Tài liệu Luận văn Giáo dục đạo đức mới cho thanh niên: LUẬN VĂN:
Giáo dục đạo đức mới cho thanh niên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là một lực lượng xã hội đặc thù, đóng vai trò quan trọng trong sự vận
động và phát triển của xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng sự thành - bại,
thịnh - suy của mỗi dân tộc phần lớn đều phụ thuộc vào thanh niên. Chính vì vậy việc
giáo dục, đào tạo bồi dưỡng thế hệ thanh niên là một việc làm thường xuyên và cần
thiết.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo đã và đang mang lại những kết quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Với những thành tựu đó đã tạo điều kiện cho thanh niên học tập, giao
lưu với các nước, đặc biệt là các nước có nền khoa học - công nghệ tiên tiến. Từ đó giúp
cho thanh niên tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu, có cơ hội tiếp thu những tinh
hoa văn hoá của nhân loại. Ngoài ra, chính sự năng động của cơ chế thị trường đã tôi
luyện cho thanh niên có được bản lĩnh đá...
84 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1111 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giáo dục đạo đức mới cho thanh niên, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giáo dục đạo đức mới cho thanh niên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là một lực lượng xã hội đặc thù, đóng vai trò quan trọng trong sự vận
động và phát triển của xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng sự thành - bại,
thịnh - suy của mỗi dân tộc phần lớn đều phụ thuộc vào thanh niên. Chính vì vậy việc
giáo dục, đào tạo bồi dưỡng thế hệ thanh niên là một việc làm thường xuyên và cần
thiết.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo đã và đang mang lại những kết quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Với những thành tựu đó đã tạo điều kiện cho thanh niên học tập, giao
lưu với các nước, đặc biệt là các nước có nền khoa học - công nghệ tiên tiến. Từ đó giúp
cho thanh niên tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu, có cơ hội tiếp thu những tinh
hoa văn hoá của nhân loại. Ngoài ra, chính sự năng động của cơ chế thị trường đã tôi
luyện cho thanh niên có được bản lĩnh đáng quý: nhạy bén, quyết đoán, thích khám phá
cái mới, vươn lên để tự khẳng định mình. Thế nhưng bên cạnh những thành tựu đạt
được đã nảy sinh những hạn chế nhất định do cơ chế thị trường mang lại, đó là sự xuất
hiện đến mức báo động các hiện tượng phản đạo đức, phi nhân tính trong đời sống xã
hội. Chính lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, thói ích kỷ, buông thả, phai mờ lý
tưởng, bất chấp đạo lý … đang từng ngày, từng giờ làm xói mòn, băng hoại những nét
đẹp văn hoá, đặc biệt là những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Mặc dù Đảng ta
có nhiều quan điểm, đường lối nhằm kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền
thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho mọi tầng lớp nhân dân nói chung, cho thanh
niên nói riêng, thế nhưng việc cụ thể hoá các quan điểm, đường lối ấy của đảng ở một
số nơi làm chưa tốt.
Ở Bạc Liêu, mặc dù các chủ thể giáo dục đã có nhiều cố gắng trong quá trình
giáo dục các giá trị đạo đức cho thanh niên, thế nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau
đã làm cho hiệu quả giáo dục chưa cao, thậm chí ở một số nơi cấp ủy Đảng, chính
quyền và tổ chức Đoàn còn xem nhẹ hoặc chưa thấy rõ tầm quan trọng của việc giáo
dục đạo đức cho thanh niên.
Trước thực trạng ấy, việc giáo dục đạo đức mới cho thanh niên nói chung, cho
thanh niên Bạc Liêu hiện nay nói riêng trên cơ sở kế thừa và phát huy những giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc như tinh thần đại hội lần thứ X của Đảng xác định:
Xây dựng và hoàn thiện các giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo
vệ và phát huy những bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá
hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong
thanh niên học sinh đặc biệt là lý tưởng sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản
lĩnh văn hoá con người Việt Nam [9, tr.106].
đang là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng đạo
đức mới nói chung, cho thanh niên nói riêng đã được Đảng ta và nhiều nhà khoa học
bàn đến. Đề cương văn hoá Việt Nam (1943) Đảng ta đã đề cập đến vấn đề kế thừa giá
trị văn hoá truyền thống dân tộc để xây dựng nền văn hoá Việt Nam với nội dung “dân
tộc - khoa học - đại chúng”; Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam (1980)
của Giáo sư Trần Văn Giàu (Nxb Khoa học xã hội,); Về giá trị tinh thần truyền thống
(1993) Nxb thông tin lý luận, Hà Nội; Văn hoá dân tộc trong quá trình mở cửa ở nước
ta hiện nay. (Khoa Văn hoá Xã hội chủ nghĩa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ chí Minh,
Nxb CTQG, Hà Nội năm 1995; “Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá
trị” chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX 07 - 04, Hà Nội năm 1995;
“Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay” của
Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Triết học, số 6,1996); Nghị quyết Trung ương 5 Ban chấp
hành trung ương khoá VIII (1998) với nội dung: “Xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”; “Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức
sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc” của tác giả Nguyễn Văn Huyên
(Tạp chí Triết học, số 4, 1998); “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục,
rèn luyện trong nền kinh tế thị trường” của Hoàng Trung (Tạp chí Triết học 5, 1998)…
Một số chuyên khảo tiêu biểu đi sâu nghiên cứu nhằm xác định các giá trị đạo
đức truyền thống làm cơ sở cho việc xây dựng đời sống văn hoá đặc biệt là đời sống văn
hoá và con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới: “Giáo dục đạo đức với sự hình thành
và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Trần Sĩ Phán
(luận án Tiến sĩ, 1999); “Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới
cho thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam” của Nguyễn Đình Quế (luận văn thạc sĩ, 2000);
“Giá trị đạo đức và biểu hiện của nó trong đời sống xã hội”của Mai Xuân Lợi, (tạp chí
Triết học số 3, 2001); “Vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam
hiện nay”của Doãn Thị Chín (luận văn thạc sĩ, 2004); “Đạo đức mới - đạo đức cách
mạng từ các cách tiếp cận khác nhau” của Trịnh Duy Huy (tạp chí triết học số 1,2006);
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về thế hệ trẻ và giáo dục thế hệ trẻ” của Thái Thanh Thuỷ
(thông tin công tác Trường chính trị, số 1, 2006); “Toàn cầu hoá “nguy cơ tha hoá” và
vấn đề định hướng giá trị văn hoá tinh thần” của Đặng Hữu Toàn (tạp chí triết học, số 5,
2006); “Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta
hiện nay”của Nguyễn Văn Phúc (tạp chí triết học, số 11, 2006); “Nhân ái - một truyền
thống cần kế thừa và phát huy trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay” của Võ
Văn Thắng (tạp chí triết học, số 7, 2007); “Một số giá trị đạo đức Việt Nam từ truyền
thống đến Hồ Chí Minh” (Sách học tập đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb chính trị quốc gia, Hà
Nội, năm 2007); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của thanh niên đối với sự
nghiệp cách mạng” của Đào Thị Tùng (thông tin công tác Trường chính trị, số 2, 2007)...
Nghiên cứu tác động của đạo đức trong việc rèn luyện và phát triển nhân cách
nói chung, thanh niên nói riêng, trên các tạp chí đã có một số tác giả đề cập: “Về tính
quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới”của Nguyễn Văn Phúc
(tạp chí Triết học, số 3, 2007); “Tác động của toàn cầu hoá đến truyền thống cần cù,
tiết kiệm của dân tộc Việt Nam” của tác giả Mai Thị Quý (Tạp chí Triết học, số 5,
2007); …
Như vậy việc kế thừa và đổi mới những giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng
đạo đức mới ở nước ta hiện nay đã được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Tuy nhiên, vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng đạo đức mới nói
chung, đạo đức mới cho thanh niên nói riêng là vấn đề đang có biến đổi phức tạp, vì thế
cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
Vì vậy tác giả chọn đề tài: “Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo
đức mới cho Thanh niên Bạc Liêu hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Qua thực tế tỉnh Bạc Liêu, phân tích thực trạng phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên, từ đó đề ra phương
hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong
việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên ở Bạc Liêu hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn tập trung:
- Làm rõ vai trò của giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức
mới cho thanh niên Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng việc phát huy những giá trị đạo đức truyền thống trong
việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên Bạc Liêu trong giai đoạn hiện nay và những
vấn đề đang đặt ra.
- Đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy các giá trị
đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên Bạc Liêu hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đạo đức của thanh niên và việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh
niên Bạc Liêu hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm cả mặt tích cực và hạn chế,
trong luận văn này tác giả tập trung nhiều hơn đến mặt tích cực cần được kế thừa và
phát huy trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên Bạc Liêu hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn này dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về đạo đức và đạo đức
thanh niên, đồng thời kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các công trình nghiên
cứu khoa học có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp giữa phương pháp lịch sử và logic, phân tích
và tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, thống kê...để
thực hiện mục đích mà đề tài nghiên cứu.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Phân tích và làm rõ thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây
dựng đạo đức mới cho thanh niên ở Bạc Liêu hiện nay.
- Đề ra phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức
truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên ở Bạc Liêu hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 5 tiết.
Chương 1
GIÁ TRị ĐạO ĐứC TRUYềN THốNG
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO
THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
CỦA THANH NIÊN
1.1.1 . Giá trị, giá trị đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống
“Giá trị” là một trong những phạm trù cơ bản có liên quan đến đời sống con
người, đến thực tiễn xã hội: “Giá trị là phạm trù người. Chỉ trong con người xã hội mới
có cái gọi là giá trị. Trong quá trình “chiếm hữu” để trưởng thành và để tự vượt lên
mình giữa con người với ngoại giới, giữa con người với con người, trong xã hội xuất
hiện khái niệm giá trị” [14, tr.8 - 11]. Giá trị được đề cập và nghiên cứu trong rất nhiều
lĩnh vực khoa học: đạo đức học, tâm lý học, xã hội học, chính trị học, kinh tế học, triết
học… Tuy nhiên trong mỗi lĩnh vực khác nhau, khái niệm về giá trị có thể mang những
nội dung khác nhau.
Ngay từ thời cổ đại, gắn liền với triết học, con người đã có những hiểu biết ban
đầu sơ khai về “giá trị”, “giá trị học”. Mãi đến cuối thế kỷ XIX giá trị học mới tách
riêng thành một lĩnh vực khoa học độc lập và từ đó thuật ngữ giá trị được dùng để chỉ
một khái niệm khoa học.
Trong lĩnh vực kinh tế học, phạm trù giá trị gắn liền giá trị hàng hoá, giá cả và
sản xuất hàng hoá và phía sau nó là sức lao động, giá trị lao động của người làm ra hàng
hoá. Theo quan điểm kinh tế, giá trị kinh tế là sức mạnh của sản phẩm này khống chế
những sản phẩm khác thông qua trao đổi, giá trị của một vật phẩm thể hiện ở tính có ích
của nó, nghĩa là vật phẩm đó có khả năng đáp ứng thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người. Do vậy trong phân tích kinh tế thì giá trị là vị trí tương đối của hàng hoá trong
trật tự ưu tiên, vị trí của nó càng cao thì giá trị của nó càng lớn .
Trong lĩnh vực triết học, khi đề cập đến phạm trù giá trị có nhiều quan điểm khác
nhau. Những người theo chủ nghĩa tiên nghiệm (duy tâm khách quan) như Kant,
M.SheLer, N.Gartman … coi giá trị là sự tồn tại của những bản chất tiên nghiệm, những
chuẩn mực lý tưởng tồn tại bên ngoài sự vật không phụ thuôc vào nhu cầu và ham muốn
của con người. Trái lại, chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi giá trị là hiện tượng của ý thức,
là biểu tượng của thái độ chủ quan của con người đối với khách thể mà người đó đang
đánh giá. Những người theo thuyết tự nhiên chủ nghĩa lại coi giá trị là biểu hiện những
nhu cầu tự nhiên của con người, từ đó làm nảy sinh các quan điểm xã hội, kinh tế và
thực dụng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử, tính nhận
thức được và tính thực tiễn của giá trị và coi giá trị xã hội là những hiện tượng xã hội
đặc thù, giá trị không phải là những cái tiên nghiệm, thần bí, có từ hư vô mà mọi giá trị
đều có nguồn gốc từ lao động sáng tạo của quần chúng và khi nói đến giá trị bao giờ
cũng nói đến mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể. Con người có khả năng nhận thức
được giá trị và thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm giá trị. Hay nói cách khác, thực tiễn
là tiêu chuẩn khách quan của giá trị.
Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về phạm trù giá trị, thế nhưng có thể khái
quát lại rằng giá trị có một số đặc điểm sau:
Một là, mỗi vật thể hay tư tưởng đều có những giá trị, nếu nó được con người
thừa nhận hoặc đặt cho nó một vị trí quan trọng trong đời sống của họ.
Hai là, giữa bản chất và quy luật của bản thân sự vật, hiện tượng có sự khác nhau
rất cơ bản với giá trị của sự vật, hiện tượng. Bản chất và quy luật của sự vật hiện tượng
tồn tại không phụ thuộc vào nhu cầu của con người, còn giá trị chỉ tồn tại trong mối liên
hệ với nhu cầu của con người. Vì vậy, tuỳ theo việc con người có hay không có nhu cầu
nào đó mà một sự vật hay hiện tượng đối với con người là có hay không có giá trị .
Ba là, giá trị luôn mang tính khách quan. Điều đó có nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại
hay mất đi một nhu cầu nào đó của con người không phải do ý thức mà do yêu cầu của
hoạt động, của thực tiễn trong đó con người sống và hoạt động.
Bốn là, trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của
chủ thể trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự lựa chọn và
đánh giá của chủ thể .
Tóm lại, “nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện,
nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp;
là nói đến khả năng thôi thúc con người ta hành động và nỗ lực vươn tới” [3, tr.16 - 19].
Để phân loại giá trị, tuỳ theo mục đích tiếp cận mà các tác giả nêu lên những căn
cứ phân loại khác nhau về giá trị. Thế nhưng thông thường cách phân loại khá phổ biến
là chia giá trị thành hai loại: giá trị vật chất và giá trị tinh thần (cách phân chia này căn
cứ vào sự thoả mãn nhu cầu vật chất hay tinh thần của con người). Giá trị vật chất thể
hiện rõ nhất trong đời sống kinh tế - nơi gắn bó trực tiếp với tồn tại xã hội, quyết định
sự tồn tại của xã hội loài người, vì vậy giá trị vật chất cũng liên quan mật thiết với các
lĩnh vực chính trị, pháp quyền, thiết chế xã hội… còn giá trị tinh thần “vượt thoát” hiện
thực nhưng không phải xa rời hiện thực mà là nhằm vươn tới một xã hội nhân văn, xã
hội mà nhân loại tiến bộ đang mong tới.
Trong các giá trị vật chất, người ta thường đề cập đến giá trị sử dụng và giá trị
kinh tế.
Trong các giá trị tinh thần, người ta thường đề cập đến các loại giá trị như: giá trị
khoa học (giá trị nhận thức, cái chân lý), giá trị chính trị (cái chính nghĩa, cái cách
mạng), giá trị tôn giáo (sự thiêng liêng, sự thánh thiện, giá trị đạo đức (cái thiện, cái
ác)… tuy nhiên sự phân chia này chỉ mang tính tương đối. Trong phạm vi luận văn này
tác giả xin góp phần làm rõ thế nào là“giá trị đạo đức”?
Trong hệ thống các giá trị tinh thần của đời sống xã hội thì giá trị đạo đức là một
yếu tố vô cùng quan trọng, nó là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những
quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hoá hành vi của con người trên cơ sở tự
nguyện, tự giác .Vì vậy giá trị đạo đức được đánh giá là: “có ý nghĩa tích cực đối với
đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình, dư luận biểu dương. Giá trị đạo đức vì thế
có ý nghĩa thiết yếu đối với đời sống xã hội” [17, tr.51]. Theo Giáo sư Huỳnh Khái
Vinh: “giá trị đạo đức biểu hiện ở những chuẩn mực quy định mối quan hệ người -
người với giới tự nhiên và xã hội (gia đình, cộng đồng …) trên tinh thần yêu thương hay
thù hận, tôn trọng hay không tôn trọng, sự phát triển hay kìm hãm tài năng, tự do và
hạnh phúc” [63, tr.60].
Xét theo thời gian, giá trị đạo đức có thể phân thành giá trị đạo đức truyền thống
và giá trị đạo đức hiện đại. Giá trị đạo đức truyền thống có thể được hiểu là những
chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử được hình thành trong
cuộc sống và có ý nghĩa tích cực, được lặp đi, lặp lại nhiều lần trong lịch sử, nhằm điều
chỉnh và chuẩn hoá hành vi của con người.
Mỗi dân tộc đều có những giá trị đạo đức truyền thống của mình. Là một bộ phận
trong hệ giá trị tinh thần của của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền thống liên tục
nảy sinh, phát triển trong suốt chiều dài của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc,
nó được lưu truyền, chắt lọc, kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác và chiếm vị trí cốt
lõi trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc ta.
Sớm xác định được vai trò quan trọng của giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc đối với sự phát triển đất nước, nên nhân dân ta luôn giữ gìn và tôn trọng những giá
trị quý báu ấy và xem chúng như là những tiêu điểm để mọi người hướng tới, làm theo.
Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết:
Giá trị đạo đức truyền thống là những cái gì sừng sững, vững chắc, cao
vọi, tôn nghiêm như những ngọn núi, đời qua đời làm tiêu điểm để các tầng
lớp đồng bào theo đó mà gióng hướng mà không đi lạc, mà phân biệt chính
tà, phải trái, nên chăng, tốt xấu để mọi người xác định thái độ, hành tung của
mình [10, tr. 93].
1.1.2. Các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội, cho nên những giá trị tinh thần và đạo đức, nhân cách của
người Việt Nam có nguồn gốc sâu xa là bắt nguồn từ những hoàn cảnh địa lý, môi
trường tự nhiên, lịch sử xã hội .
Việt Nam là một nước có nền sản xuất nông nghiệp lâu đời, đời sống người nông
dân quanh năm gặp nhiều khó khăn, vất vả, phần lớn phụ thuộc vào thiên nhiên. Mặt
khác, do nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Bắc và Đông Nam nên điều kiện tự
nhiên tương đối khắc nghiệt, mưa nắng thất thường, điều đó đã gây ra nhiều thiên tai,
hạn hán, dẫn đến mất mùa. Chính trong điều kiện khó khăn đó đã hình thành ở con
người Việt Nam những giá trị quý báu: sự gắn bó cộng đồng chặt chẽ, yêu thương đùm
bọc, giúp đỡ nhau … từ đó hình thành thói quen cần cù, tiết kiệm.
Việt Nam là đất nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên quý báu “rừng vàng, biển
bạc, đất phì nhiêu”; mặt khác, lại nằm ở đầu mối giao thông quốc tế, cho nên Việt Nam
thường xuyên là mục tiêu của các thế lực ngoại xâm và trong điều kiện thiên nhiên khắc
nghiệt, sự de doạ của ngoại xâm, để tồn tại và phát triển, người Việt Nam phải “chung
lưng đấu cật”, “sát cánh bên nhau” trong sản xuất và chiến đấu. Việc gắn đời sống của
cá nhân với cộng đồng cũng là để bảo vệ cuộc sống của mình. Do đó trong nấc thang
giá trị xã hội thì giá trị cộng đồng là được đánh giá cao, hay nói cách khác đề cao các
giá trị đạo đức là đặc điểm nổi bật trong đời sống của dân tộc Việt Nam.
Trong các chủ trương, đường lối của Đảng ta và nhiều công trình nghiên cứu của
các nhà khoa học Việt Nam đã thể hiện quan điểm của mình về các giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc. Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, giá trị đạo đức của dân tộc Việt
Nam bao gồm: “lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo, tinh
thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người” [17, tr.74], còn theo Giáo sư
Trần Văn Giàu, thì giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm: “yêu
nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa” [10, tr.94]. Trong
các văn kiện của Đảng ta, đặc biệt là Nghị quyết của bộ chính trị về một số định hướng
lớn trong công tác tư tưởng đã xác định: “Những giá trị văn hoá truyền thống bền vững của
dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý thương người
như thể thương thân, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động” [8, tr.19]. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ V của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII, đã khẳng
định:
Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam bao gồm những giá trị bền
vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự tôn,
tự hào dân tộc, tinh thần cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã -
tổ quốc, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù
sáng tạo trong lao động, là đức hy sinh cao thượng tất cả vì độc lập dân
tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, là sự tế nhị trong cư xử, tính giản dị trong
lối sống [6, tr.10].
Quan điểm trên của Đảng ta và các nhà khoa học tuy có những điểm cụ thể khác
nhau, cách diễn đạt khác nhau, thế nhưng đều khẳng định rõ vị trí nổi bật của các giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc. Dựa trên cách tiếp cận về giá trị, giá trị đạo đức
truyền thống, ta thấy rằng dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước đã
tạo nên những giá trị đạo đức truyền thống cơ bản sau:
Chủ nghĩa yêu nước:
Bất cứ một quốc gia, một dân tộc nào trên thế giới đều có tình yêu đất nước.
Nhưng lòng yêu nước của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc lại có sự hình thành và biểu hiện
những bản sắc riêng.
Yêu nước là một truyền thống cực kỳ quý báu, lâu đời của dân tộc Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được hình thành gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Từ những buổi đầu tiên dựng nước, dân tộc Việt Nam lại
phải đương đầu với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, với giặc ngoại xâm - những kẻ
thù hung hãn và hùng mạnh. Để tồn tại và phát triển, đòi hỏi dân tộc Việt Nam phải có
lòng yêu nước, bởi vì có yêu nước mới có quyết tâm, dám chịu hy sinh để bảo vệ nền
độc lập cho dân tộc.
Mặc dù cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng người
có nhiều khác biệt, nhưng yêu nước là giá trị hàng đầu của mỗi con người Việt Nam, là
“tiêu điểm của mỗi tiêu điểm”, là “giá trị trên các giá trị”. Giáo sư Trần Văn Giàu cho
rằng: “yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện
đại” [10, tr.94].
Sự hình thành chủ nghĩa yêu nước gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước Việt Nam không chỉ là tình cảm mà còn là
một tư tưởng thiêng liêng, cao quý nhất, được bắt nguồn từ những tình cảm đơn sơ và
bình dị của mỗi người dân. Tình cảm đó ban đầu bắt nguồn từ sự yêu thương, quan tâm
đến những người thân thương, ruột thịt, rồi đến xóm làng, sau đó phát triển cao thành
tình yêu tổ quốc. Tình yêu tổ quốc không chỉ gắn liền với quá trình dựng nước mà nó
còn thể hiện rõ trong quá trình bảo vệ đất nước. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt
Nam được thể hiện ở lòng dũng cảm, ý chí bất khuất, kiên cường; đó là tinh thần hết
mực yêu hoà bình, yêu tự do, nhưng khi đất nước có ngoại xâm thì “thà hy sinh tất cả
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Chính tinh thần
yêu nước nồng nàn đã giúp dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi thế lực
xâm lược. Qua những cuộc chiến tranh trường kỳ đầy gian khổ đó, chủ nghĩa yêu nước
đã trở thành dòng chủ lực của đời sống Việt Nam, thành một triết lý xã hội và nhân sinh
trong tâm hồn người Việt Nam.
Tổng kết truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định:
Dân tộc Việt Nam có lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại
sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi
sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước
[37, tr.171].
Tóm lại, chính lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường dân tộc đã tạo ra sức
mạnh vô cùng to lớn, giúp cho dân tộc Việt Nam vượt qua mọi gian nguy, chiến thắng
mọi kẻ thù xâm lược, giữ vững độc lập, tự do cho tổ quốc. Chính vì vậy yêu nước là
niềm tự hào của dân tộc và là một truyền thống cực kỳ quý báu mà chúng ta cần phải kế
thừa và đổi mới trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.
Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo:
Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo cũng là một trong những
giá trị đạo đức có từ bao đời của dân tộc Việt Nam. Nó được hình thành và phát triển
trong điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh xã hội khó khăn khắc nghiệt ngay từ những ngày
đầu dựng nước và giữ nước. Trong quá trình sản xuất, con người luôn phải sống và lao
động trong những điều kịên thiên nhiên khắc nghiệt: như hạn hán, lũ lụt, mưa bão…
Mặt khác, Việt Nam là một nước có nhiều tài nguyên khoáng sản, là đầu mối giao thông
của các nước, nên thường xuyên bị các thế lực ngoại xâm xâm lược. Chính vì vậy
những người dân Việt Nam trong quá trình lịch sử của mình đã kiên trì bám làng, bám
đất, vừa sản xuất, vừa đánh giặc để giữ gìn chủ quyền và độc lập cho dân tộc. Sống
trong hoàn cảnh khó khăn, vất vả tưởng chừng như không thể nào vượt qua nổi, nhưng
nhờ có đức tính cần cù và tiết kiệm mà nhân dân ta đã vượt qua, để từng bước tự khẳng
định mình trong quá trính phát triển của dân tộc. Tất cả những khó khăn đó được thể
hiện trong rất nhiều câu ca dao, dân ca Việt Nam: “cày đồng đang buổi ban trưa, mồ hôi
thánh thót như mưa ruộng cày”, “một bông lúa vàng chín giọt mồ hôi”...Chính vì sự khó
nhọc đó đòi hỏi con người phải quý trọng những thành quả lao động ấy: “ai ơi bưng bát
cơm đầy, dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”.
Cần cù của dân tộc Việt Nam là sự siêng năng trong lao động, nhưng điều đó
cũng không có nghĩa là “cần cù bù thông minh” mà cần cù ở đây là sự lao động có kế
hoạch, sáng tạo, có năng suất cao. Truyền thống tiết kiệm của dân tộc Việt Nam được
thể hiện ở chỗ không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Tiết kiệm ở đây không chỉ
là sự tiết kiệm về tiền của mà nó còn bao hàm ở sự tiết kiệm về sức lao động và thời
gian.
Mặc dù trong lao động, dân tộc Việt Nam rất cần cù, nhưng sự cần cù ấy luôn
gắn liền với sự tiết kiệm. Lối sống tiết kiệm xuất phát từ triết lý sống của người Việt
Nam rằng mọi người phải có trách nhiệm với chính bản thân, gia đình mình và xã hội;
phải có trách nhiệm với các thế hệ tương lai. Mặt khác, do cuộc sống quá khó khăn lại
không ổn định nên dân tộc Việt Nam thường có tâm lý dành dụm, chắt chiu đề phòng
những trường hợp bất trắc xảy ra. Cần và kiệm có gắn kết với nhau thì cuộc sống con
người mới đỡ vất vả hơn vì “cần” mà không “kiệm” thì cần cũng không ích gì, không
thể vượt qua khó khăn, đói rét. Nhưng “kiệm” mà không “cần” thì cũng vô nghĩa. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh hai đức tính “cần”, “kiệm”. Hai đức tính ấy cùng với
“liêm”, “chính” tạo thành một khối thống nhất, toàn vẹn trong mỗi con người như “bốn
mùa của trời”, “bốn phương của đất”. Người nhấn mạnh:
Trời có bốn mùa: xuân - hạ - thu - đông;
Đất có bốn phương: đông - tây - nam - bắc;
Người có bốn đức tính: cần - kiệm - liêm- chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một hướng thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người [36, tr.631].
Truyền thống tiết kiệm của dân tộc Việt Nam không có nghĩa là keo kiệt, bủn
xỉn. Chủ tịch Hồ Chí Minh phân biệt rất rõ giữa tiết kiệm và keo kiệt, Người cho rằng, việc
đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn chứ không phải là tiết kiệm và nhắc nhở chúng ta rằng:
“Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc
lợi ích cho đồng bào, cho tổ quốc thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng”
[36, tr.637].
Thực tiễn chứng minh, nhờ có cần cù và sáng tạo trong lao động mà cha ông ta
đã xây dựng được non sông gấm vóc và giữ vững nền độc lập của đất nước đến ngày
nay. Trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay, chúng ta cần phải kế thừa và phát huy
đức tính cần cù trong lao động, chiến đấu và học tập vì cần cù là nguồn gốc của sự sống
còn, hạnh phúc, trí tuệ và của mọi sự tiến bộ xã hội.
Lòng nhân ái - yêu thương con người:
Lòng nhân ái - yêu thương con người là một đức tính nhân đạo cao cả của dân
tộc Việt Nam. Đức tính ấy đã thấm sâu vào các mối quan hệ gia đình, làng xóm, đến
cộng đồng xã hội và nhân loại. Truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam thể hiện rõ
trong cuộc sống hằng ngày, trong lao động, học tập và chiến đấu. Mặc dù trong những
giai đoạn lịch sử khác nhau, lòng nhân ái mang những nội dung mới khác nhau, nhưng
về cơ bản vẫn giữ được nét đặc sắc riêng, là cơ sở quan trọng để thiết lập mối quan hệ
giữa người và người trong tất cả các mối quan hệ xã hội.
Lòng nhân ái của dân tộc Việt Nam được thể hiên trước hết trong quan hệ gia
đình: cha mẹ hết lòng quan tâm đến việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái khi chúng còn
nhỏ dại và ngược lại, con cái phải có trách nhiệm tôn kính cha mẹ, khi cha mẹ về già
hay đau yếu phải hết lòng nuôi dưỡng; trong quan hệ anh - em thì “anh em như thể tay
chân, rách lành đùm bọc, khó khăn đỡ đần”, “máu chảy ruột mềm”, “môi hở răng
lạnh”…
Lòng nhân ái không chỉ thể hiện trong quan hệ gia đình mà nó còn xuất phát từ
lòng yêu thương con người “thương người như thể thương thân”, “đánh người chạy đi
chứ ai đánh người trở lại”… Lòng nhân ái - yêu thương con người là cơ sở cho cách xử
thế ở đời của người Việt Nam: hết lòng vì nghĩa, giúp đỡ, đùm bọc nhau khi khó khăn
hoạn nạn mà không hề toan tính. Lòng yêu thương con người ở Việt Nam còn là điều
kiện để tồn tại, là vũ khí để chiến đấu, là lẽ sống bền vững, là hạnh phúc lớn nhất của
con người. Tình yêu thương ấy được xây dựng và củng cố trong cộng đồng và gia đình,
tất yếu đựơc mở rộng thành tình yêu thương trong cộng đồng tổ quốc, rồi đến cộng
đồng nhân loại. Bởi sự tồn tại của gia đình trước hết phụ thuộc vào sự tồn tại của cả
nước và hoà bình, hạnh phúc của mỗi quốc gia gắn liền với hoà bình, hạnh phúc của cả
nhân loại.
Nếu ở Việt Nam tính cộng đồng là biểu hiện mãnh liệt nhất trong tình cảm giữa
cá nhân với tổ quốc thì tình cảm này không tách khỏi tình cảm gia đình mà ngược lại nó
được nảy sinh và rèn luyện từ trong gia đình. Nghĩa là lòng nhân ái, yêu thương con
người của dân tộc Việt Nam không phải là tư tưởng hẹp hòi “chủ nghĩa dân tộc” và đối
lập với tình cảm quốc tế. Thế nhưng lòng nhân ái của dân tộc Việt Nam cũng kiên quyết
không thể tha thứ cho những kẻ ngoan cố, tán tận lương tâm, vong tình phụ nghĩa. Lòng
yêu thương con người của dân tộc Việt Nam không chỉ giới hạn trong quê hương, trong
một dân tộc mà lòng nhân ái ấy bao la vô hạn mang tính nhân loại, thậm chí nhân ái
ngay đối với kẻ thù khi họ đã ăn năn, hối lỗi, lầm đường, lạc lối.
Lòng nhân ái, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam còn thể hiện ở lòng vị tha cao
thượng. Trong quá trình đấu tranh giữ nước, tinh thần ấy đã thể hiện sáng ngời qua
những trang sử hào hùng của dân tộc. Trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một
minh chứng: “lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” hay
cuộc kháng chiến chống quân Thanh, sau khi đánh bại chúng, Vua Quang Trung đã cấp
lương thảo và phương tiện cho đám tàn quân về nước.
Lòng nhân ái, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam được kết tinh rõ nét trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, Người là hiện thân của lòng nhân ái. Tình yêu thương con người ở
Hồ Chí Minh là một tình cảm rộng lớn, trước hết là dành cho những người cùng khổ,
cho nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột. Tình yêu thương đó đã thôi thúc và trở thành
ham muốn tột bậc ở Người là làm cho nước nhà được độc lập, nhân dân được tự do, mọi
người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Vì thương người mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã bôn ba rất nhiều nước, chịu nhiều khó khăn, gian khổ. Suốt cuộc đời
hoạt động của mình Người đã hy sinh tất cả vì độc lập của dân tộc vì hạnh phúc của
nhân dân, để tìm cho dân tộc Việt Nam con đường để tự giải phóng mình thoát khỏi
những gông cùm nô lệ - đó là con đường của cách mạng vô sản do Lênin vạch ra. Tình
yêu thương con người của Hồ Chí Minh còn được thể hiện trong mối quan hệ bạn bè,
đồng chí, với mọi người trong quan hệ hàng ngày. Tình yêu thương ấy đòi hỏi phải tự
nghiêm khắc với mình, nhưng phải rộng rãi, độ lượng với người khác. Lòng nhân ái của
dân tộc Việt Nam còn được thể hiện với những người sai lầm khuyết điểm nhưng đã
nhận ra và cố gắng sửa chữa. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, lòng nhân ái của
Bác đã trở thành sức mạnh, nó có tác dụng cảm hoá hàng vạn con người đã trót lầm
đường, lạc lối, trước đây đã theo giặc, đi ngược với lợi ích của nhân dân nay đã ăn năn,
hối hận, Bác xem họ như những đứa con “lạc bầy” cần được cưu mang hoạn dưỡng.
Lòng yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vô hạn, nhưng Người cũng
phân biệt rất rõ ranh giới giữa bạn và thù, giữa bọn thống trị và nhân dân của nước ấy.
Đối xử với tù binh, tha chết và tiễn đưa quân xâm lược bại trận về nước, nhanh chóng
lập lại tình hữu nghị sau mỗi trận chiến tranh - đó là đạo lý của con người Việt Nam
trước cộng đồng nhân loại.
Tinh thần đoàn kết cộng đồng sâu sắc:
Tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau là một trong những truyền thống quý báu
của dân tộc Việt Nam, nó được hình thành trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm,
chống thiên nhiên khắc nghiệt. Bởi trong những điều kiện khó khăn đó, con người muốn
vượt qua họ phải “chung lưng, đấu cật”, góp sức, góp trí …vì vậy tinh thần đoàn kết
cộng đồng sâu sắc được hình thành là một lẽ tất nhiên trong đời sống của con người, để
đáp ứng nhu cầu khách quan đang đòi hỏi. Dân tộc Việt Nam luôn xem đoàn kết là một
sức mạnh làm nên mọi thắng lợi. Đoàn kết thể hiện trong mọi thành công và thất bại,
“có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia”. Đặc biệt tinh thần đoàn kết thể hiện rõ nhất và
quý nhất khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Khi đói rét thì “nhường cơm xẻ áo” khi gặp hoạn
nạn, khó khăn thì “chị ngã em nâng”...
Tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam thể hiện trong mọi không gian và thời
gian. Trong gia đình: “thuận vợ thuận chồng, tác biển đông cũng cạn”, trong sản xuất
cũng như trong đời sống hằng ngày giữa các cá nhân với nhau thì đoàn kết thể hiện ở
chỗ: “một cây làm chẳng lên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, trong chiến đấu
chống thiên nhiên và kẻ thù, thì “đoàn kết thì sống, riêng lẻ thì chết”.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng tinh thần đoàn kết là một
yếu tố vô cùng quan trọng, cái đảm bảo chắc chắn cho thắng lợi của dân tộc, là điểm tựa
tinh thần vững chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng
như trong sự nghiệp cách mạng XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”. Trước lúc Bác mất
trong di chúc của mình, Người đã căn dặn các thế hệ sau rằng: Đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ trung ương đến các chi
bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Nhờ có tinh thần đoàn kết chặt chẽ, sâu sắc ấy mà cộng đồng người Việt Nam
luôn duy trì được các quan hệ xã hội hài hoà, giữ được sự đồng thuận, bình yên cho
xóm làng, quê hương, đất nước.
Truyền thống hiếu học:
Hiếu học là một trong những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Hiếu học có cơ sở bền vững từ trong mỗi gia đình, mỗi dòng tộc, mỗi quê hương của
người Việt Nam. Dù ở bất kỳ lúc nào, ở đâu trên đất nước Việt Nam chúng ta vẫn bắt
gặp những gương hiếu học đáng trân trọng. Các bậc cha mẹ ở các thế hệ nối tiếp nhau
từ xưa đến nay đều có mơ ước con mình học giỏi để thành người hữu dụng. Trong lịch
sử của dân tộc, mặc dù trong những hoàn cảnh khó khăn, thậm chí đói nghèo nhưng vẫn
có những bậc cha mẹ đã quan tâm đến việc học hành của con cái, tạo được gia đình
khoa bảng, nhiều đời, sử sách lưu danh đến ngày nay. Họ đã cống hiến cho đất nước
những danh nhân văn hoá, những nhân tài đáng trân trọng - đó là những tấm gương hiếu
học sáng ngời, như Mai Thúc Loan, Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn … và
nhiều gương hiếu học khác. Mặc dù những gương hiếu học đó có những điều kiện hoàn
cảnh cụ thể khác nhau, nhưng điểm chung của họ là tuy sống trong hoàn cảnh vô cùng
khó khăn, thậm chí nghiệt ngã, nhưng với tinh thần hiếu học, kiên trì, vượt khó họ đã
vươn lên trở thành những danh nhân đất Việt.
Do hiếu học, nên dân tộc Việt Nam sớm có truyền thống “tôn sư trọng đạo”,
“tiên học lễ, hậu học văn”, học trước hết để làm người sau đó để làm việc. Cho nên để
trở thành người tốt, làm việc tốt thì phải học. Người có học thức cao luôn được xã hội
suy tôn. Vì vậy “tôn sư trọng đạo” trở thành một truyền thống vô cùng cao đẹp của dân
tộc ta, nó góp phần định hướng giá trị trong quá trình phát triển xã hội. Trong tác phẩm
“bàn về khoan dung trong văn hoá” của Giáo sư, tiến sĩ Huỳnh Khái Vinh và Tiến sĩ
Nguyễn Thanh Tuấn đã nhận định rằng: “Giá trị hiếu học, coi trọng học vấn và tôn sư
trọng đạo là truyền thống lâu bền và là một hàm nghĩa của văn hiến Việt Nam” [63,
tr.316]. Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu thì cho rằng: “hiếu học là truyền thống quý báu tự
ngàn xưa của dân tộc ta. Truyền thống ấy cần được giữ gìn và phát huy trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bất chấp những “sóng gió” của kinh tế thị
trường” [2, tr.4].
Hiếu học là một truyền thống tốt đẹp, nó được kế thừa và phát huy trong suốt
chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. Trong xã hội Phong kiến, trong điều kiện khắc
nghiệt của thiên nhiên, sự thiếu thốn về mọi thứ nên người Việt Nam sớm ý thức được
rằng chỉ có học mới có thể thoát khỏi những đói nghèo, khổ cực. Hình ảnh Mai Thúc
Loan đầu đội mâm đồng nặng trĩu nhưng vì ham học đã “học trộm” đến tê cả gót chân
mà vẫn không hay, về sau trở thành vị vua nổi tiếng của nước ta; Nguyễn Hiền, mồ côi
cha, sống trong túp lều ở chùa, nghèo nên phải bắt đom đóm làm đèn để học, năm 13
tuổi đã đỗ trạng nguyên - đây là vị trạng nguyên nhỏ tuổi nhất trong lịch sử khoa bảng
Việt Nam; Mạc Đĩnh Chi, mồ côi cha sớm, nhà nghèo phải đốt lá rừng để học và đã trở
thành vị trạng nguyên tài giỏi của dân tộc… và còn nhiều gương hiếu học khác in dấu
trong lịch sử của dân tộc. Có thể nói rằng, trải qua những giai đoạn lịch sử khác nhau
nhưng truyền thống hiếu học luôn được nhân dân ta kế thừa, phát huy và nâng lên thành
lẽ sống.
Trong cuộc chiến tranh trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, dân tộc Việt Nam phải đương đầu với nhiều khó khăn thử thách, nhưng
truyền thống hiếu học vẫn luôn được nhân dân ta kế thừa và phát huy cao độ. Trong
điều kiện “khói đạn, mưa bom” vẫn xuất hiện những con người mang trong mình truyền
thống hiếu học của dân tộc đã không ngại khó khăn, nguy hiểm vượt lên hoàn cảnh để học
hành thành đạt.
Khi nước nhà hoàn toàn thống nhất, cả nước tập trung cải tạo xã hội cũ, tiến lên
CNXH, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nhận thức được rằng chúng ta không thể
khắc phục nghèo đói, đưa đất nước phát triển nếu không có tri thức khoa học. Chính
điều đó đã có nhiều chủ trương, đường lối chính sách của đảng, nhà nước nhằm khuyến
khích nhân dân phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc. Mặc dù điều kiện sống chưa
cao, thế nhưng vẫn có nhiều gia đình đã chắt chiu, dành những điều kiện tốt nhất cho
con em mình học hành “đến nơi, đến chốn”.
Có thể nói, hiếu học là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam.
Trong điều kiện hiện nay cần phải phát huy truyền thống đó vì có như vậy mới có thể
đào tạo và sử dụng con người mới - con người XHCN “vừa hồng vừa chuyên”, đáp ứng
được những yêu cầu mới đang đặt ra cho cả dân tộc.
1.1.3. Những nét tiêu biểu của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ở đạo
đức truyền thống của thanh niên Việt Nam
Qua các thời kỳ cách mạng khác nhau, được sự quan tâm giáo dục, bồi dưỡng
của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của nhà nước và xã hội, đã có biết bao tấm gương
học tập, nghiên cứu, sáng tạo và chiến đấu, hy sinh ngời sáng vì lý tưởng độc lập dân
tộc và CNXH đã được lưu danh. Những truyền thống đạo đức tốt đẹp của thanh niên
Việt Nam luôn được gìn giữ, phát huy qua các thời kỳ cách mạng.
Trước hết, đó là tinh thần yêu nước mãnh liệt, sâu sắc, tinh thần xả thân vì cách
mạng.
Sống dưới ách đô hộ nhiều năm của thực dân Pháp, thanh niên Việt Nam luôn
khát khao độc lập, tự do cho dân tộc, căm thù bọn thực dân đế quốc xâm lược và sôi sục
một ý chí cứu nước. Trong số đó, nhà yêu nước trẻ tuổi Việt Nam đầu tiên là Nguyễn Ái
Quốc đã có công lao vĩ đại trong việc thành lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, tạo nên
một sự kiện lịch sử trọng đại đối với toàn bộ quá trình phát triển cách mạng nước ta.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sự chuẩn bị điều kiện cơ bản, quyết định cho những
thắng lợi oanh liệt và những bước nhảy vọt trong quá trình phát triển của dân tộc ta. Từ
những kinh nghiệm và hiểu biết ở tuổi thanh niên của chính bản thân mình, Nguyễn Ái
Quốc đã dẫn dắt cả một thế hệ thanh niên yêu nước Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, mà
hăng hái đi đầu là học sinh, sinh viên đầy nhiệt huyết đến được với chân lý cách mạng
của thời đại.
Các thế hệ thanh niên về sau luôn tự hào về lớp thanh niên yêu nước đã sớm đi
theo con đường của Nguyễn Ái Quốc, trực tiếp tham gia xây dựng Đảng, Đoàn thanh
niên như Trần Phú (Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng khi mới 26 tuổi), Ngô Gia Tự,
Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai ... họ đã
trở thành những chiến sĩ cách mạng kiên cường của Đảng và nhân dân ta. Đoàn thanh
niên với những phong trào hành động, tuyên truyền, giác ngộ lý tưởng cách mạng. Khẩu
hiệu của thanh niên Tiền phong lúc này là: “Thanh niên: tiến !”.
Trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), ngay từ những ngày
đầu, tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh viên đã tích cực tham gia vào các tổ chức chiến
đấu, phục vụ chiến đấu, tiến hành cuộc chiến tranh du kích. Nhiều tấm gương hy sinh
anh dũng của tuổi trẻ, đồng loạt các thanh niên xin gia nhập các đoàn quân “Nam tiến”,
đánh đuổi giặc Pháp.
Ngày 19/12/1946, đáp ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đội thám tử quân Hà Nội ra đời. Tiêu biểu cho những tấm gương chiến đấu
bất khuất đó là thanh niên Vũ Chí Thành đã hy sinh ngay trong đêm đầu của cuộc kháng
chiến. Ngoài ra các phong trào thanh niên còn diễn ra dưới nhiều hình thức như biểu
tình, rải tuyền đơn, tuyên truyền khẩu hiệu đấu tranh, trực tiếp tham gia lao động sản
xuất để chi viện cho chiến trường... chiến đấu với “giặc đói” và “giặc dốt”.
Tiếp nối truyền thống yêu nước của các thế hệ tiền bối, thanh niên Việt Nam đã
góp phần lớn lao vào thắng lợi cuộc kháng chiến thần thánh Điện Biên Phủ chống thực
dân Pháp và sự can thiệp của đế quốc Mỹ.
Bước sang giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tinh thần yêu nước, nhiệt
tình cách mạng của thanh niên lại được phát huy mạnh mẽ hơn nữa. Một phong trào
hoạt động rộng lớn của tuổi trẻ miền Bắc đã lan nhanh: “Ba sẵn sàng”. Chỉ trong một
thời gian ngắn đã có trên 1,5 triệu thanh niên học sinh, sinh viên làm đơn tình
nguyện tham gia. Ba sẵn sàng là:
Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm, sẵn sàng gia nhập các lực lượng vũ
trang nhân dân.
Sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, công tác và học tập trong
bất kỳ tình huống nào.
Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì khi tổ quốc cần đến.
Ngoài ra còn có phong trào “Năm xung phong” của thanh niên miền Nam, phong
trào “phụ nữ ba đảm đang”, phụ nữ giỏi việc nước, đảm việc nhà”... đã góp phần to lớn
vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta.
Một trong những ngôi sao sáng của thanh niên ta trên mặt trận chiến đấu trong
những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước là Vũ Xuân Thiều. Anh xung phong
vào bộ đội khi mới vừa tròn 20 tuổi, đang làm đồ án tốt nghiệp kỹ sư vô tuyến điện
tại Đại học Bách khoa Hà Nội. Anh đã trực tiếp bắn rơi pháo đài B52 của Mỹ, hy
sinh khi lập chiến công vẻ vang và được tuyên dương là anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân khi vừa tròn 27 tuổi.
Chúng ta không thể kể hết những tấm gương yêu nước của thanh niên Việt Nam
trong thời kỳ kháng chiến cứu nước. Nhìn chung thanh niên đều có một tinh thần nhiệt
tình cách mạng, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của dân tộc.
Thứ hai, tinh thần xung phong, vượt khó, chịu đựng mọi gian khổ với tinh thần
hiếu học, hăng hái rèn luyện học tập, luôn vươn tới đỉnh cao của khoa học - công nghệ,
văn học nghệ thuật.
Tinh thần “xung phong, hăng hái,vượt khó” cũng là một trong những giá trị đạo
đức truyền thống của Thanh niên Việt Nam. Truyền thống lịch sử thanh niên đã chứng
minh rằng trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào của dân tộc Việt Nam các thế hệ thanh
niên luôn là lực lượng đi đầu với tinh thần xung phong, vượt khó. Lòng dũng cảm, tinh
thần hăng hái xung phong, vượt khó bắt nguồn từ truyền thống yêu nước, vừa là thuộc
tính vốn có của tuổi trẻ được tạo hoá ban cho đối với thế hệ đang độ tuổi trưởng thành
đầy nhiệt tình và sức sống - là lứa tuổi sẵn sàng đón nhận những nhiệm vụ khó khăn,
nặng nề, nguy hiểm. Được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dìu dắt, thuộc tính đó được
nâng lên thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Chiến tranh là một thử thách vô cùng
khắc nghiệt. Nhưng sự ác liệt trong chiến tranh là môi trường tôi luyện phẩm chất anh
hùng cách mạng của thanh niên. Trong cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, hưởng ứng
lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lớp lớp thanh niên đã xung phong ra
chiến trường, hăng hái tòng quân giết giặc. Dù bất cứ ở nhiệm vụ nào, tham gia dân
công hay hay xung phong phục vụ tuyền tuyến thì bản lĩnh tiên phong của thanh niên
đều được thể hiện. Trước những khó khăn tưởng chừng không thể nào vượt qua, trước
những thử thách cam go, thậm chí là sự hy sinh tính mạng, nhưng với tinh thần hăng
hái, vượt khó đã giúp cho thanh niên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, góp phần vào
công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Khẩu hiệu mà thanh niên hằng tâm
niệm“đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên” đã biến thành phong trào cách
mạng rộng khắp trong thanh niên, đó là “phong trào 5 xung phong chống Mỹ cứu
nước”, “ba xung phong giải phóng miền Nam”… Chính vì vậy trong di chúc của mình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: Đoàn viên thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc điều
hăng hái, xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ…
Khi thống nhất đất nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng được tiếp tục phát huy
trong thời kỳ mới, bất cứ ở đâu, khi nào mà Đảng và nhân dân cần đến thanh niên sẵn
sàng đáp ứng. Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều thanh niên tự nguyện rời
khỏi thành thị, rời bỏ những vị trí có thu nhập cao để xung phong đến công tác ở các vùng
cao, vùng sâu, hải đảo - nơi còn nhiều khó khăn về vật chất. Bởi hơn ai hết, thanh niên
đã tự ý thức được rằng chỉ có họ những người trẻ, khoẻ, đầy nhiệt huyết mới có thể
gánh vác những công việc khó khăn này. Ngoài ra, tinh thần xung phong, hăng hái, vượt
khó còn thể hiện qua các phong trào “thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước”, “phong
trào tuổi trẻ xung kích, sáng tạo”, “phong trào thanh niên tình nguyện”… Với tinh thần
xung phong, hăng hái đó, đã một mặt góp phần làm giàu đẹp cho quê hương đất nước,
nhưng mặt khác cũng đã rèn luyện cho thanh niên một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh
“dời non, lấp bể” của mình.
Không những thế, thanh niên còn tham gia vào cuộc đấu tranh chống văn hóa
lai căng, đồi trụy, phản động với nhiều hình thức phong phú như: hội thảo, tọa đàm,
viết báo tường, hoạt động văn hóa thể dục thể thao, tham quan, du lịch, cắm trại... đi
đôi là việc phát triển văn hóa - văn nghệ lành mạnh và nhiều hoạt động có tính chất
nhân đạo, từ thiện. Từ năm 1970 - 1972 với khẩu hiệu “hát cho đồng bào tôi nghe”,
“đồng bào ta cùng hát” thanh niên đã trực tiếp đưa những bài hát cách mạng tiến bộ,
yêu nước đến với quần chúng nhân dân như : “lên đàng”, “dậy mà đi”, “tự nguyện”,
“tiếng trống hào hùng”...thúc giục thanh niên đứng lên đấu tranh chống kẻ thù, bảo
vệ tổ quốc. Ngoài ra “tuần lễ nữ sinh mặc áo dài Việt Nam”, những buổi sinh hoạt
truyền thống về văn hóa dân tộc như “tuần lễ Hai Bà Trưng”, “Trần Văn Ơn”... đã
tạo luồng không khí mới đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước trong
thanh niên.
Thứ ba, qua lịch sử phong trào thanh niên Việt Nam ta còn thấy một tinh thần
đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau trong học tập, chăm chỉ học tập, chia sẻ khó khăn
với đồng bào.
Thanh niên Việt Nam luôn sẵn sàng “nhường cơm sẻ áo” với đồng bào gặp khó
khăn là hoạt động hoàn toàn tự giác, tự nguyện. Họ không đòi hỏi nhiều cho mình khi
đất nước còn nghèo, dân ta còn thiếu thốn. Ngược lại sự đóng góp nhiều mặt của thanh
niên đã làm nên những chiến thắng vẻ vang cho dân tộc Việt Nam trong cả sự nghiệp
dựng nước và giữ nước.
Suốt nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, lúc thuận lợi cũng như khi gặp khó khăn,
thanh niên Việt Nam đã luôn phát huy truyền thống là một tổ chức chính trị - xã hội của
học sinh, sinh viên. Họ đã vượt qua nhiều chặng đường đầy thử thách để thực hiện chức
năng là người bạn gần gũi của học sinh, sinh viên, là chiếc cầu nối của học sinh, sinh
viên với Đảng và nhà nước, là thành viên phối hợp chặt chẽ trong mọi công tác với
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nhằm góp phần tạo điều kiện vật chất và tinh
thần cho học sinh, sinh viên trong học tập, nghiên cứu, trong các phong trào chính trị -
xã hội thực tiễn và trong bồi dưỡng nhân cách người học sinh, sinh viên mới.
1.2. ĐẠO ĐỨC MỚI VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN
THỐNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN VIỆT
NAM HIỆN NAY
1.2.1. Vai trò và yêu cầu đạo đức mới của thanh niên Việt Nam hiện nay
Đạo đức không sinh ra từ đạo đức, mà nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội,
là kết quả sự phát triển lịch sử. Đạo đức được hình thành từ rất sớm, ngay từ khi bắt đầu
hình thành xã hội loài người. Tuỳ thuộc vào các giai đoạn lịch sử và cách tiếp cận khác
nhau mà vấn đề đạo đức được hiểu theo những nghĩa khác nhau. Ở phương Đông cổ
đại, người Trung Quốc đã đưa ra nhiều học thuyết về đạo đức được biểu hiện trong
quan niệm về “đạo” và “đức” của họ. “Đạo” mang nghĩa là đường đi, con đường. Về
sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Ngoài
ra đạo còn là một phạm trù để chỉ đường sống của con người trong xã hội.
Khái niệm “đức” lần đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời nhà Chu Trung Quốc
và sau được người Trung Quốc sử dụng nhiều. “Đức” là sự biểu hiện của đạo, là đạo
nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Nói tóm lại, theo quan niệm của người Trung Quốc cổ đại
thì đạo đức là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải
tuân theo.
Ở phương tây, ngay từ thời cổ đại cũng có nhiều nhà triết học đưa ra nhiều quan
niệm khác nhau về vấn đề đạo đức. Trong số đó, Xôcrát (469 - 399 TCN) là người đầu
tiên đặt nền mống cho khoa học đạo đức học. Về sau Arixtot (384 - 322 TCN) đặc biệt
quan tâm đến phẩm hạnh con người và cho ra đời bộ sách đạo đức học. Nội dung của
phẩm hạnh con người theo Arixtot chính là ở chỗ con người biết định hướng đúng, biết
làm việc thiện. Epiquya là nhà triết học rất quan tâm đến vấn đề đạo đức. Ông là người
đầu tiên đưa ra phạm trù lẽ sống và là một trong những người có công luận giải về sự tự
do của con người.
Kế thừa những tư tưởng quý báu về đạo đức trước đó, chủ nghĩa Mác - Lênin
đưa ra quan niệm về đạo đức:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được biểu hiện
bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội [12,
tr.7].
Từ quan niệm trên, đạo đức trước hết được hiểu là một hình thái ý thức xã hội,
nó phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực của đời sống đạo đức xã hội. Quan điểm
này đã khắc phục những sai lầm của các nhà triết học trước Mác (cả duy vật lẫn duy
tâm) khi họ xem xét các vấn đề xã hội và đạo đức. Theo họ, đạo đức là biểu hiện của
một sức mạnh siêu nhiên nào đó, là biểu hiện của những năng lực “tiên thiên” nhất
thành bất biến của lý trí con người. Những nhà triết học duy vật trước Mác tiêu biểu là
Phoi-ơ-bắc đã nhìn thấy đạo đức trong quan hệ con người, người với người. Nhưng với
ông con người chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến, con người nhân bản, nghĩa là
con người ở bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại.
Những người theo quan điểm Đác - Uyn xã hội đã tầm thường hóa chủ nghĩa duy
vật bằng cách cho rằng, những phẩm chất đạo đức của con người là đồng nhất với
những bản năng bầy đàn của động vật. Đối với họ đạo đức, về thực chất cũng chỉ là
những năng lực được đem lại từ bên ngoài con người, ngoài xã hội. Như vậy nét chung
của các lý thuyết này là coi đạo đức không phải là cái phản ánh cơ sở xã hội hiện thực
khách quan.
Khác với tất cả những quan điểm trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã quan niệm
đạo đức được nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử.
Trong tác phẩm "Chống ĐuyRinh", Ph.Ăngghen đã viết: “Xét cho đến cùng, mọi học
thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội
lúc bấy giờ” [34, tr.137].
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, do tồn tại xã hội sinh ra và phản ánh
tồn tại xã hội, cho nên đạo đức không đứng yên mà luôn vận động và biến đổi cùng với
sự biến đổi của cái đã sinh ra nó.
Trong xã hội Cộng sản nguyên thuỷ, khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, quan
hệ sản xuất dựa trên cơ sở của chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Điều đó đã
quy định đời sống làm chung, ăn chung, ở chung của người nguyên thuỷ. Chính vì vậy
mặc dù trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ các dấu hiệu về đạo đức đã xuất hiện, nhưng
biểu hiện của nó còn sơ khai, mang tính trực quan, cụ thể nhưng nó đã được xem là
mầm mống đầu tiên của đạo đức. Đạo đức trong Xã hội cộng sản nguyên thuỷ tồn tại và
thể hiện trong xã hội và thông qua các quan hệ xã hội khác trên cơ sở phong tục, tập
quán, thói quen, kinh nghiệm …
Đến cuối chế độ Cộng sản nguyên thuỷ, xã hội đã xuất hiện giai cấp, xuất hiện
chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Trong các xã hội có sự phân chia giai cấp
thì đạo đức cũng mang tính giai cấp, đó là đạo đức của những người bóc lột và đạo đức
của những người bị bóc lột. Chính vì đạo đức mang tính chất đối kháng, nên những
chuẩn mực, quy tắc đạo đức được xây dựng trên cơ sở bất bình đẳng, sự nô dịch, sự áp
bức và bóc lột. Điều này thể hiện rất rõ trong các chế độ xã hội Chiếm hữu nô lệ, Phong
kiến, Tư bản Chủ nghĩa. Trong ba nền đạo đức ấy, chúng ta phải thừa nhận rằng mỗi
nền đạo đức như thế nó có vị trí riêng, vai trò riêng trong quá trình phát triển của nhân
loại. Mặc dù đạo đức Tư sản đã từng có vai trò to lớn trong lịch sử, mà cụ thể là nó đề
cao vai trò của cá nhân, thế nhưng khi đạo đức Tư sản tuyệt đối hoá vai trò cá nhân, dẫn
đến chủ nghĩa cá nhân thì nó đã thể hiện rõ mặt trái của nó, đó là lối sống chạy theo
đồng tiền, vị kỷ, chạy theo những ham muốn bản năng thấp hèn… điều đó đã làm cho
các quan hệ giữa người và người trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn theo lối “trả tiền ngay
không cần tình nghĩa”, đồng tiền trở thành chân giá trị cuối cùng trong tất cả các quan
hệ xã hội. Khi nhận định về đạo đức của xã hội Tư bản người ta thấy rằng cùng với việc
tạo ra bước tiến khổng lồ và những thành tựu to lớn trong sự phát triển, Chủ nghĩa Tư
bản cũng đã để lại trong lòng nó không ít những hậu quả tiêu cực. Vấn đề luân lý, đạo
đức ngày càng suy giảm. Nhận định về điều này C.Mác cho rằng:
Mọi sự vật đều tựa hồ như bao hàm mặt đối lập của nó. Chúng ta thấy
rằng những máy móc có một sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt lao động
của con người và làm cho lao động của con người có kết quả cao hơn, thì lại
đem nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải
mới từ xưa đến nay chưa ai biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào đó
lại đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ. Những thắng lợi của kỹ
thuật dường như đã được mua bằng cái giá của sự suy đồi về mặt tinh thần.
Dường như loài người càng chinh phục được thiên nhiên nhiều hơn, thì con
người lại càng trở thành nô lệ của những người khác hoặc nô lệ cho sự đê tiện
của chính mình [32, tr.40 ].
Trên cơ sở nắm được những quy luật vận động và phát triển của đạo đức, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã dự báo về sự xuất hiện nền đạo đức mới với tư cách là biểu hiện về
mặt đạo đức của xã hội mới - xã hội Cộng sản chủ nghĩa và sự hình thành đạo đức mới
trên cơ sở gắn đạo đức vô sản với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản và do đó
nhân loại thoát khỏi sự phân biệt giai cấp. Vì vậy, theo Mác đạo đức Cộng sản là một
thứ “đạo đức thực sự có tính người, đứng trên những đối lập giai cấp và trên mọi hồi ức
về những đối lập ấy” [34, tr.137].
Tuy nhiên, đạo đức mới - đạo đức cộng sản được hình thành là một quá trình lâu
dài, phức tạp. Thắng lợi của giai cấp vô sản chỉ là cơ sở, nền mống đầu tiên cho sự xác
lập đạo đức cộng sản. Sự nghiệp xây dựng đạo đức mới - đạo đức cộng sản là một quá
trình lâu dài phức tạp và là một quá trình tự giác.
Với thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại, Lênin là người đầu tiên lĩnh sứ
mệnh lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chế độ CSCN và đạo đức Cộng sản. Theo Lênin đạo đức
cộng sản “là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất
cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới” [27,
tr.369]. Lênin cũng chỉ ra rằng: “cơ sở của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng
cố và hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản” [27, tr.372].
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận về
đạo đức nói riêng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra
rằng: “Nói tóm tắt đạo đức cách mạng là: quyết tâm suốt đời đấu tranh cho đảng, cho
cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của
Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân
dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục
vụ nhân dân. Vì đảng vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc.
Ra sức học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng phê bình và tự phê bình để nâng
cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ [38, tr.285].
Hồ Chí Minh đã coi đạo đức cách mạng là “gốc”, là nền tảng của mọi người cách
mạng, Người nói: “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân [36, tr.252
- 253].
Khác với các nền đạo đức trước đây, đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân,
đạo đức cộng sản hay đạo đức mới - là nền đạo đức tiêu biểu cho giai cấp công nhân và
toàn thể nhân dân lao động, là nền đạo đức hướng tới sự xoá bỏ hoàn toàn sự áp bức và
bóc lột, mà chỉ có dưới CNXH mới có thể thực hiện được. Như vậy, so với các nền đạo
đức trước đây thì đạo đức mới là một bước phát triển cao về chất. Nó là kết quả của sự
kế thừa những nội dung tốt đẹp nhất của các nền đạo đức trước đó, vì vậy đạo đức cách
mạng bao hàm rất nhiều yếu tố mang tính nhân loại và nền đạo đức ấy sẽ được xây
dựng thành công trong tương lai trên toàn thế giới, cùng với sự thắng lợi của chủ nghĩa
cộng sản.
Tính cách mạng và khoa học của đạo đức mới thể hiện ở chỗ nó là sự phản ánh
sáng tạo thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, ở sự kế thừa
có phê phán chọn lọc những giá trị truyền thống của dân tộc và những tinh hoa văn hoá
của nhân loại. Nội dung đạo đức mới mang tính khách quan, được quy định bởi địa vị
và vai trò của giai cấp công nhân trong nền sản xuất vật chất xã hội, bởi bản chất cách
mạng và nhân đạo của của giai cấp vô sản. Chính tính cách mạng và khoa học của đạo
đức mới đã quy định bản chất của đạo đức mới.
Chủ nghĩa tập thể là cơ sở của đạo đức mới:
Chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc, là cơ sở của đạo đức mới. Ở đây con người
không chỉ suy nghĩ và hành động vì mình, vì bản thân mình mà còn vì người khác, có
tinh thần trách nhiệm và thái độ tôn trọng, chăm sóc lẫn nhau. Tập thể ở đây vừa là mục
đích, vừa là phương tiện, là hình thức để cho các cá nhân phát triển. Chủ nghĩa tập thể là
kết quả của sự phát triển hợp quy luật của lịch sử xã hội loài người, là sự tổng hợp của
những nhân tố chủ quan và khách quan của đời sống con người và xã hội loài người.
Chủ nghĩa tập thể hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là
biểu hiện của sự tuyệt đối hoá lợi ích của cá nhân, của gia đình mà xem thường hay tạo
ra sự đối lập với lợi ích của tập thể, của xã hội. Thế nhưng dưới CNXH cũng không
chấp nhận sự tuyệt đối hoá lợi ích tập thể, lợi ích xã hội mà xem thường lợi ích cá nhân.
Cái mà CNXH kiên quyết xoá bỏ là chủ nghĩa cá nhân chứ không phải là lợi ích cá nhân
- cái lợi thu được hợp pháp trong quá trình lao động, sản xuất và kinh doanh của mỗi cá
nhân. Để khắc phục Chủ nghĩa cá nhân, theo Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ dừng lại
ở việc giáo dục cá nhân mà điều quan trọng là phải xây dựng những tập thể thực sự tốt
đẹp. Ở đâu tập thể tốt thì ở đó chủ nghĩa cá nhân ít có điều kiện nảy nở. Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên và nhân dân ta phải
nâng cao tinh thần tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân. Theo Bác, chủ nghĩa cá nhân là kẻ
thù nguy hiểm mà mọi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết
tiêu diệt chúng, tuy vậy cuộc đấu tranh ấy là một quá trình lâu dài, phức tạp.
Chủ nghĩa tập thể đòi hỏi tập thể phải có nghĩa vụ đối với cá nhân, quan tâm đến
mọi mặt của đời sống cá nhân, đồng thời cũng yêu cầu mỗi cá nhân phải biết kết hợp hài
hoà lợi ích giữa cá nhân và xã hội với tinh thần: “mọi người vì mỗi người, mỗi người vì
mọi người”. Trên tinh thần ấy sẽ tạo điều kiện cho sự hài hoà giữa lợi ích cá nhân và xã
hội. Như vậy chỉ có dưới CNXH mới đem lại giá trị của con người trả lại cho con
người, coi con người là mục đích cao nhất. Ở đây biểu hiện quan hệ mới giữa cá nhân
và xã hội (thông qua mối quan hệ về lợi ích) là thống nhất với nhau, vai trò nhà nước
biểu hiện thực sự lợi ích của quần chúng lao động. Quan hệ giữa người và người trong
tập thể là quan hệ bình đẳng, hợp tác, là quan hệ đồng chí. Giữa các cá nhân có mục tiêu
chung là sự phát triển của cá nhân làm tiền đề, sự phát triển tự do, toàn diện của con
người là mục đích, sự phát triển tự do cho cá nhân mỗi người là điều kiện phát triển tự
do cho mọi người. Trong điều kiện ấy con người không chỉ quan tâm đến đến mình mà
còn quan tâm đến người khác với tinh thần trách nhiệm cao, luôn quan tâm chăm sóc
lẫn nhau, thực hiện mục tiêu chung phù hợp với sự tiến bộ xã hội, vì thế nó là cơ sở của
chủ nghĩa nhân đạo cao nhất.
Lao động sáng tạo, tự giác là cội nguồn của đạo đức mới:
Lao động là hoạt động đặc thù của con người, nhờ có lao động mà xã hội loài
người vận động và phát triển. Trong cuộc sống con người, để đo phẩm giá của mình con
người đã sử dụng rất nhiều chuẩn mực khác nhau, chẳng hạn như lương tâm trong sáng,
động cơ hành vi hợp đạo đức, cuộc sống tinh thần lành mạnh, không vi phạm các chuẩn
mực đạo đức… trong số những chuẩn mực đó thì thái độ đối với lao động được xem là
một trong những chuẩn mực quan trọng nhất. Bởi vì thông qua thái độ đối với lao động
mà người ta đánh giá con người đó lao động nghiêm túc hay không nghiêm túc; trung
thực hay giả dối; có trách nhiệm hay vô trách nhiệm; tiết kiệm hay lãng phí…
Đạo đức mới luôn kính trọng, tôn vinh những người có thái độ tốt đối với lao
động, đó là những người có tính tự giác trong lao động, lao động có tổ chức, kỷ luật,
cần cù và sáng tạo; chăm lo lao động, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, lười lao
động… nhưng đạo đức mới cũng hoàn toàn xa lạ và đối lập với kiểu lao động hình thức,
vô trách nhiệm, kém hiệu quả và vụ lợi, kiểu: “ngồi mát ăn bát vàng” như các nền đạo
đức của giai cấp bóc lột trước đây.
Dưới XHCN đòi hỏi phải sản xuất ngày càng nhiều của cải vật chất, do đó người
lao động phải lao động một cách nhiệt tình, sáng tạo với năng suất, chất lượng cao và
thông qua thái độ lao động tự giác, có kỷ luật, lao động sáng tạo thể hiện bản chất con
người, lao động cho mình và vì sự tiến bộ của xã hội.
Chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế:
Yêu nước là một thuộc tính tự nhiên có ý nghĩa phổ biến đối với tất cả mọi
người, mọi dân tộc. Bởi vì bất kỳ cá nhân nào được sinh ra đều có cội nguồn nhất định:
có quê hương, dân tộc, tổ quốc của mình. Do đó dù có đi nơi đâu họ cũng nhớ về những
kỷ niệm vui buồn nơi “chôn nhau cắt rốn” và có niềm tự hào sâu sắc về quê hương
mình. Trong đó truyền thống dân tộc được xem là một niềm tự hào cao cả nhất, có sức
cổ vũ mạnh mẽ nhất. Chính lòng tự hào đó đã đem lại cho tình yêu tổ quốc một nội
dung phong phú sâu sắc ở mỗi con người. Khi lòng yêu nước được nâng cao đến tầm
triết lý nhân sinh, triết lý xã hội, một lối sống, một trình độ nhận thức sâu sắc và có hệ
thống chi phối một cách có ý thức mọi hành vi và cách ứng xử của con người thì trở
thành chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước bao hàm cả tư tưởng và tình cảm yêu
nước, nó vừa là nguyên tắc đạo đức nhưng cũng vừa là nguyên tắc chính trị. Ngoài tình
yêu đối với đất nước, chủ nghĩa yêu nước còn là lòng trung thành với tổ quốc và khát
vọng phục vụ những lợi ích cao cả của tổ quốc và nhân dân.
Trong lịch sử của nhân loại, chủ nghĩa yêu nước có quá trình phát triển lâu dài,
có tính lịch sử. Trong các xã hội có giai cấp, chủ nghĩa yêu nước cũng mang tính giai
cấp. Chẳng hạn yêu nước theo quan niệm của giai cấp Phong kiến là “trung quân”, yêu
nước theo tư tưởng của giai cấp Tư sản là “yêu chế độ tư sản”, còn yêu nước trong chế
độ XHCN là yêu nhân dân lao động, là lòng tự hào dân tộc, lòng tự hào trong lao động,
tự hào về những gương anh hùng giải phóng dân tộc…và như vậy chủ nghĩa yêu nước
của giai cấp công nhân luôn gắn liền với lợi ích của nhân dân lao động, gắn liền với
mục tiêu giải phóng nhân dân lao động vĩnh viễn thoát khỏi sự áp bức bóc lột, nâng cao
trình độ phát triển về mọi mặt cho người lao động để họ thật sự là người làm chủ đất
nước.
Như vậy theo đạo đức mới của giai cấp công nhân hiện nay, yêu nước không chỉ
dừng lại ở chỗ yêu quê hương, làng xóm, họ hàng, là trung với vua… mà yêu nước đã
được mở rộng hơn nhiều và nâng lên về chất: yêu nước là yêu nhân dân lao động, yêu
chế độ XHCN và quyết tâm xây dựng thành công CNXH, yêu nước trên lập trường chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Vì thế chủ nghĩa yêu nước của giai cấp công nhân
trong thời đại ngày nay có giá trị to lớn và có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Chủ nghĩa nhân đạo XHCN:
Chủ nghĩa nhân đạo, theo tiếng Latinh (Humanus) có nghĩa là về con người, về
tính người, có học thức. Trong thời kỳ Phục hưng, theo nghĩa hẹp chủ nghĩa nhân đạo
gắn liền với việc nghiên cứu các di sản cổ đại trong triết học, luân lý học, nghệ thuật và
mô tả đặc điểm của nền văn hoá thời kỳ Phục hưng. Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa nhân
đạo là một trào lưu xã hội tiến bộ, là tổng hợp những quan điểm nhằm bảo vệ phẩm giá,
bảo vệ sự tự do và sự phát triển toàn diện, bảo vệ tính người của các quan hệ xã hội.
Tư tưởng nhân đạo đã được hình thành từ xa xưa, trong cuộc đấu tranh chống áp
bức, bóc lột và những hành vi vi phạm đạo đức. Nhưng nó được hình thành rõ nét từ
phong trào phục hưng văn hoá thế kỉ XV- XVI ở Italia khi giai cấp tư sản đang lên
chống lại những tư tưởng của giai cấp Phong kiến và tư tưởng kinh viện của nhà thờ đã
giam hãm con người trong đêm dài trung cổ nhằm giải phóng con người, đòi tự do, bình
đẳng, bác ái.
Chủ nghĩa nhân đạo XHCN và chủ nghĩa nhân đạo tư sản có sự đối lập với nhau
về chất. Điều này thể hiện ở chỗ Chủ nghĩa nhân đạo XHCN là sự kế thừa và phát triển
trên quan điểm biện chứng những tinh hoa lý tưởng nhân đạo trong lịch sử nhân loại,
nhưng đó không phải là lý tưởng nhân đạo của CNXH không tưởng - là một thứ tình
cảm chung chung, trừu tượng phi giai cấp, phi lịch sử, mà đó là chủ nghĩa nhân đạo có
tính chất hiện thực và trực tiếp nhằm vào hành động và giải phóng con người. Với ý
nghĩa đó chủ nghĩa nhân đạo XHCN là nguyên tắc, là nội dung cơ bản của đạo đức mới.
Chỉ có chủ nghĩa nhân đạo XHCN và Chủ nghĩa nhân đạo Cộng sản mới có thể biến
ước mơ nhân đạo thành hiện thực phổ biến, tạo những điều kiện để xoá bỏ tận gốc mọi
hình thức áp bức, bóc lột và nô dịch con người, do vậy chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là
lý tưởng nhân đạo triệt để, là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực.
Về vai trò đạo đức mới của thanh niên Việt Nam hiện nay:
Bất kỳ một giai cấp nào sau khi đã giành được chính quyền về tay giai cấp mình
đều tiến hành cải tạo mọi mặt của đời sống xã hội theo hướng có lợi cho giai cấp mình.
Giai cấp vô sản cũng không nằm ngoài quy luật đó. Sau khi giành được chính quyền,
giai cấp vô sản đã xác lập được địa vị thống trị về mọi mặt của đời sống xã hội: kinh tế,
văn hoá và tư tưởng .
Đạo đức mới - đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động từ khi được
hình thành đến nay đã dần dần khẳng định địa vị thống trị của mình trong đời sống đạo
đức xã hội và là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân trong quá trình xây dựng xã hội
mới. Đạo đức mới của thanh niên có vai trò to lớn. Khẳng định điều đó là do:
Đạo đức mới của thanh niên là mục tiêu hướng tới của người thanh niên hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ, là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới:
Theo khoản 1, điều 4 luật thanh niên nêu rõ: “thanh niên là tương lai của đất
nước, là lực lượng hùng hậu, có tiềm năng to lớn, xung kích trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc”. Để xứng đáng với vị trí và vai trò to lớn đó đòi hỏi thanh
niên phải được nuôi dưỡng, giáo dục trong môi trường đạo đức mới, phải là lực
lượng tiêu biểu mang trong mình đầy đủ những chuẩn mực của nền đạo đức mới.
Bởi đạo đức mới của thanh niên là những quy tắc, chuẩn mực mang tính cách mạng
và khoa học, có khả năng hướng tới hình ảnh hoàn thiện nhất của con người, góp
phần giải phóng người lao động vĩnh viễn thoát khỏi sự áp bức bất công vì một xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh. Vì vậy có thể nói rằng đạo đức mới của thanh
niên là mục tiêu hướng tới của người thanh niên.
Khi đã có đạo đức mới người thanh niên mới có thể hoàn thành được nhiệm vụ
của mình trong mọi giai đoạn cách mạng. Vì đạo đức mới mang tính cách mạng, khoa
học nên nó có khả năng định hướng cho ý thức và hành vi mọi người trong xã hội nói
chung, cho thanh niên nói riêng.
Để giành thắng lợi trong công cuộc đổi mới cần rất nhiều yếu tố, nhưng đạo đức
mới của thanh niên là một trong những động lực rất quan trọng, như tinh thần nghị
quyết trung ương 4 khóa VII của Đảng ta xác định: “sự nghiệp đổi mới có thành công
hay không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới
hay không, cách mạng có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần
lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ thanh niên”
[54, tr.136].
Đạo đức mới của thanh niên có tác dụng giáo dục nêu gương góp phần xây dựng
nếp sống và quan hệ xã hội mới:
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, bên cạnh những tác động tích cực,
mặt trái của nó cũng gây ra những tác động tiêu cực nhất định đến đạo đức, đặc biệt là
đạo đức trong lực lượng thanh niên. Đó là những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối
sống trong một bộ phận thanh niên. Trong tình trạng đó, đạo đức mới của thanh niên có
tác dụng nêu gương, góp phần xây dựng nếp sống mới và những quan hệ xã hội mới với
tinh thần: “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. Trên tinh thần đó, mọi
người sẽ có điều kiện để quan tâm, giúp đỡ nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát
triển.
Đạo đức mới của thanh niên là nhân tố tác động tích cực trong cuộc đấu tranh
phòng chống tham nhũng:
Tham nhũng và tệ nạn xã hội là những vấn đề gây nhức nhối trong xã hội chúng
ta hiện nay. Tham nhũng do nhiều nguyên nhân gây nên, nhưng nguyên nhân cơ bản
nhất là do sự suy thoái về đạo đức, lối sống cán bộ, đảng viên. Để đấu tranh phòng
chống tham nhũng đòi hỏi phải có sự kết hợp của toàn xã hội với nhiều sự tác động
khác nhau, trong đó đạo đức mới của thanh niên là nhân tố tác động tích cực trong cuộc
đấu tranh ấy. Đạo đức mới của thanh niên dựa trên một nền đạo đức của nhân dân lao
động, là những chuẩn mực quy định mọi nhận thức và hành vi của con người phải dựa
trên lợi ích chung của toàn thể nhân dân lao động, phấn đấu vì một xã hội công bằng,
dân chủ và văn minh. Chính vì vậy đạo đức mới của thanh niên hoàn toàn đối lập với
chủ nghĩa cá nhân và những hành vi tham nhũng. Sự đối lập ấy tất yếu dẫn đến cuộc đấu
tranh. Trong cuộc đấu tranh đó, đạo đức mới của thanh niên sẽ cổ vũ, biểu dương những
đức tính và hành vi trung thực, thăng thắn, cần, kiệm, chí công, vô tư, đồng thời kịch
liệt lên án, phê phán những biểu hiện tiêu cực của tệ tham nhũng, từ đó sẽ góp phần
ngăn chặn và đẩy lùi hiện tượng tham nhũng.
Không chỉ có vai trò tác động tích cực trong cuộc đấu tranh phòng chống tham
nhũng, mà đạo đức mới của thanh niên còn là nhân tố tác động tích cực trong cuộc đấu
tranh phòng, chống tệ nạn xã hội. Trong quá trình mở cửa giao lưu, hội nhập ở nước ta
hiện nay là điều kiện thuận lợi làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma tuý và
mại dâm. Ma tuý và mại dâm là hai tệ nạn xã hội gây ra những tác hại vô cùng to lớn
cho sự phát triển của xã hội. Chính vì thế Đảng, nhà nước và nhân dân ta rất quyết tâm
phòng chống nó và đã sử dụng nhiều biện pháp để tác động. Trong số những biện pháp
đó thì đạo đức mới của thanh niên có vai trò tác động tích cực. Vai trò tác động tích cực
của nó thể hiện ở chỗ nó góp phần định hướng cho mọi người đến với cuộc sống tốt
đẹp, góp phần phát triển con người một cách toàn diện về thể xác và tâm hồn, nó tích
cực phê phán và lên án tệ nạn ma tuý và mại dâm - hai nguyên nhân làm huỷ hoại, tàn
phá sức sống con người và làm băng hoại mọi giá trị xã hội.
Tóm lại, đạo đức mới của thanh niên có vai trò rất quan trọng đối với xã hội nói
chung nên việc phát huy vai trò của đạo đức mới của thanh niên là một việc làm rất cần
thiết và quan trọng, góp phần cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Yêu cầu đạo đức mới của thanh niên Việt Nam hiện nay:
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, đưa nước nhà thoát khỏi
tình trạng nghèo nàn, lạc hậu đòi hỏi rất nhiều điều kiện. Trong số những điều kiện ấy
thì việc phát huy vai trò nhân tố con người là một yêu cầu rất quan trọng và có tính chất
quyết định. Để con người phát triển một cách toàn diện thì phải có sự thống nhất giữa
đức và tài. Trong mối quan hệ giữa “đức” và “tài” thì đức là “gốc”, là nền tảng, tài trên
cái nền của đức mà phát huy, nhằm mang lại những lợi ích cho cá nhân và xã hội; còn
tài là điều kiện cần thiết để đức để phát huy, để giữ vững đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng dạy: người có đức mà không có tài thì không đủ năng lực điều hành công việc, có
tài mà không có đức dẫn đến hỏng việc, có hại cho cách mạng.
Thanh niên với vai trò là “người chủ tương lai của đất nước”, vì vậy việc xây
dựng thế hệ thanh niên vừa có tài vừa có đức để đáp ứng những yêu cầu mới của đất
nước hiện nay là một yêu cầu quan trọng và cấp bách. Theo tinh thần của Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII, yêu cầu đạo đức mới của
Thanh niên Việt Nam hiện nay được xác định cụ thể như sau:
Một là, phải có tinh thần yêu nước mới. Yêu nước là yêu xã hội XHCN, yêu nhân
dân, sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc, nhân dân vì lý tưởng cách mạng. Đây là một trong
những phẩm chất hàng đầu của thanh niên, vì trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào thì
yêu nước vẫn là giá trị đạo đức vô cùng quý báu. Ở nước ta hiện nay, trong quá trình đổi
mới đất nước, do tình hình thế giới đang có những biến đổi nhanh chóng và phức tạp,
mặt khác các thế lực phản động trong và ngoài nước luôn tìm mọi cách chống phá
CNXH, hòng xoá bỏ những thành quả mà cách mạng đã đạt được. Chính vì vậy, bên
cạnh những thành tựu thuận lợi mà quá trình đổi mới mang lại, chúng ta lại phải đương
đầu với nhiều khó khăn, thử thách. Trước tình hình đó, sự nghiệp cách mạng của dân
tộc Việt Nam có thành công hay không còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng tinh
thần yêu nước là yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất đòi hỏi thanh niên phải có
được. Chính vì thế Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể phải giáo dục thanh niên,
biến chủ nghĩa yêu nước, lợi ích chân chính của dân tộc thành nội lực bên trong cho mỗi
thanh niên, nhờ thế nó thôi thúc, khơi dậy nhiệt tình cách mạng, ý chí tự lực, tự cường,
biết kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc với tinh
thần không chịu đói nghèo, lạc hậu. Yêu nước theo đạo đức mới phải gắn liền với
CNXH, bảo vệ Đảng cộng sản việt Nam, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, thực hiện thắng lợi
sự nghiệp CNH, HĐH, bảo vệ lợi ích của toàn dân tộc, quyết tâm xây dựng xã hội phồn
vinh, nhân dân hạnh phúc.
Hai là, phải nâng cao nhận thức và hoạt động thực tiễn trong việc giải quyết hài
hoà mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội. Để phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN thì việc giải quyết hài hoà mối quan hệ về lợi ích giữa cá nhân và xã hội có một
ý nghĩa quan trọng chiến lược. Vì vậy, yêu cầu đạo đức mới của thanh niên hiện nay là
phải hiểu được cơ sở lý luận và gương mẫu đi đầu trong việc giải quyết hài hoà mối
quan hệ về lợi ích giữa các nhân và xã hội. Để giải quyết hài hoà mối quan hệ ấy đòi hỏi
thanh niên phải tự đặt lợi ích tập thể, lợi ích xã hội lên trên lợi ích cá nhân, sẵn sàng hy
sinh lợi ích cá nhân khi nó mâu thuẫn với lợi ích của tập thể, lợi ích của toàn xã hội.
Ba là, phải có bản lĩnh cách mạng. Bản lĩnh cách mạng được thể hiện rất phong
phú, đa dạng nhưng trước hết nó thể hiện ở tính cần cù, chịu khó trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ học tập, lao động và chiến đấu. Mặt khác, bản lĩnh cách mạng còn
thể hiện trong sự tự rèn luyện, tự tu dưỡng bản thân, nghiêm khắc với mình trong
tình cảm đạo đức và hành vi đạo đức. Điều này thể hiện ở chỗ luôn lấy những
chuẩn mực đạo đức và quy phạm, hành vi nhất định để chế ước bản thân mình, xây
dựng cho mình những đức tính như trung thực, cầu thị, không che giấu khuyết
điểm, sai lầm, dũng cảm thừa nhận và kiên quyết khắc phục những sai lầm, khuyết
điểm…
Bốn là, có tinh thần đoàn kết, thương yêu con người, giúp đỡ mọi người. Đây là
một phẩm chất rất quan trọng của thanh niên, vì dưới CNXH đã tạo điều kiện cần thiết
để con người yêu thương nhau, giúp đỡ nhau với tinh thần: “mọi người vì mỗi người,
mỗi người vì mọi người ”. Chính tinh thần đoàn kết, thương yêu con người, giúp đỡ mọi
người, sẽ giúp cho thanh niên sống hoà đồng hơn, dễ cảm thông với những khó khăn vất
vả của người khác, tạo lập được ý thức vì tập thể, vì xã hội, biết sống cho mọi người, từ
đó sẽ đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân, thói ích kỷ, lối sống thờ ơ, lãnh đạm, bàng quang với
nỗi khổ của người khác.
Năm là, thanh niên Việt Nam phải có được lý tưởng cách mạng, có ước mơ, hoài
bão lớn lao, cao đẹp. Đây là một yêu cầu quan trọng đối với thanh niên vì hiện nay có
rất nhiều thanh niên không có hoặc lợt phai lý tưởng cách mạng, thờ ơ với chính trị,
sống vì hiện tại bất chấp tương lai, chạy theo những ham muốn thấp hèn. Khi có lý
tưởng, ước mơ, hoài bão cao đẹp sẽ giúp cho thanh niên vững vàng trong cuộc sống,
định hướng cho mình tới cái hay, cái đẹp phù hợp với lý tưởng đạo đức mới mà Đảng
và nhân dân ta đã lựa chọn. Đây là điều rất quan trọng giúp cho thanh niên trở thành
những con người có ích cho chính cuộc sống của mình và cho đất nước. Từ đó hình
thành ở thanh niên niềm tin mãnh liệt vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc đổi
mới, vào con đường đi lên CNXH. Chính niềm tin đó sẽ thôi thúc thanh niên tham gia
vào những hoạt động thiết thực, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, tiến tới xây dựng thành công CNXH.
Sáu là, thanh niên phải có nhân cách tốt, có lối sống trong sạch, lành mạnh, chân
thật, thuỷ chung son sắc. Chân thành với tình bạn, chung thuỷ trong tình yêu, lành mạnh
trong lối sống là một yêu cầu tất yếu của thanh niên. Trong lứa tuổi thanh niên, nhu cầu
về tình bạn, tình yêu nam nữ là những vấn đề rất lớn, thu hút sự quan tâm đặc biệt của
thanh niên, nhưng đây cũng là những vấn đề nhạy cảm và tế nhị. Vì vậy xã hội phải
giáo dục, định hướng cho thanh niên có cái nhìn và hành động đúng đắn, phù hợp với
những chuẩn đạo đức của truyền thống dân tộc. Chính tình bạn chân thật, vô tư trong
sáng và tình yêu thuỷ chung, son sắc sẽ là động lực giúp cho thanh niên vượt qua những
khó khăn, gian khổ để vươn lên trong cuộc sống. Thế nhưng nếu tình bạn, tình yêu được
tạo dựng trên những mưu toan, tính toán cá nhân tầm thường, tất yếu sẽ ảnh hưởng
không tốt đến quá trình học tập, lao động và chiến đấu của thanh niên. Chính vì vậy
phải giúp cho thanh niên có quan niệm, hành động đúng trong việc xây dựng cho mình
một tình bạn trong sáng chân thành trên cơ sở của sự hợp tác, bình đẳng hoàn toàn tự
nguyện, tin cậy lẫn nhau và một tình yêu thuỷ chung dựa trên sự rung động của trái tim
một cách vô tư, không vụ lợi. Ngoài ra phải rèn luyện nhân cách, lối sống lành mạnh
cho thanh niên. Nhân cách, lối sống lành mạnh ấy phải được biểu hiện thành thái độ,
tinh thần đấu tranh của họ với cái xấu, cái ác, cái phản đạo đức.
1.2.2. Vai trò của các giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo
đức mới cho thanh niên Việt Nam hiện nay
Ngày nay trong quá trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, kế thừa là một trong
những đặc trưng cơ bản, phổ biến của sự phát triển. Tuy nhiên, trong sự phát triển
không chỉ diễn ra sự kế thừa mà còn luôn luôn có sự đổi mới, tái tạo. Đây là hai mặt
thống nhất biện chứng trong sự phát triển, luôn tồn tại song hành, thâm nhập và bổ sung
lẫn nhau. Hơn nữa theo quan niệm mácxít, không chỉ tồn tại sự kế thừa theo thời gian
(theo lịch đại) mà còn tồn tại sự kế thừa theo không gian (kế thừa đồng đại). Vai trò của
các giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên Việt
Nam có ý nghĩa vô cùng to lớn. Khẳng định điều này là do:
Thứ nhất, các giá trị đạo đức truyền thống giữ vị trí nền tảng, làm cơ sở cho việc
xây dựng đạo đức mới nói chung và xây dựng đạo đức mới cho thanh niên nói riêng.
Hơn nữa nó còn tạo điều kiện cho nền đạo đức mới được khẳng định và phát triển vững
chắc. Bởi vì các giá trị đạo đức truyền thống làm nên bản sắc Việt Nam, tâm hồn, lối
sống con người Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Đạo đức truyền thống là tiền đề
trực tiếp của đạo đức cách mạng (đạo đức mới). Đạo đức mới của thanh niên là sự tiếp
nối và phát huy giá trị đạo đức tốt đẹp của thời đại trước để lại. Những giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc, truyền thống của thanh niên đã từng tạo nên ý nghĩa tích cực
trong sự phát triển đạo đức của người thanh niên trước đây thì ngày nay những giá trị ấy
vẫn không ngừng phát huy ảnh hưởng tích cực trong quá trình xây dựng đạo đức mới
cho người thanh niên hiện đại.
Những giá trị đạo đức truyền thống được lựa chọn về cơ bản là phù hợp với công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Có những chuẩn mực đạo đức đã lỗi thời bị gạt bỏ,
nhưng cũng có những giá trị mới được khẳng định và sẽ đề cao, như coi trọng giá trị cá
nhân, tính năng động, dám nghĩ dám làm... khả năng thích ứng của người Việt Nam
trong điều kiện mới rất nhanh chóng. Song, không ai phủ nhận được vai trò nền tảng
của các giá trị đạo đức truyền thống trong đời sống tinh thần. Một hệ thống đạo đức xã
hội sẽ không thể phát triển nếu gạt bỏ đạo đức truyền thống và không hướng tới mục
tiêu ngày càng phát triển con người toàn diện. Mặc dù có sự tác động mạnh mẽ của kinh
tế thị trường nhưng những giá trị đạo đức truyền thống đích thực vẫn được nhân dân ta
gìn giữ, phát huy trong đời sống đạo đức của con người Việt Nam hiện nay. Xây dựng
nền văn hóa mới, đạo đức mới mà lãng quên những giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc là sẽ tự đánh mất mình, “trở thành bóng mờ, hoặc bản sao chép của người khác” như
nhà thơ Nga Gamđatôp đã từng nói.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là một những mẫu mực trong việc đánh giá được
tầm quan trọng và đã kế thừa, phát huy những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc. Đối
với Người, kế thừa các giá trị truyền thống nói chung, các giá trị đạo đức truyền thống
nói riêng cần phải thực hiện theo phương thức:
Đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm
mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ…
Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sữa đổi lại cho hợp
lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm…
Cái gì mới mà hay thì phải làm [36, tr.94 - 95]
Trong tư tưởng đạo đức của Người, nguyên tắc kế thừa được vận dụng một cách
nhuần nhuyễn và trở thành nguyên tắc có tính chất chỉ đạo trong sự tiếp thu các giá trị
đạo đức truyền thống và nhân loại để xây dựng nền đạo đức mới - đạo đức cộng sản.
Thứ hai, các giá trị đạo đức truyền thống là cơ sở góp phần định hướng trong
việc giáo dục ý thức đạo đức, hành vi đạo đức
Thanh niên có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển đất nước. Họ là lực
lượng mang trong mình những phẩm chất quý báu như trẻ, khoẻ, có tri thức, năng động,
xung phong vượt khó. Họ thật sự là đại biểu cho sức sống, sức mạnh của dân tộc. Tuy
nhiên, để những tiềm năng đó trở thành hiện thực, trở thành động lực trong công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước, họ cần phải được định hướng một cách toàn diện, đặc
biệt là lý tưởng đạo đức trong sáng. Chính vì vậy, trong quá trình xây đạo đức mới cho
thanh niên hiện nay thì các giá trị đạo đức truyền thống luôn là cơ sở góp phần cho định
hướng cao đẹp đó.
Thật vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay các giá trị đạo đức truyền
thống có sự biến đổi sâu sắc. Sự biến đổi ấy nhìn chung theo hai hướng: hướng tích cực
và tiêu cực. Nhưng trong sự biến động ấy, các giá trị đạo đức truyền thống vẫn là những
“tiêu điểm” để từ đó các tầng lớp nhân dân đặc biệt là thanh niên theo đó mà “gióng
hướng” mà không đi lạc, mà phân biệt được phải, trái; đúng, sai; chính, tà; tốt, xấu…
trên cơ sở đó mà mọi người xác định được thái độ của mình để hành động cho phù hợp.
Chính vì thế, có thể nói trong quá trình xây dựng đạo đức mới cho thanh niên Việt Nam
hiện nay, các giá trị đạo đức truyền thống có vai trò rất quan trọng, nó là cơ sở góp phần
định hướng trong việc giáo dục ý thức đạo đức và hành vi đạo đức mới. Giáo Sư, Tiến
sĩ Huỳnh Khái Vinh cho rằng:
Cách thức tối ưu là dựa vào đạo đức, cụ thể là các giá trị và chuẩn mực
đạo đức. Trong khi pháp luật ở nước ta vẫn còn đang trong quá trình xây
dựng và phát triển (chứ chưa thể ở nấc thang hoàn thiện như ở những nước
có truyền thống pháp quyền từ hàng trăm năm nay) thì giá trị đạo đức vẫn
còn đóng vai trò hệ chuẩn phổ quát nhất đối với sự phát triển văn hoá, xây
dựng con người. Thông qua giá trị đạo đức có thể phát huy đạo lý dân tộc và
bản sắc dân tộc để phát triển văn hoá, xây dựng con người. Bởi lẽ các chuẩn
đạo đức tương đối mềm dẻo, được xác định bằng các tính chất nên hay không
nên. Chúng được kiểm tra bằng lương tâm, danh dư, trách nhiệm, nghĩa vụ, ý
nghĩa cuộc sống và dư luận xã hội, tức là được kiểm tra bằng tính tự nguyện,
tự giác [63, tr.103].
Nói giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là cơ sở, nền tảng trong việc xây
dựng đạo đức mới không có nghĩa là chúng ta giữ nguyên những giá trị đó mà nhất
thiết phải có sự đổi mới, phải làm cho những giá trị đó được sống lại và phát triển tốt
trong những điều kiện mới. Đồng thời chúng ta phải bổ sung những giá trị mới của
nhân loại, dân tộc như coi trọng những giá trị cá nhân, năng động, dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm…
Như vậy để xây dựng đạo đức mới, phải lấy giá trị đạo đức truyền thống làm
cơ sở, nền tảng trên cơ sở kế thừa và đổi mới. Theo Lênin:
Nhiệm vụ quan trọng nhất của giai cấp vô sản sau khi giành được
thắng lợi là phải nắm được các di sản văn hoá trước kia, chuyển hoá chúng
thành tài sản của toàn dân, để sử dụng được những di sản văn hoá quý giá
đó vào việc xây dựng cho xã hội xã hội chủ nghĩa một nền văn hoá cao hơn
nữa [24, tr.261].
