Luận văn Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo của thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay

Tài liệu Luận văn Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo của thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo của Thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Lương thực nói chung và mặt hàng gạo nói riêng có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người. Mặc khác, sản xuất lúa gạo lại liên quan đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân, một khu vực nhạy cảm và có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Hơn nữa, lúa gạo là một trong những lợi thế so sánh quan trọng của Việt Nam. Trong điều kiện tự do hóa thương mại, việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo sẽ góp phần khai thác lợi thế so sánh cho phát triển kinh tế, ổn định chính trị – xã hội. ở Việt Nam, trong nhiều năm qua, sản xuất và xuất khẩu gạo đã đạt được nhiều thành tích quan trọng. Gạo xuất khẩu đã trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Đóng góp vào thành tích chung đó phải kể đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có...

pdf83 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo của thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo của Thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Lương thực nói chung và mặt hàng gạo nói riêng có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người. Mặc khác, sản xuất lúa gạo lại liên quan đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân, một khu vực nhạy cảm và có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Hơn nữa, lúa gạo là một trong những lợi thế so sánh quan trọng của Việt Nam. Trong điều kiện tự do hóa thương mại, việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo sẽ góp phần khai thác lợi thế so sánh cho phát triển kinh tế, ổn định chính trị – xã hội. ở Việt Nam, trong nhiều năm qua, sản xuất và xuất khẩu gạo đã đạt được nhiều thành tích quan trọng. Gạo xuất khẩu đã trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Đóng góp vào thành tích chung đó phải kể đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có Cần Thơ. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp Cần Thơ trong thời gian qua còn nhiều hạn chế. Tình trạng sản xuất, chế biến gạo xuất khẩu với quy mô nhỏ, phân tán, công nghệ xay xát, chế biến lạc hậu đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng gạo xuất khẩu, làm giảm khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu Cần Thơ trên thị trường thế giới, hạn chế hiệu quả xuất khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo Cần Thơ. Tình trạng cạnh tranh mua gạo xuất khẩu của người sản xuất và cạnh tranh bán gạo cho khách hàng nước ngoài, giữa các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu vẫn chưa được khắc phục, gây thiệt hại cho lợi ích quốc gia và cho doanh nghiệp... Thực tế trên đòi hỏi cần phải có những giải pháp phù hợp, thúc đẩy xuất khẩu gạo hơn nữa, để khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng, lợi thế so sánh của Cần Thơ cho phát triển kinh tế của địa phương và phát triển kinh tế đất nước. Thực tế đó cũng đòi hỏi cần có sự nghiên cứu một cách hệ thống và sâu sắc hoạt động xuất khẩu gạo ở Cần Thơ, để đề ra một số giải pháp khắc phục những hạn chế trong hoạt động xuất khẩu gạo, đảm bảo cho hoạt động này phát triển cả về chất và lượng. Đây chính là lý do tác giả chọn đề tài: " Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo của Thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay " làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xuất khẩu gạo là hoạt động được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu mang tính chất tổng thể trong nền kinh tế và từng địa phương, từng khu vực. Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết xung quanh vấn đề này. Nghiên cứu các công trình trên, tác giả nhận thấy có ba hướng nghiên cứu:  Những công trình nghiên cứu về chính sách xuất khẩu nông sản của Việt Nam: - PTS Nguyễn Văn Bích, KS Chu Tiến Quang: Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. - GS.TS Bùi Xuân Lưu: Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2004. - TS. Trịnh Thị Ái Hoa: Chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007. Nhóm các công trình nghiên cứu về chính sách xuất khẩu nông sản của các tác giả trên đề cập đến các chính sách tác động trực tiếp, gián tiếp đến người sản xuất nông sản; các chính sách bảo hộ nông sản trong khuôn khổ quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Một số tác giả lại bàn về giải pháp kết hợp các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhằm làm tăng lợi ích cạnh tranh của các doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu hàng nông sản.  Những công trình, bài viết về thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam: - PTS. Nguyễn Trung Vãn: Lương thực Việt Nam - Thời đổi mới hướng xuất khẩu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. - PTS. Nguyễn Đình Long, PTS. Nguyễn Tiến Mạnh, Nguyễn Võ Định: Phát huy lợi thế nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1999. - Tác giả Kim Quốc Chính: Dự báo khả năng xuất khẩu gạo của Việt Nam thời kỳ 2001-2010, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 284, 1/2004. - TS. Lưu Văn Nghiêm: Marketing mở rộng thị trường, tăng hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 88, 10/2004. Nhóm các công trình, bài viết về thị trường xuất khẩu nông sản tập trung phân tích các động thái của thị trường nông sản, giải pháp để mở rộng thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, một số tác giả đưa ra các giải pháp để phát huy khả năng cạnh tranh hàng nông sản trên phạm vi một quốc gia.  Những công trình, bài viết về giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam - TS. Nguyễn Khắc Thanh: Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian trước mắt, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 310, 3/2004. - TS. Lê Thị Anh Vân: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu một số hàng nông sản Việt Nam giai đoạn 2002-2010, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 92, 2/2005. - PGS.TS. Nguyễn Trường Sơn: Nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 96, 6/2005. - TS. Mai Thị Thanh Xuân: Công nghiệp chế biến với việc nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 341, 10/2006. Đối với nhóm các công trình, bài viết về giải pháp thúc đẩy thúc xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam, đây là nhóm các vấn đề liên quan trực tiếp đến luận văn này. Những công trình, bài viết này có đặc điểm chung là nghiên cứu về các giải pháp đồng bộ để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông sản nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng ở phạm vi quốc gia. Ngoài ra, một số tác giả còn đưa ra những luận cứ để định hướng tập trung vào các mặt hàng nông sản xuất khẩu có lợi thế so sánh của Việt Nam, trong đó có mặt hàng gạo xuất khẩu. Tóm lại, các công trình, bài viết trên tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả về mặt lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động xuất khẩu nông sản nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chi tiết và hệ thống các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu một mặt hàng cụ thể tại một địa phương cụ thể thông qua việc khảo sát các doanh nghiệp xuất khẩu. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về xuất khẩu gạo và thực tiễn xuất khẩu gạo ở Thành phố Cần Thơ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo của thành phố Cần Thơ trong thời gian tới. Với mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ: + Phân tích và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về xuất khẩu gạo. + Phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo ở thành phố Cần Thơ. + Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu gạo của thành phố Cần Thơ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo nghiên cứu ở đây được xét theo nghĩa rộng. Điều đó có nghĩa là, nghiên cứu xuất khẩu gạo không chỉ nghiên cứu động thái xuất khẩu gạo (nghiên cứu về giá trị xuất khẩu, khối lượng xuất khẩu, chất lượng, giá cả xuất khẩu...) mà còn nghiên cứu một chuỗi các hoạt động, từ thu mua – xay xát, chế biến – nghiên cứu thị trường – bán hàng cho khách hàng nước ngoài. Về phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ nghiên cứu hoạt động xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trên địa bàn Cần Thơ và các doanh nghiệp của Cần Thơ là chủ yếu. Hoạt động của các doanh nghiệp các tỉnh bạn trên địa bàn Cần Thơ chỉ được xem xét tới như là nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp ở Cần Thơ. Về thời gian, luận văn nghiên cứu hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo của Cần Thơ trong khoảng thời gian từ 2004 đến 2007, các số liệu được cập nhật đến năm 2007. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Khi nghiên cứu đề tài, luận văn đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng các phương pháp khác để nghiên cứu như phương pháp nghiên cứu thực tế, trừu tượng hóa, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để giải quyết các vấn đề. Đồng thời, đề tài cũng kế thừa và sử dụng có chọn lọc những thông tin trong một số công trình nghiên cứu của các tác giả khác đã công bố. 6. Những đóng góp của luận văn Hệ thống hóa và làm rõ thêm các vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn hoạt động xuất khẩu gạo của thành phố Cần Thơ. Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gạo trên địa bàn thành phố Cần Thơ trong thời gian tới như: giải pháp đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, liên kết 4 nhà, giải pháp liên kết thị trường gạo Cần Thơ với thị trường gạo các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 MộT Số vấn đề CHUNG Về XUấT KHẩU GạO 1.1. Vai trò và ĐặC ĐIểM xuất khẩu gạo ở việt nam Và CầN THƠ 1.1.1. Vai trò xuất khẩu gạo đối với nền kinh tế Việt Nam và Cần Thơ 1.1.1.1. Xuất khẩu gạo với việc khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh của đất nước cho phát triển kinh tế Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối và lý thuyết lợi thế tương đối, trong điều kiện tự do hóa thương mại, các quốc gia đều được lợi từ việc tham gia thương mại quốc tế. Mỗi quốc gia đều có những lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối trong việc sản xuất một mặt hàng nào đó. Nếu các quốc gia chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi hàng hóa mà mình có lợi thế thì sẽ thu được lợi ích từ những lợi thế đó. Vậy khi tham gia vào thị trường thế giới, Việt Nam có những lợi thế so sánh nào? Theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam có rất nhiều lợi thế của một nước nông nghiệp nhiệt đới. Gạo là một trong những lợi thế quan trọng mà Việt Nam có được do điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, khí hậu, đất đai, tài nguyên thiên nhiên cùng với kỹ thuật trồng lúa nước đã được đúc kết từ lâu đời mang lại. Ngoài ra, Việt Nam còn có lực lượng lao động dồi dào, với năng suất lao động tương đối cao. Do đó, chi phí sản xuất lúa gạo ở Việt Nam tương đối thấp so với nhiều nước trên thế giới. Việc Việt Nam tập trung cho sản xuất và xuất khẩu gạo thu ngoại tệ sẽ góp phần khai thác tiềm năng, lợi thế về sản xuất gạo cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, những lợi thế về sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện nay là lợi thế so sánh tĩnh. Lợi thế này có thể sẽ mất đi hoặc giảm giá trị trong tương lai, khi những lợi thế mới, lợi thế so sánh động xuất hiện. Do đó, Việt Nam cần tranh thủ khai thác các lợi thế này trước khi lợi thế sản xuất và xuất khẩu gạo có thể bị san bằng. Đồng thời, chúng ta cũng cần chủ động tạo ra những điều kiện cho lợi thế so sánh động mới xuất hiện, tiếp tục khai thác lợi thế so sánh đó cho phát triển kinh tế. 1.1.1.2. Xuất khẩu gạo góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Theo lý thuyết cạnh tranh hoàn hảo, trong điều kiện tự do cạnh tranh, nguồn lực sẽ được phân bổ một cách có hiệu quả nhất. Theo đó, một cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ được hình thành dưới sự tác động của thị trường. Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo trong điều kiện tự do hóa thương mại. Điều đó, cũng đồng nghĩa với việc nguồn lực trong nước được phân bổ, chuyển dịch để hình thành cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Hơn nữa, cơ cấu kinh tế đó còn được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi lẽ, để thúc đẩy xuất khẩu gạo có hiệu quả, đòi hỏi tư duy người nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải thay đổi sao cho phù hợp với những tín hiệu của thị trường gạo quốc tế. Điều đó, cũng có nghĩa là nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cần phải biết rằng mọi hoạt động sản xuất và chế biến đều phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Họ chỉ sản xuất và chế biến những sản phẩm gạo theo nhu cầu mà thị trường cần. Theo đó, sẽ hình thành những vùng sản xuất lúa gạo tập trung, qui mô lớn để phục vụ hoạt động xuất khẩu đáp ứng nhu cầu thị trường. Bằng cách đó, xuất khẩu gạo sẽ giúp hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn hợp lý theo tín hiệu của thị trường. Khi đó, nền kinh tế thị trường sẽ chỉ thừa nhận những cơ cấu kinh tế hiệu quả, nghĩa là cơ cấu có khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường và đem lại thu nhập, lợi nhuận cao nhất cho người sản xuất. Xuất khẩu gạo không chỉ thúc đẩy sự hình thành cơ cấu vùng sản xuất lúa gạo tập trung mà còn kéo theo sự hình thành và phát triển công nghiệp chế biến, xay xát gạo. Chúng ta biết rằng, ngành công nghiệp chế biến, xay xát gạo giữ vai trò rất quan trọng trong việc làm tăng giá trị mặt hàng xuất khẩu gạo gấp nhiều lần. Điều đó cũng sẽ làm tăng tính cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng và phong phú của người tiêu dùng gạo trên thế giới. Khi ngành công nghiệp chế biến, xay xát gạo phát triển sẽ kéo theo sự phát triển các ngành nghề và dịch vụ phục vụ hoạt động xuất khẩu. Điều này sẽ thúc đẩy việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tích cực, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong GDP. Cùng với quá trình hình thành và phát triển các ngành công nghiệp chế biến xay xát gạo và dịch vụ trên địa bàn nông thôn, khi đó cơ cấu lao động trong nông nghiệp và nông thôn cũng có sự chuyển biến theo hướng giải phóng lao động nông nghiệp và chuyển sang các hoạt động công nghiệp và dịch vụ tại chỗ, tất yếu dẫn đến việc phân công lao động nông thôn theo hướng đa ngành nghề, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn theo hướng tích cực. Hoạt động xuất khẩu gạo cùng với các mặt hàng nông sản khác đã và đang góp phần tạo nguồn vốn ngoại tệ tương đối lớn, qua đó để nhập khẩu vật tư, máy móc thiết bị, công nghệ, giống, phân bón… nhằm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khi hoạt động sản xuất và chế biến lúa gạo được công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao. Đến lượt nó, tác động trở lại và làm gia tăng năng suất và chất lượng gạo xuất khẩu nói riêng và mặt hàng nông sản nói chung. Bên cạnh đó, nếu hoạt động xuất khẩu gạo đạt hiệu quả sẽ có tác động tích cực trong bình ổn giá gạo trong nước trong thời điểm chính vụ. Xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới, điều đó có nghĩa là làm giảm dư cung gạo trên thị trường nội địa, đẩy giá gạo trong nước tăng, và làm tăng thu nhập cho người nông dân, giúp họ an tâm trong việc sản xuất, góp phần bảo đảm an ninh lương thực trong nước. 1.1.1.3. Xuất khẩu gạo góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu Trước đây, nói đến Việt Nam, thế giới biết đến như là một nước nhỏ bé, chịu hậu quả chiến tranh nặng nề, thiếu đói triền miên. Việt Nam thường xuyên phải nhận viện trợ lương thực hoặc nhập khẩu lương thực từ bên ngoài. Song, với quyết tâm đổi mới và bằng những chính sách đúng đắn. Năm 1989, Việt Nam đã xuất khẩu được gạo và trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba thế giới sau Thái Lan và Mỹ. Từ đó cho đến nay, xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng trưởng liên tục. Việt Nam đã vượt qua Mỹ và giữ vị trí xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới. Rõ ràng, vị trí này đã góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Cuộc khủng hoảng lương thực thế giới vừa qua, Việt Nam đã được nhiều nước quan tâm, đề nghị Việt Nam tham gia hợp tác với Thái Lan, Mianma...và nhiều nước sản xuất và xuất khẩu gạo khác trên thế giới hỗ trợ, tình trạng thiếu lương thực ở nhiều nước trên thế giới. 1.1.1.4. Xuất khẩu gạo với phát triển kinh tế ở thành phố Cần Thơ Những năm gần đây, hoạt động thương mại nói chung và xuất khẩu gạo trên địa bàn thành phố Cần Thơ đã có chuyển biến quan trọng và thu được những thành tích đáng khích lệ. Thị trường từng bước được mở rộng với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Hàng hoá đa dạng, phong phú, lưu thông thông suốt, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, cải thiện đời sống dân cư và đóng góp đáng kể vào tăng trưởng GDP của Thành phố. Trong giai đoạn 2004 - 2007, với cơ chế chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu của Nhà nước, hoạt động xuất khẩu trên địa bàn thành phố Cần Thơ khá sôi động. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm đều tăng khá cao, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế Cần Thơ trong quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Năm 2004, giá trị xuất khẩu đạt gần 317,668 triệu USD, đến năm 2007, tăng lên 551,813 triệu USD; gấp 1,74 lần năm 2004. Tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn thành phố giai đoạn 2004 - 2007 đạt 20,29%/năm. Riêng năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của thành phố Cần Thơ tăng 16,58% so với năm 2006. Trong đó xuất khẩu gạo mang về cho thành phố 145 triệu USD, chiếm 26,27% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của thành phố Cần Thơ [7, tr.207]. 1.1.2. Đặc điểm xuất khẩu gạo Hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo luôn gắn liền với thị trường gạo xuất khẩu. Do vậy, hoạt động xuất khẩu gạo cũng mang một số đặc điểm như thị trường gạo xuất khẩu. Chúng ta có thể thấy rằng, hoạt động xuất khẩu gạo có một số đặc điểm cơ bản sau: 1.1.2.1. Xuất khẩu gạo mang tính thời vụ và tính khu vực (vùng miền) Sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên như đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng, vị trí địa lý…Quy mô, sản lượng của các ngành sản xuất nông nghiệp bị giới hạn bởi diện tích đất đai, giới hạn năng suất. Mặt khác, sản xuất nông sản còn chịu ảnh hưởng lớn của thời tiết, khí hậu, sâu hại, dịch bệnh…Sản phẩm nông nghiệp có quy luật sinh trưởng và phát triển tự nhiên, không giống như các sản phẩm công nghiệp. Ngay trong cùng một loại cây con, nhưng giống khác nhau thì sẽ có qui luật sinh trưởng khác nhau. Do đó, quá trình sản xuất nông sản luôn gắn liền và phụ thuộc vào quá trình sinh trưởng theo qui luật tự nhiên của cây trồng. Phần lớn các nông sản nói chung và lúa gạo nói riêng được thu hoạch theo vụ mùa, tập trung vào những thời gian nhất định trong năm. Do đặc tính nông sản là các sản phẩm tươi sống nên đa số các loại nông sản đòi hỏi phải được tiêu dùng trong một thời gian nhất định sau khi thu hoạch. Nếu nông sản không được bảo quản và chế biến tốt sẽ dẫn đến ẩm mốc và hư hỏng. Do thu hoạch theo thời vụ nhất định nên việc tiêu thụ nông sản nói chung và lúa gạo nói riêng thường gặp khó khăn vào lúc chính vụ vì cung trên thị trường tăng mạnh. Nếu vào vụ mùa không có cách bảo quản và chế biến lúa gạo tốt, có thể gây ứ đọng hàng hóa và dẫn đến giảm hẳn giá trị sử dụng và gây thiệt hại lớn cho người nông dân. Bên cạnh đó, mỗi vùng, mỗi quốc gia, mỗi khu vực đều có những đặc điểm riêng về đất đai, vị trí địa lý, khí hậu…Do vậy, mỗi nơi đó sẽ có những lợi thế riêng để phát triển ngành sản xuất nông nghiệp nào đó. Riêng ở nước ta, đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là hai vựa lúa của cả nước...Chính điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng sẽ tạo nên sản phẩm lúa gạo với đặc tính riêng, nổi trội của mỗi loại gạo như gạo Tám thơm Hải Dương, Nam Định; gạo Tám xoan Bắc Ninh, Thái Bình ở đồng bằng sông Hồng hay gạo Nàng hương, Chợ Đào ở đồng bằng sông Cửu Long. Chính vì vậy, hoạt động xuất khẩu gạo mang tính thời vụ và đặc trưng sản phẩm gạo của từng vùng miền. 1.1.2.2. Xuất khẩu gạo có tính liên ngành cao Hoạt động xuất khẩu gạo liên quan tới rất nhiều ngành, từ sản xuất tới xuất khẩu gạo. Tại khâu sản xuất lúa gạo, có rất nhiều ngành tham gia. Như nghiên cứu sản xuất giống, ngành sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thủy lợi, điện, ngành chế tạo máy nông nghiệp... ở khâu thu hoạch, bảo quản và chế biến gạo xuất khẩu, các ngành công nghiệp chế biến, xay xát, ngành công nghiệp bảo quản sau thu hoạch, giao thông vận tải... có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng gạo xuất khẩu. Tại khâu cuối cùng của hoạt động xuất khẩu là bán gạo cho khách hàng nước ngoài, các ngành ngân hàng, bảo hiểm, vận tải biển, tòa án, hải quan, thương mại... là những ngành có vai trò trực tiếp đối với xuất khẩu gạo. Như vậy, có thể thấy rằng, xuất khẩu gạo là hoạt động có tính liên ngành rất cao. Hoạt động xuất khẩu gạo sẽ đạt hiệu quả cao khi các ngành có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng. Bởi lẽ, chính sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành trong từng khâu và liên kết giữa các khâu một cách hợp lý sẽ là điều kiện nâng cao năng suất và giảm chi phí sản xuất và xuất khẩu gạo, theo đó, nâng cao khả năng cạnh tranh về giá và lượng của gạo xuất khẩu. 1.1.2.3. Xuất khẩu gạo có tính nhạy cảm cao Gạo là mặt hàng có tính nhạy cảm cao do nó là mặt hàng thiết yếu, đáp ứng nhu cầu cần thiết cơ bản của con người, của cả xã hội. Do đó, xuất khẩu gạo cũng mang tính nhạy cảm cao. Tính nhạy cảm đó được thể hiện ở chỗ sự biến động của hoạt động xuất khẩu gạo sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nguồn cung gạo của thị trường trong nước, dẫn đến giá gạo ở thị trường trong nước cũng biến động theo. Mặt khác, nông dân là lực lượng chiếm tỷ lệ cao trong dân số cả nước, thu nhập của họ chủ yếu từ việc bán nông sản, trong đó lúa gạo chiếm tỷ trọng rất cao. Vì vậy, thu nhập của họ sẽ bấp bênh khi hoạt động xuất khẩu gạo có những biến động lớn. Nếu xuất khẩu gạo trong năm theo chiều hướng có lợi sẽ làm giảm áp lực nguồn cung gạo trong năm, khi đó giá lúa ở thị trường trong nước sẽ tăng, thu nhập người nông dân được cải thiện, giảm thiểu tình trạng đói nghèo, tệ nạn xã hội ở nông thôn và ngược lại. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến ổn định chính trị, xã hội của quốc gia. Cuối cùng, xuất khẩu gạo là hoạt động không chỉ có tính nhạy cảm ở Việt Nam, mà còn nhạy cảm ở hầu hết các nước có nhu cầu tiêu dùng gạo trên thế giới. Cụ thể, đầu năm 2007, vì lý do an ninh lương thực, Việt Nam tạm ngưng xuất khẩu gạo trong hai tháng. Giá gạo trên thị trường thế giới đã tăng rất cao. Điều này, cũng thể hiện tính nhạy cảm của xuất khẩu gạo đối với vấn đề an ninh lương thực, là vấn đề quan tâm của rất nhiều nước trên thế giới. 1.1.2.4. Xuất khẩu gạo có tính cạnh tranh cao Thị trường nông sản nói chung và thị trường lúa gạo trong nước nói riêng là thị trường có tính cạnh tranh cao. ở đó, có rất nhiều người tham gia mua – bán gạo. Mỗi người sản xuất, mỗi doanh nghiệp xuất khẩu chỉ cung ứng ra thị trường số lượng lúa gạo rất nhỏ so với tổng lượng cung. Vì thế, họ không thể độc quyền được giá cả. Họ tham gia thị trường hay rút khỏi thị trường cũng không ảnh hưởng đến mức giá đã hình thành trên thị trường. Người nông dân, cũng như doanh nghiệp xuất khẩu không thể độc quyền quyết định giá cả, mà phải chấp nhận mức giá đã hình thành khách quan trên thị trường. Chính sự vận động đó đã tác động đến hoạt động sản xuất, xuất khẩu của người sản xuất, chế biến và người tiêu dùng gạo. Trong điều kiện cầu tăng chậm, cung của người sản xuất tăng thì người tiêu dùng có lợi, người sản xuất sẽ bị thiệt. Nếu người sản xuất thu hẹp cung để được hưởng giá cao thì người tiêu dùng bị thiệt. ở thị trường trong nước, tính cạnh tranh chủ yếu thể hiện thông qua cạnh tranh bán giữa những người nông dân và cạnh tranh mua giữa các doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, trên thị trường thế giới, tính cạnh tranh của hoạt động xuất khẩu gạo thấp hơn. Số nước tham gia xuất nhập khẩu gạo trên thị trường thế giới không nhiều. Do đó, cạnh tranh trên thị trường gạo thế giới không gay gắt bằng cạnh tranh trên thị trường gạo trong nước. Cạnh tranh giữa các quốc gia chủ yếu là cạnh tranh về chất lượng gạo xuất khẩu, hoặc các dịnh vụ có liên quan đến hoạt động xuất khẩu gạo. Những thay đổi về giá cả ở thị trường nội địa thường là kết quả của sự biến động giá ở thị trường quốc tế. Song, so với các thị trường khác, cạnh tranh trên thị trường gạo thường diễn ra căng thẳng hơn. 1.2. Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo 1.2.1. Nội dung của hoạt động xuất khẩu gạo Hoạt động xuất khẩu gạo bao gồm nhiều khâu. Khi nghiên cứu hoạt động xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp chúng ta có thể xét tới ba nội dung chủ yếu. Một là, hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp; hai là, hoạt động thu mua và chế biến xay xát gạo xuất khẩu; ba là, hoạt động bán gạo cho khách hàng nước ngoài. 