Luận văn Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay

Tài liệu Luận văn Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay: LUẬN VĂN: Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế hiện nay, vốn đầu tư phát triển kinh tế nói chung và vốn đầu tư phát triển công nghiệp nói riêng là một vấn đề đặc biệt quan trọng, cần được quan tâm giải quyết. Việc thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp như thế nào để đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển của ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời việc thu hút vốn đó phải đạt được hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay, tỉnh Hưng Yên đã hình thành một số khu công nghiệp tập trung, làng nghề tiểu thủ công nghiệp, thu hút hàng trăm nhà đầu tư đến đây thành lập doanh nghiệp, tiến hành sản xuất kinh doanh. Các khu công nghiệp, làng nghề tiểu thủ công nghiệp này cần huy động số lượng lớn vốn đầu tư phát triển của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế ở trong nước và nước ngoài. Để các khu công nghiệp, làng nghề tiểu thủ công nghiệp c...

pdf122 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1175 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế hiện nay, vốn đầu tư phát triển kinh tế nói chung và vốn đầu tư phát triển công nghiệp nói riêng là một vấn đề đặc biệt quan trọng, cần được quan tâm giải quyết. Việc thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp như thế nào để đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển của ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời việc thu hút vốn đó phải đạt được hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay, tỉnh Hưng Yên đã hình thành một số khu công nghiệp tập trung, làng nghề tiểu thủ công nghiệp, thu hút hàng trăm nhà đầu tư đến đây thành lập doanh nghiệp, tiến hành sản xuất kinh doanh. Các khu công nghiệp, làng nghề tiểu thủ công nghiệp này cần huy động số lượng lớn vốn đầu tư phát triển của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế ở trong nước và nước ngoài. Để các khu công nghiệp, làng nghề tiểu thủ công nghiệp của tỉnh không chỉ là đầu tàu kinh tế góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, mà còn có thể trở thành các khu công nghiệp, làng nghề tiểu thủ công nghiệp điển hình về thu hút vốn đầu tư phát triển ở khu vực phía Bắc. Từ thực tế cho thấy vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên đã có những dấu hiệu khả quan, tích cực, đã thu hút được số lượng lớn vốn đầu tư ở trong và ngoài nước. Song bên cạnh đó cũng còn nhiều khó khăn, tồn tại cần phải được tháo gỡ, đặc biệt là vấn đề thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp. Đây cũng chính là vấn đề đòi hỏi phải được giải quyết cả về mặt cơ sở lý luận và cả về mặt thực tiễn hiện nay. Chính vì lý do đó mà luận văn đã đi sâu vào nghiên cứu vấn đề: Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế nói chung và phát triển công nghiệp nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. ở nước ta có một số công trình nghiên cứu khoa học đã công bố liên quan đến thu hút vốn đầu tư phát triển như: - Viện nghiên cứu tài chính: Khu vực đầu tư asean việc tham gia của Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội, 1999. - Nguyễn Công Nghiệp, Lê Hải Mơ, Vũ Đình ánh: Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính phục vụ mục tiêu tăng trưởng, Nxb Tài chính, Hà nội 1998. - đỗ đức Quân: Thị trường vốn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luận án tiến sĩ kinh tế, 2001. - Chính sách tài chính vĩ mô trong phát triển và hội nhập, Nxb Tài chính, Hà nội 2002. - Nguyễn Văn Tuấn: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005. - Nguyễn Văn Phúc: Huy động vốn trong nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận văn thạc sĩ kinh tế, 1996. - Nguyễn Chu Lai: Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, năm 1996. - Nguyễn Xuân Kiên: Tích tụ và tập trung vốn trong nước để phát triển công nghiệp ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, 1999. Những công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến việc thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở nước ta và một số nước trong khu vực hiện nay. Mặt khác, việc nghiên cứu của những công trình khoa học này chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó trong chính sách thu hút vốn đầu tư. Chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống tập trung vào vấn đề thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp nói chung và phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Phân tích và làm rõ khái niệm, các đặc trưng của vốn đầu tư, đầu tư vốn, các nguồn vốn đầu tư và vai trò của vốn đầu tư đối với nền kinh tế quốc dân. Nghiên cứu kinh nghiệm một số tỉnh trong nước và một số nước trên thế giới về thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp. Thông qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nhận thức một cách có hệ thống các nội dung có liên quan đến vấn đề vốn đầu tư, thu hút vốn đầu tư phát triển nói chung và vốn đầu tư phát triển công nghiệp của tỉnh Hưng Yên nói riêng. - Đánh giá tình hình thực tế phát triển công nghiệp và thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn vừa qua. Tìm ra những thành công, hạn chế và các nguyên nhân. - Tổng hợp những quan điểm và định hướng của Đảng và Nhà nước, của tỉnh Hưng Yên về việc phát triển công nghiệp và thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp. - Đề xuất những giải pháp chủ yếu để thu hút vốn đầu tư có hiệu quả vào lĩnh vực công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn 2006 - 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Đưa ra các điều kiện để đảm bảo thực hiện thắng lợi các giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng và những giải pháp cơ bản nhằm thu hút có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Thời gian nghiên cứu chỉ tập trung vào giai đoạn từ năm 2001 - 2020 khi Hưng Yên thành lập các khu công nghiệp tập trung, các làng nghề tiểu thủ công nghiệp và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, của tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn 2001 - 2020. 5. Phương pháp nghiên cứu Cách nghiên cứu dựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng tổng hợp một số phương pháp như: phân tích, thống kê, so sánh, dựa trên cơ sở vận dụng và quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về sự hình thành và phát triển công nghiệp, về vốn đầu tư phát triển công nghiệp. Đồng thời, kế thừa các công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố của một số tác giả viết về cơ sở lý luận và thực tiễn hiện nay thu hút vốn đầu tư phát triển của một số địa phương trong nước và của một số nước trên thế giới. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Luận văn đã luận giải được một cách có hệ thống những vấn đề về bản chất, nội dung, vai trò quyết định của vốn đầu tư đối với sự phát triển kinh tế nói chung và phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên nói riêng. - Trên cơ sở thực tiễn, luận văn đã đánh giá tình hình thực tế phát triển công nghiệp và thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong thời gian qua, làm căn cứ cho việc đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thu hút có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong thời gian tới. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan hoạch định chính sách và cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh ở tỉnh Hưng Yên và một số tỉnh khác. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Một số vấn đề cơ bản về vốn đầu tư 1.1. vai trò của vốn đầu tư phát triển công nghiệp 1.1.1. Khái niệm và những đặc trưng của vốn đầu tư Vốn là yếu tố quan trọng nhất đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển và đặc biệt đối với nền kinh tế n- ước ta hiện nay. Cho đến nay chưa có một định nghĩa bằng văn bản chính thức của Nhà nước về vốn. Tuy nhiên, trong nhiều sách, giáo trình của các học viện, các trường đại học thuộc khối kinh tế có rất nhiều khái niệm về vốn dưới góc độ phân loại thành vốn cố định, vốn l- ưu động và vốn đầu tư tài chính. Hiện nay, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, đó là môi trường thuận lợi để vốn bộc lộ bản chất và vai trò của mình. Việc tìm hiểu, nhận thức lại khái niệm và những đặc trưng cơ bản của vốn đầu tư là công việc cần thiết, trước khi đi tìm các giải pháp để thu hút vốn cho đầu tư phát triển. Vốn đầu tư là một bộ phận của nguồn lực biểu hiện dưới dạng giá trị của các tài sản quốc gia được thể hiện bằng các tài sản hữu hình và vô hình nhằm sử dụng vào mục đích đầu tư để sinh lời. Cần chú ý rằng, nguồn lực trên phải nằm trong một dự án đầu tư thì mới được gọi là nguồn vốn đầu tư. Nếu không chúng mới chỉ là nguồn lực tích lũy và dự trữ dưới dạng tiềm năng. Nói cách khác, vốn đầu tư phải là nguồn lực trong trạng thái "động". Để làm rõ khái niệm về vốn đầu tư, cần đi sâu phân tích những đặc trưng cơ bản của vốn đầu tư dưới đây: Thứ nhất, vốn phải được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản, điều này có nghĩa là vốn phải đại diện cho một lượng giá trị có thực của tài sản (tài sản hữu hình và vô hình). Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên vật liệu... Tài sản vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, tài sản vô hình rất phong phú và đa dạng như: vị trí kinh doanh, bản quyền, phát minh sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, uy tín trong kinh doanh... Như vậy một lượng tiền phát hành không vào lưu thông, không có giá trị đảm bảo hoặc các khoản nợ không có khả năng thanh toán cũng không thể được gọi là vốn. Thứ hai, vốn phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Vốn là tiền nhưng không phải mọi đồng tiền đều là vốn. Tiền chỉ là vốn ở dạng tiềm năng, khi nào chúng được dùng vào đầu tư kinh doanh thì chúng mới biến thành vốn. Tiền là phương tiện để trao đổi, lưu thông hàng hóa còn vốn là để sinh lời, nó luôn chu chuyển và tuần hoàn. Quá trình đầu tư là một quá trình vận động của vốn đầu tư. Cách vận động và phương thức vận động của tiền vốn lại do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Các phương thức đầu tư có thể mô phỏng theo sơ đồ sau: - Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh: TLSX T - H ... SX... H’ - T’ SLĐ - Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực thương mại: T - H - T’ - Trường hợp đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu, góp vốn liên doanh...: T - T’ Ngoài sự phân biệt giữa vốn và tiền, cần phân biệt sự khác nhau giữa vốn và tài sản. Vốn là biểu hiện bằng tiền của một bộ phận tài sản, nhưng không phải mọi tài sản đều được gọi là vốn. Tài sản có nhiều loại: có loại do thiên nhiên ban tặng, có loại do thành quả lao động của con người sáng tạo ra; có loại là hữu hình, có loại là vô hình. Những tài sản đó nếu được giá trị hóa thành tiền và đưa vào đầu tư thì đều được gọi là vốn đầu tư. Những tài sản này được gọi là tài sản hoạt động (để phân biệt với tài sản bất động, tức là tài sản ở dạng tiềm năng). Thứ ba, vốn bao giờ cũng gắn liền với một chủ sở hữu nhất định, không có khái niệm vốn vô chủ. Chủ sở hữu vốn có thể là một chủ như Nhà nước là chủ sở hữu vốn duy nhất trong các doanh nghiệp nhà nước, nhưng cũng có thể là nhiều chủ như các cổ đông là chủ sở hữu vốn trong các công ty cổ phần. Tùy theo hình thức đầu tư mà người chủ sở hữu có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất với người sử dụng vốn. ở đâu không xác định được rõ chủ sở hữu của vốn và tài sản thì ở đó việc quản lý, sử dụng vốn sẽ kém hiệu quả, gây ra lãng phí và tiêu cực. Thứ tư, trong nền kinh tế thị trường vốn là một loại hàng hóa đặc biệt. Sở dĩ coi vốn là một loại hàng hóa, vì nó cũng có giá trị và giá trị sử dụng như mọi loại hàng hóa khác. Giá trị sử dụng của vốn là để sinh lời. Nhưng vốn là một loại hàng hóa đặc biệt khác với hàng hóa thông thường, ở chỗ người bán vốn không mất đi quyền sở hữu mà chỉ bán quyền sử dụng vốn mà thôi. Người mua nhận được quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định và phải trả cho người bán vốn một tỷ lệ nhất định tính trên số vốn đó, gọi là lãi suất. Như vậy, lãi suất chính là giá cả của quyền sử dụng vốn. Việc mua bán quyền sử dụng vốn được diễn ra trên thị trường tài chính. Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và các công cụ tài chính nhất định, là tổng hòa các quan hệ cung và cầu về vốn. Thị trường tài chính bao gồm hai bộ phận: - Thị trường tiền tệ: là thị trường vốn ngắn hạn, nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn. Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại. Vì các ngân hàng thương mại là chủ thể quan trọng nhất trong việc thu hút và cung cấp các nguồn vốn ngắn hạn. - Thị trường vốn: là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng các nguồn vốn dài hạn. Thị trường vốn cung cấp tài chính cho các khoản đầu tư dài hạn của Chính phủ, chính quyền địa phương, của các doanh nghiệp, các hộ gia đình và các cá nhân. Thị trường vốn gồm có thị trường vay nợ dài hạn và thị trường chứng khoán. Chỉ khi nào có lợi tức thỏa đáng thì người sở hữu vốn mới bán quyền sử dụng vốn của mình. Đây là một nguyên lý có tính chất nguyên tắc để thu hút, huy động vốn trong cơ chế thị trường. Thứ năm, đồng vốn có giá trị về mặt thời gian. ở các thời điểm khác nhau thì giá trị của vốn cũng khác nhau. Bởi lẽ, đồng tiền càng trải dài theo thời gian thì nó càng bị mất giá và độ an toàn càng giảm. Vì vậy, một vấn đề đặt ra là phải hiện tại hóa hoặc tương lai hóa giá trị của vốn để làm cơ sở tính toán và phân tích hiệu quả đầu tư. Thứ sáu, vốn phải được tích tụ và tập trung. Tích tụ vốn là việc tăng số vốn cá biệt của từng doanh nghiệp, từng hộ sản xuất. Tập trung vốn là làm tăng quy mô vốn đơn vị toàn xã hội. Có tích tụ vốn mới có tập trung vốn. Tập trung vốn sẽ biến những tác dụng nhỏ bé của từng khoản vốn tích tụ cá biệt thành sức mạnh của nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội. C.Mác đã khẳng định, nếu không có tích tụ và tập trung tư bản thì đến nay trên thế giới chưa có được hệ thống đường sắt. Thiếu vốn là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế Việt Nam. Để điều trị căn bệnh này không còn cách nào ưu việt hơn là phải tăng cường thu hút, huy động vốn, khơi thông các dòng chảy của vốn và hướng chúng vào đầu tư phát triển kinh tế. Đó chính là tiền đề cơ bản cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Vốn chính là tiền đề của mọi quá trình đầu tư. 1.1.2. Đầu tư vốn Đầu tư vốn đó là số vốn được dùng vào kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định nhằm mục đích kinh tế - xã hội. Đầu tư vốn là hoạt động chủ quan có cân nhắc của người quản lý trong việc bỏ vốn vào một mục tiêu kinh doanh với hy vọng sẽ đem lại hiệu kinh tế - xã hội cao trong tương lai. Việc bỏ vốn vào mục tiêu kinh doanh nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận thì được gọi là đầu tư vốn. Trong thực tế, giữa khả năng thu lợi nhuận cao với khả năng an toàn về vốn thường mâu thuẫn với nhau: mức lợi nhuận càng cao thì độ rủi ro về vốn càng lớn. Do đó, các nhà đầu tư trước khi đầu tư vào một dự án nào đó thường phải cân nhắc, lựa chọn hướng đầu tư và phương án đầu tư thích hợp, sao cho lợi nhuận thu được là nhiều nhất nhưng độ rủi ro về vốn là thấp nhất. Theo phạm vi đầu tư, thì đầu tư được chia ra thành đầu tư vào bên trong và đầu tư ra bên ngoài. Đứng trên phương diện đầu tư của Chính phủ đối với nền kinh tế, thì đầu tư vào bên trong là sự đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đầu tư cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư để hình thành những lĩnh vực, ngành mũi nhọn...Còn đầu tư ra bên ngoài của Chính phủ chính là đầu tư tài chính quốc tế dưới các hình thức viện trợ phát triển chính thức (ODA), tín dụng thương mại quốc tế...Nếu xét trên góc độ đầu tư của doanh nghiệp, thì đầu tư vào bên trong doanh nghiệp được chia làm hai loại: đầu tư xây dựng cơ bản và đầu tư vốn lưu động. Đầu tư xây dựng cơ bản là đầu tư vốn nhằm tạo ra tài sản cố định (tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình) của doanh nghiệp. Đầu tư vốn lưu động là việc doanh nghiệp cần dự trữ thường xuyên về nguyên vật liệu, bán thành phẩm, công cụ dụng cụ...tương ứng với quy mô sản xuất kinh doanh để đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện liên tục. Doanh nghiệp cần phải có một số vốn lưu động nằm trong khâu sản xuất dưới dạng sản phẩm đang chế tạo, chi phí chờ phân bổ...và vốn lưu động ở khâu lưu thông như thành phẩm, vốn trong thanh toán... Ngoài ra, doanh nghiệp phải có một số vốn lưu động bằng tiền mặt, tiền gửi ngân hàng. Còn đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp là góp vốn liên doanh với doanh nghiệp khác, mua cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp khác hoặc của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, để bảo toàn và phát triển vốn phòng ngừa rủi ro, các doanh nghiệp thường dành một tỷ lệ vốn đầu tư nhất định để đầu tư tài chính ra bên ngoài doanh nghiệp. Nghiên cứu vấn đề này giúp ta thấy rõ sự khác nhau cơ bản của hai khái niệm vốn đầu tư và đầu tư vốn, để từ đó chọn lựa được phương án đầu tư vốn đạt hiệu quả nhất. 1.1.3. Các nguồn vốn đầu tư Nguồn vốn đầu tư phát triển của xã hội được hình thành trên cơ sở động viên các nguồn lực trong nước và ngoài nước, thông qua các công cụ chính sách, cơ chế, luật pháp. Nguồn vốn trong nước bao gồm: nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng (tín dụng nhà nước và tín dụng ngân hàng), các nguồn vốn khác (vốn đầu tư của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư). Nguồn vốn ngoài nước gồm có: đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn vay, viện trợ và các nguồn vốn khác. 1.1.3.1. Nguồn vốn trong nước * Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định. Nó phản ánh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội, phát sinh khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. Nguồn vốn ngân sách nhà nước được hình thành từ tiết kiệm của ngân sách nhà nước, đó là khoản chênh lệch giữa thu và chi của ngân sách nhà nước. Thu của ngân sách nhà nước được thực hiện chủ yếu là từ thuế và một phần nhỏ là các khoản thu từ phí, lệ phí và thu khác... Chi của ngân sách nhà nước bao gồm: chi cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên cho quản lý hành chính, an ninh quốc phòng, sự nghiệp văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao và xã hội, chi các sự nghiệp kinh tế...Xu hướng chi tiêu công cộng của Nhà nước có chiều hướng ngày càng tăng lên, vì Nhà nước ngày càng phải đảm nhận việc cung cấp nhiều hàng hóa công cộng hơn cho xã hội. Một quan hệ thường thấy trong cân đối ngân sách quốc gia là có bội thu hoặc bội chi. Nếu bội thu ngân sách thì điều hiển nhiên là Nhà nước có nguồn tiết kiệm để hình thành nên vốn đầu tư phát triển. Nhưng một vấn đề cần lưu ý là có thể trong trường hợp bội chi ngân sách thì ngân sách nhà nước vẫn tiết kiệm một phần để dành cho đầu tư phát triển, vì trong các khoản chi của Nhà nước có khoản chi cho đầu tư phát triển. Điều này có nghĩa là muốn có tiết kiệm từ ngân sách nhà nước thì tốc độ tăng chi đầu tư phát triển phải luôn lớn hơn tốc độ tăng chi thường xuyên. Vấn đề không phải là bội chi ít hay nhiều mà phương pháp xử lý chính là định hướng đầu tư. Nhưng một thực tế là hầu hết các nước đang phát triển, tiết kiệm của Chính phủ không phải là nguồn đầu tư chủ yếu, vì thường ngân sách của các nước này nguồn thu rất hạn chế, mà nhu cầu chi tiêu thường xuyên lại cao, nên Nhà nước chỉ có thể tập trung vốn đầu tư phát triển ở những lĩnh vực thật sự thấy cần thiết. Muốn tăng nguồn tích lũy của ngân sách nhà nước phải phấn đấu tăng thu và tiết kiệm chi. Vốn đầu tư phát triển qua kênh ngân sách nhà nước, được thể hiện qua hai phần: một phần vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước, một phần từ nguồn kinh phí sự nghiệp kinh tế hàng năm. * Nguồn vốn tín dụng nhà nước: Là hình thức vay nợ của Nhà nước thông qua kho bạc, được thực hiện chủ yếu bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ, do Bộ Tài chính phát hành. Trong trường hợp nhu cầu chi tiêu của ngân sách lớn, nhưng nguồn thu lại không thể đáp ứng được. Để thỏa mãn nhu cầu này, Chính phủ thường cân đối ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ. Cũng có thể Chính phủ tiến hành một dự án nào đó, nhưng không muốn sử dụng vốn ngân sách, thì dự án này có thể được thực hiện bằng vốn vay dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ. ở nước ta hiện nay, trái phiếu Chính phủ có các hình thức sau đây: - Tín phiếu kho bạc: là loại trái phiếu ngắn hạn dưới một năm, được phát hành với mục đích để bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước và tạo thêm công cụ của thị trường tiền tệ. - Trái phiếu kho bạc: là loại trái phiếu có thời hạn một năm trở lên, được phát hành nhằm mục đích huy động vốn theo kế hoạch ngân sách nhà nước hàng năm đã được Quốc hội phê duyệt. - Trái phiếu đầu tư: là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn một năm trở lên, bao gồm các loại sau: + Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình cụ thể thuộc diện ngân sách đầu tư, theo kế hoạch đầu tư đã được Chính phủ phê duyệt nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm kế hoạch. + Trái phiếu huy động vốn cho Quỹ hỗ trợ phát triển theo kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển hàng năm được Chính phủ phê duyệt. Đối với vốn đầu tư phát triển, hình thức tín dụng nhà nước có thể tác động lên hai mặt: Chính phủ vay ngắn hạn tạo điều kiện cân đối ngân sách đảm bảo kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế và phát hành trái phiếu để đầu tư cho một số dự án nào đó. Hình thức tín dụng nhà nước tuy lãi suất chưa cao, nhưng có sự đảm bảo của Nhà nước nên rất dễ huy động vốn. Nếu vận dụng tốt sẽ tạo ra nguồn vốn đầu tư phát triển quan trọng. * Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước: Hiện nay, ở các quốc gia đều tồn tại khu vực kinh tế nhà nước (doanh nghiệp nhà nước) vì nhiều lý do khác nhau: bảo đảm những ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn, kinh doanh ở những lĩnh vực mà tư nhân không đủ sức, đủ vốn hoặc không muốn làm vì hiệu quả kinh tế thấp, nhất là ở những lĩnh vực như giao thông, thủy lợi, năng lượng, dịch vụ công cộng... Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước được hình thành từ rất nhiều nguồn khác nhau: là nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp cho các doanh nghiệp nhà nước lúc mới hình thành doanh nghiệp, tuy nhiên nguồn vốn này sẽ có xu hướng giảm đáng kể cả về tỷ trọng và số lượng; nguồn vốn huy động thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu (đối với các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hóa); tiền khấu hao cơ bản của tài sản cố định, lợi nhuận tích lũy được phép để lại doanh nghiệp... * Nguồn vốn tín dụng ngân hàng: Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian khác như công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, công ty bảo hiểm...có vai trò rất quan trọng trong việc huy động vốn đầu tư phát triển. Các tổ chức này có ưu điểm là có thể thỏa mãn được mọi nhu cầu về vốn của các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế, nếu những đối tượng vay vốn chấp hành đầy đủ những quy chế tín dụng. Sở dĩ các tổ chức này có thể thu hút, huy động nguồn vốn bằng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế với khối lượng lớn, bởi vì các tổ chức này đã sử dụng dưới nhiều hình thức huy động khác nhau rất phong phú và đa dạng. Mặt khác, thời hạn cho vay cũng rất linh hoạt (bao gồm vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn), tùy thuộc vào nhu cầu của người đi vay. Do nguồn vốn của các tổ chức này huy động được có thời gian nhàn rỗi cũng rất khác nhau (tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn) và là nguồn vốn bằng tiền nên có thể điều chỉnh giữa các nguồn vốn với nhau để đáp ứng nhu cầu về thời gian của người đi vay. Phạm vi cho vay cũng rất rộng, liên quan đến các chủ thể và các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Bởi vậy, trong lĩnh vực đầu tư phát triển thì vấn đề huy động vốn qua tín dụng ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian là hình thức không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. * Nguồn vốn đầu tư của khu vực dân doanh: Nguồn vốn đầu tư của khu vực dân doanh được hình thức từ nguồn tiết kiệm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tiết kiệm của dân cư. - Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân...): lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp này sẽ được chia làm hai phần: một phần chia cho các cổ đông và một phần để lại cho doanh nghiệp. Khoản lợi nhuận không chia này là khoản tiết kiệm của các doanh nghiệp để hình thành nên nguồn vốn đầu tư. Bên cạnh đó, để tiến hành đầu tư các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng thêm cả phần vốn khấu hao tài sản cố định. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể vay tín dụng ngân hàng hoặc phát hành cổ phiếu đối với công ty cổ phần và phát hành trái phiếu để thu hút vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, vay lẫn nhau giữa các doanh nghiệp có vốn tạm thời nhàn rỗi, vay thông qua mua hàng trả chậm và vay thương mại (thường được các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu áp dụng). Theo xu hướng phát triển hiện nay, nguồn vốn này có chiều hướng gia tăng vì ngày càng có nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời, dưới nhiều hình thức, quy mô, lĩnh vực hoạt động khác nhau và phát triển với tốc độ tương đối nhanh. Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường được đầu tư với quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ, thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng doanh nghiệp, nhưng lại rất linh hoạt và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. - Tiết kiệm của dân cư: phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của mỗi hộ gia đình. Thu nhập của các hộ gia đình lại phụ thuộc vào thu nhập có thể sử dụng như tiền lương, tiền công, thu nhập từ sản xuất kinh doanh...và các khoản thu nhập khác (vay, mượn...). Một khi thu nhập nhỏ hơn mức chi tiêu sẽ không có tiết kiệm, các hộ gia đình phải vay mượn thêm để chi tiêu. Khi thu nhập có thể sử dụng vừa bằng mức chi tiêu thì tiết kiệm bằng không. Nếu thu nhập lớn hơn mức chi tiêu thì mới có tiết kiệm. Một xu hướng chung là các hộ gia đình có mức thu nhập cao hơn sẽ tiết kiệm nhiều hơn (mức tiết kiệm ở thành thị lớn hơn ở nông thôn) và những nước phát triển cũng có tỷ lệ tiết kiệm cao hơn những nước kém phát triển. Đối với nước ta hiện nay, do thu nhập của dân cư ở mức thấp, đặc biệt ở nông thôn tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao, nên mức tiết kiệm trong dân cư rất thấp, đây là vấn đề khó khăn trong việc thu hút và huy động vốn đầu tư. Tuy nhiên, theo đà phát triển của đất nước, thu nhập của dân cư ngày càng tăng, thì nguồn vốn này sẽ có xu hướng tăng lên. Một vấn đề cần quan tâm trong việc nghiên cứu nguồn vốn tiết kiệm là sự tách rời giữa những động cơ đưa đến tiết kiệm và đầu tư. Trong nền kinh tế mức tiết kiệm và mức đầu tư mà ta mong muốn không phải ngẫu nhiên bằng nhau, bởi vì nói chung tiết kiệm và đầu tư do những người khác nhau thực hiện và vì những lý do rất khác nhau: đầu tư chủ yếu do các doanh nghiệp tiến hành bằng nguồn vốn tích lũy, bằng nguồn vốn vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu, trái phiếu...Ngược lại, tiết kiệm chủ yếu do các hộ gia đình, các cá nhân, các quỹ tập thể (hưu trí, bảo hiểm). Cá nhân mong muốn tiết kiệm vì nhiều lý do: đề phòng khó khăn, dự phòng tài chính cho tương lai, lãi suất cao thúc đẩy tiết kiệm hoặc do thói quen, tập quán của địa phương...Trong khi đó thị trường không phối hợp được nhanh chóng giữa tiết kiệm và đầu tư: nó không tự động chuyển những thay đổi trong khoản tiết kiệm mong muốn của người tiêu thụ thành những thay đổi trong đầu tư của người kinh doanh. Tức là, khoản tiết kiệm chỉ được đưa ra đầu tư khi người đầu tư thấy có lợi. Khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư đòi hỏi Nhà nước phải có vai trò điều tiết vĩ mô thích hợp mới có thể có một chính sách huy động vốn có hiệu quả. Cho đến nay, hầu hết các nhà kinh tế và hoạch định chính sách đều nhận thấy rằng có tiết kiệm mới có đầu tư. Để tăng nguồn vốn trong nước thì phải kích thích tăng trưởng kinh tế để tăng tiết kiệm và đầu tư. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để có vốn đầu tư. Điều này rất quan trọng vì nếu toàn bộ số thu nhập đều sử dụng cho tiêu dùng thì sẽ không có nguồn tiết kiệm. Song có tiết kiệm mà không bỏ vào đầu tư lại đem cất trữ thì nguồn tiết kiệm chỉ là nguồn tiềm năng, nguồn vốn "chết" mà thôi. Đối với những nước đang phát triển như nước ta, dù có huy động tối đa nguồn vốn trong nước cũng chưa thể thỏa mãn nhu cầu cho đầu tư phát triển, nhất là trong điều kiện hạ tầng kinh tế - xã hội còn thấp như hiện nay. Muốn nền kinh tế nước ta có những bước đi vững chắc thì phải có sự đầu tư lớn. Theo tính toán của các chuyên gia tài chính, tổng đầu tư toàn xã hội trong 10 năm (từ năm 2001 đến năm 2010) sẽ cần khoảng 162 tỷ đô la Mỹ (giá hiện hành), trong khi đó mức tiết kiệm trong nước sẽ đạt được khoảng 112 tỷ đô la Mỹ, chiếm tỷ trọng 69% so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội [3, tr. 35]. Để tăng cường hoạt động đầu tư, góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển thì điều quan trọng hàng đầu là phải thực hiện chính sách nền kinh tế mở, trên cơ sở cân nhắc các điều kiện và khả năng có liên quan đến mối quan hệ kinh tế đối ngoại, phải có sự hòa nhập về không gian kinh tế, xóa bỏ hàng rào địa lý. Có như vậy mới thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế và các yêu cầu về đầu tư phát triển. Không ngừng đẩy mạnh khả năng tăng nhanh việc tạo vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tranh thủ triệt để các nguồn vốn từ ngoài nước, đồng thời phát triển mạnh mẽ thị trường vốn nhằm thực hiện tốt quá trình giao lưu vốn giữa các thành phần kinh tế. Với tình hình thực tế ở nước ta cho thấy, việc khai thác các nguồn vốn trong nước có thể nhiều khi còn gặp khó khăn, thì nguồn vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng và hết sức cần thiết. 1.1.3.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Trong giai đoạn đầu của các nước đang phát triển mức thu nhập còn thấp nên khả năng tiêu dùng cũng như khả năng tích lũy ở mức thấp. Trong khi đó lại cần khoản vốn đầu tư lớn để hoàn chỉnh kết cấu cơ sở hạ tầng và xây dựng các công trình quan trọng nhằm phát triển kinh tế. Mặt khác, ở giai đoạn này hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản và công nghiệp tiêu dùng có giá trị chưa cao. Trong khi đó hàng hóa nhập khẩu là những máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ hiện đại có giá trị cao, nên cán cân thanh toán thường bị thâm hụt. Các nước đang phát triển luôn phải đối mặt với một vấn đề thiếu hụt ngoại tệ. Đầu tư nước ngoài góp phần tích cực để giải quyết hai vấn đề nan giải nêu trên, đồng thời với xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đời sống kinh tế - xã hội, quan hệ giao lưu kinh tế và khoa học kỹ thuật phát triển sôi động đã trở thành nhu cầu bức xúc của tất cả các nước trên thế giới. Mỗi nước dù nhỏ hay lớn đều có thể và cần phải tham gia vào phân công lao động trong khu vực và quốc tế để tận dụng những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới về di chuyển các luồng tài chính, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý...từ đó xuất hiện nhu cầu đầu tư và nhu cầu nhận đầu tư. ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này để phát triển kinh tế, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là hết sức quan trọng và cần thiết. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay gồm các nguồn chủ yếu sau: * Viện trợ phát triển chính thức (ODA): Là nguồn vốn do Chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với lãi suất thấp, thậm chí không có lãi. Nguồn này thường được tập trung vào ngân sách của Chính phủ để đầu tư phát triển hoặc cho vay. Hình thức viện trợ phát triển chính thức ngoài vốn ngoại tệ, thường được đầu tư dưới dạng máy móc, thiết bị, công nghệ, công trình hoặc chuyên gia. Đây là nguồn vốn có quy mô tương đối lớn, thời gian đầu tư dài thường tập trung vào các công trình cơ sở hạ tầng mang tầm chiến lược quốc gia như: đường quốc lộ, cảng biển, đường dây tải điện cao thế, thủy điện, các hồ đập, thủy lợi lớn...có ý nghĩa then chốt và chủ đạo đối với việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo ra động lực phát triển kinh tế của đất nước. * Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI): Là những khoản đầu tư do những tổ chức và cá nhân người nước ngoài đưa vào một nước để sản xuất kinh doanh hoặc để góp vốn liên doanh với các tổ chức, cá nhân trong nước theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại nước đó. Đây là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng, vì một mặt cũng giống như nguồn vốn ODA, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài tạo điều kiện cho nước sở tại có thể thu hút được kỹ thuật và công nghệ tiến tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài. Mặt khác, FDI gắn trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn với bản thân phía nước ngoài, về phía chủ nhà không làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài. Việc áp dụng hình thức đầu tư này vào lĩnh vực phát triển công nghiệp có nhiều thuận lợi hơn do công nghệ tiên tiến, máy móc thiết bị hiện đại, hiệu quả đầu tư cao. Tùy theo từng nước mà có những hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài khác nhau. ở Việt Nam, theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì có các hình thức đầu tư trực tiếp của nước ngoài sau đây: - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp do chủ nước ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại, có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp theo quy định của pháp luật nước sở tại. - Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với các chủ doanh nghiệp ở nước sở tại trên cơ sở hình thành hợp đồng liên doanh. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn điều lệ của doanh nghiệp. Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, phần vốn góp pháp định của bên nước ngoài không hạn chế về mức cao nhất như một số nước khác, nhưng không được ít hơn 30% vốn pháp định. Hình thức liên doanh có nhiều ưu điểm, nhưng do điều kiện phía Việt Nam có hạn chế về tiền vốn nên chủ yếu góp vốn bằng quyền sử dụng đất, giá cả của đất đai ngày càng tăng, giá trị góp vốn không được tính theo giá trị thời gian. Bên nước ngoài góp vốn bằng vật tư, máy móc thiết bị thường bị lạc hậu về công nghệ, giá cả không chính xác, bị đẩy lên quá cao, kinh nghiệm quản lý kinh doanh chưa tốt...nên chưa phát huy tác dụng tích cực của hình thức này. - Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh: đây là một văn bản được ký kết giữa một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước, để tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà, trên cơ sở quy định về trách nhiệm để thực hiện hợp đồng và xác định quyền lợi của mỗi bên, nhưng không hình thành một pháp nhân mới. - Các hình thức khác: ngoài các hình thức nêu trên, ở các nước và ở Việt Nam còn có các hình thức khác như: Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) nhằm khuyến khích thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tính đến ngày 31/12/2005 Việt Nam đã thu hút 6.030 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký trên 51 tỷ đô la Mỹ. Vốn đầu tư thực hiện được gần 28 tỷ đô la Mỹ, chiếm bằng 55% tổng số vốn đăng ký [4, tr. 7]. Biểu 1.1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư từ năm 1988 - 2005 (Tính đến ngày 31/12/2005 - Chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Đơn vị tính: Triệu đô la Mỹ Hình thức đầu tư Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định Vốn đầu tư thực hiện 100% vốn nước ngoài 4.504 26.041,42 11.121,22 9.884,07 Liên doanh 1.327 19.180,91 7.425,93 11.145,96 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 184 4.170,61 3.588,81 6.053,09 BOT 6 1.370,13 411,39 727,03 Công ty cổ phần 8 199,31 82,07 170,18 Công ty quản lý vốn 1 55,56 55,56 6,00 Tổng số 6.030 51.017,94 22.684,98 27.986,33 Nguồn: [4]. Hoạt động thu hút FDI tại Việt Nam thời gian qua đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. FDI là nguồn vốn rất quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, là một trong những điều kiện quyết định đến sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trong hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn những hạn chế. Một số chính sách, đặc biệt là chính sách ưu đãi đầu tư chưa được xác định rõ ràng, các biện pháp khuyến khích đầu tư hiện hành chưa đủ sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư để họ quan tâm đến các lĩnh vực mà nước ta cần đẩy mạnh. Một số văn bản hướng dẫn thi hành luật ban hành chậm và chưa đầy đủ, tình trạng tùy tiện trong thi hành luật, tình trạng địa phương hóa chính sách ưu đãi đầu tư vẫn chưa được khắc phục. Hệ thống thuế còn phức tạp, chồng chéo có nhiều điểm bất hợp lý hay thay đổi gây khó khăn cho việc thực hiện dự án hoặc tạo kẽ hở làm thiệt hại cho Nhà nước. * Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO): Trước đây, viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ chủ yếu là cho các nhu cầu nhân đạo như nhu cầu cung cấp thuốc men, lương thực, quần áo cho nạn nhân bị thiên tai, dịch bệnh, địch họa... Những năm gần đây tính chất của những khoản viện trợ này đã có sự thay đổi. Hiện nay, hình thức viện trợ này đã thay đổi chính sách chuyển dần từ viện trợ nhân đạo sang hỗ trợ cho việc phát triển các công trình cơ sở hạ tầng có quy mô vừa và nhỏ. Nếu chúng ta biết tranh thủ, khai thác các dự án của NGO thì có tác dụng tốt đối với các công trình có quy mô vừa và nhỏ ở nông thôn, tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp ở nông nghiệp phát triển. * Vốn của Việt kiều, của những người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài: Có trên 2 triệu người Việt Nam hiện đang sinh sống ở nước ngoài, với lực lượng đông đảo đội ngũ trí thức, nhà khoa học trong đó có nhiều người là chuyên gia giỏi về các lĩnh vực khoa học và công nghệ, quản lý kinh doanh...