Trong quá trình kế thừa và đổi mới những giá trị đạo đức truyền thống cần tránh
hai khuynh hướng sai lầm cực đoan sau:
Một là, xu hướng tuyệt đối hoá cái hiện đại, quay lưng với truyền thống mà biểu
hiện của nó thường là chạy theo đồng tiền, đua đòi, thích hưởng thụ, lười lao động…,
đây là khuynh hướng hư vô.
Hai là, xu hướng tuyệt đối hoá truyền thống, coi nhẹ cái hiện đại “sùng bái cái
truyền thống”, sống với lối sống cũ và đã qua, khôi phục cả những truyền thống lạc hậu,
những hủ tục…, đây là khuynh hướng bảo thủ.
Như vậy để khắc phục hai khuynh hướng sai lầm trên, đòi hỏi sự kế thừa phải
trên cơ sở có chọn lọc, có phê phán với tinh thần đổi mới.
Tóm lại, mặc dù có sự xuất hiện của những quan niệm mới về giá trị đạo đức
nhưng không ai có thể phủ nhận được vai trò nền tảng của giá trị đạo đức truyền thống
trong đời sống đạo đức, tinh thần xã hội.
Thứ ba, những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là động lực và là ngọn
nguồn phát triển của dân tộc, tạo nên sức mạnh tinh thần và bản lĩnh dân tộc, đặc biệt là
kích thích thế hệ thanh niên vươn lên tự tin trong điều kiện mới hết sức phức tạp như
hiện nay. Trong xu thế quốc tế hoá dù muốn hay không, các quốc gia cũng phải mở cửa
hoà nhập chung với thế giới hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
làm cho các lĩnh vực của đời sống trở nên hết sức năng động, các điều kiện và yêu cầu
cuộc sống luôn luôn thay đổi. Đặc biệt là các thành tựu của cuộc cách mạng tin học đã
làm cho các luồng tư tưởng, các sản phẩm văn hoá được truyền bá nhanh chóng và rộng
khắp. Chính những nhân tố mới của thời đại đã tạo nên những mối quan hệ mới có ảnh
hưởng các quan hệ truyền thống và các chuẩn mực vốn tương đối ổn định. Tất cả những
yếu tố mới ấy đã làm thay đổi tư duy, tác phong của con người nói chung, đặc biệt là
tầng lớp thanh niên nói riêng, làm cho họ năng động hơn, nhạy cảm hơn, tăng khả năng
nhận thức và cải tạo thế giới, thay đổi nhiều quan niệm sống của họ. Trước nhiều tác
động mạnh mẽ của thời đại, nền kinh tế thị trường bên cạnh những yếu tố góp phần tích
cực vào việc hình thành phẩm chất đạo đức mới của con người Việt Nam hiện đại còn
có mặt tiêu cực tác động theo chiều hướng ngược lại. Vậy dựa vào đâu để con người có
cơ sở sàng lọc những gì phù hợp, cần thiết cho sự phát triển riêng của Việt Nam và loại
bỏ những cái không phù hợp với quá trình xây dựng con người mới XHCN? Đó chính là
những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Quá khứ, hiện tại và tương lai
là một dòng chảy liên tục. Không có cái mới chân chính nào được tạo ra ngoài cái nền
mống của ttruyền thống. Giá trị đạo đức truyền thống giúp cho thanh niên có lòng tự
hào dân tộc, có niềm tin, sức mạnh vượt qua những khó khăn mới do thực tiễn cách
mạng đặt ra. Sẽ không bao giờ có con người Việt Nam hiện đại, phát triển toàn diện nếu
như mỗi chúng ta không có hiểu biết, không thấm nhuần lịch sử hào hùng của dân tộc ta
cùng với những giá trị truyền thống mà cha ông ta đã để lại. Việc kế thừa và phát huy
những giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên sẽ
tạo khả năng to lớn cho sự hoàn thiện từng bước con người mới, từ đó sẽ nung nấu trong
lòng họ những hoài bão, khát vọng đấu tranh và xây dựng tổ quốc ngày càng giàu mạnh,
vì một xã hội “công bằng, dân chủ và văn minh”.
Ngoài ra các giá trị đạo đức truyền thống cũng đóng vai trò là cơ sở để tổng kết,
tìm ra những phẩm chất mới trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên Việt Nam
hiện nay. Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi điều kiện kinh tế - xã hội thay
đổi đã làm cho nhiều giá trị truyền thống cũng phải thay đổi theo cho phù hợp. Thế
nhưng trong tiến trình thay đổi đó, các giá trị đạo đức truyền thống đóng một vai trò vô
cùng to lớn bởi nó là cơ sở để từ đó con người tổng kết, tìm ra những phẩm chất mới.
Chương 2
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN BẠC LIÊU HIỆN
NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. THỰC TRẠNG PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN BẠC LIÊU
HIỆN NAY
2.1.1. Một vài nét về đặc điểm Bạc Liêu ảnh hưởng đến việc xây dựng đạo
đức mới cho thanh niên
Điều kiện tự nhiên:
Xuất phát từ quan điểm của Chủ nghĩa duy vật về lịch sử cho rằng tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội. Đạo đức, với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, nó do
tồn tại xã hội sinh ra và phản ánh tồn tại xã hội đó. Chính vì thế khi nghiên cứu và giải
quyết các vấn đề về đạo đức cũng như việc giáo dục các giá trị đạo đức phải gắn với tác
động của các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định.
Bạc Liêu là một tỉnh được hình thành cách đây khoảng trên 200 năm, dân cư
không hình thành từ “luỹ tre làng”, “cha truyền con nối” như ở các tỉnh miền Trung,
miền Bắc, mà dân cư Bạc Liêu là dân “xiêu tán”, nghèo khổ, “tha phương cầu thực”. Họ
định cư rải rác trên các gò đất cao, trên các bờ sông, các kinh xáng.
Bạc Liêu ngày nay là một tỉnh vừa được tái lập vào ngày 01 tháng 01 năm
1997, trên cơ sở tách từ tỉnh Minh Hải cũ thành Bạc Liêu và Cà Mau. Về vị trí địa lý,
phía Bắc Bạc Liêu giáp với Thành Phố Cần Thơ, phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang,
Phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Sóc Trăng, phía Đông và Đông Nam giáp với biển
Đông, phía Tây - Tây Nam giáp tỉnh Cà Mau.
Bạc Liêu có diện tích tự nhiên là 2.585,346 km2, gồm 7 huyện, thị xã: thị xã Bạc
Liêu và các huyện: Vĩnh Lợi, Hoà Bình, Đông Hải, Giá Rai, Phước Long và Hồng Dân.
Thị xã Bạc Liêu là trung tâm hành chính của Tỉnh, cách Thành Phố Hồ Chí Minh
khoảng 280 km, cách Cần Thơ khoảng 110 km. Toàn tỉnh có 61 xã, phường, thị trấn,
dân số 827.161 người, mật độ khoảng 322 người / km2.
Về giao thông vận tải, với bờ biển dài 56 km, có các cửa sông quan trọng thông
với biển, như cửa Gành Hào, Nhà Mát, Cái Cùng, là nơi chu chuyển hàng hoá trong và
ngoài tỉnh rất thuận lợi; về đường bộ, quốc lộ 1A xuyên qua thị xã Bạc Liêu về hướng
Cà Mau với chiều dài là 60 km.
Điều kiện kinh tế - xã hội:
Mặc dù là một tỉnh giàu truyền thống cách mạng, kiên cường, bất khuất thế
nhưng Bạc Liêu hiện nay vẫn là một tỉnh nông nghiệp nghèo, trình độ phát triển kinh tế
còn thấp so với nhiều tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long và cả nước, cơ sở
hạ tầng vẫn còn nhiều khó khăn và yếu kém. Ngành nông nghiệp trong những năm gần
đây có sự phát triển nhanh nhưng chưa bền vững, đặc biệt là nuôi trồng thuỷ sản sự rủi
ro còn cao, công nghiệp còn nhỏ bé, dịch vụ phát triển chậm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
bình quân hàng năm còn thấp. Tuy nhiên dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự phấn đấu
của nhân dân Bạc Liêu đã từng bước đưa tỉnh nhà thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc
hậu. Theo thống kê năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của Bạc
Liêu là 12%, thu nhập bình quân đầu người khoảng 732.000 đồng/ năm. Trong 5 năm
qua tỉnh đã mạnh dạn chuyển đổi 70.000 ha đất từ trong lúa kém hiệu quả sang nuôi
tôm. Sau khi chuyển đổi hiệu quả kinh tế không ngừng được nâng lên, doanh thu nuôi
trồng thuỷ sản bình quân 54 triệu đồng/ ha/năm.
Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định.
Giá trị sản xuất công nghiệp khoảng 2.200 tỷ đồng/năm, tốc độ tăng bình quân trong 5
năm gần đây khoảng 16,95%.
Thương mại - dịch vụ và du lịch ngày càng tăng trưởng, về cơ bản đáp ứng được
nhu cầu sản xuất, kinh doanh và đời sống dân cư, giá trị dịch vụ tăng bình quân hằng
năm khoảng 19%. Trong đó dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn, tin học, y tế… thu hút
được nhiều thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh tham gia. Dịch vụ du lịch cũng có sự
phát triển đáng kể. Trong những năm gần đây, lượng khách đến địa bàn tỉnh tăng bình
quân 10%/ năm, doanh thu tăng 4,7%/ năm.
Về tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhất là an ninh trong các
lĩnh vực tư tưởng, dân tộc, tôn giáo… cơ bản được giữ vững. Tuy nhiên trong những
năm gần đây đã xuất hiện một vài trường hợp do bị kẻ xấu kích động, xúi giục… nên
một bộ phận nhân dân đã có những hành vi gây rối trật tự an toàn xã hội, nhưng đã được
Đảng và nhân dân phát hiện, ngăn chặn và giáo dục kịp thời.
Truyền thống văn hoá - lịch sử:
Mặc dù Bạc Liêu là tỉnh được thành lập tương đối trễ, là vùng đất trẻ nhưng là
một tỉnh giàu truyền thống cách mạng, với hai địa danh nổi tiếng được Bộ văn hoá
thông tin (nay là bộ thông tin và truyền thông) công nhận là di tích lịch sử, đó là “đồng
Nọc Nạng” thuộc huyện Giá Rai và sự kiện “Chủ Chọt” ở xã Ninh Thạnh Lợi thuộc
huyện Hồng Dân. Ngoài ra Bạc Liêu còn có mộ cụ Cao Văn Lầu - người khai sinh ra
bài dạ cổ hoài lang; nhà “công tử Bạc Liêu” - người ăn chơi có tiếng “đốt tiền nấu
trứng”.
Bạc Liêu là một tỉnh có ba dân tộc anh em sinh sống, dân tộc Kinh chiếm
88,47%; Hoa chiếm 4,09% và Khmer chiếm 7,41% dân số trong tỉnh. Trong cộng đồng
đó, ba dân tộc ở đan xen nhau, chân thành và cởi mở; luôn tương trợ, đoàn kết nhau khi
gặp khó khăn hoạn nạn. Phong cách ứng xử người Bạc Liêu mang tính cách nông dân
thôn dã, chất phác, mộc mạc, bộc trực… dám phản kháng mạnh mẽ trước những bất
công xã hội.
Ở Bạc Liêu có ba dòng văn hoá đan xen nhau trong quá trình hội nhập và phát
triển, đó là văn hoá người Kinh, văn hoá người Khmer, văn hoá người Hoa. Hằng năm ở
Bạc Liêu có rất nhiều lễ hội. Người Kinh có lễ hội cúng đình, thờ thành Hoàng bổn cảnh
có công với nước được Triều đình nhà Nguyễn sắc phong, đại lễ kỳ yên … đồng bào
Khmer có nhiều lễ hội: như lễ hội vào năm mới (Chol - chnam - Thmây), lễ hội Đôn ta
để xá tội vong nhân theo đạo lý nhà phật… đồng bào Hoa có lễ cúng thanh minh vào
tháng ba âm lịch, lễ thí giàng vào tháng bảy âm lịch…
Về văn hoá nghệ thuật Bạc Liêu, có bản vọng cổ của bác Sáu Lầu, chuyện vui bác
Ba Phi, nói thơ điệu Bạc Liêu…Tính cách của người dân Bạc Liêu dưới thời Pháp thuộc in
đậm tính cách lưu dân người Việt “đủ tinh thần thực tiễn, nhưng thiếu chữ; đủ đạo đức làm
dân mà ít thuộc kinh truyện”.
Người dân Bạc Liêu xưa khẩn hoang phải đối mặt với rừng thiêng nước độc,
muỗi, vắt tấn công, phải vượt qua những khó khăn, đói rét, bệnh tật. Nhưng những
thành quả thu được lại bị bọn địa chủ Phong kiến và thực dân Pháp cướp đoạt, vì vậy
người dân lại phải trắng tay, phải sống kiếp tá điền, suốt đời cơ cực đắng cay với hai
tầng áp bức địa chủ và thực dân.
Thanh niên là thế hệ tương lai của đất nước, nhưng trong điều kiện “nước mất,
nhà tan” phải hứng chịu những cơ cực đắng cay, khổ nhục và thiệt thòi. Chính vì thế
trong cuộc kháng chiến chống Pháp, thanh niên Bạc Liêu đã sớm đứng lên dựng cờ khởi
nghĩa dưới sự lãnh đạo của nhiều nhà yêu nước. Từ cuộc khởi nghĩa ban đầu của hai anh
em Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự đến việc tham gia nghĩa quân Nguyễn Trung Trực,
Nguyễn Hữu Huân…
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thập niên 20 của thế kỷ XX, thanh ni
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-Giáo dục đạo đức mới cho thanh niên.pdf