Tài liệu Luận văn Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng ngoại thương: 1
Luận văn
GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP PHÁT SINH TỪ
HỢP ĐỒNG NGOẠI
THƯƠNG
2
Phần I
VAI TRÒ CỦA HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG ĐỐI VỚI
HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG
I. VAI TRÒ CỦA NGOẠI THƯƠNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ NƯỚC TA.
1. Ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Công cuộc đổi mới của nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và
rất quan trọng về kinh tế - xã hội. Chặng đường đổi mới tiếp theo đòi hỏi
chúng ta phải tìm tòi, nghiên cứu, tiếp cận và giải quyết nhiều vấn đề mới mẻ
và phức tạp của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Trong đó hợp
đồng ngoại thương là khâu trọng yếu luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm
nhiều nhất.
Giai đoạn 1975 - 1985 đất nước thống nhất, chúng ta có điều kiện và
khả năng khai thác có hiệu quả các tiềm năng của đất nước để đẩy mạnh
ngoại thương phát triển mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước
ngoài thu hút vốn và kỹ thuật tiên tiến của thế giới.
Bên cạnh đó chúng ta cũng còn gặp nhiều khó khăn bắt nguồn từ chế đ...
24 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1278 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng ngoại thương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP PHÁT SINH TỪ
HỢP ĐỒNG NGOẠI
THƯƠNG
2
Phần I
VAI TRÒ CỦA HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG ĐỐI VỚI
HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG
I. VAI TRÒ CỦA NGOẠI THƯƠNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ NƯỚC TA.
1. Ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Công cuộc đổi mới của nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và
rất quan trọng về kinh tế - xã hội. Chặng đường đổi mới tiếp theo đòi hỏi
chúng ta phải tìm tòi, nghiên cứu, tiếp cận và giải quyết nhiều vấn đề mới mẻ
và phức tạp của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Trong đó hợp
đồng ngoại thương là khâu trọng yếu luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm
nhiều nhất.
Giai đoạn 1975 - 1985 đất nước thống nhất, chúng ta có điều kiện và
khả năng khai thác có hiệu quả các tiềm năng của đất nước để đẩy mạnh
ngoại thương phát triển mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước
ngoài thu hút vốn và kỹ thuật tiên tiến của thế giới.
Bên cạnh đó chúng ta cũng còn gặp nhiều khó khăn bắt nguồn từ chế độ
kinh tế của nước nhà, cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu kinh tế hàng hoá
chưa phát triển, chưa có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và còn bị lệ thuộc
nhiều vào bên ngoài. Mặt khác do chiến tránh kéo dài đã gây ra những vết
thương về kinh tế - xã hội mà hàng thế hệ mới hàn gắn được.
Giai đoạn này chúng ta đã thực hiện chế độ độc quyền về ngoại thương-
điều này được ghi nhận trong hiến pháp 1980 tại điều 21:"Nhà nước độc
quyền quản lý ngoại thương và các quan hệ kinh tế khác".
Việc ghi nhận nguyên tắc độc quyền về ngoại thương trong hiến pháp là
nền tảng vững chắc cho toàn bộ pháp luật về ngoại thương Việt Nam trong
giai đoạn này điểm nổi bật của chế độ này là chỉ các tổ chức ngoại thương
của nhà nước mới được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, mọi hoạt động về
kinh tế đối ngoại đều do nhà nước quyết định theo chỉ tiêu pháp lệnh do Bộ
ngoại thương trực tiếp quản lý điều hành. Bộ ngoại thương đã can thiệp sâu
vào các công việc cụ thể của các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, chính vì
3
vậy đã làm mất đi khả năng sáng tạo tính linh hoạt trong kinh doanh, kết quả
là hợp đồng ngoại thương kém hiệu quả.
Cuối 1986 thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đề
ra, kinh tế đối ngoại đã được coi là mũi nhọn của sự nghiệp đổi mới, xuất
khẩu được còn là một trong 3 chương trình kinh tế trọng điểm.
Chế độ Nhà nước độc quyền về ngoại thương đã bị bãi bỏ, các hoạt
động về kinh tế đối ngoại đã điều chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết cuả nhà nước.
Từ năm 1987 chính phủ đã cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế tham gia vào sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu tuy nhiên
doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm ưu thế hơn.
Ngày 7/4/1992 HĐBT (nay là chính phủ) đã ban hành nghị định số
114/HĐBT qui định về quản lý nhà nước đối với xuất nhập khẩu. Theo nghị
định 114 các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải đáp ứng được
những điều kiện:
Được thành lập theo đúng pháp luật, hoạt động theo đúng ngnàh hàng đã
đăng ký, phải có vốn lưu động bằng tiền Việt Nam tương đương với 200.000
USD tại thời điểm đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu, số vốn này phải được
xác định về mặt pháp lý.
Có thể thấy những yêu cầu để được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập
khẩu đã trở thành một cản trở không nhỏ đối với các doanh nghiệp trong
nước. Yêu cầu về số vốn không dưới 200.000USD là một sự thách đố đối với
các doanh nghiệp, và các nhà doanh nghiệp được cấp giấy phép cũng chỉ
được phép XNK mặt hàng đã đăng ký. Do đó đã làm thu hẹp rất nhiều phạm
vi hoạt động của các doanh nghiệp cản trở việc đa dạng hoá các sản phẩm
xuất khẩu giảm hiệu quả kinh tế trong hợp đồng ngoại thương.
Đầu năm 1997, luật thương mại đã được Quốc hội thông qua đặt nền
tảng cho những thay đổi căn bản trong hệ thống quản lý ngoại thương của
Việt Nam.
