Tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội – Lê Trọng Tấn: Luận văn
Giải pháp tăng cường huy
động vốn tại chi nhánh Ngân
hàng TMCP Quân đội – Lê
Trọng Tấn
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của đất nước, hệ thống NHTM ở Việt Nam đã
không ngừng lớn mạnh và góp phần quan trọng vào những thành quả chung
của công cuộc đổi mới. Các NHTM Việt Nam đã thực sự trở thành chỗ dựa
tin cậy không thể thiếu của các thành phần kinh tế, có những đóng góp lớn lao
trong việc thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển toàn diện với tốc độ cao và
ổn định. Trong đó, khối các ngân hàng TMCP đóng một vai trò không nhỏ
trong sự lớn mạnh chung của cả hệ thống
Trong các hoạt động kinh doanh của NHTM thì vốn đóng một vai trò
quan trọng. Nó chi phối tất cả hoạt động của ngân hàng. Vai trò tạo vốn của
ngân hàng được coi là then chốt, là cơ sở để NHTM thực hiện các hoạt động
kinh doanh của mình. Vì vậy, hoạt động huy động vốn là một trong những
hoạt động truyền thống và quan trọng nhất đối với mỗi NHTM.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của...
88 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội – Lê Trọng Tấn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Giải pháp tăng cường huy
động vốn tại chi nhánh Ngân
hàng TMCP Quân đội – Lê
Trọng Tấn
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của đất nước, hệ thống NHTM ở Việt Nam đã
không ngừng lớn mạnh và góp phần quan trọng vào những thành quả chung
của công cuộc đổi mới. Các NHTM Việt Nam đã thực sự trở thành chỗ dựa
tin cậy không thể thiếu của các thành phần kinh tế, có những đóng góp lớn lao
trong việc thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển toàn diện với tốc độ cao và
ổn định. Trong đó, khối các ngân hàng TMCP đóng một vai trò không nhỏ
trong sự lớn mạnh chung của cả hệ thống
Trong các hoạt động kinh doanh của NHTM thì vốn đóng một vai trò
quan trọng. Nó chi phối tất cả hoạt động của ngân hàng. Vai trò tạo vốn của
ngân hàng được coi là then chốt, là cơ sở để NHTM thực hiện các hoạt động
kinh doanh của mình. Vì vậy, hoạt động huy động vốn là một trong những
hoạt động truyền thống và quan trọng nhất đối với mỗi NHTM.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của huy động vốn đối với hoạt động của
NHTM nên qua thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh
Lê Trọng Tấn em quyết định chọn đề tài : “ Giải pháp tăng cường huy động
vốn tại chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội – Lê Trọng Tấn” để hoàn
thành chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Với chuyên đề này em xin đưa ra một số nhận định tổng quan về thực
trạng huy động vốn và qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường huy
động vốn tại Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Lê Trọng Tấn.
Kết cấu chuyên đề tốt nghiệp ngoài phần mở đầu, kết luận chuyên đề tốt
nghiệp được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về huy động vốn của NHTM
Chương 2: Thực trạng về huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Quân đội
chi nhánh Lê Trọng Tấn.
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng TMCP
Quân đội chi nhánh Lê Trọng Tấn
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Để đưa ra được một định nghĩa về NHTM, người ta thường phải dựa
vào tính chất và hoạt động của nó trên thị trường tài chính, và đôi khi còn kết
hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.
Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 22 tháng 12 năm 1997, tại điều 20 có nêu:
“NHTM là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. Trong đó “ Hoạt động ngân
hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận gửi, sử dụng tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán”
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng phân tích, khai thác nội
dung của các định nghĩa đó, người ta dễ nhận thấy các NHTM đều có chung
một tính chất, đó là nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để
sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh
khác của chính Ngân hàng.
Có thể khái quát khái niệm của NHTM như sau:
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ với các hoạt động chủ yếu là huy động vốn, cho vay, đầu tư và các
hoạt động dịch vụ nhằm một trong các mục tiêu quan trọng là tối đa hoá lợi
nhuận
1.1.2 Vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm cuả mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế. Vì vậy muốn có nhiều vốn phải tăng
thu nhập quốc dân và có mức độ tiêu dùng hợp lý. Để tăng thu nhập quốc dân
tức là cần mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông
hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế, muốn làm
được điều này cần thiết phải có vốn. Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển sẽ
càng tạo ra nhiều nguồn vốn, điều này sẽ có tác động tích cực đến hoạt động
của ngân hàng. NHTM đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời
nhàn rỗi ở mọi tổ chức cá nhân, mọi thành phần kinh tế như: vốn từ nguồn tiết
kiệm của các cá nhân trong xã hội hay vốn tạm thời được giải phóng từ quá
trình sản xuất. Bằng nguồn vốn huy động được trong xã hội và thông qua hoạt
động tín dụng sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các nhu
cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ
thống NHTM và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều
kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động,
nâng cao hiệu quả kinh tế.
Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị
trường
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp
chịu tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá
trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng
nhu cầu thị trường, thoả mãn nhu cầu trên mọi phương diện được thể hiện
như: không những thoả mãn nhu cầu về phương diện giá cả, khối lượng, chất
lượng, chủng loại hàng hoá mà còn đòi hỏi thoả mãn trên phương diện thời
gian, địa điểm. Để đảm bảo đứng vững trong cạnh tranh, đáp ứng tốt nhất các
yêu cầu của thị trường buộc các doanh nghiệp phải đạt được một hiệu quả
nhất định theo quy định chung của thị trường. Doanh nghiệp không những cần
nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế,
chế độ hạch toán kế toán…mà còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết
bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi sử dụng nguyên vật liệu mới, mở rộng quy
mô sản xuất một các thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng
lớn vốn đầu tư nhiều khi vượt quá khả năng vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp. Để giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp tìm đến ngân hàng xin vay
vốn thoã mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân
hàng là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín
dụng của ngân hàng cung ứng cho doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, giúp
doanh nghiệp đáp ứng được các nhu cầu của thị trường, từ đó tạo cho doanh
nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, NHTM hoạt động một cách
có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực sự là một
công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống
các NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông.
Thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, NHTM
thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường,
điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ
mô: “ Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia và tài chính
quốc tế, thúc đẩy ngoại thương phát triển
Trong nền kinh tế thị trường khi mà các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ
ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước
trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một
bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy, nền tài chính của mỗi nước
cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế. NHTM cùng các hoạt động
kinh doanh của mình đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà
nhập này. Với các nghiệp vụ kinh doanh như: nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp
vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác, NHTM đã tạo điều
kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng được mở rộng. Thông qua các hoạt
động thanh toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các NHTM nước
ngoài, hệ thống NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước
phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
NHTM ra đời và phát triển trên cơ sở nền sản xuất lưu thông hàng hoá
phát triển và nền kinh tế ngày càng cần đến hoạt động của NHTM với các
chức năng và vai trò của mình. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai
trò của mình nhất là chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã trở thành một
bộ phận quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.3 Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.3.1 Hoạt động tạo lập nguồn vốn
NHTM là một loại hình doanh nghiệp, bởi vậy muốn mở rộng các hoạt
động kinh doanh của mình, nó phải tự tạo lập được nguồn vốn.
- Vốn tự có : Vốn tự có của NHTM bao gồm vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và
một số tài sản nợ khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh của
ngân hàng, song nó có ý nghĩa quan trọng: Là cơ sở để thu hút nguồn vốn
khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, sử dụng
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngân hàng. Đồng thời vốn tự có còn là
cơ sở thu hút được nhiều nguồn vốn huy động và xác định hệ số an toàn trong
kinh doanh ngân hàng. Bởi vậy, các NHTM không ngừng tăng cường bổ sung
vốn điều lệ, trích lập các quỹ dự trữ và sử dụng các tài sản nợ.
- Vốn huy động: Huy động vốn là nghiệp vụ truyền thống của NHTM, đóng
vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Nó
tạo ra nguồn vốn chủ lực trong kinh doanh. NHTM thường huy động vốn
nhàn rỗi của xã hội qua các hình thức nhận tiền gửi, phát hành các chứng từ
có giá. Hoạt động huy động vốn của mỗi ngân hàng nhằm mục đích để ngân
hàng thực hiện hoạt động cho vay và kinh doanh của mình.
Ngoài ra, trong quá trình hoạt động kinh doanh một NHTM có thể thiếu
vốn ngắn hạn để thanh toán. Ngân hàng giải quyết bằng cách đi vay các
NHTM khác và các tổ chức tín dụng hoặc của NHNN. Vay vốn của các
NHTM và các tổ chức tín dụng được thực hiện thông qua thị trường liên ngân
hàng. Việc vay vốn này được thực hiện ở NHNN và sau đó sẽ điều chỉnh cho
các chi nhánh trong hệ thống. Còn vay vốn của NHNN được thực hiện thông
qua hình thức tái cấp vốn, vay bổ sung thanh toán vốn bù trừ giữa các NHTM
và vay khi ngân hàng mất khả năng thanh toán.