Đây là một tiềm năng lớn cần phải được quan tâm khai thác. Riêng về khối lượng ngoại tệ, hàng hóa gửi từ nước ngoài về nước hàng năm có hàng tỷ đô la Mỹ, đây cũng là một nguồn vốn lớn, góp phần không nhỏ vào việc đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư ngày càng tăng lên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 1.1.4. Vai trò của vốn đầu tư phát triển công nghiệp Vốn đầu tư có vai trò quan trọng với tất cả các nước, nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì vốn đầu tư có vai trò hết sức to lớn cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vai trò đó được thể hiện qua một số tác động chính của vốn đầu tư đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như đối với sự phát triển công nghiệp nói riêng. 1.1.4.1. Vốn đầu tư giải quyết tình trạng thiếu vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế quốc dân Tất cả các nước đang và kém phát triển do tích lũy nội bộ thấp, muốn phát triển kinh tế của quốc gia mình đều phải có chính sách thu hút, huy động vốn đầu tư ở trong và ngoài nước. Khi nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, thì nhu cầu về vốn đầu tư không ngừng tăng lên. Thực tế cho thấy, khi tăng trưởng kinh tế càng cao thường gắn với tỷ lệ đầu tư càng lớn. Nhờ có vốn đầu tư mà Nhà nước cũng như doanh nghiệp có điều kiện đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện khoa học, kỹ thuật thế giới phát triển mạnh mẽ. Đối với các nước nghèo và đang phát triển, vốn đầu tư là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế. Những quốc gia này luôn rơi vào tình trạng thiếu vốn đầu tư, lạc hậu về công nghệ và trình độ quản lý. Khi nghiên cứu nền kinh tế của các nước đang phát triển và kém phát triển, Paul A.Samuelson đã ví hoạt động sản xuất và đầu tư của những nước này như là một vòng nghèo đói luẩn quẩn: thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm và đầu tư thấp; tiết kiệm và đầu tư thấp sẽ cản trở quá trình phát triển của vốn và làm cho tỷ lệ tích lũy vốn thấp, không đủ vốn cho đầu tư; vốn đầu tư không đủ cho nhu cầu sản xuất sẽ làm cho năng lực sản xuất giảm, năng suất của nền kinh tế thấp; điều này dẫn đến kết quả là thu nhập bình quân thấp và lại quay trở về chu kỳ ban đầu. Để phá vỡ vòng luẩn quẩn đó, các nước đang phát triển phải tạo ra "một bước đột phá" để phá vỡ một mắt xích của nó, để rồi phá vỡ các mắt xích còn lại. Một trong những khâu của vòng luẩn quẩn đó chính là vốn dành cho đầu tư phát triển. Biện pháp hữu hiệu nhất có thể coi là bước đột phá để phá vỡ vòng luẩn quẩn là tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế; thu hút và huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển nền kinh tế, tạo ra tăng trưởng kinh tế làm cho thu nhập tăng lên. 1.1.4.2. Vốn đầu tư góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Một thực tế cho thấy hầu hết các dự án đầu tư đều chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Chỉ có một số ít dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Chính vì vậy, ở nước ta vốn đầu tư phát triển là một trong những yếu tố góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra. Trước đây, nền kinh tế nước ta chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, năng suất lao động thấp, giá trị thặng dư ít, nên đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, đã chuyển đổi cơ cấu kinh tế nước ta từ một nước nông nghiệp là chủ yếu để trở thành một nước công nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với cơ cấu ngành kinh tế là công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ, trong đó công nghiệp và xây dựng giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Trong từng ngành kinh tế, nhờ có vốn đầu tư mà đã có những chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả và gắn sản xuất với thị trường. Cơ cấu kinh tế vùng cũng đã có những bước điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu kinh tế và vùng sản xuất chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi đang phát triển khá nhanh, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. 1.1.4.3. Vốn đầu tư thúc đẩy đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh và hiện đại hóa doanh nghiệp Nếu đứng trên góc độ của một doanh nghiệp, thì vốn đầu tư là điều kiện cực kỳ quan trọng và cần thiết giúp doanh nghiệp trong việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất. Nhờ có vốn đầu tư mà doanh nghiệp có thể nghiên cứu sản xuất ra hoặc mua được những máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại ở trong nước và trên thế giới. Từ đó, giúp doanh nghiệp có đủ điều kiện để dần dần từng bước hoàn thiện và hiện đại hóa doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, chỉ những doanh nghiệp nào biết ứng dụng những tiến bộ của khoa học và công nghệ, luôn đón nhận các thành tựu nghiên cứu khoa học mới, thì doanh nghiệp đó sẽ thành công trong kinh doanh. Mặt khác, nhờ có máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất hiện đại mà doanh nghiệp tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đặc biệt là các chi phí gián tiếp và hạ giá thành sản phẩm. Đồng thời, giúp doanh nghiệp nâng cao được chất lượng sản phẩm và tăng dần hàm lượng chất xám trong mỗi sản phẩm thay cho hàm lượng vật chất trước đây, làm cho sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra có chất lượng cao hơn, nhưng giá bán có thể lại thấp hơn, từ đó nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Chính nhờ có vốn đầu tư phát triển mà doanh nghiệp nâng được vị thế và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. 1.1.4.4. Vốn đầu tư góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo thêm nhiều việc làm mới cho nền kinh tế và nâng cao thu nhập cho người lao động Trình độ, năng lực và kỹ năng của người lao động có tác động không nhỏ đến tốc độ tăng trưởng của một quốc gia. Vì vậy, nhu cầu nâng cao chất lượng lao động hiện nay là một vấn đề được nhiều nước quan tâm. Do tình hình thực tế cần thiết phải tuyển dụng lao động ở các địa phương, đồng thời chi phí thuê lao động nước ngoài thường cao hơn so với lao động trong nước, các doanh nghiệp phải tổ chức đào tạo cho các lao động địa phương để họ có thể sử dụng thành thạo những máy móc thiết bị. Việc đào tạo lao động không chỉ dừng lại đối với những người sản xuất trực tiếp, mà còn đào tạo cả kỹ năng, trình độ cho các cán bộ làm công tác quản lý hay quản trị doanh nghiệp. Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay, chất lượng và trình độ lao động của các nước là một trong những tiêu chí quan trọng để thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư ở những nước này. Bởi vì, các nhà đầu tư luôn mong muốn đầu tư vào những nước mà người lao động có trình độ chuyên môn cao để tiết kiệm chi phí cho việc đào tạo lao động địa phương. Chính vì vậy, để thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài đến với mình, thì Chính phủ các nước phải có kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở trong chính nước mình. Vốn đầu tư góp phần thúc đẩy các hoạt động đầu tư trong nước phát triển. Thực tế cho thấy, với sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp trong nước, buộc các doanh nghiệp này phải đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh, để tìm kiếm lợi nhuận và giữ vững được thị phần của mình. Điều này không chỉ có lợi đối với người tiêu dùng mà còn tạo điều kiện để khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước trong đó có các yếu tố như tài nguyên, lao động... Vốn đầu tư giúp giải quyết những vấn đề khó khăn về kinh tế - xã hội như thất nghiệp, lạm phát, cải thiện môi trường sống của xã hội. Vốn đầu tư phát triển đã tạo ra nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh mới, trực tiếp thu hút được một số lượng lớn lao động tham gia. Bên cạnh đó, nó còn gián tiếp tạo ra việc làm cho người lao động thông qua việc hình thành các đại lý, dịch vụ cung cấp hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp. Như vậy, vốn đầu tư góp phần tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, đặc biệt là những lao động ở các địa phương và giảm tỷ lệ thất nghiệp, đồng thời còn góp phần nâng cao đời sống cho người lao động. 1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến vốn đầu tư Trong nền kinh tế thị trường, vốn đầu tư trong một quốc gia bị chi phối, ảnh hưởng bởi những nhân tố chủ yếu sau: 1.1.5.1. Chính sách thu hút vốn đầu tư của Nhà nước Chính sách thu hút vốn đầu tư là một bộ phận cấu thành của chính sách tài chính quốc gia, gắn liền với chính sách tài chính - tiền tệ của Nhà nước, có ảnh hưởng quyết định đến chính sách đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời nó còn có tác động chi phối các quan hệ tích lũy, tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư trong phạm vi toàn xã hội. Mục tiêu cơ bản của chính sách thu hút vốn đầu tư là thu hút tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nước phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn vốn huy động được và tạo khả năng thuận lợi trong việc trả nợ. Cùng với quá trình đổi mới kinh tế, chính sách thu hút vốn đầu tư của nước ta trong những năm qua đã góp phần tích cực vào việc ổn định và phát triển kinh tế, ngăn chặn lạm phát. Tuy nhiên, việc thu hút các nguồn vốn trong nước và nước ngoài nhìn chung còn hạn chế, chưa thỏa mãn đầy đủ nhu cầu vốn đầu tư để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính vì vậy, Nhà nước cần phải hoàn thiện chính sách thu hút vốn đầu tư, sao cho vừa hiệu quả vừa linh hoạt nhằm thu hút ngày càng nhiều hơn các nguồn lực tài chính trong và ngoài nước, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Muốn vậy, Chính phủ cần chú ý đến một số vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất, thực hiện chính sách tiết kiệm, chống lãng phí để tích lũy vốn phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển. Làm thế nào để "tiết kiệm và chống lãng phí" thực sự trở thành "quốc sách", để mọi thành viên trong xã hội có điều kiện và tự giác thực hiện. Điều này chỉ có thể làm tốt được khi Nhà nước có các chính sách đúng đắn và nhất quán, công bằng và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách mở rộng hoạt động của các loại thị trường vốn, lao động, dịch vụ, chính sách huy động tiền gửi tiết kiệm... Thứ hai, tạo môi trường thuận lợi để thu hút nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Chính sách thu hút vốn đầu tư phát triển phải quán triệt phương châm "Nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng", đồng thời phải đảm bảo an ninh cho nền tài chính quốc gia. Muốn tạo điều kiện cho môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư, trước hết phải nâng cao chất lượng xây dựng và quy hoạch phát triển các vùng kinh tế, ngành kinh tế, các khu công nghiệp, khu đô thị, hệ thống kết cấu hạ tầng ở thành thị và nông thôn, Trên cơ sở đó xây dựng chiến lược và giải pháp cụ thể để huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước. Thứ ba, thu hút vốn đầu tư phải gắn chặt với sự phát triển của thị trường tài chính. Việc xây dựng và phát triển thị trường tài chính mà trọng tâm là thị trường vốn trung và dài hạn, trong đó đặc biệt chú ý đến sự phát triển của thị trường chứng khoán, nhằm đáp ứng nhiều mặt nhu cầu thu hút, huy động vốn đầu tư, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thị trường tài chính càng phát triển bao nhiêu thì khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế càng tốt bấy nhiêu. Thứ tư, đổi mới phương thức thu hồi vốn các công trình hoàn thành để tập trung vốn cho đầu tư phát triển. Đối với các công trình được đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước, sau khi công trình xây dựng hoàn thành đưa vào sử dụng, phương thức chủ yếu thu hồi vốn vẫn là các khoản thu đã được luật định, bao gồm các loại thuế và phí. Ngoài ra, Nhà nước cũng có thể áp dụng thu hồi vốn đầu tư vào các công trình dưới các hình thức bán, khoán, cho thuê... 1.1.5.2. Thực trạng thu nhập của nền kinh tế quốc dân và thu nhập của dân cư Thực trạng thu nhập của nền kinh tế quốc dân và thu nhập của dân cư có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với vốn đầu tư trong nước. Để đo lường thu nhập của nền kinh tế quốc dân người ta sử dụng chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Một quốc gia có nền kinh tế phát triển thì quốc gia đó trong một năm đã tạo ra được khối lượng GDP to lớn, còn các quốc gia đang và kém phát triển thì khối lượng GDP được tạo ra trong một năm thường là nhỏ bé. Tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ở mức cao sẽ tạo ra khả năng tiết kiệm, đầu tư lớn và ngược lại. ở nước ta trong những năm gần đây, nền kinh tế đã có những bước tăng trưởng và phát triển ở mức cao, tốc độ tăng GDP hàng năm đạt mức 7 - 8%/năm. Nhưng GDP tạo ra hàng năm còn nhỏ bé, do xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta còn thấp, chủ yếu dựa vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, còn công nghiệp và dịch vụ đang trong giai đoạn hình thành và phát triển nên mức đóng góp cho nền kinh tế chưa được nhiều. Chính vì vậy, mức tích lũy từ nội bộ nền kinh tế được ít và thu nhập quốc dân bình quân đầu người còn thấp. Do đó khả năng tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế và của dân cư còn nhiều hạn chế. Muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế trong những năm tiếp theo, tạo ra GDP ngày càng lớn hơn thì Nhà nước cần phải có "một bước đột phá" nhằm khai thác triệt để các nguồn vốn trong nước, đồng thời thu hút tối đa các nguồn vốn nước ngoài, để sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước kém phát triển như Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ X đã chỉ rõ. Từ đó, có điều kiện để tăng thu nhập, tăng mức tiết kiệm và đầu tư cho nền kinh tế. 1.1.5.3. Những tiềm năng và lợi thế về vị trí địa lý, nguồn tài nguyên khoáng sản và nguồn lực lao động Đối với một quốc gia thì vị trí địa lý có thuận lợi cho hoạt động kinh doanh hay không, nguồn tài nguyên khoáng sản có dồi dào, đa dạng và phong phú hay không, nguồn lao động có nhiều và đã được đào tạo hay chưa đều có tác động đến vốn đầu tư của quốc gia đó. Những nước có đầy đủ tiềm năng và lợi thế nêu trên thì khả năng thu hút vốn đầu tư sẽ thuận lợi hơn, tốt hơn các nước khác có ít hoặc không có những tiềm năng và lợi thế đó. Nước ta có một vị trí địa lý rất thuận lợi trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt đối với hoạt động ngoại thương. Bên cạnh đó có nguồn tài nguyên khoáng sản dồi dào, đa dạng và phong phú, được phân bố đều khắp trên lãnh thổ quốc gia. Nguồn lực lao động của nước ta nhiều và tỷ lệ lao động đang trong độ tuổi lao động lớn cũng là những yếu tố quan trọng tác động đến vốn đầu tư của quốc gia. Nhờ có những yếu tố này, kết hợp với các chính sách thu hút vốn năng động, linh hoạt của Nhà nước đã làm hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đến nước ta ngày càng nhiều, bỏ vốn đầu tư kinh doanh nhằm khai thác những tiềm năng và lợi thế ấy. 1.2. Kinh nghiệm của một số tỉnh trong nước và một số nước trên thế giới về thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp 1.2.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp của tỉnh Đồng Nai Tỉnh Đồng Nai nằm ở trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tiếp giáp với các trung tâm công nghiệp, dịch vụ và du lịch lớn nhất cả nước như: Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Lâm Đồng, Bình Dương. Đồng Nai là một tỉnh có nhiều tiềm năng, thế mạnh trong phát triển kinh tế và công nghiệp như: vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên đa dạng, nguồn nhân lực có chất lượng, có các cơ sở công nghiệp từ trước, môi trường đầu tư thông thoáng, nguồn vốn dồi dào, chính quyền năng động, có mối quan hệ sẵn có với các nước. Nhờ có những ưu thế đó mà trong gần 20 năm qua (từ năm 1986 đến nay), tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Đồng Nai được duy trì ở mức rất cao, bình quân hàng năm giai đoạn 1986 - 1990 là 2,7%/năm, giai đoạn 1991 - 1995 là 13,9%/năm, giai đoạn 1996 - 2000 là 12%/năm, giai đoạn 2001 - 2005 là 12,7%/năm và tính chung cho giai đoạn 1995 - 2005 là 12,4%/năm. Mức tăng trưởng GDP của Đồng Nai cao hơn nhiều so với cả nước. Với mức độ tăng trưởng bình quân GDP hàng năm như vậy, GDP của tỉnh Đồng Nai sẽ tăng gấp đôi sau 6 năm, nhanh hơn so với cả nước khoảng 4 năm [45, tr. 36]. Trong những năm qua, ngành công nghiệp tỉnh Đồng Nai phát triển mạnh, đứng thứ ba cả nước về giá trị sản lượng công nghiệp. Năm 2003 giá trị sản xuất công nghiệp đạt 28.725,1 tỷ đồng, chiếm 9,4% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước và chiếm 16% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn vùng Đông Nam Bộ. Năm 2004 đạt 34.128,3 tỷ đồng và năm 2005 dự kiến đạt 40.220 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp trung bình hàng năm của ngành công nghiệp giai đoạn 1990 - 2004 là 25,2%, riêng giai đoạn 2001 - 2005 dự kiến đạt 17,5% [45, tr. 77]. Kết quả đạt được kể trên là do tỉnh Đồng Nai đã tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, tạo ra sự "bùng nổ" đầu tư vào những năm 1995. Mức đầu tư tăng mạnh từ 16,3% GDP năm 1991 lên 28,9% GDP năm 1995. Tổng vốn đầu tư trong 5 năm (từ 1991 - 1995) đạt 5.479 tỷ đồng (trong đó vốn đầu tư nước ngoài chiếm 46,2%). Nhờ đó, đã tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao từ khoảng 6% trước năm 1990 lên 13% năm 1995 và 17,1% năm 1996 [45, tr. 85]. Thu hút đầu tư của ngành công nghiệp rất lớn: tổng số vốn đầu tư ngành công nghiệp giai đoạn 1996 - 2003 là 28.298 tỷ đồng, chiếm 73,5% vốn đầu tư của toàn tỉnh, trong đó vốn trong nước chiếm 21,6%, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 78,4%. Tính đến nay, tổng số vốn đầu tư cho ngành công nghiệp là 57.333 tỷ đồng (chưa kể các đơn vị phụ thuộc đóng trên địa bàn tỉnh), trong đó công nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm 80,8%, công nghiệp trong nước chiếm 19,2%. Đến ngày 31/12/2005, đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai với 700 dự án còn hiệu lực từ 26 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng số vốn đăng ký đạt 8.494,86 triệu đô la Mỹ. Hiện nay có trên 300 dự án đi vào hoạt động, trên 100 đơn vị đang xây dựng, với tổng số vốn thực hiện khoảng 3.842,12 triệu đô la Mỹ, đạt 45,23% tổng vốn đăng ký [45, tr. 99]. Từ thực tế phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp của tỉnh Đồng Nai trong những năm qua nói chung, cũng như tình hình thu hút vốn đầu tư của tỉnh nói riêng, có thể rút ra một số kinh nghiệm về thu hút vốn đầu tư như sau: - Tính năng động và sáng tạo của chính quyền tỉnh Đồng Nai được coi là yếu tố quan trọng nhất. Ngay từ những năm 1989 - 1990, trong khi cơ chế chính sách cả nước chưa thực sự mở cửa thì tỉnh Đồng Nai đã cử đoàn cấp cao do Bí thư Tỉnh ủy dẫn đầu đi nghiên cứu khu công nghiệp ở Đài Loan. Đây được coi là bước đi tiên phong, làm cơ sở cho việc thu hút mạnh đầu tư nước ngoài từ năm 1991 cho đến nay. - Tỉnh đã biết khai thác tốt lợi thế về mặt vị trí địa lý của mình, đây có thể được coi là lợi thế rất quan trọng của tỉnh để thu hút đầu tư. Đồng Nai vừa nằm ở trung tâm của vùng kinh tế động lực phía Nam, vừa gần với các trung tâm kinh tế lớn như: Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Lâm Đồng...đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời, lại có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi như: địa hình tương đối bằng phẳng, khí tượng điều hòa, thủy văn thuận lợi, đất đai, thổ nhưỡng đa dạng, tài nguyên khoáng sản tương đối phong phú... - Môi trường kinh doanh thuận lợi cũng là lợi thế lớn của tỉnh Đồng Nai. Hệ thống giao thông thủy - bộ khá phát triển là tiền đề quan trọng cho việc phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp. Ngoài ra, còn có các yếu tố khác trong môi trường kinh doanh như pháp lý, chính sách...cũng rất thông thoáng, hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đây làm ăn. - Việc hình thành các cơ sở công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã có từ lâu. Mặt khác, tỉnh có các quan hệ thương mại lâu đời với các nước trong khu vực và trên thế giới, điều này đã giúp cho việc khai thác các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài được thuận lợi. - Ngoài ra, tỉnh còn có những tiềm năng lớn để phát triển du lịch với nhiều di tích lịch sử, văn hóa và điểm du lịch có tiềm năng: khu văn miếu Trấn Biên, khu du lịch Bửu Long, du lịch ven sông Đồng Nai, vườn quốc gia Cát Tiên, làng bưởi Tân Triều, hồ nước nóng Thác Mơ, đảo ó Đồng Trường...cũng hấp dẫn các nhà đầu tư đến đây lập nghiệp. 1.2.2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp của các nước ASEAN và Trung Quốc Các nước có nền kinh tế phát triển và đang phát triển trên thế giới đã có nhiều kinh nghiệm và thành công trong lĩnh vực thu hút và sử dụng vốn đầu tư phát triển, góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nhanh hơn. Tuy nhiên, kết quả đạt được ở mỗi quốc gia là không giống nhau, vì nó tùy thuộc vào mức độ và cách thức quản lý, sự điều tiết của Nhà nước và đặc điểm tình hình kinh tế xã hội của mỗi nước. Chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm của các số nước ASEAN và Trung Quốc trong việc thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp. 1.2.2.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước của các nước ASEAN cho phát triển công nghiệp Những năm 50 và những năm đầu của thập niên 60 của thế kỷ XX, các nước ASEAN đều thực hiện chiến lược "phát triển thay thế nhập khẩu" nhằm giảm bớt sự phụ thuộc đối với hàng nhập khẩu từ bên ngoài. Các nước này đã tìm cách hạn chế tối đa hàng thành phẩm công nghiệp nhập từ các nước công nghiệp phát triển, tập trung phát triển một số ngành công nghiệp trong nước thay thế hàng nhập khẩu, mở rộng thị trường nội địa và tận dụng tối đa vốn đầu tư trong nước. Các nước này đều chú ý đầu tư xây dựng thêm nhiều ngành và cơ sở công nghiệp quốc doanh. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế còn thấp, vì trong điều kiện nền kinh tế "mở", hàng hóa trong nước không thể cạnh tranh được với hàng hóa nước ngoài. Kết quả là các nước này vẫn phải tiếp tục nhập khẩu các loại nguyên liệu, kỹ thuật, máy móc, thiết bị từ bên ngoài và nền kinh tế của họ ngày càng lệ thuộc chặt chẽ hơn vào các nước công nghiệp phát triển. Tình trạng đó đã hạn chế sự phát triển kinh tế, làm cho các nước này (trừ Singapore) không hòa nhập được với nền kinh tế thế giới. Đến giữa thập niên 60, kinh tế các nước ASEAN đã đi vào tình trạng bế tắc, lạm phát và giá cả tăng không kiểm soát được, nợ nước ngoài ngày càng nhiều. Thị trường trong nước không được mở rộng, nhiều doanh nghiệp trong nước bị phá sản do kinh doanh thua lỗ. Tất yếu đã kéo theo sự mất ổn định về chính trị và xã hội. Từ năm 1969, các nước ASEAN đã tìm ra một chiến lược mới: "Phát triển theo hướng xuất khẩu". Sự thay đổi chiến lược này nhằm tận dụng tối đa nguồn vốn và công nghiệp tiên tiến từ bên ngoài vào, việc khai thác mọi tiềm năng của mỗi nước, tập trung phát triển những ngành công nghiệp có thể xuất khẩu được, từng bước cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường thế giới. Vì vậy, các ngành công nghiệp khai khoáng và chế biến hướng vào xuất khẩu có điều kiện phát triển nhanh, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế đối ngoại. Chiến lược này phù hợp với nhu cầu của các nước đang phát triển cần nhiều vốn và công nghệ hiện đại, còn các nước phát triển lại có nhu cầu đầu tư và chuyển giao công nghệ đến các nước đang phát triển. Như vậy, mối quan hệ kinh tế giữa các nước được mở rộng trên nguyên tắc "hai bên cùng có lợi". Để thực hiện chiến lược này, chính phủ các nước ASEAN đã rút kinh nghiệm trong việc điều chỉnh nền kinh tế, đã xây dựng và hoàn thiện một số hệ thống điều tiết gồm các luật, chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách thu hút vốn đầu tư từ các nguồn vốn trong và ngoài nước. Nguồn vốn đầu tư trong nước ở các nước này là khá cao, chủ yếu do làm tốt việc khuyến khích tiết kiệm tiêu. Chẳng hạn, ở Thái Lan và Inđônêxia tỷ lệ tiết kiệm so với GDP là 22%, Malaixia là 28%, Singapore là 26%. Tỷ lệ tiết kiệm đạt được như vậy là do Chính phủ các nước đã có chính sách khuyến khích gửi tiền tiết kiệm, điều chỉnh lãi suất hợp lý. Nguyên tắc chung là lãi suất tiết kiệm dương, nghĩa là phải cao hơn mức lạm phát, có như vậy mới khuyến khích các tổ chức và cá nhân gửi tiền tiết kiệm cũng như sử dụng vốn vay có hiệu quả. Tất cả các nước đều khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Họ cho rằng có như vậy mới sử dụng được mọi nguồn vốn trong dân cư. Bởi vậy, trong tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản thì vốn của tư nhân thường chiếm tỷ trọng lớn. Tỷ lệ đó ở Singapore trong năm 1968 là 58,5%, năm 1971 là 74%, năm 1973 là 68,6%, năm 1975 là 92,6%, năm 1980 là 90,9% và năm 1988 là 82,9% [42, tr. 28] Hình thức huy động vốn khác cũng khá phong phú và linh hoạt. Các hình thức cổ phiếu, trái phiếu, thị trường chứng khoán rất phát triển. Hoạt động của thị trường chứng khoán đã góp phần quan trọng vào việc huy động vốn, tạo điều kiện cho vốn di chuyển dễ dàng đến những khu vực kinh doanh có hiệu quả và bổ sung cho hoạt động của hệ thống ngân hàng. Nguồn vốn của tư bản nước ngoài được coi là yếu tố cơ bản để phát triển kinh tế các nước ASEAN. Nguồn vốn này bao gồm các khoản viện trợ, vốn vay để tự đầu tư và vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Các nước ASEAN cho rằng đầu tư trực tiếp có lợi hơn nên đặc biệt khuyến khích hình thức này. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN tăng mạnh nhất là vào nửa cuối thập niên 70 của thế kỷ XX. Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ là nguồn bổ sung hết sức cần thiết, mà còn góp phần vào quá trình chuyển giao công nghệ, giúp cho các nhà kinh doanh trong nước có được những kinh nghiệm quý báu về tổ chức quản lý. Hình thức này cũng tạo khả năng tập trung vốn nhanh hơn và giải quyết tốt vấn đề thị trường tiêu thụ. Vì vậy các nước ASEAN đều có các chính sách mở cửa rộng rãi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nội dung cơ bản của các chính sách đó là: - Khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư bằng cách đề ra các chính sách ưu đãi bảo đảm và tạo điều kiện thuận lợi cho tư bản nước ngoài đầu tư và nhanh chóng phát huy hiệu quả vốn đầu tư. Các nước ASEAN đều đã sớm ban hành luật đầu tư nước ngoài, trong đó bảo đảm không quốc hữu hóa, xác định rõ quyền sở hữu kinh doanh của nhà tư bản nước ngoài. - Nhà nước bảo hiểm đối với tư bản nước ngoài không hạn chế đầu tư vào các ngành then chốt, miễn là đầu tư nhiều vốn dùng nhiều công nhân, có kỹ thuật hiện đại và quy trình công nghệ mới, dùng nguyên liệu trong nước. - Các đối tượng kinh doanh đó còn được hưởng ưu đãi về tài chính như: miễn thuế, bảo đảm cung cấp nguồn lao động ổn định và rẻ, cho phép tự do hồi hương vốn và lợi nhuận. Riêng ở Singapore và Malaixia thì Nhà nước không hạn chế tỷ lệ cổ phần của nước ngoài trong các ngành sản xuất. - Tạo không khí ổn định chính trị, môi trường kinh doanh thuận lợi cho các hoạt động của các công ty tư bản nước ngoài. Thực hiện chế độ nhập cảnh, thậm chí cả việc cư trú dễ dàng đối với các nhà tư bản công nghiệp và chuyên gia kỹ thuật nước ngoài. - Xây dựng trước các cơ sở hạ tầng có sẵn, hệ thống cung cấp điện, nước, nhà ở, bưu điện, kho hàng, giao thông thuận lợi, cho thuê với giá rẻ, nhằm giúp các nhà đầu tư nước ngoài nhanh chóng đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, rút ngắn được vòng quay của vốn. - Lập ra các khu vực mậu dịch tự do "khu công nghiệp chế biến xuất khẩu" hoặc "khu công nghiệp tự do" để thực hiện toàn bộ các biện pháp nói trên. Việc thực hiện có hiệu quả thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước của các nước ASEAN đã góp phần quan trọng thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng. 1.2.2.2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Trung Quốc Trong số các hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thì hầu hết các nước đều muốn nhận FDI hơn. Bởi lẽ, khác với các khoản vay của Chính phủ hay các tổ chức quốc tế, FDI không kèm theo những điều kiện chính trị mà mang lại những kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại và khả năng tạo ra nhiều việc làm. Chính vì vậy, FDI được coi là chiếc chìa khóa vàng trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Trung Quốc trong nhiều năm qua. Tính từ năm 1979 đến hết tháng 11/1997, Trung Quốc đã thành lập được 302.400 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với tổng số vốn đầu tư nước ngoài là 593,42 tỷ đô la Mỹ. Trong đó vốn thực tế được sử dụng là 216,6 tỷ đô la Mỹ, tỷ lệ vốn được sử dụng là 37,76%. Vào thời điểm cuối năm 1996, ở Trung Quốc đã có khoảng 140.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động. Khoảng 200 trong tổng số 500 tập đoàn kinh doanh lớn nhất thế giới đã đầu tư vào Trung Quốc. Từ năm 1993 đến nay, Trung Quốc chỉ đứng thứ hai thế giới, sau Hoa Kỳ xét về khối lượng thu hút FDI. Rõ ràng một khối lượng FDI lớn như vậy đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế và công nghiệp hóa ở Trung Quốc [23, tr. 53]. Các chính sách và biện pháp chủ yếu trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc: - Mở rộng địa bàn thu hút vốn và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi: là một quốc gia rộng lớn, mọi vùng đều thiếu vốn đầu tư, Trung Quốc không thể cùng một lúc mở cửa mọi miền. Các khu vực ven biển nói chung có nhiều thuận lợi hơn về giao thông, cơ sở hạ tầng...nên được chọn mở cửa trước, ở các khu vực này các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiều giàu có tiềm năng được chọn là nơi để Trung Quốc thành lập các đặc khu kinh tế. Từ các đặc khu này, theo phương châm "đi chậm mà chắc" vừa làm vừa rút kinh nghiệm, Trung Quốc đã mở rộng thành tuyến mở cửa với 14 thành phố mở ven biển, sau đó mở cửa cả khu vực đồng bằng và châu thổ các con sông, tạo thành cục diện mở cửa "toàn phương vị" từ Nam đến Bắc, từ Đông sang Tây. Đồng thời với quá trình mở rộng địa bàn thu hút vốn đầu tư, Trung Quốc đã thực hiện nhiều chính sách tạo dựng môi trường đầu tư thuận lợi. Đó là dùng vốn vay kết hợp huy động các nguồn lực trong nước để xây dựng và cải tạo cơ sở hạ tầng, phát triển các tuyến đường bộ, đường sắt, sân bay, bến cảng...Theo số liệu thống kê, một tỷ lệ lớn trong tổng số vốn 734,9 tỷ đô la Mỹ đầu tư tài sản cố định trong thời kỳ từ 1990 - 1995 ở Trung Quốc được đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn coi trọng việc hoàn thiện các môi trường pháp lý để tiếp nhận FDI [23, tr. 76]. - Các chính sách ưu đãi đầu tư: để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tăng cường đầu tư vào Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện nhiều chính sách ưu đãi, đặc biệt là về thuế. Trong thời kỳ đầu mở cửa, các cơ sở mới thành lập với thời gian liên doanh hơn 10 năm được hưởng chế độ miễn thuế thu nhập trong một năm đầu làm ra lãi và được giảm 50% thuế thu nhập trong 2 năm tiếp theo. Về sau, thời gian miễn thuế và giảm thuế tăng lên là 2 năm miễn thuế và 3 năm giảm thuế. ở các đặc khu nhập khẩu vật tư được miễn thuế hải quan từ 5% đến 25%. Ngoài ra còn có nhiều ưu đãi khác áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn FDI, nhằm khuyến khích các hoạt động: tái đầu tư, kéo dài kỳ hạn kinh doanh hay những ưu đãi về khu vực đầu tư. Để khuyến khích phát triển các ngành nông nghiệp, thông tin, năng lượng hay phát triển sản xuất trong các khu vực miền Trung và miền Tây, Trung Quốc còn đưa ra nhiều chế độ ưu đãi mới, với những quy định cụ thể để đưa vốn FDI vào những ngành và những khu vực này. - Đa dạng hóa các hình thức đầu tư và chủ đầu tư: + Về hình thức đầu tư cho đến nay ở Trung Quốc vẫn có 3 hình thức chính, đó là: doanh nghiệp chung vốn kinh doanh, doanh nghiệp hợp tác kinh doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Vì sợ tỷ lệ các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài quá lớn sẽ ảnh hưởng đến các ngành sản xuất trong nước hay chủ quyền lãnh thổ...nên đã hạn chế hình thức đầu tư này. Tuy nhiên, hiện nay Trung Quốc đang tháo gỡ dần những hạn chế đối với hình thức đầu tư doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Bên cạnh các hình thức trên, Trung Quốc còn chủ động khuyến khích các loại hình đầu tư khác thông qua các luồng lưu thông vốn quốc tế như: gây các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, các hình thức mua bán chứng khoán, lưu thông vốn có phần...những hình thức này gián tiếp làm tăng nguồn vốn đầu tư cho đất nước Trung Quốc. + Về chủ đầu tư: Từ lâu, Hoa Kiều ở Hồng Kông, Đài Loan và Ma Cao rất muốn đầu tư vào Trung Quốc, một thị trường với những tiềm năng khổng lồ về tài nguyên, về sức mua và nguồn lao động rẻ. Bên cạnh đó gần 30 triệu người Hoa ở khu vực Đông Nam á với tài kinh doanh có vốn lớn, lại nắm giữ những vị trí then chốt trong nhiều lĩnh vực như: ngân hàng, thương mại, tài chính...cũng được Trung Quốc quan tâm khuyến khích đầu tư về xây dựng quê hương. Khi đầu tư vào Trung Quốc, Hoa Kiều và người Hoa có nhiều thuận lợi về văn hóa, ngôn ngữ, các quan hệ gia đình, dòng tộc...Chính vì những lý do này mà Trung Quốc liên tục đưa ra những quy định khuyến khích, mời gọi đầu tư của các chủ đầu tư có gốc gác quê hương ở Trung Hoa. Nhờ nhiều biện pháp thích hợp và năng động, Trung Quốc đã thu hút được một khối lượng vốn đầu tư lớn từ Hoa Kiều và người Hoa. Theo thống kê chính thức, tính đến tháng 9/1995, Hồng Kông và Ma cao đã đầu tư vào Trung Quốc 74,12 tỷ đô la Mỹ. Trên thực tế, vốn từ Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan chiếm khoảng 70% tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc. Trong thập niên 90 của thế kỷ XX, để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, Trung Quốc không những cần nhiều vốn mà quan trọng hơn là cần kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại. Chính vì vậy, các chủ đầu tư là các công ty xuyên quốc gia, đặc biệt là các công ty của Mỹ, Đức, Nhật Bản, Anh, Pháp...được khuyến khích đầu tư vào Trung Quốc [23, tr. 88]. Qua nghiên cứu kinh nghiệm huy động vốn cho đầu tư phát triển của các nước có thể thấy rằng hầu hết các nước đều rất coi trọng nguồn vốn trong nước. Để thu hút được nguồn vốn đầu tư trong nước, các nước đã có những biện pháp tích cực để khuyến khích tiết kiệm: điều chỉnh lãi suất hợp lý, mở rộng mạng lưới huy động vốn để khai thác những khoản tiết kiệm nhỏ trong dân cư, các công cụ huy động vốn ngày càng phát triển đa dạng để đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền. Mặt khác, hầu hết các nước đều có các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có như vậy mới thu hút được mọi nguồn vốn trong dân cư. Đối với nguồn vốn từ nước ngoài, các nước đặc biệt quan tâm tới nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI. Để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, hầu hết các nước đều thực hiện chính sách mở cửa rộng rãi. Ngoài ra, còn có thể sử dụng chính sách thuế như một công cụ hấp dẫn để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Trên đây là một số vấn đề lý luận cơ bản có liên quan đến vốn đầu tư phát triển và một số kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp của một số tỉnh trong nước, cũng như của một số nước trên thế giới. Từ lý luận và kinh nghiệm thực tiễn được rút ra trong việc thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, luận văn đi vào phân tích, đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp, vốn đầu tư phát triển công nghiệp và đề ra các giải pháp cho việc thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay. Chương 2 thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh hưng yên 2.1. tình hình thực tế phát triển công nghiệp ở tỉnh hưng yên 2.1.1. Khái quát về tự nhiên và xã hội tỉnh Hưng Yên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Hưng Yên là một tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, nằm trong vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (Hà Nội - Hưng Yên - Hải Dương - Hải Phòng - Quảng Ninh), không có biển, không có rừng, tiếp giáp với 6 tỉnh là: Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Tây, Hải Dương, Hà Nam và Thái Bình. Toàn tỉnh có 10 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Hưng Yên và 9 huyện là Văn Lâm, Mỹ Hào, Yên Mỹ, Văn Giang, Khoái Châu, Kim Động, Ân Thi, Phù Cừ và Tiên Lữ. Tổng diện tích tự nhiên 923,09 km2 và dân số 1.128,5 nghìn người (năm 2005), mật độ dân số trung bình 1.222 người/km2, thuộc loại cao so với mức bình quân trung của cả nước và của vùng đồng bằng sông Hồng [38, tr. 13]. Trên địa bàn tỉnh Hưng Yên có hệ thống các tuyến giao thông quan trọng gồm: quốc lộ 5A, đường 39A, đường 38 và tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, nối Hưng Yên với các tỉnh phía Bắc, đặc biệt là với Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh. Có hệ thống sông Hồng, sông Luộc tạo thành mạng lưới giao thông thủy khá thuận lợi cho lưu thông hàng hóa và đi lại. Tuy ở vị trí trung tâm như vậy, nhưng một số khu vực trong tỉnh vẫn còn bị cách ly vì thiếu những tuyến đường và con cầu. Theo Quyết định số 145/2004/QĐ-TTg ngày 13/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ, Hưng Yên là một trong 8 tỉnh của vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Từ nay cho đến năm 2020, vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ sẽ là vùng phát triển mạnh mẽ, đi tiên phong và trở thành động lực lớn thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tốc độ phát triển kinh tế bình quân của vùng thời kỳ 1996 - 2000 đạt 12 - 13% và thời kỳ 2001 - 2010 dự báo đạt 13- 14%, kim ngạch xuất khẩu tăng 28 - 30%/năm. Vùng có ưu thế thực hiện hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới thông qua mở rộng kinh doanh xuất nhập khẩu và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài [38, tr.14]. Vị thế địa kinh tế thuận lợi của Hưng Yên thể hiện ở chỗ là nằm trên các trục giao thông chính và gần những trung tâm kinh tế lớn ở phía Bắc, như gần Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Hải Dương. Trong tương lai gần khi đường 5 mới được xây dựng, phần chạy qua địa phận Hưng Yên dài khoảng 25 km, sẽ rất thuận lợi cho lưu thông hàng hóa và hành khách của Hưng Yên và qua tỉnh Hưng Yên. Từ năm 2003, theo thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước Việt Nam và Trung Quốc thì Hưng Yên nằm trọn trong hai tuyến hành lang là: Côn Minh - Lào Cai – Hà Nội - Hải Phòng và Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng. Ngoài ra, Hưng Yên cũng ở rất gần vành đai phát triển kinh tế Vịnh Bắc Bộ. Toàn bộ đặc điểm vị trí địa lý xét trong bối cảnh phát triển dài hạn nêu trên có tác động hết sức mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên xét trên các mặt: - Tạo ra cơ hội và động lực quan trọng để phát triển trên cơ sở tận dụng mạng lưới cơ sở hạ tầng phát triển, sự hỗ trợ về đào tạo và chuyển giao công nghệ từ các thành phố lớn và các trung tâm của vùng. - Có thị trường tiêu thụ lớn, đặc biệt là tiêu thụ nông sản, thực phẩm, hàng công nghiệp, hàng thủ công mỹ nghệ... - Có môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. - Bên cạnh với những thuận lợi kể trên, Hưng Yên còn có những thách thức lớn đó là: có sự cạnh tranh mạnh mẽ của các địa phương vốn có nền kinh tế đã phát triển hơn như thành phố Hà Nội, tỉnh Hải Dương..., trong khi đó Hưng Yên còn là một tỉnh còn nghèo, mới được tái lập, tài nguyên khoảng sản ít, kết cấu hạ tầng nội tỉnh còn kém, chưa phát triển... Với đặc điểm đó, đòi hỏi Hưng Yên phải phát triển nhanh trên cơ sở phát huy cao độ những giá trị truyền thống và tiềm năng sẵn có của tỉnh, cùng với sự nỗ lực cao của toàn thể cán bộ và nhân dân trong tỉnh để có thể hội nhập nhanh vào nền kinh tế trong vùng và cả nước. 2.1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên * Tài nguyên đất: Theo kết quả Tổng kiểm kê đất đai năm 2005, tổng diện tích đất tự nhiên (tổng quỹ đất) của tỉnh là 92.309,32 ha gồm: - Đất sản xuất nông nghiệp: diện tích đất sản xuất nông nghiệp năm 2005 là 60.993,8 ha, chiếm tỷ lệ 66,1% so với tổng diện tích tự nhiên, bình quân đất nông nghiệp năm 2005 là 611 m2/nhân khẩu nông nghiệp. Đất nông nghiệp phân bố khắp các huyện, thị xã trong tỉnh. - Đất phi nông nghiệp: Năm 2005 đất phi nông nghiệp của tỉnh là 30.807 ha, chiếm 33,4% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh, gồm đất chuyên dùng và đất ở. Trong đó: + Đất chuyên dùng của tỉnh có 15.273,9 ha, chiếm 25,04% so với diện tích tự nhiên, được sử dụng với cơ cấu như sau: đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp 281 ha, chiếm 1,8%; đất quốc phòng, an ninh 85 ha, chiếm 0,6%; đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp 1.377 ha, chiếm 9%; đất có mục đích công cộng 13.529 ha, chiếm 88,6%. + Đất ở: đất dân cư nông thôn tỉnh Hưng Yên đã được hình thành từ lâu đời gắn với biến động lịch sử của tự nhiên và xã hội, tồn tại theo quy mô các làng, xã phân bố rải rác ở 146 xã trong toàn tỉnh với tổng diện tích khu dân cư nông thôn là 8.061 ha, chiếm 8,7% so với tổng diện tích đất tự nhiên. Đất ở đô thị có 1.076,8 ha, chiếm tỷ lệ 3,5% trong diện tích đất phi nông nghiệp và chiếm 1,8% tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh. - Đất chưa sử dụng năm 2005 của tỉnh có 507,8 ha, chiếm 0,6% so với diện tích đất tự nhiên, chủ yếu là đất bãi bồi ven sông Hồng, sông Luộc, sông Bắc Hưng Hải, ven sông nội đồng...[38, tr. 180] Hiện nay, đất nông nghiệp chưa sử dụng còn nhiều. Đây là tiềm năng để phát triển sản xuất nông nghiệp trên cơ sở cải tạo đất và giống để tăng năng suất cây trồng. Trong những năm tới, việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng để tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích, hình thành các vùng sản xuất tập trung tạo nguồn nguyên liệu lớn và ổn định cho phát triển công nghiệp chế biến là một thế mạnh của Hưng Yên. * Tài nguyên nước ngọt: Nằm trong hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, là 2 hệ thống sông lớn nhất ở miền Bắc nên Hưng Yên có nguồn nước ngọt rất dồi dào. Nguồn nước mặt hết sức phong phú của hệ thống sông Hồng, sông Luộc và các sông khác trong nội đồng là điều kiện rất thuận lợi không chỉ cho sản xuất nông nghiệp, mà còn cho cả công nghiệp, sinh hoạt và giao thông đường thủy. Nguồn nước ngầm của Hưng Yên cũng thuộc loại phong phú. Theo kết quả điều tra, trên địa phận Hưng Yên có những mỏ nước ngầm rất lớn, chất lượng tốt nhất là khu vực dọc đường 5 từ Như Quỳnh đến Quán Gỏi, không chỉ thỏa mãn cho yêu cầu phát triển công nghiệp và đô thị của tỉnh mà còn có thể cung cấp khối lượng lớn cho các khu vực lân cận. * Tiềm năng phát triển du lịch: Có thể nói, xét về điều kiện địa hình tự nhiên, tài nguyên du lịch của Hưng Yên kém phong phú và hấp dẫn so với nhiều địa phương khác. Tuy nhiên, bù lại Hưng Yên lại là khu vực tập trung nhiều di tích lịch sử nổi tiếng. Theo thống kê, toàn tỉnh có hơn 1.210 di tích lịch sử và văn hóa, trong đó có 151 di tích được xếp hạng quốc gia, cùng với hàng ngàn tài liệu và hiện vật cổ có giá trị. Đặc biệt là quần thể di tích Phố Hiến, Đa Hòa - Dạ Trạch, khu tưởng niệm Hải Thượng Lãn Ông, Nhà tưởng niệm đồng chí Nguyễn Văn Linh, nhà thờ bà Hoàng Thị Loan...là nguồn tài nguyên du lịch văn hóa rất có giá trị cho phát triển du lịch. d) Môi trường sinh thái: Hưng Yên là một tỉnh thuần nông, đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các ngành kinh tế - xã hội chưa phát triển mạnh, các trung tâm kinh tế - xã hội, các đô thị, thị trấn đang được hình thành và phát triển nên mức độ ô nhiễm môi trường nước, không khí, đất đai chưa nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc hình thành các khu, cụm công nghiệp: Như Quỳnh, Phố Nối, Thị xã Hưng Yên và gần thủ đô Hà Nội, các phương tiện giao thông cơ giới hoạt động nhiều, bên cạnh đó việc sản xuất vật liệu xây dựng cùng với chất thải trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ, làng nghề nên phần nào đang có ảnh hưởng xấu đến môi trường. Do vậy, cần sớm có biện pháp ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục ô nhiễm, bảo vệ và phát triển cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái trong tỉnh và vùng. * Tài nguyên khoáng sản: Một đặc điểm nổi bật của Hưng Yên là tài nguyên khoáng sản rất hạn chế. Khoáng sản chính của Hưng Yên hiện nay là nguồn cát với trữ lượng lớn ven sông Hồng và trong nội đồng, có thể khai thác đáp ứng nhu cầu xây dựng trong tỉnh. Các khoáng sản khác hầu như không đáng kể. Việc phát triển kinh tế của tỉnh không thể dựa vào công nghiệp khai khoáng như nhiều địa phương khác. Việc phát triển công nghiệp phải dựa chủ yếu vào nguyên liệu nông sản. Đây là một khó khăn rất lớn cho quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa của tỉnh Hưng Yên. 2.1.1.3. Những đặc điểm xã hội và nhân văn * Dân số: Nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng có lịch sử phát triển lâu đời, Hưng Yên là tỉnh có mật độ dân số đông đúc. Tính đến hết năm 2005, toàn tỉnh có 1.128,5 ngàn người, đạt mật độ bình quân 1.222 người/km2. Dân số thành thị của Hưng Yên năm 2004 có 123,3 ngàn người, chiếm 11% dân số toàn tỉnh. Tốc độ tăng dân số trung bình trên địa bàn tỉnh có xu hướng giảm dần qua các năm kể từ khi tái lập tỉnh năm 1997. Tốc độ tăng dân số trung bình năm 1998 là 0,938% (so với năm 1997) và giảm xuống chỉ còn 0,73% năm 2005. Tính bình quân cả giai đoạn 2001 - 2005, tốc độ tăng dân số trung bình trên địa bàn tỉnh là 0,82%/năm. Cùng với quá trình đô thị hóa nhanh sau khi tái lập tỉnh, dân số thành thị có xu hướng tăng nhanh, tăng bình quân 10,8%/năm trong giai đoạn 1997 - 2000 và 3,5%/năm trong giai đoạn 2001 - 2004, nếu tính cả giai đoạn 1997 - 2004 sẽ là 6,6%/năm [38, tr. 21]. * Nguồn nhân lực: Lao động trong độ tuổi hiện có 658,8 ngàn người (theo số liệu năm 2004), chiếm 58,9% dân số của tỉnh. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động được qua các chương trình đào tạo không nhiều. Trong số 658,8 ngàn người trong độ tuổi lao động, chỉ có 30% số người được đào tạo. Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân năm 2003 có 561,2 ngàn người, chiếm 85,3% lao động trong độ tuổi, song cơ cấu sử dụng lao động còn rất lạc hậu. Năm 2003 lao động nông nghiệp và thủy sản vẫn chiếm tỷ lệ chủ yếu là 77,4%; lao động trong các ngành công nghiệp - xây dựng - dịch vụ rất ít chỉ chiếm 22,6% lao động trong tỉnh. Số lao động chưa có việc làm còn nhiều. Đây sẽ là nguồn bổ sung nhân lực quan trọng để giải quyết việc làm trong tương lai nếu tỉnh có chính sách đào tạo tốt. Trên cơ sở xu hướng phát triển của lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh trong các giai đoạn phát triển vừa qua, dự báo dân số trong độ tuổi lao động của tỉnh đến năm 2010 dự kiến khoảng 770 ngàn người, chiếm 59% dân số tỉnh. Dân số trong độ tuổi lao động của tỉnh đến năm 2020 dự kiến khoảng 900 ngàn người, chiếm 57,5% dân số tỉnh [38, tr. 23]] * Truyền thống văn hóa, xã hội: Hưng Yên vốn là vùng đất phù sa cổ của đồng bằng Bắc Bộ, được kiến tạo, hình thành từ hàng vạn năm trước. Vùng đất này đã hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước và dân tộc, đã tích tụ cả một bề dầy truyền thống lịch sử và văn hóa. Con người Hưng yên có truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, chinh phục và cải tạo thiên nhiên để phát triển sản xuất. Truyền thống nổi bật của người Hưng Yên là tinh thần yêu nước, yêu quê hương, anh dũng bất khuất chống giặc ngoại xâm bảo vệ quê hương đất nước. Bên cạnh đó, tinh thần đoàn kết, gắn bó, sống nhân nghĩa, thủy chung cũng là phẩm chất, truyền thống quý báu của người Hưng Yên xưa và nay. Hưng Yên có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, ý chí vượt khó thành tài. Hưng Yên có Văn Miếu Xích Đằng nổi tiếng là một trong 5 tỉnh có Văn Miếu lớn của cả nước và được Nhà nước xếp hạng năm 1992. 2.1.2. Vị trí của công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hưng Yên Hưng Yên là tỉnh nằm trong vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Trước khi tái lập tỉnh, Hưng Yên là một tỉnh thuần nông, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh rất nhỏ. Năm 1996 giá trị sản xuất công nghiệp đạt 355 tỷ đồng (giá so sánh năm 1994), xếp vị trí thứ 41 trong cả nước. Với diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 92.309,32 ha, diện tích đất nông nghiệp là 60.993 ha, diện tích đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp là 1.377 ha, mật độ dân số trung bình 1.222 người/km2, thuộc loại cao so với mức bình quân chung của cả nước và của vùng đồng bằng sông Hồng [38, tr. 26]. Với đặc thù này, nếu không đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì khó có thể nâng cao đời sống của nhân dân, thoát khỏi vị trí tỉnh nghèo, lạc hậu và kém phát triển. Hưng Yên không thể đi lên và làm giàu nếu chỉ dựa vào nông nghiệp, mà phải tập trung cao độ để phát triển nhanh, vững chắc công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, làm động lực cho phát triển nông nghiệp, dịch vụ và các ngành, lĩnh vực khác. Phát triển mạnh mẽ công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp sẽ giúp Hưng Yên khai thác được những lợi thế của mình: - Lợi thế về vị trí địa lý: vị trí của tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, gần Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng, là một trong 8 tỉnh thuộc vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm trên hai hành lang kinh tế là Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng và Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng, trong tương lai có điều kiện khá thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. - Lợi thế về đất đai: đất đai của Hưng Yên bằng phẳng, màu mỡ, nằm trong vùng có điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, phù hợp với nhiều loại cây trồng cho năng suất cao, nhất là những cây đặc sản (nhãn lồng, vải thiều...), cây có giá trị kinh tế cao (cây cảnh, hoa, rau...), tạo ra một khối lượng nông sản hàng hóa lớn, chất lượng cao phục vụ cho thị trường Hà Nội, các tỉnh, thành phố khác và là nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. - Lợi thế về nguồn nhân lực: Hưng Yên có nguồn lao động dồi dào, có khả năng tiếp thu công nghệ hiện đại. Đây là nguồn lợi thế quan trọng phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh cũng như của cả nước. - Lợi thế về giao thông: Hưng Yên có nhiều tuyến đường giao thông quan trọng (đường bộ, đường sắt, đường sông), có trục vành đai (3, 4, 5) của Hà Nội chạy qua, rất thuận lợi để lưu thông hàng hóa và đi lại. Mặt khác, có phát triển công nghiệp thì mới có điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh đề ra. 2.1.3. Sự phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hưng Yên 2.1.3.1. Những kết quả đã đạt được Trong những năm vừa qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hưng Yên đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội khá toàn diện. Kinh tế tăng trưởng nhanh, khá toàn diện và vững chắc, năm sau cao hơn năm trước, bình quân tăng 12,28%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, đến năm 2005: nông nghiệp 30,5% - công nghiệp và xây dựng 38% - dịch vụ 31,5%; cơ cấu đầu tư và cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thu nhập bình quân đầu người đạt 550 đô la Mỹ [31, tr. 12]. Nhiều ngành công nghiệp ra đời với những sản phẩm có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế. Cùng với sự vận hành của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước về thu hút vốn đầu tư, Hưng Yên đã thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đến tỉnh. Chính vì vậy, công nghiệp của tỉnh đã đạt được những kết quả to lớn trên các mặt: * Số lượng cơ sở công nghiệp: Tính đến ngày 31/12/2005 trên địa bàn Hưng Yên có 19.254 cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đang hoạt động sản xuất, trong đó có 18.971 cơ sở sản xuất cá thể, 9 doanh nghiệp Trung ương quản lý, 7 doanh nghiệp địa phương quản lý, 24 hợp tác xã công nghiệp, 211 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 32 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài [24, tr. 2]. Trên địa bàn tỉnh đã hình thành nhiều ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đa dạng, phù hợp với tiềm năng vốn có của địa phương. Các cơ sở sản xuất công nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, tập trung ở ven đường quốc lộ 5, chiếm gần 80% giá trị sản lượng công nghiệp của cả tỉnh. Số cơ sở công nghiệp theo ngành tập trung nhiều nhất vào các ngành chế biến nông lâm sản thực phẩm, sau đến ngành dệt may và da giầy. * Lao động công nghiệp: Tính đến ngày 1/7/2005 số lao động công nghiệp trên địa bàn tỉnh có 96.438 người, chiếm 15,7% tổng số lao động đang làm việc của tỉnh năm 2005. Trong đó, các doanh nghiệp Trung ương chiếm 4,7%, doanh nghiệp quốc doanh địa phương chiếm 5,5%, ngoài quốc doanh chiếm 71,2% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 12,6%. Tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng trở lên chiếm 1,5%, trung học chuyên nghiệp là 3,2% số lao động toàn ngành công nghiệp. Trong đó, các doanh nghiệp Trung ương là 25,1%, doanh nghiệp quốc doanh địa phương là 21,8%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 24,6% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 28,5%. Số công nhân kỹ thuật được đào tạo nghề chiếm trên 92% trong tổng số công nhân công nghiệp [24, tr. 3]. Biểu 2.1: Lao động công nghiệp tính đến 1/7 hàng năm Đơn vị: Người Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Tăng trưởng 2002 - 05 (%) Tổng số 50.940 62.754 64.585 83.723 96.438 15,7 CN khai thác mỏ 320 335 289 305 326 0,4 CN chế biến 45.222 52.934 54.293 72.595 84.034 15,2 SX và phân phối điện nước 298 560 578 580 606 13,4 Xây dựng 5.100 8.925 9.125 10.243 11.472 19,3 Nguồn: [5]. Trong tương lai gần, cùng với sự phát triển nhanh về công nghiệp, tỉnh cần tổ chức tốt việc đào tạo và bồi dưỡng cho đội ngũ lao động trên địa bàn. Mức trang bị vốn bình quân cho một lao động công nghiệp ở Hưng Yên trong các doanh nghiệp đạt mức 64,11 triệu đồng/người, đạt mức trung bình trong vùng đồng bằng sông Hồng, chỉ đứng sau Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng và Vĩnh Phúc về trang bị vốn. Năng suất lao động công nghiệp của Hưng Yên tính theo giá trị sản xuất công nghiệp đạt bình quân 66,2 triệu đồng/người của năm 2003, chủ yếu là do các doanh nghiệp lớn trên địa bàn mới bắt đầu sản xuất, mức huy động công suất thiết kế còn thấp, nên năng suất lao động chưa cao. * Tăng trưởng công nghiệp: Song song với quá trình hoàn thiện môi trường đầu tư trên địa bàn tỉnh, từ những thành quả nổi bật trong việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước đến với tỉnh, sản xuất công nghiệp trong tỉnh những năm vừa qua đã có bước phát triển vượt bậc. Giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh năm 2001 chỉ đạt 2.831 tỷ đồng (giá năm 1994), nhưng đến năm 2005 đã đạt 7.358 tỷ đồng, tăng gấp 2,6 lần. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân trong giai đoạn 2001 - 2005 đạt khá cao là 26,17%/năm, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra (mục tiêu đề ra trên 20%/năm). Trong đó, các ngành công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trưởng cao, bình quân tăng 26,2%/năm trong giai đoạn 2001 - 2005. Đặc biệt có một số ngành có tốc độ tăng trưởng cao như: sản xuất kim loại 68,5%, sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy 63,7%, sản xuất trang phục 45,5%, sản xuất thực phẩm và đồ uống 37,8% [38, tr. 50]. Xem Phụ lục 1: Giá trị sản xuất công nghiệp và tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Hưng Yên từ năm 2001 đến năm 2005. * Tỷ trọng và cơ cấu ngành công nghiệp: Nhờ những thành quả vượt bậc trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp trong và ngoài nước, cũng như thực hiện tốt Luật doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, sản xuất công nghiệp của tỉnh Hưng Yên đã có những bước phát triển mạnh trong giai đoạn 2001 - 2005, từ ngành sản xuất chiếm tỷ trọng nhỏ thành ngành có đóng góp to lớn cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh, tạo cơ hội việc làm cho hàng ngàn người lao động trong và ngoài tỉnh, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. Từ năm 2001 đến nay, cùng với việc mở rộng quy mô sản xuất trên địa bàn, GDP trên địa bàn tỉnh Hưng Yên cũng có xu hướng phát triển không ngừng. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP trong giai đoạn 2001 - 2005 đạt 12,3%/năm, trong đó khối ngành nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng 4,5%; khối ngành công nghiệp - xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 20,5%/năm và khối ngành dịch vụ đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 15,2%. Xem Phụ lục 2: Đóng góp cho tăng trưởng GDP của tỉnh từ các ngành. Năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp chiếm tỷ trọng 56,5% tổng giá trị sản xuất trên địa bàn tỉnh, chuyển dịch (+) 17,5% so với năm 2000 (chiếm 37,6% tổng giá trị sản xuất của tỉnh). Trong GDP toàn tỉnh, năm 2005 GDP ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng 38%, chuyển dịch (+) 7,5% so với năm 2000 (chiếm 30,5% GDP toàn tỉnh) và có chiều hướng tăng lên. Tỷ trọng GDP bình quân trong giai đoạn 2000 - 2005 chiếm 35,3% GDP toàn tỉnh [38, tr. 53]. Biểu 2.2: Tỷ trọng GDP công nghiệp trong GDP toàn tỉnh Danh mục Đơn vị tính Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 2005- 2000 GDP tỉnh tỷ đồng 4.156 4.598 5.290 5.994 7.042 8.239 35.319 GDP công nghiệp tỷ đồng 1.267 1.490 1.820 2.158 2.605 3.130 12.470 GDP CN/GDP tỉnh % 30,5 32,4 34,4 36,0 37,0 38,0 35,3 Nguồn: Cục thống kê tỉnh Hưng Yên, Hệ thống chỉ tiêu kinh tế - xã hội 2001 - 2005 Về cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp, công nghiệp chế biến vẫn là ngành sản xuất chủ yếu trong sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh, là ngành tạo ra hầu hết giá trị sản xuất công nghiệp cho tỉnh. Năm 2004, giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến chiếm 99,8% tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn. Trong đó, một số ngành sản xuất có tỷ trọng khá (năm 2005) và ngày càng tăng trong giá trị sản xuất công nghiệp là: ngành sản xuất thiết bị điện tử, thiết bị truyền thông 23,6%, ngành sản xuất kim loại 13,2%, sản xuất sản phẩm bằng kim loại (trừ máy móc, thiết bị) 12,4%, ngành sản xuất thực phẩm và đồ uống 9%, sản xuất trang phục 5,5%...Trong đó, một số ngành mặc dù có tỷ trọng lớn vào năm 2001 như: ngành sản xuất phương tiện vận tải 53,1%, ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng chất phi kim loại 3,5% thì lại có xu hướng giảm trong những năm qua, tương ứng giảm với (- 38,2%) và (- 1%). Một số ngành còn lại chiếm tỷ trọng nhỏ trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh năm 2004 như: công nghiệp dệt 1%, sản xuất máy móc thiết bị điện 1,6%, sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy 0,5%...[38, tr. 54]. Xem Phụ lục 3: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành công nghiệp của tỉnh. * Phát triển các khu công nghiệp và các làng nghề truyền thống ở nông thôn: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đã hình thành 5 khu công nghiệp tập trung, là nơi thu hút được nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước, đã có đóng góp không nhỏ cho phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh. - Khu công nghiệp Như Quỳnh, thuộc địa bàn huyện Văn Lâm, theo trục quốc lộ 5 Hà Nội - Hải Phòng với tổng diện tích là 100 ha. Khu công nghiệp Như Quỳnh được chia thành 2 khu công nghiệp Như Quỳnh A, Như Quỳnh B và đã có một số dự án lớn đầu tư phát triển sản xuất, lấp đày hơn một nửa diện tích của khu công nghiệp, như: Công ty sản xuất phụ tùng ô tô xe máy, Công ty sản xuất thiết bị điện tử LG, Công ty Hòa Phát sản xuất ống thép và thiết bị nội thất… - Khu công nghiệp Phố Nối được xây dựng trên diện tích của thị trấn Bần Yên Nhân, dọc theo quốc lộ 5 và quốc lộ 39A. Khu công nghiệp Phố Nối có diện tích được cấp là 222,8 ha, được phân thành 2 khu công nghiệp là Phố Nối A và Phố Nối B. Khu công nghiệp Phố Nối dự kiến giành cho các nhà máy thuộc lĩnh vực công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến nông lâm sản, thực phẩm. Đây là một trung tâm dệt may lớn ở vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. - Khu công nghiệp thị xã Hưng Yên nằm ở phía Bắc thị xã với diện tích quy hoạch là 60 ha. Khu công nghiệp này có các dự án thuộc ngành công nghiệp chế biến nông lâm sản, thực phẩm, công nghiệp nhựa, sản xuất hàng tiêu dùng... - Khu công nghiệp Minh Đức với diện tích 200 ha để thu hút đầu tư phát triển các ngành công nghiệp da giầy, hóa chất, sản xuất máy nông nghiệp... [38, tr. 55] Để khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào tỉnh, việc hình thành và phát triển các khu công nghiệp là rất cần thiết, đã khẳng định những chủ trương đúng đắn, cơ chế linh hoạt, giải pháp tích cực và hiệu quả của Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên, sự phối hợp chặt chẽ của các ban ngành trong tỉnh. Năm khu công nghiệp này sẽ đóng vai trò nền tảng thúc đẩy công nghiệp trên địa bàn tỉnh phát triển nhanh chóng, nâng cao kỹ thuật và tăng khả năng cạnh tranh, tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại, huy động nguồn vốn lớn của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn. - Phát triển các làng nghề truyền thống ở nông thôn: đã khôi phục và phát triển được 60 làng nghề với các ngành nghề truyền thống và nghề mới là: sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ, dệt may, thêu ren, tơ tằm, chạm bạc, sản xuất đồ trang sức mỹ nghệ, đồ gỗ dân dụng, cơ khí sửa chữa nhỏ, sản xuất chế biến lương thực, thực phẩm...Công nghiệp chế biến nhỏ ở nông thôn hiện đã sử dụng nhiều thiết bị nhỏ, phù hợp, có năng suất lao động cao hơn. Các khâu lao động nặng nhọc trong sản xuất đã được thay thế bằng nhiều máy móc cơ giới, phù hợp với quy mô tích tụ ruộng đất ở Hưng Yên. * Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Trong các ngành công nghiệp có 27 sản phẩm chủ yếu các loại, trong đó có một số loại có sản lượng cao, chất lượng tốt được người tiêu dùng tín nhiệm như: xe máy lắp ráp, phụ tùng ô tô xe máy, ti vi màu, đầu DVD, màn hình vi tính, ống thép các loại, động cơ diezen, đồ dùng trang trí nội thất, quần áo may sắn, giầy thể thao, sứ dân dụng, giấy bìa các loại, túi siêu thị...Điểm yếu hiện nay là cơ cấu sản phẩm chưa hoàn chỉnh, sản xuất sản phẩm sử dụng nguyên liệu tại chỗ, hàng tiêu dùng trực tiếp...chưa nhiều, nhất là hàng công nghiệp nhẹ, thiếu sản phẩm công nghệ hiện đại, một số ngành còn sản xuất dưới hình thức gia công, nhất là ngành may, da giầy... [38, tr. 57]. Xem Phụ lục 4: Một số sản phẩm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay (2).pdf
Tài liệu liên quan