Năm 1998 chúng ta đã chứng kiến những thay đổi căn bản về quyền
kinh doanh ngoại thương đó là việc Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định
4
cho phép tất cả các doanh nghiệp Việt Nam được tham gia trực tiếp vào hoạt
động XNK mà không phải đáp ứng bất cứ điều kiện gì ngoài việc phải tự
đăng ký mã số hàng hoá của mình tại cơ quan hải quan.
Ngày 31/7/98 Chính phủ ban hành nghị định 57/1998/NĐ - CP quy định
chi tiết luật thương mại về hoạt động XNK gia công và đại lý mua bán hàng
hoá với nước ngoài, theo khoản 1 điều 8 thì thương nhân là doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quyết định của pháp luật
được phép XNK hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký, giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.
Cũng theo khoản 3 điều 8 nghị định 57 thì các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế khi (tham gia) hoạt động kinh doanh XNK không phải xin
giấy phép kinh doanh XNK của bộ thương mại nữa mà trước khi kinh doanh
XNK doanh nghiệp phải đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh XNK tại
cục Hải quan tỉnh, thành phố. Bên cạnh đa dạng hoá và đa phương hoá các
mối quan hệ kinh tế với nước ngoài là một trong những thành tựu nổi bật của
chính sách đổi mới do Đảng ta khởi xướng.
Cho tới nay Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với 104 nước và vùng lãnh
thổ trên thế giới trong đó đã ký hiệp định thương mại với 60 nước, ký hiệp
định khung và hiệp định hàng dệt may với liên minh châu âu (theo tạp chí
kinh tế và dự báo số 4/1999).
Ngày 13/07/2000 (14/7 theo giờ Việt Nam) tại Oasinton, thay mặt chính
phủ Việt Nam, bộ trưởng Bộ thương mại Vũ khoan đã ký hiệp định thương
mại với Hoa kỳ, đây chính là mối quan trọng đánh dấu sự bình thường hoá
hoàn toàn giữa Việt Nam và Hoa kỳ.
Hiện nay Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN năm 1995, và
APEC năm 1998. Việt nam cũng tham gia tích cực vào các hoạt động trong
khuôn khổ hợp tác á - Âu và đang trong qúa trình chuẩn bị những bước cơ
bản để gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
Đó là những điều kiện thuận lợi để chúng ta có thể đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế mở rộng buôn bán và hợp tác kinh tế với các nước và các tổ
chức kinh tế trong khu vực cũng như trên toàn thế giới.
5
2. Vai trò của xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế nước nhà.
2.1. Vai trò của xuất khẩu.
Xuất khẩu là một trong những hoạt động cơ bản của kinh tế đối ngoại, là
phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Việc mở rộng các hoạt động xuất khẩu làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho
tài chính. Đáp ứng nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho sự phát triển
cơ sở hạ tầng.
Thứ nhất: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước theo những bước đi thích hợp
là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nạn lạc hậu của nước ta.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có một số ngoại tệ lớn
để nhập khẩu các máy móc thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến nhanh tốc độ
xuất khẩu để đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu phục vụ cho sự nghiệp phát
triển kinh tế nước nhà.
Thứ hai: Xuất khẩu góp phần vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy sản xuất phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với xu hướng
phát triển của nền kinh tế thế giới là một đòi hỏi tất yếu đối với nền kinh tế
nước ta.
Thứ ba: xuất khẩu không những thúc đẩy sự phát triển của chính ngành
nghề xuất khẩu mà còn tạo điều kiện cho các ngành nghề khác phát triển
thuận lợi.
Chẳng hạn khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho
các ngành sản xuất nguyên liệu như trồng bông, tơ tằm… phát triển …
Thứ tư: Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và
nâng cao năng lực sản xuất trong nước, nói cách khác xuất khẩu tạo ra vốn,
kỹ thuật công nghệ từ bên ngoài vào Việt Nam, hiện đại hoá nền sản xuất
trong nước tạo ra năng lực sản xuất mới.
Xuất khẩu còn là cơ sở đề mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại, xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại tạo điều kiện thúc đẩy
các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển.
6
Chẳng hạn xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sẽ thúc
đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế… ngược lại chính các quan hệ
kinh tế đối ngoại này sẽ tạo điều kiện cho việc mở rộng các hoạt động xuất
khẩu.
2.2. Vai trò của nhập khẩu.
Nhập khẩu là hoạt động quan trọng có tác dụng (trực tiếp) tới hoạt động
sản xuất và đời sống trong nước nhập khẩu nhằm bổ sung những hàng hoá
mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ để đáp ứng nhu
cầu trong nước. Cụ thể như sau:
Thứ nhất: Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ hai: Nhập khẩu bổ sung kịp thời các mặt mất cân đối của nền kinh
tế đảm bảo phát triển kinh tế cân đối ổn định.
Thứ ba: Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của nhân
dân. Thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người tiêu dùng, đảm bảo đầu vào cho
sản xuất tạo việc làm cho người lao động.
Thứ tư: Nhập khẩu có vai trò tích cực đến việc thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu thể hiện: nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu tạo môi
trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài.
Ở Việt Nam do việc mở rộng hợp đồng ngoại thương nên nguồn thu từ
thuế XNK cũng tăng lên qua các năm và đóng góp phần đáng kể vào nguồn
thu của ngân sách nhà nước.
II. HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH XNK.
1. Khái niệm về hợp đồng mua bán ngoại thương
Với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất và phân công lao
động trên quy mô toàn thế giới đang diễn ra ngày càng sâu sắc xuất hiện ngày
càng nhiều các hình thức hợp tác. Tuy vậy trao đổi hàng hoá vốn là một hình
thức mang tính chất cổ điển của quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ kinh tế
quốc tế nói riêng và có vị trí quan trọng bậc nhất trong các hoạt động kinh tế
đối ngoại.