Huy động vốn trong thanh toán và vốn khác: Trong quá trình thực hiện
chức năng thanh toán, ngân hàng thanh toán không dùng tiền mặt của khách
hàng, như vậy ngân hàng đã huy động được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi dưới
hình thức : tiền ký quỹ vào tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền chu chuyển
trong thanh toán. Bên cạnh đó, khi thực hiện các dịch vụ, ngân hàng huy động
được vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của chính phủ hoặc nước ngoài. Trong thời
gian chờ giải ngân, NHTM có thể huy động làm nguồn vốn kinh doanh.
1.1.3.2 Hoạt đông sử dụng vốn
Sử dụng vốn là hoạt động kinh doanh chủ yếu và quan trọng nhất của
NHTM, trực tiếp đưa lại lợi nhuận cho ngân hàng. Trong nền kinh tế thị
trường, hoạt động sử dụng vốn ngày càng đa dạng và được thực hiện dưới
nhiều hình thức
* NHTM cho vay đối với khách hàng: Đây là hướng cơ bản trong sử dụng
vốn của ngân hàng gồm có cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn.
+ Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới 12 tháng. Nó là loại
cho vay phổ biến của NHTM nhằm bổ sung vốn lưu động cho khách hàng.
+ Cho vay trung và dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 12 tháng. Loại
cho vay này để khách hàng thực hiện chương trình dự án phát triển kinh tế.
Mặt khác, loại cho vay này cũng phù hợp với khả năng huy động vốn theo
chiều hướng gia tăng của NHTM và nhu cầu đa dạng của đối tác xin vay.
* Hoạt động đầu tư: Hoạt động đầu tư của NHTM được thực hiện dưới 2
hình thức chủ yếu:
+ Đầu tư chứng khoán: Ngân hàng mua chứng khoán và trở thành người sở
hữu chứng khoán. Chứng khoán mà ngân hàng có thể mua là tín phiếu kho
bạc ngắn hạn, trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp. Mua
chứng khoán mang lại lợi ích cho ngân hàng, đó là ngân hàng sử dụng tối đa
nguồn vốn đã huy động được để thu lợi nhuận. Mặt khác, tăng cường khả
năng thanh khoản cho các khoản dự trữ của mình. Tuy nhiên, NHTM chỉ
được đầu tư chứng khoán ở một giới hạn nhất định theo quy định của pháp
luật Nhà nước.
+ Đầu tư vốn liên doanh, liên kết là việc ngân hàng bỏ vốn ra để liên doanh,
liên kết với các NHTM, tổ chức tín dụng khác hoặc các doanh nghiệp thuộc
lĩnh vực sản xuất thương mại, dịch vụ để tăng phần vốn góp, tạo ra những lợi
thế cho ngân hàng và nền kinh tế.
Một ngân hàng có hoạt động sử dụng vốn với hiệu quả cao sẽ nâng cao
vai trò, uy tín của ngân hàng, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, từ đó sẽ thu
hút được nhiều khách hàng đến giao dịch với mình, tạo điều kiện thuận lợi mở
rộng hoạt động huy động vốn. Vì vậy, nhiệm vụ của mỗi ngân hàng là phải
thường xuyên bám vào mục tiêu phát triển kinh tế của vùng, ngành, đất nước
nhằm đưa ra các hình thức đầu tư đúng đắn có hiệu quả cao, thực hiện nghiên
cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu sử dụng vốn của xã hội, thực hiện cho vay
theo dự án đầu tư, chương trình phục hồi sản xuất.
1.1.3.3 Hoạt động khác
Ngoài hai hình thức hoạt động chủ yếu trên, hoạt động dịch vụ ngân
hàng cũng ngày càng phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế thị trường và đưa
lại nguồn thu đáng kể cho các NHTM. Hoạt động dịch vụ được thực hiện :
* Thanh toán: NHTM là một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cho
khách hàng. Dịch vụ này bao gồm thanh toán không dùng tiền mặt, hoặc thu
chi tiền mặt qua ngân hàng. Đây là một nghiệp vụ truyền thống, đồng thời
được phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế thị trường. Thông qua hoạt động
thanh toán, ngân hàng thu được lệ phí, tập trung được nhiều nguồn vốn và
thông qua đó kiểm soát được chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân.
* Bảo lãnh: Là nghiệp vụ trong đó NHTM chịu trách nhiệm trả tiền thay
cho bên được bảo lãnh nếu họ không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với yêu
cầu của một đối tác nào đó. Bảo lãnh được thực hiện dưới nhiều hình thức,
như bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh chất lượng và khối lượng
hàng hóa, bảo lãnh thực hiện hợp đồng…
* Kinh doanh ngoại tệ và vàng: Ngân hàng mua bán ngoại tệ và vàng ở thị
trường trong nước và quốc tế. Lợi nhuận mang lại cho ngân hàng là chênh
lệch giá bán và giá mua.
* Môi giới kinh doanh chứng khoán: Ngân hàng làm môi giới chứng khoán
cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
* Hoạt động ủy thác: Là ngân hàng làm theo sự ủy thác của khách hàng về
một số công việc như quản lý tài sản, đại lý và đại diện tại các tổ chức kinh tế
hoặc cơ quan pháp luật.
* Hoạt động thông tin tư vấn: NHTM là trung tâm tiền tệ, tín dụng và
thanh toán. Hơn nữa, ngân hàng là tổ chức có khá đầy đủ và cập nhật các
thông tin về thị trường, giá cả do vậy nó có thể cung cấp các thông tin theo
yêu cầu của khách hàng trong giới hạn cho phép. Do trình độ nghiệp vụ có
thông tin và kinh nghiệm nên NHTM có thể tư vấn cho khách hàng về xây
dựng dự án đầu tư, phương án huy động vốn, phân tích báo cáo tài chính
doanh nghiệp.
Những hoạt động trên có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng tạo lập
nguồn vốn kinh doanh, nâng cao hiệu quả của việc khai thác và sử dụng
nguồn vốn.
1.2 Huy động vốn của NHTM
1.2.1 Khái niệm về vốn huy động và vai trò của vốn đối với hoạt động của
Ngân hàng thương mại
Khái niệm về vốn huy động: Vốn huy động của NHTM là những giá trị
tiền tệ do NHTM huy động được trên thị trường thông qua nghiệp vụ tiền gửi,
tiền vay và một số nguồn khác. Đây là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng tiến
hành các hoạt động đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất, vốn huy động của ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân
tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người
sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau.
Hay nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn tiền tệ cho ngân
hàng…
Vai trò của vốn huy động đối với hoạt động của Ngân hàng: Vốn huy
động hay còn gọi là vốn nợ là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng. Chất lượng
và số lượng của nó ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng các khoản vay và
đầu tư.
Thứ nhất, vốn huy động là phương tiện giúp NHTM tổ chức mọi hoạt động
kinh doanh của mình
Hay nói cách khác, vốn huy động được coi là đầu vào sống còn của ngân
hàng, ngân hàng không có vốn thì không thực hiện được các nghiệp vụ kinh
doanh. Những ngân hàng có khối lượng vốn lớn là những ngân hàng có thế
mạnh trong kinh doanh. Chính vì thế, có thể nói: vốn là điểm đầu tiên trong
chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Do đó, ngoài vốn điều lệ theo quy định ban
đầu, thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong
suốt quá trình hoạt động của mình.
- Thứ hai, vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác
của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng. Ngân
hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với các ngân hàng khác. Có
nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín dụng linh
hoạt, có điều kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mô tín dụng.
Mà vốn huy động của ngành ngân hàng lại chiếm tỷ lệ khoảng 2/3 trong
tổng nguồn vốn của ngân hàng, vì thế vốn huy động lại càng đóng vai trò
quan trọng hơn trong các hoạt động của ngân hàng hiện nay.
- Thứ ba, vốn huy động quyết định năng lực thanh toán, khả năng chống đỡ
rủi ro thanh khoản, đảm bảo uy tín của NHTM trên thị trường
Điều kiện để xây dựng được uy tín của ngân hàng chính là vốn của ngân
hàng. Có nhiều vốn khả năng thanh toán của ngân hàng luôn được đảm bảo,
các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi giao thiệp với ngân hàng. Trong
nền kinh tế nhiều biến động như hiện nay, khả năng thanh toán luôn được các
ngân hàng quan tâm hàng đầu và để làm được điều đó thì các ngân hàng luôn
tìm cách huy động vốn được nhiều hơn. Vốn huy động sẽ đảm bảo tính thanh
khoản cao, tăng sức cạnh tranh cho ngân hàng. Với xu hướng kinh doanh đa
năng, các ngân hàng ngày càng tham gia vào các lĩnh vực khác nhau như: đầu
tư chứng khoán, liên doanh góp vốn, đồng tài trợ các dự án…giúp ngân hàng
phân tán rủi ro trên cơ sở một nguồn vốn dồi dào, thường xuyên, liên tục.