1.2.1.1. Hoạt động nghiên cứu thị trường Vấn đề đầu tiên mà các doanh nghiệp xuất khẩu cần quan tâm đó là nghiên cứu thị trường một cách cụ thể và chi tiết. Nghiên cứu thị trường càng cụ thể và chi tiết sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động, linh hoạt trong hoạt động xuất khẩu. Thị trường là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Đối với bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh nào, công tác nghiên cứu thị trường luôn là công việc đầu tiên giúp các doanh nghiệp nắm vững các yếu tố thị trường, hiểu biết các quy luật vận động của thị trường từ đó đưa ra các ứng xử kịp thời, phù hợp. Đặc biệt là đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu, việc nghiên cứu thị trường lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Nghiên cứu thị trường là cả một quá trình tìm hiểu khách quan, có hệ thống cùng với việc phân tích tổng hợp các thông tin cần thiết để giải quyết các vấn đề về hoạt động marketing. Đối với hoạt động xuất khẩu, quá trình nghiên cứu thị trường đòi hỏi phải công phu, tỉ mỉ hơn vì khối lượng và giá trị của những mặt hàng xuất khẩu thường rất lớn so với buôn bán trong nước. Hơn nữa, dưới góc độ nào đó kinh doanh ngoại thương chứa đựng nhiều rủi ro hơn so với kinh doanh nội địa nếu chỉ cần một sự bất cẩn sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Tham gia hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường gạo trong nước (thị trường thu mua lúa gạo xuất khẩu) và thị trường gạo thế giới (thị trường xuất khẩu gạo): - Nghiên cứu thị trường gạo trong nước, các doanh nghiệp cần nghiên cứu tình hình sản xuất lúa gạo và nhu cầu gạo trong nước; nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh mua gạo xuất khẩu; nghiên cứu các loại gạo được sản xuất và bán trên thị trường; điều kiện kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, các cơ sở chế biến gạo xuất khẩu trong nước, chính sách của Nhà nước đối với lương thực và đối với xuất khẩu gạo. - Nghiên cứu thị trường gạo thế giới, các doanh nghiệp phải tìm hiểu tình hình sản xuất và tiêu thụ gạo trên thị trường thế giới, xu hướng tiêu dùng gạo của người tiêu dùng thế giới; nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng thế giới đối với mặt hàng gạo. Ngoài ra, các doanh nghiệp phải nghiên cứu tình hình, khả năng của các nước xuất nhập khẩu gạo chủ yếu; nghiên cứu luật pháp, phong tục, tập quán, văn hóa, điều kiện giao thông vận tải, kho chứa, bến bãi, thông tin liên lạc của các nước nhập khẩu... Tóm lại, nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trên thị trường mua và bán gạo được tập trung vào nghiên cứu tình hình sản xuất và tiêu thụ gạo; nghiên cứu mặt hàng; nghiên cứu đối thủ cạnh tranh; nghiên cứu chính sách của Chính phủ nước mình và chính sách của Chính phủ các nước xuất nhập khẩu gạo; nghiên cứu các điều kiện cụ thể của thị trường. 1.2.1.2. Hoạt động thu mua và chế biến xay xát gạo xuất khẩu Hoạt động thu mua và chế biến xay xát gạo xuất khẩu là một khâu quan trọng trong hoạt động xuất khẩu. Nó bảo đảm nguồn cung ứng gạo xuất khẩu đủ tiêu chuẩn để phục vụ xuất khẩu. - Khâu thu mua lúa gạo Khâu thu mua là khâu rất quan trọng bảo đảm tính đồng nhất của lúa gạo phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo thu mua lúa gạo bằng nhiều phương thức. Họ có thể mua trực tiếp của người nông dân, thông qua các chi nhánh đặt tại các vùng chuyên canh lúa của các doanh nghiệp hoặc mua gián tiếp thông qua thương lái, cơ sở xay xát nhỏ. Về phương thức thanh toán khi thu mua lúa gạo, các doanh nghiệp xuất khẩu có thể thanh toán theo các hình thức như: thanh toán trực tiếp (tiền-hàng), thanh toán qua hợp đồng bao tiêu sản phẩm, thanh toán ứng trước, v.v... - Khâu chế biến xay xát Đây là khâu đảm bảo chất lượng gạo xuất khẩu theo yêu cầu của khách hàng nhập khẩu. Để khâu chế biến và xay xát đạt hiệu quả, các doanh nghiệp phải bảo đảm lựa chọn công nghệ xay xát chế biến hiện đại, đồng thời xây dựng các nhà máy xay xát, kho chứa đạt tiêu chuẩn. Các doanh nghiệp cũng có thể thuê các cơ sở chế biến tư nhân xay xát gạo. Hiện nay, ở Việt Nam, gạo sau khi xay xát chế biến sẽ được phân ra thành các loại: gạo trắng hạt dài 5% tấm, 10% tấm, 15% tấm, 25% tấm, 35% tấm, 100% tấm, nếp, gạo thơm. 1.2.1.3. Hoạt động bán gạo cho khách hàng nước ngoài Việc thực hiện hoạt động bán gạo cho khách hàng nước ngoài bao gồm những nội dung sau: - Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu: Đàm phán, thương lượng là sự bàn bạc trao đổi với nhau về các điều khoản mua bán giữa các nhà kinh doanh để đi đến thống nhất ký hợp đồng. Sau khi đàm phán và đi đến thống nhất, hai bên giao dịch phải thực hiện ký kết hợp đồng mua bán đặc biệt, đó là sự thoả thuận bằng văn bản giữa những chủ thể có quốc tịch khác nhau, trong đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao cho bên mua quyền sở hữu một tài sản nhất định gọi là hàng hoá, còn bên mua có nghĩa vụ trả một khoản tiền ngang giá trị hàng hoá cho bên xuất khẩu bằng các phương thức thanh toán quốc tế và nhận hàng. - Thực hiện hợp đồng xuất khẩu: Sau khi các bên ký kết với nhau hợp đồng mua bán quốc tế (hợp đồng ngoại thương) thì cũng có nghĩa là các bên đã gắn quyền lợi và trách nhiệm của mình vào các điều khoản của hợp đồng. Công việc kế tiếp là đơn vị xuất khẩu và nhập khẩu phải tiến hành thực hiện theo đúng hợp đồng nhằm tránh những tranh chấp, sai sót đáng tiếc xảy ra. - Khiếu nại, giải quyết tranh chấp: Mục đích của công việc này của nhà xuất khẩu là bảo vệ lợi ích của mình trong trường hợp các nhà nhập khẩu hay các nhà vận chuyển không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, gây thiệt hại cho người xuất khẩu. Căn cứ để đơn vị xuất khẩu bảo vệ lợi ích của mình là: nội dung hợp đồng và kết quả thực hiện hợp đồng. Việc giải tranh chấp có thể giải quyết theo phương hướng tự đàm phán hay thông qua trọng tài hoặc tòa án kinh tế. Các doanh nghiệp có thể chủ động đàm phán riêng lẻ với khách hàng nước ngoài về giá cả, chất lượng, khối lượng, phương thức giao hàng, phương thức thanh toán, vận chuyển, bảo hiểm, v.v... Các doanh nghiệp cũng có thể đàm phán trên cơ sở điều hành, chỉ đạo các Hiệp hội ngành hàng lương thực hoặc bàn bạc thống nhất với các doanh nghiệp xuất khẩu bạn về các nội dung đàm phán với khách hàng nước ngoài. Hoạt động bán gạo cho các khách hàng nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải chú ý khâu ký kết hợp đồng, để hạn chế tối đa rủi ro do tranh chấp có thể xảy ra. Mặt khác, các doanh nghiệp còn chú ý tới các doanh nghiệp xuất khẩu khác để có thể liên kết, hợp tác, thống nhất, phối hợp khi đàm phán với khách hàng, tránh cạnh tranh có lợi cho khách hàng. 1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam và của Cần Thơ 1.2.2.1. Xu hướng tiêu dùng của thị trường gạo thế giới Trên thị trường gạo thế giới trong nhiều năm qua, nhu cầu gạo gắn liền với thị hiếu tiêu dùng rất khác nhau ở từng nước và khu vực cụ thể. Điều đó tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, về sở thích hay tập quán ăn uống hàng ngày, mức thu nhập ... ở những nước có truyền thống sử dụng gạo trong bữa ăn chính, xu hướng tiêu dùng gạo sẽ thay đổi khi đời sống kinh tế thay đổi. Khi kinh tế tăng trưởng, đời sống được nâng cao, cuộc sống hối hả hơn, thời gian eo hẹp hơn, người ta thường chuyển từ bữa ăn truyền thống với cơm sang những bữa ăn nhanh (fast food) với các sản phẩm lương thực thay thế cho cơm. Do vậy, nhu cầu tiêu dùng gạo sẽ giảm đi. Khi thu nhập tăng, người tiêu dùng sẽ có nhu cầu tăng lên đối với gạo có chất lượng cao. Sở thích người tiêu dùng đối với gạo rất đa dạng, phong phú. ở một số nước, gạo phải xát thật trắng và đánh bóng kỹ thì được ưa chuộng hơn. Trong khi đó, có nơi lại thích gạo xát không kỹ, còn nhiều vỏ cám (gạo lức) như ở Madagasca. Có nơi, người dân lại thích ăn gạo đỏ. Nhìn chung, người tiêu dùng thế giới thích ăn gạo mới, có hương vị tự nhiên, không lẫn các mùi ngoại lai. Tuy nhiên, một số nơi ở ấn Độ, Pakistan, người dân thích ăn gạo được bảo quản ít nhất 06 tháng sau khi gặt. Sở thích người tiêu dùng đối với gạo hạt tròn, gạo hạt dài, gạo có tỷ lệ tấm cao, thấp rất khác nhau. Nói chung, nếu phân chia theo chất lượng gạo hạt tròn, hạt dài, xu hướng tiêu dùng gạo thế giới có những loại sau: - Xu hướng tiêu dùng gạo hạt dài, chất lượng cao: Các nước phát triển ở khu vực Tây âu và Nhật Bản, sau đó là các nước NIC khu vực Châu á, Trung Đông và Đông Nam á, các nước NIC khu vực châu Mỹ La tinh là những khách hàng có xu hướng tiêu dùng gạo hạt dài, chất lượng cao. Thực chất đây là xu hướng tiêu dùng gạo cao cấp, sản phẩm trực tiếp của chủng loại lúa gạo Indica có giá trị cao. Loại gạo này chiếm khoảng 25% tổng lượng gạo nhập khẩu của thế giới, đảm bảo hiệu quả cao cho nhà xuất khẩu. Đây là những khách hàng tiêu dùng “khó tính”, đặc biệt chú trọng quy cách phẩm chất và tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp. Các nhà xuất khẩu chính là Mỹ và Thái Lan. Thực tế những năm qua, gạo xuất khẩu đạt tiêu chuẩn quốc tế cao được xếp cấp loại A là gạo của Mỹ số 2, tỷ lệ tấm không quá 4% hạt dài, trắng trong, cỡ hạt đều, không tạp chất, không có mùi vị lạ, cũng không lẫn hạt đỏ, vàng sọc, bạc bóng, giao dịch với mức giá cao. Ngay gạo Mỹ số 5, loại hạt trung bình, 20% tấm vẫn tốt hơn và đạt mức giá cao hơn gạo Thái 100 B (loại gạo trắng hạt dài 100% không có tấm). Nói chung gạo Thái Lan chỉ được xếp cấp loại B, giá thấp hơn gạo Mỹ rất nhiều. Gạo Việt Nam hiện nay vẫn chưa đạt tiêu chuẩn chất lượng này nên giá xuất khẩu còn thấp hơn nữa. - Xu hướng tiêu dùng gạo hạt dài, chất lượng trung bình tốt Loại gạo này chiếm khoảng 45-50% tổng lượng gạo nhập khẩu thế giới, phần lớn do Thái Lan cung cấp, tỷ lệ tấm 5%-25%. Sau Thái Lan, những nước xuất khẩu khác là Việt Nam, ấn độ, gần đây có Pakistan... xu hướng tiêu thụ chính loại gạo này là những nước Châu á, Châu Phi và Châu Mỹ La tinh [28, tr.111]. - Xu hướng tiêu dùng gạo hạt tròn Loại gạo này hầu hết thuộc chủng loại Japonica, hợp với vùng khí hậu lạnh hơn như Trung Quốc, Nhật Bản, lãnh thổ Đài Loan, úc, Mỹ, Italia. Những nước nhập khẩu chính thuộc khu vực Châu á - Thái Bình Dương như Nhật Bản, Hàn Quốc... Xu hướng tiêu dùng gạo hạt tròn chiếm khoảng 10% tổng lượng gạo nhập khẩu toàn cầu. - Xu hướng tiêu dùng gạo đồ hấp Loại gạo này được chế biến theo quy trình luộc lúa trước khi xay xát để hạt gạo cứng, ít bị vỡ, giữ được hương vị thơm của cơm sau khi nấu. Đại bộ phận dân Bangladesh, sau đó là một phần dân ấn Độ, Srilanca, Pakistan, Nam Phi, Tây Phi, ả rập, Nigeria thích dùng loại gạo này, chiếm 15%-20% tổng lượng nhập khẩu gạo toàn cầu. - Xu hướng tiêu dùng gạo thơm đặc sản Tuy chỉ chiếm từ 5% đến 8% tiêu thụ gạo thế giới nhưng việc đáp ứng xu hướng tiêu dùng gạo thơm đặc sản lại có ý nghĩa kinh tế quan trọng vì gạo thơm đặc sản có giá trị dinh dưỡng cao, dễ hấp thụ nên giá xuất khẩu thường gấp từ 2 đến 3 lần giá gạo đại trà thông thường. Gạo thơm Basmati khá nổi tiếng được canh tác ở vùng Punjab ấn Độ và ở Pakistan. Tuy nhiên loại gạo thơm thường được khách hàng ưa chuộng hơn vẫn là loại Kao Dawk Mali (hay Jasmine) do Thái Lan xuất khẩu. Nói chung xu hướng tiêu dùng gạo thơm đặc sản tập trung ở những nước phát triển có thu nhập cao, kế đến những nước Châu á, Châu Mỹ La tinh [29, tr.57]. 1.2.2.2. Thương hiệu sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp Từ khi Việt Nam bước chân vào sân chơi lớn, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đó cũng là lúc các doanh nghiệp phải quan tâm đến thương hiệu của sản phẩm, trong đó thương hiệu sản phẩm đối với hàng nông sản lại có yêu cầu quan trọng và cấp bách hơn bao giờ hết. Doanh nghiệp khi xây dựng được thương hiệu sản phẩm cho mình sẽ làm tăng giá trị sản phẩm khi xuất khẩu. Các khách hàng bao giờ cũng muốn sử dụng những mặt hàng có thương hiệu, có uy tín trên thị trường. Thí dụ, khi nói đến gạo Basmati là ta nghĩ ngay đến gạo do ấn Độ và Pakistan sản xuất. Nói đến gạo Kao Dawk Mali, gạo "Hương Nhài - Jasmine" là ta nghĩ đến Thái Lan. Vậy Việt Nam ta, thương hiệu gạo vẫn đang là vấn đề nan giải. Mặc dù từ xưa gạo Việt Nam đã có những loại gạo rất nổi tiếng như: Tám Thơm, Tám Xoan, Dự Hương, Nếp cái hoa vàng, Nàng Hương, v.v… Riêng đối với thành phố Cần Thơ, các doanh nghiệp đã bắt đầu quan tâm và xây dựng thương hiệu cho gạo xuất khẩu với tên gọi như: Miss Can Tho và White Stork (thương hiệu gạo của Công ty cổ phần Thương nghiệp tổng hợp và chế biến lương thực Thốt Nốt - Gentraco), Sohafarm (thương hiệu gạo của Nông trường Sông Hậu), v.v… Đây là những thương hiệu đã và đang khẳng định uy tín của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trên địa bàn thành phố Cần Thơ. 1.2.2.3. Chất lượng gạo xuất khẩu Chất lượng gạo xuất khẩu được thể hiện ở nhiều tiêu chí như độ bạc bụng của gạo, độ ẩm. Gạo có độ bạc bụng lớn, độ ẩm cao khi xay xát sẽ dễ bị vỡ nên làm giảm tỷ lệ hạt gạo nguyên. Tỷ lệ gạo nguyên thay đổi tùy theo bản chất giống và phụ thuộc nhiều vào điều kiện ngoại cảnh như nhiệt độ, độ ẩm khi lúa chín và điều kiện bảo quản phơi sấy sau thu hoạch. Sự rạn nứt hạt thường do nắng, sự thay đổi nhanh và độ ẩm không khí, những bất thuận về môi trường trong quá trình chín của hạt và thu hoạch trễ trong vụ nắng làm hạt có độ ẩm thấp. Bên cạnh đó, tỷ lệ độ ẩm cũng ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng gạo. Những hạt đã khô nếu đột ngột hút ẩm cũng có thể tạo ra các vết rạn dọc trong hạt và gây ra những mảnh vỡ nhỏ khi xay xát. Hạt càng khô bị hút ẩm trở lại sẽ bị vỡ nhiều. Điều này làm cho gạo xuất khẩu sẽ không được giá. Tỷ lệ tinh bột và hàm lượng protein trong gạo là những thông số quan trọng của giá trị dinh dưỡng hạt gạo. So với các loại hạt ngũ cốc khác, hạt gạo có tỷ lệ tinh bột và hàm lượng protein cao. Hiện nay, các nhà chọn giống đã cố gắng cải tiến nhằm nâng cao chất lượng hàm lượng protein trong các giống lúa mới nhưng ít thành công vì di truyền tính trạng protein trong hạt rất phức tạp và tính trạng này chịu ảnh hưởng bởi môi trường khá mạnh mẽ. Tóm lại, chất lượng gạo xuất khẩu bị chi phối bởi rất nhiều khâu, từ chọn giống cho đến canh tác, thủy lợi, thu mua, xay xát chế biến và bảo quản. Sự liên kết nhịp nhàng sẽ các khâu sẽ đảm bảo chất lượng đồng nhất về chủng loại, màu sắc, chất lượng dinh dưỡng và điều này sẽ làm cho giá trị gạo xuất khẩu tăng lên, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả xuất khẩu gạo. 1.2.2.4. Các nhân tố về chính sách  Chính sách của một số nước xuất khẩu gạo - Chính sách của Thái Lan: Với nổ lực duy trì vị trí hàng đầu trong xuất khẩu gạo trên thị trường, Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã Thái Lan đã thông qua một chiến lược mới nhằm tăng sản lượng gạo và tăng cường hoạt động tiếp thị thông qua việc nghiên cứu phát triển các giống lúa mới, năng suất cao, sản xuất những sản phẩm mới làm từ gạo. Chính phủ Thái Lan cũng nổ lực mở rộng thị trường tiêu thụ gạo bằng cách cử các phái đoàn thương mại sang những thị trường mới như Senegal, Ghana, Tunisia, các tiểu vương quốc ả rập thống nhất và Trung Quốc. Các thị trường này rất tin tưởng vào tiêu chuẩn và chất lượng gạo Thái Lan. Hầu hết các nước này đã tăng nhập khẩu gạo Thái Lan. Chính phủ Thái Lan đang có kế hoạch về chương trình dự trữ lúa gạo cho năm 2008 với dự định mua tới 8 triệu tấn gạo nhằm bình ổn giá thị trường gạo trong vụ thu hoạch lúa sắp tới. Đây là chương trình đã thực hiện từ nhiều năm. Chính phủ mua lúa của nông dân trong mùa thu hoạch với mức giá cố định như một giải pháp để nâng cao thu nhập cho người nông dân. Chính sách can thiệp giá của Chính phủ Thái Lan cùng một lúc đáp ứng hai mục tiêu: đảm bảo nguồn cung dự trữ lúa gạo đáp ứng nhu cầu gạo trong nước và thế giới, vừa có khả năng tạo lợi nhuận cho Chính phủ khi thực hiện các hoạt động tổ chức đấu giá bán gạo từ kho dự trữ theo cơ chế thị trường, cạnh tranh. Thái Lan dự trữ khoảng 4 triệu tấn gạo xay xát. Gạo được mua dự trữ và đấu thầu cạnh tranh chủ yếu gồm các loại gạo cao cấp như gạo 5% tấm, gạo thơm hương nhài, gạo trắng 100%. Chính phủ Thái Lan dự kiến sẽ dành 10 tỷ bạt (300 triệu USD) trong năm 2008 để bù đắp các tổn thất về rủi ro giá trong chương trình ký gửi lúa gạo của Ngân hàng Nông nghiệp và Hợp tác xã nông nghiệp Thái Lan (BAAC), để khuyến khích các doanh nghiệp chế biến lúa gạo nâng cấp năng lực dự trữ lúa gạo, nhằm nâng cao chất lượng lúa gạo. Với chính sách này, gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽ khó khăn hơn khi phải cạnh tranh với gạo của Thái Lan. - Chính sách của ấn Độ: Bộ Nông nghiệp ấn Độ đã ký kết Hiệp định về xuất khẩu gạo Basmati với Trung Quốc. Gạo Basmati ấn Độ xuất khẩu sang Trung Quốc, đáp ứng các quy định về vệ sinh thực phẩm, phải tuân theo các luật kiểm dịch của Trung Quốc, các qui định và phạm vi điều chỉnh của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). ấn Độ là nước sản xuất và xuất khẩu gạo basmati lớn nhất thế giới. Sản lượng gạo basmati hàng năm của nước này vào khoảng 1 triệu tấn đến 1,5 triệu tấn và 2/3 trong số này dành cho xuất khẩu. - Campuchia là nước có khí hậu thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Hàng năm Campuchia xuất khẩu hơn 1 triệu tấn gạo thô, chủ yếu cho hai nước láng giềng là Việt Nam và Thái Lan. Tuy nhiên, đến nay nước này vẫn chưa xuất khẩu được nhiều gạo xay xát ra thị trường quốc tế như các nước khác vì thiếu vốn. Hiện nay các nhà máy trong nước Campuchia cần khoảng 40 triệu USD để mua gạo thô nguyên liệu phục vụ xay xát nhằm tăng khối lượng kho gạo dự trữ phục vụ xuất khẩu, trong khi số vốn các nhà máy huy động được chỉ có 10 triệu USD. Trong tương lai, rất có thể Campuchia sẽ trở thành một trong những đối thủ của Việt Nam trên thị trường gạo thế giới.  Chính sách của một số nước nhập khẩu gạo - Chính sách của Indonesia: Theo Bộ Nông nghiệp Indonesia, nước này đang có kế hoạch đưa 14 giống lúa mới vào sản xuất năm 2008 để đối phó với tình trạng nóng lên của trái đất. Những giống lúa này đang trong quá trình trồng thử nghiệm, chúng có thể chịu được điều kiện rất khắc nghiệt và có thể sống trong lũ lụt 2 tuần. Nông dân Indonesia hiện đang sử dụng tổng cộng 287 giống lúa, trong đó 189 giống lúa được lai tạo bởi Viện ứng dụng công nghệ. Tính đến nay, Bộ Nông nghiệp Indonesia đã đưa ra 31 giống lúa lai có năng suất cao hơn 10%-25% so với các giống lúa thường. Khi Indonesia có thể tự cân đối nhu cầu gạo, Việt Nam sẽ khó khăn hơn khi xuất khẩu gạo vào thị trường này. Đây là thị trường hiện đang có nhu cầu rất lớn về nhập khẩu gạo của Việt Nam. - Chính sách của Philippine: là khách hàng lớn của Châu á, trong năm 2007, Philippine đã mua 1,6 triệu tấn gạo, chủ yếu nhập khẩu gạo của Việt Nam. Bộ Nông nghiệp Philippine đã đề xuất tăng gấp đôi khoản tiền cho chương trình sản xuất gạo lên 6,5 tỷ peso (tương đương 155,5 triệu USD) để giúp Chính phủ đạt mục tiêu tự cung cấp 98,65% gạo vào năm 2010. Số tiền này dùng để nâng cấp cơ sở hạ tầng cho nông thôn, cải thiện các hệ thống tưới tiêu và tạo giống lúa lai cho nông dân. Mục tiêu của chương trình này là trồng 500.000 ha lúa lai vào năm 2008, tăng tới 600.000 ha vào năm 2010. Chính phủ Philippine đề ra mục tiêu cần sản xuất 19 triệu tấn lúa vào năm 2010 để bảo đảm nguồn cung gạo trong nước đạt 98%. Tháng 12 năm 2006, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã chính thức thông qua đề nghị của Philippine về việc gia hạn cho nước này áp dụng hạn ngạch nhập khẩu gạo đến năm 2012. Theo đó, Philippine sẽ giảm thuế suất nhập khẩu gạo từ 50% xuống 40%. Mức thuế suất nhập khẩu gạo 40% sẽ có hiệu lực đến năm 2012, sau đó Chính phủ Philippine cam kết sẽ phải mở cửa tự do thị trường gạo, dỡ bỏ hoàn toàn hạn ngạch nhập khẩu gạo vào nước này [25, tr.40].  Chính sách xuất khẩu gạo của Việt Nam Chính sách quan trọng nhất và bao trùm là thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần trong kinh doanh lúa gạo, tạo nên sự cạnh tranh ở cả khâu sản xuất và lưu thông. Về sản xuất, có thể coi thành công lớn nhất là việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp là đã thừa nhận kinh tế hộ gia đình; hộ nông dân được giao quyền trực tiếp sử dụng ruộng đất, người nông dân được làm chủ trên thửa ruộng của mình, tự chủ bố trí việc cơ cấu sản xuất sao cho có lợi nhất theo tín hiệu thị trường. Họ cùng tham gia cung ứng lúa gạo cho thị trường, cạnh tranh với nhau ngay từ trong sản xuất để làm cho sản phẩm của mình có chi phí thấp, chất lượng ngày càng tốt hơn. Đối với lưu thông, cho phép các thành phần kinh tế tự do kinh doanh, trên cơ sở tôn trọng pháp luật; các thành phần kinh tế cạnh tranh với nhau cả trong mua và bán. Chính sách thương mại tự do thay thế cho tình trạng độc quyền kinh doanh. Hoạt động kinh doanh lúa gạo trên thị trường trước năm 1989, với đặc trưng cơ bản Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng cơ chế hành chính bao cấp với hệ thống chằng chịt các chỉ tiêu pháp lệnh từ sản xuất đến lưu thông, phân phối. Nhà nước vừa là chủ thể sản xuất vừa là chủ thể kinh doanh, đồng thời Nhà nước bảo hộ về thị trường tiêu thụ lúa gạo bằng cách thu mua gần như tất cả lúa gạo thông qua việc Nhà nước giao nghĩa vụ, bắt người sản xuất phải bán thóc cho Nhà nước theo giá cả do Nhà nước ấn định. Trên thị trường, các công ty thu mua lương thực quốc doanh của Nhà nước được tổ chức thành một hệ thống thu mua lương thực quốc doanh từ Trung ương đến địa phương với nhiều tầng nấc, cấp nọ phải bán cho cấp kia theo chỉ tiêu kế hoạch mang tính pháp lệnh bắt buộc. Cùng với sự đổi mới chung của cơ chế kinh tế từ 1989 đến nay, chính sách thương mại đã được thay đổi căn bản từ độc quyền kinh doanh chuyển sang tự do hóa lưu thông với nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia mua bán, tự do lưu thông đã tạo điều kiện để các thành phần kinh tế cạnh tranh với nhau trong kinh doanh, người sản xuất tự do tìm kiếm nơi nào mua gạo có lợi nhất để bán. Người nông dân phấn khởi và tăng gia sản xuất, người tiêu dùng thì tự giác sử dụng lương thực có hiệu quả từ đó dẫn đến sự điều hòa lương thực từ nơi thừa sang nơi thiếu. Để hỗ trợ cho nông dân tiêu thụ lúa hàng hóa dễ dàng và hiệu quả, các doanh nghiệp áp dụng nhiều phương thức mua bán linh hoạt hoặc ký hợp đồng bao tiêu lượng lúa sau khi sản xuất nhằm giúp cho nông dân có nhiều cơ hội bán lúa đạt giá cao, tạo mối liên kết hữu cơ về lợi ích giữa doanh nghiệp với nông dân. Đối với hoạt động xuất khẩu, gạo Việt Nam trở lại thương trường quốc tế năm 1989 nhưng cơ chế điều hành xuất khẩu gạo lại chưa được định hình rõ nét. Đến những năm 1990-1991, sản xuất lúa ở các tỉnh Nam bộ phát triển mạnh, Nhà nước đã khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo nếu tìm được thị trường và bạn hàng. Năm 1992, để đảm bảo an ninh lương thực và điều hành thị trường gạo xuất khẩu được "trật tự", Chính phủ thực hiện việc quản lý xuất khẩu gạo thông qua hạn ngạch xuất khẩu. Trong năm 1992, cả nước có 43 doanh nghiệp quốc doanh được cấp phép làm đầu mối xuất khẩu gạo, tuy nhiên do nhiều đầu mối và khách hàng ít nên đã bị khách hàng nước ngoài ép giá, gây thiệt hại cho nền kinh tế. Để khắc phục, năm 1993, Chính phủ đã tổ chức lại và giao cho 17 doanh nghiệp làm đầu mối xuất khẩu. Đến năm 1996 giảm xuống còn 15 đầu mối; năm 1997 Chính phủ thông qua quyết định số 141-TTg nhằm quy định giá sàn mua lúa để định hướng, điều hành thị trường nhằm bảo vệ lợi ích cho nông dân. Vào thời gian này, Chính phủ chọn và chỉ định các doanh nghiệp xuất khẩu bao gồm không chỉ doanh nghiệp quốc doanh mà cả doanh nghiệp tư nhân có năng lực làm đầu mối xuất khẩu nên số lượng đầu mối xuất khẩu tăng từ 22 năm 1997 lên 47 đầu mối xuất khẩu năm 1999. Từ năm 1994 đến 1999, Nhà nước đã sử dụng Quỹ bình ổn giá chi hỗ trợ một phần lãi suất vay ngân hàng cho các doanh nghiệp mua lúa dự trữ chuẩn bị chân hàng xuất khẩu với số tiền 297 tỷ đồng. Đáng chú ý là năm 1998, Chính phủ ra Quyết định số 55/1998/QĐ-TTg và Quyết định 57-CP cho phép các doanh nghiệp được xuất khẩu hàng hóa (trong đó có gạo). Như vậy đã kết thúc thời kỳ các doanh nghiệp nhà nước độc quyền về xuất khẩu gạo. Từ năm 2001 đến nay, việc tổ chức xuất khẩu gạo trực tiếp được tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn nên việc xuất khẩu ngày càng thuận lợi. Nhà nước chỉ đóng vai trò định hướng xuất khẩu, Nhà nước giao việc xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Xuất khẩu gạo chính thức không cần giấy phép, quota, không quy định đầu mối; mọi thành phần kinh tế đều được tham gia xuất khẩu… trên cơ sở đó để Hiệp hội và các doanh nghiệp bàn bạc tổ chức triển khai chủ động đấu thầu xuất khẩu gạo ở thị trường nước ngoài và để ký hợp đồng xuất khẩu [21, tr.52]. Chương 2 Thực trạng xuất khẩu gạo của Thành phố Cần Thơ Từ năm 2004 đến nay 2.1. Vị TRí ĐịA Lý, điều kiện tự nhiên - xã hội tác động đến hoạt động xuất khẩu gạo của thành phố cần thơ 2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên - xã hội 2.1.1.1. Vị trí địa lý Thành phố Cần Thơ thành lập trên cơ sở tách ra từ tỉnh Cần Thơ theo Nghị quyết số 22/2003/QH-11, ngày 26/11/2003 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa 11 và Nghị định số 05/2004/NĐ- CP, ngày 02/01/2004 của Chính phủ. Thành phố Cần Thơ nằm trong vùng trung - hạ lưu sông Cửu Long, trải dài trên 55 km dọc bờ Tây sông Hậu, phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long, phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang, phía Bắc giáp tỉnh An Giang và phía Nam giáp tỉnh Hậu Giang. Diện tích tự nhiên của thành phố Cần Thơ là 1.389,6 km2, chiếm 3,49% diện tích vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nằm ở vị trí trung tâm vùng đồng bằng sông Cửu Long, cách thành phố Hồ Chí Minh 170 km về hướng Đông Bắc theo quốc lộ 1A và cách các đô thị lớn vùng đồng bằng sông Cửu Long với cự ly khoảng 60 - 120 km. Thành phố Cần Thơ có vị trí rất thuận lợi về giao lưu kinh tế văn hóa với các tỉnh trong vùng, có khả năng vươn xa đến thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Thành phố Cần Thơ là nơi giao điểm của nhiều tuyến giao thông thủy-bộ quan trọng, có cảng-tàu biển, có sân bay, các khu công nghiệp và khu chế xuất là điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu gạo. Đồng thời, đây cũng là điều kiện quan trọng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố và cả vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thành phố Cần Thơ được xác định là đô thị trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật của vùng và hướng phát triển nhanh trở thành đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương. 2.1.1.2. Điều kiện tự nhiên - Về đặc điểm địa hình Thành phố Cần Thơ là vùng đất ít ngập úng so với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có ba dạng địa hình cơ bản: đê tự nhiên ven sông Hậu, đồng lũ thuộc vùng tứ giác Long Xuyên và đồng bằng châu thổ chịu ảnh hưởng triều của lũ cuối vụ. Cao trình phổ biến từ 0,8m - 1,0m, có khuynh hướng thấp dần từ Đông Bắc sang Tây Nam. Nhìn chung địa hình tương đối bằng phẳng và nhiều kênh rạch, thuận lợi cho sản xuất nông ngư nghiệp, đặc biệt là sản xuất gạo. - Về khí hậu, thời tiết Thành phố Cần Thơ nằm trong vùng khí hậu chung của đồng bằng sông Cửu Long với đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa tương phản rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 trùng với gió Tây Nam, và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 trùng với gió mùa Đông Bắc. - Về chế độ thủy văn, nguồn nước Tổng chiều dài dòng chảy trên địa bàn thành phố là 3.405 km, với mật độ trung bình 1,8km/km2, dòng chảy chính là sông Hậu. Mạng lưới sông rạch ở Cần Thơ khá phát triển, thuận lợi cho giao thông thủy và hình thành các đô thị sinh thái, tài nguyên nước ngầm đủ đáp ứng nhu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Tuy nhiên, do địa bàn Thành phố chịu ảnh hưởng của dòng lũ từ sông Hậu đến tứ giác Long Xuyên (mức độ ảnh hưởng tùy vào biến động hàng năm của lũ) và triều cường nên vẫn gây khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt của dân cư. - Về tài nguyên Trên địa bàn Thành phố có 2 nhóm đất chính, bao gồm nhóm đất phù sa chiếm 84% diện tích tự nhiên và nhóm đất phèn chiếm 16%. Nhìn chung, đất có mùn và đạm từ khá đến giàu. Hàm lượng lân, kali ttong đất đạt trung bình. Điều kiện thổ nhưỡng này là ưu thế của Cần Thơ trong trồng lúa và phát triển kinh tế vườn, các loại cây trồng cạn. Tài nguyên khoáng sản ở Cần Thơ nghèo, chỉ bao gồm một số vùng đất sét làm gạch ngói (16,8 triệu m3), cát nền (70 triệu m3) và than bùn (30.000 đến 150.000 tấn). Tuy nhiên, nước ngầm ở Cần Thơ có trữ lượng khá dồi dào, chất lượng tốt. 2.1.1.3. Điều kiện xã hội - Về tổ chức hành chính Thành phố Cần Thơ gồm 4 quận là Ninh Kiều, Bình Thuỷ, Cái Răng, Ô Môn và 4 huyện là Phong Điền, Cờ Đỏ, Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh với 76 đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn (6 thị trấn, 35 xã, 35 phường). Trung tâm của Thành phố đặt tại quận Ninh Kiều, là nơi tập trung các cơ quan Trung ương, cơ quan Đảng, đoàn thể, trụ sở hành chính quản lý nhà nước, các cơ sở quan trọng về thương mại, dịch vụ, tài chính, ngân hàng, viễn thông, vận tải, giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, an ninh, quốc phòng và các khu dân cư đô thị. - Về dân số và nguồn nhân lực Năm 2007, dân số Cần Thơ là 1.159.008 người. Tốc độ tăng dân số trung bình trong giai đoạn 2004-2007 là 1,05%. Dân số đô thị từ 562.079 người vào năm 2004 tăng lên 601.484 người năm 2007. Trong khi đó, dân số nông thôn giảm dần từ 565.686 người trong năm 2004 xuống còn 557.524 người năm 2007. Năm 2007, dân số đô thị chiếm 51,9% và dân số nông thôn chiếm 48,1% tổng dân số Thành phố. Cơ cấu dân số phi nông nghiệp/nông nghiệp năm 2004 là 35,25%/64,75% và năm 2007 là 36,64%/63,36%. Thực tế ở Cần Thơ cho thấy, khi nông thôn được đô thị hoá nhanh thì việc chuyển hoạt động nông nghiệp sang công nghiệp và thương mại dịch vụ cũng tăng nhanh. Mật độ dân số của Thành Cần Thơ năm 2007 là 824 người/km2. Trong đó, dân số tập trung đông nhất tại quận Ninh Kiều với mật độ là 7.314 người/km2, tiếp đến là quận Bình Thủy (1.322 người/km2), huyện Thốt Nốt (1.146 người/km2), quận Cái Răng (1.141 người/km2)... Huyện Vĩnh Thạnh có mật độ dân số thưa nhất (373 người/km2). Tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động của Thành phố chiếm 62,05% tổng dân số năm 2004 và 63,54% năm 2007. Trong đó, lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế tăng từ 487.375 người năm 2004 lên 518.892 người năm 2007. Lao động khu vực I giảm từ 36,56% năm 2004 còn 35,73% năm 2007. Trong khi đó, lao động khu vực 2 tăng từ 10,84% lên 12,03%. Lao động khu vực 3 tăng từ 22,23% lên 22,92% tổng lao động trong độ tuổi. Qua số liệu lao động trên có thể thấy rằng sự chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ còn chậm. Do đó, áp lực nhu cầu việc làm ở khu vực Nhà nước còn rất lớn. Hoạt động xuất khẩu gạo được đẩy mạnh sẽ góp phần giải quyết việc làm ở khu vực này [26, tr.57]. Hiện nay, trên địa bàn thành phố có trường Đại học Cần Thơ, Đại học Y dược, Đại học dân lập Tây Đô và Trung tâm Đại học tại chức, 04 trường Cao đẳng, 04 trường Trung học chuyên nghiệp, 02 trường công nhân kỹ thuật, Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long. Đây là những cơ sở cung cấp nguồn nhân lực có trình độ được đào tạo nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo, cho nhu cầu phát triển của thành phố cũng như của vùng đồng bằng sông Cửu Long trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Về thu nhập dân cư: Theo số liệu của Cục Thống kê thành phố Cần Thơ, GDP bình quân đầu người (tính theo giá so sánh 1994) của Thành phố năm 2000 đạt 4,2 triệu đồng (383 USD) và năm 2005 tăng lên 7,51 triệu đồng (720 USD), tăng bình quân 12,3%/năm trong giai đoạn 2001 – 2005. GDP bình quân đầu người khu vực nông nghiệp tăng bình quân 1,08%/năm, từ 1,63 triệu đồng năm 2000 lên 2,32 triệu đồng năm 2005. GDP bình quân đầu người khu vực phi nông nghiệp tăng bình quân 1,34%/năm, từ 9,02 triệu đồng/người năm 2000, lên 16,9 triệu đồng/người năm 2005 [26, tr.60]. Mặc dù mức thu nhập của dân cư các khu vực còn chênh lệch, nhưng nhìn chung đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện kéo theo sức mua hàng hóa cũng gia tăng. 2.2. Thực trạng hoạt động Xuất khẩu gạo ở Thành phố Cần thơ 2.2.1. Thực trạng xuất khẩu gạo của Thành phố Cần Thơ 2.2.1.1. Khối lượng, kim ngạch và giá gạo xuất khẩu bình quân - Về khối lượng gạo xuất khẩu: Từ năm 2000 cho đến nay, nếu xét về khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, ta thấy có xu hướng tăng ở mức tương đối ổn định và gạo đã trở thành một trong mười mặt hàng xuất khẩu mang lại lượng ngoại tệ lớn nhất cho đất nước. Hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2000 đến nay có thể chia làm giai đoạn: Giai đoạn từ 2000-2003, khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn đạt trên 3 triệu tấn gạo. Giai đoạn từ 2004-2007, bình quân mỗi năm Việt Nam xuất khẩu trên 4 triệu tấn gạo. Riêng năm 2005, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng vọt và đạt trên 5,2 triệu tấn gạo. Điều đó tiếp tục khẳng định vị thế của Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Đối với thành phố Cần Thơ, khối lượng gạo xuất khẩu cũng tăng ổn định từ năm 2004 đến năm 2006. Năm 2007, lượng gạo xuất khẩu của Cần Thơ giảm do phải hạn chế xuất khẩu để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Năm 2004, khối lượng xuất khẩu gạo của Cần Thơ là 406.072 tấn, sau đó tăng lên 554.050 tấn vào năm 2005; 556.822 tấn vào năm 2006. Năm 2007, lượng gạo xuất khẩu của Cần Thơ đạt 475.000 tấn, về lượng đạt 79% kế hoạch năm và giảm 15% so cùng kỳ; chiếm tỷ trọng 26,27% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của thành phố. Bảng 2.1: Khối lượng gạo xuất khẩu của thành phố Cần Thơ trong khối lượng gạo xuất khẩu của cả nước (2004-2007) Đơn vị tính: tấn Năm Cả nước Cần Thơ Tỷ trọng (%) 2004 4.060.000 406.072 10,00 2005 5.250.000 554.050 10,55 2006 4.500.000 558.822 12,42 2007 4.300.000 475.000 11,05 Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Cần Thơ và báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam 2007 và triển vọng 2008 - Về kim ngạch và giá gạo xuất khẩu Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới chiếm tới 17%-18% thị phần, trong khi đó kim ngạch xuất khẩu gạo chỉ chiếm 5%. Điều này cho thấy giá gạo xuất khẩu của Việt Nam là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến kim ngạch xuất khẩu thu được. Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng chủ yếu do tăng lượng nhiều hơn do tác động của giá cả. Trong giai đoạn 2001 – 2005, mặc dù trên thị trường gạo thế giới diễn ra quá trình cạnh tranh quyết liệt giữa các nước xuất khẩu gạo, nhưng khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng liên tục. Đây là điểm rất đáng chú ý trong hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn này. Tuy nhiên, khác với giai đoạn 2001 – 2005, hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2007 đã đạt mức xuất khẩu với khối lượng ổn định hơn nhưng giá xuất khẩu lại tăng rất mạnh. Giá gạo xuất khẩu bình quân đã tăng liên tục sau khi tuột dốc vào năm 2003. Năm 2005, giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam là 269 USD/tấn, tăng 100 USD/tấn so với năm 2001. Giá gạo xuất khẩu bình quân năm 2006 đạt 275 USD/tấn, tăng 9 USD/tấn so với năm 2005 và nếu so với 2004 thì cao hơn đến 40 USD/tấn. Trong 9 tháng đầu năm 2007, giá gạo Việt Nam xuất khẩu đạt bình quân 293 USD/tấn. Lần đầu tiên, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ngang bằng với giá gạo xuất khẩu cùng cấp (từ 5% tấm, 10%, 15% đến 20% tấm) của Thái Lan. Tháng 9/2007, gạo loại 25% tấm của Việt Nam đã trúng thầu với giá 350 USD/tấn, cao hơn so với giá gạo Thái Lan 8 USD/tấn [25, tr.45]. Cùng với những biến động giá gạo của thị trường xuất khẩu, hoạt động xuất khẩu gạo của thành phố Cần Thơ đã mang lại khối lượng kim ngạch đáng kể và có mức tăng ổn định qua từng năm. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu gạo của Cần Thơ đạt hơn 85 triệu USD, năm 2005 đạt gần 136 triệu USD, năm 2006 đạt hơn 144 triệu USD và năm 2007 là 145 triệu USD. ở đây có thể thấy rằng, mặc dù giá gạo xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở Cần Thơ nói riêng, trong năm 2007, tăng rất cao, nhưng kim ngạch xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp của Cần Thơ năm 2007 chỉ cao hơn năm 2006 là 1.433.000 USD, thấp hơn nhiều so với mức tăng kim ngạch xuất khẩu gạo của năm 2005 so với năm 2004 (tăng 50.805.462 USD) và của năm 2006 so với năm 2005 (tăng 8.569.000 USD). Sở dĩ có tình hình trên là do, năm 2007 cả nước gặp nhiều thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, cùng với thời tiết lạnh kéo dài ở Miền Bắc, v.v... đã tác động tới sản xuất lương thực, thực phẩm của Việt Nam, đe dọa an ninh lương thực quốc gia. Chính phủ đã chỉ đạo các địa phương, trong đó có Cần Thơ, hạn chế xuất khẩu gạo để bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Do đó, khối lượng gạo xuất khẩu ở Cần Thơ đã giảm đáng kể trong năm 2007, làm cho kim ngạch xuất khẩu gạo tăng không nhiều. Tuy nhiên, nếu đi sâu phân tích ở đây sẽ thấy nổi lên một số vấn đề đáng chú ý. Năm 2007, cầu gạo thế giới tăng cao, cung gạo thế giới giảm tương đối đã đẩy giá gạo trên thị trường thế giới tăng mạnh và luôn đứng ở mức cao so với giá năm 2006. Giá gạo thế giới năm 2007 tăng bình quân 46 USD/tấn so với năm 2006. Đây lẽ ra sẽ là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu gạo thu nhiều ngoại tệ nhờ giá cao và lượng xuất khẩu tăng. Tuy nhiên thực tế lại không như vậy, năm 2006, sản xuất lúa gạo ở Việt Nam nói chung và ở Cần Thơ nói riêng không được mùa, đã làm nguồn cung gạo nội địa cho hoạt động xuất khẩu bị hạn chế. Mặt khác, giá đầu vào cho sản xuất lúa (phân bón, thuốc trừ sâu, giống, v.v...) tăng cao trong năm 2006 cùng với dịch bệnh trên lúa không những làm giảm sản lượng lúa, giảm chất lượng lúa, mà còn làm tăng chi phí đầu vào. Tất cả những tác động đó làm cho giá gạo thu mua để cung cấp cho hoạt động xuất khẩu tăng cao. Giá gạo thu mua cho xuất khẩu năm 2007 tăng bình quân 1.000 đồng/kg. Giá gạo thu mua cho xuất khẩu tăng, trong khi giá xuất khẩu cũng tăng nhưng nguồn cung gạo trong nước cho xuất khẩu bị hạn chế và khối lượng gạo xuất khẩu cho thị trường nước ngoài cũng bị khống chế. Điều đó khiến cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp ở Cần Thơ gặp khó khăn và lợi ích mà các doanh nghiệp thu được từ xuất khẩu gạo với giá cao là không nhiều. Mặt khác, đối với người nông dân, chi phí đầu vào tăng, giá gạo mà các doanh nghiệp thu mua cho hoạt động xuất khẩu tăng nhưng các doanh nghiệp lại không có nhu cầu lớn trong việc thu mua lúa gạo. Do đó, người nông dân cũng không được hưởng lợi mấy từ việc sản xuất gạo cho xuất khẩu. Mặc dù vậy, xét trong cả giai đoạn 2004 – 2007, xuất khẩu gạo ở thành phố Cần Thơ vẫn là ngành hàng xuất khẩu quan trọng, mang lại lượng kim ngạch lớn cho Cần Thơ và cho cả nước. Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu gạo của Cần Thơ (2004-2007) 85.058.538 135.864.000 144.433.060 145.000.000 0 20.000.000 40.000.000 60.000.000 80.000.000 100.000.000 120.000.000 140.000.000 160.000.000 (USD) 2004 2005 2006 2007 Nguồn: Niên giám thống kê 2005-2006 và báo cáo tổng kết năm 2007 của ngành thương mại thành phố Cần Thơ. 2.2.1.2. Chất lượng và thương hiệu gạo xuất khẩu - Về chất lượng gạo xuất khẩu: Chất lượng gạo trên thị trường gạo thế giới thương được phân loại theo 5 nhóm (về hình thức bên ngoài hạt gạo, chất lượng xay xát, chất lượng thương phẩm, chất lượng nấu nước và ăn uống, chất lượng dinh dưỡng) dựa theo 6 chỉ tiêu như độ ẩm, độ bóng, tỷ lệ Amilaza, tỷ lệ Protein, nhiệt hoá, mùi thơm. Trong khi đó, chất lượng gạo của chúng ta chủ yếu mới chỉ được quan tâm đến 3 chỉ tiêu đầu. Chất lượng gạo Việt Nam trong những năm qua đã được cải thiện nhiều. Năm 1990, gạo xuất khẩu của Việt Nam đa phần là loại gạo chất lượng thấp (35% đến 45% tấm). Hiện nay, tỷ lệ gạo xuất khẩu từ 5% đến 10% tấm đã ở mức trên 50% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên tỷ lệ gạo chất lượng cao, gạo thơm cho thị trường xuất khẩu cao cấp vẫn còn ít. Chất lượng gạo xuất khẩu Cần Thơ hiện nay cũng chưa có sự chuyển biến mạnh. Chất lượng gạo Cần Thơ chưa theo kịp theo yêu cầu thị trường. Cho dù đã có những tiến bộ trong phẩm cấp gạo xuất khẩu, nhưng trong sản lượng gạo xuất khẩu từ hai năm trở lại đây, vẫn có hơn 70% là gạo xuất khẩu có phẩm cấp thấp (gạo từ 25% tấm trở lên), gạo 5% tấm và 10% tấm chiếm 7% đến 10%; còn lại gạo thơm và gạo nếp chỉ chiếm khoảng 2% đến 5% trong cơ cấu gạo xuất khẩu của thành phố [21, tr.95]. - Về thương hiệu gạo xuất khẩu: Mặc dù Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn, nhưng chưa có thương hiệu gạo nổi tiếng hoặc đặc trưng cho gạo Việt Nam. Trong khi đó, trên thế giới có nhiều loại gạo có tên tuổi gắn với tên quốc gia xuất khẩu gạo. Chẳng hạn, gạo “Hương nhài - Jasmine”, gạo Basmati được gắn liền với các quốc gia sản xuất là Thái Lan, ấn Độ và Pakistan. Trên thực tế, không phải Việt Nam không có gạo ngon, gạo có chất lượng mà chủ yếu chúng ta chưa thực sự quan tâm xây dựng thương hiệu gạo xuất khẩu cho chính mình. Hiện nay, một số doanh nghiệp cũng đã tìm cách quảng bá thương hiệu gạo cho doanh nghiệp mình. Chẳng hạn, cùng với các loại gạo Kim Kê, Nam Đô, Gạo Hương Đồng Quê, gạo Nàng thơm Chợ Đào, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở Cần Thơ đã tích cực quảng bá thương hiệu gạo của mình như: Miss Can Tho, White Stork (thương hiệu gạo xuất khẩu của Công ty Cổ phần Thương nghiệp Tổng hợp và Chế biến lương thực Thốt Nốt - Gentraco), Sohafarm (thương hiệu gạo của Nông trường Sông Hậu). Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý ở đây là, để có được một thương hiệu gạo xuất khẩu trên thị trường gạo thế giới thì các biện pháp thực hiện phải đồng bộ và trong thời gian dài. Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Cần Thơ nói riêng và Việt Nam nói chung mới chỉ tập trung vào khâu quảng bá sản phẩm, còn lại chưa thực sự chú trọng đúng mức vào việc bảo đảm chất lượng gạo xuất khẩu ổn định. Điều này có thể dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp ngày càng quảng bá sản phẩm của mình thì lại càng gây bất lợi cho họ. Theo đó, uy tín của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng và sản phẩm gạo xuất khẩu cả Việt Nam và Cần Thơ sẽ khó có được thương hiệu tốt. 2.2.1.3. Thị trường xuất khẩu gạo Có thể nói Châu á vẫn là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, trong đó gạo được xuất khẩu chủ yếu sang các nước ASEAN (Philipine, Indonesia, Malaysia..). Đáng chú ý là trong những năm gần đây, gạo Việt Nam đã được xuất khẩu sang hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có nhiều thị trường yêu cầu chất lượng rất cao nhưng đồng thời nhập khẩu với giá cũng cao như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Châu âu. Tuy nhiên, đây là những thị trường mà khối lượng gạo xuất khẩu của ta vẫn còn ít và không có dấu hiệu tăng trưởng trong những năm gần đây. Năm 2006, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cả nước đã ký được nhiều hợp đồng gạo, do các nước Châu á có nhu cầu nhập khẩu gạo cao và tiếp tục tăng trong năm. Việt Nam liên tiếp trúng nhiều gói thầu cung cấp gạo cho Nhật, Philippine, I-rắc... nên thị trường xuất khẩu gạo cả năm ổn định. Đối với thành phố Cần Thơ, thị trường xuất khẩu gạo trong năm 2007 của các doanh nghiệp được mở rộng và phát triển. Mặt hàng gạo của các doanh nghiệp trên địa bàn Cần Thơ đã được xuất khẩu đến 47 quốc gia và vùng lãnh thổ. Theo Trung tâm xúc tiến đầu tư và thương mại thành phố Cần Thơ, thị trường xuất khẩu gạo chính của Cần Thơ gồm thị trường Châu á chiếm tỷ trọng 68,9% (Philippine, Indonesia, Malaysia, Nhật Bản…), thị trường Châu Âu chiếm 10,63% (Pháp, Đức, Nga, Anh,..), thị trường Châu Phi chiếm 16,55% (Ghana, Ai Cập, Angola), thị trường khác chiếm 3,92% [21, tr.65]. Biểu đồ 2.2: Các thị trường xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp thành phố Cần Thơ Nguồn: Trung tâm xúc tiến đầu tư và thương mại thành phố Cần Thơ 2.2.2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo ở Thành phố Cần Thơ 2.2.2.1. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo ở Cần Thơ Do vị trí thuận lợi của thành phố Cần Thơ và cơ sở hạ tầng khá tốt nên hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp phát triển rất mạnh. Trong thời gian qua, xuất khẩu gạo luôn khẳng định vị trí quan trọng trong việc phát huy lợi thế cạnh tranh của Cần Thơ so với các tỉnh lân cận. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Cần Thơ đều có nhà máy chế biến xay xát gạo nhằm chủ động nguồn gạo xuất khẩu của mình. Qua khảo sát số liệu thống kê đến ngày 31/12/2007, thành phố có 11 doanh nghiệp xuất khẩu gạo, trong đó có 01 doanh nghiệp nhà nước trung ương, 05 doanh nghiệp nhà nước địa phương, 01 doanh nghiệp có cổ phần vốn nhà nước trên 50%, 01 doanh nghiệp có cổ phần vốn nhà nước dưới 50%, 03 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và công ty trách nhiệm hữu hạn. Nhìn chung, hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Cần Thơ khá mạnh so với các tỉnh lân cận ở đồng bằng sông Cửu Long, song qui mô hoạt động của các doanh nghiệp không đồng đều, chỉ có một số doanh nghiệp có qui mô lớn, với khối lượng xuất khẩu gạo lớn và ổn định như: Công ty Cổ phần Thương nghiệp Tổng hợp và Chế biến lương thực Thốt Nốt, Nông trường Sông Hậu, Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ, Nông trường Cờ Đỏ...Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Châu Phi; 16,55% Thị trường khác; 3,92%Châu Âu; 10,63% Châu á; 68,90% với mức độ đầu tư thiết bị còn nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu và không đồng đều như Công ty trách nhiệm hữu hạn Trung An, Công ty trách nhiệm hữu hạn Hiệp Thanh. Trong nhiều năm qua, đầu mối xuất khẩu gạo là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp xuất khẩu. Trước kia, vấn đề này còn phụ thuộc nhiều vào Nhà nước bởi sự độc quyền trong kinh doanh gạo xuất khẩu của Nhà nước ở giai đoạn trước. Cách đây vài năm, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu đều tìm mọi cách để trực tiếp xuất khẩu gạo, mặc dù việc làm này gặp rất nhiều khó khăn do các hoạt động tranh mua - tranh bán của các doanh nghiệp, nên thương nhân nước ngoài thường lợi dụng tình hình đó để kìm giá, ép giá gây tổn hại không nhỏ đến lợi ích chung của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo cả nước nói chung và Cần Thơ nói riêng. Nhưng hiện nay, do cơ chế kinh tế mở, hơn nữa cầu gạo của thế giới ngày càng cao trong khi nguồn cung có hạn nên việc lợi dụng để ép giá không còn nữa. Đây là một điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Cần Thơ tham gia tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu của mình. Bảng 2.2: Tình hình doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở Cần Thơ tính đến 31/12/2007 STT Tên doanh nghiệp Loại hình doanh nghiệp Thị trường xuất khẩu chính Xếp hạng doanh nghiệp xuất khẩu gạo hiệu quả 01 Công ty Mekong DNNN địa phương Châu á, Châu Phi 9 02 Công ty du lịch Cần Thơ DNNN địa phương Châu á 11 03 Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ Công ty CP có vốn nhà nước >50% Châu á, Châu Phi 4 04 Công ty Nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ DNNN địa phương Châu á 7 05 Nông trường sông Hậu DNNN địa phương Châu á, Châu Phi 3 06 Nông trường Cờ Đỏ DNNN địa phương Châu á, Châu Phi 6 07 Công ty Cổ phần Thương nghiệp Tổng hợp và Chế biến lương thực Thốt Nốt (Gentraco) Công ty CP có vốn nhà nước <50% Châu á, Châu Âu 1 08 Công ty Cổ phần Phú Hưng DN NQD Châu á, Châu Phi 5 09 Công ty TNHH Trung An DN NQD Châu á, Châu Phi 10 10 Công ty TNHH Hiệp Thanh DN NQD Châu á, Châu Phi 8 11 Công ty lương thực Sông Hậu DNNN TW Châu á, Châu Phi, Châu Âu 2 Nguồn: Sở kế hoạch đầu tư và Trung tâm xúc tiến đầu tư và thương mại thành phố Cần Thơ 2.2.2.2. Thực trạng nghiên cứu và mở rộng thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở Cần Thơ Nhìn chung, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trên địa bàn thành phố Cần Thơ đều có bộ phận nghiên cứu và mở rộng thị trường tiêu thụ gạo xuất khẩu. Hàng năm, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo lớn của Cần Thơ đều cử người sang các thị trường để tìm hiểu nhu cầu và mở rộng thị trường. Thông thường, các doanh nghiệp sang các thị trường Châu á, Châu Phi và Châu Âu. Tuy nhiên, hiệu quả không được khả quan lắm bởi còn gặp nhiều khó khăn như xuất khẩu trực tiếp sang Châu Phi thì không đủ tài chính để thực hiện hợp đồng bán chịu. Xuất sang Châu Âu để tranh thủ bán gạo theo các chương trình viện trợ cho Châu Phi thì lại cần phải có chính sách về quan hệ chính trị đối ngoại của Nhà nước. Hoạt động nghiên cứu và tìm kiếm thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Cần Thơ dù có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa mang lại hiệu quả cao, đặc biệt ở thị trường gạo chất lượng cao. Điều này dẫn đến việc mở rộng thị trường tiêu thụ gạo của Cần Thơ còn rất nhiều hạn chế. Hiện nay, thị trường xuất khẩu gạo của Cần Thơ vẫn chỉ tập trung ở các nước Châu á (Indonesia, Philipine, Malaysia..), Châu Phi. Trong năm 2007, các doanh nghiệp bắt đầu mở rộng sang thị trường Bắc Mỹ và Châu Âu, mặc dù khối lượng gạo xuất khẩu ở những thị trường này còn rất ít, chiếm khoảng 14,55% so tổng số khối lượng xuất khẩu gạo của Cần Thơ. Tuy nhiên, điều này có thể được lý giải bởi chất lượng gạo của Cần Thơ nói riêng và Việt Nam nói chung, vẫn chưa đảm bảo đủ tiêu chuẩn để có thể thâm nhập vào các thị trường có yêu cầu khắt khe về chất lượng gạo. 2.2.2.3. Thực trang hoạt động thu mua và xay xát chế biến gạo xuất khẩu  Hoạt động thu mua gạo xuất khẩu: Việc thu mua lúa gạo xuất khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh gạo xuất khẩu ở Cần Thơ được thực hiện thông qua hai kênh. Một là, các doanh nghiệp trực tiếp thu mua lúa của nông dân. Hai là, các doanh nghiệp thu mua lúa thông qua tư thương. ở kênh thứ nhất, các doanh nghiệp thu mua lúa của nông dân thông qua các chi nhánh của mình đặt tại các vùng chuyên sản xuất lúa. Tuy nhiên, do hạn chế về vốn, lực lượng thu mua, phương tiện vật chất cùng với sự điều hành thiếu linh hoạt, cũng như số lượng chi nhánh trực tiếp thu mua lúa cho nông dân của các doanh nghiệp còn rất ít. Hiện nay, tình hình này được cải thiện, nhưng cũng chỉ có 30 chi nhánh của các doanh nghiệp được đặt ở các huyện chuyên canh lúa như Cờ Đỏ, Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh. Do đó, chỉ có 10% lượng lúa gạo xuất khẩu hàng năm được thu mua trực tiếp thông qua kênh thu mua này. Tình hình này khiến cho doanh nghiệp kém chủ động trong việc chuẩn bị lượng gạo xuất khẩu. Mặt khác, vào vụ thu hoạch, nông dân thường tiêu thụ lúa rất khó khăn, do họ chỉ bán lúa chủ yếu thông qua tư thương. Khác với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, ở kênh thứ hai, lực lượng tư thương có nhiều lợi thế trong việc thu mua lúa gạo xuất khẩu. Do đặc điểm địa hình Cần Thơ, lúa xuất khẩu chủ yếu được vận chuyển bằng ghe xuồng (do vận chuyển bằng đường bộ phát sinh chi phí lớn và khó khăn hơn vận chuyển bằng đường sông). Vì vậy, tư thương có điều kiện rất thuận lợi về phương tiện vật chất, về vốn. Họ có thể đi xuống từng hộ nông dân, xuống tận ruộng của nông dân để thu mua lúa. Mặt khác, họ đã có quan hệ nhiều năm và trở thành khách hàng quen thuộc của nông dân. Do vậy, có thể nói ở Cần Thơ, tư thương có thế mạnh hơn hẳn các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong việc thu mua lúa xuất khẩu từ nông dân. Họ giữ vai trò là lực lượng chính trong hoạt động thu mua lúa gạo xuất khẩu ở Cần Thơ. Có khoảng 90% khối lượng lúa gạo xuất khẩu ở Cần Thơ được tư thương thu mua và bán lại cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo. Lực lượng tư thương ở Cần Thơ có vai trò quan trọng trong việc giúp nông dân tiêu thụ lúa gạo và cung ứng lúa gạo xuất khẩu, bảo đảm nguồn hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo ở Cần Thơ. Tuy nhiên, do giữ vị trí chính trong thu mua lúa gạo xuất khẩu, tư thương có thể chi phối giá cả lúa xuất khẩu. Điều này dẫn đến tình trạng họ có thể ép giá lúa xuất khẩu đối với nông dân, gây thiệt hại đáng kể cho người sản xuất. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng bị phụ thuộc vào lực lượng tư thương về nguồn hàng lúa gạo dành cho xuất khẩu. Vì vậy, các doanh nghiệp khó có thể thực hiện chính sách thu mua lúa của nông dân theo giá sàn mà Nhà nước qui định, nhằm đảm bảo cho nông dân được hưởng mức lợi nhuận từ 25% đến 40%. Chính vì thế, người nông dân sẽ không được hưởng nhiều từ lợi ích của chính sách thu mua lúa theo giá sàn của Nhà nước. Trên thực tế, lợi ích này phần nhiều rơi vào tay của tư thương. Trước đây, các doanh nghiệp thu mua lúa gạo của nông dân theo phương thức “trao tay”. Họ không ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Điều này dẫn tới tình trạng bị động cho cả nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu. Khi vào chính vụ, do phải cấp bách tiêu thụ lúa ngay sau thu hoạch để trả các khoản nợ đã vay để mua vật tư, phân bón, nên nông dân không bán với giá cao. Phần lợi nhuận lẽ ra người nông dân được hưởng lại chảy về túi tư thương, chủ vựa lúa. Nếu người nông dân không bán được lúa, thì họ sẽ không thu hồi được vốn để tái sản xuất và để chi tiêu cho nhu cầu sinh hoạt thường nhật. Trong điều kiện như vậy, người nông dân buộc phải bán cho tư thương với giá thấp hơn thị trường. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng bị động khi có đơn đặt hàng của khách hàng nước ngoài nhưng lại không thu mua được lượng lúa gạo để phục vụ cho xuất khẩu. Để khắc phục tình trạng này, một số doanh nghiệp đã thực hiện ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với người nông dân. Đặc biệt, từ khi có Quyết định 80/2002/QĐ-TTg ngày 24 tháng 6 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng, số hợp đồng tiêu thụ lúa gạo xuất khẩu được ký kết giữa doanh nghiệp và nông dân tăng. Chẳng hạn, năm 2007, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở Cần Thơ đã ký hợp đồng bao tiêu 120.000 tấn lúa chất lượng cao của nông dân tại các huyện Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thốt Nốt, để đảm bảo đủ nguồn cung gạo cho xuất khẩu, tăng 40% lượng lúa bao tiêu so với năm 2006. Tuy nhiên, công tác tạo nguồn cung gạo xuất khẩu của các doanh nghiệp chưa được tiến hành một cách khoa học vì vậy nguồn gạo cung ứng cho xuất khẩu thường không ổn định, ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong thời gian gần đây, tuy các doanh nghiệp quan tâm đến việc đảm bảo ổn định nguồn cung gạo xuất khẩu và đã ký các hợp đồng bao tiêu mua lúa gạo với các vùng lúa chuyên canh. Song đây cũng chỉ là những hợp đồng ngắn hạn. Mặt khác, người dân vẫn chưa thích ứng được với hoạt động mua bán theo hợp đồng và do vậy, hợp đồng thường phá vỡ. Ngoài ra, việc hợp đồng bị phá vỡ còn do tư tưởng hám lợi, nông dân sẽ bán lúa khi giá lúa tăng cao hơn giá hợp đồng. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp cũng không tôn trọng hợp đồng ký kết với nông dân. Trong một số trường hợp, doanh nghiệp không thực hiện hợp đồng khi giá lúa trên thị trường thấp hơn giá hợp đồng. Trong khi đó, Nhà nước chưa có chế tài khi các bên vi phạm hợp đồng. Do vậy, tình trạng phá vỡ hợp đồng, không thực hiện hợp đồng có xu hướng gia tăng. Điều đáng nói ở đây, là trên 90% đại bộ phận lúa hàng hóa lại được lực lượng thương lái mua tận hộ nông dân thông qua chế biến ở các cơ sở xay xát địa phương (đa phần là cơ sở công nghiệp của tư nhân trong đó có một số cơ sở xay xát kiêm luôn nghề thương lái thu gom). Do vậy, việc chủ động nguồn gạo xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo thường bị chi phối quá lớn bởi tư thương, nhất là tầng lớp thương lái nắm các chành, vựa làm lũng đoạn thị trường, gây cảnh chèn ép giá gạo. Điều này dẫn đến phát sinh tiêu cực như cạnh tranh không lành mạnh, đầu cơ giữa các doanh nghiệp. Thành phố Cần Thơ có 11 doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, với quy mô và mức độ sản xuất khác nhau lại cùng cạnh tranh và kinh doanh trên thị trường mà ở đó diện tích đất nông nghiệp đang dần bị thu hẹp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Điều đó đã và đang khiến cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn vì sản lượng lúa sản xuất tại Cần Thơ có xu hướng giảm. Có thể nói, từ trước đến nay Cần Thơ vẫn chưa có một cơ chế phối hợp nào đủ sức thuyết phục để các doanh nghiệp cùng nhau phối hợp để tạo nên sức mạnh, lợi thế chuyên biệt của Cần Thơ về hoạt động động xuất khẩu gạo.  Hoạt động chế biến xay xát gạo xuất khẩu: Lúa xuất khẩu được thu mua theo kênh thứ nhất được đưa về chế biến xay xát tại các cơ sở xay xát của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Thành phố Cần Thơ có ưu thế nằm trong vùng nguyên liệu của đồng bằng Sông Cửu Long và có nhiều điều kiện thuận lợi khác cho việc chế biến xay xát gạo xuất khẩu. Do vậy, hoạt động chế biến xay xát gạo ở đây phát triển khá mạnh. Một số doanh nghiệp xuất khẩu gạo mạnh ở Cần Thơ đã đầu tư lớn vào khâu chế biến gạo xuất khẩu. Chẳng hạn, Công ty Cổ phần Thương nghiệp tổng hợp và Chế biến lương thực Thốt Nốt, Công ty lương thực Sông Hậu đã đầu tư dây chuyền chế biến gạo hiện đại với hệ thống xay xát, đánh bóng, đóng gói đạt tiêu chuẩn quốc tế. Gạo được chế biến tại các cơ sở này có chất lượng cao và có thể xuất khẩu vào những thị trường có yêu cầu khắc khe về chất lượng gạo. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp ở địa phương khác cũng đến Cần Thơ đầu tư xây dựng cơ sở chế biến xay xát gạo làm cho hệ thống chế biến xay xát gạo xuất khẩu ở Cần Thơ ngày càng sôi động và hình thành các cơ sở xay xát với qui mô lớn, đáp ứng yêu cầu chế biến gạo xuất khẩu của Cần Thơ nói riêng và cả vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung, nhất là trong vụ thu hoạch lúa. ở kênh thu mua thứ hai, lúa được tư thương mua và chuyển đến nhà máy xay xát gạo tư nhân. Sau đó, gạo chế biến được chuyển tới doanh nghiệp xuất khẩu gạo và xuất cho khách hàng nước ngoài. Sơ đồ 2.1 mô tả quy trình thu mua, xay xát chế biến gạo xuất khẩu ở thành phố Cần Thơ. Sơ đồ 2.1: Quy trình thu mua, xay xát chế biến gạo xuất khẩu ở thành phố Cần Thơ (II) (I) Có thể thấy rằng, kênh thứ nhất thu mua, chế biến gạo xuất khẩu gạo thường được tiến hành tại các vùng chuyên canh lúa, các trang trại sản xuất lớn, các hợp tác xã; tại đây lúa được mua trực tiếp với khối lượng lớn. Tuy nhiên, ở kênh này, doanh nghiệp gặp phải khó khăn khi thu mua lúa là do vùng chuyên canh lúa tại Cần Thơ chưa có nhiều. Mặt khác, do quan hệ truyền thống giữa nông dân và tư thương, nông dân thường ưu tiên và thích bán lúa cho tư thương hơn. Do đó, doanh nghiệp tiếp cận nông dân để mua lúa không thuận lợi như tư thương. Đối với kênh thu mua, xay xát chế biến gạo thứ hai (nông dân – tư thương – nhà máy chế biến của tư nhân – doanh nghiệp xuất khẩu gạo – xuất khẩu), chủ yếu được tiến hành ở những nơi có địa hình khó khăn, vùng sâu, vùng ven thành phố với khối lượng lúa thu mua, xay xát không lớn. Chỉ có tư thương mới có điều kiện để thu gom những lượng lúa nhỏ lẻ của nông dân, sau đó tập trung lại và bán cho doanh nghiệp. ở kênh này, tư thương hoạt động hiệu quả và thu gom lúa đến tận hộ nông dân. Tuy nhiên, lúa gạo được thu mua, chế biến theo kênh này có chi phí cao vì phải qua nhiều tầng nấc trung gian trước khi đến doanh nghiệp để xuất khẩu. Cùng với hệ thống chế biến và xay xát, hệ thống kho chứa cũng được các doanh nghiệp đầu tư, xây dựng, đáp ứng nhu cầu lưu kho, bảo quản và dự trữ gạo xuất khẩu. Có thể nói, từ hai năm trở lại đây, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Cần Thơ đã đã tiến hành đầu tư xây dựng các kho chứa với tổng sức chứa trên 100.000 tấn nhằm giữ ổn định lượng gạo xuất khẩu, đồng thời đảm bảo yêu cầu của một số thị trường khó tính và rất Nông dân Chi nhánh thu mua của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Thương lái Nhà máy chế biến xay xát của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Nhà máy chế biến xay xát tư nhân Doanh nghiệp xuất khẩu gạo Xuất khẩu khắt khe trong việc bảo quản gạo, các điều kiện vệ sinh và kho chứa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, đây chỉ là sự chủ động của một vài doanh nghiệp, chứ chưa phải là sự phối hợp mang tính đồng bộ nếu so sánh với Thái Lan chúng ta vẫn chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ sở xay xát với mạng lưới kho chứa nhằm liên kết vùng sản xuất và cảng khẩu. Các chi nhánh của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Cần Thơ hiện tại vẫn chưa đáp ứng về hệ thống kho trung chuyển tại các địa phương và vùng lúa nguyên liệu. Hơn 90% lúa được tư thương thu gom và bảo quản nên không đảm bảo tính ổn định về chất lượng, khối lượng của gạo cho xuất khẩu. Điều đó ảnh hưởng phần nào đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu của Cần Thơ nói riêng, của Việt Nam nói chung trên thị trường gạo thế giới. 2.2.2.4. Thực trạng hoạt động bán gạo cho khách hàng nước ngoài của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở Cần Thơ Đối với hoạt động bán gạo cho khách hàng nước ngoài, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở Cần Thơ tự tìm kiếm thị trường và ký các hợp đồng chiếm 60% tổng khối lượng gạo xuất khẩu của Cần Thơ, 40% còn lại các hợp đồng là do Chính phủ đàm phán và ký kết. Trên thực tế, tại Cần Thơ nói riêng và Việt Nam nói chung, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu gạo đều ít vốn lưu động. Khi Chính phủ quyết định tạm ngưng xuất khẩu gạo trong một thời gian nhất định để đảm bảo an ninh lương thực trong nước, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng tạm ngưng thu mua gạo dự trữ. Điều này ảnh hưởng đáng kể đến thị trường gạo trong nước. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở Cần Thơ thường đàm phán ký kết từ trước nên việc xuất khẩu chỉ là đảm bảo thực hiện hợp đồng đã ký. Hiện nay, tỷ lệ hoàn thành các hợp đồng đã ký của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Cần Thơ đạt trên 98%. Chỉ có vài trường hợp là chậm về thời gian giao hàng và được các doanh nghiệp xuất khẩu đàm phán ngay sau khi có sự cố với các đối tác nước ngoài. Khối lượng gạo xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở Cần Thơ được thể hiện qua bảng 2.3 dưới đây. Bảng 2.3: Khối lượng gạo xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở Cần Thơ trong 02 năm 2005-2006 STT Tên doanh nghiệp 2005 2006 Khối lượng gạo xuất khẩu (tấn) Giá trị (USD) Khối lượng gạo xuất khẩu (tấn) Giá trị (USD) 01 Công ty Mekong 31.029 7.762.544 27.953 6.959.270 02 Công ty du lịch Cần Thơ 3.190 1.080.449 1.050 279.975 03 Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ 37.845 9.260.029 11.236 2.845.085 04 Công ty Nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ 29.968 7.305.100 23.574 5.892.323 05 Nông trường sông Hậu 29.676 7.385.771 22.758 5.494.091 06 Nông trường Cờ Đỏ 54.595 13.688.816 46.989 12.176.995 07 Công ty Cổ phần Thương nghiệp Tổng hợp và Chế biến lương thực Thốt Nốt (Gentraco) 302.480 73.189.329 222.675 58.729.440 08 Công ty Cổ phần Phú Hưng 33.210 8.261.470 36.324 8.741.523 09 Công ty TNHH Trung An 2.625 702.928 1.281 333.340 10 Công ty TNHH Hiệp Thanh 10.424 2.731.062 2.657 649.177 11 Công ty lương thực 19.008 4.496.502 162.325 42.331.841 Sông Hậu Tổng cộng 554.050 135.864.000 558.822 144.433.060 Nguồn: Trung tâm xúc tiến đầu tư và thương mại Cần Thơ 2.3. Đánh giá chung về HOạT Động xuất khẩu gạo của Thành phố Cần thơ thời gian qua 2.3.1. Những thành công và nguyên nhân 2.3.1.1. Những thành công đạt được Trong thời gian qua, đặc biệt giai đoạn 2004-2007, hoạt động xuất khẩu gạo của thành phố Cần Thơ đạt được những thành công nhất định. Một là, xuất khẩu gạo đã tăng trưởng với tốc độ ổn định về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Cần Thơ nằm ở vị trí trung tâm của vùng lúa nguyên liệu ở đồng bằng sông Cửu Long, khối lượng gạo xuất khẩu của Cần Thơ không bị giới hạn trong sản lượng lúa sản xuất trên địa bàn Thành phố, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Cần Thơ còn tiến hành thu mua lúa gạo ở các tỉnh lân cận. Năm 2007, thành phố đã xuất khẩu được 475 ngàn tấn gạo, kim ngạch xuất khẩu 145 triệu USD, chiếm 11,05% về số lượng và 10,04% về giá trị xuất khẩu gạo của cả nước. Trong cơ cấu giá trị xuất khẩu của Cần Thơ, kim ngạch xuất khẩu gạo chiếm 26,27%; trong tương lai xuất khẩu gạo vẫn giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển thương mại của thành phố. Nếu xét trong giai đoạn từ 2004-2007, hoạt động xuất khẩu gạo của Cần Thơ đã thu về hơn 510 triệu USD, đạt mức bình quân gần 128 triệu USD/năm, một con số rất đáng tự hào. Bảng 2.4: Khối lượng, kim ngạch và giá bình quân gạo xuất khẩu Năm Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu (%) Khối lượng gạo xuất khẩu (tấn) Tốc độ tăng khối lượng xuất khẩu (%) Giá bình quân xuất khẩu (USD/tấn) 2004 85.058.538 - 406.072 - 235 2005 135.864.000 159,7 554.050 136,4 245 của thành phố Cần Thơ (2004-2007) Nguồn: tổng hợp của tác giả từ niên giám thống kê và báo cáo tổng kết năm 2006-2007 của ngành thương mại thành phố Cần Thơ. Hai là, chất lượng gạo xuất khẩu của Cần Thơ ngày càng được cải thiện và giá gạo xuất khẩu ngày được nâng lên. Trong những năm đầu xuất khẩu gạo, tỉ lệ gạo chất lượng 5% tấm gần như không có, chỉ chiếm 0,3% tổng lượng gạo xuất khẩu; trong khi gạo cấp thấp, tỷ lệ tấm cao (35% và 45%) chiếm tới 92,4% tổng lượng gạo xuất khẩu. Đến năm 2004, loại gạo xuất khẩu chất lượng cao 5% tấm đã tăng lên chiếm tới 35%, loại gạo 15% tấm chiếm 40%, ngược lại, gạo cấp thấp (35 - 40% tấm) đã giảm xuống còn 13% [21, tr.78]. Trước đây, phần lớn gạo xuất khẩu của Cần Thơ là gạo trắng thường, hạt trung bình và hạt dài (độ dài hạt từ 6,2-7 mm), tỷ lệ tấm từ 5% đến 45%, chưa đa dạng về quy cách sản phẩm, không có loại gạo nào nổi bật về phẩm chất, thể hiện nét độc đáo riêng của sản phẩm gạo Cần Thơ. Thêm vào đó, các nhà xuất khẩu thường không đảm bảo đồng bộ, đồng nhất về qui cách chất lượng ngay trong từng lô gạo. Trong thời gian gần đây, chất lượng gạo xuất khẩu của Cần Thơ từng bước được nâng cao. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo đang phấn đấu xuất khẩu gạo cao cấp sẽ chiếm 7%-10% tỷ trọng so với tổng khối lượng gạo xuất khẩu của thành phố. Đây là tín hiệu đáng mừng cho hoạt động xuất khẩu gạo của Cần Thơ trong tương lai. Theo báo cáo thường niên về ngành hàng lúa gạo của Trung tâm Thông tin Phát triển Nông nghiệp nông thôn - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong năm 2007, tỷ lệ thu hồi gạo qua chế biến ở các tỉnh thành phố của đồng bằng sông Cửu Long trong vụ đông xuân, thường cao hơn so với vụ hè thu. Cụ thể, tỷ lệ cám và tấm chiếm khoảng 16% (trong vụ đông xuân), 18% cám và tấm (trong vụ hè thu). Tuy nhiên trong tổng sản lượng gạo chế biến, cơ cấu gạo chế biến theo chủng loại và chất lượng (5% tấm, 10% tấm hay 15%, 25%, 100% tấm) lại phụ thuộc rất lớn vào mục đích chế biến gạo của các doanh nghiệp. 2006 144.433.060 106,3 558.822 100,8 260 2007 145.000.000 100,4 475.000 85,0 295 Nhờ chất lượng gạo được cải thiện, trong những năm gần đây, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam nói chung và của Cần Thơ nói riêng đã tương đương với giá gạo Thái Lan. Khi Việt Nam mới tham gia vào thị trường thế giới (giai đoạn 1989 – 1994), giá gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn thấp hơn 40 – 55 USD/tấn so với giá gạo của Thái Lan. Hiện nay, giá một số loại gạo xuất khẩu của Việt Nam chỉ còn thấp hơn giá gạo Thái Lan từ 10 – 20 USD/tấn. Năm 2007, giá gạo 5% tấm của Việt Nam, có lúc đã lên đến 354 USD/tấn. Đầu năm 2008, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã đạt mức kỷ lục 1.300 USD/tấn. Do chất lượng gạo được cải thiện, gạo Cần Thơ đã được sự tín nhiệm nhất định của người tiêu dùng thế giới. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng đã quan tâm nhiều hơn đến việc xây dựng thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp. Có hai doanh nghiệp đã xây dựng được thương hiệu gạo xuất khẩu của mình. Con số này tuy còn khiêm tốn, nhưng nó cũng thể hiện những tiến bộ quan trọng của hoạt động xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp Cần Thơ trong thời gian qua. Ba là, thị trường xuất khẩu gạo của Cần Thơ ngày càng mở rộng. Nếu trong những năm đầu thập kỉ 90, cùng với các tỉnh khác, gạo xuất khẩu của Cần Thơ mới chỉ xuất khẩu sang Liên Xô, các nước Đông Âu và chủ yếu là các nước trong khu vực, xuất khẩu gạo sang Châu Phi, và Châu Mỹ La tinh chiếm tỉ lệ nhỏ, thì trong những năm gần đây, thị trường chính của xuất khẩu gạo Cần Thơ đã mở rộng sang những thị trường khó tính như Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore. Ngoài ra, hoạt động xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo được quan tâm tốt hơn. Nhiều doanh nghiệp tham dự các hội chợ trong nước và quốc tế; thực hiện giám sát tốt các chương trình khuyến mại, họp mặt khách hàng nhằm quảng bá thương hiệu sản phẩm. Các doanh nghiệp đã tham gia đoàn khảo sát thị trường, tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở thị trường úc, Mỹ, Trung Quốc và còn mở rộng sang thị trường Châu Phi, Tây Âu và một số nước Trung Đông. Như vậy, có thể thấy rằng, gạo xuất khẩu của Cần Thơ đã có mặt gần khắp các thị trường trên thế giới. Điều đó cho thấy chính sách thị trường, chính sách xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp đã có những bước tiến bộ rõ rệt. Bốn là, số doanh nghiệp Cần Thơ tham gia kinh doanh xuất khẩu gạo tăng, hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo đạt hiệu quả ngày càng cao. Năm 2005, có 9 doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất khẩu gạo. Năm 2008, con số đó là 11 doanh nghiệp. Tuy số doanh nghiệp tăng lên không nhiều, nhưng sự phát triển của các doanh nghiệp thể hiện ở quy mô doanh nghiệp tăng, địa bàn hoạt động của các doanh nghiệp được mở rộng, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp được nâng lên từng bước. 2.3.1.2. Nguyên nhân thành công Thành phố Cần Thơ có vị trí địa lý thuận lợi cho việc mở rộng giao lưu với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long và quốc tế. Đây là một cực tăng trưởng kinh tế của Nam bộ, có cơ sở hạ tầng và dịch vụ phát triển, tập trung nhiều cơ sở đào tạo và cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ, có vai trò hỗ trợ cho nông nghiệp cả "đầu vào và đầu ra" một cách tích cực. Đây là lợi thế vượt trội của nông nghiệp thành phố. Bên cạnh đó, cùng với điều kiện thời tiết thuận lợi, mưa thuận gió hoà nên năng suất lúa luôn tăng theo từng năm. Mặt khác, những chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ đã tạo cơ hội thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới. Hệ thống môi trường pháp lý, môi trường hành chính, môi trường tài chính, ngân hàng, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực...ngày càng hoàn thiện, là điều kiện rất thuận lợi, hỗ trợ tích cực cho hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo. Nông dân ở Cần Thơ cũng như vùng đồng bằng sông Cửu Long rất nhạy bén trong việc ứng dụng kỹ thuật mới, dám nghĩ, dám làm. Công tác khuyến nông được tiến hành khá tốt nên trình độ sản xuất của nông dân Cần Thơ so với mặt bằng chung của đồng bằng sông Cửu Long khá cao. Bên cạnh đó, cũng phải kể đến bản thân nội lực của các doanh nghiệp xuất khẩu Cần Thơ đã được nâng lên đáng kể. Máy móc, dây chuyền sản xuất và trang thiết bị hiện đại được các doanh nghiệp quan tâm đầu tư. Đáng chú ý là Chính phủ đã thông qua cơ chế điều hành xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2005. Với cơ chế mới này, mọi doanh nghiệp đều có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Những rào cản pháp lý, thủ tục gây trở ngại cho hoạt động xuất khẩu dần được xóa bỏ. Do đó, khả năng tiếp cận với thị trường quốc tế của các doanh nghiệp xuất khẩu thuận lợi hơn. 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Những hạn chế Tuy đạt được những thành công quan trọng, Song hoạt động xuất khẩu gạo của Cần Thơ vẫn còn bộc lộ một số hạn chế: Một là, chất lượng gạo tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thị trường. Do chất lượng gạo sản xuất còn thấp, dẫn đến khả năng cạnh tranh trên thị trường yếu, nên việc đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn xuất khẩu không cao. Hàng năm, sản lượng lúa sản xuất của Cần Thơ đạt trên 1 triệu tấn/năm, nhưng chất lượng gạo Cần Thơ chưa cao. Hạt gạo Cần Thơ vẫn còn tồn tại nhiều nhược điểm như: độ trắng không đồng đều, tỷ lệ thóc cao, lẫn nhiều tạp chất, nhất là gạo vụ hè thu thường có độ ẩm cao trên 15%, tỷ lệ bạc bụng nhiều và không đồng đều, vào mùa mưa tỷ lệ hạt hỏng, biến màu thường cao hơn. Điều kiện đóng gói, bao bì, kỹ thuật bảo quản chưa tốt làm giảm chất lượng gạo xuất khẩu. Xét ở mặt bằng chung của cả nước, gạo xuất khẩu của của Cần Thơ nói riêng và Việt Nam nói chung vẫn chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Hai là, xuất khẩu gạo của Cần Thơ vẫn còn thiên về khối lượng xuất khẩu mà chưa quan tâm nhiều đến giá trị xuất khẩu. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo ở Cần Thơ dường như vẫn đang loay hoay làm sao để ký nhiều hợp đồng xuất khẩu gạo, mua được nhiều lúa để xuất khẩu mà chưa tập trung đầu tư để nâng cao giá trị xuất khẩu. Cho đến nay, chưa có doanh nghiệp nào liên kết với cơ sở nghiên cứu, với nông dân để đưa giống mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật, kỹ thuật canh tác để có thể sản xuất ra loại lúa có chất lượng cao, để bán được giá. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu gạo của Cần Thơ tăng chủ yếu do tăng khối lượng nhiều hơn do tăng giá. Nhiều doanh nghiệp vẫn cho rằng, giá trị kim ngạch tăng thêm trong nhiều trường hợp do tác động của giá gạo thế giới liên tục tăng, còn giá trị gạo Việt Nam xuất khẩu vẫn chưa được cải thiện nhiều. Tình hình này khiến cho thu nhập người trồng lúa chậm được cải thiện. Nếu vấn đề này không được giải quyết, trong tương lai, rất có thể người nông dân sẽ bỏ trồng lúa do thu nhập từ trồng lúa thường thấp hơn so với thu nhập từ việc trồng các cây nông nghiệp khác hoặc so với ngành nghề khác. Ba là, thị trường xuất khẩu gạo tuy đã được mở rộng, song thiếu ổn định. Các doanh nghiệp Cần Thơ chưa xây dựng được mạng lưới bạn hàng lớn, thâm nhập sâu vào các thị trường có sức mua cao. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chưa tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng thị trường và khách hàng, nhất là thị trường Châu Phi. Hiện nay, gạo Cần Thơ xuất khẩu sang Châu Phi chiếm tỷ trọng 16,55%, chủ yếu là xuất khẩu gián tiếp thông qua thương nhân nước ngoài. Hiếm có doanh nghiệp nào xuất khẩu được trực tiếp cho khách hàng. Hai lý do chính khiến doanh nghiệp không thể bán gạo trực tiếp vào Châu Phi là phương thức thanh tóan còn nhiều rủi ro và tình hình chính trị không ổn định. Thông thường, khách hàng Châu Phi chỉ chấp nhận ký hợp đồng với phương thức thanh toán là giao tiền khi hàng đến nơi, không chấp nhận phương thức L/C đã phổ biến hiện nay. Hơn nữa, tuy nhu cầu gạo nhiều nhưng khách hàng Châu Phi thường đặt hàng khối lượng nhỏ lẻ, cao nhất cũng chỉ là 2.000-3.000 tấn. Một tàu gạo tải trọng hơn 10.000 tấn, cước vận chuyển đến Châu Phi 35-40 USD/ tấn nhưng nếu bán lẻ thì doanh nghiệp không thể thực hiện được. Bốn là, hoạt động xuất gạo ở Cần Thơ còn ở tình trạng phân tán, chưa được quản lý chặt chẽ. Các doanh nghiệp kinh doanh gạo xuất khẩu chưa xây dựng được hệ thống thu mua lúa, trong đó, có sự liên kết phối hợp chặt chẽ với nhau để đảm bảo cho doanh nghiệp chủ động nguồn hàng xuất khẩu. Giữa các doanh nghiệp và tư thương, nông dân cũng chưa tạo ra được mối liên hệ hợp tác chặt chẽ để bảo đảm tiêu thụ lúa gạo cho nông dân và lượng gạo xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Hệ thống xay xát, chế biến gạo xuất khẩu ở Cần Thơ chưa được tổ chức lại một cách chặt chẽ. Nhiều cơ sở xay xát, chế biến nhỏ lẻ, công nghệ xay xát, đánh bóng lạc hậu. Chất lượng gạo xuất khẩu cung ứng cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu không đồng đều do chúng được sản xuất, chế biến từ các doanh nghiệp xay xát nhỏ nà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo của Thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan