Tài liệu Luận văn Giải quyết các tranh chấp trong ngoại thương và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Công ty dệt may Hà Nội: 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG…………………
Luận văn
Giải quyết các tranh chấp trong ngoại thương và thực
tiễn giải quyết tranh chấp tại Công ty dệt may Hà Nội
2
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xa xưa việc giao lưu buôn bán giữa các quốc gia, mà sau này được
gọi là hoạt động ngoại thương, đã gắn liền với sự tồn tại và phát triển của
loài người. Hoạt động ngoại thương mở rộng khả năng tiêu dùng của một
nước. Nó cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng
nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong
nước đó nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán. Hơn thế nữa,
thông qua ngoại thương một quốc gia có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng
mình mong muốn mà không cần phải sản xuất mặt hàng đó. Chính vì vậy,
ngoại thương giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Nó thúc đẩy
sự phát triển nền kinh tế của các quốc gia nói riêng và nền kinh tế thế giới
nói chung.
Cùng với quá trình khu vực...
99 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải quyết các tranh chấp trong ngoại thương và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Công ty dệt may Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG…………………
Luận văn
Giải quyết các tranh chấp trong ngoại thương và thực
tiễn giải quyết tranh chấp tại Công ty dệt may Hà Nội
2
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xa xưa việc giao lưu buôn bán giữa các quốc gia, mà sau này được
gọi là hoạt động ngoại thương, đã gắn liền với sự tồn tại và phát triển của
loài người. Hoạt động ngoại thương mở rộng khả năng tiêu dùng của một
nước. Nó cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng
nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong
nước đó nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán. Hơn thế nữa,
thông qua ngoại thương một quốc gia có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng
mình mong muốn mà không cần phải sản xuất mặt hàng đó. Chính vì vậy,
ngoại thương giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Nó thúc đẩy
sự phát triển nền kinh tế của các quốc gia nói riêng và nền kinh tế thế giới
nói chung.
Cùng với quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ
trên khắp thế giới, Việt nam cũng đang trên đà hội nhập kinh tế theo hướng
đa dạng hoá, đa phương hoá theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Hoạt
động ngoại thương của nước ta cũng vì thế mà ngày càng phát triển, đem lại
những lợi ích to lớn cho nền kinh tế nước nhà. Hoạt động buôn bán quốc tế
được tiến hành thông qua việc ký kết và thực hiện các hợp đồng trong ngoại
thương. Khi đàm phán ký kết hợp đồng các bên đều muốn tốt đẹp nhưng do
những khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá, luật pháp…nên tranh chấp là khó
tránh khỏi. Việc giải quyết có hiệu quả các tranh chấp phát sinh luôn là vấn
đề được các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu quan tâm.
3
Với mong muốn giúp cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu và bạn
đọc quan tâm có thêm tài liệu tham khảo về các phương pháp giải quyết
tranh chấp trong ngoại thương cả trên lý thuyết và thực tế, tìm hiểu một số
biện pháp nhằm giúp cho việc giải quyết tranh chấp trong ngoại thương đạt
hiệu quả cao để từ đó rút ra kinh nghiệm cho riêng mình, tôi chọn đề tài:
“Giải quyết các tranh chấp trong ngoại thương và thực tiễn giải quyết tranh
chấp tại Công ty dệt may Hà nội” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt
nghiệp đại học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Khoá luận trước tiên nhằm nghiên cứu một cách tương đối bao quát
các tranh chấp trong ngoại thương và các phương pháp giải quyết
tranh chấp.
- Tiếp đó, khoá luận tìm hiểu thực tiễn giải quyết tranh chấp trong
ngoại thương tại một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, cụ
thể là Công ty dệt may Hà nội.
- Sau khi nghiên cứu lý thuyết và tìm hiểu thực tiễn, khoá luận đề
xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
trong ngoại thương nói chung và ở Công ty dệt may Hà nội nói
riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là các phương pháp giải quyết
tranh chấp trong ngoại thương và thực tiễn ứng dụng các phương pháp này
tại một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Cụ thể, khoá luận nghiên
cứu cách thức áp dụng các phương pháp giải quyết tranh chấp trong ngoại
4
thương và việc áp dụng như thế nào để đem lại hiệu quả cao, từ đó rút ra
phương pháp giải quyết phù hợp cho mỗi một tranh chấp thực tế xảy ra.
Phạm vi khoá luận giới hạn chỉ ở việc nghiên cứu và phân tích các
tranh chấp trong ngoại thương phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế của Công ty dệt may Hà nội trong thời gian vừa qua.
4. Bố cục khoá luận
Khoá luận được kết cấu thành ba chương như sau:
Chương I : Một số vấn đề chung về giải quyết tranh chấp trong ngoại
thương.
Chương II : Thực trạng giải quyết tranh chấp trong ngoại thương tại
Công ty dệt may Hà nội.
Chương III : Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp trong ngoại thương ở Công ty dệt may Hà nội trong thời gian tới.
Mặc dù đã được các thầy cô nhiệt tình hướng dẫn trong quá trình làm
khoá luận, cùng với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân và kiến thức đã được
học, nhưng do hạn chế về thời gian, tài liệu và kinh nghiệm nên khoá luận
khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp từ các độc giả có quan tâm để giúp cho việc tiếp tục nghiên cứu
sau này được tốt hơn.
5
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TRONG NGOẠI THƯƠNG
I/ TRANH CHẤP TRONG NGOẠI THƯƠNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NÓ
1. Nhận xét chung về tranh chấp và tranh chấp trong ngoại thương
Tranh chấp là những xung đột phát sinh từ những mâu thuẫn xảy ra
trong đời sống xã hội.
Trong cuộc sống hàng ngày tranh chấp thường xuyên xảy ra, từ những
mâu thuẫn nhỏ mà các bên có thể tự giải quyết được với nhau đến những
mâu thuẫn lớn phải nhờ đến sự giải quyết của cơ quan có thẩm quyền. Tranh
chấp có thể nảy sinh từ mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó lĩnh vực
thương mại nói chung hay lĩnh vực ngoại thương nói riêng là một trong
những lĩnh vực hay xảy ra tranh chấp nhất và việc giải quyết các tranh chấp
này thường là khó khăn, phức tạp hơn so với các lĩnh vực khác.
Tranh chấp trong ngoại thương là mọi tranh chấp, xung đột phát sinh
giữa các bên trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng trong ngoại thương.
Tranh chấp trong ngoại thương trước hết phát sinh trong quá trình đàm
phán, ký kết hợp đồng ngoại thương. Trong quá trình này các tranh chấp
6
phát sinh chủ yếu là do các bên có cách hiểu, cách quan niệm khác nhau về
khía cạnh pháp lý của việc hình thành một hợp đồng. Hợp đồng trong ngoại
thương mang “tính chất quốc tế” nên nó chịu sự điều chỉnh và chi phối của
rất nhiều nguồn luật: điều ước quốc tế, luật quốc gia, tập quán quốc tế,... Các
nguồn luật khác nhau thường có các qui định không giống nhau về chủ thể
ký kết hợp đồng, hình thức của hợp đồng, trình tự ký kết hợp đồng, nội dung
hợp đồng,…dẫn đến sự hiểu lầm, bất đồng và tranh chấp, làm phát sinh
những xung đột về mặt pháp lý. Ví dụ, Luật Thương mại Việt nam 1997
Điều 49 qui định hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật
qui định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo qui định đó, trong
khi đó luật của Pháp cho phép ký kết hợp đồng bằng miệng. Hay như về nội
dung của hợp đồng thì Luật Thương mại Việt nam 1997 qui định các điều
khoản về tên hàng, số lượng, qui cách chất lượng, giá cả, phương thức thanh
toán, địa điểm và thời hạn giao nhận hàng là các điều khoản chủ yếu của hợp
đồng mua bán hàng hoá. Theo luật Pháp thì điều khoản chủ yếu chỉ bao gồm
tên hàng, số lượng, qui cách chất lượng, giá cả và phương thức thanh
toán.v.v…
Bên cạnh đó, tranh chấp trong ngoại thương còn phát sinh trong quá
trình thực hiện hợp đồng ngoại thương. Hợp đồng sau khi được ký kết là cơ
sở pháp lý qui định quyền và nghĩa vụ của các bên. Bản chất của hợp đồng
là đem lại lợi ích cho tất cả các chủ thể tham gia. Song quyền lợi của các bên
chỉ được đảm bảo trong chừng mực mà nghĩa vụ của các bên qui định trong
hợp đồng phải được thực hiện đầy đủ và chính xác. Tuy quan hệ hợp đồng là
quan hệ “hai bên cùng có lợi” nhưng do quyền lợi của các bên lại khác nhau
nên việc một trong các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ của mình tất yếu làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên kia. Khi
quyền lợi của các bên không được đảm bảo thì tranh chấp phát sinh là điều
7
không thể tránh khỏi. Ví dụ, trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán
ngoại thương, khi người bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng hay người mua vi
phạm nghĩa vụ trả tiền hàng thì đều ảnh hưởng đến quyền lợi của bên kia và
dẫn đến tranh chấp xảy ra. Như vậy, sự khác nhau về quyền lợi của các bên
trong quá trình thực hiện hợp đồng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tranh
chấp.
2. Đặc điểm của tranh chấp trong ngoại thương
Vì tranh chấp trong ngoại thương cũng là một tranh chấp nên tranh
chấp trong ngoại thương có những đặc điểm của một tranh chấp thông
thường. Tranh chấp trong ngoại thương cũng có ít nhất là hai bên tranh chấp,
có đối tượng tranh chấp, có nội dung tranh chấp, tranh chấp có thể được giải
quyết giữa các bên với nhau hoặc do một cơ quan có thẩm quyền giải
quyết…
Bên cạnh đó, tranh chấp trong ngoại thương còn mang một số đặc điểm
của hợp đồng mua bán ngoại thương do chúng cùng liên quan và có ảnh
hưởng quan trọng đến hoạt động ngoại thương. Các đặc điểm đó như sau:
Thứ nhất, tranh chấp trong ngoại thương có yếu tố quốc tế. Yếu tố quốc
tế của tranh chấp trong ngoại thương thể hiện ở chỗ các bên tranh chấp có
trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau.
Thứ hai, tranh chấp trong ngoại thương mang tính thương mại. Tất cả
các tranh chấp trong ngoại thương đều có liên quan trực tiếp hay gián tiếp
đến hoạt động buôn bán, cụ thể là hoạt động buôn bán với nước ngoài.
Thứ ba, cơ quan giải quyết tranh chấp trong ngoại thương là toà án hay
trọng tài của một nước nào đó được coi là toà án hay trọng tài nước ngoài.
Thứ tư, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp trong ngoại thương là luật
nước ngoài đối với ít nhất là một trong các bên hoặc với tất cả các bên.
8
Thứ năm, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp trong ngoại thương rất
đa dạng và phức tạp: luật quốc gia, luật quốc tế, tập quán quốc tế và các án
lệ. Các bên có thể thoả thuận lựa chọn nguồn luật thích hợp để áp dụng trong
việc giải quyết tranh chấp trong hợp đồng ngoại thương hoặc thoả thuận sau
khi ký kết hợp đồng. Việc áp dụng nguồn luật nào cũng có thể do pháp luật
qui định.
II/ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG NGOẠI THƯƠNG
1. Nhận xét chung
Bất kỳ một hợp đồng nào trong lĩnh vực ngoại thương nếu được các bên
đương sự thực hiện đúng thì không xảy ra tranh chấp và do đó cũng không
cần việc giải quyết tranh chấp. Nhưng trong thực tế sự tranh chấp gần như là
một người bạn đồng hành với hoạt động ngoại thương. Khi tham gia vào hợp
đồng mua bán ngoại thương các bên đều không muốn tranh chấp phát sinh,
nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan mà tiêu biểu
nhất là sự đối lập quyền lợi giữa các bên, tranh chấp vẫn thường xảy ra. Có
tranh chấp phát sinh cũng có nghĩa là tranh chấp đó phải được giải quyết
thoả đáng. Như vậy, giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là khâu
cuối cùng không thể thiếu được của cả một quá trình ký kết và thực hiện hợp
đồng trong ngoại thương.
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, việc giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong ngoại thương thường được tiến hành theo hai phương pháp và
cũng là hai giai đoạn, đó là khiếu nại và đi kiện.
Khiếu nại là biện pháp thường được sử dụng trước tiên đem lại hiệu quả
cao đồng thời tạo thuận lợi cho các bên trong việc giải quyết tranh chấp. Khi
9
tranh chấp không thể giải quyết được bằng khiếu nại, bên bị vi phạm mới
nên đi kiện. Việc đi kiện có thể đưa ra toà án hoặc trọng tài tuỳ theo qui định
trong hợp đồng, theo luật định hay theo sự thoả thuận của hai bên. Biện pháp
này có hiệu lực thi hành cao hơn nhưng lại tốn kém thời gian, tiền bạc và dễ
làm xấu đi mối quan hệ buôn bán của các bên. Tuy nhiên, nhiều khi để bảo
vệ quyền lợi của mình, việc đi kiện với bên bị vi phạm là cần thiết.
2. Giải quyết tranh chấp trong ngoại thương bằng khiếu nại và đặc
điểm
2.1. Khái niệm
Khiếu nại là việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên có liên
quan bằng con đường thương lượng và đàm phán trực tiếp giữa hai bên và
nếu thương lượng có kết quả thì tranh chấp được giải quyết tốt đẹp.
Đối với tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp
đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, khiếu nại là bắt buộc nếu điều đó
được qui định cụ thể trong hợp đồng hoặc trong luật áp dụng cho hợp đồng.
Khi hợp đồng hoặc luật áp dụng cho hợp đồng không có qui định gì về khiếu
nại thì khiếu nại không phải là bắt buộc, bên có quyền lợi bị vi phạm có thể
bỏ qua bước khiếu nại mà đi kiện ngay.
Đối với tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyên chở hàng hoá bằng
đường biển thì điều ước quốc tế và luật liên quan của các nước không qui
định bắt buộc phải khiếu nại rồi mới đi kiện, mà có thể đi kiện ngay ra toà án
hoặc trọng tài thương mại. Tuy vậy, trong thực tế các bên đương sự thường
tiến hành khiếu nại nhau trước, rồi sau đó mới đi kiện nếu như khiếu nại
không được thoả mãn. Sở dĩ trước hết cần phải tiến hành khiếu nại chứ chưa
đi kiện ngay vì các bên đương sự là những người hiểu rõ tranh chấp cho nên
10
dễ dàng nhân nhượng với nhau, rút ngắn được thời gian giải quyết tranh
chấp, không bị đọng vốn và lệ phí giải quyết tranh chấp đỡ tốn kém.
Mặc dù khiếu nại có thể là bắt buộc hoặc không bắt buộc tuỳ theo qui
định trong hợp đồng hoặc trong luật áp dụng cho hợp đồng và khi hợp đồng
hoặc trong luật áp dụng cho hợp đồng không có qui định gì về khiếu nại thì
khiếu nại không phải là bắt buộc, bên có quyền lợi bị vi phạm có thể bỏ qua
bước khiếu nại mà đi kiện ngay, nhưng trước tiên các bên tranh chấp nên
giải quyết tranh chấp phát sinh trong ngoại thương bằng khiếu nại. Luật
pháp nhiều nước qui định khiếu nại là phương thức bắt buộc đầu tiên để giải
quyết tranh chấp. Cụ thể, khoản 1 điều 239 Luật thương mại Việt nam 1997
đã qui định : “Tranh chấp thương mại trước hết phải được giải quyết thông
qua thương lượng giữa các bên”. Khi đó, khiếu nại là cơ sở pháp lý để giải
quyết tranh chấp ở các mức cao hơn là Toà án và Trọng tài.
Khiếu nại là một khâu rất quan trọng trong hoạt động ngoại thương cho
nên người làm công tác xuất nhập khẩu cần nắm vững kiến thức về nghiệp
vụ ngoại thương cũng như kiến thức pháp lý về khiếu nại.
Trong hoạt động thương mại và hàng hải quốc tế, khiếu nại liên quan
đến nhiều bên như người bán, người mua, người chuyên chở, người thuê
chở, người gửi hàng, người nhận hàng, người uỷ thác, người nhận uỷ thác,
người bảo hiểm v.v… Song khiếu nại người bán hàng, người chuyên chở
hàng hoá bằng đường biển, người bảo hiểm hàng hoá là những trường hợp
hay xảy ra nhất.
2.2. Đặc điểm
Để có thể tiến hành giải quyết thành công tranh chấp trong ngoại thương
bằng phương pháp khiếu nại các bên cần tuân thủ chặt chẽ thời hạn khiếu nại
và thủ tục khiếu nại.
11
a) Thời hạn khiếu nại
Thời hạn khiếu nại là một khoảng thời gian nhất định cho phép các bên
tiến hành giải quyết tranh chấp với nhau bằng con đường khiếu nại.
Thời hạn khiếu nại được chia làm hai loại: thời hạn khiếu nại theo luật
định và thời hạn khiếu nại qui ước.
Thời hạn khiếu nại theo luật định là thời hạn khiếu nại được qui định
trong luật mà các bên đương sự phải tuân theo, không được làm khác đi.
Thời hạn khiếu nại được qui định trong điều ước quốc tế về hợp đồng mua
bán ngoại thương là thời hạn khiếu nại luật định. Ví dụ, Điều 49 Công ước
La Hay 1964 về mua bán quốc tế những động sản hữu hình qui định thời hạn
khiếu nại về phẩm chất hàng hoá là 1 năm kể từ lúc người mua thông báo
cho người bán biết về hàng không phù hợp. Hay như Điều 39 Công ước
Viên của Liên hợp quốc về mua bán quốc tế hàng hoá thời hạn khiếu nại về
hàng không phù hợp là 2 năm kể từ ngày hàng đã thực sự được giao cho
người mua.
Thời hạn khiếu nại qui ước là thời hạn khiếu nại do các bên qui định
trong hợp đồng. Việc qui định thời hạn khiếu nại ngắn hay dài do các bên tự
thoả thuận quyết định. Thông thường, thời hạn khiếu nại qui ước ngắn hơn
thời hạn khiếu nại luật định, thậm chí là rất ngắn. Chẳng hạn, hợp đồng mẫu
của tập đoàn mua bán gỗ thông Bắc Âu qui định thời hạn khiếu nại chỉ là 7
ngày.
Luật Thương mại Việt nam 1997 đề cập đến cả thời hạn khiếu nại luật
định và thời hạn khiếu nại qui ước. Điều 241 khoản 2 Luật Thương mại Việt
nam qui định thời hạn khiếu nại do các bên thoả thuận trong hợp đồng, trong
trường hợp không có thoả thuận thì thời hạn khiếu nại được qui định như
sau:
12
- Ba tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về số lượng hàng hoá;
- Sáu tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về qui cách, chất
lượng hàng hoá; trong trường hợp hàng hoá có bảo hành thì thời hạn
khiếu nại là ba tháng kể từ ngày hết thời hạn bảo hành;
- Ba tháng kể từ khi bên vi phạm theo hợp đồng đối với khiếu nại về các
hành vi thương mại khác.
Khi qui định thời hạn khiếu nại cần xác định vị trí của mình, có ưu thế
hay không; cần căn cứ vào tính chất, đặc điểm của hàng hoá, căn cứ vào
khoảng cách xa gần giữa người bán và người mua, mức độ hiện đại của
phương tiện giao thông,…để qui định là dài hay ngắn.
Trong trường hợp cả hợp đồng lẫn luật áp dụng cho hợp đồng đều
không qui định gì về thời hạn khiếu nại thì thông thường đó là một khoảng
thời gian hợp lý kể từ ngày bên bị vi phạm biết được hoặc đáng lẽ ra phải
biết được quyền lợi của mình bị vi phạm. Do vậy, trong trường hợp này khi
phát hiện ra quyền lợi của mình bị vi phạm, bên bị vi phạm phải nhanh
chóng lập bộ hồ sơ khiếu nại để gửi đi trong thời gian nhanh nhất và hợp lý.
Các bên tranh chấp cần phải đặc biệt chú ý tới thời hạn khiếu nại. Nếu
bên bị vi phạm bỏ lỡ thời hạn khiếu nại thì sẽ mất quyền khiếu nại và hoặc
mất quyền đi kiện, quyền thắng kiện, còn bên vi phạm có quyền bác khiếu
nại nếu thấy thời hạn khiếu nại đã hết.
Để thấy rõ tác hại của việc bỏ lỡ thời hạn khiếu nại chúng ta xem xét ví
dụ sau:
Một công ty của Việt nam mua bông của một công ty của Xuđăng.
Hợp đồng qui định một số nội dung chính như sau:
- Số lượng: 650 MT bông cấp 4 và 3249 MT bông cấp 6
- Thời hạn giao hàng: tháng 11 và 12 năm 1978
13
- Thời hạn khiếu nại: 30 ngày sau khi dỡ hàng đối với khuyết tật rõ rệt
và 90 ngàyđối với khuyết tật không rõ rệt.
Quá trình thực hiện hợp đồng diễn ra như sau:
+ Ngày 29/01/1979, tàu đến cảng Việt nam.
+ Ngày 05/02/1979, phía Việt nam yêu cầu Vinacontrol giám định hàng.
+ Ngày 24/02/1979, bên Việt nam nhận được biên bản giám định của
Vinacontrol và gửi thư nhắc nhở phía Xuđăng về phẩm chất hàng, đề
nghị tránh lặp lại chuyến sau.
+ Ngày 01/03/1979, bên Việt nam gửi thư cho phía Xuđăng tiếp tục
phàn nàn về phẩm chất hàng.
+ Ngày 12/03/1979, bên Việt nam gửi cho phía Xuđăng biên bản giám
định do Vinacontrol cấp.
+ Ngày 08/05/1979, phía Việt nam khiếu nại đòi giảm giá với số tiền là
732.250 USD.
Kết quả: phía Xuđăng từ chối đơn khiếu nại. Lý do là đối với bông các
khuyết tật về màu sắc, tạp chất, độ ẩm là khuyết tật rõ rệt. Theo như qui định
về thời hạn khiếu nại đối với khuyết tật rõ rệt trong hợp đồng thì trong vòng
30 ngày sau khi dỡ hàng (07/02/1979) người mua phải gửi cho người bán bộ
hồ sơ khiếu nại hợp lệ. Nhưng mãi đến ngày 08/05/1979, khi đã hết thời hạn
khiếu nại, người mua mới gửi đơn khiếu nại. Do đó, yêu sách của người mua
đã bị từ chối. Qua vụ việc trên ta thấy việc tuân thủ thời hạn khiếu nại là vô
cùng quan trọng. Bỏ lỡ thời hạn này, bên Việt nam đã phải gánh chịu thiệt
hại, mặc dù bên nước ngoài vi phạm điều kiện về chất lượng hàng.
b) Thủ tục khiếu nại
Việc giải quyết tranh chấp trong ngoại thương bằng phương pháp khiếu
nại muốn đạt được hiệu quả cao thì người khiếu nại cũng phải tuân thủ thủ
14
tục khiếu nại.Thủ tục khiếu nại là bên khiếu nại phải gửi cho bên bị khiếu
nại một bộ hồ sơ khiếu nại đầy đủ và hợp lệ. Bên bị khiếu nại sẽ xem xét,
nghiên cứu rồi trả lời có thoả mãn yêu cầu của bên khiếu nại không.
Bộ hồ sơ khiếu nại mà bên khiếu nại gửi cho bên bị khiếu nại bao gồm:
đơn khiếu nại và các chứng từ kèm theo.
Đơn khiếu nại được lập bởi người khiếu nại. Đơn khiếu nại phải hợp lệ.
Tính hợp lệ được thể hiện ở những điểm sau:
+ Về hình thức: Đơn khiếu nại phải được làm thành văn bản, ghi rõ tiêu
đề là “Đơn khiếu nại” và nêu rõ tên, địa chỉ đầy đủ của người khiếu nại
và người bị khiếu nại.
+ Về nội dung: Đơn khiếu nại phải nêu rõ nội dung khiếu nại, tức là
người khiếu nại khiếu nại ai (tên, địa chỉ, số tài khoản,…), khiếu nại về
vấn đề gì. Một điều quan trọng là trong đơn người khiếu nại phải nêu ra
yêu sách cụ thể đối với người bị khiếu nại. Ở đây, người khiếu nại tính
toán và phải nêu rõ các chi phí, thiệt hại…cần được bồi thường. Nội
dung này rất cần thiết vì nó là cơ sở để người bị khiếu nại xem xét xem
có nên thoả mãn yêu sách của người khiếu nại hay không, và nó cũng là
cơ sở để người khiếu nại có thể đòi được các chi phí, thiệt hại…mà
mình phải gánh chịu.
Ngoài những yêu cầu như trên, đơn khiếu nại hợp lệ cũng cần phải rõ
ràng, ngắn gọn, lịch sự trong cách sử dụng ngôn ngữ giao tiếp, lời lẽ trong
đơn hợp tình, hợp lý và có sức thuyết phục cao thì việc khiếu nại mới có thể
thành công.
Các chứng từ kèm theo có vai trò rất quan trọng trong quá trình khiếu
nại. Các chứng từ này là toàn bộ các thư từ, điện tín trao đổi giữa các bên từ
khi kí kết, thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương cho đến khi phát sinh
và giải quyết tranh chấp để làm bằng chứng cho việc khiếu nại. Trong mỗi
15
một trường hợp khác nhau, bộ hồ sơ khiếu nại bao gồm các chứng từ khác
nhau, nhưng thông thường bao giờ cũng có:
- Hợp đồng mua bán ngoại thương và các văn bản sửa đổi, bổ xung
hợp đồng.
Chứng từ này là cơ sở để xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên,
do đó cũng là cơ sở để xác định mức độ vi phạm hợp đồng của các bên.
- Thư tín dụng L/C và các văn bản sửa đổi, bổ xung L/C.
Khi hợp đồng qui định thanh toán bằng thư tín dụng thì việc nộp L/C
trong bộ hồ sơ khiếu nại là cần thiết. Nếu người mua là người khiếu nại,
bộ hồ sơ khiếu nại có L/C chứng tỏ người mua đã sẵn sàng thanh toán
mà người bán không thực hiện nghĩa vụ thì lỗi là ở người bán. Còn nếu
người mua mở L/C không phù hợp với hợp đồng thì khi người bán
khiếu nại người bán sẽ nộp L/C trong bộ hồ sơ khiếu nại để chứng minh
việc mở L/C sai với hợp đồng.
- Vận đơn.
Có thể là vận đơn đường biển (Bill of lading), vận đơn đường sắt
(Railway bill), vận đơn hàng không (Airway bill)… tuỳ theo hàng hoá
được chuyên chở bằng phương tiện gì. Vận đơn phản ánh tình trạng bên
ngoài của hàng hoá khi được giao cho người chuyên chở và số, trọng
lượng hàng được giao, ngày giao hàng... Trên vận đơn có ghi chi tiết về
việc giao hàng là cơ sở để so sánh và xác nhận thực tế giao hàng so với
hợp đồng. Các bên có thể dùng vận đơn để làm căn cứ khiếu nại những
người có liên quan nếu tranh chấp có liên quan đến việc giao hàng.
- Biên bản giám định phẩm chất và số, trọng lượng.
Biên bản giám định là văn bản, chứng từ do người mua lập ra ở bến
đến. Biên bản giám định phẩm chất và số, trọng lượng có ghi những kết
luận của cơ quan giám định có thẩm quyền về chất lượng, số, trọng
16
lượng hàng hoá thực tế đã giao. Trong trường hợp kết quả giám định
không phù hợp với hợp đồng thì người mua có quyền dựa vào đó để
khiếu nại người bán về việc giao hàng không phù hợp về chất lượng, số,
trọng lượng. Tuy nhiên, các bên cần chú ý đến giá trị pháp lý của biên
bản giám định. Về tính chất pháp lý có 2 loại biên bản giám định: biên
bản giám định có tính quyết định và biên bản giám định không có tính
quyết định. Chỉ có biên bản giám định có tính quyết định mới có thể
ràng buộc các bên một cách chặt chẽ. Các biên bản giám định khác rất
dễ bị phía bên kia bác bỏ.
Ngoài ra, trong bộ hồ sơ khiếu nại còn có thể bao gồm các thư từ giao
dịch qua lại giữa các bên mua và bán.
Tuy nhiên, các tranh chấp trong ngoại thương thường rất phức tạp và đa
dạng, do đó tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các bên lựa có thể thêm hay bớt
các chứng từ để lập bộ hồ sơ khiếu nại phù hợp.
2.3. Ưu điểm và của giải quyết tranh chấp bằng khiếu nại
Giải quyết tranh chấp bằng con đường khiếu nại thường đem lại hiệu
quả rất cao và có nhiều ưu điểm vì những lý do sau:
- Phương pháp này thể hiện thái độ tôn trọng của bên bị vi phạm đối
với bên vi phạm nên bên vi phạm cũng sẽ phải suy nghĩ và cố gắng
giải quyết tranh chấp một cách hợp tình hợp lý nhất.
- Hai bên hiểu rõ nội dung sự việc, nội dung tranh chấp nên dễ có thể
đạt được sự thống nhất nếu như cả hai bên đều thiện chí.
- Vì giải quyết tranh chấp bằng khiếu nại thì chỉ có các bên tranh chấp
với nhau nên những thông tin cần thiết và bí mật không bị lộ ra bên
ngoài và giữ được uy tín của các bên trong hoạt động kinh doanh lâu
dài.
17
- Tiết kiệm được thời gian và chi phí. Khiếu nại giữa hai bên không
bắt buộc phải tuân theo thủ tục tố tụng nào nên tranh chấp có thể
được giải quyết nhanh chóng. Hơn nữa, không phải trả tiền công cho
hoà giải viên, không mất phí trọng tài, án phí cho nên chi phí bỏ ra là
ít nhất.
- Sau khi tranh chấp được giải quyết ổn thoả bằng khiếu nại, các bên
thường vẫn giữ được mối quan hệ buôn bán với nhau còn nếu như đã
đi kiện ra toà án hoặc trọng tài thì mối quan hệ này thường là chấm
dứt, các bên mất hẳn một đối tác làm ăn.
Nhìn chung, phương pháp giải quyết tranh chấp bằng khiếu nại là
phương pháp tối ưu thường được áp dụng. Tuy nhiên, dù bên vi phạm chấp
nhận khiếu nại và chấp nhận nộp phạt hoặc bồi thường thiệt hại cho bên bị vi
phạm thì việc thực hiện nghĩa vụ của bên vi phạm là hoàn toàn trên cơ sở tự
nguyện không mang tính cưỡng chế, bên bị vi phạm không thể ép buộc
được. Nếu bên vi phạm không thực hiện thì khiếu nại là không thành công.
Hơn nữa, trong thực tế buôn bán quốc tế không phải lúc nào các bên cũng
sẵn sàng nhân nhượng với nhau để giải quyết tranh chấp bằng con đường
khiếu nại vì bản chất của tranh chấp là sự vi phạm quyền lợi của nhau. Do
vậy, để giải quyết tranh chấp các bên có khi phải tiến hành việc tố tụng. Đối
với các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại thương các bên có
thể đi kiện ra toà án hoặc trọng tài. Vì vậy, chúng ta sẽ tiếp tục tiến hành
nghiên cứu các phương pháp giải quyết tranh chấp trong ngoại thương là
việc đi kiện ra toà án hoặc trọng tài.
3. Giải quyết tranh chấp trong ngoại thương bằng Toà án và đặc
điểm
18
3.1. Khái niệm
Giải quyết tranh chấp bằng toà án là việc giải quyết tranh chấp phát sinh
giữa các bên bởi một cơ quan tư pháp gọi là toà án.
Toà án là cơ quan tư pháp của một nước được thành lập ra để xét xử các
tranh chấp giữa các công dân, pháp nhân của nước đó. Song toà án cũng có
thể xét xử tranh chấp phát sinh trong ngoại thương. Ở các nước tư bản chủ
nghĩa, toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong ngoại
thương thường được gọi là toà án thương mại, còn ở các nước xã hội chủ
nghĩa trong đó có Việt nam, toà án kinh tế (nằm trong hệ thống Toà án nhân
dân tối cao) là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong ngoại
thương.
Toà án kinh tế Việt nam được thành lập ngày 1/7/1994 sau khi kì họp
thứ tư Quốc hội khoá IX thông qua Luật sửa đổi bổ xung Luật tổ chức Toà
án nhân dân với phần sửa đổi chủ yếu là các điều kiện có liên quan đến việc
thành lập Toà án kinh tế, tổ chức và thẩm quyền của Toà án kinh tế nhân dân
trong việc giải quyết các vụ án kinh tế. Toà án kinh tế được tổ chức thành
các toà chuyên trách nằm trong hệ thống Toà án nhân dân cấp tỉnh trở lên.
Doanh nghiệp Việt nam có thể thoả thuận với bên nước ngoài đưa tranh
chấp ra xét xử tại Toà án kinh tế Việt nam.
3.2. Đặc điểm
a) Thẩm quyền xét xử
Toà án của bất kì nước nào cũng không có thẩm quyền đương nhiên đối
với các tranh chấp phát sinh trong ngoại thương. Toà án chỉ có thẩm quyền
xét xử khi các bên đương sự thoả thuận thống nhất giao tranh chấp cho xét
xử. Các bên đương sự chỉ được thoả thuận giao tranh chấp cho toà án xét xử
19
bằng một điều khoản của hợp đồng (hoặc bằng một văn bản riêng) khi trong
điều ước quốc tế có liên quan không qui định giao tranh chấp cho trọng tài
giải quyết. Mặt khác, thẩm quyền xét xử của toà án đối với các tranh chấp
trong ngoại thương cũng có thể được qui định trong điều ước quốc tế. Do
vậy, muốn biết kiện tới toà án của nước nào phải căn cứ vào hợp đồng, văn
bản thoả thuận giữa hai bên, vào điều ước quốc tế đang có hiệu lực trong
quan hệ giữa hai nước tương ứng.
Khi toà án nhận được đơn kiện thì cần phải dựa trên đơn kiện xem xét
mình có thẩm quyền xét xử không. Trong các tranh chấp thương mại thuộc
thẩm quyền xét xử của toà kinh tế, chỉ có toà án cấp tỉnh hoặc thành phố
trực thuộc trung ương mới có thẩm quyền giải quyết tranh chấp có nhân tố
nước ngoài, nhưng phải ở nơi bị đơn cư trú hoặc nơi có bất động sản (nếu là
tranh chấp bất động sản) hoặc nơi bị đơn có tài sản hoặc đóng trụ sở chính.
Ở Việt nam, theo Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
(16/3/1994), toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế sau đây:
- Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân,
giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh;
- Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến thành lập, hoạt động,
giải thể công ty;
- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu;
- Các tranh chấp kinh tế khác theo qui định của pháp luật.
Luật Thương mại Việt nam qui định ở Điều 240 rằng: “Đối với các
tranh chấp thương mại với thương nhân nước ngoài, nếu các bên không thoả
thuận hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam ký kết
hoặc tham gia không có qui định thì tranh chấp được giải quyết tại Toà án
Việt nam”.
20
Như vậy, toà án Việt nam có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong ngoại thương khi điều này được qui định trong hợp đồng, trong
văn bản thoả thuận giữa các bên hoặc trong pháp luật có liên quan.
b) Hồ sơ kiện ra toà án
Toà án của bất kỳ nước nào cũng chỉ tuân thủ luật tố tụng của nước
mình, nghĩa là nhận đơn kiện, chuẩn bị xét xử, tiến hành xét xử theo đúng
luật tố tụng của nước toà án. Còn khi giải quyết tranh chấp toà án phải áp
dụng luật thực chất điều chỉnh hợp đồng.
Toà án Việt nam không phải là trường hợp ngoại lệ. Chẳng hạn, bên Việt
nam và bên Nhật bản ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương có điều khoản
về luật điều chỉnh là luật Nhật bản. Khi tranh chấp phát sinh, hai bên thống
nhất đưa tranh chấp ra xét xử tại Toà án Việt nam thì Toà án Việt nam sẽ
tuân thủ luật tố tụng của Việt nam trong việc nhận đơn kiện, chuẩn bị xét xử,
tiến hành xét xử và Toà án Việt nam sẽ tuân thủ luật Nhật bản để thực hiện
việc xét xử, bởi vì ở đây luật Nhật bản là thực chất điều chỉnh HĐMBNT ký
kết giữa bên Việt nam và bên Nhật bản.
Hồ sơ kiện tới toà án gồm đơn kiện và các chứng từ làm bằng chứng.
Đơn kiện phải được làm bằng văn bản. Nội dung của đơn kiện thường
theo đúng qui định của luật tố tụng nước toà án. Nhìn chung, đơn kiện phải
bao gồm: tên, địa chỉ của toà án, tên, địa chỉ đầy đủ của bên đi kiện và bên bị
kiện, trình bày nội dung kiện, căn cứ pháp lý của vụ kiện, trị giá vụ kiện và
yêu cầu của bên đi kiện đề nghị giải quyết.
Chẳng hạn, đơn yêu cầu Toà án Trọng tài Quốc tế của Phòng Thương
mại Quốc tế gồm các chi tiết:
+ Họ tên đầy đủ, địa chỉ, nghề nghiệp của bên nguyên và bên bị. Nội
dung tranh chấp.
21
+ Hợp đồng và các văn bản thoả thuận giữa hai bên, đặc biệt là thoả
thuận về trọng tài, các tài liệu xác lập rõ ràng, chi tiết vụ tranh chấp.
+ Tài liệu liên quan đến số lượng trọng tài viên và lựa chọn trọng tài
viên.
Đơn kiện ra toà án theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
ngày 16/3/1994 (khoản 2 điều 31) phải có các nội dung sau đây:
+ Ngày, tháng, năm viết đơn;
+ Toà án được yêu cầu giải quyết vu án;
+ Tên của nguyên đơn, bị đơn;
+ Địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn; trong trường hợp không có địa chỉ
của bị đơn thì ghi địa chỉ nơi có trụ sở hoặc cư trú cuối cùng của bị đơn;
+ Tóm tắt nội dung tranh chấp, giá trị tranh chấp;
+ Quá trình thương lượng của các bên;
+ Các yêu cầu đề nghị toà án xem xét, giải quyết.
Ngoài đơn kiện, bộ hồ sơ kiện tới toà án còn có các chứng từ làm bằng
bị đơn chứng. Các chứng từ làm bằng chứng kèm theo đơn kiện bao gồm
toàn bộ các chứng từ có trong bộ hồ sơ khiếu nại, ngoài ra còn có thêm thư
từ, điện tín trao đổi giữa hai bên trong quá trình giải quyết khiếu nại giữa các
bên nhưng không đạt kết quả, các bằng chứng mới mà lúc khiếu nại chưa
tìm ra… Khi thiếu các chứng từ làm bằng chứng thì bộ hồ sơ kiện vẫn có thể
hợp lệ (toà án vẫn thụ lý) nếu đơn kiện hợp lệ nhưng đơn kiện sẽ bị bác toàn
bộ hoặc một phần do thiếu các chứng từ làm bằng chứng. Do vậy, việc
chuẩn bị và nộp đầy đủ các chứng từ làm bằng chứng đi kèm theo đơn kiện
khi đi kiện là một nhân tố quan trọng giúp cho việc đi kiện thành công.
Pháp luật qui định người đi kiện có quyền bổ sung các bằng chứng và
người bị kiện cũng có quyền cung cấp các bằng chứng bổ sung để bác lại.
Toà án không có nghĩa vụ phải thông báo cho các bên nếu thiếu chứng từ.
22
Ngoài ra, toà án có quyền điều tra, xác minh các chứng từ trong quá trình xét
xử.
Muốn được thụ lý đơn kiện để đưa ra xét xử, nguyên đơn phải nộp một
số tiền nhất định gọi là chi phí hành chính. Chẳng hạn, Toà án trọng tài quốc
tế của Phòng thương mại quốc tế khi nhận hồ sơ kiện thu 2000 USD trả
trước chi phí hành chính.
c) Thời hiệu khởi kiện
Người đi kiện phải tuân thủ đúng thời hiệu khởi kiện. Thời hiệu khởi
kiện (hay còn gọi là thời hiệu tố tụng) là khoảng thời gian do pháp luật qui
định cho bên có quyền lợi bị vi phạm đi kiện ra toà án, nếu bỏ qua thời hiệu
khởi kiện mới đi kiện thì đơn kiện sẽ bị bác.
Thời hiệu khởi kiện được qui định trong điều ước quốc tế. Chẳng hạn,
theo Điều 20 Công ước Hamburg 1978, thời hiệu khởi kiện người chuyên
chở là 2 năm kể từ ngày đã giao toàn bộ hàng cho người nhận hàng.
Thời hiệu khởi kiện cũng được qui định trong luật quốc gia của các
nước. Ví dụ, Luật hàng hải Việt nam 1990 qui định thời hiệu khởi kiện đối
với Công ty bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm hàng hoá là 2 năm kể từ ngày
phát sinh vụ việc (Điều 209), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
năm 1994 qui định thời hiệu khởi kiện là 6 tháng kể từ ngày phát sinh tranh
chấp, trừ trường hợp có qui định khác (Điều 31).
Như vậy, nếu hợp đồng không do điều ước quốc tế điều chỉnh thì bên đi
kiện phải tuân thủ đúng thời hiệu khởi kiện được qui định trong luật của
nước đó.
d) Nguyên tắc xét xử
Toà án xét xử theo những nguyên tắc sau:
Toà án chỉ tuân theo pháp luật và sẽ không bị ảnh hưởng cũng như không
có sự can thiệp của bất cứ cơ quan nào.
23
Toà án xét xử công khai, trừ khi vì những bí mật của quốc gia hay an
ninh của đất nước mà phải xét xử bí mật.
Toà án luôn giữ vững quan điểm, đường lối của giai cấp thống trị.
Trên cơ sở những nguyên tắc xét xử chung của toà án, Toà án Việt nam
cũng có những nguyên tắc xét xử của riêng mình:
Nguyên tắc tự định đoạt : Các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh
tế ngoại thương chỉ có thể đưa ra giải quyết tại toà án khi có yêu cầu của các
bên đương sự. Các bên đương sự có quyền quyết định có đưa vụ việc ra toà
án để giải quyết hay không sau khi các bên không thể hoà giải, thương lượng
với nhau được hoặc các bên không thoả thuận trước sẽ giải quyết theo thủ
tục trọng tài. Nguyên tắc tự định đoạt này còn được thể hiện ở việc khi đã
lựa chọn toà án là nơi giải quyết tranh chấp thì các bên vẫn có quyền rút đơn
kiện hoặc thay đổi nội dung đơn kiện. Sau khi đã nộp đơn mà các bên có thể
tự hoà giải thì cũng được toà án công nhận. Ngoài ra, các bên tranh chấp có
quyền tự định đoạt về hình thức tài phán để giải quyết tranh chấp của mình.
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật : trong quá trình giải quyết
tranh chấp các bên đương sự có quyền và nghĩa vụ như nhau trước toà án
không phân biệt đương sự có quốc tịch nước ngoài hay quốc tịch Việt nam.
Quyền và lợi ích hợp pháp của các bên sẽ được bảo vệ chính đáng. Bên vi
phạm nghĩa vụ sẽ bị áp dụng các biện pháp chế tài phù hợp. Khi tham gia
quan hệ tố tụng trước toà án để giải quyết tranh chấp quyền và nghĩa vụ của
các bên là bình đẳng.
Nguyên tắc tự hoà giải : nội dung của nguyên tắc này là trước khi đưa
tranh chấp ra toà án xét xử các bên phải hoà giải, thương lượng với nhau để
giải quyết tranh chấp theo nguyện vọng chính đáng của các bên. Khi đã đưa
tranh chấp ra toà án các bên vẫn phải hoà giải, thương lượng dưới sự công
24
nhận, hướng dẫn của toà án. Biên bản hoà giải thành công có giá trị pháp lý
như biên bản xét xử của toà và buộc các bên phải thực hiện.
Nguyên tắc toà án không tiến hành điều tra mà chỉ thu thập và xác
minh chứng cứ : toà án ra phán quyết trên cơ sở các chứng cứ mà các bên
đương sự đưa ra. Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ này để
chứng minh và bảo vệ quyền lợi của mình. Toà án không tiến hành điều tra
để xác minh các tình tiết, sự thật của vụ tranh chấp mà chỉ thông qua các
biện pháp nghiệp vụ như nghe các bên trình bày, xem xét các chứng cứ, tiến
hành tranh luận…để đánh giá, kết luận và đưa ra phán quyết.
Nguyên tắc xét xử công khai : mọi tranh chấp được xét xử công khai ,
trừ khi luật pháp cho phép, toà án sẽ xét xử kín. Toà án có thể được xét xử
kín đối với các vụ tranh chấp liên quan đến bí mật của các quốc gia hay bí
mật của các bên đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ. Bí mật của các
quốc gia có thể là các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, liên quan đến
việc duy trì nền kinh tế, hay chiến lược phát triển kinh tế của các quốc gia.
Bí mật của các bên đương sự có thể là sự sống còn của các bên, là vấn đề
liên quan trực tiếp đến hiệu quả sản xuấtkinh doanh, uy tín của các bên…
Nguyên tắc chỉ tuân theo pháp luật : theo nguyên tắc này, toà án chỉ
tuân theo pháp luật khi xét xử các tranh chấp và không bị ảnh hưởng bởi sự
chi phối của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào khác. Việc ra phán quyết phải
hoàn toàn dựa vào tình tiết khách quan cụ thể và luật áp dụng. Toà án độc
lập trong việc ra phán quyết và chịu trách nhiệm đối với các phán quyết đó.
3.3. Nhược điểm của xét xử bằng toà án
So với biện pháp giải quyết tranh chấp bằng khiếu nại thì giải quyết
tranh chấp bằng toà án có tính bắt buộc thi hành cao hơn nhưng biện pháp
này còn nhiều nhược điểm như sau:
25
- Các toà án luôn tìm cách bảo vệ công dân của nước mình, do vậy
việc xét xử của toà án bị yếu tố chính trị ảnh hưởng.
- Thủ tục xét xử của toà án tương đối phức tạp, rườm rà. Ví dụ, ở Việt
nam khi xét xử, toà án phải lập hội đồng xét xử bao gồm hai thẩm
phán, một hội thẩm, một chánh án, một thư ký và đại diện cho viện
kiểm sát, một phiên dịch…
- Nguyên tắc xét xử công khai của toà án làm cho việc xét xử bằng toà
án không mấy hấp dẫn các nhà kinh doanh ngoại thương vì họ luôn
muốn giữ bí mật hoạt động kinh doanh của mình.
- Việc xét xử bằng toà án là theo hai cấp, nếu không thoả mãn xét xử
sơ thẩm (của toà cấp tỉnh) thì được kháng cáo lên toà án nhân dân tối
cao nên thường tốn kém thời gian và chi phí. Hơn thế, nhiều khi các
bên phải sử dụng toà án nước ngoài thì lại phải nghiên cứu thẩm
quyền xét xử của toà án theo luật nước toà án.
- Các nguyên tắc xét xử của toà án còn cứng nhắc, không linh động
như nguyên tắc việc xét xử tranh chấp chỉ tuân theo pháp luật hay
nguyên tắc toà án không tiến hành điều tra mà chỉ thu thập và xác
minh chứng cứ của toà án Việt nam.
- Sự hiểu biết chuyên sâu về thương mại quốc tế của toà án thường bị
hạn chế, do đó việc đưa tranh chấp ra xét xử tại toà án là không phải
là phương pháp ưu việt.
4. Giải quyết tranh chấp trong ngoại thương bằng Trọng tài và đặc
điểm
4.1. Khái niệm
26
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là việc giải quyết tranh chấp phát
sinh bởi một người gọi là trọng tài. Ngày nay, giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài đã ngày càng phát triển và trọng tài thương mại được coi là cơ quan
giải quyết tranh chấp chủ yếu trong mua bán quốc tế.
Trọng tài thương mại được thành lập dưới hai hình thức: trọng tài
Adhoc (trọng tài vụ việc) và trọng tài qui chế (trọng tài thường trực). Tuỳ
tính chất, mức độ và phạm vi của các vụ tranh chấp mà các bên lựa chọn
hình thức trọng tài sao cho phù hợp để giải quyết tranh chấp đạt hiệu quả
cao.
Trọng tài Adhoc (hay còn gọi là trọng tài đặc biệt, trọng tài ngẫu nhiên)
được hình thành để giải quyết một tranh chấp cụ thể, sau khi giải quyết xong
thì giải tán. Đặc điểm của trọng tài này là không có cơ quan, tổ chức, không
có trụ sở hoạt động cố định và vận dụng linh hoạt qui tắc xét xử như không
nhất thiết ngôn ngữ xét xử và ngôn ngữ đơn kiện phải đồng nhất, nơi xét xử
có thể ở bất cứ đâu…
Ban trọng tài xét xử chỉ có một trọng tài viên duy nhất. Do đó, khi lựa
chọn trọng tài các bên tranh chấp cần chọn những chuyên gia đầu nghành, có
tên tuổi. Với thủ tục xét xử linh hoạt trong vận dụng qui tắc, điều lệ, việc
giải quyết tranh chấp thường gọn gàng và triệt để.
Trọng tài qui chế hay còn gọi là trọng tài thường trực là loại trọng tài
được thành lập thành tổ chức cố định, thường xuyên của các nước và hoạt
động theo một qui chế nhất định. Đó là điều lệ và qui tắc tố tụng của tổ chức
trọng tài. Trọng tài qui chế có trụ sở hoạt động cố định và thường được đặt
cạnh phòng thương mại của các nước. Tên gọi của trọng tài qui chế thường
là trung tâm trọng tài như Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam (VIAC),
Trung tâm trọng tài quốc tế Singapo (SIAC)…, hay có tên gọi khác như
Hiệp hội trọng tài thương mại Nhật bản (JCAA), toà án trọng tài quốc tế
27
Luân đôn… Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam (Vietnam International
Arbitration Center- VIAC) được thành lập năm 1993 bên cạnh Phòng
thương mại và Công nghiệp Việt nam, là kết quả của việc tổ chức lại, hợp
nhất hai hội đồng trọng tài: hội đồng trọng tài ngoại thương được thành lập
năm 1963 và hội đồng trọng tài hàng hải được thành lập năm 1968.
Ban trọng tài xét xử có thể được lựa chọn theo ba cách sau:
+ Ban xét xử chỉ gồm một trọng tài viên duy nhất chọn từ danh sách các
trọng tài viên được niêm yết tại trung tâm trọng tài quốc tế.
+ Ban xét xử gồm hai trọng tài viên, mỗi bên đương sự chọn ra một
trọng tài viên của mình. Nếu hai trọng tài viên mâu thuẫn với nhau trong khi
xét xử thì họ thống nhất chọn ra một trọng tài viên thứ ba lập thành ban xét
xử gồm ba người, phán quyết theo đa số.
+ Ban xét xử gồm ba trọng tài viên do mỗi bên đương sự chọn một
người, hai trọng tài chọn ra một người thứ ba và bầu làm chủ tịch ban trọng
tài. Chủ tịch là viết và công bố phán quyết.
Việc chọn thêm trọng tài phải trong danh sách các trọng tài viên của tổ
chức trọng tài đã được chọn làm cơ quan xét xử.
Ngày nay, trọng tài qui chế là loại hình trọng tài được áp dụng phổ biến
nhất, còn trọng tài Adhoc ít được áp dụng do chi phí xét xử thường tốn kém.
4.2. Đặc điểm
a) Thẩm quyền xét xử
Trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên để giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong ngoại thương. Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử khi
các bên đương sự có hiệp nghị trọng tài. Hiệp nghị trọng tài là sự thoả thuận
giữa hai bên về việc giao tranh chấp phát sinh giữa hai bên cho một loại
28
trọng tài cụ thể nhất định giải quyết. Ở đa số các nước, hình thức của hiệp
nghị trọng tài là bằng văn bản. Hiệp nghị trọng tài có thể được qui định theo
ba cách:
+ Hiệp nghị trọng tài được qui định thành một điều khoản về trọng tài
trong hợp đồng.
+ Các bên ký một thoả thuận riêng biệt về trọng tài, thoả thuận này có
giá trị riêng.
+ Hiệp nghị trọng tài được qui định căn cứ vào luật thực chất được áp
dụng như luật quốc gia, điều ước quốc tế hữu quan…
Hiệp nghị trọng tài có giá trị pháp lý rất quan trọng. Thứ nhất, nó là cơ
sở pháp lý để khẳng định thẩm quyền xét xử của trọng tài. Thứ hai, hiệp
nghị trọng tài là cơ sở pháp lý để khẳng định tính bất khả thụ lý của toà án
quốc gia đối với tranh chấp này. Nó loại bỏ thẩm quyền xét xử của toà án.
Thứ ba, đây là cơ sở pháp lý để các quốc gia cho phép cưỡng chế thi hành
phán quyết của trọng tài nước ngoài tại lãnh thổ nước mình.
Điều lệ tổ chức Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam ngày 28/4/1993 qui
định: “Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam có thẩm quyền xét xử các tranh
chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế như hợp đồng mua bán ngoại
thương, hợp đồng đầu tư, du lịch quốc tế, hợp đồng vận tải và bảo hiểm
quốc tế, hợp đồng chuyển giao công nghệ, xây dựng và thanh toán quốc tế
v.v…”(điều 2). Theo yêu cầu của VIAC, ngày 26/2/1996, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Nghị định 114/TTg về việc mở rộng thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam. Bên cạnh thẩm
quyền xét xử đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài, VIAC còn có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ những quan hệ kinh doanh
trong nước nếu các bên đương sự thoả thuận đưa ra Trung tâm trọng tài quốc
tế Việt nam giải quyết. Cũng như các Trung tâm trọng tài quốc tế khác trên
29
thế giới, VIAC không có thẩm quyền đương nhiên đối với các tranh chấp
trong ngoại thương. VIAC chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp này
trong các trường hợp:
- Khi một bên hay các bên đương sự là thể nhân hay pháp nhân nước
ngoài.
- Nếu trước hay sau khi xảy ra tranh chấp, các bên đương sự thoả
thuận đưa vụ việc ra trước Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam,
hoặc nếu có một điều ước quốc tế ràng buộc các bên phải đưa vụ
tranh chấp ra trước Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam.
Thoả thuận này có thể là một điều khoản trong hợp đồng mua bán ngoại
thương (điều khoản trọng tài) hoặc là một văn bản riêng biệt chỉ rõ rằng
VIAC sẽ là cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán
ngoại thương.
b) Hồ sơ kiện ra trọng tài
Cũng giống như hồ sơ kiện ra toà án, hồ sơ kiện ra trọng tài phải bao
gồm đơn kiện và các chứng từ làm bằng chứng.
Đơn kiện phải làm bằng văn bản. Nội dung đơn kiện thường theo đúng
qui chế của trọng tài. Nhìn chung, đơn kiện phải bao gồm: tên, địa chỉ của
trọng tài, tên, địa chỉ đầy đủ của bên đi kiện và bên bị kiện, trình bày nội
dung kiện, căn cứ pháp lý của vụ kiện, trị giá vụ kiện và yêu cầu của bên đi
kiện đề nghị giải quyết. Tuỳ theo qui chế của từng trọng tài mà có những qui
định cụ thể, chi tiết trong đơn kiện.
Chẳng hạn, đơn kiện ra Hiệp hội trọng tài thương mại Nhật bản gồm các
chi tiết:
+ Tên đầy đủ và địa chỉ của bên nguyên và bên bị, nếu cử đại diện phải
ghi rõ tên và địa chỉ của người đại diện.
30
+ Nội dung yêu cầu giải quyết.
+ Lý do yêu cầu giải quyết và bằng chứng.
Đơn kiện ra Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam phải ghi rõ các nội
dung sau:
+ Tên và địa chỉ của nguyên đơn và bị đơn.
+ Các yêu cầu của nguyên đơn, có trình bày sự việc và kèm theo bằng
chứng.
+ Những căn cứ pháp lý dựa vào đó để kiện, trị giá vụ kiện. Tên trọng
tài viên mà nguyên đơn chọn trong danh sách trọng tài viên của Trung tâm,
hoặc đề nghị của nguyên đơn với chủ tịch chỉ định trọng tài viên cho mình.
+ Chứng từ làm bằng chứng kèm theo đơn kiện là toàn bộ các chứng từ
có trong bộ hồ sơ khiếu nại. Ngoài ra còn có thêm các chứng từ về việc giải
quyết khiếu nại giữa các bên nhưng không đạt kết quả, và các chứng từ mới.
Muốn được thụ lý đơn kiện để đưa ra xét xử, bên đi kiện phải nộp trước
một phần hay toàn bộ lệ phí trọng tài tuỳ theo qui định trong Qui tắc tố tụng
của các tổ chức trọng tài. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam thụ lý đơn
kiện khi bên nguyên ứng trước toàn bộ phí trọng tài theo qui định của Biểu
phí trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam (ví dụ, trị giá vụ kiện
dưới 10.000 USD thì phí trọng tài là 500 USD).
c) Thời hiệu khởi kiện
Thời hiệu khởi kiện hay thời hiệu tố tụng là một chế định pháp luật
trong đó bên có quyền lợi bị vi phạm phải đưa sự việc tranh chấp ra trước cơ
quan xét xử (trọng tài) trong một thời hạn nhất định. Nếu bỏ lỡ thời hiệu tố
tụng, nguyên đơn vẫn có quyền đi kiện nhưng bị mất quyền được kiện và
quyền của người thắng kiện, còn bị đơn sẽ được lợi.
Quyền đi kiện là quyền của tất cả các chủ thể pháp luật được đưa sự
việc ra trước trọng tài bằng một thủ tục là nộp đơn kiện ra trọng tài. Quyền
31
được kiện là quyền được trọng tài đứng ra bảo vệ quyền lợi cho mình một
cách cụ thể bằng cách mở phiên xét xử. Quyền của người thắng kiện là
quyền được trọng tài công bố là thắng kiện, được miễn nộp phí trọng tài và
được phục hồi quyền lợi bị vi phạm.
Luật Thương mại Việt nam 1997 điều 242 qui định thời hiệu tố tụng là
hai năm kể từ thời điểm phát sinh quyền khiếu nại.
d) Thủ tục xét xử
Thủ tục xét xử của trọng tài được tiến hành theo đúng qui tắc tố tụng
của trọng tài. Thông thường, ngày xét xử do chủ tịch tổ chức trọng tài quyết
định. Thư ký tổ chức trọng tài phải báo cho bên nguyên và bên bị bằng văn
bản để họ tham gia phiên họp xét xử. Nếu một bên vắng mặt không có lý do
thì phiên họp xét xử vẫn tiến hành.
Tại phiên họp xét xử trọng tài viên có quyền nêu câu hỏi cho các bên và
các bên phải trả lời, đồng thời các bên có quyền trình bày lý lẽ của mình.
Luật sư của các bên cũng có quyền tham dự phiên họp xét xử và phát biểu
bảo vệ quyền lợi cho mỗi bên.
Phán quyết của trọng tài được làm bằng văn bản và được đọc trước các
bên đương sự. Các trọng tài viên xét xử phải ký vào phán quyết. Phán quyết
của trọng tài có giá trị chung thẩm, các bên phải có nghĩa vụ thực hiện.
Thủ tục xét xử của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam được tiến hành
theo đúng qui tắc tố tụng của Trung tâm. Sau khi nhận được đơn kiện hợp lệ,
thư ký Trung tâm báo cho bị đơn biết và gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện và
các tài liệu kèm theo cùng danh sách trọng tài viên, đồng thời yêu cầu bị đơn
gửi đến Trung tâm bản tự bào chữa, kèm theo những bằng chứng trong vòng
30 ngày kể từ ngày nhận được bản sao đơn kiện. Theo yêu cầu của bị đơn,
thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 2 tháng.
32
Cũng trong thời hạn này bị đơn phải chọn trọng tài viên và báo cho
Trung tâm biết, hoặc yêu cầu Chủ tịch Trung tâm chỉ định trọng tài viên,
Chủ tịch sẽ chọn trọng tài viên cho bị đơn.
Trọng tài viên của nguyên đơn và bị đơn sẽ chọn trọng tài viên thứ ba
trong danh sách trọng tài làm Chủ tịch uỷ ban trọng tài. Uỷ ban trọng tài
chịu trách nhiệm giải quyết vụ kiện. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày chọn
trọng tài viên thứ hai mà trọng tài viên thứ ba không chọn được thì Chủ tịch
Trung tâm sẽ chỉ định Chủ tịch uỷ ban trọng tài.
Khi có nhiều hơn một nguyên đơn hoặc bị đơn, những nguyên đơn và bị
đơn này phải thống nhất chọn một trọng tài viên. Nếu các đương sự không
thoả thuận được, Chủ tịch Trung tâm sẽ chỉ định trọng tài viên cho họ.
Uỷ ban trọng tài có thể chỉ bao gồm một trọng tài viên duy nhất do hai
bên đương sự thoả thuận chỉ định hoặc yêu cầu chủ tịch VIAC chỉ định (nếu
hai bên không đạt được thoả thuận). Trong trường hợp này, trọng tài viên
duy nhất thực hiện nhiệm vụ như một Uỷ ban trọng tài.
Uỷ ban trọng tài gồm 3 trọng tài viên hoặc một trọng tài viên duy nhất
có trách nhiệm thực hiện việc xét xử.
Trước khi mở phiên họp xét xử, các trọng tài viên có thể thực hiện việc
điều tra như nghe các bên trình bày ý kiến, yêu cầu các bên cung cấp thêm tư
liệu, mời giám định viên đến giám định… Hai bên đương sự được triệu tập
đến dự phiên họp xét xử bằng giấy triệu tập có nêu rõ thời gian và địa điểm
xét xử. Thời gian xét xử do Chủ tịch Uỷ ban trọng tài quyết định. Địa điểm
xét xử là ở Hà nội. Theo yêu cầu của các bên hoặc trong trường hợp cần
thiết, Chủ tịch Uỷ ban trọng tài sẽ quyết định địa điểm xét xử ở một nơi khác
trên lãnh thổ Việt nam.
Tại phiên họp xét xử, các bên có quyền trình bày ý kiến và có nghĩa vụ
trả lời các câu hỏi được đặt ra đối với mình.
33
Uỷ ban trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất giải quyết tranh chấp căn
cứ vào hợp đồng, vào luật áp dụng, vào các điều ước quốc tế có liên quan và
có tính đến các tập quán thương mại và thông lệ quốc tế.
Việc xét xử được kết thúc bằng một phán quyết hoặc một quyết định
của Uỷ ban trọng tài. Phán quyết trọng tài của là quyết định chung thẩm
không thể kháng cáo trước bất kỳ toà án hoặc tổ chức nào. các bên phải tự
nguyện thi hành trong thời hạn qui định của phán quyết.
Kể từ khi thành lập năm 1993 cho đến nay, hoạt động của Trung tâm
trọng tài quốc tế Việt nam đã thu được những kết quả đáng ghi nhận và ngày
càng có uy tín đối với các nhà kinh doanh trong và ngoài nước. Trong thời
gian hoạt động 1993-1998, trung bình mỗi năm VIAC giải quyết 7 vụ. Giai
đoạn 1998 đến nay, số vụ giải quyết trung bình mỗi năm đã tăng lên đến 20
vụ. Ngoài ra, Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam còn nhận được nhiều đơn
kiện từ phía Việt nam cũng như phía nước ngoài, song các tranh chấp này
không được thụ lý do các nguyên nhân như Trung tâm không có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp, trong điều khoản trọng tài các bên không chọn Trung
tâm để giải quyết tranh chấp hay điều khoản trọng tài không phù hợp với qui
tắc tố tụng của Trung tâm…
Sau đây là ví dụ về một vụ tranh chấp do người xuất khẩu giao hàng
kém phẩm chất (một trong những tranh chấp thường hay xảy ra trong ngoại
thương) đã được giải quyết thành công tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt
nam:
Tóm tắt sự việc:
Ngày 13-02-1996 thương nhân Nhật ký hợp đồng bán cho doanh
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh Việt Nam 1400 MT UREA 5%, thanh
toán bằng L/C trả chậm 330 ngày kể từ ngày giao hàng.
34
Ngày 06-07-1996, hàng về đến cảng Sài Gòn, doanh nghiệp Việt Nam
mời Công ty giám định hàng hoá tại Thành phố Hồ Chí Minh Việt Nam đến
giám định lô hàng. Biên bản giám định kết luận biuret của UREA không đạt
tiêu chuẩn qui định của hợp đồng, các bao UREA có hàng bên trong bị cứng,
vón cục từng phần, trọng lượng của các bao không thống nhất nhau. Vì thế
doanh nghiệp Việt Nam buộc phải chuyển hàng từ cảng về kho của công ty
tái chế để thuê tái chế, thay thế bao bì, đóng gói lại.
Doanh nghiệp Việt Nam đã điện khiếu nại thương nhân Nhật kèm
biên bản giám định phẩm chất, đòi giảm giá lô hàng do độ biuret kém, đòi
bồi thường chi phí phát sinh do tái chế.
Ngày 22-08-1996, doanh nghiệp Việt Nam và thương nhân Nhật đã ký
biên bản thoả thuận, theo đó thương nhân Nhật đồng ý hỗ trợ cho doanh
nghiệp Việt Nam 11.700 USD do độ biuret không đạt qui định của hợp
đồng, không nói gì đến chi phí tái chế. Nhưng thực tế, thương nhân Nhật
mới trả cho doanh nghiệp Việt Nam 8.000 USD.
Qua nhiều lần điện đòi số tiền còn thiếu và chi phí tái chế nhưng
không được bồi thường, doanh nghiệp Việt Nam kiện thương nhân Nhật ra
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam đòi bồi thường các khoản sau:
- Số tiền hỗ trợ do độ biuret không đạt còn thiếu: 3.700 USD.
- Chi phí tái chế, thay thế bao bì, gồm:
A. Chi phí giám định: 13.304.880 VND.
B. Chi phí thuê kho bảo quản chờ đóng gói lại từ 01-08-1996 đến 15-
11-1996 là 46.019.400 VND.
C. Chi phí bốc xếp: 14.463.240 VND gồm:
- Bốc nhập kho: 7.889.040 VND.
- Bốc xuất kho: 6.574.200 VND.
35
D. Chi phí vận chuyển hàng từ cảng Bến Nghé về kho của công ty tái
chế: 3.000.000 VND.
E. Chi phí tái chế, đóng gói lại lô hàng: 173.128.150 VND, gồm:
- Chi phí gia công đóng gói lại: 86.319.250 VND.
- Phí bốc xếp nhập tái chế: 2.021.100 VND.
- Phí trung chuyển phục vụ đóng gói: 2.694.800 VND.
- Chi phí mua bao bì mới: (27.080 bộ x 3100 VND/bộ) trừ tiền bán
bao bì cũ (1.855.000 VND): 82.093.000 VND.
F. Cộng chi phí A + B + C + D = 276.915.670 VND.
G. Lãi suất, gồm:
- Lãi suất đọng vốn nhập khẩu (3 tháng kể từ ngày 22-08-1996 đến
17-11-1996):
314.099,43 USD x 1,25% tháng x 3 tháng = 11.799 USD
- Lãi suất đọng vốn của các chi phí đã phải bỏ ra (A + B + C + D):
276.915.150 VND x 1,25% tháng x 6 tháng = 20.768.675 VND.
Cộng F + G = 11.779 USD + 297.684.345 VND.
Quy ra USD = 11.779 USD + 25.552 USD = 37.331 USD
(1 USD = 11.650 VND).
Các chi phí tái chế đều có chứng từ, biên lai kèm theo làm bằng chứng.
Trong bản biện minh đề ngày 29-06-1997, thương nhân Nhật trình bày
như sau:
Một là, mục B: thương nhân Nhật không đồng ý thời gian lưu kho là 3
tháng rưỡi mà chỉ chấp nhận 2 tháng rưỡi kể từ ngày 29-08-1996 (theo hợp
đồng thuê kho) đến ngày 14-11-1996:
1.314,84 tấn x 10.000 VND/tấn/tháng x 2,5 tháng = 32.871.000 VND
Hai là, thương nhân Nhật không thừa nhận thiệt hại của mục C và mục
D vì theo hợp đồng ngoại thương và thực tiễn thực hành tại Việt Nam người
36
mua hàng phải lo và chịu các chi phí bốc xếp tại cảng đến, vận chuyển hàng
từ cảng về kho và bốc xếp tại kho. Lô hàng này, tuy có vấn đề phát sinh
nhưng cũng chỉ có một đợt bốc xếp tại cảng, vận chuyển về kho và bốc xếp
tại kho như các lô hàng khác.
Ba là, về chi phí mua bao bì mới trong mục E, thương nhân Nhật chỉ
thừa nhận 26.500 bao trị giá 82.150.000 VND theo hợp đồng mua bao bì và
phiếu chi.
Bốn là, lãi đọng vốn nhập khẩu trong mục G thương nhân Nhật đề nghị
mức lãi suất hợp lý là 1,124%/tháng vì số tiền hàng nhập khẩu doanh nghiệp
Việt Nam trả theo phương thức L/C trả chậm 330 ngày (11 tháng), chênh
lệch giữa đơn giá bán trả chậm và đơn giá bán trả ngay là 24,475 USD
(231,50 USD – 206,025 USD).
Phân tích và quyết định của trọng tài:
(1) Vì giao hàng có độ biuret không đạt tiêu chuẩn do hợp đồng qui
định và thương nhân Nhật đã cam kết hỗ trợ cho doanh nghiệp Việt
Nam 11.700 USD theo biên bản thoả thuận ngày 22-08-1996,
nhưng còn thiếu 3.700 USD, do đó, thương nhân Nhật phải có trách
nhiệm trả tiếp cho doanh nghiệp Việt Nam số tiền này.
(2) Thực tế thương nhân Nhật giao các bao UREA bên trong có vón
cục hoặc đóng cứng, trọng lượng các bao không đồng đều, cho nên
doanh nghiệp Việt Nam phải tái chế, đóng gói lại lô hàng, cụ thể
gồm:
A. Chi phí giám định: 13.304.880 VND.
B. Chi phí lưu kho để đóng lại lô hàng chỉ được tính căn cứ vào hợp
đồng thuê kho và phiếu chi tiền thuê kho, từ 29-08-1996 đến 15-11-
1996 (2 tháng rưỡi).
1.314,84 tấn x 10.000 VND/tấn/tháng x 2,5 tháng = 32.817.000 VND.
37
C. Phí bốc nhập hàng vào kho để tái chế, đóng gói lại hàng là
7.889.040 VND.
Phí bốc xuất hàng từ kho cảng kể cả khi không phải tái chế, đóng gói
lại hàng thì doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải chi, vì doanh nghiệp Việt Nam
phải bốc hàng từ kho để vận chuyển giao cho người mua lại hoặc chở về kho
của mình. Sau khi tái chế doanh nghiệp Việt Nam đã giao hàng cho người
mua lại tại kho của công ty tái chế. Do đó, doanh nghiệp Việt Nam không có
quyền đòi bồi thường chi phí này.
Chi phí vận chuyển hàng từ cảng Bến Nghé về kho của công ty tái chế
không phải là thiệt hại trực tiếp do phải tái chế, đóng gói lại hàng, bởi vì nếu
không phải tái chế, đóng gói lại hàng thì doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải có
nghĩa vụ vận chuyển hàng từ cảng Bến Nghé về kho của mình hoặc để giao
cho người mua lại. Vì vậy, thương nhân Nhật không có trách nhiệm bồi
thường chi phí này.
D. Chi phí tái chế, đóng gói lại lô hàng, gồm:
- Chi phí gia công, đóng gói lại: 86.319.250 VND.
- Phí bốc xếp nhập tái chế: 2.021.100 VND.
- Phí trung chuyển phục vụ đóng gói: 2.694.800 VND.
- Chi phí mua bao bì mới theo hợp đồng mua bao bì và phiếu chi trừ
phiếu bán bao bì cũ là:
26.500 bao x 3.100 VND/1 bao – 1.855.000 VND = 80.295.000 VND.
Cộng: 171.330.150 VND.
Cộng A + B + C + D = 225.395.070 VND.
E. Lãi suất đọng vốn nhập khẩu tính theo mức 1,124%/tháng là hợp lý,
vì doanh nghiệp Việt Nam thanh toán tiền hàng theo phương thức
L/C trả chậm 330 ngày (tức 11 tháng).
314.099,43 USD x 1,124%/tháng x 3 tháng = 10.591,43 USD.
38
F. Lãi suất đọng vốn trên số tiền giám định, thuê kho, mua bao bì,
đóng gói lại:
225.395.070 VND x 1,25%/tháng x 6 tháng = 16.904.630 VND.
Cộng (A + B + C + D) + E + F = 225.395.070 VND + 10.591,43 USD
+ 16.904.630 VND = 10.519,43 USD + 242.299.700 VND.
Qui đổi ra USD theo tỉ giá 1 USD = 11.650 VND
= 10.591,43 USD + (242.299.700 : 11.650)
= 31.389.684 USD
Tổng cộng: (1) + (2) = 3.700 USD + 31.389,68 USD = 35.089,68 USD.
Căn cứ vào những điều phân tích đó, trọng tài ra phán quyết buộc
thương nhân Nhật phải trả cho doanh nghiệp Việt Nam tiền hỗ trợ biuret
không đạt còn thiếu cộng với chi phí tái chế là 35.089,68 USD.
Qua vụ tranh chấp nêu trên, chúng ta thấy rằng doanh nghiệp Việt Nam
đã kịp thời làm đầy đủ các thủ tục pháp lý, khiếu nại và thương lượng trực
tiếp với doanh nghiệp nước ngoài. Điều quan trọng là đã ký được văn bản
thoả thuận ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp nước ngoài. Mặt khác,
khi đi kiện, doanh nghiệp Việt Nam đã cung cấp đầy đủ bằng chứng để
chứng minh cho những yêu sách chính đáng của mình. Tuy nhiên, cũng cần
lưu ý là những yêu cầu không chính đáng thì không nên đưa vào đơn kiện.
e) Việc cưỡng chế thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại
nước sở tại
Do phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm nên nó ràng buộc các
bên và bên thua kiện phải có nghĩa vụ thi hành phán quyết.
Trong thực tế nhiều phán quyết của trọng tài được các bên đương sự tự
nguyện thi hành, song cũng có khi bên thua kiện trì hoãn thi hành hoặc cố
tình không thi hành phán quyết. Trong trường hợp đó bên thắng kiện phải
thông qua toà án nước bên thua kiện để đảm bảo cho phán quyết của trọng
39
tài được thi hành. Muốn thực hiện điều này bên thắng kiện phải tuân theo
thủ tục cưỡng chế thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại nước sở
tại, tức là tuân theo thủ tục thi hành án kiện. Bên thắng kiện phải làm đơn
yêu cầu thi hành phán quyết của trọng tài gửi tới toà án của nước bên thua
kiện (nếu nước này theo hệ thống luật Civil Law) hoặc ngoài đơn yêu cầu
còn phải kèm theo phán quyết của trọng tài và lệ phí toà án (nếu gửi đến
nước theo hệ thống luật Civil Law hoặc các nước Anh, Mỹ) để nhờ toà án
can thiệp cho phán quyết được thi hành. Toà án bên thua kiện sẽ xem xét
đơn yêu cầu đó và nếu thấy không trái với trật tự công cộng của nước mình
thì cho thi hành án bằng cách ra mệnh lệnh thi hành phán quyết của trọng tài
gửi cho bên thua kiện để bên này thi hành. Khi xem xét để ra mệnh lệnh thi
hành phán quyết của trọng tài, toà án dựa vào điều ước quốc tế có liên quan
giữa hai nước, hoặc dựa vào luật của nước mình khi chưa có điều ước quốc
tế có liên quan.
Hiện nay nhiều nước đã ký kết hoặc phê chuẩn các điều ước quốc tế về
trọng tài thương mại, nhất là việc thi hành phán quyết của trọng tài nước
ngoài. Đó là Công ước New York năm 1958 về việc công nhận và thi hành
phán quyết của trọng tài nước ngoài, Công ước Châu Âu năm 1961 về trọng
tài thương mại.
Ngoài ra, việc thi hành phán quyết của trọng tài còn được qui định
trong hiệp ước thương mại hàng hải, hiệp định thương mại.
Nhìn chung trong các điều ước quốc tế nêu trên đều qui định rằng các
nước ký kết phải đảm bảo công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng
tài thương mại nước ngoài (nước ngoài trong trường hợp này được hiểu là
nước ký kết hay gia nhập điều ước quốc tế). Nhưng một nước ký kết sẽ từ
chối cho thi hành phán quyết của trọng tài thương mại nước ngoài trong các
trường hợp sau:
40
- Khi một bên đương sự vắng mặt tại phiên họp xét xử của trọng tài do
sơ suất của trọng tài.
- Khi phán quyết của trọng tài chưa có giá trị chung thẩm xét theo luật
của nước trọng tài.
- Khi phán quyết của trọng tài buộc bên thua kiện phải làm một hành
động không được phép làm theo luật của nước mà ở đó phán quyết
phải được thi hành.
- Khi việc thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài trái với trật tự
công cộng của nước mà ở đó phán quyết phải được thi hành.
Ngày 28/7/1995, Việt nam đã gia nhập Công ước New York 1958. Khi
gia nhập công ước này Nhà nước CHXHCN Việt nam tuyên bố: Công ước
chỉ áp dụng đối với việc công nhận và cho thi hành tại Việt nam phán quyết
của trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ của quốc gia là thành viên
của Công ước. Sẽ chỉ áp dụng Công ước đối với tranh chấp phát sinh từ các
quan hệ pháp luật thương mại. Ngày 14/9/1995, Việt nam ban hành pháp
lệnh về thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài.
Việc Việt nam đã gia nhập Công ước New York có ý nghĩa rất quan
trọng. Trước hết, điều này thể hiện mong muốn của Việt nam thực sự muốn
hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, thực hiện phương châm “Việt nam muốn
làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Thứ hai là, nhờ tham gia vào
Công ước New York, vai trò và uy tín của trọng tài Việt nam sẽ được nâng
cao trên trường quốc tế. Các phán quyết do Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt
nam đưa ra sẽ có hiệu lực thi hành bắt buộc cao.
4.3. Ưu điểm của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Ngày nay trong hoạt động ngoại thương, khi có tranh chấp các bên
thường đưa ra xét xử tại cơ quan trọng tài. Việc giải quyết tranh chấp bằng
41
biện pháp trọng tài chiếm hơn 80% số tranh chấp được giải quyết hiện nay.
Đây là phương pháp ưu việt hơn hẳn so với phương pháp giải quyết tranh
chấp bằng toà án, điều này thể hiện ở các điểm sau:
- Trọng tài chỉ xét xử một lần và phán quyết của trọng tài là chung
thẩm cho nên không phải đi kiện theo thủ tục phúc thẩm, các bên
không được chống án.
- Các trọng tài viên là những chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực
ngoại thương, am hiểu nghiệp vụ và luật pháp trong cũng như ngoài
nước, đồng thời lại không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị nên
việc xét xử khách quan, hợp lý. Do đó việc giải quyết tranh chấp
bằng con đường này là rất đáng tin cậy.
- Phán quyết của trọng tài được công bố bí mật, không được công khai
rộng rãi. Điều này phù hợp với tâm lý muốn giữ bí mật hoạt động
kinh doanh của các nhà xuất nhập khẩu. Vì vậy, đây là ưu điểm rất
được các nhà kinh doanh ưa thích và đã thu hút nhiều doanh nghiệp
gửi hồ sơ kiện đến trọng tài nhờ xét xử.
- Việc xét xử bằng biện pháp trọng tài có những qui tắc xét xử mềm
dẻo, linh hoạt chứ không cứng nhắc như toà án. Chẳng hạn, Điều 14
Qui tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam bên cạnh
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam qui định: “ Sau khi
được chọn hoặc được chỉ định, trọng tài viên nghiên cứu hồ sơ và
tiến hành công tác điều tra bằng mọi biện pháp thích hợp. Trọng tài
viên có quyền gặp trực tiếp các bên để nghe các đương sự trình bày ý
kiến, theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên hoặc theo sáng kiến
của mình. Trọng tài viên có thể quyết định tìm hiểu sự việc từ những
người khác, trước mặt các bên hoặc sau khi đã báo cáo cho các bên
biết. Trọng tài viên có thể mời một hoặc nhiều giám định viên và xác
42
định nhiệm vụ của giám định viên, nhận báo cáo giám định hay trực
tiếp nghe giám định viên trình bày”.
- Thời gian xét xử nhanh do giảm bớt các thủ tục phức tạp và biện
pháp này cũng ít tốn kém hơn so với xét xử bằng toà án.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG NGOẠI THƯƠNG TẠI CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI
I/ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI
1. Sự thành lập Công ty dệt may Hà nội
Công ty dệt may Hà nội ( tên gọi trước đây là Nhà máy sợi Hà nội, Xí
nghiệp liên hiệp Sợi- Dệt kim Hà nội) là một doanh nghiệp lớn thuộc nghành
công nghiệp nhẹ Việt nam. Hiện nay, công ty là một thành viên của Tổng
công ty dệt may Việt nam, hoạt động theo chế độ hạch toán độc lập, có tư
cách pháp nhân đầy đủ, có tài khoản tại ngân và có con dấu riêng để giao
dịch.
43
Tên gọi: Công ty dệt may Hà nội
Tên giao dịch quốc tế: Hanoi Textile and Garment Company
( viết tắt là Hanosimex)
Trụ sở chính: Số 1- Mai Động- Hai Bà Trưng- Hà nội
Quá trình xây dựng và phát triển của công ty trải qua các giai đoạn sau:
- Ngày 7- 4- 1978 Tổng công ty nhập khẩu thiết bị Việt nam và hãng
UNIONMATEX ( cộng hoà liên bang Đức) chính thức kí hợp đồng xây
dựng nhà máy Sợi Hà nội với số vốn ban đầu là 50 triệu USD.
- Ngày 21- 11- 1984 nhà sợi Hà nội hoàn thành với hai phân xưởng chính
là phân xưởng bông và phân xưởng sợi pha. Bên cạnh đó còn có phân
xưởng động lực cung cấp điện lạnh, khí nén, thông gió cho hai phân
xưởng chính và điện nước cho toàn bộ phòng ban; phân xưởng cơ khí có
nhiệm vụ sửa chữa và gia công phụ tùng chi tiết, máy móc thiết bị hư
hỏng.
- Tháng 5- 1989 phân xưởng cơ khí thành lập hai tổ sản xuất ống giấy để
phục vụ cho hai phân xưởng chính: sản xuất túi PE, vành chống bẹp phục
vụ bao gói bảo quản sợi thay cho sản phẩm nhập ngoại.
- Tháng 12- 1989 nhà máy đầu tư xây dựng dây chuyền dệt kim số I, đến
tháng 6- 1990 đưa vào sản xuất với 8 máy dệt vải Rib, 5 máy dệt vải
Interlock và 10 máy thêu, 2 máy cắt, 1 máy xẻ khô, 1 máy định hình, 1
máy cán, 1 máy cuộn vải; công suất 1.980.000 sản phẩm áo các loại và
3000 tấn vải các loại mỗi năm.
- Tháng 4- 1990 Bộ Kinh tế đối ngoại cho phép xí nghiệp được kinh doanh
XNK trực tiếp ( tên giao dịch viết tắt là Hanosimex).
- Tháng 10- 1991 Bộ công nghiệp nhẹ quết định chuyển tổ chức và hoạt
động nhà sợi Hà nội thành xí nghiệp liên hợp Sợi dệt kim Hà nội.
44
- Tháng 6- 1993 xây dựng dây chuyền dệt kim số II, tháng 3- 1994 đưa vào
sản xuất.
- Tháng 10- 1993 Bộ công nghiệp nhẹ quyết định sáp nhập nhà máy sợi
Vinh ( tỉnh Nghệ An) vào xí nghiệp liên hợp.
- Ngày 19- 5- 1994 khánh thành nhà máy dệt kim, bao gồm cả hai dây
chuyền I và II.
- Tháng 1- 1995 khởi công xây dựng nhà máy May thêu Đông Mỹ, tháng
9- 1995 đưa vào hoạt động.
- Tháng 3- 1995 Bộ công nghiệp nhẹ quyết định sáp nhập Nhà máy dệt Hà
đông vào Xí nghiệp liên hợp Sợi- Dệt kim Hà nội. Đây là nhà máy dệt
các loại khăn bông dùng trong nước và xuất khẩu.
- Để thích ứng với sự chuyển biến của cơ chế nên tháng 6- 1995 Bộ công
nghiệp nhẹ đã quyết định đổi XNLH thành Công ty dệt Hà nội.
- Ngày 28- 02- 2000 Tổng công ty dệt may Việt nam ra quyết định đổi tên
Công ty dệt Hà nội thành Công ty dệt may Hà nội, với tên giao dịch cũ là
Hanosimex, gồm 8 đơn vị thành viên:
+ Nhà máy may I, II
+ Nhà máy sợi Vinh
+ Nhà máy sợi Hà nội
+ Nhà máy Dệt nhuộm
+ Nhà máy Dệt Hà đông
+ Nhà máy Cơ điện
+ Nhà máy may Đồng Mỹ
Đầu năm 2000 Nhà máy Denim được đi thành lập và đi vào hoạt động.
Tháng 5- 2000 công ty đã đón nhận chứng chỉ ISO 9002.
Trong quá trình hoạt động và phát triển công ty luôn chú ý đổi mới trang
thiết bị máy móc kỹ thuật cũng như luôn mở rộng các hình thức kinh
45
doanh mua bán, gia công, trao đổi hàng hoá, sẵn sàng hợp tác với các bạn
hàng trong và ngoài nước. Sản phẩm của công ty được xuất sang các
nước: Nhật Bản, EU, Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông,…và các
khách hàng trong nước cũng luôn mến mộ sản phẩm của Hanosimex.
2. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ
Công ty có cơ cấu tổ chức đơn giản, mặc dù có các bộ phận ở xa như
các nhà máy ở Đông Mỹ và Vinh. Hàng năm và hàng tháng công ty có kế
hoạch xem xét và đánh giá kết quả hoạt động chung của các phòng ban; nhìn
chung đạt được kết quả đề ra.
Đứng đầu là Tổng giám đốc (TGĐ), người đại diện cho công ty, thay
mặt công ty giải quyết tất cả các vấn đề có liên quan đến quyền lợi của công
ty, đồng thời chịu trách nhiệm trước pháp luật và cấp trên về mọi hoạt dộng
của công ty.
Dưới TGĐ có 4 phó Tổng giám đốc, chịu trách nhiệm quản lý điều hành
các đơn vị chức năng.
Các phòng ban nghiệp vụ của công ty có chức năng tham mưu giúp
TGĐ điều hành và quản lý công việc.
- Phòng tài chính : đảm bảo phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh chính
xác kịp thời, xây dựng kế hoạch tài chính, hạch toán giá thành, cân đối
thu – chi, cung cấp thông tin kịp thời cho nhu cầu quản lý.
- Phòng tổ chức hành chính : chịu trách nhiệm về nhân sự, hành chính của
công ty, tổ chức đào tạo và tuyển dụng nhân sự, thực hiện các chế độ đối
với các công nhân viên.
- Phòng kỹ thuật đầu tư : chịu trách nhiệm về kỹ thuật công nghệ cho sản
xuất như quản lý các quy trình, quy phạm kỹ thuật, xây dựng kế hoạch
46
đầu tư máy móc thiết bị; áp dụng kỹ thuật mới nhằm mở rộng và chiếm
lĩnh thị trường trong và ngoài nước.
- Phòng kiểm tra chất kượng sản phẩm (KCS) : chịu trách nhiệm về công
tác thí nghiệm và kiểm tra các loại bông, xơ, sợi đưa vào sản xuất và các
loại sản phẩm do công ty sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng công ty đã
ban hành; nghiên cứu, đề ra các biện pháp, sáng kiến nhằm tiếp cận với
các phương pháp quản lý chất lượng tiên tiến tác động kịp thời vào sản
xuất.
- Phòng xuất nhập khẩu : có chức năng tìm kiếm khách hàng, thị trường
trong và ngoài nước, tham mưu cho TGĐ trong công tác nhập khẩu
nguyên phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm, máy móc thiết bị phụ tùng.
- Phòng kế hoạch thị trường : tham mưu cho TGĐ về các lĩnh vực tìm hiểu
thị trường nội địa, xây dựng kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nội
địa và sản phẩm xuất khẩu, tổ chức tham gia các hoạt động tiếp thị,
khuyếch trương sản phẩm của công ty trên cả nước.
- Trung tâm y tế : có nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ cho cán bộ công nhân
viên trong công ty, tham gia xây dựng chế độ và quy chế an toàn lao
động trong các nhà máy sản xuất.
Các nhà máy thành viên có nhiệm vụ tiếp nhận và hoàn thành kế hoạch
sản xuất do công ty giao. Giám đốc nhà máy chịu trách nhiệm trước TGĐ về
hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình :
+ Nhà máy may I, II : sản xuất sản phẩm quần áo xuất khẩu và tiêu thụ
nội địa.
+ Nhà máy sợi : sản xuất sợi từ nguyên liệu bông xơ phục vụ cho sản
xuất nội địa bộ và tiêu thụ ngoài.
+ Nhà máy dệt nhuộm : từ sợi làm thành vải dệt kim cung ứng cho các
nhà máy may và một phần tiêu thụ ngoài.
47
+ Nhà máy dệt Hà đông : chuyên dệt khăn bông xuất khẩu.
+ Nhà máy Denim : sản xuất vải bộ, quần áo vải bò.
3. Tình hình hoạt động ngoại thương ở Công ty dệt may Hà nội
Trong những năm gần đây, mặc dù có những diễn biến phức tạp từ phía
thị trường, trong đó có cả những yếu tố tích cực ( tình hình kinh tế – chính
trị – xã hội trong nước ổn định và phát triển, tỷ giá hối đoái có xu hướng
tăng lên…) và cả những yếu tố tiêu cực ( khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1998,
suy thoái kinh tế Nhật – Châu Âu, tăng giá dầu và tăng giá bông xơ…)
nhưng tình hình sản xuất kinh doanh của Hanosimex khá ổn định và tăng
trưởng đều. Tổng doanh thu tăng lên qua các năm, doanh thu năm sau cao
hơn doanh thu năm trước. Mức tăng doanh thu bình quân giai đoạn 1998-
2001 là 113,2%.
Xuất khẩu của công ty cũng có xu hướng tăng lên qua các năm, tuy
nhiên tốc độ tăng không đều. Bình quân tăng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn
1998- 2001 là 117,38%. Cơ cấu doanh thu theo sản phẩm và theo thị trường
có nhiều thay đổi.
a) Theo thị trường
Hiện tại, công ty đã có quan hệ buôn bán với 19 quốc gia và vùng lãnh
thổ, trong khi năm 2000 là 16 quốc gia.Ngoài việc xuất khẩu sản phẩm may
mặc dệt kim, công ty còn nỗ lực tiếp thị các sản phẩm khác như sợi và hai
sản phẩm mới là khăn bông và mũ. Các sản phẩm này đều có mức tăng
doanh thu rất khả quan.
Nhật Bản là đối tác chính của công ty, tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu
vào thị trường này đang giảm dần cả về số lượng và tỷ trọng tổng kim ngạch
48
xuất khẩu của công ty. Nguyên nhân là do sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt kim, trong khi đây lại là mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Tuy vậy, công
ty cũng đã xuất khẩu được mặt hàng khăn bông với kim ngạch rất lớn vào thị
trưòng Nhật Bản. Xuất khẩu mặt hàng này có xu hướng tăng mạnh qua các
năm. Kinh doanh trên thị trường này hiện đang chịu nhiều sức ép giá mạnh
mẽ của Trung Quốc và đối phó với tình hình suy thoái kinh tế của Nhật Bản.
Đài Loan và EU là hai đối tác có giao dịch đều đặn với công ty, kim
ngạch buôn bán vào hai thị trường này tăng lên ở mức khoảng 114% mỗi
năm. Tuy vậy, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu vào Đài Loan và EU có xu
hướng giảm do sự tăng lên tương đối của kim ngạch vào các thị trường khác.
Mặt hàng chính xuất khẩu vào hai thị trường này là sản phẩm may dệt kim.
Hàn Quốc đã vươn lên thành đối tác thứ hai sau Nhật Bản với việc tăng
vọt kim ngạch nhập khẩu sợi từ Hanosimex.
Công ty cũng đã từng bước thâm nhập vào thị trường Mỹ với hai mặt
hàng chủ yếu là quần áo dệt kim và mũ. Hiện tại, Mỹ chiếm 8% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của công ty. Giao dịch của Hanosimex với các đối tác
Mỹ có xu hướng tăng mạnh từ đầu năm 2002 với mặt hàng mới là vải Denim
và các sản phẩm may từ vải Denim. Hiện công ty đã xuất hai công-ten-nơ
hàng Denim sang thị trường Mỹ.
b) Theo sản phẩm
Công ty có xu hướng chuyển từ sản phẩm dệt kim truyền thống sang các
sản phẩm khác là sợi và khăn bông, bên cạnh đó có hai sản phẩm mới là mũ
và vải Denim. Xuất khẩu hàng dệt kim giảm mạnh, mức giảm bình quân là
13%/năm. Nguyên nhân là do tiêu thụ sản phẩm này trên thị trường có xu
hướng chững lại và mặt hàng này không cho tỉ suất lợi nhuận cao như các
49
mặt hàng khác. Tuy vậy, hiện tại mặt hàng dệt kim vẫn là mặt hàng xuất
khẩu chính của công ty chiếm tỷ trọng 48,26%.
Hai sản phẩm khăn bông ( khăn mặt, khăn tắm, khăn ăn) và sợi có kim
ngạch xuất khẩu tăng mạnh vào năm 2000 và 2001. Đây là hai mặt hàng có
chất lượng cao, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Tuy vậy, cả hai sản phẩm này
đều gặp phải giới hạn năng lực sản xuất, trên thực tế nhiều khi công ty đã
buộc phải từ chối khách hàng.
Năm 2000 và 2001 công ty đã đưa vào hoạt động dây chuyền sản xuất
vải Denim và dây chuyền may mũ. Trong năm 2002, công ty đưa vào hoạt
động dây chuyền may sản phẩm vải bò. Đây là mặt hàng mới có chất lượng
tốt và có nhiều triển vọng. Hiện tại, công ty đang nỗ lực đưa các sản phẩm
này tiếp cận thị trường Mỹ.
Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu hiện nay của công ty là sản phẩm dệt
kim, sợi, khăn bông, mũ…và các sản phẩm khác. Bên cạnh đó, công ty còn
phải nhập khẩu phần lớn nguyên phụ liệu từ nước ngoài như bông, xơ, hoá
chất, mác giặt, mác treo, khoá kéo, vải, cổ áo dệt kim…để phục vụ cho quá
trình sản xuất. Công ty cũng cần được cung cấp các dịch vụ khác như thanh
toán, vận tải…cũng như các máy móc thiết bị. Hiện nay, công ty có 5 nhà
cung ứng xơ từ Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Nhật Bản, có 9 nhà
cung ứng bông nước ngoài và một công ty cung ứng bông trong nước. Bông
nước ngoài được cung cấp từ Thuỵ Điển, Nhật Bản, Indonesia, Singapo và
Mỹ. Các máy móc thiết bị của Hanosimex được nhập chủ yếu từ Đức, Italia,
Nhật Bản nên có chất lượng rất tốt. Công ty cũng nhập một số linh phụ kiện
từ các nước Đài Loan, Hàn Quốc.
II/ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG NGOẠI THƯƠNG
Ở CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN QUA
50
1. Những thuận lợi và thành tựu
Ngành dệt may Việt nam được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của
đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước ta. Do vậy,
chính phủ đã có những chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển hoạt
động sản xuất kinh doanh và xuất khẩu mặt hàng công nghiệp dệt may. Là
một doanh nghiệp trong ngành dệt may, Hanosimex có những cơ hội lớn
như sau:
- Được sự hỗ trợ của chính phủ về vốn và được ưu tiên trong chính sách
thuế:
+ Doanh nghiệp sẽ được hưởng ưu đãi về tín dụng đầu tư, được ngân hàng
đầu tư và phát triển, các ngân hàng thương mại quốc doanh bảo lãnh, hoặc
cho vay tín dụng xuất khẩu, cho vay đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh với
lãi suất ưu đãi.
+ Được miễn thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng
vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu.
+ Được hưởng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25% với mức
chung là 32%, được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp do đầu tư mới
mang lại trong 2 năm…
- Công nghiệp sản xuất phụ liệu và ngành trồng bông phát triển tạo cơ hội
cho doanh nghiệp giảm các chi phí đầu vào, hạ giá thành sản xuất. Chính
phủ đã phê duyệt chương trình đầu tư tăng tốc ngành dệt may Việt nam,
nhằm mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh hàng dệt may dựa trên việc
qui hoạch vùng trồng bông, xây dựng các nhà máy sản xuất phụ liệu, đẩy
mạnh đầu tư máy móc thiết bị hiện đại cho sản xuất.
51
- Quan hệ hợp tác giữa Việt nam và các nước trên thế giới đang diễn ra
theo chiều hướng tích cực, đẩy mạnh quan hệ trao đổi thương mại. Hiện
tại, chúng ta đã ký kết hiệp định thương mại với Mỹ, trong đó mức thuế
nhập khẩu của Mỹ đối với hàng Việt nam giảm mạnh. Đây có thể nói là
cơ hội cho các doanh nghiệp Việt nam nói chung và Hanosimex nói riêng
thâm nhập vào thị trường Mỹ. Đối với Hanosimex, thị trường Mỹ là một
thị trường đầy triển vọng và chưa qui định hạn ngạch cho hai sản phẩm
mà công ty đang kinh doanh là sản phẩm quần áo dệt kim và sản phẩm
vải Jeans + quần áo vải Jeans, đồng thời là thị trường có kim ngạch nhập
khẩu hàng năm lớn và tiêu thụ mạnh hai sản phẩm này. Trên thị trường
khác, Hanosimex vẫn có cơ hội duy trì và mở rộng thị trường.
Bên cạnh những thuận lợi đến từ môi trường vĩ mô, công ty còn có
những thuận lợi do môi trường ngành mang lại như có quan hệ buôn bán khá
tốt với khách hàng, các khách hàng tỏ ra trung thành, có nguồn cung ứng
đầu vào khá ổn định và chất lượng tốt, không bị ép giá, có vị thế cạnh tranh
khá vững trên thị trường nội địa…
Với những thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh như trên, công
ty dệt may Hà nội đã giải quyết thành công nhiều vụ tranh chấp trong ngoại
thương xảy ra trong thời gian qua. Các tranh chấp này thường là do khách
hàng của công ty khiếu nại. Cũng như đa số các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh khác, khi có tranh chấp Hanosimex luôn cố gắng giải quyết bằng
phương pháp khiếu nại, hạn chế đến mức tối đa việc đưa tranh chấp ra giải
quyết tại toà án hoặc trọng tài. Trên thực tế tranh chấp trong ngoại thương
của công ty luôn được giải quyết bằng khiếu nại chứ chưa bao giờ phải đưa
ra toà án hoặc trọng tài. Chính nhờ vậy, công ty đã tiết kiệm được nhiều thời
gian và chi phí đồng thời giữ được uy tín và bạn hàng.
52
Dưới đây là một số vụ tranh chấp tiêu biểu phát sinh trong ngoại thương
của công ty dệt may Hà nội đã được giải quyết thành công bằng khiếu nại:
Vụ thứ nhất: Người mua nước ngoài (Nhật Bản) khiếu nại Công ty về
việc áo dệt kim có lẫn kim gẫy
Ngày 18-5-2001, Công ty Dệt may Hà nội ký hợp đồng số 27/HSM-
ITC/01 bán cho công ty ITOCHU của Nhật Bản 50.000 chiếc áo dệt kim
nam (các màu White, Black, Navy, Red, Beige, Green và các cỡ M, L, LL)
với giá 2,10 USD/chiếc FOB Hải Phòng theo Incoterms 2000. Hàng được
giao làm hai chuyến: chuyến thứ nhất giao 20.000 chiếc, hạn cuối cùng là
ngày 13-6-2001; chuyến thứ hai giao nốt 30.000 chiếc, hạn cuối cùng là
ngày 20-6-2001. Thanh toán bằng L/C không huỷ ngang trả tiền ngay.
Công ty Hanosimex đã tiến hành giao hàng đúng như qui định trong hợp
đồng và người mua đã nhận được hàng.
Ngày 16-7-2001, khách hàng ITOCHU gửi thư khiếu nại về việc phát
hiện 1 sản phẩm có lẫn kim gẫy (áo màu Beige cỡ L) sau khi nhận được lô
hàng và tiến hành kiểm tra một số lượng nhỏ. Vì vậy, ITOCHU buộc phải
kiểm tra lại 100% lô hàng với chi phí rất cao 15 JP Yen/chiếc. Tổng số tiền
là: 50.000 sản phẩm x 15 JPY = 750.000 JPY (6000 USD). Người mua còn
gửi kèm mẫu áo có lẫn kim gẫy để Hanosimex kiểm tra và cho biết ý kiến
cũng như các biện pháp khắc phục tình trạng trên, đồng thời xác nhận thanh
toán số tiền phí kiểm kim như trên.
Sau khi kiểm tra lại và tiến hành điều tra, Hanosimex tìm ra nguyên
nhân là do lỗi của máy dò kim loại. Nhà máy may I được trang bị một máy
dò kim loại. Quá trình hoạt động khi đưa mẫu chuẩn vào thử máy báo có
kim loại và dừng lại. Nhưng thực tế khi đưa chiếc áo có dính đầu kim thì
53
máy không có khả năng kiểm soát (lúc có tín hiệu báo có kim loại, lúc lại
không có tín hiệu).
Ngày 17-7-2001, Hanosimex gửi fax cho ITOCHU trình bày lý do nêu
trên và cam kết rằng sẽ thay máy dò kim loại bị hỏng bằng một máy khác,
mỗi sản phẩm sẽ được đưa qua hai máy và sẽ tăng cường việc kiểm soát kim
trong nhà máy. Về chi phí kiểm tra, Hanosimex muốn ITOCHU xem xét lại
và giảm bớt số tiền mà công ty ITOCHU đòi vì sự việc này lần đầu tiên xảy
ra và không thể dự đoán trước được đồng thời hứa sẽ không để xảy ra sự
việc tương tự thêm lần nào nữa.
Ngày 15-8-2001, Hanosimex nhận được thư của ITOCHU nói rằng việc
phải trả 6.000 USD cho việc kiểm lại kim là không hợp lý đối với ITOCHU
và với mong muốn hợp tác lâu dài với Hanosimex, ITOCHU chấp nhận trả
50% số tiền (3000 USD) và mong Hanosimex xác nhận lại và thanh toán
50% số tiền còn lại.
Sau đó, Hanosimex gửi fax cho ITOCHU mong công ty này xem xét lại
để giảm bớt số tiền nêu trên vì nếu phải trả 3000 USD thì Hanosimex sẽ
không có lãi, thậm chí còn bị lỗ đối với đơn hàng này. Tiếp đó, Hanosimex
đề nghị trả 2000 USD thông qua chuyển tiền bằng điện (T/TR) và cam kết sẽ
chào mức giá ưu đãi cho những đơn hàng tiếp theo để chia sẻ thiệt hại của
ITOCHU.
Ngày 20-8-2001, ITOCHU gửi thư thông báo đồng ý chấp nhận số tiền
bồi thường là 2.000 USD và bày tỏ mong muốn rằng sự việc đáng tiếc này
sẽ không bao giờ lặp lại.
Như vậy, tranh chấp đã được giải quyết ổn thoả dựa trên tinh thần hợp
tác, thiện chí của cả hai bên. Uy tín của cả hai bên mà đặc biệt của
Hanosimex vẫn được đảm bảo và hai bên vẫn tiếp tục quan hệ buôn bán lâu
dài với nhau. Trong vụ tranh chấp này, công ty dệt may Hà nội đã rất may
54
mắn có được sự cảm thông của khách hàng ITOCHU do mối quan hệ tốt đẹp
mà hai bên đã thiết lập được vì sự kiện áo có lẫn kim gẫy có thể gây ra hậu
quả rất nghiêm trọng cho người sử dụng và ITOCHU có thể đòi tiền phạt lên
đến 100.000 đến 500.000 USD. Khi đó thì hậu quả đối với Hanosimex sẽ rất
nặng nề. Nhờ giải quyết tranh chấp được bằng khiếu nại mà thông tin này
không bị lộ ra bên ngoài, giữ được uy tín cho công ty. Qua vụ việc trên,
công ty dệt may Hà nội cần phải chú ý hơn nữa đến việc đảm bảo chất lượng
sản phẩm, đặc biệt là phải triệt để trong việc quản lý, kiểm soát kim gẫy còn
lưu lại trong sản phẩm bằng cách kiểm kim qua hai máy, kiểm tra lại độ
nhậy của máy kiểm kim và thay thế máy kiểm kim bị hỏng để tránh những
sự việc đáng tiếc như vậy xảy ra.
Từ vụ tranh chấp này, chúng ta thấy rằng trong khi giải quyết tranh
chấp bằng khiếu nại, mỗi bên chỉ cần mềm mỏng, thiện chí và tỏ ra có tinh
thần hợp tác hơn một chút thì một tranh chấp tưởng chừng như rất phức tạp
sẽ được giải quyết ổn thoả và nhanh chóng (chỉ trong vòng hơn một tháng).
Vì vậy, khi giải quyết tranh chấp bằng con đường khiếu nại thì không những
bên vi phạm mà cả bên bị vi phạm đều nên tỏ rõ tinh thần hợp tác, thiện chí
của mình để tranh chấp có thể được giải quyết nhanh gọn, đỡ tốn thời gian
và chi phí, đồng thời thắt chặt thêm mối quan hệ buôn bán giữa hai bên. Đây
là một điều thường không được đề cập đến trên lý thuyết mà nhìn chung chỉ
dựa vào những kinh nghiệm mà chúng ta rút ra được từ thực tiễn giải quyết
tranh chấp.
Vụ thứ hai: Người mua nước ngoài (Đài Loan) khiếu nại Công ty về
chất lượng áo dệt kim
Ngày 20-6-2001, Công ty Dệt may Hà nội ký phụ lục số 16 của bản
thoả ước chung số 01/HSM-GOLD/01 bán áo dệt kim cho công ty Thương
55
mại GOLDEN WHEAT của Đài Loan với số lượng là 82.962 chiếc, tổng trị
giá là 202.013,40 USD giao hàng vào tháng 6, tháng 7, tháng 8 năm 2001.
Sau đó, Hanosimex đã tiến hành giao hàng cho GOLDEN WHEAT
đúng thời gian qui định trong hợp đồng.
Ngày 14-9-2001, khách hàng GOLDEN WHEAT đã gửi thư khiếu nại
Hanosimex về việc mặt vải của 201 chiếc áo màu Royal mã 5011 bị vệt
trắng (gửi kèm theo áo lỗi) và cho rằng điều này là do khâu nhuộm áo không
tốt. Họ đề nghị công ty bố trí làm lại số áo trên trong thời gian sớm nhất và
số lượng 201 chiếc áo này GOLDEN WHEAT sẽ không thanh toán tiền.
Sau khi nhận được khiếu nại, Hanosimex đã tiến hành điều tra và tìm ra
nguyên nhân của vệt trắng trên mặt vải là do sản phẩm bị dính dầu, nhà máy
may II của công ty thực hiện tẩy dầu bằng phấn rôm. Bụi phấn sẽ được làm
sạch hết khi mà vết tẩy đã khô hoàn toàn. Do dầu chưa khô hẳn mà sản
phẩm đã chuyển sang bao gói nên một số hạt phấn rôm còn dính trên mặt vải
tạo thành vệt trắng trên mặt vải.
Vì vậy, ngày 22-9-2001, công ty dệt may Hà nội đã ký thoả thuận với
GOLDEN WHEAT đồng ý làm lại 201 chiếc áo màu Royal mã 5011 và sẽ
giao cho khách hàng này vào ngày 26-10-2001. Sau khi GOLDEN WHEAT
nhận được hàng thì không có khiếu nại gì nữa.
Vụ khiếu nại này dù đã được giải quyết nhưng nguyên nhân khiếu nại
là do lỗi sơ suất của công ty Hanosimex. Chính vì vậy, công ty đã phải đề ra
một số biện pháp để hạn chế những sơ suất như trên, đó là: thường xuyên vệ
sinh công nghiệp máy móc, kiểm tra các thiết bị, kiểm tra dầu trên các máy,
đặt vải thấm dầu tại các vị trí hay có dầu, rà soát, kiểm tra chặt chẽ các sản
phẩm bị tẩy dầu bằng phấn rôm. Sau khi thực hiện các biện pháp trên, hiện
tượng lỗi trên không còn xảy ra nữa.
56
Qua vụ khiếu nại trên, ta thấy Công ty Dệt may Hà nội dù là vô tình
nhưng đã có sai sót trong khi làm hàng, dẫn đến việc khách hàng phải khiếu
nại về chất lượng sản phẩm. Để giải quyết tranh chấp và cũng như để giữ uy
tín cho mình, bên vi phạm (trong trường hợp này là Công ty Dệt may Hà
nội) cần phải biết nhận lỗi và trách nhiệm nếu như đó thực sự là lỗi và trách
nhiệm của mình. Tiếp đó, bên vi phạm cần có biện pháp thích hợp và kịp
thời để xử lý vi phạm. Nhờ sự thành khẩn nhận lỗi của bên vi phạm cũng
như sự khẩn trương trong việc sửa chữa lỗi lầm mà bên bị vi phạm cảm thấy
vừa lòng và không còn khiếu nại gì nữa. Không những thế, bên bị vi phạm
có thể thậm chí còn đánh giá cao bên vi phạm và muốn thiết lập quan hệ
kinh doanh lâu dài. Vì vậy, trong trường hợp mình thực sự là người có lỗi thì
bên vi phạm cần sớm nhận lỗi chứ không chối vòng vo để tranh chấp được
giải quyết nhanh chóng và giữ được lòng tin của phía bên kia, cũng như là
giữ được khách hàng cho mình.
Vụ thứ ba: Người mua nước ngoài (Hàn Quốc) khiếu nại Công ty về
chất lượng sợi
Tháng 3 năm 2002, công ty thương mại SHINHAN của Hàn Quốc đã
ký 2 hợp đồng số 01/HSM-SH/02 và 02/HSM-SH/02 mua sợi cotton 30/1
chải kĩ của công ty dệt may Hà nội để bán cho một công ty của Mỹ, thanh
toán bằng L/C trả ngay. Theo hợp đồng số 01/HSM-SH/02, Hanosimex sẽ
bán cho SHINHAN một công-ten-nơ 40 feet sợi cotton 30/1 chải kĩ
(17.917,2 kg). Nếu khách hàng SHINHAN thấy chất lượng hàng đảm bảo thì
sẽ mua tiếp hàng theo hợp đồng số 02/HSM-SH/02 với số lượng là
71.668,80 kg (4công-ten-nơ 40 feet).
Thực hiện hợp đồng, ngày 30-4-2002 Hanosimex đã tiến hành giao 1
công-ten-nơ hàng cho công ty SHINHAN.
57
Sau khi nhận hàng, công ty SHINHAN đã kiểm tra chất lượng sợi và
thấy rằng chất lượng hàng phù hợp với qui định trong hợp đồng. Vì vậy,
công ty này đã mở L/C cho việc thực hiện hợp đồng tiếp theo.
Thực hiện hợp đồng số 02/HSM-SH/02, Hanosimex đã giao 4 công-
ten-nơ tiếp theo như sau:
+ Công thứ nhất giao vào ngày 30-6-2002
+ Công thứ hai giao vào ngày 8-7-2002
+ Công thứ ba giao vào ngày 16-7-2002
+ Công thứ tư giao vào ngày 19-7-2002
Sau khi nhận được hàng và kiểm tra, ngày 7-8-2002 SHINHAN đã gửi
thư khiếu nại Hanosimex về chất lượng sợi của 4 công-ten-nơ hàng này.
Theo thư khiếu nại thì 1 công-ten-nơ sợi giao theo hợp đồng số 01/HSM-
SH/02 là ở lô số 7 có chất lượng tốt và khách hàng của họ không phàn nàn
gì, nhưng 4 công-ten-nơ hàng giao hợp đồng số 02/HSM-SH/02 là ở lô số 12
và có chất lượng không đúng yêu cầu của hợp đồng. SHINHAN cho biết
rằng khách hàng của họ yêu cầu trả lại hàng cho phía Việt nam (chi phí do
Hanosimex chịu) và yêu cầu Hanosimex trả lại tiền hàng bằng tiền mặt cho
họ. SHINHAN cũng cho biết họ đã cố gắng để bán lô hàng trên cho khách
hàng khác nhưng không được. Vì vậy, họ không có cách nào khác là phải trả
lại hàng cho Hanosimex.
Với khiếu nại như trên, Hanosimex đã tìm hiểu và tìm ra nguyên nhân
như sau: khi xuất thử 1 công-ten-nơ đầu tiên theo hợp đồng số 01/HSM-
SH/02, để đảm bảo chất lượng công ty đã sử dụng bông tốt (50% bông Mỹ +
50% bông Nga, cấp I) để sản xuất thử. Chất lượng sản phẩm sản xuất ra đạt
yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên các công-ten-nơ xuất sau, do phương án
pha bông khác nhau dẫn đến hiện tượng sợi xù lông cao hơn so với phương
án chạy thử. Vì vậy, ngày 21-8-2002 Hanosimex đã gửi thư cho SHINHAN
58
giải thích lý do trên và đề nghị SHINHAN sử dụng 4 công-ten-nơ hàng trên
cho mục đích khác (ví dụ như để sản xuất sản phẩm khác) đồng thời đồng ý
bồi thường cho SHINHAN bằng cách giảm giá sợi.
Ngày 22-8-2002, SHINHAN gửi thư cho Hanosimex thông báo rằng
khách hàng của họ yêu cầu trả lại 3 công-ten-nơ sợi và giảm giá 1 USD trên
1 kg sợi cho 1 công-ten-nơ mà họ sử dụng. Vì vậy, SHINHAN yêu cầu
Hanosimex sắp xếp thời gian để nhận lại lô hàng và bồi thường cho họ.
Ngày 23-8-2002, Hanosimex lại nhận được thư của SHINHAN nói
rằng khách hàng Mỹ của họ nhất quyết đòi trả lại 3 công-ten-nơ sợi và đòi
bồi thường như trên. SHINHAN cam kết rằng họ sẽ cố gắng thương lượng
với khách hàng của họ để giảm tối đa số tiền bồi thường còn Hanosimex vẫn
buộc phải nhận lại 3 công.
Ngày 26-8-2002, Hanosimex gửi thư cho SHINHAN yêu cầu công ty
này gửi cho Hanosimex biên bản giám định của một cơ quan giám định độc
lập và nói rằng công ty dệt may Hà nội sẽ chỉ chấp nhận mức bồi thường lên
đến 5% trị giá lô hàng được giao.
Ngày 6-9-2002, công ty SHINHAN gửi biên bản giám định và gửi thư
cho Hanosimex thông báo rằng họ đã từ chối những yêu cầu như trên từ phía
khách hàng Mỹ. Họ đề nghị với bên này về việc giảm giá 10% cho 4 công-
ten-nơ hàng (họ chịu 5% và Hanosimex chịu 5%) nhưng khách hàng của họ
không đồng ý. SHINHAN cho rằng phía Mỹ sẽ chấp nhận giảm giá 20%
(SHINHAN chịu 10% và Hanosimex chịu 10%) và mong muốn Hanosimex
cho biết ý kiến về gợi ý này và về việc bồi thường bằng cách chuyển bằng
tiền mặt cho phía Mỹ.
Ngày 9-9-2002, Hanosimex gửi thư cho SHINHAN khẳng định lại rằng
công ty chỉ chấp nhận bồi thường 5% trị giá 4 công-ten-nơ sợi đã giao và chỉ
có thể bồi thường bằng cách chuyển tiền bằng điện.
59
Ngày 25-9-2002, công ty dệt may Hà nội nhận được thư của
SHINHAN với nội dung như sau: công ty này đã thoả thuận bồi thường
20.000 USD cho khách hàng Mỹ của họ do chất lượng sợi không đảm bảo.
SHINHAN yêu cầu Hanosimex chuyển bằng điện số tiền 7.688,56 (5%) như
Hanosimex đã chấp nhận vào tài khoản của SHINHAN tại ngân hàng
HANA Bank, số tiền còn lại (12.331,44 USD) SHINHAN sẽ chịu để giữ uy
tín và quan hệ của họ với phía Mỹ.
Bức thư gửi ngày 25-9-2002 của SHINHAN đã được Hanosimex chấp
nhận và Hanosimex đã tiến hành việc chuyển tiền cho SHINHAN.
Qua vụ tranh chấp trên ta nhận thấy trên thực tế tranh chấp được giải
quyết thành công thì một phần không nhỏ là do sự thiện chí, nhượng bộ của
khách hàng SHINHAN. Chính vì SHINHAN không muốn kéo dài sự việc và
mất quá nhiều thời gian cho tranh chấp, đồng thời cũng không muốn bị đọng
vốn nên đã chấp nhận mức bồi thường 5% của Hanosimex. Một nguyên
nhân khác nữa là do lỗi này không quá nghiêm trọng và hậu quả của nó cũng
không đến mức nặng nề. Nhưng dù sao Hanosimex cũng cần rút kinh
nghiệm để tránh những tranh chấp đáng tiếc như vậy xảy ra.
Từ vụ tranh chấp trên, chúng ta thấy rằng việc tạo được những mối
quan hệ tốt đẹp trong kinh doanh là vô cùng quan trọng. Một vụ tranh chấp
có liên quan đến ba bên tưởng chừng phải đưa ra trọng tài lại có thể được
giải quyết chỉ bằng biện pháp khiếu nại. Khi giải quyết tranh chấp, sự thông
cảm và chia sẻ của bên bị vi phạm là rất cần thiết, góp phần giúp tranh chấp
được giải quyết ổn thoả. Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh chúng ta cần
phải biết tạo dựng và tận dụng những mối quan hệ tốt đẹp và lâu dài để đem
lại lợi ích cho mình và để tránh tranh chấp hoặc để việc giải quyết tranh chấp
xảy ra được dễ dàng, thuận tiện và đỡ tốn chi phí hơn.
60
Vụ thứ tư: Người mua nước ngoài (Đài Loan) khiếu nại Công ty về việc
giao thiếu hàng
Ngày 27-4-2002, Công ty Dệt may Hà nội đã ký hợp đồng số 02/HSM-
CTR/02 bán cho khách hàng CHERRITEX của Đài Loan sợi 30 cotton chải
thô với số lượng là 71.668,80 kg (1580 hộp cát tông đóng trong 4 công-ten-
nơ 40 feet), thanh toán bằng L/C không huỷ ngang trả chậm sau 90 ngày kể
từ ngày giao hàng.
Thực hiện đúng hợp đồng, Hanosimex đã tiến hành giao hàng đúng hạn
cho khách hàng CHERRITEX.
Ngày 5-7-2002, Hanosimex nhận được bản fax của CHERRITEX thông
báo về việc nhận hàng bị thiếu trọng lượng, tổng cộng số hàng thiếu là
544,32 kg tương đương với 12 hộp cát tông.
Ngày 13-8-2002, CHERRITEX gửi thư cho Hanosimex khiếu nại về
việc giao hàng thiếu 12 hộp cát tông và yêu cầu Hanosimex giao bù số hàng
thiếu trong chuyến giao hàng sau hoặc cho CHERRITEX biết về giải pháp
của Hanosimex.
Ngày 13-9-2002, CHERRITEX lại tiếp tục gửi thư cho Hanosimex giục
công ty này xem xét giải quyết sự việc xảy ra theo phương án như đã trình
bày trong thư ngày 13-8-2002.
Dựa trên thư khiếu nại của CHERRITEX, Hanosimex đã tiến hành điều
tra và nhận thấy rằng trong chuyến giao hàng thứ hai vào ngày 29-5-2002
trên tàu MEKONG BRIGHT, vận đơn số VHNVA8934 và hoá đơn số 02-
02/HSM-CTR/02, công ty đã giao thiếu 544,32 kg (tương đương 12 hộp cát
tông). Nhà máy sợi của công ty đã tìm ra nguyên nhân là: nhằm đảm bảo
chất lượng sợi xuất khẩu nên trong quá trình sản xuất nhà máy đã khống chế
không được đánh ống sợi quá chặt, do quá trình đánh ống lỏng đã gây nên
hiện tượng thiếu hàng trên.
61
Để giữ uy tín cho mình cũng như để tránh thiệt hại quá nhiều cho
khách, Hanosimex đã chấp nhận đền bù cho CHERRITEX 50% số lượng
hàng bị thiếu, tức là 272,16 kg sợi 30 cotton chải thô (=6 hộp cát tông). Số
hàng trên sẽ được giao miễn phí trong tháng 9 và tháng 10 năm 2002.
Khách hàng CHERRITEX đã gửi thư chấp nhận sự đền bù của
Hanosimex.
Như vậy, vụ việc trên đã được Hanosimex giải quyết ổn thoả. Ta có thể
nhận thấy rằng trong vụ việc này, sự vi phạm của Hanosimex là không có gì
nghiêm trọng và cũng đã có lý do hợp lý để giải thích cho sự vi phạm này.
Bên cạnh đó cũng phải kể đến sự thiện chí trong quan hệ với Hanosimex của
khách hàng CHERRITEX. Chính vì vậy, CHERRITEX đã dễ dàng chấp
nhận giải pháp của Hanosimex và vẫn tiếp tục đặt hàng của công ty.
Qua vụ tranh chấp trên, ta thấy trong khi giải quyết tranh chấp bằng
khiếu nại bên bị vi phạm không nên tỏ ra quá cứng rắn và chỉ biết đòi hỏi
đầy đủ quyền lợi cho mình mà cũng cần phải biết quan tâm đến bên vi phạm
và lý do mắc lỗi. Nhiều khi lý do mắc lỗi của bên vi phạm lại là để bảo vệ
quyền lợi của bên bị vi phạm như trong trường hợp trên. Vì vậy, khi bên vi
phạm đã nhận lỗi và chịu một phần trách nhiệm về mình thì bên bị vi phạm
cũng nên tỏ ra thiện chí và hợp tác để tranh chấp được giải quyết nhanh gọn
và ổn thoả như vụ việc trên, đỡ tốn thêm thời gian và chi phí.
Ngoài những vụ khiếu nại như trên, thực tế tranh chấp thường xuyên
xảy ra tại công ty dệt may Hà nội. Các tranh chấp thường là do việc giao
hàng không đúng chất lượng theo hợp đồng, giao hàng thiếu hoặc hàng giao
chậm so với qui định trong hợp đồng, chỉ có một số ít trường hợp đặc biệt
như là vụ tranh chấp do áo có lẫn kim gẫy kể trên. Nhìn chung, để giải quyết
khiếu nại công ty thường trả tiền bồi thường cho khách hàng, giao bù hàng
hoặc giao hàng chậm bằng máy bay để khách hàng kịp nhận được hàng vào
62
đúng ngày qui định. Một điều may mắn là công ty dệt may Hà nội có được
những bạn hàng rất thiện chí do họ ưa chuộng mẫu mã, chất lượng sản phẩm
của công ty, đồng thời giá cả các sản phẩm của công ty cũng tương đối phải
chăng. Bên cạnh đó, họ cũng muốn thiết lập những mối quan hệ buôn bán tốt
đẹp, lâu dài trên cơ sở hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau. Không những thế, bạn
hàng của công ty còn là những người rất có văn hoá trong kinh doanh, vì vậy
những tranh chấp mà thường là do lỗi ở Hanosimex có thể được giải quyết
ổn thoả bằng khiếu nại chứ chưa bao giờ phải đi kiện ra toà án hay trọng tài.
Điều này cũng một phần là do các tranh chấp xảy ra thường không quá
nghiêm trọng và không để lại hậu quả nặng nề. Sau khi tranh chấp được giải
quyết, các khách hàng lại tiếp tục những đơn đặt hàng mới với Hanosimex.
Nói tóm lại, qua việc giải quyết thành công một số vụ tranh chấp bằng
khiếu nại của Công ty Dệt may
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Giải quyết các tranh chấp trong ngoại thương và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Công ty dệt may Hà Nội.pdf