- Thứ tư, vốn huy động quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập và cạnh tranh khốc liệt như hiện nay,
vốn là điều kiện không thể thiếu để các ngân hàng nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Mà năng lực
cạnh tranh của ngân hàng được quyết định bởi quy mô vốn, quy mô tín dụng.
Theo quy luật kinh tế thị trường, những tổ chức hoạt động không hiệu quả,
quy mô vốn bé tất yếu sẽ bị giải thể hoặc sáp nhập, không có chỗ đứng trên
thị trường. Vốn của ngân hàng mà lớn giúp cho ngân hàng có khả năng tài
chính dồi dào để cạnh tranh được với các ngân hàng khác: hạ lãi suất, linh
hoạt về thời hạn tín dụng, hình thức trả lãi …Các dịch vụ ngân hàng sẽ ngày
càng được cải tiến, phát triển và thực hiện tốt hơn.
Qua đó, ta có thể thấy rằng vốn huy động có vai trò then chốt trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, đòi hỏi ngân hàng phải cực kỳ nhanh
nhạy trong việc huy động và điều hành vốn, tránh xảy ra tình trạng thừa hoặc
thiếu vốn làm giảm hiệu quả hoạt động của NHTM.
1.2.2 Các hình thức huy động vốn của NHTM
Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của các NHTM hay còn gọi là nghiệp
vụ tạo vốn với nhiều hình thức đa dạng, phong phú nhằm thu hút vốn từ các
tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế để phục vụ mục đích kinh doanh của
mình. Như vậy, việc đưa ra các hình thức huy động phù hợp linh hoạt là điều
rất cần thiết đối với NHTM. Có thể phân loại vốn huy động của ngân hàng
theo các tiêu thức khác nhau:
1.2.2.1 Theo đối tượng huy động
- Vốn huy động từ dân cư: Tiền gửi của dân cư là một bộ phận thu nhập
bằng tiền của các tầng lớp dân cư trong xã hội gửi vào ngân hàng nhằm mục
đích tiết kiệm, kiếm lời và để thanh toán. Đây là nguồn vốn có tiềm năng lớn
và khá ổn định đối với NHTM. Nguồn vốn này rất đa dạng vì nó có thể huy
động dưới nhiều hình thức để phục vụ mục tiêu phát triển của ngân hàng. Các
hình thức huy động từ dân cư gồm: tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi cá nhân( có kỳ
hạn và không kỳ hạn), giấy tờ có giá. Đây được xem là nguồn huy động đáng
kể của ngân hàng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.
- Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp: Nguồn vốn này
chiếm tỷ trọng chủ yếu của tiền gửi thanh toán. Nó là nguồn vốn lưu động mà
doanh nghiệp xác định sẽ trả cho nhà cung cấp tại những thời điểm theo thời
hạn khác nhau. Tổ chức kinh tế có thể gửi vốn vào ngân hàng dưới các hình
thức: tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn với mức lãi suất hưởng khác
nhau. Đồng thời ngân hàng sẽ mở cho các đơn vị tổ chức, doanh nghiệp tài
khoản tương ứng để thuận tiện trong việc sử dụng.
- Vốn huy động từ các tổ chức tín dụng khác: NHTM có thể huy động vốn
bằng hình thức đi vay các NHTM khác và các tổ chức tín dụng. Loại vốn này
có lãi suất cao hơn lãi suất từ nguồn tiền gửi hay huy động từ dân cư. Tuy
nhiên nó cũng hết sức cần thiết để đáp ứng nhu cầu dự trữ, chi trả cấp bách.
Các ngân hàng có thể vay mượn mà không cần đảm bảo hoặc được đảm bảo
bằng chứng khoán của kho bạc.
1.2.2.2 Theo thời gian huy động
Việc phân loại vốn theo thời gian có thể giúp cho ngân hàng có thể chủ
động được hoạt động tín dụng của mình. Tùy theo thời hạn tương ứng mà
ngân hàng có thể đề ra các giải pháp cụ thể để điều chỉnh nguồn vốn của
mình.
- Vốn huy động ngắn hạn: : Là những nguồn vốn huy động có thời hạn dưới
1 năm mà ngân hàng áp dụng để huy động vốn ngắn hạn trên thị trường. Để
thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, ngân hàng đã chia nhỏ từng kỳ hạn thành
nguồn 1, 3, 6, 9, 12 tháng với mức lãi suất phù hợp và thấp hơn so với loại có
kỳ hạn dài hơn. Nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng
nguồn vốn huy động của ngân hàng.
- Vốn huy động trung hạn: Là những nguốn vốn huy động có thời hạn từ 1
đến 5 năm. Do thời hạn huy động khá dài nên nguồn này không được nhiều
sự ưa chuộng của khách hàng. Ngân hàng thường sử dụng nguồn vốn này để
cho vay trung hạn, vì vậy nó đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Các ngân hàng cần phải thực hiện có hiệu quả các
giải pháp để thu hút được nhiều hơn nguồn vốn này.
- Vốn huy động dài hạn: Là những nguồn vốn huy động có thời hạn từ 5
năm trở lên, được dùng cho các dự án đầu tư dài hạn mang tính khả thi. Đây
là nguồn vốn ổn định mà ngân hàng huy động nhưng do kỳ hạn dài nên ngân
hàng sẽ phải trả chi phí cao cho những khoản vốn vay này.
1.2.2.3 Theo phương thức huy động
* Huy động vốn qua các khoản tiền gửi
Đây là nghiệp vụ truyền thống của bất cứ NHTM nào. Tiền gửi là khoản
tiền chủ yếu trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, là nguồn vốn quan trọng để
ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, là nền tảng cho sự thịnh vượng
và phát triển của ngân hàng. Ngân hàng cung cấp rất nhiều loại hình tiền gửi
khác nhau và mỗi công cụ huy động tiền gửi ngân hàng đưa ra đều có đặc
điểm riêng. Để gia tăng lượng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có
được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra nhiều
hình thức huy động vốn phong phú:
- Tiền gửi không kỳ hạn ( tiền gửi thanh toán hoặc tiền gửi phát séc): Là loại
tiền gửi mà người gửi tiền vào NHTM với mục đích chủ yếu là để thanh toán.
Chủ tài khoản có quyền phát hành séc hoặc chứng từ khác để chi trả cho bên
thứ ba hoặc rút tiền ra bất cứ lúc nào để đáp ứng nhu cầu sử dụng vào bất cứ
lúc nào dù ngân hàng đang gặp khó khăn về vốn hay thị trường đang không
ổn định gây bất lợi cho ngân hàng.
Qua nghiệp vụ này cả khách hàng và ngân hàng sẽ đều có lợi. Đối với
khách hàng nhờ gửi tiền vào ngân hàng mà được hưởng lãi suất thấp thậm chí
là lãi suất bằng không, nhưng họ lại được hưởng những dịch vụ miễn phí và
những sản phẩm tiện ích đi kèm như thanh toán bằng chuyển khoản hay nói
cách khác đó được xem là khoản lãi mà ngân hàng trả cho họ một cách gián
tiếp. Tài khoản tiền gửi của khách hàng chiếm phần lớn khách hàng là các tổ
chức doanh nghiệp với mục đích chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản
của họ. Vốn huy động từ tiền gửi này được huy động trên cơ sở lòng tin và uy
tín của khách hàng đối với ngân hàng. Còn đối với ngân hàng thì tiền gửi
thanh toán như một khoản nợ mà ngân hàng sẽ phải trả cho khách hàng gửi
tiền vào bất cứ lúc nào họ yêu cầu. Chi phí trả cho nguồn tiền gửi này tương
đối rẻ, ngân hàng có thể sử dụng nguồn tiền gửi này để cho vay, tuy nhiên
việc cho vay phải có mức độ, phải có dự trữ nhằm đáp ứng kịp thời, đầy đủ
các yêu cầu của khách hàng và chấp hành quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Ngày nay, các ngân hàng đang có sự cạnh tranh gay gắt trong các dịch vụ đặc
biệt trong việc huy động tiền gửi thanh toán.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi mà khi gửi tiền vào ngân hàng có
sự thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng về lãi suất tiền gửi và thời hạn
rút tiền. Thông thường ngân hàng quy định khách hàng không được rút tiền
trước thời hạn. Tuy nhiên do áp lực cạnh tranh hiện nay các ngân hàng vẫn
phải chấp nhận cho khách hàng rút tiền trước thời hạn nhưng người gửi chỉ
được hưởng lãi suất thấp hơn mức lãi suất đã thỏa thuận ban đầu thông
thường là được hưởng mức lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn và chịu một
mức phạt nhất định tùy thuộc vào chính sách huy động vốn của ngân hàng và
loại tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn mang tính ổn định và ngân hàng có thể
sử dụng nguồn vốn này một cách chủ động làm nguồn vốn kinh doanh. Do
đó, để khuyến khích khách hàng gửi tiền, các ngân hàng thường đưa ra nhiều
loại kỳ hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Với
mỗi kỳ hạn ngân hàng áp dụng một mức tương ứng theo nguyên tắc: kỳ hạn
càng dài thì mức lãi suất càng cao và với nhiều điều khoản hấp dẫn khách
hàng để tạo sự khác biệt.