7
Để các hoạt động trao đổi hàng hoá được diễn ra thuận lợi đòi hỏi phải
có cơ sở pháp lý nhất định cho các bên thông qua một hình thức pháp lý nhất
định. Hợp đồng mua bán ngoại thương là hình thức pháp lý cơ bản của trao
đổi hàng hoá quốc tế.
Có rất nhiều các quan điểm khác nhau về khái niệm hợp đồng mua bán
ngoại thương. Tuy nhiên trong mọi hợp đồng mua bán bao giờ cũng có ít nhất
hai bên chủ thể là bên bán và bên mua các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
đều chủ yếu liên quan đến việc giao hàng và trả tiền hàng. Để xác định một
hợp đồng mua bán là hợp đồng mua bán quốc tế, các luật gia thường dựa trên
một số tiêu chí như sau:
Thứ nhất: Hợp đồng mua bán có tính quốc tế nếu trụ sở kinh doanh của
bên mua và bên bán được đăng ký tại hai quốc gia khác nhau.
Thứ hai: Hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế nếu đối tượng của hợp
đồng là hàng hoá phải được giao tại một nước khác với nước mà hàng hoá đó
được tồn trữ hoặc sản xuất ra khi hợp đồng được ký kết.
Thứ ba: Được coi là hợp đồng mua bán quốc tế khi:
+ Có sự vận chuyển hàng hoá là đối tượng của hợp đồng từ lãnh thổ của
quốc gia này sang lãnh thổ của quốc gia khác.
+ Tất cả các hành vi cấu thành sự chào hàng và sự ưng thuận không
được thực hiện trên lãnh thổ của cùng một quốc gia.
+ Sự giao hàng được thực hiện trên lãnh thổ của một quốc gia khác với
quốc gia mà ở đó các hành vi cấu thành sự chào hàng và sự ưng thuận đã
được hoàn thành. Quan điểm trên đã được đề nghị trong dự thảo luật ROMA
1956.
Công ước Vienne ngày 11/04/1980 đã không chấp nhận quan điểm trong
dự thảo luật Roma và chấp thuận tiêu chuẩn thứ nhất: Hợp đồng mua bán có
tính chất quốc tế khi hai bên có trụ sở tại hai quốc gia khác nhau. Dấu hiệu
quốc tịch của các bên không phải là yếu tố để phân biệt.
2. Vai trò của hợp đồng mua bán ngoại thương trong hoạt động
kinh doanh XNK.
8
Do đặc điểm về tự nhiên mỗi quốc gia có lợi thế riêng về sản xuất.
Chính những lợi thế riêng biệt khác nhau này giữa các quốc gia là tiền đề dẫn
tới phân công lao động quốc tế và dẫn đến nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các
quốc gia nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng.
Thực tiễn đã chứng minh trong thời đại ngày nay khi trình độ quốc tế
hoá đời sống kinh tế ngày càng cao, nhu cầu hội nhập quốc tế là nhu cầu
không thể thiếu và ngày càng phải được mở rộng. Các quốc gia sẽ không thể
phát triển, không thể theo kịp sự phát triển của thế giới và sẽ bị tụt hậu nếu
thực hiện chính sách cô lập. Các quốc gia đều có ý thức được giá trị to lớn
của việc hội nhập kinh tế toàn cầu đặc biệt là các quan hệ trao đổi hàng hoá
quốc tế đang ngày càng được phát triển sâu rộng hơn.
Để quan hệ trao đổi mua bán hàng hoá được diễn ra bình thường ổn định
và bảo vệ được quyền lợi của các bên đòi hỏi phải có một cơ sở pháp lý nhất
định, trong đó có các bên xác lập các quyền và nghĩa vụ đối với nhau đồng
thời cũng là cơ sở để các nước hữu quan thực hiện (nhiệm vụ) quyền quản lý
nhà nước đối với hoạt động XNK hàng hoá.
Hợp đồng ngoại thương có vai trò vô cùng to lớn đối với hoạt động trao
đổi hàng hoá. Cụ thể như sau:
- Hợp đồng ngoại thương là cơ sở pháp lý quy định quyền và nhiệm vụ
của các bên trong quan hệ trao đổi hàng hoá.
- Hợp đồng ngoại thương là căn cứ để bảo vệ các nguồn và lợi ích hợp
pháp của các bên khi có tranh chấp xảy ra.
- Hợp đồng ngoại thương là công cụ pháp lý trung tâm của hoạt động
kinh doanh XNK đồng thời là coư sở để các bên ký kết các hợp đồng khác.
Hợp đồng vận chuyển, hợp đồng Bảo hiểm, hợp đồng bảo lãnh…
- Hợp đồng ngoại thương là cơ sở quan trọng của cơ quan nhà nước: Hải
quan, cơ quan thuế… thực hiện các chức năng quản lý nhà nước trong các
lĩnh vực liên quan.
9
Phần Hai
HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG -
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN
I. SỰ HÌNH THÀNH QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
QUỐC TẾ.
Mua bán quốc tế là hoạt động kinh tế đã có từ lâu đời. Tới đầu thế kỷ
XIX các hợp đồng mua bán quốc tế vẫn được thiết lập theo các quy tắc
pháp lý được quy định trong các bộ luật dân sự của các quốc gia do vậy khi
quy chiếu vào đó các thương gia thường lo sợ rằng hợp đồng của họ sẽ bị các
toà án coi rằng trái với trật tự xã hội.
Năm 1817 trên thế giới đã có sự xuất hiện những dấu hiệu của cuộc
khủng hoảng kinh tế, hàng hoá sản xuất ra dư thưa. Sự cạnh tranh về thị
trường ngày càng gay gắt.
Để khắc phục tình trạng này các thương gia đã có sự quy tụ theo ngành
nghề dưới dạng các hiệp hội với mục đích:
- Thiết lập một quy chế pháp lý chi phối các hoạt động mua bán quốc tế
nhằm thống nhất các điều kiện mua bán thiết lập môi trường cạnh tranh công
bằng, hợp lý.
- Tước bỏ thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp của các toà án quốc
gia và chuyên quyền này vào tổ chức trọng tài quốc tế.
Trong giai đoạn đầu các hiệp hội, các nhà kinh doanh tại mỗi quốc đã
soạn ra những hợp đồng mẫu cho từng loại hàng hoá tuy nhiên các hợp đồng
này vẫn mang tính chất riêng biệt do vậy hợp đồng mẫu của từng quốc gia
vẫn có sự khác biệt về chi tiết nhưng cũng là nguyên nhân dẫn đến các vụ
tranh chấp. Do đó những hiệp hội của các quốc gia đã tìm cách xích lại gần
nhau hơn và ký kết với nhau những thoả hiệp, trong đó quyền lợi của các bên
được giải quyết thoả đáng. Các nỗ lực quốc tế nhằm đem lại một chế độ pháp
lý thuần nhất phải kể đến các công trình.
10
1. Uỷ ban kinh tế Châu âu thuộc tổ chức của Liên hợp quốc đã soạn thảo
được những điều kiện chung cho các hợp đồng XNK một số mặt hàng trọng
điểm: các trang thiết bị, ngũ cốc, chất đốt.
2. Hội đồng tương trợ kinh tế - tổ chức thuộc khối các nước XHCN với
mục đích phát triển nền ngoại thương giữa các nước đó trên tinh thần tương
trợ đã soạn ra các văn bản.
- Các điều kiện chung về quan hệ thương mại.
- Các quy tắc pháp lý áp dụng cho hợp đồng mua bán.
- Cách giải quyết các vụ tranh chấp.
Tổ chức này đã ngừng hoạt động từ tháng 6/1999.
3. Phòng Thương mại quốc tế với công trình về "những điều kiện
thương mại quốc tế giải thích các từ ngữ thương mại năm 1930 và được sửa
đổi vào các năm 1953, 1967, 1976, 1980, 1990 và năm 2000.
4. Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế -
công ước Vienne năm 1980 và có hiệu lực từ tháng 1/1988.
II. KHÁI NIỆM - ĐẶC ĐIỂM CỦA HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG.
1. Khái niệm:
Quan hệ trao đổi hàng hoá quốc tế ngày càng được phát triển cả về chiều
sâu và chiều rộng. Hoạt động mua bán hàng hoá nói chung và hoạt động mua
bán quốc tế nói riêng là một lĩnh vực vô cùng phức tạp đòi hỏi phải có cơ sở
pháp lý nhất định thể hiện dưới một hình thức nhất định - đó là hợp đồng.
Hợp đồng mua bán ngoại thương trước hết là một hợp đồng mua bán
hàng hoá do đó nó có đầy đủ các yếu tố của một hợp đồng mua bán thông
thường. Điểm khác biệt của hợp đồng mua bán ngoại thương là yếu tố nước
ngoài có trong hợp đồng bao gồm:
- Chủ thể của hợp đồng
- Đối tượng của hợp đồng
- Đồng tiền thanh toán.
11
Theo luật thương mại Việt Nam 1997 tại điều 8 đưa ra khái niệm khái
quát về hợp đồng ngoại thương như sau: "Hợp đồng mua bán ngoại thương là
hợp đồng mua bán được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với
một bên là thương nhân nước ngoài.
Theo công đốc LaHay 1964 về mua bán quốc tế, đối với các động sản
hữu hình thì một hợp đồng được coi là hợp đồng mua bán ngoại thương. Nếu
các bên chủ thể của hợp đồng mua bán có trụ sở Thương mại tại các nước
khác nhau, hàng hoá trong hợp đồng được chuyển qua biên giới và được xác
lập ở các nước khác nhau.
Công ước Vienne 1980 của Liên hợp quốc thì yếu tố nước ngoài của
hợp đồng là yếu tố về chủ thể.
Như vậy về mặt bản chất thì khái niệm hợp đồng ngoại thương trong
công ước của Liên hợp quốc 1980 với khái niệm trong luật thương mại Việt
Nam 1997 có sự tương đồng.
Theo quy định tại nghị định 36CP 24/04/97 các hợp đồng trao đổi hàng
hoá giữa các doanh nghiệp thuộc khi chế xuất, các cơ sở kinh doanh hàng
miễn thuế với các doanh nghiệp trong nước tuy không được gọi là hợp đồng
mua bán ngoại thương nhưng được coi là hợp đồng XNK và chịu sự chi phối
của các quy định pháp luật liên quan.
Ngoài ra, thực tiễn cho thấy các hình thức kinh doanh khác như chuyển
khẩu, tạm nhập tái xuất… các hợp đồng các hình thức này cũng phải chịu sự
điều chỉnh của các quy định páp luật về hợp đồng ngoại thương.
2. Đặc điểm hợp đồng ngoại thương.
- Về chủ thể:
Chủ thể tham gia hợp đồng là những thương nhân mang quốc tịch khác
nhau, quy chế thương nhân được xác định theo luật của nước mà thương
nhân đó mang quốc tịch.
Thương nhân là tổ chức thì quốc tịch của thương nhân được xác định là
quốc tịch của nước nơi:
+ Đặt trung tâm quản lý (Pháp - Đức)
12
+ Đặt trung tâm hoạt động của tổ chức (Ai Cập, Xê ri…)
Khoản 1 điều 832 Bộ luật dân sự nước cộng hoà XHCN Việt Nam ghi
nhận nguyên tắc quốc tịch của pháp nhân được xác định tuỳ thuộc vào nơi
thành lập pháp nhân.
