá trị, động lực của nó là lợi nhuận, mặt tiêu cực của nó là có tác động làm thay đổi về quan niệm giá trị, về lối sống của sinh viên, làm giảm đi tác dụng giáo dục đạo đức, chính trị tư tưởng của nhà trường. Cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc tiếp cận những thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ cao của thế giới giúp các sinh viên trưởng thành nhanh chóng và thể hiện được vai trò của mình trong xây dựng đất nước, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Đường lối đổi mới của Đảng đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, đưa đất nước vượt qua tác động của cơn chấn động chính trị trên thế giới và những khó khăn trong nước. Nhờ vậy, không chỉ trong nhân dân mà trong thanh niên, sinh viên đều phấn khởi, tin tưởng và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là không thể thiếu, tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng, luôn phấn đấu học tập theo đường lối giáo dục đó, gắn bó với Đảng qua tổ chức đoàn, phong trào “đoàn viên phấn đấu trở thành đảng viên” đã trở thành một trong những phong trào sôi động nhất trong chương trình công tác đoàn và phong trào thanh niên của tổ chức đoàn trong các trường Đại học, Cao Đẳng ở Tây Nguyên trong những năm qua. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng được hoàn thiện, bộ máy Nhà nước ngày càng có hiệu lực, ban hành nhiều văn bản lập quy, quản lý thống nhất mọi lĩnh vực của đời sống xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho đời sống người dân đảm bảo quyền công dân của mình. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh từng bước được đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động thiết thực hơn. Xu thế dân chủ hoá, công khai hoá trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội kể cả trong giáo dục và đào tạo cũng tác động tích cực đến sinh viên, tạo điều kiện cho họ phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó thì năng lực và hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội chưa đáp ứng kịp yêu cầu của tình hình mới. Tình trạng nhiều quyết định chưa sát với tình hình và còn thiếu căn cứ khoa học. Luật pháp còn nhiều khe hở để cho nhiều hành vi phạm pháp, tham nhũng, trốn thuế, buôn lậu hoành hành. Đây cũng là những trở ngại cần khắc phục trong quá trình giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên nói chung. Trong quá trình đổi mới, lĩnh vực văn hoá tinh thần của xã hội cũng có bước phát triển mới. Số lượng các ấn phẩm văn hoá tăng lên rất nhiều, một số tác phẩm mới có giá trị tư tưởng và nghệ thuật được sinh viên yêu thích. Nhiều hình thức văn hoá truyền thống được khôi phục, nhất là các lễ hội, các di tích văn hoá, di tích lịch sử được tu bổ thu hút sinh viên đến tham quan, du lịch. Các phương tiện thông tin đại chúng và thông tin đại chúng ngày càng cung cấp nhiều thông tin, tạo cho sinh viên có điều kiện tiếp cận nhiều hoạt động trong và ngoài nước. Nhiều hoạt động với quy mô toàn quốc được tổ chức cho sinh viên hoặc do sinh viên đảm nhiệm thu hút hàng vạn người tham gia. Những thành tựu đó tác động làm thoả mãn nhu cầu, tăng sự hiểu biết, phát huy tính tích cực của sinh viên. Tuy nhiên, bên cạnh đó thì tình hình văn hoá, văn nghệ cũng có nhiều tác động theo xu hướng ngược lại và thật đáng lo ngại. Lối sống chạy theo đồng tiền, những thị hiếu không lành mạnh, những hủ tục, mê tín tăng nhanh, nhiều văn hoá phẩm độc hại lan tràn trên thị trường, len lỏi vào sinh viên. Những yếu tố này cũng có tác động mạnh mẽ đến thế giới quan của sinh viên và việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên cũng gặp nhiều khó khăn. 1.3.2. Những nhân tố đặc thù của Tây Nguyên Những điều kiện đặc thù của Tây Nguyên cũng là một nhân tố tác động tới thế giới quan và quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên. Điều kiện đặc thù của địa phương bao gồm: điều kiện địa lý, tự nhiên; kinh tế - xã hội; văn hoá, khoa học, giáo dục - công nghệ. Sinh viên là những người trẻ tuổi, thường năng nổ, ham hiểu biết, dễ thích nghi với những hoàn cảnh mới. Do đó, môi trường mà sinh viên đang học tập, sinh hoạt từ ba đến năm sáu năm liên tục cũng ảnh hưởng lớn đến thế giới quan, nhân sinh quan, đặc biệt là nhân cách của đội ngũ này. Từ đó, đặt ra trách nhiệm cho chủ thể giáo dục là phải nắm được đặc điểm, tình hình của địa phương nơi mà sinh viên đang học tập để có định hướng giáo dục, có những giải pháp phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả giáo dục cao nhất. 1.3.2.1. Ảnh hưởng của điều kiện địa lý, tự nhiên Hiểu một cách khái quát nhất, tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất khách quan. Do đó, con người có nguồn gốc từ tự nhiên, là con đẻ của giới tự nhiên, là sản phẩm và là sản phẩm cao nhất của quá trình tiến hoá của thế giới vật chất. Tự nhiên là môi trường sống của con người và xã hội loài người, vai trò của tự nhiên không gì có thể thay thế được và cũng không bao giờ mất đi. Vì vậy, sự ảnh hưởng của điều kiện địa lý, tự nhiên đến sản xuất vật chất của xã hội từ đó nó ảnh hưởng đến ý thức xã hội như: tư tưởng, quan điểm, tình cảm, tâm trạng, truyền thống…Chính điều kiện địa lý, tự nhiên tác động không nhỏ đến cách nhìn nhận thế giới và phương pháp tư duy của con người. Tây Nguyên gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng; diện tích tự nhiên 54.474 km2 (chiếm 16,3% diện tích cả nước); dân số gần 5 triệu người; có 47 dân tộc anh em cùng sinh sống. Với vị trí nằm ở trung tâm miền núi Nam Đông Dương, địa thế hiểm yếu, có những hành lang tự nhiên thông với Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và duyên hải Trung bộ. Điều kiện tự nhiên chủ yếu là rừng núi, trước đây cư dân Tây Nguyên sinh sống bằng nghề trồng trọt, săn bắt, khai thác các lâm thổ sản quý ở rừng… vì vậy mà rất hạn chế trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật và sức sáng tạo của con người. Do đó, đã hình thành ở con người nơi đây - nhất là người bản địa một lối tư duy kinh nghiệm, trực quan cảm tính, một lối sống giản đơn không cầu kỳ… nhưng đồng thời cũng hình thành những phẩm chất về nhân sinh quan (một bộ phận tạo thành thế giới quan) rất tốt đẹp là trung thực, giàu tình người, trong giao tiếp rất mến người, tin bạn, ưa làm điều thiện. Cũng từ những điều kiện địa lý, tự nhiên này và với một phương thức sản xuất lạc hậu, trình độ hiểu biết thấp kém; người Tây Nguyên quan niệm thế giới một cách giản đơn, mộc mạc và thần bí; theo quan niệm của họ từ mặt trời, mặt trăng, ngọn núi, con sông…đều có một vị thần trú ngụ và họ cầu xin các vị thần linh đó che chở cho họ trong cuộc sống. Chính những quan niệm duy tâm, thần bí về thế giới như vậy cùng với tính cách phóng khoáng của người Tây Nguyên là cuội nguồn của trường ca Tây Nguyên bất hủ; đồng thời cũng là cội nguồn sinh ra những hủ tục, mê tín dị đoan lạc hậu trong đời sống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên từ xa xưa và còn tồn tại đến ngày nay. 1.3.2.2. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội Theo quan điểm duy vật biện chứng, điều kiện địa lý và môi trường tự nhiên mới chỉ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến đời sống con người, còn yếu tố cơ bản quyết định là phương thức sản xuất, hoạt động kinh tế của con người. Do đó, việc nghiên cứu sự phát triển của kinh tế mà trước hết là trình độ của lực lượng sản xuất, trình độ phân công lao động sẽ cho ta chìa khoá hiểu được ý thức xã hội nói chung và thế giới quan của người Tây Nguyên nói riêng. Khi đất nước chưa được giải phóng, kinh tế Tây Nguyên về cơ bản mang nặng tính chất của một nền sản xuất tự nhiên. Do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, trình độ phân công lao động chưa đáng kể, chủ yếu sản xuất theo kiểu “chọc lỗ tra hạt”, kinh tế hàng hoá chưa phát triển, kinh tế chủ yếu là tự cung tự cấp. Từ những năm đầu của thế kỷ XX, tư bản trong và ngoài nước có tiến hành đầu tư một số cơ sở sản xuất kinh doanh, nhưng chủ yếu là những cơ sở sản xuất quy mô nhỏ trong nông nghiệp, lâm nghiệp và tập trung vào những vùng đất màu mỡ, điều kiện tự nhiên có nhiều thuận lợi. Trong khi đó, hoạt động kinh tế của đại đa số đồng bào dân tộc gần như biệt lập chủ yếu mang tính chất tự nhiên. Sau ngày đất nước thống nhất, với sự đầu tư của Trung ương, các tỉnh Tây Nguyên đã tổ chức lại sản xuất, xây dựng các cơ sở vật chất - kỹ thuật, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Đến nay, kinh tế - xã hội phát triển rõ nét, và đạt được những thành tựu quan trọng. Giai đoạn 2001 - 2005, tăng trưởng GDP bình quân đạt 10,6 %; năm 2006, thu ngân sách trên địa bàn tăng 3,27% so với năm 2001. Thu nhập bình quân đầu người từ 80 USD (năm 1991) lên 211 USD (năm 2000) và 430 USD (năm 2006). (Nguồn số liệu của văn phòng Ban chỉ đạo Tây Nguyên cung cấp). Tuy vậy, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, vùng sâu, vùng xa vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, số hộ nghèo vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. Chênh lệch về mức sống giữa thành thị - nông thôn, giữa đồng bào kinh - vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng giãn ra; xu hướng bất bình đẳng về kinh tế, đời sống giữa các vùng theo chiều hướng ngày càng tăng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến giảm sự đồng thuận xã hội, tạo cớ cho các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền, kích động. Về xã hội, hiện nay Tây Nguyên có 47 dân tộc anh em sinh sống, trong đó có khoảng 12 dân tộc bản địa đã sinh sống từ lâu đời. Cơ cấu dân số các dân tộc trên địa bàn cũng có sự biến đổi nhanh chóng. Tính từ năm 1975, Tây Nguyên có 1,1 triệu người gồm 18 dân tộc trong đó đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ chiếm trên 70%. Đến cuối năm 2005, dân số toàn vùng Tây Nguyên là 4.804.170 người, có 47/54 dân tộc; trong đó dân tộc Kinh 3,2 triệu người (chiếm 67,39%); các dân tộc thiểu số tại chỗ 1.23.200 người (chiếm 25,63%), các dân tộc thiểu số nơi khác đến lập nghiệp 335.520 người (chiếm 6,98%) (Nguồn số liệu của văn phòng Ban chỉ đạo Tây Nguyên cung cấp). Đặc điểm đáng chú ý nhất trong cộng đồng dân tộc tại chỗ ở khu vực Tây Nguyên là các dân tộc bản địa có hai điểm giống nhau về cơ bản là: Thứ nhất, đơn vị tổ chức xã hội cao nhất là làng, theo kiểu truyền thống mang đậm dấu ấn của công xã thị tộc mẫu hệ (Buôn của người Êđê; Plei của người Jrai,…). Tuy nhiên, một số nơi ở Giai Lai, ĐăkLăk đơn vị tổ chức xã hội cao nhất là Trinh, Char còn cao hơn cả làng, đó là nơi vừa là đơn vị tổ chức xã hội vừa là đơn vị kinh tế tự cấp, tự túc. Thứ hai, các dân tộc ở Tây Nguyên sống xen kẽ là chủ yếu. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến xích mích và xung đột giữa dân tộc bản địa và dân di cư có sự khác biệt giữa văn hoá, trình độ kinh tế - xã hội ở các buôn làng. Ở Tây Nguyên xu hướng di dân đến vẫn tiếp tục xẩy ra, điều này kéo theo sự hội nhập ngày càng phong phú, đa dạng về tập quán, lối sống, về tính chất và kinh nghiệm sản xuất, về văn hoá, tâm lý truyền thống…, với đầy đủ tính chất hai mặt của nó. Tất cả những yếu tố này cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc tiếp thu và giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở địa bàn này. Tây Nguyên ở vào vị trí địa bàn chiến lược và an ninh biên giới, một trong những trọng điểm trong việc thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” của bọn thù địch, các tỉnh Tây Nguyên đang thường xuyên và trực tiếp bị tác động của sự diễn biến khá phức tạp từ bên ngoài. Bọn phản động quốc tế và bọn phản động người Việt lưu vong đã và đang lợi dụng Campuchia làm bàn đạp trực tiếp để thâm nhập và móc nối với bọn phản động bên trong nhằm phá hoại cách mạng Việt Nam. Trong khi đó tình hình chính trị, xã hội Tây Nguyên tuy có bước chuyển biến có lợi nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể gây mất ổn định. Một trong nhưng mũi nhọn của chiến lược “diễn biến hoà bình” là vấn đề biên giới, vấn đề dân tộc và vấn đề tôn giáo. Tây Nguyên là địa bàn về khách quan đã và đang hội đủ những vấn đề trên. Tất cả những vấn đề này đang tác động mạnh mẽ đế thế hệ trẻ trong đó có sinh viên. 1.3.2.3. Tác động của văn hoá, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ Bên cạnh điều kiện địa lý, tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội thì văn hoá , giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ cũng ảnh hưởng đến việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Tây Nguyên. Ở Tây Nguyên hiện nay, ngoài một số dân tộc bản địa sinh sống lâu đời như: ÊĐê, M’Nông, BaNa, Xê Đăng, Mạ, GiaRai, K’Ho, GiẻTriêng…, số còn lại là những dân tộc di cư chủ yếu từ phía Bắc vào, người Tây Nguyên có hai ngôn ngữ chính, hệ Môn - Khmer bao gồm các dân tộc BaNa, XêĐăng, M’Nông, K’Ho… và hệ Nam Đảo bao gồm các dân tộc ÊĐê, GiaRai, Chu Ru,… Tuy hiện nay còn nhiều quan điểm chưa thống nhất về lịch sử hình thành cư dân Tây Nguyên, nhưng tuyệt đại đa số các nhà nghiên cứu coi chủ nhân văn hoá Sa Huỳnh là các cư dân Nam Đảo cụ thể là người Chăm. Trên cơ sở ấy, các học giả cho rằng người GiaRai, ÊĐê trước đây cùng một nhóm với người Chăm, nhưng do nhiều nguyên nhân đã di chuyển về phía tây. Có ý kiến cho rằng, hai dân tộc GiaRai, ÊĐê vì không chấp nhận nền văn hoá Ấn giáo nên đã tách ra để di chuyển lên khu vực miền núi và giữ nguyên phong tục tập quán cổ xưa của mình [52]. Còn một số học giả khác lại cho rằng, người Nam Đảo ở miền núi là chủ nhân của vùng rừng núi Trường Sơn và xem đây là một trong những đặc trưng cơ bản của vùng văn hoá này, một bản sắc riêng ngay trong chủ thể sáng tạo ra con người các dân tộc Tây Nguyên [58]. Văn hoá Tây Nguyên mang các yếu tố dung hoà các sắc thái của từng dân tộc anh em sống trên mảnh đất này, tạo thành phẩm chất đặc biệt mang tính bền vững đặc trưng cho Tây Nguyên, phân biệt văn hoá Tây Nguyên với văn hoá của các vùng khác trong cả nước. Khi nói đến văn hoá Tây Nguyên phải kể đến các trường ca Tây Nguyên, đến văn hoá cồng chiêng, kiến trúc văn hoá nhà mồ, nhà rông, nhà dài, các lễ hội… tất cả những nét văn hoá đặc trưng này được kết tinh trong quá trình lao động và đấu tranh của người Tây Nguyên đối với tự nhiên, xã hội và kẻ thù qua hàng thiên niên kỷ. Trước đây do trình độ sản xuất thấp kém, còn lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, trình độ tư duy chưa phát triển, các dân tộc Tây Nguyên chưa giải thích được một cách khoa học các hiện tượng tự nhiên, nên trong tâm tưởng, trong các lễ hội, phong tục tập quán còn in đậm niềm tin, khát vọng vào thế giới thần linh theo quan niệm “vạn vật hữu linh”. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên tin rằng buôn làng được bình yên, mọi người được khoẻ mạnh hoặc bị bệnh tật, hay bị thiên tai đều do tác động của trời đất, do tấm lòng của mình đối với thần linh. Những quan niệm này nó có ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp thu thế giới quan duy vật biện chứng cho nhân dân nói chung và cho sinh viên nói riêng. Mùa lễ hội Tây Nguyên là một loại hình sinh hoạt văn hoá cộng đồng kéo dài từ tháng một đến tháng ba dương lịch hàng năm. Đây vừa là thời gian giải trí của đồng bào Tây Nguyên sau những ngày lao động mệt nhọc vừa là ngày lễ tạ ơn thần nông nghiệp (thần Ya Pôm). Trong ngày hội, Mẹ Lúa là trung tâm của lễ. Mỗi gia đình đem một hũ rượu cần và một rá cốm thơm đến nhà Rông. Bàn thờ chỉ là một bó lúa, mấy chục que tre gắn chông và hạt bông, sau mấy câu khấn ngắn gọn, đơn giản của chủ làng là cuộc diễu hành chiêng và múa. Với đồng bào Tây Nguyên vạn vật đều có thần linh và đều có cuộc sống riêng của chúng. Mỗi điều may rủi xẩy ra với từng người, từng nhà, từng buôn làng đều có mối liên hệ giữa người với người, giữa người với thiên nhiên. Tất tả những mối quan hệ ấy đều trên thế bình đẳng, là quan hệ anh em, người Tây Nguyên đi tìm thần như là đi tìm người đồng minh, tìm “bạn tình” như Đam San đi tìm nữ thần Mặt trời... Trên thực tế chúng ta có thể khẳng định rằng, con người Tây Nguyên tự tin vào mối quan hệ bền vững, tốt đẹp của mình với môi trường. Phải chăng cái vẻ hoang sơ, huyền thoại trong cuộc sống khiến cho con người Tây Nguyên còn giữ được những phẩm chất “bản thiện” của người và “chưa bị tha hoá” bởi xã hội có giai cấp. Và chính cuộc sống mà trong đó hội tụ cả mọi miền thời gian, mọi nẻo không gian, cả hiện thực và huyền thoại, đã là mảnh đất màu mỡ cho trí tưởng tượng bay bổng và cho sức sáng tạo nghệ thuật. Kiến trúc nhà mồ cũng là một nét văn hoá đặc trưng của Tây Nguyên. Nhà mồ là sản phẩm kết tinh của nhiều loại nghệ thuật, là tác phẩm nghệ thuật tổng hợp. Theo quan niệm của người Tây Nguyên, chết không phải là hết mà là sự tiếp tục của cuộc sống ở dạng khác để rồi sẽ trở lại làm người, cho nên nhà mồ cùng với lễ hội bỏ mả hợp thành biểu tượng, hợp thành bài ca đề cao cuộc sống, sự bất diệt của con người, chứ nó không phải là đền, miếu mạo để thờ người chết như ta thấy ở các vùng khác. Qua nhà mồ, hình ảnh sống động tốt đẹp của thế giới bên này được trao cho người chết để họ sống thanh thản ở thế giới bên kia. Sự tái sinh cuộc sống in đậm nét trong kiến trúc nhà mồ - một dạng kiến trúc mang đầy tính nhân văn. Giá trị văn hoá phi vật thể thành văn và không thành văn ở Tây Nguyên trong lĩnh vực nghệ thuật chủ yếu ở đây là các giá trị văn hoá dân gian khuyết danh và truyền miệng, đó là Folklore Tây Nguyên. Folklore là một thực thể sống và là một yếu tố cấu thành của tổng thể nền văn hoá dân tộc đậm đà, nó là cuốn sử thi của dân tộc Tây Nguyên. Mặc dù bản sắc của từng dân tộc biểu hiện những sắc thái riêng của mình, nhưng có thể nói đến ở Tây Nguyên từ sử thi ÊĐê đến các trường ca BaNa, GiaiRai, M’Nông,…đều nói về các anh hùng thuở khai sáng và khát vọng của con người Tây Nguyên hướng về cội nguồn tổ tiên, về cội nguồn dân tộc. Tất cả những yếu tố ấy có ảnh hưởng đến việc hình thành thế giới quan, góp phần trong việc tạo dựng phẩm chất khoan dung, lối ứng xử hài hoà, ý thức cộng đồng của con người Tây Nguyên. Về giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ: Do có nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề giáo dục - đào tạo nên sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ và nhân dân các tỉnh Tây Nguyên đã đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, đưa cuộc cách mạng này đi trước một bước để tạo ra tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Mục đích chủ yếu của cuộc cách mạng này là phát triển giáo dục - đào tạo, phát triển khoa học - công nghệ để nâng cao trình độ dân trí, xây dựng tiềm lực trí thức ở Tây Nguyên. Qua hơn 30 năm xây dựng tiềm lực trí thức cho Tây Nguyên đã thu được thành tựu khá to lớn. Nếu như trước ngày Miền Nam chưa giải phóng, trình độ dân trí các dân tộc Tây Nguyên còn rất thấp, tiềm lực khoa học hầu như chưa có gì, dân cư phần lớn chưa biết đọc, chưa biết viết thì hiện nay thì nay đa số trẻ em đã được đến trường, có 99,24% số xã đạt chuẩn phổ cập tiểu học và chống tái mù chữ, gần 32% số xã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Số trường, lớp đến năm học 2005 - 2006 tăng 39% so với năm học 2001 - 2002, cơ bản xoá được tình trạng học ca ba. Đặc biệt Đại học Tây Nguyên (hơn 30 năm qua đã đào tạo khoảng 1.600 sinh viên dân tộc thiểu số, hiện nay tỷ lệ sinh viên dân tộc thiểu số chiếm 20% trong tổng số sinh viên hệ chính quy), Đại học Đà Lạt (tỷ lệ sinh viên dân tộc thiểu số chiếm 7% trong tổng số sinh viên hệ chính quy) trở thành trung tâm đào tạo lớn của toàn vùng. Ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số có hình ảnh rất sinh động là nếu như trước đây nhà trường và giáo viên đi tìm học sinh thì nay học sinh đã tìm đến trường, tìm đến giáo viên để học tập. (Nguồn số liệu của Ban chỉ đạo Tây Nguyên cung cấp). Những thành tựu trong giáo dục - đào tạo tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội, tạo điều kiện trực tiếp cho việc nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân Tây Nguyên nói chung và sinh viên nói riêng. Cùng với những thành tựu trong giáo dục - đào tạo, những thành tựu trong phát triển kinh tế đã ảnh hưởng tích cực đến việc giáo dục và tiếp thu thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay. Trong đời sống xã hội, những nhân tố duy vật từng bước được khẳng định, và đang dần dần đẩy lùi những quan niệm thần bí, mê tín, những hủ tục, tập quán lạc hậu; Lối tư duy mang tính trực quan, cảm tính, tư duy kinh nghiệm từng bước bị phá vỡ thay vào đó là trình độ tư duy lý luận ngày càng được nâng cao. Đây là một nhân tố cực kỳ quan trọng của thế giới quan duy vật biện chứng. 1.3.2.4. Ảnh hưởng của yếu tố tâm lý và truyền thống Các dân tộc Tây Nguyên quan niệm truyền thống là những di tồn xã hội, sức mạnh của tập quán được hình thành từ “khai thiên lập địa” và được truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác cho đến hôm nay. Tâm lý của người Tây Nguyên không tách rời truyền thống của họ, nó in đậm trong các phong tục tập quán, trong lễ hội, trong sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo và các yếu tố tâm lý ấy cũng ảnh hưởng đến thế giới quan và việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên. Sống trên một vùng cao nguyên rộng lớn, các dân tộc Tây nguyên từ ngàn xưa đã biết phát rừng, đốt rẫy, trồng lúa, trồng ngô…, biết đấu tranh với thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Với núi cao rừng thẳm, đất rộng người thưa, trình độ làm chủ của con người còn hạn chế đã hình thành tập quán du canh, du cư, tập quán đó cứ tồn tại và truyền từ đời này sang đời khác, tạo nên tâm lý “ỷ lại” núi rừng, “nay đây mai đó”. Xã hội Tây Nguyên cổ truyền tổ chức theo chế độ mẫu hệ và đã in đậm vào truyền thống, tâm lý, phong tục tập quán của người Tây Nguyên. Trong hội mùa, đồng bào thường gọi thần núi, thần sông, thần nương rẫy, thần lúa, thần ngô…đều là bà Pap Pôm. Phong tục của người GiaRai, BaNa, ÊĐê… con cái tính theo dòng mẹ, lấy họ mẹ. Trong hôn nhân, con gái đóng vai trò chủ động. Nếu như ở người Kinh trước đây con gái phải thực hiện “tam tòng” thì ở đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thì ngược lại, con gái bắt chồng, cưới chồng, cưới xong thì con trai xuất giá, rời bỏ cha mẹ, anh em; và nếu vợ chết thì lấy em gái vợ làm vợ. Trong cuộc sống, vai trò của người phụ nữ trở thành chính yếu, từ việc nắm giữ kinh tế, đến nuôi dạy con cái, tổ chức cuộc sống đều đặt lên vai người phụ nữ. Người đàn ông chủ yếu lo nương rẫy và làm nhiệm vụ “tái sản xuất dân cư”. Sự phân công xã hội từ bản sắc văn hoá cộng đồng ít nhiều ảnh hưởng đến nhân cách của con người trong hiện tại cả hai chiều thuận nghịch - tâm lý thụ động, tự ti và bao dung hoà đồng. Xã hội Tây Nguyên trước đây chưa biết đến giai cấp, nhà nước quốc gia, chưa biết đến đồng tiền, buôn bán. Họ sống quây quần trong làng mà đồng bào thường gọi là Buôn, Plei, Boon… tuỳ theo tiếng nói của từng dân tộc. Có thể nói làng đơn vị xã hội cao nhất của người Tây Nguyên cổ truyền. Làng, rừng, nương rẫy là nền tảng chung của đời sống tinh thần của các dân tộc Tây Nguyên. Tình đoàn kết cộng đồng làng thể hiện rất sâu đậm và được cố kết trên công bằng nguyên sơ. Họ quan niệm “sống sao thác vậy”, sống cùng ăn chung, uống chung thì chết cũng chôn chung. Con trâu khi còn sống là của riêng một nhà, nhưng khi giết thịt tạ ơn trời thì nó lại là cái chung của cả làng. Trong làng không có người cai trị, toàn thể cộng đồng tự vận hành theo tục lệ của làng - lệ tục bao gồm toàn bộ những quy ước được cộng đồng chấp nhận mà mọi người phải tuân theo để đảm bảo sự bình yên cho cộng đồng, ai làm trái sẽ bị xử phạt để tạ lỗi thần linh, tạ lỗi người bị hại và tạ lỗi cộng đồng. Người Tây Nguyên ghét nhất là tội làm trái lệ tục. Sự xử phạt của người Tây Nguyên thường dựa trên tinh thần tự nguyện, nếu có một người nào đó chưa tự nguyện thì cũng dựa vào dư luận của cộng đồng để thuyết phục. Để thực hiện các quy ước theo lệ tục của làng, tuy không có người cai trị, nhưng những người nào hiểu biết lệ tục hơn, nắm chắc tình hình của làng, có kinh nghiệm trong lao động sản xuất và đời sống thì được cộng đồng tôn lên làm vai trò “trọng tài” mà người Tây Nguyên thường gọi là “già làng”. Già làng không có quyền lực, đặc quyền, đặc lợi mà duy nhất chỉ có uy tín tinh thần gần như tuyệt đối. Yếu tố truyền thống này tạo nên ý thức cộng đồng bao giờ cũng là tính trội so với ý thức sống và làm việc theo pháp luật. Nói đến truyền thống các dân tộc Tây Nguyên còn phải đề cập đến lòng yêu nước nồng nàn, ý chí không có gì quý hơn độc lập tự do. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, những cái tên như Bản Đôn, ngục Kon Tum, đường mòn Hồ Chí Minh; những trận thắng vang dội như Buôn Ma Thuột, Đắc Tô, Tân Cảnh… đã đi vào lịch sử, nói lên ý thức độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở đồng bào Tây Nguyên đã hình thành. Đây là yếu tố thuận lợi cho việc tạo dựng phẩm chất chính trị cho sinh viên đang học tập và sinh sống trên vùng đất này. Chương 2 GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 2.1. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY 2.1.1. Khái quát về thái độ chính trị, lối sống của sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay Hiện nay ở Tây Nguyên có trên 10 Đại học, Cao đẳng với hơn 20.000 sinh viên hệ chính quy đang học tập, nghiên cứu. Qua khảo sát một số trường Đại học, Cao đẳng ở ĐăkLăk thu được kết quả như sau: - Về nhận thức, thái độ của sinh viên về nhiệm vụ học tập, rèn luyện. Nhận thức, thái độ chính trị của sinh viên trước tiên thể hiện ở sự nhận thức, thái độ về nhiệm vụ chính trị của họ là học tập, rèn luyện để ngày mai lập nghiệp. Sinh viên có nhận thức, thái độ chính trị tích cực là phải phát huy cao độ được truyền thống hiếu học của dân tộc, luôn chủ động tích cực, khắc phục khó khăn, chuyên cần và sáng tạo vươn lên trong học tập và rèn luyện để trở thành những trí thức trẻ có tư duy độc lập, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong lao động khoa học, tạo ra nhiều sản phẩm khoa học có giá trị phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Qua khảo sát cho thấy, bên cạnh số đông sinh viên tích cực học tập và rèn luyện, có ý chí vượt khó, cần cù, sáng tạo, có hoài bão, phấn đấu học tập vì ngày mai lập nghiệp thì còn một tỷ lệ không nhỏ sinh viên chưa xác định đúng nhiệm vụ học tập của mình, lười học, ngại phấn đấu. Khi được hỏi bạn quan tâm đến vấn đề gì nhiều nhất, kết quả: quan tâm đến vấn đề việc làm sau khi ra trường chiếm 44,8%; giải trí chiếm 27,7%; học tập chính khoá chiếm 25,1%; nghề nghiệp tương lai chiếm 22,3%. Khi được hỏi, bạn đánh giá như thế nào về thái độ của sinh viên trường bạn trong việc học tập các môn khoa học Mác - Lênin, kết quả: bình thường chiếm 46,2%; nghiêm túc chiếm 36%; không nghiêm túc chiếm 17%; rất nghiêm túc chiếm 0,8%. Điều này cho thấy sinh viên Tây Nguyên hiện nay, nhiều sinh viên đã có ý thức vươn lên với mục tiêu lĩnh hội sự giáo dục toàn diện, họ đã bắt đầu lo lắng đến kết quả học tập không chỉ các môn học thuộc chuyên ngành đào tạo mà còn cả các môn khoa học Mác - Lênin. Họ có ý thức lập thân lập nghiệp, tu dưỡng rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức. Nhiều sinh viên đã bắt đầu quan tâm tìm hiểu sâu những nội dung của các môn khoa học Mác - Lênin, tìm hiểu về đường lối chủ trương của Đảng. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một lực lượng khá lớn chưa thấy được sự cần thiết phải học tập các môn khoa học Mác - Lênin. Họ cho đó là những môn học bắt buộc, mang tính chính trị khô cứng mà chưa thấy được vai trò chi phối của lý luận Mác - Lênin đối với tư duy khoa học, chưa thấy được sự yếu kém của nhận thức lý luận sẽ hạn chế khả năng phát triển tài năng. Vì vậy, sinh viên chỉ quan tâm học các môn khoa học này vào kỳ thi và có quan niệm rằng kết quả thi chỉ cần 5 điểm là đủ. Xuất phát từ tinh thần thái độ học tập như vậy nên nhiều sinh viên không chuẩn bị bài trước khi lên lớp, ở lớp thì không tham gia phát biểu xây dựng bài, thậm chí không tập trung khi giảng viên thuyết trình. Thái độ học tập không tích cực này đã gây nên tác động đếm tâm lý của giảng viên, gây ức chế, làm giảm sự nhiệt huyết và khả năng sáng tạo của giảng viên. Từ đó cho thấy rằng một bộ phận không nhỏ sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay chưa hoàn toàn yên tâm với việc học tập, rèn luyện mà nỗi lo thường trực của họ là vấn đề ra trường làm gì, làm ở đâu. - Về niềm tin của sinh viên vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những thành tựu đạt được của công cuộc đổi mới đất nước hơn 20 năm qua đã tác động tích cực đến nhận thức, thái độ chính trị của sinh viên, kết quả khảo sát cho thấy: rất tin tưởng chiếm 52%; khó trả lời chiếm 30%; không tin tưởng chiếm 18%. Bên cạnh đó thì đa số sinh viên còn băn khoăn lo lắng vào những vấn đề tiêu cực của xã hội, như: vấn đề tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi, nạn tham nhũng chưa được giải quyết, sự thiếu gương mẫu của người đảng viên có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của sinh viên. Thực tế này rất đáng chú ý, khiến chúng ta phải suy nghĩ, bởi đây là những lo lắng hoàn toàn chính đáng của sinh viên. Nếu chúng ta không tập trung giải quyết triệt để những băn khoăn này của sinh viên thì công tác giáo dục chính trị tư tưởng sẽ khó có hiệu quả. - Về nhu cầu và nguyện vọng của sinh viên, qua phỏng vấn nhóm sinh viên Đại học Tây Nguyên, Cao đẳng Sư phạm ĐăkLăk, Cao đẳng Văn hoá nghệ thuật ĐăkLăk, Cao đẳng nghề thanh niên dân tộc Tây Nguyên cho thấy, đa số ý kiến trao đổi mong muốn các trường cải tiến nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy chất lượng hơn, gắn với yêu cầu của thị trường lao động. Điều kiện phương tiện, tài liệu học học tập còn ít và cũ. Nhu cầu và nguyện vọng của sinh viên thường liên quan đến những vấn đề sinh viên quan tâm nhất hàng ngày. Bên cạnh nguyện vọng việc làm sau khi ra trường, sinh viên viên còn mong đợi cuộc sống được cải thiện hơn. Thực trạng điều kiện sống tạm bợ của sinh viên thuê nhà trọ, cuộc sống thiếu thốn, điều kiện học tập của sinh viên đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, tới hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng. - Về lối sống của sinh viên biên hiện trong sinh hoạt hàng ngày. Qua tìm hiểu trường Đại học Tây Nguyên, Cao đẳng Sư phạm ĐăkLăk, Cao đẳng Văn hoá nghệ thuật ĐăkLăk, Cao đẳng nghề thanh niên dân tộc Tây Nguyên cho thấy: các biểu hiện tích cực trong sinh hoạt hàng ngày được sinh viên đánh giá ở mức phổ biến nhất là hiện nay sinh viên có ý chí phấn đấu trong cuộc sống, sống có định hướng, sống có trách nhiệm với gia đình và xã hội, trung thực lành mạnh. Bên cạnh đó còn tồn tại một bộ phận sinh viên sống ngại gian khổ, thiếu định hướng, thiếu lý tưởng, thực dụng, buông thả, chờ may rủi của số phận, có biểu hiện mê tín dị đoan. 2.1.2. Thực trạng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay 2.1.2.1. Giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác - Lênin với việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên trong các trường Đại học, Cao đẳng chủ yếu thông qua giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin. Tất nhiên các môn khoa học khác cũng góp phần hình thành thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên nhưng trong giới hạn của luận văn chỉ tập trung vào thực trạng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên thông qua việc giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác - Lênin. - Về nội dung chương trình: Do yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin là một trong những nhiệm vụ quan trọng để phục vụ sự nghiệp này. Vì vậy, từ năm 1991 Bộ Giáo dục - Đào tạo đã ban hành bộ chương trình và đề cương bài giảng các môn khoa học Mác - Lênin dùng trong các trường Đại học, Cao đẳng. Thực hiện Quyết số 255-CT ngày 17-3-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được thành lập và có nhiệm vụ tổ chức biên soạn bộ giáo trình chuẩn quốc gia. Trên cơ sở bộ giáo trình chuẩn của Hội đồng lý luận Trung ương, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã tổ chức biên soạn bộ giáo trình các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dùng cho các trường Đại học, Cao đẳng trong cả nước, đi kèm với mỗi cuốn giáo trình là một đề cương chi tiết, có sự phân bổ thời gian cho từng chương cụ thể. Trong đó Bộ Giáo dục - Đào tạo yêu cầu các giảng viên các môn khoa học Mác - Lênin phải thực hiện giảng dạy lý thuyết 2/3 số tiết và dành 1/3 cho thời gian thảo luận và tự học cho sinh viên trong tổng số tiết quy định của từng môn học và coi đây là yêu cầu bắt buộc đối với việc giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác - Lênin. Cho đến năm học 2008 - 2009, các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên thực hiện giảng dạy theo giáo trình và những quy định trên của Bộ Giáo dục. Trong quá trình giảng dạy theo bộ giáo trình này cũng có nhiều ý kiến của giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên cũng như giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng cả nước cho rằng nội dung của giáo trình, đã tập trung đi sâu vào những vấn đề lý luận phục vụ cho đường lối quan điểm của Đảng trong giai đoạn hiện nay và những vấn đề thực tiễn đang đặt ra đòi hỏi phải giải quyết, bảo đảm tính thống nhất trong chương trình đào tạo. Các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã giữ vai trò nền tảng, chỉ đạo, định hướng chính trị cho các môn khoa học khác và mục tiêu đào tạo chung, đồng thời các môn khoa học này góp phần trực tiếp vào giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên. Tuy nhiên, nội dung bộ giáo trình này vẫn còn một số hạn chế như: chương trình và giáo trình chưa thực sự bám sát từng đối tượng người học; trong các giáo trình vẫn còn nặng nêu các quan điểm chính trị, hàm lượng khoa học chưa cao, chủ yếu là yêu cầu sinh viên thừa nhận một cách xuôi chiều; tính phê phán chiến đấu còn thấp. Trích kinh điển còn mang tính tầm chương trích cú mà chưa làm rõ ý nghĩa, giá trị của từng luận điểm đối với thực tiễn Việt Nam. Do đó, các vấn đề lý luận và thực tiễn còn chưa có sự thống nhất, lý luận chưa có sự thuyết phục cao đối với người học, chưa gây được cảm xúc tình cảm đối với môn học, bởi vấn đề thực tiễn cuộc sống đang đặt ra chưa được giải quyết; nội dung giữa các cuốn giáo trình vẫn còn có nhiều chỗ trùng lặp nên gây cho người học sự nhàm chán. Từ học kỳ 2 năm học 2008 - 2009 các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên hiện nay đang triển khai thực hiện giảng dạy theo đề án mới từ năm môn rút lại còn ba môn: Môn 1: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin Môn 2: Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Môn 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh Trong học kỳ 2 năm 2008 - 2009, các trường triển khai thực hiện theo công văn số: 512/BGDĐT-GDĐH của Bộ Giáo dục - Đào tạo, hiện nay hầu như tất cả các trường đã tiến hành giảng dạy xong phần I “Thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin” của môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Qua phỏng vấn đội ngũ giảng viên Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường Cao đẳng Sư phạm ĐăkLăk và trường Đại học Tây Nguyên, Cao đẳng Văn hoá nghệ thuật ĐăkLăk, Cao đẳng nghề thanh niên dân tộc Tây Nguyên, chúng tôi có nhận xét như sau: đa số giảng viên đang còn rất băn khoăn về chủ trương tích hợp các môn khoa học Mác - Lênin theo đề án mới này; về nội dung cuốn giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin” đã làm rõ hơn các khái niệm có tính chất công cụ để đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên, vì nội dung tích hợp nên trong giáo trình thiếu hẳn phần vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho sinh viên trong quá trình tự học, tự nghiên cứu. - Về giảng viên: Chất lượng, số lượng giảng viên và cơ cấu giảng viên giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giảng dạy nói chung và giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng nói riêng, số lượng và chất lượng đội ngũ giảng viên Mác - Lênin ở Tây Nguyên hiện còn nhiều hạn chế và còn chưa phù hợp so với các vùng khác trong nước. Về số lượng, qua tìm hiểu các trường Đại học, Cao đẳng ở ĐăkLăk cho thấy đội ngũ giảng viên Mác - Lênin là thiếu và không đồng đều như trường Cao đẳng nghề thanh niên dân tộc Tây Nguyên chỉ có 2 giảng viên nhưng lại kiêm nhiệm ở phòng công tác sinh viên; trường Cao đẳng Văn hoá nghệ thuật ĐăkLăk chỉ có 01 giảng viên, trường Cao Đẳng sư phạm ĐăkLăk có 08 nhưng lại tập trung chủ yếu vào giảng viên được đào tạo chuyên ngành triết học, không có giảng viên nào được đào tạo chuyên ngành Kinh tế chính trị Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Do vậy, ở Tây Nguyên hiện nay đội ngũ giảng viên hiện nay vẫn còn thiếu nhiều, điều đó thể hiện tình trạng một giảng viên phải giảng dạy nhiều môn, có những giảng viên ở trường Cao đẳng Sư phạm ĐăkLăk phải đảm nhiệm 5 môn (theo chương trình cũ) và giảng dạy vượt giờ chuẩn trở thành phổ biến. Về chất lượng giảng viên: nói chung trình độ giảng viên Mác - Lênin ở Tây Nguyên có trình độ thấp hơn các địa phương khác, số lượng giảng viên có học vị tiến sỹ, thạc sỹ rất hạn chế, hiện tại ở trường Đại học Tây Nguyên có 1 tiến sỹ, Đại học Đà Lạt 2 tiến sỹ, trường Cao đẳng Sư phạm ĐăkLăk có 1 thạc sỹ, trường Cao đẳng nghề Tây Nguyên, Cao đẳng Văn hoá nghệ thuật ĐăkLăk thì chưa có Thạc sỹ nào. Với thực trạng đội ngũ giảng viên Mác - Lênin chưa đạt chuẩn trong các trường Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên chiếm tỷ lệ cao nên việc nâng cao hiệu quả giáo thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên gặp không ít khó khăn. Nhận thức được thực trạng này Bộ Giáo dục - Đào tạo đã có những chính sách quan tâm cho đội ngũ giảng viên Mác - Lênin, đội ngũ giảng viên này ở Tây Nguyên đã nỗ lực phấn đấu, học tập, nghiên cứu để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, số lượng giảng viên đi học cao học ngày càng nhiều. Điển hình như trường Cao đẳng Sư phạm ĐăkLăk hiện tại có 4 giảng viên đang học cao học, trường Đại học Tây Nguyên hiện tại đang có 5 giảng viên đi học cao học (xem phụ lục 3). - Về phương pháp giảng dạy: Phương pháp được hiểu là cách thức, biện pháp mà con người dùng để nhận thức và hoạt động nhằm để biến đổi hiện thực. Theo cách hiểu này, phương pháp dạy học là cách thức hoạt động tương hỗ giữa thầy và trò, là loại phương pháp được hình thành trong quá trình dạy học nhằm thực hiện mục đích, nhiệm vụ, nội dung dạy học đã được xác định. Phương pháp giảng dạy thể hiện cách thức tác động giữa người dạy trực tiếp hoặc gián tiếp với người học cùng nhằm thực hiện mục đích, nhiệm vụ, nội dung dạy học. Vì vậy, phương pháp dạy học càng hiện đại, càng phù hợp với đối tượng và môn học bao nhiêu thì kết quả, chất lượng của quá trình dạy học càng cao bấy nhiêu. Khi xác định được mục tiêu, xây dựng xong nội dung chương trình thì phương pháp dạy học sẽ quyết định chất lượng của quá trình đào tạo. Chính vì vậy các nước có nền giáo dục tiên tiến thường xuyên tìm cách đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại, thiết thực, hiệu quả. Có rất nhiều phương pháp dạy học, điều đó thể hiện tính chất đa dạng, phong phú và phức tạp của cách thức tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành cho người học trong quá trình lĩnh hội tri thức. Tuỳ theo cách tiếp cận mà người ta có cách phân loại khác nhau. Phân loại theo nguồn kiến thức và đặc điểm tri giác thông tin, chúng ta có các phương pháp: thuyết trình, trực quan, thực hành. Phân loại theo các nhiệm vụ cơ bản lý luận dạy học có các phương pháp: truyền thụ kiến thức, hình thức kỹ năng, kỹ xảo, ứng dụng tri thức; hoạt động sáng tạo; củng cố; kiểm tra. Phân loại theo đặc điểm hoạt động nhận thức của người học có các phương pháp: giải thích, minh hoạ, tái hiện, giới thiệu vấn đề, tìm kiếm từng phần. Phân loại theo hoạt động dạy học, ta có: thông báo và thu nhận; giải thích và tái hiện; thiết kế thực hành và tái hiện thực hành; giải thích, kích thích và tìm kiếm từng phần… Ngoài cách tiếp cận theo kiểu phân loại nói trên, người ta còn tiếp cận theo loại phân nhóm. Theo hướng này, người ta chia phương pháp dạy học ra thành bốn nhóm bốn nhóm cơ bản sau đây: một là, nhóm các phương pháp dạy học sử dụng ngôn ngữ; hai là, nhóm các phương pháp dạy học trực quan; ba là, nhóm các phương pháp dạy học thực hành; bốn là, nhóm các phương pháp kiểm tra, đánh giá kiến thức của người học. Ngày nay, một số quốc gia có nền giáo dục phát triển đã đưa ra và kết hợp một số phương pháp dạy học sau đây: thuyết giảng, thao diễn minh hoạ, công việc thực hành - phòng thí nghiệm, thảo luận nhóm, mô phỏng,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan