Luận văn Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh: Thực trạng và giải pháp

Tài liệu Luận văn Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh: Thực trạng và giải pháp: LUẬN VĂN: Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại, của hầu hết các quốc gia. Thúc đẩy mục tiêu tạo việc làm đầy đủ cho mọi người, nam cũng như nữ, để tạo thu nhập và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống là ưu tiên số một trong chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Bởi vì, trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng ta luôn lấy con người làm trung tâm, coi phát triển con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội làm việc; một mặt, là điều kiện để phát huy được tiềm năng lao động, nguồn nội lực to lớn nhất ở nước ta cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống. Mặt khác, cũng là hướng cơ bản để xóa đói giảm nghèo bền vững. Đặc biệt trong điều kiện nước ta tài nguyên, đất đai không nhiều, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chấ...

pdf105 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1079 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại, của hầu hết các quốc gia. Thúc đẩy mục tiêu tạo việc làm đầy đủ cho mọi người, nam cũng như nữ, để tạo thu nhập và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống là ưu tiên số một trong chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Bởi vì, trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng ta luôn lấy con người làm trung tâm, coi phát triển con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội làm việc; một mặt, là điều kiện để phát huy được tiềm năng lao động, nguồn nội lực to lớn nhất ở nước ta cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống. Mặt khác, cũng là hướng cơ bản để xóa đói giảm nghèo bền vững. Đặc biệt trong điều kiện nước ta tài nguyên, đất đai không nhiều, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất còn nghèo, đang trong quá trình tiếp cận với nền kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa. Việc ưu tiên hàng đầu cho đầu tư phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người là đầu tư có hiệu quả nhất để tăng trưởng và phát triển kinh tế, là con đường ngắn nhất để đi tắt, đón đầu, chống nguy cơ tụt hậu và chủ động tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Bắc Ninh là một tỉnh mới được tái lập từ 1/1/1997 với diện tích tự nhiên 803,87 km2, dân số 951.600 người, mật độ dân số 1.184 người/km2. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp, kết cấu hạ tầng thấp kém, kinh tế phát triển không đồng đều giữa các vùng. Chất lượng lao động thấp, hầu hết lao động phổ thông phần lớn chưa qua đào tạo, vấn đề bảo đảm việc làm đã và đang là một thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh. Mặt khác, tỷ lệ tăng dân số của tỉnh còn khá cao, trong khi đất nông nghiệp có hạn, diện tích canh tác bình quân đầu người ngày càng giảm... Đất chật, người đông, ngành nghề và dịch vụ kém phát triển đã và đang là nguồn gốc làm nảy sinh những mâu thuẫn gay gắt giữa cung và cầu về lao động ở tỉnh, tạo nên sự bức xúc ngày càng lớn về việc làm ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay nhằm đánh giá đúng thực trạng, tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu hiệu để sử dụng hợp lý nguồn lao động đó đang là một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Do đó, tôi chọn đề tài: "Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp" làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ta từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, có nhiều tác giả đã có công trình, bài viết xung quanh vấn đề này, tiêu biểu như: Vấn đề tạo việc làm tăng thu nhập ở nông thôn của TS Nguyễn Sinh Cúc, Tạp chí Thông tin lý luận 11/1990; Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam của tác giả Trần Đình Hoan - Lê Mạnh Khoa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991; Về giải quyết việc làm ở nông thôn từ năm 1994, 1995 đến năm 2000 của tác giả Nguyễn Khang, Tạp chí Lao động và xã hội 9/1993; Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của TS Nguyễn Hữu Dũng và TS Trần Hữu Trung (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997... Ngoài ra, cũng có một số luận văn thạc sĩ viết về đề tài việc làm ở một số tỉnh như Đồng Nai, Kiên Giang…Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, cho đến nay chưa có công trình khảo sát, nghiên cứu nào về chuyên đề này dưới dạng một luận văn khoa học, để đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng hợp lý nguồn lao động dôi thừa ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài - Mục đích của đề tài: Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh, phân tích thực trạng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. - Nhiệm vụ của đề tài: + Khái quát những vấn đề cơ bản về lý luận lao động, việc làm và thất nghiệp. Làm rõ những nhân tố tác động đến việc giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để làm cơ sở cho việc phân tích tình hình giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh. + Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh từ 1997 - 2000. + Đề xuất những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh. - Giới hạn nghiên cứu của đề tài: Đề tài chỉ tập trung vào vấn đề có tính chất trọng điểm: giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh từ 1997 - 2000 thông qua một số giải pháp chủ yếu trong thời gian từ nay đến năm 2010. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài - Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các Văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương các khóa xung quanh vấn đề này. Đồng thời, đề tài cũng kế thừa và sử dụng có chọn lọc một số đề xuất và các số liệu thống kê trong một số công trình nghiên cứu có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước. - Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp: hệ thống, tổng hợp, thống kê, so sánh đối chiếu và phân tích để làm sáng tỏ vấn đề. 5. Những đóng góp chủ yếu của luận văn - Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến nay. - Đề xuất được những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm giải quyết từng bước việc làm ở tỉnh Bắc Ninh. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 việc làm và các nhân tố tác động đến giải quyết việc làm cho người lao động trong nền kinh tế thị trường 1.1. Một số khái quát về lao động, việc làm và thất nghiệp 1.1.1 Khái quát về lao động và việc làm Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác động vào thế giới tự nhiên nhằm cải biến những vật tự nhiên thành các sản phẩm phục vụ các nhu cầu của đời sống. Do đó, lao động là hoạt động đặc thù của con người, phân biệt con người và xã hội loài người với các loài động vật và xã hội loài vật khác. Trong quá trình lao động, con người không những tạo ra của cải, mà còn cải tạo bản thân mình làm cho con người phát triển cả về thể lực và trí lực. Đặc trưng chủ yếu của lao động là sáng tạo ra giá trị và của cải cho phép đáp ứng nhu cầu của con người, và những nhu cầu này phát triển, vô hạn nên bản thân lao động cũng phát triển và vô hạn, ít nhất cũng là sự phát triển của chính bản thân con người. Song, những nhu cầu không chỉ thuộc lĩnh vực kinh tế, vật chất, mà còn bao gồm tất cả những lĩnh vực kết tinh thành văn hóa, xã hội, đời sống cộng đồng. Trong thực tiễn, không phải là thiếu lao động, mà là thiếu việc làm. Việc làm chỉ là cái vỏ xã hội, là cái khung pháp lý trong đó lao động được diễn ra. Trong xã hội có giai cấp thì việc làm chịu chi phối bởi lợi ích của giai cấp thống trị và hệ thống luật pháp dựa trên cơ sở lợi ích của giai cấp đó hoạch định. Do đó, lao động thuộc về nhu cầu vô hạn của con người như là một cơ sở đảm bảo sự tồn tại và phát triển xã hội, còn việc làm thì lại là phạm trù giới hạn và bị lợi ích giai cấp chi phối. Trong thực tiễn, vì lợi ích kinh tế những giai cấp nắm trong tay các điều kiện vật chất của lao động có thể thu hút nhanh chóng những khối lượng lớn sức lao động vào các quá trình sản xuất và cũng vì lợi ích kinh tế họ sẵn sàng sa thải hàng loạt người lao động, nên việc làm của xã hội bị thu hẹp lại. Mặt khác, quá trình lao động không chỉ diễn ra đơn độc giữa một cá thể và tự nhiên, mà trong quá trình đó, con người tác động vào nhau nhờ đó mà hình thành nên tập quán, truyền thống và trở thành những đặc trưng văn hóa của một dân tộc, quốc gia. Như vậy sự thay đổi cơ bản về mặt văn hóa cũng phải được xảy ra trong quan hệ của chúng ta với lao động và sự giàu có. Phải coi lao động là sáng tạo ra của cải, tất cả những gì góp phần tạo ra giá trị theo nghĩa kinh tế, tạo ra sự sung túc về phương diện cá nhân, tạo ra mối quan hệ xã hội về phương diện tập thể [24, tr. 25]. Theo Mác: "Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên" [20, tr. 266]. Trong quá trình đó con người đã vận dụng sức lực của mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào tự nhiên một cách có ý thức, có mục đích nhằm biến đổi những vật thể của tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình. Trong quá trình lao động sản xuất nào cũng đều là sự kết hợp của ba yếu tố: lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong bất kỳ nền sản xuất nào kể cả nền sản xuất hiện đại, lao động bao giờ cũng là nhân tố cơ bản, là điều kiện không thể thiếu của sự tồn tại và phát triển đời sống xã hội loài người. Tuy nhiên, trong quá trình đó, người lao động giữ vị trí quan trọng hàng đầu, vì nó không chỉ là chủ thể sáng tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu tồn tại của con người với tư cách một xã hội, mà còn sáng tạo ra những yếu tố khác cấu thành lực lượng sản xuất xã hội. Trong một quốc gia, một vùng hay một địa phương cụ thể thì người lao động được thể hiện ở nguồn lao động. Đó là tổng thể toàn bộ thể lực và trí lực của bộ phận dân cư có khả năng lao động. Nói một cách cụ thể, nguồn lao động là bộ phận dân cư của đất nước, có toàn bộ những khả năng về thể chất và tinh thần có thể sử dụng trong quá trình lao động. Nguồn lao động là một yếu tố quan trọng hợp thành tiềm lực của đất nước. Nói đến nguồn lao động là nói đến số lượng tối đa của dân cư có khả năng lao động. Những tiêu chuẩn cơ bản để xếp dân cư vào nguồn lao động là độ tuổi và tình trạng sức khỏe. ở nước ta, nguồn lao động bao gồm số người trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60 tuổi, nữ từ 15-55 tuổi), có khả năng lao động (trừ những người tàn tật mất sức lao động loại nặng). Ngoài ra, nguồn lao động còn bao gồm số người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động và dưới độ tuổi lao động từ 13-15 tuổi) thực tế có việc làm. Kết quả điều tra cho thấy, số người trên độ tuổi lao động thực tế có việc làm chiếm 2/3 trong tổng số người trên độ tuổi lao động. Và số trẻ em từ 13-15 tuổi ở nông thôn phải làm những việc giúp đỡ gia đình như: chăn trâu cắt cỏ, tham gia hoạt động sản xuất… chiếm tỷ lệ khá cao. Bộ phận chính của nguồn lao động là lực lượng lao động, bao gồm những người đang làm việc và những người thất nghiệp. Đặc trưng của nguồn lao động là các chỉ tiêu về số lượng và chất lượng. Trong đó những chỉ tiêu quan trọng là: số lượng, độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, số người đang đi học, số người đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và sự phân bố theo lĩnh vực, theo ngành, theo lãnh thổ… Mức tăng nguồn lao động là sự chênh lệch giữa số dân cư đến độ tuổi lao động và số dân cư đến độ tuổi nghỉ hưu. Trong quá trình phát triển của sản xuất và đời sống xã hội, chất lượng nguồn lao động cũng không ngừng được tăng lên. Các chỉ tiêu thường được dùng để đánh giá chất lượng nguồn lao động: trình độ văn hóa, khả năng tiếp thu của người lao động; trình độ chuyên môn kỹ thuật, mức độ lành nghề; kinh nghiệm thực tiễn; trình độ quản lý và phong cách làm việc; sức khỏe. Nếu lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động, thì quá trình đó chỉ có thể diễn ra khi đã được dựa trên giả định những tiền đề vật chất cho quá trình đó đã đầy đủ. Trên bình diện một quốc gia cụ thể, thì quá trình lao động sản xuất (việc làm) của bộ phận dân cư có sức lao động lại được giả định trên cơ sở số lượng việc làm. Do đó việc làm không chỉ diễn ra trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, mà cả quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, trong đó liên quan đến các lợi ích kinh tế và luật pháp khi tạo lập đầy đủ các yếu tố vật chất để quá trình làm việc diễn ra. Do đó, việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu, nó thuộc loại những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội. Khái niệm việc làm có liên quan chặt chẽ với khái niệm lao động. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người. Về góc độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế quốc dân, khu vực Nhà nước, kinh tế tập thể. Trong cơ chế đó, Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động từ A đến Z. Do đó, trong xã hội không thừa nhận có hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy đủ… Từ khi đất nước chuyển sang kinh tế thị trường, quan niệm về việc làm đã thay đổi một cách căn bản. Theo Bộ luật Lao động ở điều 13 chương II khái niệm việc làm đã được xác định là: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Như vậy, theo quan niệm trên, việc làm bao gồm hai yếu tố: lao động tạo ra thu nhập và không bị pháp luật cấm. Trước hết nó xóa bỏ được quan niệm cũ cho rằng chỉ có làm việc trong khu vực Nhà nước mới được coi là có việc làm, bởi vì, lao động tạo ra nguồn thu nhập không chỉ trong khu vực Nhà nước mà cả trong khu vực tư nhân, cá thể, hộ gia đình… ý nghĩa kinh tế, xã hội của quan niệm này là ở chỗ nó xóa bỏ sự phân biệt đối xử lao động giữa các thành phần kinh tế, động viên mọi tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Mặt khác, khái niệm trên còn làm nổi rõ đặc trưng của Nhà nước pháp quyền, thể hiện ở chỗ cho phép công dân Việt Nam được làm những việc mà pháp luật không cấm. Ví dụ, nghề giúp việc gia đình là nghề mà trước đây chưa được xã hội tôn trọng, thì nay đã trở thành việc làm đáng khuyến khích và được pháp luật bảo vệ. Ngược lại, mọi công dân đều không được làm những việc mà pháp luật nghiêm cấm như: mại dâm, buôn bán ma túy, sản xuất và buôn bán thuốc nổ… Với quan niệm việc làm như Bộ luật Lao động quy định sẽ làm cho nội dung của việc làm được mở rộng, tạo tiền đề để giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đồng thời ngăn chặn những việc làm phi pháp dễ nảy sinh trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa. Để hiểu rõ hơn khái niệm việc làm, cần làm sáng rõ khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý. Việc làm đầy đủ được hiểu là sự thỏa mãn đầy đủ nhu cầu về việc làm cho mọi thành viên có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Cũng có thể nói việc làm đầy đủ là ở trạng thái mà mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì có thể tìm được việc làm trong một thời gian tương đối ngắn. Tuy nhiên, để đạt tới mức độ đảm bảo việc làm đầy đủ phải có một quá trình nhất định. Quá trình ấy ngắn hay dài là tùy thuộc vào trình độ, hoàn cảnh khách quan, chủ quan của từng nước. Một nước có điểm xuất phát càng thấp, trong quá trình phát triển vấn đề đảm bảo việc làm đầy đủ cho người lao động càng khó khăn và cấp thiết. ở nước ta hiện nay, tình trạng phổ biến là thiếu việc làm đầy đủ dưới cả hai dạng: thiếu việc làm vô hình và thiếu việc làm hữu hình. Thiếu việc làm vô hình là phân bố không cân đối giữa lao động và các yếu tố sản xuất khác. Thiếu việc làm vô hình do sự bố trí và sử dụng lao động bất hợp lý nên thường xảy ra một trong các trường hợp sau đây: - Việc làm không tạo ra cơ hội để sử dụng đầy đủ chất lượng và khả năng người lao động. - Thu nhập mang lại từ việc làm thấp hơn so với mức thu nhập trung bình. - Năng suất lao động ở nơi người lao động làm việc thấp hơn so với mức trung bình. Thiếu việc làm hữu hình là tình trạng không có đủ khối lượng công việc để làm hết mức thời gian quy định trong một ngày lao động bình thường và người lao động đang đi tìm việc khác hoặc sẽ nhận một việc làm bổ sung. Trong quá trình thực hiện việc làm đầy đủ, quá trình toàn dụng lao động, cần từng bước, từng bộ phận thực hiện việc làm hợp lý. Việc làm hợp lý không những hàm chứa nội dung việc làm đầy đủ mà còn nói rõ việc làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người lao động. Việc làm hợp lý do vậy có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn so với việc làm đầy đủ. Việc làm hợp lý phản ánh sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các yếu tố con người với điều kiện vật chất của sản xuất và xã hội, hợp lý giữa lợi ích cá nhân người lao động với lợi ích của xã hội. Tuy nhiên, khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối. Vì trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý không có nghĩa là không có người thất nghiệp. Đối với những nước phát triển, sản xuất phát triển nhưng nguồn lao động tăng chậm dẫn đến thiếu sức lao động. Ngược lại, đối với những nước đang và kém phát triển, khả năng mở rộng sản xuất có hạn, nguồn lao động lại rất dồi dào, dẫn đến một bộ phận muốn làm việc, nhưng không có việc để làm, nghĩa là thất nghiệp. 1.1.2. Khái quát về thất nghiệp Thất nghiệp (không có việc làm) là phạm trù kinh tế gắn với trạng thái tâm lý xã hội căng thẳng của những người lao động, trong đó khả năng vận dụng thần kinh và bắp thịt của họ bị kìm giữ bởi thiếu các điều kiện vật chất và pháp lý cho lao động bất chấp nguyện vọng mong muốn làm việc của họ. Đây là phạm trù chủ yếu liên quan đến mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, nó nảy sinh chủ yếu bởi mối quan hệ lợi ích kinh tế, trong đó những người nắm giữ trong tay các điều kiện vật chất của lao động vì lợi ích của mình hoặc vì bị giới hạn bởi khả năng tổ chức và pháp lý mà buộc phải loại bỏ một bộ phận những người có khả năng lao động ra khỏi quá trình sản xuất xã hội, đặt họ và gia đình phải đối mặt trước những giới hạn chật hẹp và nguy cơ bị mất những nguồn nuôi dưỡng chủ yếu. Biểu hiện ra trên bề mặt xã hội, ở các văn bản pháp lý, thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, hiện chưa có việc làm và đang tích cực tìm việc làm. Theo khái niệm này, ở nước ta những người trong độ tuổi lao động (nữ từ 15-55 tuổi, nam từ 15-60 tuổi) không có việc làm hoặc đang tìm việc làm là những người thất nghiệp. Tuy nhiên những người trong độ tuổi lao động nhưng thuộc các đối tượng sau đây không thuộc những người thất nghiệp và không nằm trong lực lượng lao động: - Người đang đi học. - Người không có khả năng lao động. - Người làm công việc nội trợ cho gia đình mình. - Người không có nhu cầu tìm kiếm việc làm. Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học hiện đại, thì trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp là một hiện tượng khách quan gắn liền với một tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên xác định. Người ta chỉ có thể hạn chế tỷ lệ thất nghiệp tới mức thất nghiệp tự nhiên, chứ không loại bỏ được nó. Tỷ lệ thất nghiệp là một trong các chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình trạng của một nền kinh tế, là mối quan tâm của mọi Chính phủ và của mọi thành viên trong xã hội. 1.2. những nhân tố tác động đến vấn đề giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường Nếu trừu tượng hóa các mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình lao động sản xuất, mà chỉ xét việc làm như một tổng thể các điều kiện vật chất, các điều kiện pháp lý trong đó quá trình lao động (làm việc) có thể được diễn ra, thì việc làm chịu chi phối bởi các nhân tố sau: 1.2.1. Tài nguyên đất đai là đối tượng lao động cơ bản, là nhân tố chủ yếu tạo ra việc làm cho người lao động Đất đai là một yếu tố của quá trình sản xuất, có vai trò đặc biệt không chỉ đối với nông nghiệp mà còn đối với công nghiệp, dịch vụ phi nông nghiệp… Nước ta có diện tích hơn 330.000 km2 đứng thứ 58 trên thế giới; diện tích bình quân đầu người là 0,45 ha, đứng thứ 159 trong số hơn 200 nước trên thế giới. Hiện nay cả nước có 8,1 triệu ha đất nông nghiệp, bình quân 0,68 ha/hộ nông nghiệp, (đặc biệt vùng đồng bằng sông Hồng bình quân một lao động nông nghiệp chỉ có 600 m2) thì nhu cầu lao động ở nông thôn cho nông nghiệp tối đa chỉ 19 triệu người. Nếu không phát triển mạnh việc làm phi nông nghiệp, sẽ dư thừa tương đối lao động rất lớn, khoảng 10 triệu người [8, tr. 25]. Do yêu cầu của quá trình đô thị hóa, diện tích đất nông nghiệp ngày bị mất dần, nhất là ở những vùng nông thôn ven đô thị lớn, thị xã, thị trấn, hai bên trục đường giao thông… Cùng với quá trình đô thị hóa đang diễn ra khá mạnh, lao động nông thôn đang có xu hướng tăng lên. Tình hình trên dẫn đến bình quân diện tích đất canh tác trên một lao động ở nông thôn Việt Nam vào loại thấp nhất thế giới và do đó thời gian sử dụng ngày công nông nghiệp rất thấp. Theo tài liệu điều tra, chỉ có 18% lao động nông nghiệp làm 210 ngày/năm, còn lại làm dưới 200 ngày/năm, trong đó, 21% chỉ làm việc 90 ngày/năm (mỗi ngày làm bình quân từ 4-5 giờ). Theo tính toán, nếu căn cứ vào quỹ đất và làm thuần nông, lao động nông thôn dư thừa ít nhất khoảng 30% (tương đương 8-9 triệu người) [9, tr. 86-87]. Hiện nay nước ta có khoảng 3 triệu ha đất nông nghiệp có khả năng khai thác, 9 triệu ha rừng và đất trống đồi trọc, 90 vạn ha mặt nước, ao, hồ và hàng vạn ha đất ven biển, nếu có chính sách tốt sẽ giải quyết được việc làm cho hàng triệu lao động. Việc sử dụng đất trong các doanh nghiệp nông lâm nghiệp cũng còn nhiều lãng phí. Theo quy hoạch đất dành cho các nông, lâm trường quốc doanh lên tới 1,2 triệu ha, nhưng trên thực tế mới sử dụng khoảng 40%, trong khi đó dân lại thiếu đất để canh tác. Việc di dân xây dựng các vùng kinh tế mới là hướng quan trọng để giải quyết việc làm cho các vùng nông thôn, trước hết là vùng đồng bằng sông Hồng - nơi có mật độ dân số cao nhất cả nước, khoảng 800 người/km2. 1.2.2. Máy móc thiết bị là tư liệu sản xuất - yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất Theo C.Mác thì vấn đề chủ yếu ở đây là vấn đề giới hạn kinh tế hay điều kiện kinh tế của việc áp dụng máy móc. Máy móc nâng cao năng suất lao động, hay nói cách khác, nó làm giảm số lượng lao động xã hội cần thiết hao phí vào việc sản xuất một đơn vị sản phẩm; tuy nhiên, máy móc lại đòi hỏi phải hao phí lao động để tạo ra nó. Do đó, nếu lao động do máy móc tiết kiệm được bằng với số lao động cần thiết để sản xuất máy móc đó, thì như Mác nói: trong trường hợp này, lao động chỉ đổi chỗ thôi, nghĩa là tổng số lao động cần thiết để sản xuất một hàng hóa không giảm bớt, hay năng suất lao động không tăng lên. Trong điều kiện đó, việc áp dụng máy móc có sự khác nhau về mặt kinh tế: lao động được giảm bớt trong phạm vi này (ở nơi mà máy móc là tư liệu sản xuất) nhưng lại bị chuyển sang phạm vi khác (ở nơi sản xuất máy móc). Dưới CNTB, máy móc tạo ra khả năng sử dụng rộng rãi lao động trẻ em và lao động phụ nữ. Giá trị của sức lao động giảm xuống là do: "... Bằng cách ném tất cả mọi thành viên trong gia đình người công nhân vào thị trường lao động, máy móc cũng phân phối giá trị sức lao động của đàn ông cho toàn thể gia đình người đó" [20, tr. 569]. Nói cách khác việc thu hút lao động trẻ em và lao động phụ nữ là một nguồn mới để sản xuất giá trị thặng dư tương đối. ở đây, việc thu được giá trị thặng dư tương đối không phải do nâng cao năng suất lao động, mà là do nâng cao trình độ bóc lột. Nếu gạt bỏ bản chất tư bản chủ nghĩa của nó mà chỉ xét máy móc thiết bị như là một điều kiện vật chất tiên quyết cho việc tạo lập ra những khối lượng lớn việc làm cho người lao động, thì việc sử dụng máy móc là cơ sở thiết lập ra các xí nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời là cơ sở để nâng cao năng suất lao động tạo thu nhập và việc làm. CNH, HĐH ở nước ta hiện nay được coi là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2001 - 2010 mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã thông qua: "Chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp" [12, tr. 148]. CNH, HĐH là quá trình đổi mới trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình sản xuất, nhằm đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao trên phương pháp sản xuất công nghiệp. Đồng thời, phát triển các ngành công nghệ cao. Đó là những công nghệ dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học hiện đại như công nghệ tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới, công nghệ gia công chính xác trong chế tạo máy, tự động hóa, năng lượng mới. Đối với lĩnh vực lao động - việc làm, sự phát triển của khoa học công nghệ mang lại nhiều cơ hội để con người phát huy khả năng của mình, nhưng đồng thời cũng tạo ra không ít thách thức. Kinh nghiệm các nước phát triển cho thấy, việc phổ biến các phương tiện tự động hóa sẽ làm cho những nước có sức lao động rẻ và dư thừa (như Việt Nam) bị mất dần ưu thế. Xu hướng hiện nay là tăng lao động khoa học kỹ thuật, trí thức, phi sản xuất trực tiếp và giảm lao động giản đơn, kỹ năng thấp. Như vậy trong xã hội hiện đại, chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình tìm kiếm việc làm. Các quốc gia không lường trước được hiện tượng này của sự phát triển khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối trong nguồn nhân lực. Hiện nay, ngay cả nước Mỹ vẫn còn thừa khoảng 10 triệu chỗ làm việc và chỉ có hơn 2 triệu người thất nghiệp toàn phần nhưng không thể bố trí được việc làm vì không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật [29, tr. 18]. Vì vậy, xu hướng chắc chắn xảy ra khi phát triển khoa học và công nghệ là sự gia tăng thất nghiệp của đội ngũ công nhân không lành nghề. Ngay ở Việt nam, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có liên doanh, có sử dụng công nghệ tiên tiến cũng không tuyển dụng đủ lao động vì tỷ lệ lao động được qua đào tạo còn thấp. Thực tế cho thấy trang bị máy móc thiết bị càng hiện đại thì nguy cơ thất nghiệp càng cao. Do đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung là giải pháp cơ bản để hạn chế thất nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này, trước hết cần có những biện pháp nhằm tăng cường năng lực thể chế của các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực lao động - việc làm. Thực hiện có hiệu quả chương trình việc làm quốc gia thông qua nhiều hoạt động: đào tạo nghề cho nông dân, phát triển nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng đầu tư cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội… 1.2.3. Dân số và vấn đề tỷ lệ tăng dân số hợp lý cũng là điều kiện để giải quyết việc làm cho người lao động Khi nhắc đến dân số, người ta thường nghĩ ngay đến chuyện ngăn ngừa nhịp độ tăng sinh sản, chú ý đến giảm tỷ lệ sinh đến mức thấp nhất. Trên thực tế, không hẳn như vậy. Chẳng hạn, trên một số vùng miền núi xa xôi, hẻo lánh, có những dân tộc, số dân hiện nay chỉ còn tính hàng trăm. Như vậy, ở những vùng này chúng ta có đặt vấn đề giảm tỷ lệ sinh đẻ không? Sự thực dân số là một vấn đề nằm trong yếu tố tự nhiên nhưng lại liên quan rất lớn đến quá trình phát triển xã hội. Nó là quá trình thường xuyên, liên tục tái sản xuất ra con người và cuộc sống con người với tính cách là những cá thể xã hội mang những nhu cầu và đòi hỏi vốn có, là quá trình trân trọng, giữ gìn và nâng cao nòi giống. Vấn đề đặt ra ở đây là cần hướng tới việc bảo tồn tính cân bằng, ổn định bên trong của sự phát triển dân số. Tính ổn định đó chịu sự chi phối của hàng loạt điều kiện, không loại trừ điều kiện nào: trình độ phát triển sản xuất, mức độ tăng trưởng kinh tế, tính chất các quan hệ xã hội, pháp luật, chuẩn mực đạo đức truyền thống, định hướng giá trị, các yếu tố văn hóa (dân trí, thẩm mỹ, truyền thông, giáo dục, y tế…), việc kết hợp tâm lý dân tộc và xu hướng thời đại v.v… Dân số, lao động và việc làm là những vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mức gia tăng dân số càng nhanh thì nguồn lao động trong tương lai tăng cũng càng nhanh, đồng thời nó sẽ tạo áp lực lớn đến giải quyết việc làm dưới nhiều chiều cạnh khác nhau. Gia tăng dân số nhanh sẽ buộc xã hội phải chi tiêu nhiều hơn cho các mục đích tiêu dùng, ít đầu tư cho sản xuất, phát triển, nhất là cho phát triển nguồn nhân lực. Quy mô nguồn lao động lớn, cơ hội việc làm ở nông thôn ít, dẫn đến tình trạng di dân từ nông thôn ra đô thị vì mục đích mưu sinh kiếm sống. Thành phần phổ biến trong hiện tượng thường là lao động trẻ, khỏe có vốn kiến thức khá nhất ở khu vực nông thôn. Hậu quả là nông thôn bị mất đi nguồn lao động có sức khỏe, có khả năng tiếp thu những tri thức mới cần thiết cho sự nghiệp CNH, HĐH nông thôn. Nhưng tại đô thị, bộ phận lao động này cũng khó cạnh tranh để có thể có việc làm trong khu vực kinh tế hiện đại mà chỉ chủ yếu gia nhập khu vực phi kết cấu. Việc sử dụng nguồn nhân lực bị lãng phí. Đó là chưa kể đến số di dân mùa vụ, hình thành các chợ lao động, làm phức tạp cho công tác quản lý đô thị, làm gia tăng tệ nạn xã hội. Gia tăng dân số nhanh khiến cho việc phân bố dân cư bất hợp lý, không gắn lao động với đất đai, tài nguyên, đối tượng lao động, với cơ sở vật chất, kỹ thuật khiến cho tạo việc làm khó khăn, thất nghiệp và thiếu việc làm cao. Dân số tăng nhanh sẽ làm cho đất nước khó khăn trong việc nâng cao chất lượng nguồn lao động. Đầu tư vào lớp trẻ ít, chất lượng trong tương lai của nguồn lao động thấp. Khó có khả năng đầu tư nâng cao năng lực và chất lượng của những người trong tuổi lao động. Kinh nghiệm và tri thức của người lao động cao tuổi cũng khó được phát huy bởi phải nhường chỗ cho lớp trẻ. Đất nước luôn ở tình trạng các giải pháp tình thế để giải quyết lao động dôi dư, mà cho về nghỉ trước tuổi luôn là giải pháp đầu tiên được nghĩ đến. Nước ta từ khi thực hiện đường lối đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế - xã hội đáng phấn khởi. Tuy nhiên do tốc độ gia tăng dân số trong quá khứ quá nhanh, nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều, tốc độ tạo việc làm không tăng kịp với tốc độ gia tăng của nguồn lao động. Thời kỳ 1976 - 1980, tỷ lệ tăng nguồn lao động bình quân hàng năm là 3,25% nhưng tỷ lệ tăng việc làm chỉ là 2,8%. Con số tương ứng của thời kỳ 1981 - 1985 là 2,87% và 2,67%; còn của thời kỳ 1986 - 1990 là 3,06% và 2,54%. Trong giai đoạn 1991 - 1996 chúng ta đã giải quyết được trên 6 triệu việc làm. Năm 1997 giải quyết được 1,2 triệu và năm 1998 là 1,4 triệu [7, tr. 42]. Tuy nhiên, trên thực tế số người bước vào độ tuổi lao động hàng năm vẫn lớn hơn nhiều so với chỗ làm việc mà chúng ta có thể tạo ra. Đó là một sức ép lớn, ngoài ra còn phải kể đến sức ép của số lao động bị mất việc làm do tác động của khủng hoảng kinh tế, của sức cạnh tranh yếu kém của nền kinh tế nước ta. Chỉ tính riêng trong khu vực Nhà nước, đến cuối năm 1998 đã có khoảng 10% số lao động không bố trí được việc làm. Theo điều tra của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm 1997 là 6,01%, năm 1998 là 6,85%; tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn giảm từ 73% năm 1997 xuống còn 71% năm 1998. Các số liệu thống kê và dự báo dân số còn cho thấy năm 1990 số người trong độ tuổi lao động mới là 35,7 triệu người, năm 2000 là 46,5 triệu và năm 2015 con số này sẽ lên tới 62 triệu người. So với năm 1990, năm 2015 sẽ có thêm 26 triệu người trong độ tuổi lao động. Đây chính là bài toán mà chúng ta phải giải quyết để tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước. 1.2.4. Thị trường hàng hóa sức lao động (gọi tắt là thị trường lao động) Thị trường hàng hóa sức lao động là toàn bộ các quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động. Trên thị trường lao động, mức cung, cầu về lao động ảnh hưởng tới tiền công lao động và sự thay đổi mức tiền công cũng ảnh hưởng tới cung, cầu về lao động. Đối tượng tham gia thị trường lao động bao gồm những người cần thuê và đang sử dụng sức lao động của người khác và những người có nhu cầu đi làm thuê hoặc đang làm việc cho người khác bằng sức lao động của mình để được nhận một khoản tiền công. Khi nghiên cứu thị trường lao động, dưới góc độ việc làm thì nội dung quyết định nhất là quan hệ cung - cầu về lao động. Giải quyết việc làm hay giảm thất nghiệp, trong cơ chế thị trường, về thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu về lao động trên thị trường lao động. Trước hết ta hãy làm rõ khái niệm cung về lao động và cầu về lao động. Cung về lao động Cung lao động là khối lượng lao động sẵn sàng được sử dụng, đó là toàn bộ khối lượng thời gian mà những người lao động có khả năng và sẵn sàng làm việc với những mức tiền công khác nhau trong một thời gian nhất định. Cung về lao động phụ thuộc vào các yếu tố sau: - Số người tham gia lực lượng lao động xã hội. - Mức tiền công thực tế được nhận. - Mối quan hệ lợi ích giữa thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi. - Mức sống của dân cư. - Trình độ phát triển, phong tục tập quán… Cầu về sức lao động (gọi tắt là cầu về lao động) Cầu về lao động là số lượng sức lao động mà các chủ doanh nghiệp có khả năng thuê và sẵn sàng thuê với các mức tiền công khác nhau trong một thời gian nhất định. Cũng như cung, cầu về lao động cũng bị chi phối bởi nhiều yếu tố: - Cầu về hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. - Tiền công lao động. - Các yếu tố về kỹ thuật, công nghệ. - Mức độ ưu tiên đầu tư theo các ngành, vùng… Quan hệ cung cầu về lao động chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là các yếu tố sau: - Khả năng phát triển thị trường để thu hút lao động (mở rộng cầu về lao động). Yếu tố này phụ thuộc vào mô hình và cơ cấu kinh tế: phát triển các ngành, đặc biệt là ngành sử dụng nhiều lao động; phát triển các vùng, trước hết là các vùng nông thôn nhiều tiềm năng thu hút được lao động; phát triển các thành phần kinh tế và sự đan xen giữa các thành phần kinh tế; phát triển đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh và mối liên kết giữa chúng; mở rộng không gian kinh tế (trong nước và ngoài nước …). - Sự phát triển của nguồn lao động: sự cung ứng sức lao động vào thị trường lao động hàng năm; sự tồn đọng của lao động chưa có việc làm (thất nghiệp) trong một thời điểm nhất định; mức độ căng thẳng hay sức ép về việc làm… - Sự phù hợp giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế (việc làm) về không gian và thời gian; vấn đề chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu thị trường lao động. - Khả năng tổ chức thị trường lao động, đặc biệt là phát triển các tổ chức xúc tiến việc làm, dịch vụ việc làm… Trong thị trường lao động, quan hệ cung - cầu về lao động được điều tiết phù hợp với quy luật giá trị. Để hiểu thực chất của cơ chế điều chỉnh quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường, chúng ta phải xuất phát từ một phạm trù rất cơ bản là hàng hóa sức lao động. Trong nền kinh tế thị trường, có quan hệ thuê mướn lao động trên thị trường lao động, thì sức lao động ở mức độ nhất định còn là hàng hóa. Sức lao động là hàng hóa nhưng không phải tất cả các mối quan hệ của con người cũng trở thành hàng hóa, chỉ riêng lĩnh vực thuê mướn, sử dụng sức lao động và trả công mới mang quan hệ hàng hóa - tiền tệ và chỉ trên mặt đó mà thôi. ở nước ta hiện nay, quan hệ cung - cầu về lao động trên thị trường biểu hiện như sau: Một là, trên phạm vi cả nước, cung về lao động lớn hơn cầu về lao động và tình trạng này tiếp tục kéo dài trong những năm tới dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm. ở đây, chủ yếu xét đến khả năng phát triển việc làm còn rất hạn chế, mặc dù tiềm năng còn rất lớn. Bởi vì chúng ta thiếu vốn đầu tư nghiêm trọng, chiến lược lựa chọn công nghệ thích hợp chưa được xác định rõ ràng, cơ cấu kinh tế đang trong quá trình chuyển dịch, nhưng diễn ra chậm chạp và khó khăn. Hai là, cung lớn hơn cầu về lao động còn được xem xét về mặt tăng cung lao động với tỷ lệ còn cao, hàng năm lao động tăng 3,2% - 3,5%, dẫn đến mỗi năm có khoảng 1,1 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Đến năm 2000 tỷ lệ tăng tự nhiên nguồn lao động vẫn trên 2,8% [8, tr. 121-122]. Số này tham gia vào thị trường lao động ngày một đông và với khả năng tự giải quyết việc làm rất khác nhau. Song họ có điểm chung rất cơ bản là thường không có nghề. Vì vậy, công tác dạy nghề và phổ cập nghề trở thành vấn đề cấp bách và có tính chiến lược, là khâu then chốt nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của lao động trên thị trường. Ba là, lao động nông thôn chiếm hơn 70% lao động của cả nước, nếu chỉ làm thuần nông, tự cung, tự cấp, lao động thiếu hoặc không có việc làm lên đến 30%. Số này sẽ tự do di chuyển ra thành phố hoặc khu công nghiệp tập trung để tìm kiếm việc làm. Lao động tự do di chuyển từ nông thôn ra tìm kiếm việc làm ở thành thị và các vùng khác sẽ làm cho cung về lao động trên thị trường lao động càng lớn. Bốn là, quan hệ cung cầu về lao động còn căng thẳng về mặt kết cấu, dẫn đến tình trạng "thất nghiệp kết cấu". Điều này thể hiện ở chỗ một số ngành tiềm năng còn lớn, có khả năng thu hút được nhiều lao động, nhưng chưa tạo ra được những điều kiện để biến khả năng thành hiện thực (về vốn, hạ tầng cơ sở, kỹ thuật, công nghệ, thị trường tiêu thụ…) như lâm nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ và du lịch…ở một số vùng miền núi, đồng bằng sông Cửu Long, ven biển còn nhiều đối tượng lao động và thiếu lao động, nhưng khả năng di dân và di chuyển lao động đến rất hạn chế. Trong khi đang có xu hướng đẩy lao động ra ở một số lĩnh vực, đồng thời lại xuất hiện một số lĩnh vực và hình thức khác đang có khả năng thu hút thêm lao động như kinh tế hộ gia đình, khu vực phi kết cấu, doanh nghiệp nhỏ, nhưng lại chưa có chính sách khuyến khích thỏa đáng. Đặc biệt là thiếu một đội ngũ lao động trình độ cao để làm việc trong một số lĩnh vực áp dụng công nghệ mới hoặc trong các khu chế xuất, các đơn vị kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài… 1.2.5. Chính sách giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội nước ta còn rất nhiều khó khăn. Đất nước vẫn chưa thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội; tình hình lao động, việc làm trở thành vấn đề xã hội gay gắt và bức xúc, quan hệ đến từng gia đình, là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước, của toàn xã hội và mọi người. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi mới và bằng hệ thống các chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi và nhân tố mới đa dạng để các ngành, các hình thức kinh tế, các vùng phát triển, tạo nhiều việc làm mới, đáp ứng một bước yêu cầu việc làm và đời sống của người lao động, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Nhận thức, quan niệm và chủ trương về tạo việc làm trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường đã được thay đổi theo tư duy mới - Bước ngoặt trong đổi mới về việc làm ở Việt Nam. Quan niệm về việc làm đã được ghi rõ ở Điều 13 chương II Bộ luật Lao động: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Chủ trương về tạo việc làm đã được chỉ rõ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng như sau: "Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn " [10, tr. 114-115]. Đối với người lao động: cơ hội lựa chọn việc làm ngày càng được mở rộng. Từ chỗ thụ động, trông chờ vào sự bố trí công việc của Nhà nước, người lao động trở nên năng động hơn, chủ động tự tạo việc làm trong các thành phần kinh tế cho mình và cho người khác. Các quan hệ lao động - việc làm thay đổi theo hướng các cá nhân được tự do phát huy năng lực của mình, được giải phóng khỏi khuôn phép của cơ chế cũ và tự chủ hơn trong tìm kiếm việc làm phù hợp với quan hệ cung - cầu lao động trên thị trường. Người sử dụng lao động được khuyến khích làm giàu hợp pháp, nên đẩy mạnh đầu tư tạo việc làm. Khu vực kinh tế tư nhân được thừa nhận và khuyến khích phát triển, mở ra khả năng to lớn tăng trưởng việc làm. Đối với Nhà nước, vai trò trong giải quyết việc làm đã thay đổi cơ bản. Thay vì bao cấp trong giải quyết việc làm, Nhà nước tập trung vào việc tạo ra cơ chế, chính sách thông thoáng, tạo hành lang pháp luật, xóa bỏ hàng rào về hành chính và tạo điều kiện vật chất đảm bảo cho mọi người được tự do đầu tư phát triển sản xuất, tạo mở việc làm, tự do hành nghề, hợp tác và thuê mướn lao động. Cơ hội việc làm được tăng lên và ít bị ràng buộc bởi các nguyên tắc hành chính và ý chí chủ quan của Nhà nước. Từng bước hình thành cơ chế phân bố lao động theo các quy luật của thị trường lao động, đổi mới cơ chế và chính sách xuất khẩu lao động… Giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp là mục tiêu xã hội hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm là chương trình trọng điểm của Nhà nước. Đảng ta luôn coi: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân " [12, tr. 210]. Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là Nhà nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách cụ thể. Có thể có rất nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc làm, hợp thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau, hướng vào phát triển cả cung và cầu về lao động, đồng thời làm cho cung và cầu phù hợp với nhau. Theo Bộ luật Lao động, Nhà nước đã chuyển hẳn từ cơ chế quản lý hành chính về lao động sang cơ chế thị trường. Việc triển khai Bộ luật này đã góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng đất nước và ổn định xã hội trong thời gian qua. Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật: luật đầu tư nước ngoài, luật đất đai, luật doanh nghiệp, luật khuyến khích đầu tư trong nước… đã thúc đẩy các yếu tố của các thị trường, trong đó thị trường lao động hình thành, mở ra tiềm năng mới giải phóng các tiềm năng lao động và tạo mở việc làm. Đồng thời với các cải tiến trong quản lý hành chính, hộ khẩu, hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền tệ hóa tiền lương, tách chính sách tiền lương, thu nhập khỏi chính sách xã hội, góp phần làm tăng tính cơ động của lao động. Phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo và dịch vụ việc làm nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Ngoài ra, bổ sung và hoàn thiện một số chính sách vĩ mô sau: Chính sách huy động các nguồn vốn Vốn là nhân tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung và giải quyết việc làm nói riêng. Sự gia tăng về vốn làm tăng năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy gia tăng sản lượng và năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hóa sản xuất ra, tạo khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nhân tố: tài nguyên, lao động… Huy động tối đa các nguồn vốn trong nước kết hợp với việc thu hút các nguồn vốn bên ngoài để phát triển sản xuất, mở rộng và phát triển việc làm cho lao động toàn xã hội. "Đảng và Nhà nước ta chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ ở bên ngoài. Chiến lược lâu dài là phải huy động tối đa nguồn vốn trong nước để chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư " [10, tr. 228]. Vốn trong nước là quan trọng nhất không chỉ ở tỷ lệ của nó trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển, mà còn là nhân tố đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế và là điều kiện, tiền đề để thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn bên ngoài. Yêu cầu vốn đầu tư với quy mô lớn như vậy, điều kiện hiện nay của nền kinh tế không thể đáp ứng đầy đủ được bằng nguồn vốn trong nước. Do đó, thu hút các nguồn vốn bên ngoài có ý nghĩa rất quan trọng. Chính sách đất đai Chính sách đất đai luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta, là một vấn đề quan trọng trong hệ thống chính sách phát triển kinh tế và phát triển nông nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, hội nhập và mở cửa, chính sách đất đai không chỉ là công cụ điều hành vĩ mô về kinh tế, mà còn trực tiếp tác động đến đời sống xã hội, chính trị của đất nước, của các địa phương và cuộc sống của hàng chục triệu con người. Đối với nước ta đất đai là đối tượng cơ bản nhất của quá trình sản xuất và phát triển việc làm, đặc biệt là ở nông thôn. Theo Luật Đất đai, đất đai thuộc sở hữu của toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Người nông dân được Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài, được chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất để tập trung ruộng đất vào các hộ gia đình có khả năng sản xuất nông nghiệp hàng hóa… Đó là những chính sách rất cơ bản trong lĩnh vực ruộng đất, góp phần to lớn vào giải phóng tiềm năng lao động, tạo mở việc làm. Tuy nhiên, dưới góc độ chính sách việc làm, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai theo hướng khuyến khích nông dân đầu tư khai phá và sử dụng có hiệu quả ruộng đất, tạo ra việc làm có giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích đất canh tác. Chính sách thuế Thuế là nguồn thu quan trọng nhất, chủ yếu nhất của ngân sách Nhà nước, là công cụ cơ bản điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư. Mặt khác, thuế còn là đòn bẩy mạnh mẽ khuyến khích sản xuất phát triển, tạo mở việc làm. Xét cho cùng, thì vấn đề sau mới là quan trọng nhất, quyết định nhất. Bởi vì chỉ có khuyến khích phát triển sản xuất, tạo việc làm mới và tăng nguồn thu cho ngân sách ngày càng lớn. Mặc dù nước ta đã có luật thuế, Chính phủ cũng luôn thay đổi mức thuế cụ thể cho phù hợp với thực tế. Song, để khuyến khích các chủ thể kinh tế phát triển sản xuất, giải quyết việc làm cho nhiều người trong cơ chế thị trường, Nhà nước "tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thuế theo hướng nuôi dưỡng nguồn thu, thực hiện công khai, minh bạch, giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và dân cư; khuyến khích phát triển sản xuất và đảm bảo công bằng xã hội. Tiến hành cải cách thuế giai đoạn 3 theo hướng thu hẹp dần các mức thuế suất, giảm tỷ trọng thuế gián thu, áp dụng các sắc thuế mới như thuế thu nhập cá nhân, thuế bất động sản" [12, tr. 327]. Chính sách đầu tư Chính sách đầu tư là hệ thống chính sách khuyến khích và bảo đảm đầu tư của Nhà nước đối với các chủ thể tham gia đầu tư. Chính sách đầu tư phát triển dựa vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia; chính sách tích lũy tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư, chính sách tạo vốn và sử dụng vốn. Chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hội nhập với khu vực và thế giới, giải phóng sức sản xuất xã hội. ở tầm vĩ mô, đó là quan điểm cơ bản để khuyến khích đầu tư. Lực lượng tham gia đầu tư được mở rộng: vốn ngân sách, vốn tự có của doanh nghiệp, nguồn vốn của dân cư, nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Hình thức đầu tư được mở rộng bao gồm: đầu tư của ngân sách, tín dụng Nhà nước, tín dụng ngân hàng, và đầu tư gián tiếp thông qua cổ phiếu, trái phiếu. Chính sách khuyến khích đầu tư bao gồm hệ thống chính sách tạo điều kiện và môi trường thuận lợi: sự ổn định về chính trị, xã hội, môi trường kinh tế, cơ sở hạ tầng, tâm lý và hệ thống chính sách khuyến khích của Nhà nước vào những lĩnh vực, vùng nhất định; chính sách khuyến khích đầu tư ngoài nước và chính sách khuyến khích đầu tư trong nước. Ngoài ra, Nhà nước sử dụng hệ thống các chính sách, tạo điều kiện và môi trường khuyến khích đầu tư. Bằng hệ thống chính sách, Nhà nước có thể khuyến khích đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng cần thiết thông qua các công cụ thuế, tín dụng, giá đất đai, tỷ giá, chính sách bảo hộ có chọn lọc và có thời gian để phát triển những ngành công nghiệp non trẻ. 1.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm ở một số tỉnh 1.3.1. Kinh nghiệm của Sơn La Sơn La là một tỉnh miền núi phía Tây Bắc của nước ta, có diện tích 1.405,5 nghìn ha, với số dân là 906.800 người; trong đó, người trong độ tuổi lao động chiếm 46% dân số. Tỷ lệ lao động ở khu vực nông thôn chiếm 74,88% số lao động của tỉnh. Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng còn thấp, mới chỉ đạt từ 68-72%. Như vậy, 1/4 thời gian nông nhàn cần các ngành nghề, dịch vụ, tạo nguồn thu nhập cho bà con nông dân đang đặt cho tỉnh Sơn La bài toán cần giải quyết. Mặt khác, mỗi năm có khoảng 7.000 học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, chỉ có 1.950 em vào học tiếp các trường phổ thông trung học, còn khoảng 5.000 cần được đào tạo nghề, hướng nghiệp. Hàng nghìn học sinh, sinh viên đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ra trường, bộ đội xuất ngũ bổ sung cho lực lượng lao động của tỉnh; đây là một áp lực lớn trong vấn đề giải quyết việc làm của tỉnh [45, tr. 2]. Trong 10 năm qua, đặc biệt là 5 năm gần đây tình hình kinh tế - xã hội ở Sơn La có nhiều khởi sắc, chuyển dịch kinh tế đúng hướng, nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá, GDP đạt mức bình quân 9,6%/năm, tổng sản phẩm quốc dân tăng gấp đôi, giảm tỷ lệ đói nghèo từ 31,4% xuống còn xấp xỉ 15% [45, tr. 2]. Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm ở Sơn La có thể rút ra một số bài học về giải quyết việc làm như sau: - Hạ thấp tỷ lệ tăng dân số. Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên từ 3,55% (năm 1991), đến nay giảm còn khoảng 2,25%; góp phần giảm áp lực gia tăng dân số. - Tổ chức cân đối lại lực lượng lao động giữa các khu vực thị trấn, thị xã với khu vực nông thôn, giữa sản xuất công nghiệp, dịch vụ với sản xuất nông nghiệp. Nhờ đó đã tạo ra hàng vạn chỗ làm việc, hàng chục nghìn hộ gia đình sản xuất ổn định, thu nhập ngày một tăng. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất hàng hóa, phá thế độc canh, tự cấp, tự túc; mô hình kinh tế trang trại mà vai trò chủ sản xuất là hộ gia đình đang được hình thành. Xây dựng mô hình trang trại cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi phát triển mạnh ở các vùng, tạo thêm hàng vạn chỗ làm việc. - Mở rộng các ngành nghề dịch vụ, các hình thức tổ chức sản xuất mới để tạo thêm việc làm mới. 1.3.2. Kinh nghiệm của Hà Nội Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước, có tốc độ phát triển và quá trình đô thị hóa nhanh, thị trường lao động Hà Nội cũng phát triển sôi động hơn các địa phương khác. Lực lượng lao động ở Hà Nội có chất lượng, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn các tỉnh lân cận. Những năm qua Hà Nội đã tạo mở nhiều việc làm cho người lao động, trong thời gian 1995-1998 số người được giải quyết việc làm trong khu vực thành thị khoảng 171.698 người. Kinh tế của Hà Nội phát triển với tốc độ tương đối nhanh và liên tục so với các địa phương trong cả nước. GDP bình quân đầu người của Hà Nội không ngừng tăng lên, năm 1995 đạt trên 6 triệu VND (tương đương với 564 USD theo tỷ giá năm 1995), bằng 2,1 lần bình quân chung cả nước và 1,6 lần vùng đồng bằng sông Hồng. Năm 1996 đạt 7,2 triệu, năm 1997 đạt 8,2 triệu, năm 1998 đạt 8,9 triệu đồng/người [29, tr. 58]. Có thể khái quát lại kinh nghiệm của Hà Nội về giải quyết việc làm như sau: - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH gắn với sự phát triển đa dạng các ngành nghề sử dụng nhiều lao động. - Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn ngoại thành, phát triển thị trường lao động tại chỗ: đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất cây trồng, thu hút lao động, phát triển nông nghiệp đa dạng, tạo thêm việc làm ở các huyện ngoại thành, phát triển chăn nuôi và kinh tế vườn, thực hiện đồng bộ chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển ngành nghề và dịch vụ nhỏ ở nông thôn. - Phát triển mạnh quan hệ kinh tế với các nước và xuất khẩu lao động. - Hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số, đào tạo chủ doanh nghiệp, đào tạo và dạy nghề cho người lao động. - Tạo môi trường thuận lợi, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tạo việc làm, có cơ chế chính sách khuyến khích phát triển thị trường lao động, tạo việc làm phù hợp. - Đổi mới tổ chức hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm ở Hà Nội. - Tăng cường các biện pháp quản lý di dân tự do đến Hà Nội. - Hoàn thiện bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ này. 1.3.3. Kinh nghiệm của Thanh Hóa Thanh Hóa là một tỉnh nông nghiệp, có số dân đông đúc, nguồn lao động dồi dào: hơn 1,8 triệu; nhưng chất lượng lao động thấp: năm 1997 tỷ lệ lao động chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I là 13,26%, tốt nghiệp cấp I và cấp II là 70,11%, tốt nghiệp cấp III chỉ có 16,63%; lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật mới đạt 12,18% (theo kết quả điều tra năm 1994); trong đó lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên là 2,01%, trung học chuyên nghiệp là 5,12% và công nhân kỹ thuật là 5,05%. Nguồn lao động lại phân bố không đều và tập trung chủ yếu trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp (trên 83%). Lao động làm việc trong các ngành thương mại, du lịch, dịch vụ thấp (4%) nhưng lại có xu hướng không ổn định. Lao động làm việc trong khu vực quốc doanh chỉ chiếm gần 7% và đang có xu hướng giảm sút. Điều đáng quan tâm là cơ cấu lao động phân bố theo khu vực chưa hợp lý, ở trung du, miền núi diện tích đất tự nhiên chiếm tới 2/3 diện tích toàn tỉnh, nhưng lao động chỉ có 23,45%. Hàng năm toàn tỉnh có hơn 3 vạn người đến tuổi lao động chưa có việc làm (chưa kể số lao động của năm trước chuyển sang), số lao động thất nghiệp ở thành thị còn cao hơn (năm 1996: 6,16%, năm 1998: 6,42%); tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn còn phổ biến (mới sử dụng hơn 70% quỹ thời gian làm việc trong năm) [20, tr. 35]. Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, những năm qua Thanh Hóa đã có nhiều cố gắng tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành các vùng nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến, đẩy mạnh trồng, khoanh nuôi, chăm sóc bảo vệ rừng, phát triển khai thác hải sản xa bờ, nuôi trồng thủy sản, thành lập các cơ sở sản xuất mới, mở mang các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, mở rộng diện tích vụ đông… Trong ba năm 1996 - 1998 Thanh Hóa đã tạo thêm việc làm mới cho hơn 9 vạn lao động và hàng vạn lao động có việc làm đầy đủ hơn, nâng hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn từ 66,7% năm 1996 lên 72,6% năm 1998 [20, tr. 35]. Kinh nghiệm về giải quyết việc làm của Thanh Hóa được thể hiện như sau: - Tăng cường đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển; đồng thời, gắn các chương trình kinh tế - xã hội với chương trình giải quyết việc làm. - Đẩy mạnh đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động, từng bước thay đổi cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực, tăng nhanh tỷ lệ đào tạo công nhân kỹ thuật, đặc biệt là lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi, cơ khí, dịch vụ và khôi phục các ngành nghề thủ công truyền thống ở nông thôn; khuyến khích các cơ sở tư nhân mở cơ sở dạy nghề, đặc biệt là đào tạo nghề truyền thống của địa phương. - Tăng cường các hoạt động dịch vụ việc làm trên cơ sở củng cố và tăng cường các trung tâm dịch vụ việc làm trên địa bàn tỉnh, nhằm tư vấn cho người lao động chọn nghề học, hình thức, nơi học, chọn nơi làm việc, tư vấn về pháp luật lao động; đồng thời cung cấp thông tin về thị trường lao động và người sử dụng lao động, tổ chức cung ứng lao động cho người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật lao động. - Hỗ trợ trực tiếp cho người lao động tạo thêm việc làm ở cả nông thôn và thành thị. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế trang trại, gia đình, và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thành lập quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm của tỉnh và Ban chỉ đạo giải quyết việc làm ở cả 3 cấp: tỉnh, huyện, xã. - Có chính sách ưu tiên khuyến khích phát triển sản xuất như: tạo điều kiện thuận lợi cho thuê mướn địa điểm tổ chức sản xuất, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, miễn giảm thuế trong thời gian đầu cho các mặt hàng mới, nhất là các mặt hàng sử dụng nguyên liệu, lao động tại địa phương; củng cố quan hệ sản xuất mới để thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển: mở rộng các HTX tín dụng ở các địa phương, khuyến khích, xây dựng, kiện toàn và phát triển các mô hình mới về tổ chức sản xuất - kinh doanh như: đầu tư - sản xuất - thu mua - chế biến - tiêu thụ sản phẩm; thiết lập các mối quan hệ hợp tác trên cơ sở hợp đồng kinh tế, điều hòa lợi ích thỏa đáng giữa người sản xuất nguyên liệu với người chế biến ra thành phẩm, đầu tư ứng trước về vốn, giống, kỹ thuật để thu mua sản phẩm. 1.3.4. Kinh nghiệm của Đồng Nai Đồng Nai là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, có diện tích 586.034 ha, chiếm 1,76% diện tích tự nhiên của cả nước, với số dân 1.984.541 người. Là một tỉnh có tiềm năng kinh tế về nhiều mặt, lại nằm trong vùng trọng điểm phát triển kinh tế của các tỉnh phía Nam, nằm cạnh thành phố Hồ Chí Minh -một trung tâm kinh tế lớn và năng động nhất cả nước; Đồng Nai có nhiều kiện kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. UBND Tỉnh đã xây dựng chương trình giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh và hình thành các chương trình, dự án có mục đích như: di dân, định canh định cư, chương trình 327/HĐBT, cho vay vốn theo dự án nhỏ giải quyết việc làm tại chỗ, chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục, y tế và tạo việc làm cho đối tượng tệ nạn xã hội. Mặt khác, công tác quản lý nhà nước về lao động, việc làm đã được chú ý và tăng cường. Đồng thời, tỉnh cũng mở rộng quan hệ với nước ngoài và đã tranh thủ được các nguồn tài trợ của một số tổ chức quốc tế, để xây dựng kết cấu hạ tầng, hỗ trợ vốn tạo việc làm, nhất là cho người nghèo ở vùng sâu, vùng xa. Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển của đất nước, cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp, dịch vụ. Từ năm 1991 - 2000 đã giải quyết việc làm cho 499.939 lao động. Trong 10 năm lao động được tuyển vào các doanh nghiệp là 197.634 người chủ yếu là ở thành phố Biên Hòa và các thị trấn trong tỉnh. Trong đó DNNN tuyển 17.960 lao động, doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH: 80.074 lao động, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: 99.600 lao động. Giải quyết việc làm tại chỗ tạo được 302.305 chỗ làm việc mới. Trong đó dự án 120 tạo được 68.874 lao động, xóa đói giảm nghèo: 65.371, các chương trình khác: 168.060 [18, tr. 53]. Để có được những kết quả nói trên, Đồng Nai đã tiến hành một số chủ trương và biện pháp như sau: - Chương trình giải quyết việc làm được xác định là một chương trình kinh tế - xã hội quan trọng đã được các cấp, các ngành trong tỉnh quan tâm thực hiện nghiêm túc, để tạo lập điều kiện, môi trường và các nguồn lực quan trọng nhằm ổn định, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. - Quan niệm về việc làm đã được người lao động nhận thức và hiểu theo đúng nghĩa là những hoạt động tạo ra thu nhập không bị luật pháp ngăn cấm. Họ đã chủ động bỏ vốn ra để sản xuất, tự tạo việc làm cho mình và cho người khác thông qua cơ chế, chính sách của Nhà nước. - Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức, đoàn thể tại cơ sở như: Hội Nông dân tập thể, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Thông qua các tổ chức này người lao động được hưởng quyền lợi thiết thực là giải quyết việc làm, cho vay vốn sản xuất, vay vốn xóa đói giảm nghèo, hưởng các công trình phúc lợi của các dự án có mục tiêu… - Phát triển trung tâm dịch vụ việc làm trên địa bàn tỉnh, thực hiện tốt nhiệm vụ cung ứng lao động cho các thành phần kinh tế, nhất là giới thiệu lao động cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Giải quyết việc làm gắn liền với việc chuyển dịch cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh. - Huy động tối đa mọi nguồn vốn trong tỉnh kết hợp với việc thu hút các nguồn vốn bên ngoài, thực hiện có hiệu quả các chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh, trong đó có chương trình giải quyết việc làm. - Cho vay vốn giải quyết việc làm tại chỗ theo Nghị quyết 120/HĐBT đã góp phần vào chương trình giải quyết việc làm nói chung trong toàn tỉnh, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực. - Ban hành một số chính sách nhằm khuyến khích những doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và những người có khả năng để đầu tư mở các cơ sở dạy nghề, các trường đào tạo nghề cùng với Nhà nước, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh, đáp ứng được những yêu cầu mới của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Chương 2 Thực trạng giải quyết việc làm và những bức xúc đặt ra ở tỉnh Bắc Ninh 2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên [45, tr. 4-5] Bắc Ninh là một tỉnh mới tái lập năm 1997 từ tỉnh Hà Bắc cũ. Nằm trong châu thổ sông Hồng, Bắc Ninh tiếp giáp với tỉnh Bắc Giang ở phía Bắc, tỉnh Hải Dương ở phía Đông, thành phố Hà Nội ở phía Nam và Tây. Bắc Ninh nằm sát ven dải hành lang đường 18 và nằm trong vùng kinh tế trọng điểm tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh - Khu vực có tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu kinh tế mạnh. Trung tâm của tỉnh là thị xã Bắc Ninh, cách Hà Nội 40 km2. Tỉnh có 1 thị xã, 7 huyện, 5 phường, 6 thị trấn và 112 xã. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 803,87 km2 bằng 0,24% diện tích cả nước. Đất nông - lâm nghiệp chiếm 65,4% diện tích tự nhiên, đất chưa sử dụng chiếm 11,1%. Khí hậu nhiệt đới gió mùa với các thông số trung bình về nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm đều cao, thích hợp cho sự phát triển một nền nông nghiệp đa dạng. Tuy nhiên, với điều kiện hiện nay, khả năng mở rộng nông nghiệp theo chiều rộng hầu như không nhiều. Bắc Ninh nằm trên các tuyến trục giao thông quan trọng nối liền các trung tâm kinh tế văn hóa và thương mại của phía Bắc. Về đường bộ, có đường quốc lộ 1A, 1B nối Hà Nội - Bắc Ninh - Bắc Giang - Lạng Sơn; quốc lộ 18 nối Nội Bài - Bắc Ninh - Đông Triều - Hạ Long. Về đường sắt, có đường liên vận quốc tế đi Bắc Kinh (Trung Quốc). Về đường sông, có hệ thống đường sông gắn với nhiều địa phương trong cả nước. Ngoài thế mạnh về giao thông, Bắc Ninh còn gần các khu công nghiệp lớn của vùng trọng điểm Bắc Bộ. Về tài nguyên đất: tổng diện tích đất tự nhiên là 803,87 km2 trong đó: - Đất nông nghiệp chiếm: 64,7% - Đất lâm nghiệp chiếm: 0,7% - Đất chuyên dùng và đất ở chiếm: 23,5% - Đất chưa sử dụng chiếm: 11,1% Như vậy đất đai của tỉnh vẫn còn lớn, còn có thể phát huy được. Hệ số sử dụng ruộng đất còn thấp, chỉ mới đạt 2,2 lần khả năng có thể đưa lên 2,5 lần. Toàn tỉnh vẫn còn 2.750 ha đất trũng ngập úng thường xuyên thuộc huyện Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ và Yên Phong. Đất mặt nước chưa sử dụng là 3.114,5 ha, diện tích một vụ còn tới 7.462,5 ha. Đây là tiềm năng lớn cần được khai thác, sử dụng hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và phát triển dịch vụ. Về tài nguyên khoáng sản: Bắc Ninh là một tỉnh nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu chỉ có vật liệu xây dựng: đất sét làm gạch, ngói, gốm với trữ liệu không nhiều khoảng 4 triệu tấn ở Quế Võ, Từ Sơn, thị xã Bắc Ninh; đá Cát Kết với trữ lượng khoảng 1 triệu tấn ở Thị Cầu (thị xã Bắc Ninh); đá Sa Thạch ở Vũ Ninh (thị xã Bắc Ninh) với trữ lượng khoảng 3 triệu m3. Ngoài ra, còn có than bùn ở Yên Phong với trữ lượng 60.000 - 200.000 tấn. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội [45, tr. 6-9] Nhiều năm qua nền kinh tế của Bắc Ninh đã có nhiều chuyển biến tốt, phản ánh những thắng lợi bước đầu đáng ghi nhận về sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Tổng sản phẩm trong tỉnh tạo ra hàng năm tăng liên tục. Bình quân trong 4 năm qua, mỗi năm tăng 12,4%. đặc biệt là 2 năm cuối của thế kỷ 20 có tốc độ tăng trưởng kinh tế đột biến tương ứng là 15,9% và 15,6%. Cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp. Năm 1997, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP chiếm 44,70% và năm 2000 là 36,47%. Tỷ trọng công nghiệp tăng từ 24,40% năm 1997 lên 29,65% năm 2000. Trong khi đó, tỷ trọng thương mại, dịch vụ trong GDP biến động thấp thường và theo chiều hướng cầm chừng. Bảng số 1: Cơ cấu kinh tế tỉnh Bắc Ninh Đơn vị: % Ngành kinh tế 1997 1998 1999 2000 Nông nghiệp Công nghiệp & XD Dịch vụ 44,70 24,40 30,90 44,10 25,70 30,20 40,60 31,40 28,00 36,47 29,65 33,86 Nguồn: Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh [5, tr. 30]. Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2000 đạt gần 1,6 tỷ đồng (theo giá cố định năm 1994). Trồng trọt là ngành chủ yếu, chiếm 68% giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2000. Trong ngành trồng trọt, cây lương thực chiếm tới 83%. Cây công nghiệp hàng năm và cây lâu năm không đáng kể. Ngành chăn nuôi chiếm 28%, trong đó nuôi lợn là chủ yếu. Giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp thấp, chỉ gần 12 tỷ đồng /năm. Sản lượng lương thực bình quân đầu người đạt 488,5 kg/năm. Toàn bộ giá trị sản xuất ngành nông - lâm nghiệp - thủy sản bình quân đầu người đạt mức 1.670 triệu đồng/năm (theo giá cố định năm 1994). Sản xuất công nghiệp đã có bước khởi sắc. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp năm 2000 đạt 2.074 tỷ đồng. Trong đó, khu vực quốc doanh chiếm 26%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 39%, khu vực ngoài quốc doanh chiếm 35%. Nếu phân theo vùng lãnh thổ thì huyện Từ Sơn chiếm 1/4 giá trị sản xuất công nghiệp trong số 8 huyện, thị xã của tỉnh. Trong ngành công nghiệp thì công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng rất cao, đạt 99,9% giá trị công nghiệp của tỉnh năm 2000, tập trung chủ yếu vào các ngành: sản xuất sản phẩm từ hóa chất phi kim loại (chiếm 42% giá trị sản xuất công nghiệp), sản xuất kim loại: 12,4%, sản xuất thuốc lá:11,5%, sản xuất giường, tủ, bàn ghế: 11,4%. Trên địa bàn tỉnh có 58 làng nghề, trong đó có những làng nghề có từ lâu đời và rất nổi tiếng như rèn Đa Hội, đúc đồng Đại Bái, gốm Phù Lãng, tranh Đông Hồ. Hiện có 31 làng nghề truyền thống và 27 làng nghề mới, trong đó có 49 làng nghề sản xuất tiểu công nghiệp với 17 loại sản phẩm chính, 4 làng nghề xây dựng, 3 làng nghề thương mại, 1 làng nghề dịch vụ và 1 làng nghề thủy sản. Năm 2000, giá trị sản xuất của các làng nghề đạt trên 200 tỷ đồng (chiếm 74% giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh của tỉnh), thu hút vốn hàng chục tỷ đồng vào sản xuất, đóng góp cho ngân sách hơn 1,5 tỷ đồng. Ngành xây dựng cơ bản năm 2000 huy động vốn đầu tư đạt 89,9 tỷ đồng, trong đó vốn Nhà nước và các DNNN chiếm 39,3% tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh, vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và dân cư chiếm 58,2%, vốn khu vực liên doanh chiếm 2,5%. Trong ngành vận tải, khối lượng vận chuyển hàng hóa năm 2000 đạt 2,9 triệu tấn, khối lượng lưu chuyển hàng hóa là 60,1 triệu tấn km. Trong số đó, khu vực vận tải ngoài quốc doanh chiếm 90,3% khối lượng vận chuyển và 98,3% khối lượng luân chuyển hàng hóa của tỉnh. Vận tải hành khách năm 2000 đạt 2,3 triệu người, trong đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực ngoài quốc doanh chiếm 88,7%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ năm 2000 đạt 1.228,6 tỷ đồng, trong đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực ngoài quốc doanh chiếm 81,6%. Hiện có 7.464 cơ sở kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh, trong đó có 13 DNNN, 9 HTX, 17 công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân, 7.425 hộ cá thể. Tóm lại, Bắc Ninh có những lợi thế và tiềm năng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm của tỉnh: - Tiềm năng lớn nhất là con người Bắc Ninh năng động, sáng tạo, có nhiều làng nghề truyền thống, nghề buôn bán có từ lâu đời. - Bắc Ninh có nền văn hiến lâu đời, có làn điệu dân ca quan họ làm say mê lòng người, có nhiều lễ hội, nhiều di tích văn hóa và lịch sử (hiện có 203 di tích đã được xếp hạng). Đó chính là tiềm năng để Bắc Ninh phát triển du lịch. - Vị trí địa lý của tỉnh khá thuận lợi, rất gần thủ đô Hà Nội, nằm trong tam giác phát triển kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh nên tỉnh có rất nhiều cơ hội để phát triển. - Hệ thống giao thông phát triển cũng là tiềm năng và thế mạnh trong phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy được các cấp chính quyền rất quan tâm trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nhưng nhìn chung đến nay, còn nhiều khó khăn, trở ngại: - Là một tỉnh nhỏ "đất chật, người đông". Đây cũng là bài toán khó trong vấn đề giải quyết việc làm của tỉnh. - Tiềm năng về tự nhiên rất hạn chế, các tài nguyên khoáng sản, rừng… hầu như không đáng kể. - Đến nay, nền kinh tế vẫn chủ yếu là nông nghiệp mang tính độc canh, chủ yếu là trồng lúa và nuôi lợn phân tán trong các hộ gia đình. Đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp và ngày càng giảm là một trong những trở ngại lớn cho việc phát triển nông nghiệp. - Thu nhập bình quân đầu người thấp, khoảng 3 triệu đồng/năm (210 USD) nên sức mua và quy mô thị trường nội tỉnh bị hạn chế. - Các ngành thương mại, du lịch, khách sạn… phát triển chậm, chưa khai thác được tiềm năng về truyền thống văn hóa, các di tích và cảnh quan của tỉnh. - Bắc Ninh gần thủ đô Hà Nội, nằm trong tam giác phát triển kinh tế HàNội - Hải Phòng - Quảng Ninh, đó là lợi thế đồng thời cũng là thách thức, làm tăng sức cạnh tranh các mặt hàng sản xuất của tỉnh. 2.2. Thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh bắc ninh 2.2.1. Quy mô lao động Bắc Ninh là tỉnh có tốc độ tăng dân số tương đối thấp so với cả nước (1,2% năm 2000). Tuy diện tích tương đối nhỏ nhưng mật độ dân số của tỉnh lại quá cao: 1.184 người /km2 (gấp hơn 2 lần mật độ dân cư cả nước). Lực lượng lao động ở Bắc Ninh có cơ cấu trẻ. Năm 2000, nhóm lực lượng lao động trẻ (từ 15-34 tuổi) có 309.306 người, chiếm 59,24% so với tổng số; nhóm lực lượng lao động trung niên có 179.970 người, chiếm 34,47% và nhóm lực lượng lao động cao tuổi có 32.870 người, chiếm 6,29%. Nhóm lực lượng lao động trẻ chiếm tỷ lệ cao nhất 59,24%. Đây là thế mạnh của nguồn lao động Bắc Ninh (xem bảng số 2). Bảng số 2: Cơ cấu tuổi của lực lượng lao động (tính đến năm 2000) Nhóm tuổi Số lượng (người) Tỷ lệ (%) 15-24 175.082 33,53 25-34 134.224 25,71 35-44 126.109 24,15 45-54 53.861 10,32 55-59 20.123 3,85 , 60 12.747 2,44 Tổng số: 522.146 100,00 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh [5, tr. 184]. Năm 2000, dân số bình quân của tỉnh là 951.600 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 522.146 người. Ước tính đến năm 2010 là 1.058 nghìn người và 1.174 nghìn người vào năm 2020. Hàng năm dân số Bắc Ninh tăng thêm khoảng 1 vạn người. Ngoài ra, còn phải kể đến số người ngoài tuổi lao động nhưng thực tế vẫn có việc làm cũng tăng lên (trong đó ngày càng có nhiều trẻ em) đã tạo thành một nguồn cung về lao động khá dồi dào. Ngoài hai yếu tố tăng tự nhiên của dân số và sự tham gia của những người ngoài tuổi lao động, nguồn lao động Bắc Ninh còn được bổ sung bằng một số nguồn có tính chất cơ học như: số bộ đội giải ngũ, số học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường, số người dôi dư do sắp xếp lại lao động trong các DNNN. Trong khi đó khả năng giải quyết việc làm của tỉnh còn rất hạn chế. Số người không có việc làm và thiếu việc làm ở cả thành thị và nông thôn năm 1998 là 21.600 người, năm 1999: 19.900 người, năm 2000: 17.000 người. Vì vậy, mâu thuẫn cung - cầu về lao động khá lớn, gây sức ép ngày càng nặng nề trong giải quyết việc làm của tỉnh. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng di dân tự do, gây xáo trộn về xã hội, môi trường, tác động nhiều đến cơ cấu vùng của nguồn lao động. Dân số Bắc Ninh chủ yếu là ở nông thôn, chiếm 90,6% so với tổng dân số của tỉnh. Năm 2000, lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng tương đối cao 85,71%, trong khi đó lao động trong ngành công nghiệp lại chiếm tỷ lệ quá thấp 11%. Điều này chứng tỏ rằng, mức phát triển công nghiệp và mức đô thị hóa còn thấp. Đây thực sự là điều kiện khó khăn về chuyển đổi cơ cấu lao động của tỉnh Bắc Ninh khi chuyển sang giai đoạn công nghiệp hóa nền kinh tế tỉnh. Bảng số 3: Hiện trạng phân bố dân cư Bắc Ninh năm 2000 Đơn vị: người Huyện, thị xã Tổng số Chia theo khu vực (%) Thành thị Nông thôn Toàn tỉnh 951.600 9,4 90,6 Thị xã Bắc Ninh 75.792 51,7 48,3 Yên Phong 139.296 8,8 91,2 Quế Võ 149.725 3,5 96,5 Tiên Du 126.021 7,9 92,1 Từ Sơn 116.581 3,4 96,6 Thuận Thành 139.973 7,9 92,1 Lương Tài 102.966 8,4 91,6 Gia Bình 101.246 - 100,0 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh [5, tr. 18]. 2.2.2. Chất lượng nguồn lao động Chất lượng nguồn lao động nhìn chung đã được cải thiện nhiều nhưng cung về chất lượng không đáp ứng được cầu về cả hai mặt thể lực và trí lực nguồn lao động. Đó là tình trạng thiếu hụt kỹ năng của người lao động. Lao động có tay nghề cao, công nhân kỹ thuật thiếu do đầu tư cho giáo dục chưa đủ, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, thiếu cơ sở định hướng, không xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động của tỉnh. Về mặt thể lực Tầm vóc và thể lực của người Việt Nam nói chung của người dân Bắc Ninh nói riêng trong thập kỷ 90 đã có sự tăng trưởng rõ rệt về chiều cao và cân nặng nhưng vẫn thua kém nhiều nước trong khu vực. Một so sánh cho thấy: chiều cao và cân nặng của trẻ em 15 tuổi - tuổi bắt đầu bước vào độ tuổi lao động, của Việt Nam là 147 cm, 34,3 kg; trong khi đó của Thái Lan là 149 cm, 40,5 kg; của ấn Độ là 155 cm, 49 kg; Nhật Bản là 164 cm, 53 kg. Ngoài ra, tình trạng vệ sinh thực phẩm hiện nay rất đáng lo ngại, việc sử dụng các loại hóa chất bừa bãi không đúng quy định về an toàn thực phẩm đang hàng ngày ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân dân. Một loạt các chỉ số có liên quan đến y tế, chăm sóc sức khỏe, vệ sinh môi trường còn ở mức thấp, đặc biệt là ở nông thôn - nơi đông dân cư, trình độ dân trí thấp. Điều đó lý giải phần nào sự hạn chế về mặt thể lực của người lao động Bắc Ninh cũng như người lao động Việt Nam. Về mặt trí lực - Trình độ học vấn Trình độ văn hóa là cơ sở rất quan trọng để nâng cao năng lực và kỹ năng làm việc của người lao động. Số người biết đọc, biết viết tăng dần. Trong những năm qua, số người tốt nghiệp các cấp học phổ thông có xu hướng tăng dần qua từng năm: năm 1997: 80,52%, năm 1998: 80,88%, năm 1999: 82,93% và năm 2000: 83,58%. Tỷ lệ lao động chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I ngày càng giảm xuống tương xứng. Xu hướng trình độ học vấn của người lao động ngày càng cao cho thấy khả năng học nghề, đào tạo nghề và nâng cao tay nghề của lực lượng lao động ở Bắc Ninh vào loại khá. Đây là một tiền đề quan trọng của sự phát triển nguồn nhân lực của tỉnh. Tuy nhiên, chúng ta thấy tỷ lệ người tốt nghiệp cấp II và cấp III trong lực lượng lao động của tỉnh còn thấp chỉ khoảng 50% [44, tr. 6]. Với thực trạng trên, nếu không có những giải pháp tích cực và có hiệu quả để tăng nhanh số lượng và tỷ lệ lao động có trình độ học vấn tốt nghiệp cấp II và cấp III thì khó có thể thực hiện được các mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn lao động, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế cũng như giải quyết việc làm cho người lao động trong những năm tới. Bảng số 4: Trình độ học vấn phổ thông Đơn vị: % Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 Không biết chữ Chưa tốt nghiệp cấp I Đã tốt nghiệp cấp I Đã tốt nghiệp cấp II Đã tốt nghiệp cấp III Tổng số: 4,46 15,02 24,26 44,51 11,75 100 4,12 15,00 25,78 44,03 11,07 100 3,80 14,07 25,09 44,92 12,12 100 3,10 13,32 24,71 44,46 14,41 100 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [44, tr. 6]. - Trình độ chuyên môn kỹ thuật Kết quả điều tra những năm gần đây cho thấy tình hình cụ thể như sau: Bảng số 5: Trình độ chuyên môn kỹ thuật Đơn vị: % Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 Không có chuyên môn kỹ thuật 92,96 90,40 90,40 88,23 Trình độ sơ cấp 0,85 0,97 1,06 1,06 Công nhân kỹ thuật không bằng 1,03 3,10 2,21 2,99 Công nhân kỹ thuật có bằng 1,13 1,59 1,78 2,40 Trung học chuyên nghiệp 2,64 2,43 2,50 2,71 Cao đẳng và đại học 1,38 1,50 2,04 2,60 Trên đại học 0,01 0,01 0,01 0,01 Tổng số: 100 100 100 100 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [44, tr. 6]. Như vậy, số người chưa được đào tạo nghề còn rất lớn chiếm 90% lực lượng lao động của tỉnh. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ rất thấp: 11,77% (năm 2000) và qua các năm tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyển biến rất chậm, năm 1997 là 7,04%, năm 1998: 9,60%, năm 1999: 9,60%, năm 2000: 11,77%. Chất lượng lao động chuyên môn kỹ thuật của tỉnh còn nhiều bất cập. Lao động không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Chưa được đào tạo đủ trình độ quy định, năng lực thích ứng với việc làm trong nền kinh tế chuyển đổi còn yếu. Tỷ lệ lao động chuyên môn kỹ thuật có trình độ cao thấp, cơ cấu bậc đào tạo mất cân đối với nhu cầu sử dụng. Xét trong tổng số lao động chuyên môn kỹ thuật năm 2000 của tỉnh, cơ cấu như sau: sơ cấp chiếm 1,06%, công nhân kỹ thuật (CNKT) không bằng: 2,99%, CNKT có bằng: 2,4%, trung học chuyên nghiệp (THCN): 2,71%, cao đẳng và đại học (CĐ-ĐH): 2,6%, trên đại học: 0,01%. Như vậy, số lao động có chuyên môn kỹ thuật trình độ sơ cấp và không bằng cấp còn 4,05% trong tổng số lao động chuyên môn kỹ thuật. Tính gộp cả sơ cấp, CNKT không bằng và có bằng là một bậc để so sánh với bậc THCN và bậc CĐ-ĐH (kể cả sau đại học), cơ cấu đào tạo CNKT/THCN/CĐ-ĐH là 2,4/1/1; nghĩa là ứng với 1 lao động có trình độ ĐH-CĐ thì có 1 lao động trình độ THCN và 2,4 lao động trình độ sơ cấp, CNKT. So với các nước có mức GDP bình quân đầu người từ 200 - 300 USD là 7/2/1 thì thấy cơ cấu lao động chuyên môn kỹ thuật của tỉnh hiện nay là bất hợp lý. Sự bất hợp lý này có nguyên nhân bắt nguồn từ sự bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo của tỉnh trong thời gian qua. Ngoài ra, nguyên nhân khách quan của tình trạng này là do 90,60% dân cư và 85,71% lực lượng lao động ở tỉnh đang làm việc trên địa bàn nông thôn, nơi mà công việc lao động sản xuất chưa đặt ra yêu cầu bức xúc về đào tạo nghề; chỉ có 8,05% người lao động ở nông thôn đã trải qua đào tạo nghề nghiệp, trong khi đó con số này ở thành thị là 33,70%. Cùng với việc phát triển việc làm mới phi nông nghiệp ở nông thôn, việc đào tạo nghề cho người lao động trên địa bàn nông thôn đã trở thành vấn đề rất quan trọng cho sự phát triển của khu vực rộng lớn này ở tỉnh Bắc Ninh. Trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, tỷ lệ công nhân kỹ thuật còn thấp, chỉ có dưới 5% so với toàn bộ lực lượng lao động của tỉnh. Điều đáng lưu ý là trong đó hơn một nửa công nhân kỹ thuật tuy đã được đào tạo nhưng không có bằng. Rõ ràng, đào tạo nghề đang là vấn đề bức xúc đối với lực lượng lao động không chỉ ở nông thôn mà ở cả thành thị. 2.2.3. Thực trạng công tác đào tạo nghề Hiện nay, khoảng 80% lao động của tỉnh và đại bộ phận lao động nông thôn chưa có trình độ chuyên môn kỹ thuật như mong đợi. Để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, phát triển các ngành nghề mới, nâng cao hiệu quả của các ngành nghề đang có, thay đổi cơ cấu lao động và tính chất lao động, cần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, văn hóa, khoa học kỹ thuật, quản lý cho người lao động. Người lao động cần phải được đào tạo mới và tập thêm các kiến thức mới để chuyển sang phát triển ngành nghề mới, nâng cao năng suất lao động trong ngành nghề đang làm việc. Việc này cần phải tiến hành cho tất cả lao động, trước mắt là lao động trẻ, lao động ở nông thôn, đồng thời sử dụng tốt lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Qua khảo sát thực trạng một số doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Bắc Ninh cho thấy trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động còn thấp, số công nhân lao động chỉ được kèm cặp trong thời gian ngắn chủ yếu theo phương pháp truyền nghề trực tiếp hoặc truyền nghề trong phạm vi gia đình, dòng họ. Theo kết quả điều tra tại thời điểm 31/12/1998 của UBND tỉnh, số người có trình độ chuyên môn thấp so với tổng số lao động hiện đang làm việc. Số lao động được đào tạo nghề là 80.687 người chiếm 16,57% trong tổng số lao động tham gia hoạt động kinh tế. Kết quả điều tra chọn mẫu năm 1997 của tỉnh cho thấy, trong số 660 hộ được điều tra ở tất cả các huyện, thị xã trong tỉnh chỉ có 21 người được đào tạo chuyên nghiệp, dạy nghề, trong đó có tới 8 người đang học đại học, cao đẳng; số người học nghề là 11 người, không có người nào học sơ cấp và công nhân kỹ thuật. Qua đó ta thấy, số công nhân kỹ thuật được đào tạo cơ bản chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số người được đào tạo và gần như không đáng kể so với tổng số người tham gia hoạt động kinh tế. Không những thế nó còn mất cân đối cả về tỷ lệ đào tạo và loại hình đào tạo ngay trong các trường, các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh. Chưa có mối quan hệ giữa các trường đào tạo nghề với các doanh nghiệp. Số công nhân trong các doanh nghiệp chỉ được đào tạo trực tiếp, không được trạng bị lý thuyết nên học tới đâu biết tới đó. Ngược lại, số học sinh trong các trường dạy nghề chỉ nắm được lý thuyết, không được thực hành trên công việc cụ thể. Đội ngũ cán bộ, giáo viên trong các trường dạy nghề vừa giảm về số lượng, vừa tụt hậu về trình độ khoa học - công nghệ. Số lao động sau khi được đào tạo không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp nên rất khó tìm việc làm. Bên cạnh đó nhà trường chỉ đào tạo những ngành nghề nhất định, một số ngành kỹ thuật doanh nghiệp cần thì nhà trường lại chưa có chương trình đào tạo. Tính đến 31/12/2000, số học sinh được đào tạo công nhân (bao gồm ở các trường do Trung ương và địa phương quản lý đóng trên địa bàn tỉnh) là 2004 người, tăng 49% so với năm học trước, nhưng theo đánh giá của UBND tỉnh, con số này vừa không đảm bảo số lượng, vừa không đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Các trường lớp đào tạo nghề hiện nay vẫn còn yếu và thiếu, toàn tỉnh có 1 trường công nhân kỹ thuật của tỉnh, 1 trường công nhân xây dựng thủy lợi (Bộ NN&PTNT), 1 trung tâm dịch vụ việc làm, 1 trung tâm khuyến nông, khuyến lâm (thuộc tỉnh), 8 trung tâm dịch vụ việc làm thuộc 8 huyện, thị xã. Trang thiết bị dạy học cho các trường nghề vừa thiếu, vừa lạc hậu. Đầu tư cho đào tạo nghề còn hạn hẹp và có xu hướng giảm dần. Chính vì vậy, chất lượng, quy mô đào tạo nghề vừa kém, vừa thiếu hụt nghiêm trọng. Công tác đào tạo cán bộ quản lý còn nhiều vấn đề đặt ra. Hiện nay đa số cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp chưa qua đào tạo cơ bản, quản lý theo kiểu gia đình, kinh nghiệm là chính. Theo thống kê chưa đầy đủ, cán bộ quản lý các doanh nghiệp có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 9%, tốt nghiệp phổ thông chiếm 60%; có những cán bộ quản lý chưa học xong tiểu học. Đội ngũ này không được đào tạo cơ bản về chuyên môn, về quản lý, về pháp luật… dẫn đến tình trạng khó khăn, bất cập trong quản lý. Địa phương chưa thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng về trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ và trình độ quản lý cho các chủ doanh nghiệp nên họ thiếu thông tin, bỡ ngỡ trước sự biến động của thị trường, nhất là thị trường nước ngoài. Sự thăng trầm của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ quản lý, sự năng động của các chủ doanh nghiệp. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp là vấn đề bức xúc cần quan tâm giải quyết. 2.2.4. Thực trạng sử dụng nguồn lao động 2.2.4.1. Theo ngành kinh tế - Ngành nông nghiệp Trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp Bắc Ninh đã dần đi vào ổn định và phát triển với nhịp độ ngày càng nhanh. Sản xuất nông nghiệp ở nhiều địa phương trong tỉnh đã bắt đầu chuyển sang hướng sản xuất hàng hóa, mô hình kinh tế VAC, kinh tế trang trại phát triển hầu hết ở các địa phương. Xuất hiện nhiều gia đình có quy mô chăn nuôi lớn: hàng ngàn con gà, hàng chục con lợn theo phương pháp công nghiệp mang lại thu nhập cao. Chăn nuôi cá theo phương pháp thâm canh với các giống có năng suất cao, chất lượng tốt và chăn nuôi các con đặc sản đã dần dần thay thế thả cá theo kiểu quảng canh. Cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp ngày càng tăng, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm tương ứng. Nguồn lao động Bắc Ninh chủ yếu tập trung ở khu vực nông nghiệp, chiếm 85,71%. Là ngành chiếm một tỷ trọng cao nhất: 36,47% trong GDP (tương đương 886,7 tỷ đồng) và đồng thời sử dụng một lượng lao động lớn nhất 354.700 người, chiếm tỷ trọng 73,6% trong tổng số lao động đang làm việc [44, tr. 16]. - Ngành công nghiệp Ngành nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng. Đến cuối năm 1997 toàn tỉnh có 48 HTX, tổ hợp tác, 38 công ty TNHH, 24 doanh nghiệp tư nhân, 20 làng nghề truyền thống được khôi phục, hình thành thêm 30 làng nghề mới. Toàn tỉnh có gần 15.000 hộ chuyên nghiệp và hàng chục ngàn hộ không chuyên nghiệp sản xuất kinh doanh công nghiệp. Ngành công nghiệp và xây dựng tạo ra được 721 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 29,65% trong GDP, sử dụng một lượng lao động là 67.500 người (chiếm 14% trong tổng số lao động đang làm việc) [44, tr. 16]. - Ngành dịch vụ Ngành dịch vụ tạo ra được 823,3 tỷ đồng, chiếm 33,86% trong GDP, thu hút số lao động tham gia là 59.800 người chiếm 12,4% [44, tr. 16]. Hoạt động dịch vụ ở nông thôn trong những năm gần đây có bước phát triển mới, nhiều loại hình kinh doanh, dịch vụ như: cung ứng hàng tiêu dùng, vật tư, thu gom nông sản, sửa chữa công cụ, đồ dùng phục vụ sinh hoạt, xuất hiện phổ biến trong từng thôn xóm. Từ đó đã và đang hình thành các tụ điểm kinh tế, các thị tứ, thị trấn ở nông thôn góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế của tỉnh. Như vậy, cơ cấu kinh tế Bắc Ninh đang từng bước thay đổi, sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, cơ cấu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Bảng số 6: Cơ cấu làm việc theo nhóm ngành Đơn vị: (%) Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 1. Nông nghiệp 2. Công nghiệp và XD 3. Dịch vụ 81,00 10,00 9,00 78,56 10,40 11,04 76,05 11,61 12,34 73,60 14,00 12,40 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [44, tr. 16]. Thông qua các chỉ tiêu trên cho thấy, cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm đã có chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỷ trọng lao động được đào tạo, đa dạng hóa ngành nghề. Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm dần từ 81% năm 1997 xuống 73,6% năm 2000, trong khi đó tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên rõ rệt. 2.2.4.2. Theo thành phần kinh tế Tính đến nay trên lãnh thổ Bắc Ninh đã hình thành một số khu, cụm và cơ sở sản xuất công nghiệp và xây dựng bao gồm: 8 đơn vị quốc doanh Trung ương, 14 đơn vị quốc doanh địa phương, 62 làng nghề, trong đó có 31 làng nghề thủ công truyền thống, 224 doanh nghiệp ngoài quốc doanh với khoảng 10 nghìn hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp và 2 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Những cơ sở này thuộc các ngành: công nghiệp cơ khí, kỹ thuật điện; vật liệu xây dựng, sành sứ thủy tinh; chế biến gỗ, giấy, lâm sản; chế biến lương thực thực phẩm; công nghiệp dệt, may mặc và các ngành công nghiệp khác. Trong 5 năm qua (1996 - 2000), các ngành công nghiệp này đã có nhiều đóng góp đưa Bắc Ninh phát triển nhanh hơn. Giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng với tốc độ bình quân 34,3%/năm. Đối với thành phần kinh tế Nhà nước: quy mô nhỏ, trong những năm 1997 - 2000 lực lượng lao động làm việc trong khu vực này thấp chỉ chiếm khoảng 5%. Cụ thể năm 1997 có 23.713 lao động chiếm 4,7%, năm 1998 có 25.212 lao động chiếm 5%, năm 1999 có 27.385 lao động chiếm 5,3%, năm 2000 có 28.868 lao động chiếm 5,5% trong tổng số lao động xã hội của tỉnh (xem bảng số 7). Đối với thành phần kinh tế ngoài Nhà nước: kinh tế hộ gia đình và ngoài quốc doanh giữ vai trò chủ yếu trong tạo việc làm mới (chiếm 95% chỗ làm việc mới được tạo ra hàng năm). Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tuy vốn đầu tư cho công nghệ còn ít, đầu tư cho 1 chỗ làm việc còn thấp, nhưng đang thể hiện một tiềm năng và ưu thế trong tạo việc làm. Năm 2000, có 10.511 cơ sở sản xuất công nghiệp, thu hút 42.630 lao động; trong đó, có 13 DNNN thu hút 5.440 lao động, 142 HTX thu hút 2.431 lao động, 45 công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân thu hút 1.690 lao động, 10.309 hộ cá thể thu hút 32.620 lao động, 2 công ty liên doanh với nước ngoài thu hút gần 500 lao động. Làng nghề truyền thống đã được khôi phục và phát triển, năm 2000 tạo việc làm cho trên 34.000 lao động. Có 37 doanh nghiệp kinh doanh trong ngành xây dựng, trong đó có 5 DNNN, 2HTX, 30 công ty và doanh nghiệp tư nhân. Tổng số lao động trong ngành này năm 2000 là 4.970 người. Trong ngành vận tải có 2 DNNN, 7 HTX và 3.630 hộ cá thể kinh doanh vận tải trên địa bàn tỉnh. Tổng số lao động trong ngành này năm 2000 là 5.760 người [44, tr. 15]. Bảng số 7: Việc làm chia theo thành phần kinh tế Đơn vị: người Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 Tổng lao động xã hội Trong đó: - Nhà nước - Ngoài Nhà nước 501.533 23.713 477.820 504.041 25.212 478.829 517.487 27.385 490.102 522.146 28.868 493.278 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [44, tr. 15]. 2.2.4.3. Theo khu vực - Khu vực thành thị Bắc Ninh là một tỉnh nông nghiệp, phần lớn dân cư sống ở nông thôn. Số người sống ở thành thị chỉ có 89.450 người, chiếm 9,4%, trong đó lực lượng lao động ở khu vực này có 80.689 người chiếm 14,29%. Ngoài lực lượng lao động tại chỗ, hàng năm có một lực lượng lao động đáng kể từ các vùng nông thôn vào các khu công nghiệp, các đô thị tìm kiếm việc làm, đặc biệt từ khi chuyển đổi sang chế chế thị trường. Người lao động nông thôn vào khu đô thị tìm việc và làm việc với nhiều dạng khác nhau và có xu hướng tăng nhanh. Một số vào theo mùa vụ nông nhàn nông nghiệp, một số khác tìm việc và làm việc thường xuyên trong năm… Đó là lực lượng đáng kể bổ sung vào nguồn lao động của khu vực thành thị. Về trình độ học vấn nói chung của người dân ở thành thị là khá cao và ngày càng được nâng cao hơn. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật được tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị chiếm 33,7% lực lượng lao động ở tỉnh. Tuy nguồn lao động có trình độ học vấn bình quân tương đối khá, nhưng tỷ lệ đào tạo chuyên môn kỹ thuật còn thấp, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý và cân đối. Do vậy, chỉ có thể phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mới tránh khỏi tụt hậu, mới có thể đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thị trường lao động hiện nay. Vấn đề sử dụng nguồn lao động khu vực thành thị trong thời gian qua: Tỷ lệ lao động có việc làm thời kỳ 1997 - 2000 của khu vực thành thị là 93% (trong độ tuổi lao động). Tỷ lệ lao động không có việc làm trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị giảm từ 7% năm 1997 xuống 6% năm 1999. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị đã giảm liên tục từ 7,03% năm 1997 xuống 6,77% năm 1999 và 6,16% năm 2000 [5, tr. 170-173]. Thực hiện cơ chế mới, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương và chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, đa dạng hóa các hình thức sản xuất nhằm phát huy tốt mọi nguồn lực vào quá trình phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho lao động xã hội. Đồng thời với sự chuyển đổi cơ chế, Nhà nước đã thực hiện sắp xếp lại lao động trong các xí nghiệp quốc doanh, tinh giảm biên chế trong các cơ quan hành chính sự nghiệp. Do vậy, lao động thành thị biến động theo xu hướng giảm tỷ trọng lao động quốc doanh và tập thể, lao động trong khu vực tư nhân, cá thể tăng lên khá nhanh. Một trong những điểm nổi bật sử dụng nguồn lao động khu vực thành thị là sự chưa phù hợp giữa cơ cấu nguồn lao động với cơ cấu việc làm, thể hiện sự vừa thừa và vừa thiếu lao động. Trong nhiều lĩnh vực tỉnh thiếu lao động có trình độ cao, tay nghề giỏi. Thời gian qua, khi có dự án hợp tác đầu tư của nước ngoài được mở ra, các khu chế xuất được xây dựng và đi vào hoạt động thì việc tuyển dụng lao động cho các cơ sở này cũng là những vấn đề khó khăn đặt ra do thiếu lao động có kỹ thuật, tay nghề hoặc hạn chế về ngoại ngữ, vi tính. Trong khi đó, nguồn lao động dư thừa, đặc biệt là khu vực thành thị tỷ lệ lao động không có việc làm khá cao, mà chủ yếu là lao động không có chuyên môn kỹ thuật. Để có thể sử dụng ngày càng đầy đủ và có hiệu quả nguồn nhân lực, giải quyết tốt công ăn việc làm cho người lao động ở khu vực thành thị cần thực hiện tốt các biện pháp sau: + Huy động tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nước để đảm bảo duy trì việc làm cũ cũng như tạo thêm chỗ làm mới cho nguồn lao động của tỉnh. + Nâng cao chất lượng nguồn lao động. + Xây dựng và thực hiện tốt chương trình việc làm của khu đô thị. - Khu vực nông thôn Hiện nay, dân cư nông thôn Bắc Ninh có 862.150 người chiếm 90,6% dân số cả tỉnh, lao động nông thôn có 447.531 người chiếm 85,71% lực lượng lao động tỉnh, trong đó lao động có chuyên môn kỹ thuật chỉ có 8,05%. Như vậy, lao động nông thôn đại bộ phận là lao động phổ thông, không có trình độ chuyên môn kỹ thuật [44, tr. 6]. Đặc trưng của tình hình lao động và việc làm ở khu vực nông thôn Bắc Ninh hiện nay biểu hiện ở một số đặc điểm sau: + Đội ngũ lao động nông nghiệp, nông thôn khá lớn, tăng nhanh, khả năng thu hút lao động rất hạn chế nên lao động dư thừa lớn. + Hệ số sử dụng thời gian lao động thấp, năm 1998 là: 70,1%, năm 2000: 74,7%. + Giá trị lao động và thu nhập thấp. Nhìn chung giá trị lao động bình quân hàng năm của lao động nông thôn còn rất thấp, thu nhập của những người lao động nông thôn trở nên quá ít ỏi, phần lớn không có tích lũy. Đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đói nghèo ở khu vực nông thôn hiện nay. + Vấn đề giải quyết việc làm được triển khai bước đầu đã có chuyển biến, song chưa cơ bản. Từ nhiều năm nay, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh đã được Đảng bộ và chính quyền tỉnh hết sức quan tâm và được tổ chức thực hiện dưới nhiều hình thức, bằng nhiều chính sách cụ thể như: hình thành và cho vay vốn tạo việc làm từ quỹ quốc gia và giải quyết việc làm; thực hiện các chương trình mục tiêu (chương trình 327, chương trình 773, chương trình định canh định cư); chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp; chương trình xóa đói giảm nghèo; mở các trung tâm đào tạo và giải quyết việc làm; hợp tác lao động quốc tế. Những cố gắng trên của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã đem lại những kết quả đáng khích lệ, hơn một trăm ngàn người có thêm việc làm và việc làm mới, người lao động có thu nhập ổn định, góp phần phát triển kinh tế và cải thiện đời sống. Tuy nhiên, vấn đề việc làm vẫn đang là vấn đề bức xúc của tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Về chất lượng nguồn lao động ở khu vực nông thôn: Lao động ở khu vực nông thôn đã qua đào tạo chỉ chiếm 8,05%, còn lại trên 90% chưa qua đào tạo. Lao động nông thôn qua đào tạo chiếm một tỷ lệ thấp, nhưng lại phân bố không đều. Các khu vực càng xa khu đô thị thì lực lượng lao động không qua đào tạo chiếm tỷ lệ càng cao. Số có trình độ tập trung chủ yếu ở các ngành chuyên môn và các cơ quan quản lý từ tỉnh, huyện đến các doanh nghiệp. Lao động nông thôn được đào tạo thấp nên năng suất lao động và thu nhập của người lao động cũng rất thấp. Về phân bố và sử dụng nguồn lao động ở khu vực nông thôn: Trong nông thôn, cơ cấu lao động xã hội có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp; tuy nhiên ở mức độ còn chậm. Kết quả điều tra năm 2000 cho thấy, tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm 73,6%, công nghiệp và xây dựng chiếm 14%, dịch vụ chiếm 12,4%. Tình hình việc làm và sử dụng quỹ thời gian lao động nông thôn tuy đã có những tiến triển rõ rệt, song nhìn chung lao động ở nông thôn vẫn còn là sức ép đối với nền kinh tế của tỉnh. Hiện nay, ở khu vực nông thôn đang thiếu nghiêm trọng những lao động có chuyên môn kỹ thuật, có tay nghề; trong khi đó nguồn nhân lực lao động ở khu vực này lại dồi dào nhưng phần lớn lại chưa qua đào tạo nên không thể đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, để giải quyết cơ bản vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở khu vực nông thôn cần phải: + Giải quyết tốt nhu cầu về vốn phục vụ cho công tác giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn. + Đẩy mạnh đào tạo chuyên môn kỹ thuật nhằm tăng nhanh chất lượng của đội ngũ lao động nông thôn. + Phát triển công nghiệp và dịch vụ; khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống tạo thêm nhiều việc làm cho lao động ở khu vực nông thôn. + Đẩy mạnh xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn. + Thực hiện tốt các dự án di dân, hạn chế tối đa tình trạng di dân tự do nhằm phân bố hợp lý lao động và dân cư giữa các vùng. Ngoài ra, tình hình giải quyết việc làm ở Bắc Ninh trong những năm qua thông qua các chương trình quốc gia bước đầu đã thu được kết quả như sau: Lập dự án nhỏ vay vốn giải quyết việc theo Nghị quyết 120 của Chính phủ và chương trình viện trở nhân đạo của Chính phủ cộng hòa Séc và Slôvakia. Trong 4 năm 1997 - 2000 đã phê duyệt cho vay 400 dự án với số tiền 15 tỷ đồng, giải quyết cho 12.000 lao động có chỗ làm việc mới. Các chương trình 327,773 di dãn dân phát triển vùng kinh tế mới nội, ngoại tỉnh đã giải quyết cho 8.000 lao động. Công tác đầu tư vốn tín dụng cho người nghèo đã giúp cho các hộ nghèo ổn định, cải thiện đời sống, giải quyết cho 46.000 lao động có thêm việc làm và việc làm mới. Về công tác đào tạo nghề và giới thiệu việc làm: Trong thời gian qua, Trung tâm dịch vụ việc làm tỉnh đã giới thiệu việc làm cho 2.000 người và tổ chức đào tạo nghề cho 1.000 người, giúp họ tự tạo việc làm và tìm kiếm việc làm. Có thể nói rằng, các chương trình mục tiêu nói trên như là "bà đỡ" góp phần tích cực tạo việc làm cho người lao động, nhất là cho người thất nghiệp ở thành thị, thiếu việc làm ở nông thôn và cho nhóm xã hội yếu thế. Thời gian qua, các chương trình mục tiêu đã góp phần tạo ra cho khoảng 47% trong tổng số chỗ việc làm mới hàng năm, với suất đầu tư thấp, công nghệ đơn giản. Loại việc làm này thường là những công việc yêu cầu trình độ, tay nghề thấp, năng suất và thu nhập nói chung ở mức trung bình và thấp. Với mức độ chưa cải thiện được đời sống mà chỉ duy trì cuộc sống hoặc xóa đói giảm nghèo; nhưng nó có ý nghĩa rất lớn về mặt xã hội và không thể thiếu được trong sự đóng góp vào tăng trưởng, tuy là còn hạn chế. Bởi vậy, hướng cơ bản phải là tăng tỷ trọng tạo việc làm gắn với chương trình phát triển kinh tế, giảm dần tỷ trọng tạo việc làm thông qua các chương trình xã hội thì mới thực hiện tốt mục tiêu đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Từ những chính sách, hình thức giải quyết việc làm nêu trên, trong 4 năm qua Bắc Ninh đã giải quyết cho tổng số 109.000 lao động có thêm việc làm và việc làm mới, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị từ 7,03% năm 1997 xuống còn 6,16% năm 2000, nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn từ 70,1% năm 1998 lên 74,7% năm 2000 [44, tr. 6]. Đánh giá chung về giải quyết việc làm ở Bắc Ninh: Những kết quả đạt được: Nhìn lại 4 năm, kể từ khi tái lập tỉnh (năm 1997), Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã từng bước đi lên và tự khẳng định mình trong việc phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của nhân dân. Thắng lợi có ý nghĩa tổng quát nhất là kinh tế của tỉnh Bắc Ninh phát triển với tốc độ cao v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh Thực trạng và giải pháp.pdf
Tài liệu liên quan