- Về đối tượng của hợp đồng:
Là hàng hoá tồn tại thực tế, có thể di rời được, xác định được phải được
phép giao dịch lưu thông trên thị trường.
- Về đồng tiền thanh toán
Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng ngoại thương là ngoại tệ đối với ít
nhất là một bên tham gia hợp đồng. Các bên có thể thoả thuận đồng tiền
thanh toán là đồng tiền của bên bán hoặc bên mua hoặc của một nước thứ ba
bất kỳ.
- Về pháp luật áp dụng
Nguồn luật áp dụng điều chỉnh các quan hệ hợp đồng mua bán ngoại
thương phức tạp hơn rất nhiều so với các hợp đồng mua bán trong nước bao
gồm điều ước quốc tế, luật quốc gia và tập quán Thương mại quốc tế.
III. SỰ ĐIỀU TIẾT CỦA NHÀ NƯỚC TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN
NGOẠI THƯƠNG.
Các quan hệ trao đổi hàng hoá quốc tế chịu ảnh hưởng trực tiếp của các
quan hệ chính trị giữa các quốc gia.
Các nhà nước thường sử dụng những công cụ nhằm điều tiết các quan
hệ thương mại phù hợp với mục tiêu chính trị kinh tế của nước mình, do vậy
đằng sau các giao dịch thương mại quốc tế thường tiềm ẩn những mục đích
chính trị.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật các tập đoàn công
nghiệp tài chính từ các nước phát triển đã tạo ra một sức ép mạnh mẽ đối với
việc phát triển thị trường của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Trước tình hình đó thì các nước này buộc phải xây dựng cho mình
những chiến lược kinh tế tạo điều kiện cho các thương gia trong nước có cơ
hội gia nhập thị trường quốc tế. Các chính sách kinh tế được các nước áp
13
dụng như chính sách về thuế, chính sách về tài chính tín dụng (hỗ trợ về tài
chính tín dụng) giảm gọn các thủ tục về hải quan…
IV. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG CÓ
HIỆU LỰC.
1. Xung đột về tính hợp pháp của hợp đồng mua bán ngoại thương.
Ở các nước khác nhau có những quy định khác nhau về tính hợp đồng
nói chung và hợp đồng ngoại thương nói riêng.
- Về hình thức của hợp đồng
Các nước Đông Âu khi xác định tính hợp pháp của hợp đồng thường căn
cứ vào luật mới ký kết hợp đồng hoặc luật mới thực hiện hợp đồng
Đa số các nước Bắc Âu, Tây Âu và Châu Mỹ đều áp dụng luật mới ký
kết hợp đồng. Trong trường hợp hình thức của hợp đồng bị coi là bất hợp
pháp tại nơi ký kết nhưng theo luật nhân thân của các bên hoặc luật nơi có
toà án xét xử tranh chấp là hợp pháp thì hợp đồng vẫn có giá trị về mặt hình
thức.
Theo khoản 1 điều 34 Bộ luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thì hình thức của hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước
nơi giao kết hợp đồng.
- Về nội dung hợp đồng.
Đa số các nước nên áp dụng nguyên tắc thoả thuận để xác định tính hợp
pháp của nội dung hợp đồng.
Ngoài ra các nước còn áp dụng luật nơi ký kết hợp đồng.
Theo điều 394 và điều 834 Bộ luật dân sự Việt Nam việc giải quyết
xung đột về nội dung hợp đồng sẽ áp dụng nguyên tắc thoả thuận hoặc áp
dụng luật nơi ký kết hợp đồng hoặc luật nơi thực hiện hợp đồng.
- Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
+ Về thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng hầu hết các nước áp
dụng luật nơi ký kết hợp đồng hoặc luật nơi thực hiện hợp đồng.
14
Khoản 3 điều 4040 Bộ luật dân sự Việt Nam ghi nhận thời điểm phát
sinh hiệu lực của hợp đồng là thời điểm giao kết trừ có thoả thuận hoặc pháp
luật có quy định khác.
+ Về năng lực chu thể
Các nước thường áp dụng luật nhân thân của chủ thể.
Theo pháp luật Việt Nam năng lực chủ thể của người nước ngoài được
xác định như công dân Việt Nam, năng lực hành vi được xác định theo luật
của nước người đó mang quốc tịch.
2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ngoại thương theo pháp luật
Việt Nam.
- Chủ thể của hợp đồng mua bán ngoại thương
Theo khoản 1 điều 81 Luật Thương mại Việt Nam, chỉ những thương
nhân Việt Nam có những điều kiện nhất định mới được phép hoạt động
thương mại trực tiếp với nước ngoài.
Điều kiện này đã được hàng loạt các văn bản dưới luật quy định cụ thể:
Tại điều 2 quyết định số 55/1998/QĐ.TTg ngày 3/3/98 của Thủ tướng chính
phủ và điều 8 Nghị định số 57/1998/NĐ- CP ngày 31/7/98 quy định mọi
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được phép XNK hàng hoá
theo ngành nghề đã đăng ký kinh doanh nhưng doanh nghiệp phải đăng ký
mã số doanh nghiệp tại Cục hải quan tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
nơi doanh nghiệp có trụ sở.
Bên nước ngoài tham gia hợp đồng cũng phải là thương nhân, có tư cách
pháp lý xác định theo luật của nước mà thương nhân đó mang quốc tịch.
- Về đối tượng của hợp đồng mua bán ngoại thương
Đối tượng của hợp đồng mua bán ngoại thương là hàng hoá được phép
lưu thông, được phép xuất nhập khẩu. Tại điều 4, điều 5 Nghị định 57/NĐ-
CP và phụ lục số 2 ban hành kèm theo nghị định đã quy định rất rõ về vấn đề
này.
- Nội dung của hợp đồng
15
Theo quy định của pháp luật Việt Nam những nội dung chủ yếu của hợp
đồng ngoại thương bao gồm những nội dung chủ yếu quy định tại điều 50,
khoản 3 điều 81 luật thương mại bao gồm:
1. Tên hàng
2. Số lượng
3. Quy cách - chất lượng
4. Giá cả
5. Phương thức thanh toán
6. Địa điểm thời hạn giao hàng
- Về hình thức của hợp đồng mua bán ngoại thương
Hình thức của hợp đồng mua bán ngoại thương được quy định theo pháp
luật Việt Nam là phải lập thành văn bản.
Với sự phát triển của công nghệ thông tin trên các hình thức giao dịch
bằng điện báo, telex, fax, thư điện tử… cũng được coi là hình thức văn bản.
(Theo khoản 3 điều 49 Bộ luật thương mại Việt Nam).
Để hợp đồng có hiệu lực pháp lý theo quyết định số 91/TTg ngày
13/11/92 của Thủ tướng chính phủ một số hợp đồng phải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xem xét thì mới có hiệu lực thi hành. Đó là những hợp
đồng sử dụng vốn từ nguồn ngân sách nhà nước.
V. KÝ KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG.
1. Ký trực tiếp.
Là việc các bên chủ thể của hợp đồng trực tiếp gặp nhau đàm phán thoả
thuận xây dựng và ký kết hợp đồng.
2. Ký gián tiếp.
Ký hợp đồng ngoại thương dưới hình thức trực tiếp thường tốn kém
kinh phí. Để khắc phục tình trạng này khi các phương tiện thông tin liên lạc
hiện đại cho phép việc ký hợp đồng bằng cách gửi thư từ điện tín, fax… gồm
16
hai giai đoạn là đề nghị ký kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị ký kết hợp
đồng hay nói cách khác là chào hàng và chấp nhận chào hàng.
Theo điều 51 Bộ luật thương mại Việt Nam: chào hàng là một đề nghị
giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá trong một thời hạn nhất định được
chuyển cho một hay nhiều người đã xác định và phải có nội dung chủ yếu của
hợp đồng mua bán hàng hoá.
Chấp nhận chào hàng là thông báo của bên được chào hàng về việc chấp
thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng.
Theo điều 52 luật thương mại Việt Nam thì trong trường hợp bên được
chào hàng có sửa đổi bổ sung một trong những nội dung chủ yếu của chào
hàng thì hành vi đó được coi là từ chối chào hàng và hình thành chào hàng
mới.
Trường hợp sửa đổi bổ sung nội dung chào hàng nhưng không làm thay
đổi một trong những nội dùng chủ yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi
là chấp nhận chào hàng trừ trường hợp người chào hàng từ chối ngay những
sửa đổi bổ xung đó.
VI. HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG CÓ MỘT BÊN CHỦ THỂ LÀ NHÀ
NƯỚC.
1. Quyền miễn trừ tư pháp tư pháp của nhà nước.
Có hai quan điểm về quyền miễn trừ tư pháp đối với chủ thể của hợp
đồng là nhà nước.
- Quan điểm về quyền miễn trừ tuyệt đối dựa trên quan niệm cộng đồng
quốc tế gồm các quốc gia có chủ quyền do vậy quốc gia này không thể bị
đem ra xét xử trước toà án của quốc gia khác.
Tuy nhiên quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối có ngoại lệ, đó là quốc gia
có thể khước từ miễn trừ tư pháp của mình và chấp nhận ra tranh luận trước
cơ quan tài phán của quốc gia khác.
Quan điểm này đã được các nhà nước chấp nhận trong suốt thế kỷ XIX
và được áp dụng cho mọi hoạt động cho nhà nước.
17
Đến thế kỷ XX những biến động lớn về kinh tế đã dẫn đến những quan
điểm mới về vấn đề này, nhà nước ngày càng tham gia trực tiếp vào các hoạt
động thương mại quốc tế và trong các hoạt động đó khó có thể phân biệt
được đâu là vì lợi nhuận, đâu là vì lợi ích công cộng, do đó quyền miễn trừ
tư pháp của nhà nước được đặt dưới một cách nhìn mới đó là quyền miễn trừ
tư pháp theo chức năng.
- Quan điểm về quyền miễn trừ tư pháp theo chức năng.
Xuất phát từ trên cơ sở sự phân tích bản chất các hoạt động của nhà
nước. Trong các hoạt động của mình nhà nước chỉ được hưởng quyền miễn
trừ tư pháp trong một số hoạt động mang tính chất chính trị.
Quan điểm này trên thực tế áp dụng gặp phải khá nhiều trở ngại vì việc
tìm ra được một tiêu chuẩn hợp lý để phân biệt các loại hoạt động của nhà
nước là vô cùng khó khăn có ý kiến cho rằng nên căn cứ vào hành vi nhưng
có những ý kiến lại cho rằng phải căn cứ vào mục đích của hành vi… do vậy
việc đặt ra một chuẩn mực chung là vô cùng khó khăn cần phải có một quá
trình lâu dài trên cơ sở sự tiến bộ chung của thế giới.
2. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng ngoại thương có chủ thể là
nhà nước.
Hiện nay chưa có một giải pháp dứt khoát cho vấn đề quyền miễn trừ tư
pháp của nhà nước. Thực tế khi có tranh chấp xảy ra thì sự việc sẽ được giải
quyết tại trọng tài quốc tế nhưng nếu chấp nhận giải quyết tại trọng tài quốc
tế nhưng nếu chấp nhận giải quyết tại trọng tài quốc tế sản xuất đi đến kết
quả là nhà nước chịu sự quyết định của một hoặc một nhóm cá nhân và quyết
định này về bản chất giống như một bản án vấn đề đặt ra là quyền miễn trừ
về tư pháp ở đây có được đề ra không, chủ quyền quốc gia có bị xâm phạm
hay không.
Cần phải thấy rằng chủ quyền quốc gia chỉ ngăn cản một toà án nước
ngoài không được xét xử quốc gia này nếu quốc gia không đồng ý còn trọng
tài là hành vi hoàn toàn do sự thoả thuận của các bên. Nếu trong hợp đồng
không có điều khoản nào thoả thuận về vấn đề trọng tài hoặc trong vụ tranh
chấp hai bên không đi đến thoả thuận là trọng tài giải quyết thì trọng tài
không thể xét xử được.
18
Hầu hết các nước đều ghi nhận trong pháp luật của mình là cho phép các
doanh nghiệp nhà nước được thoả thuận điều khoản vì trọng tài trong hợp
đồng mua bán ngoại thương. Vấn đề này được nhà nước Việt Nam ghi nhận
tại khoản 3 điều 239 Bộ luật thương mại và tại điều 2 quy tắc tố tụng của
trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam ban hành kèm theo quyết định số
204/TTg ngày 28/04/93.
VII. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG.
Nội dung của hợp đồng mua bán ngoại thương bao gồm rất nhiều những
điều khoản khác nhau, trong đó có những điều khoản mà nếu thiếu một trong
số đó thì hợp đồng sẽ không có giá trị pháp lý, những nội dung chủ yếu đó
gồm:
1. Tên hàng:
Tên hàng là đối tượng của hợp đồng cần được thể hiện chính xác nhằm
tránh những hiểu lầm do bất đồng về mặt ngôn ngữ, tập quán của các bên có
nhiều cách để ghi tên hàng hoá.
- Ghi tên thương mại của hàng hoá kèm theo tên thông thường và tên
khoa học.
- Ghi tên hàng hoá kèm theo xuất xứ của hàng hoá.
- Ghi tên hàng hoá kèm theo tên nhà sản xuất, nhãn hiệu hàng hoá.
2. Số lượng hàng hoá.
Bao gồm các thoả thuận về định lượng đơn vị tính, phương pháp xác
định trọng lượng, độ dung sai… cho phù hợp với đặc trưng của hàng hoá và
tập quán buôn bán quốc tế.
3. Chất lượng hàng hoá.
Đó là thoả thuận của các bên liên quan đến việc xác định chất lượng
hàng hoá kiểm tra chất lượng, bảo hành, quyền và nghĩa vụ của các bên khi
hàng hoá không đảm bảo chất lượng đã thoả thuận tuy nhiên sự thoả thuận
phải phù hợp với pháp luật của các bên và tập quán quốc tế.
19
4. Giá cả hàng hoá.
Đó là các thoả thuận có liên quan đến đồng tiền thanh toán, cách quy
định phương pháp tính và đơn vị tính giá về đồng tiền thanh toán : đồng tiền
thanh toán là đồng tiền của nước bên mua, bên bán hoặc của một nước thứ ba
do các bên thoả thuận.
Về cách định giá, các bên có thể thoả thuận một giá cố định hoặc thoả
thuận một giá di động theo từng đợt hàng.
5. Điều khoản về phương thức thanh toán
Các phương thức thanh toán trong thực tiễn rất đa dạng, các bên có thể
thoả thuận thanh toán bằng trao đổi hàng hoá, bằng tiền mặt, thông qua tín
dụng, chuyển khoản… trong đó thông qua tín dụng (L/c) được áp dụng rộng
rãi nhất trong mua bán quốc tế.
6. Địa điểm thời hạn giao hàng.
Đây là điều khoản quan trọng trong mua bán quốc tế, có ảnh hưởng trực
tiếp tới giá cả, về việc xác định quyền sở hữu và trách nhiệm gánh chịu
những rủi ro khi thực hiện hợp đồng.
Địa điểm giao hàng có thể là nơi sản xuất, cảng biển, ga… hoặc tại bất
kỳ nơi nào do các bên thoả thuận. Còn thời điểm giao hàng có thể là một thời
gian nhất định hoặc một khoảng thời gian mà các bên phải hoàn tất việc giao
nhận hàng.
VIII. CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
HỢP ĐỒNG.
Về nguyên tắc, khi một bên không thực hiện, thực hiện không đúng,
không đầy đủ nghĩa vụ của mình đã được xác lập trong hợp đồng mà gây
thiệt hại thì bên vi phạm sẽ phải chịu áp dụng các chế tài và phải bồi thường
thiệt hại. Tuy nhiên trong một số trường hợp, tuy có sự vi phạm nhưng bên vi
phạm vẫn được miễn trách nhiệm bồi thường hoặc thực hiện hợp đồng. Cụ
thể như sau:
20
1. Việc vi phạm hợp đồng là do gặp phải tình thế cấp thiết (bất khả
kháng).
Đó là những tình thế nằm ngoài khả năng kiểm soát của bên vi phạm
hợp đồng tuy nhiên bên vi phạm cần phải chứng minh được rằng mình đã gặp
phải tình thế bất khả kháng đó và thực tế xảy ra.
2. Do lỗi của người thứ ba gây ra.
Điều 77 luật thương mại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
quyết định số 299/TMDL - XNK ngày 09/04/92, các trường hợp được miễn
trách nhiệm bao gồm:
- Do bất khả kháng
- Lỗi của bên kia hoặc bên thứ ba thuộc trường hợp trên
- Do các bên thoả thuận trước
21
Phần III
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ
HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG
I. TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG
1. Khái niệm.
Theo điều 238 Bộ luật thương mại Việt Nam thì tranh chấp thương mại
là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
không đầy đủ những cam kết đã xác lập trong hợp đôngf.
Tranh chấp trong hợp đồng mua bán quốc tế là tranh chấp về hợp đồng
thương mại và có những đặc điểm như sau:
2. Đặc điểm về tranh chấp hợp đồng mua bán quốc tế.
- Tranh chấp hợp đồng mua bán nói chung và hợp đồng mua bán ngoại
thương nói riêng chủ yếu phát sinh trong giai đoạn thực hiện hợp đồng, bởi
các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng có trụ sở trên lãnh thổ của các quốc gia
khác nhau.
- Về mục đích tranh chấp: Nhằm bảo vệ quyền lợi của bản thân mỗi bên
đã được xác lập trong hợp đồng, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh thu được
hiệu quả cao hơn cũng như bảo vệ uy tín trên thương trường quốc tế.
- Các tranh chấp xảy ra luôn luôn gắn liền với yếu tố tài sản.
- Các tranh chấp xảy ra luôn có nhiều hệ thống pháp luật điều chỉnh do
vậy việc giải quyết tranh chấp cũng như việc chọn hệ thống pháp luật để giải
quyết tranh chấp thường gặp nhiều khó khăn.
II. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG.
Thông thường, các quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ
kinh tế là luôn đối lập nhau vì vậy tranh chấp giữa các bên phát sinh là điều
không thể tránh được. Để đảm bảo được sự công bằng cho các bên đòi hỏi
phải có một tổ chức có đầy đủ phẩm chất cũng như về trình độ chuyên môn
để dung hoà mối bất hoà giữa các bên tạo ra một thương trường ổn định phát
triển.
22
Hầu hết pháp luật của các nước đều ghi nhận các nguyên tắc giải quyết
tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng mua bán nói chung và từ các hợp đồng
ngoại thương nói riêng.
Các hình thức giải quyết tranh chấp chủ yếu được các quốc gia ghi nhận
bao gồm các biện pháp:
- Thương lượng
- Hòa giải
- Thông qua trọng tài.
- Giải quyết tại toà án.
Điều 239 và điều 240 luật thương mại Việt Nam ghi nhận nguyên tắc
giải quyết theo các hình thức giải quyết vì tranh chấp hợp đồng kinh tế bao
gồm các hình thức giải quyết nêu trên. Trừ trường hợp điều ước quốc tế mà
Việt Nam ký kết có quy định khác.
1. Thương lượng trực tiếp giữa các bên
Là việc các bên cùng nhau trao đổi đấu tranh, nhân nhượng và thảo luận
giải quyết tranh chấp.
Thương lượng là hình thức giải quyết hạch tranh chấp không cần đến vai
trò của chủ thể thứ ba. Kết quả thương lượng thường là những cam kết thoả
thuận về những giải pháp nhằm tháo gỡ những bế tắc hoặc bất đồng phát sinh
mà các bên không ý thức được trước. Phương pháp giải quyết này có một số
ưu điểm như sau:
- Khi gặp nhau, các bên có thể bộc lộ được ý định của mình.
- Tiết kiệm được thời gian ít tốt kém có thể giải quyết được linh hoạt
gọn nhẹ, giải toả được tâm lý các bên.
- Giữ được bí mật trong kinh doanh, uy tín trên thương trường quốc tế.
Tuy nhiên sự thành công hay thất bại phụ thuộc vào thiện chí của các bên.
2. Hoà giải
Là hình thức giải quyết tranh chấp giữa các bên trong đó có sự tham gia
của bên thứ ba độc lập do các bên cùng chấp nhận chỉ định làm trung gian
23
hoà giải hỗ trợ các bên tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc giải quyết
tranh chấp.
3. Giải quyết theo thủ tục tư pháp tại toà án.
Giải quyết tranh chấp thông qua thoả thuận giữa các bên và hoà giải đòi
hỏi phải có sự tự nguyện và thiện chí của tất cả các bên và không mang tính
cưỡng chế. Các hình thức trên không mang lại kết quả gì khi đó buộc các bên
phải đưa sự việc ra giải quyết tại toà án hoặc tổ chức trọng tài.
Việc đưa sự việc ra toà án của nước nào giải quyết do các bên thoả
thuận trước trong hợp đồng hoặc thoả thuận khi xảy ra tranh chấp.
Việc giải quyết thông qua toà án thể hiện sự can thiệp sâu rộng của nhà
nước vào quan hệ tranh chấp và phán quyết của toà án có giá trị buộc các bên
phải tuân theo. Hoạt động xét xử của toà án góp phần nâng cao ý thức trách
nhiệm cho các thương nhân tuy nhiên việc giải quyết tại toà án thường làm
mất rất nhiều thời gian của các thương gia làm ảnh hưởng tới tiến độ kinh
doanh đồng thời không đảm bảo được tính bí mật trong kinh doanh do vậy
các bên thường chỉ chọn việc giải quyết thông qua toà án khi các biện pháp
khác không đạt được kết quả gì.
4. Giải quyết theo thủ tục trọng tài.
Đây là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài viên với tư
cách là bên thứ ba độc lập nhằm dung hoà các mâu thuẫn bằng các quyết
định, các phán quyết buộc các bên phải thực hiện.
Đặc điểm nổi bật của phương pháp này là sự kết hợp giữa yếu tố thoả
thuận và tài phán, thoả thuận là tiền đề cho việc đưa ra các phán quyết và
không thể có phán quyết tách rời yếu tố thoả thuận.
Hình thức giải quyết này thể hiện quyền tự quyết, quyền tự định đoạt
của các bên, đồng thời thủ tục gọn nhẹ đơn giản, chi phí về thời gian ít tạo
điều kiện cho các bên đảm bảo được hoạt động kinh doanh ít bị gián đoạn và
các phán quyết của trọng tài mang tính chung thông thường được các bên
chấp nhận nhiều hơn.
Ở Việt Nam hiện nay có trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh
phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế trong đó có tranh chấp về hợp
đồng mua bán ngoại thương.
24
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG.pdf