- Tiền gửi tiết kiệm: Đây là loại tiền gửi của các tầng lớp dân cư trong xã hội
với mục đích tích lũy và hưởng lãi. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết
kiệm, các ngân hàng đều có gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ
vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động đa dạng và
lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.
Tiền gửi tiết kiệm được chia thành :
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền tiết kiệm mà khách hàng
có thể rút ra bất cứ lúc nào khi có nhu cầu sử dụng; khách hàng gửi tiền vào
ngân hàng với mục đích nhờ ngân hàng giữ hộ tiền là chủ yếu. Với tiền gửi
tiết kiệm không kỳ hạn ngân hàng chỉ trả cho người gửi tiền lãi suất bằng với
lãi suất tiền gửi thanh toán. Nguồn vốn này mang lại cho ngân hàng nguồn lợi
thấp hơn vì lãi suất thấp, tuy vậy nguồn vốn này không ổn định mà thường
xuyên biến động đòi hỏi ngân hàng phải có chiến lược trong việc huy động và
sử dụng nguồn này.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là nguồn vốn mang tính ổn định cao nên
ngân hàng rất chú trọng huy động nguồn vốn này. Nguồn vốn huy động này
có chi phí cao hơn so với các nguồn vốn không kỳ hạn nhưng tính thanh
khoản kém hơn sẽ giúp ngân hàng có thể sử dụng chúng vào hoạt động kinh
doanh của mình.
Ngoài ra, còn có một số hình thức tiết kiệm khác, về cơ bản là tiết kiệm có
kỳ hạn nhưng cách thức gửi và rút tiền được thay đổi phù hợp với xu hướng
chi tiêu của khách hàng. Tiết kiệm tích lũy là một ví dụ: khách hàng sẽ căn cứ
theo kế hoạch tài chính của mình để gửi những khoản tiền cố định trong một
khoảng thời gian nhất định nhằm tích lũy tiền theo mục đích cần thiết. Đây là
hình thức huy động vốn theo hướng hỗ trợ những kế hoạch ổn định lâu dài
của khách hàng, là dịch vụ được khá nhiều ngân hàng cung cấp trong giai
đoạn hiện nay làm đa dạng hơn các hình thức huy động vốn của ngân hàng.
* Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá
Huy động vốn thông qua việc phát hành giấy tờ có giá là việc các NHTM
phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng để huy động
vốn. Trong hình thức này, ngân hàng chủ động phát hành chứng từ có giá theo
đợt để bổ sung nguồn vốn kinh doanh, mà chủ yếu là nguồn vốn trung và dài
hạn. Hình thức huy động vốn này được thực hiện dưới mục đích sử dụng vốn
cụ thể, số lượng và thời gian phát hành nhất định khi cần thiết
Đặc điểm của khoản nợ này có tính ổn định cao, quyền đòi tiền xếp sau
các lọai tiền gửi khác. Rất nhiều NHTM thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn
dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy việc
phát hành các giấy tờ có giá với thời hạn dài sẽ đóng vai trò quan trọng trong
việc tạo và gia tăng các nguồn trung và dài hạn cho ngân hàng. Ngân hàng có
thể sử dụng nguồn vốn này để cho vay các dự án, tài trợ cho trang thiết bị
công nghệ và bất động sản cho sản xuất của các doanh nghiệp và nhu cầu của
người tiêu dùng. Huy động vốn bằng cách phát hành giấy tờ có giá thường có
lãi suất cao hơn các loại tiền gửi có cùng kỳ hạn.
* Huy động vốn từ các khoản tiền vay
Trong khi tài khoản tiền gửi chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn
thì cũng có những nguồn vốn tương đối quan trọng bắt nguồn từ các khoản
vay. Các khoản vay ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của
các NHTM. Các ngân hàng có thể đi vay từ nhiều nguồn khác nhau:
- Vay từ Ngân hàng Nhà nước: Các NHTM vay NHNN trong trường hợp
thiếu hụt dự trữ, để đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản và giải quyết vấn đề
cấp bách xảy ra chứ không phải đi vay để cho vay. Ngân hàng Nhà nước được
coi là cứu cánh hay người cho vay cuối cùng của NHTM.
Các hình thức vay thường gặp là thông qua chiết khấu hoặc tái chiết khấu
các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Việc cho vay của NHNN phụ thuộc rất
nhiều vào chính sách tiền tệ mà nó theo đuổi trong từng thời kỳ. Nếu trong
thời kỳ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt việc cho vay của NHNN thường
rất hạn chế, còn trong thời kỳ thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng thì ngược
lại. Tuy nhiên, các ngân hàng thường chỉ vay NHNN khi không còn giải pháp
nào nhằm tránh việc sử dụng tối đa hạn mức tái chiết khấu, mà qua đó có thể
gây sự chú ý của NHNN. Vì vậy, nguồn vốn này thường có thời hạn ngắn và
thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của NHTM.
- Vay từ các tổ chức tín dụng khác: Các NHTM có thể vay mượn lẫn nhau và
vay các TCTD khác trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn vay mượn từ các
NHTM, TCTD khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách để đảm
bảo thanh khoản cho ngân hàng. Trong quá trình vay, ngân hàng đi vay liên
hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý. Khoản
vay có thể đảm bảo bằng chứng khoán hoặc không cần đảm bảo tùy thuộc vào
sự thỏa thuận của hai ngân hàng.
- Vay trên thị trường vốn: NHTM vay thông qua hình thức phát hành các giấy
nợ ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu ) trên thị trường vốn. Đây là hình thức huy
động vốn trung và dài hạn cho ngân hàng. Thông thường đây là những khoản
vay không có đảm bảo, nên những ngân hàng lớn có uy tín hoặc trả lãi suất
cao hơn sẽ được vay nhiều hơn. Do tính phức tạp của loại hình cho vay này
nên các ngân hàng cần phân tích các yếu tố như quy mô, mệnh giá, lãi suất và
thời hạn vay…
* Huy động vốn khác:
Là những nguồn vốn ngân hàng huy động được khi thực hiện chức năng
làm trung gian thanh toán hoặc làm đại lý, tài trợ và ủy thác đầu tư.
- Vốn trong thanh toán: Là vốn hình thành qua các hình thức thanh toán
không dùng tiền mặt, tiền ký quỹ mở L/C, vốn tại ngân hàng đầu mối đối với
các hợp đồng tài trợ xuất phát từ các ngân hàng thành viên.
- Vốn ủy thác: ủy thác là hoạt động làm hộ và được hưởng hoa hồng, gồm
nhiều loại hình: ủy thác đầu tư, ủy thác cho vay, ủy thác giải ngân, ủy thác thu
hộ…
1.2.2.4 Theo từng loại tiền
- Vốn huy động bằng VNĐ: Ngân hàng huy động vốn bằng VNĐ thông qua
các tất cả các hình thức huy động vốn khác nhau với các mục đích sử dụng
khác nhau. Trong nguồn vốn ngân hàng huy động được thì nguồn vốn huy
động bằng VNĐ chiếm tỷ trọng cao, đáp ứng các nhu cầu về sử dụng vốn của
ngân hàng.
- Vốn huy động bằng ngoại tệ: Ngoài huy động bằng VNĐ, ngân hàng
cũng tiến hành huy động vốn bằng ngoại tệ. Mục đích huy động vốn ngoại tệ
của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế cũng như các hoạt
động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng.
1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM
1.2.3.1 Yếu tố khách quan
Môi trường kinh tế- chính trị xã hội
Các định hướng phát triển kinh tế của từng quốc gia có ảnh hưởng gián
tiếp đến khả năng huy động vốn của ngân hàng. Nếu các đường lối phát triển
đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ mang lại thu nhập dồi dào cho người dân
thì tương ứng với nó số vốn huy động được từ nguồn dân cư cũng sẽ được mở
rộng.
Một thể chế chính trị ổn định dẫn đến sự ổn định của các chủ trương
đường lối kinh tế. Từ đó, các rủi ro quốc gia được hạn chế, người dân có lòng
tin vào các trung gian tài chính, tâm lý ổn định khi gửi tiền vào ngân hàng,
giúp ngân hàng có thể thực hiện tốt các chức năng trung gian dẫn vốn của
mình trong nền kinh tế.
Khách hàng
Khách hàng là đối tượng mà bất cứ NHTM nào cũng hướng tới. Bản thân
khách hàng tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng xoay quanh các dịch vụ mà ngân
hàng cung cấp. Khách hàng của các ngân hàng bao gồm nhiều đối tượng khác
nhau. Các TCTD, doanh nghiệp, TCKT chủ yếu giao dịch tiền gửi, thanh
toán, ký quỹ, tín dụng, đồng tài trợ dự án…Các đối tượng dân cư lại là nguồn
vốn huy động chủ yếu của ngân hàng thông qua tiền gửi tiết kiệm, hiện nay
họ còn là đối tượng tiềm năng trong cho vay bán lẻ. Mỗi khách hàng mang
những đặc điểm riêng có của mình, ngân hàng cần phải có các chính sách,
chiến lược phát triển phù hợp để có được hoạt động kinh doanh tốt nhất của
mình.
Hoạt động huy động vốn chịu ảnh hưởng quan trọng bởi thói quen tâm lý
và thu nhập của khách hàng. Vì vậy, chính sách khách hàng đòi hỏi phải được
xây dựng thận trọng, tỷ mỷ và thực hiện tùy theo chiến lược từng thời kỳ huy
động vốn cho phù hợp với định hướng hoạt động của ngân hàng.
* Môi trường pháp lý
Ngoài các yếu tố chính trị, hoạt động của các ngân hàng còn chịu sự chi
phối của hành lang pháp lý. Do hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng sâu
rộng tới nền kinh tế. Sự sụp đổ của một ngân hàng có thể kéo theo sự sụp đổ
dây chuyền của cả hệ thống ngân hàng gây hậu quả nghiêm trọng cho nền
kinh tế, thậm chí gây khủng hoảng kinh tế. Vì vậy, ngân hàng cần phải được
quản lý chặt chẽ, nghiêm ngặt để tránh hậu quả đáng tiếc cho nền kinh tế.
Khung pháp lý áp dụng đối với ngành ngân hàng cần phải đảm bảo mức độ an
toàn cho các ngân hàng, ngăn ngừa ngân hàng tham gia vào các vụ đầu tư và
hoạt động mạo hiểm có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng. Pháp
luật về ngân hàng thông thoáng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện tốt
các chức năng của mình và kinh doanh có hiệu quả. Một môi trường pháp lý
không rõ ràng minh bạch, nhiều trở ngại cho hoạt động của các ngân hàng sẽ
gây ra khó khăn cho các NHTM trong quá trình hoạt động kinh doanh của
mình. Vì vậy, sự thay đổi trong chính sách của NHNN, của Chính phủ về tài
chính tiền tệ, tín dụng, lãi suất sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng
như chất lượng của nguồn vốn của NHTM.
1.2.3.2 Yếu tố chủ quan
Những yếu tố chủ quan là những yếu tố mà bản thân ngân hàng có thể
điều chỉnh theo từng môi trường để làm sao cho hoạt động huy động vốn đạt
hiệu quả cao nhất. NHTM nào tổ chức tốt được những yếu tố chủ quan kết
hợp với yếu tố khách quan sẽ đạt hiệu quả cao trong hoạt động huy động vốn
của mình.
Chiến lược phát triển kinh doanh của ngân hàng
Mỗi NHTM có một chiến lược kinh doanh tổng thể dài hạn, theo đó xác
định cho mình một thế mạnh riêng biệt, một khối lượng khách hàng trung
thành, từ đó cân đối nguồn vốn tương đối ổn định của ngân hàng. Nguồn vốn
này tương đối quan trọng giúp ngân hàng không mất cân bằng trong hoạt
động kinh doanh của mình. Chiến lược kinh doanh cần được xây dựng dựa
trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện tại của mình trong hệ thống ngân
hàng, thấy được điểm mạnh, điểm yếu cơ hội thách thức đồng thời dự đoán
được sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. Nếu chiến lược
kinh doanh đúng đắn, nguồn lực được khai thác tối đa thì huy động vốn của
ngân hàng sẽ phát huy được hiệu quả cao nhất.
Hiện nay, các NHTM đều có xu hướng hoạt động đa năng nhằm tìm kiếm
lợi nhuận, phân tán rủi ro. Một chiến lược kinh doanh đúng đắn không thể
thiếu hoạt động huy động vốn hiệu quả. Bên cạnh đó, quy mô vốn chủ sở hữu
cũng là yếu tố giới hạn quy mô huy động vốn. Vì vậy, mỗi ngân hàng cần chú
trọng tăng quy mô vốn chủ sở hữu bởi đây cũng là một trong những nhân tố
đảm bảo uy tín ngân hàng, tạo lòng tin cho khách hàng.
Các chính sách huy động vốn
- Chính sách về giá cả, lãi suất tiền gửi, chi phí dịch vụ được gọi chung là
chính sách giá cả các sản phẩm, dịch vụ tài chính.
Chính sách lãi suất thể hiện sự cân đối nguồn vốn của ngân hàng sao cho
chi phí vốn bỏ ra hợp lý mà vẫn mang tính cạnh tranh trong hệ thống ngân
hàng. Đây là một công cụ linh hoạt bởi nó có tính chất điều chỉnh quy mô các
nguồn ngắn, trung và dài hạn. Lãi suất hợp lý phải đảm bảo cho sức mua
tương đối giữa các loại tiền không bị thay đổi. Một thay đổi đúng đắn trong
chính sách lãi suất sẽ làm tăng nguồn vốn huy động. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ
có thể quản lý mức độ và xu hướng biến động của lãi suất một cách tương
đối, phản ứng và điều chỉnh hoạt động của mình theo sự biến động của lãi
suất để đạt mục tiêu hoạt động đề ra
Một chính sách lãi suất mới được tính toán tại một thời điểm nhất định,
xuất phát từ việc cân đối nhu cầu vốn ngắn, trung, dài hạn của đồng nội tệ hay
đồng ngoại tệ, ứng với nó là các kỳ hạn khác nhau. Để duy trì và thu hút thêm
nguồn vốn ngân hàng cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh, thực hiện những ưu
đãi về giá cho những khách hàng lớn gửi tiền thường xuyên. Hơn nữa hệ
thống lãi suất cần linh hoạt phù hợp với quy mô và cơ cấu của nguồn vốn.
Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần phải chú ý nhiều đến lãi suất tiền cho vay
để có thể có các hoạt động kinh doanh hợp lý, đem lại các khoản thu nhập cao
nhất cho ngân hàng để bù đắp được các khoản chi phí đã bỏ ra mà vẫn mang
lại lợi nhuận cho ngân hàng. Đồng thời, đi kèm với các chính sách lãi suất là
các hình thức huy động vốn đa dạng: tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu,
trái phiếu, các giấy tờ có giá khác…
- Các chính sách liên quan đến sản phẩm dich vụ tiền gửi của ngân hàng.
Nhóm chính sách này thể hiện chất lượng các loại sản phẩm dịch vụ cung
ứng: chất lượng tài khoản, kỳ hạn, các dịch vụ liên quan…
- Các chính sách trong phục vụ giao tiếp khách hàng để quảng bá hình ảnh
của ngân hàng. Thái độ phục vụ thân thiện chu đáo, hệ thống thanh toán được
bố trí một cách khoa học là những điều cần thiết để giữ vững khách hàng
truyền thống và có thêm khách hàng mới.
Yếu tố công nghệ thông tin ngân hàng
Khoa học công nghệ đang ngày càng phát triển, đòi hỏi hệ thống công
nghệ thông tin ngân hàng không ngừng được đổi mới nhằm bắt kịp với sự
phát triển của mạng lưới ngân hàng quốc tế. Nó đòi hỏi một phần vốn đầu tư
tương đối lớn của ngân hàng. Một ngân hàng muốn mở rộng mạng lưới đòi
hỏi yếu tố công nghệ thông tin phải bắt nhịp kịp thời, phục vụ thanh toán,
chuyển tiền và các nghiệp vụ phát sinh nhanh chóng thuận tiện.
Trong những năm qua nhờ tiến bộ của công nghệ thông tin ngân hàng đã
có nhiều sản phẩm, dịch vụ mới có liên quan đến hoạt động của ngân hàng
như máy rút tiền tự động ATM, hệ thống thanh toán điện tử, dịch vụ ngân
hàng tại nhà, Mobile Banking, Internet Banking… phục vụ nhu cầu khách
hàng. Như vậy, một ngân hàng được trang bị đầy đủ các trang thiết bị công
nghệ hiện đại, phù hợp với năng lực và khả năng tài chính, quy mô hoạt động
sẽ gúp cho sự thành công của hoạt động ngân hàng.
Chất lượng các sản phẩm, dịch vụ cung ứng
Dịch vụ mà các ngân hàng cung cấp ngày càng đa dạng và linh hoạt với
phương châm vì khách hàng. Chất lượng phục vụ của ngân hàng sẽ giúp
khách hàng lựa chọn nơi có sản phẩm tốt nhất. Vì vây, maketing ngân hàng
được xem như một bộ phận rất quan trọng vì trực tiếp tiếp xúc và tạo lòng tin
cho khách hàng. Chính sách chăm sóc khách hàng ngày càng được đổi mới,
mang tính cạnh tranh trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Các bộ phận chăm
sóc khách hàng sẽ tư vấn cho khách hàng các sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng
cung cấp, lựa chọn sao cho phù hợp với hoạt động, thói quen, tâm lý của
khách hàng.
Mặt khác, trình độ nghiệp vụ vững vàng, phong cách làm việc chuyên
nghiệp, đạo đức nghề nghiệp là nhân tố quyết định rất lớn tới chất lượng các
sản phẩm cung cấp cho khách hàng.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI
CHI NHÁNH LÊ TRỌNG TẤN
2.1 Tổng quan về Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Lê Trọng Tấn
Ngân hàng TMCP Quân đội được thành lập theo quyết định số
00374/GP-UB ngày 30/12/1993 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và
hoạt động theo giấy phép số 0054/NH-GP ngày 14/9/1994 của NHNN Việt
Nam với thời gian hoạt động là 50 năm. Ngày 9/11/1994 Ngân hàng chính
thức được thành lập, với tên giao dịch đầy đủ là Ngân hàng thương mại cổ
phần Quân Đội ( tên viết tắt là Military Bank ). Hiện nay Ngân hàng có trụ sở
chính tọa lạc tại số 3 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.
Ngân hàng TMCP Quân Đội phục vụ các đối tượng khách hàng đa dạng
bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong đó
có doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cá nhân.Với phương châm hoạt
động an toàn, hiệu quả và luôn đặt lợi ích khách hàng gắn liền với lợi ích của
Ngân hàng, những năm qua MB luôn là người đồng hành tin cậy của khách
hàng và uy tín của Ngân hàng ngày càng được củng cố và phát triển.
Giữ vững phương châm hoạt động “VỮNG VÀNG – TIN CẬY”, bên
cạnh việc gắn bó với khối khách hàng truyền thống, MB không ngừng mở
rộng cung cấp các sản phẩm dịch vụ đến mọi đối tượng khách hàng thuộc
nhiều thành phần kinh tế và góp sức vào nhiều công trình lớn của đất nước
như Nhà máy Thuỷ điện Hàm Thuận-Đa mi, cảng Hàng không Nội Bài, Tân
Sơn Nhất…
Qua 13 năm xây dựng và trưởng thành ngân hàng TMCP Quân đội đã có
những bước phát triển vững chắc và trở thành một địa chỉ tin cậy về hoạt
động tài chính cho mọi đối tượng khách hàng trong và ngoài nước. Với mục
tiêu kinh doanh an toàn, tuân thủ, tiệm cận với thông lệ quốc tế về hoạt động
tài chính ngân hàng đã tạo ra cho MB sự ổn định, minh bạch, hiệu quả và liên
tục tăng trưởng. Hiệu quả hoạt động của MB luôn được các cơ quan quản lý,
đối tác cũng như khách hàng đánh giá cao. Liên tục được Ngân hàng Nhà
nước xếp hạng A và trao tặng nhiều bằng khen cho những thành tích xuất sắc;
nhiều năm liền nhận được các giải thưởng thanh toán quốc tế do các ngân
hàng uy tín quốc tế trao tặng như HSBC, Standard Chatered Bank, UBOC;
được người tiêu dùng bình chọn là Thương hiệu mạnh liên tục trong hai năm
liền 2005 và 2006; đạt cúp vàng Top ten thương hiệu Việt, ngành hàng: Ngân
hàng – tài chính năm 2006; …và nhiều giải thưởng có uy tín, giá trị khác.
Các sản phẩm dịch vụ của MB không ngừng được đa dạng hoá theo
hướng hoàn thiện và phát huy dịch vụ truyền thống kết hợp với phát triển các
dịch vụ hiện đại như, hệ thống thanh toán qua thẻ, Mobile Banking, Internet
Banking. Dịch vụ của MB liên tục được cải thiện, mang lại cho khách hàng
không những hiệu quả cao về tài chính mà còn cả sự yên tâm tuyệt đối. Song
song với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, MB đặc biệt chú trọng
mở rộng mạng lưới kênh phân phối tại các khu vực kinh tế trọng điểm của cả
nước.
MB đang phát triển trở thành ngân hàng đa năng với việc thành lập
các công ty chứng khoán Thăng Long, Công ty quản lý nợ và khai thác tài
sản, Công ty Quản lý quỹ đầu tư Hà nội, tham gia góp vốn đầu tư các công ty
trực thuộc đã hoạt động hiệu quả, có lợi nhuận và tạo lập được uy tín trên thị
trường. Công tác quản trị rủi ro được đặt lên hàng đầu nhằm đưa ra các giải
pháp tổng thể để giảm thiểu rủi ro không chỉ cho Ngân hàng mà cho cả khách
hàng. MB luôn đảm bảo tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế và tỷ lệ nợ xấu ở
mức hợp lý.
Kế thừa bản lĩnh và đạo đức của người lính, mỗi nhân viên thuộc đại gia
đình Ngân hàng Quân Đội đang quyết tâm và đồng lòng hướng tới mục tiêu
phát triển ngân hàng trở thành một trong những ngân hàng TMCP hàng đầu
tại Việt Nam, trở thành một đối tác tin cậy, an toàn và trung thực, đem lại lợi
ích tối đa cho khách hàng thông qua việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng tiện
ích và ưu việt, cung cấp các sản phẩm đa dạng, luôn cải tiến phù hợp theo xu
thế thị trường và yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.
2.1.1 Giới thiệu khái quát về Ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh
Lê Trọng Tấn
Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Lê Trọng Tấn là chi nhánh cấp 2
thuộc hệ thống ngân hàng TMCP Quân đội có địa chỉ tại 164 Lê Trọng Tấn,
Thanh Xuân, Hà Nội. Chi nhánh này được thành lập vào 18/6/2003, đã và
đang là ngôi sao đang lên trong ngôi nhà chung MB. Tuy mới chỉ đi vào hoạt
động trong một thời gian ngắn song chi nhánh Lê Trọng Tấn đã được khá
nhiều thành tích đáng kể đóng góp vào thành công chung của toàn bộ hệ
thống ngân hàng TMCP Quân đội. Chi nhánh đã được ban lãnh đạo ngân
hàng trao tặng những danh hiệu cao quý bởi thành tích:
- Tập thể tiềm năng 2003
- Đơn vị xuất sắc toàn diện 2004
- Cờ luân lưu quý 3 năm 2005
- Đơn vị vững mạnh toàn diện 6 tháng 2006
Năm 2008, cùng với sự mở rộng mạng lưới hoạt động của Ngân hàng
TMCP Quân Đội, căn cứ vào đề án tái cơ cấu Điện Biên Phủ, chi nhánh Lê
Trọng Tấn sẽ trở thành chi nhánh online trực thuộc Hội Sở, chi nhánh sẽ mở
thêm 2 điểm giao dịch và tiếp nhận 01 phòng giao dịch đã có sẵn theo sự phân
công của lãnh đạo.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Lê Trọng Tấn
Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Lê Trọng Tấn là chi nhánh cấp 2
gồm 33 cán bộ công nhân viên, với lòng nhiệt tình say mê với công việc, một
đội ngũ năng động sáng tạo, phát huy được bản lĩnh và đạo đức của người
lính đã góp phần không nhỏ vào sự thành công của chi nhánh nói riêng và hệ
thống Ngân hàng TMCP Quân đội nói chung. Mô hình tổ chức của chi nhánh
được sắp xếp theo mô hình quản lý tập trung. Do là chi nhánh cấp 2 nên chi
nhánh Lê Trọng Tấn được chia thành 2 phòng ban riêng biệt và chuyên sâu là
phòng tín dụng và phòng kế toán, trong mỗi phòng ban lại được tách làm 2
mảng riêng như của toàn hệ thống Ngân hàng TMCP Quân đội đang thực hiện
là mảng khách hàng cá nhân và mảng khách hàng doanh nghiệp. Cơ cấu này
tạo điều kiện cho việc quan hệ với khách hàng ngày càng gắn bó hơn, nâng
cao uy tín của chi nhánh trong lòng tin của mỗi khách hàng khi đến làm việc
và giao dịch.
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức chi nhánh Lê Trọng Tấn
.
Giám Đốc
Phòng Tín Dụng Phòng Kế toán
Tín dụng Thẻ
Bộ phận
TD DN
Bộ phận
TD cá nhân
Bộ phận hỗ
trợ TD
Kế toán
giao dịch
Chăm sóc
khách hàng
Kế toán
nội bộ
2.2 Tình hình chung về kết quả hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng
TMCP Quân đội chi nhánh Lê Trọng Tấn thời gian qua
2.2.1 Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Lê Trọng Tấn luôn tự hào là một
trong những chi nhánh huy động vốn giỏi nhất, phát huy tốt thế mạnh nội bộ,
gặt hái nhiều thành công. Có được kết quả này là nhờ chi nhánh có một đội
ngũ nhân viên năng động, nhiệt tình, kỷ luật, chuyên nghiệp, kiến thức nghiệp
vụ giỏi, ham học hỏi, chăm sóc khách hàng tốt và đặc biệt đó là những cán bộ
nhân viên có tinh thần đoàn kết cao.
Biểu đồ 2.1: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỖN CỦA MB LÊ TRỌNG TẤN
QUA CÁC NĂM
Đơn vị: Tỷ đồng
TỔNG VỐN HUY ĐỘNG CỦA MB LÊ TRỌNG TẤN
312.45
497.63
714.97
1025.98
0
200
400
600
800
1000
1200
2004 2005 2006 2007 Năm
Tổng vốn huy động
Nguồn: Báo cáo hoạt động của chi nhánh Lê Trọng Tấn
Nguồn: Báo cáo hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2005-2007
Có thể nhận thấy hoạt động huy động vốn của MB Lê Trọng Tấn phát
triển với tốc độ khá cao và ổn định. Tốc độ tăng trung bình các năm là 1,5 lần
vào năm 2005; 1,53 lần vào năm 2006 và năm 2007 là 1,42 lần. Kết quả này
đã góp phần không nhỏ vào kết quả chung của toàn hệ thống, phù hợp với sự
phát triển hoạt động huy động vốn của MB. Tổng vốn huy động của MB trong
4 năm gần đây cũng đạt được những con số khá ấn tượng: 4933 tỷ đồng,
7044.324 tỷ đồng, 11241 tỷ đồng, 23010 tỷ đồng.
Kết quả đạt được trên cho thấy uy tín của MB Lê Trọng Tấn ngày càng
tăng cao và khách hàng ngày càng tin tưởng.
2.2.2 Hoạt động tín dụng
Đối với hoạt động tín dụng, chi nhánh tập trung đẩy mạnh hoạt động
cho vay tiêu dùng và cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tính đến ngày
31/12/2007 tổng dư nợ đạt 381.6 tỷ đồng tăng 53 % so với năm đầu năm.
Trong đó dư nợ tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp là 266.92 tỷ đồng
tăng 1,22 lần so với năm 2006; với khách hàng là cá nhân là 113.28 tỷ đồng
và tăng 3,65 lần. Như vậy, dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp vẫn chiếm tỷ
lệ cao, nhưng bên cạnh đó dư nợ tín dụng đối với khách hàng là cá nhân cũng
ngày càng được mở rộng.
Biểu đồ 2.2: CƠ CẤU HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA MB LÊ TRỌNG TẤN
Đơn vị: Tỷ đồng
307.3
400
Nguồn: Báo cáo hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2005-2007
Chất lượng tín dụng luôn được chi nhánh Lê Trọng Tấn xác định là mối
quan tâm hàng đầu trong hoạt động tín dụng của mình. Theo chủ trương tập
trung nâng cao chất lượng tín dụng của toàn MB, chi nhánh đã cơ cấu lai nợ
vay, từng bước xây dựng và hoàn thiện quy chế hoạt động của quản lý tín
dụng, thực hiện nghiêm túc Quyết định 493 trích lập và phân loại nợ của
NHNN. Vì vậy, tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh có xu hướng giảm dần qua các
năm. Nếu như năm 2006 con số này là 15% thì đến 31/12/2007 nợ quá hạn
nhóm 2, 3, 4, 5 của chi nhánh là 18.85 tỷ đồng chiếm 4.96% tổng dư nợ của
chi nhánh. Để có được kết quả này chi nhánh đã tăng cường một cách có hiệu
quả công tác kiểm tra kiểm soát, khách hàng vay tiền của ngân hàng được
giám sát, theo dõi rủi ro có thể xảy ra bằng các hình thức khác nhau như kiểm
tra định kỳ dựa trên cơ sở báo cáo tài chính của doanh nghiệp, thường xuyên
kiểm tra và đánh giá tài sản thế chấp..
Năm 2008 là năm chi nhánh sẽ đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng tín dụng, dư
nợ thời điểm tăng 45% so với năm 2007 và cũng là năm chi nhánh tiếp tục ráo
riết thu hồi các khoản nợ quá hạn, dự kiến thu được 7 tỷ đồng ( thu nhập bất
thường – thu hoàn nhập dự phòng ), đồng thời khống chế nợ quá hạn mới phát
sinh, giảm tỷ lệ nợ quá hạn.
2.2.3 Một số hoạt động khác
* Hoạt động khách hàng
Trong năm 2007, chi nhánh đã chuyển một số khách hàng cho các phòng
giao dịch mới như: phòng giao dịch Định Công…đồng thời mời được thêm
gần 30 doanh nghiệp đến mở tài khoản và giao dịch tại chi nhánh, trong đó có
một số khách hàng lớn như Viện kỹ thuật phòng không không quân, Tổng
Công ty Điện lực dầu khí, Quân Chủng phòng không không quân…
Trong năm 2008, dự kiến Chi nhánh sẽ mời được thêm nhiều khách hàng
lớn thuộc các ngành nghề Năng lượng, Than, Khoáng sản, Viễn thông, Công
nghệ thông tin, Dược phẩm, Y tế, Kinh doanh Ôtô…Đặc biệt, Chi nhánh sẽ
đẩy mạnh dịch vụ trả lương qua tài khoản, đồng thời tiếp tục tăng cường chế
độ chăm sóc đặc biệt với các khách hàng truyền thống, khách hàng VIP.
* Hoạt động mở rộng mạng lưới
Cùng với sự mở rộng mạng lưới hoạt động của Ngân hàng TMCP Quân
Đội, căn cứ vào đề án tái cơ cấu Điện Biên Phủ, chi nhánh Lê Trọng Tấn sẽ
trở thành chi nhánh online trực thuộc Hội Sở, chi nhánh sẽ mở thêm 2 điểm
giao dịch và tiếp nhận 01 phòng giao dịch đã có sẵn theo sự phân công của
lãnh đạo vào năm 2008.
2.2.4 Kết quả hoạt động kinh doanh
Biểu đồ 2.3: LỢI NHUẬN TRƯỚC THUẾ CỦA MB LÊ TRỌNG TẤN
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn : Báo cáo hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2006, 2007
Như vậy, so với con số 610 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế của toàn
Ngân hàng trong năm 2007, lợi nhuận của MB chiếm 2.3% . Đây là một con
số đáng kể với một chi nhánh cấp 2 có tuổi đời còn non trẻ như MB Lê Trọng
Tấn. Điều này được thể hiện rõ trong bảng sau:
Biểu đồ 2.4: LỢI NHUẬN TRƯỚC THUẾ CỦA CHI NHÁNH
LÊ TRỌNG TẤN SO VỚI TOÀN MB
Đơn vị: Tỷ đồng
9.6
11.3
12.2
19
0
4
8
12
16
20
2004 2005 2006 2007
LNTT
Năm 2006
12.2
252.9
Chi nhánh
Lê Trọng Tấn
MB
Nguồn:Báo cáo thường niên của MB
và báo cáo hoạt động của Lê Trọng
Tấn năm 2004-2007
2.3 Thực trạng huy động
vốn tại Ngân hàng TMCP
Quân đội chi nhánh Lê
Trọng Tấn
2.3.1 Quy mô vốn huy động
Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Lê Trọng Tấn tuy mới chỉ đi vào
hoạt động gần 4 năm nhưng luôn được đánh giá là một trong những chi nhánh
có hoạt động huy động vốn mạnh nhất. Tổng vốn huy động qua các năm liên
tục tăng và tăng mạnh.
BẢNG 2.1: QUY MÔ VỐN HUY ĐỘNG QUA CÁC NĂM
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm 2004 2005 2006 2007
Tổng vốn huy động 312.45 497.63 714.97 1025.98
Nguồn:Báo cáo thường niên của MB và báo cáo hoạt động của Lê Trọng Tấn năm 2004-2007
Có thể nhận thấy hoạt động huy động vốn của MB Lê Trọng Tấn phát
triển với tốc độ khá cao và ổn định. Tốc độ tăng trung bình các năm là 1,5 lần
vào năm 2005; 1,53 lần vào năm 2006 và năm 2007 là 1,42 lần. Kết quả này
Năm 2007
19
610
Chi nhánh
Lê Trọng Tấn
MB
đã góp phần không nhỏ vào kết quả chung của toàn hệ thống, phù hợp với sự
phát triển hoạt động huy động vốn của MB.
Nguồn:Báo cáo thường niên của MB và báo cáo hoạt động của Lê Trọng Tấn
năm 2004-2007
Qua biểu đồ trên ta có thể thấy sự đóng góp của MB Lê Trọng Tấn về vốn
huy động là khá cao, chiếm trung bình 5% trong tổng nguồn huy động của
toàn Ngân hàng TMCP Quân đội. Để có được kết quả này là do Chi nhánh đã
áp dụng nhiều biện pháp phù hợp và đồng bộ và không thể không kể đến sự
đóng góp hết mình của đội ngũ cán bộ nhân viên Chi nhánh.
2.3.2 Cơ cấu vốn huy động
2.3.2.1 Cơ cấu vốn huy động theo phương thức huy động
Biểu đồ 2.5: TỔNG VỐN HUY ĐỘNG CỦA LÊ TRỌNGTẤN
SO VỚI TOÀN MB
Đơn vị: Tỷ đồng
312.45 497.63 714.97 1025.98
4933
7046.6
11511
23010
0
5000
10000
15000
20000
25000
2004
2005 2006 2007
Chi nhánh
Lê Trọng Tấn
NH TMCP
Quân Đội
Cơ cấu vốn huy động của ngân hàng theo phương thức hoạt động được tổng
hợp theo bảng sau:
BẢNG 2.2 : CƠ CẤU VỐN HUY ĐỘNG THEO PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG
Đơn vị: Tỷ đồng
S
T
T
Chỉ tiêu
Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Mức tăng 06/05 Mức tăng 07/06
Giá trị Tỷ trọng (%) Giá trị
Tỷ trọng
(%) Giá trị
Tỷ trọng
(%)
Tuyệt
đối %(+/-)
Tuyệt
đối %(+/-)
1 TGTT 149.39 30.02 75.13 10.51 192.77 18.79 -74.26 -49.71 117.64 156.58
2 TG có kỳ hạn 25.38 5.10 74.47 10.42 96.89 9.44 49.09 193.42 22.42 30.11
3 TGTK 322.86 64.88 565.37 79.07 736.32 71.77 242.51 75.11 170.95 30.24
Tổng
vốn huy
động
497.63 100 714.97 100 1025.98 100 217.34 43.68 311.01 43.50
Nguồn: Báo cáo hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2005- 2007
Theo bảng số liệu trên ta có thể thấy:
Thứ nhất, lượng tiền gửi thanh toán năm 2006 giảm đi đáng kể so với năm
2005, giảm tới 50% so với năm 2005. Nhưng đến năm 2007 thì lượng tiền gửi
thanh toán lại tăng tới 156.58% so với năm 2006. Mặc dù vậy, tỷ trọng của
lượng tiền gửi thanh toán vẫn chiếm một tỷ trọng khá khiêm tốn trong tổng
nguồn vốn huy động được.
Tiền gửi thanh toán bao gồm tiền gửi của tổ chức kinh tế và cá nhân, trong
đó, chủ yếu là của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế gửi vào để chi trả cho
việc mua bán hàng hóa dịch vụ. Còn khách hàng cá nhân ít có nhu cầu chi trả
hơn, họ gửi tiền vào ngân hàng chủ yếu để hưởng lãi suất. Tuy nhiên, lượng
tiền này biến động theo từng thời điểm, các doanh nghiệp, cá nhân gửi vào có
thể rút ra hoặc chuyển khoản bất cứ lúc nào tùy thuộc vào nhu cầu cần vốn
kinh doanh, nên nguồn tiền này ngân hàng thường sử dụng để cho vay ngắn
hạn. Đây là mảng thị trường tiềm năng đi kèm với ưu điểm chi phí vốn thấp,
là nguồn ngắn hạn nhưng không quá nhạy cảm với lãi suất mà chỉ phụ thuộc
vào chu kỳ sản xuất kinh doanh của tổ chức, doanh nghiệp. Do tiền gửi thanh
toán vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của Chi nhánh, vì vậy,
Chi nhánh nên tập trung khai thác mảng thị trường đầy tiềm năng này, đặc
biệt là mảng thị trường các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang phát triển nhanh
trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Thứ hai, đối với tiền gửi có kỳ hạn, trong khoảng thời gian 2005-2007
lượng tiền gửi này có xu hướng tăng dần theo các năm. Năm 2006 lượng tiền
gửi này tăng tới 193,42 % so với năm 2005, và năm 2007 tốc độ tăng là
30,31% so với năm 2006. Nhưng tỷ trọng của lượng tiền gửi không kỳ hạn
này lại giảm trên tổng nguồn vốn trong năm 2007 và cũng chỉ chiếm một tỷ
trọng không quá 10% trên tổng nguồn vốn. Đây là điểm mà Chi nhánh cần
chú ý trong chiến lược huy động vốn của mình nhằm chuyển đổi cơ cấu huy
động vốn phù hợp là tăng tỷ trọng nguồn tiền gửi thanh toán, và tiền gửi
không kỳ hạn lên nhằm tạo một cơ cấu huy động vốn hợp lý.
Thứ ba, lượng tiền gửi tiết kiệm của dân cư tăng đáng kể cả về số tuyệt
đối và tương đối. Nếu như số vốn huy động tiết kiệm năm 2005 là 322.86 tỷ
đồng thì trong năm 2006 đạt được 565,37 tỷ đồng, tăng 242,51 tỷ đồng, vượt
75.11% so với năm 2005. Năm 2007, số vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm là
736.32 tỷ đồng. Tỷ trọng của tiền gửi tiết kiệm của chi nhánh bình quân trong
3 năm gần đây luôn chiếm tới 72% trong tổng nguồn vốn huy động. Qua đó,
ta có thể thấy rằng nguồn vốn huy động chủ yếu của Chi nhánh chủ yếu là từ
nguồn tiền gửi tiết kiệm. Lượng tiền gửi tiết kiệm tăng, ổn định giữ tuy trọng
cao trong tổng nguồn là do có sự đa dạng hóa hình thức huy động. Bên cạnh
các sản phẩm truyền thống, ngân hàng còn áp dụng các hình thức mới như tiết
kiệm trả lãi trước, tiết kiệm trả lãi hàng tháng, tiết kiệm tích lũy nhằm đảm
bảo quyền lợi và đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Lượng tiền gửi
tiết kiệm tăng, điều này chứng tỏ uy tín của chi nhánh Lê Trọng Tấn ngày
càng cao đối với khách hàng không chỉ bởi phong phú về loại hình sản phẩm
dịch vụ mà còn cả ở chất lượng phục vụ của đội ngũ nhân viên ngân hàng.
Tỷ trọng các nguồn này được biểu hiện cụ thể hơn qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.6: CƠ CẤU VỐN HUY ĐỘNG THEO PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG
Đơn vị: Tỷ đồng
149.39
25.38
322.86
75.13 74.47
565.37
192.77
96.89
736.32
0
100
200
300
400
500
600
700
800
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Nguồn: Báo cáo hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2005-2007
2.3.2.2 Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn
Chiến lược phát triển của Ngân hàng TMCP Quân đội đã khẳng định tiếp
tục huy động vốn theo hướng thu hút các khoản vốn trung và dài hạn. Trên cơ
sở đó, chi nhánh Lê Trọng Tấn xác định phương hướng cho hoạt động huy
động vốn là tập trung cơ cấu lại vốn huy động, huy động vốn không kỳ hạn
chiếm 25%, huy động vốn có kỳ hạn chiếm 75% để giảm được chi phí huy
động vốn. Vì vậy, đến 31/12/2007, tổng vốn huy động có kỳ hạn đạt 833.21 tỷ
đồng, tăng 30.22% so với năm 2006.
BẢNG 2.3 : CƠ CẤU VỐN HUY ĐỘNG THEO KỲ HẠN
Đơn vị: Tỷ đồng
STT Chỉ tiêu
Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Giá trị
Tỷ
trọng
(%)
Giá trị
Tỷ
trọng
(%)
Giá trị
Tỷ
trọng
(%)
1 Vốn không kỳ hạn 149.42 30.03 75.13 10.51 192.77 18.79
2 Vốn có kỳ hạn dưới 12 tháng 11.01 2.21 47.39 6.63 65.12 6.35
3 Vốn có kỳ hạn trên 12 tháng 337.2 67.76 592.45 82.86 768.09 74.86
4
Tổng
nguồn vốn
huy động
497.63 100 714.97 100 1025.98 100
Nguồn: Báo cáo hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2005-2007
Theo bảng số liệu trên cho thấy:
Thứ nhất, nguồn vốn không kỳ hạn chiếm 30.03% năm 2005, nhưng đến
năm 2006 nguồn vốn này giảm xuống chỉ chiếm 10.51%, và trong năm 2007
chiếm 18.79% trong tổng nguồn vốn. Nguyên nhân là do quy mô của nguồn
vốn ngắn hạn phụ thuộc vào tâm lý khách hàng cũng như chu kỳ sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nên thường xuyên có sự biến động tùy thuộc
vào từng thời kỳ. Đây là nguồn không ổn định, nếu khách hàng rút một khoản
lớn thì dễ gây ra rủi ro thanh toán cho ngân hàng. Vì vậy ngân hàng cần chủ
động trong việc tính tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với nguồn này, để đảm bảo tính
chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình.
Nhưng xét về mặt giá trị thì nguồn vốn không kỳ hạn có xu hướng tăng từ
75.13 tỷ đồng trong năm 2006 lên 192.77 tỷ đồng trong năm 2007. Trong khi
đó, tại chi nhánh, thì tỷ lệ nguồn vốn không kỳ hạn huy đông từ các tổ chức
kinh tế chiếm tỷ lệ lớn. Điều này chứng tỏ lượng khách hàng là doanh nghiệp
mở tài khoản và tiền gửi không kỳ hạn nhằm mục đích thanh toán tăng lên
làm cho vốn huy động của ngân hàng tăng lên. Đây là nguồn vốn có chi phí rẻ
nên ngân hàng cần phải có nhiều biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp,
cá nhân mở tài khoản doanh nghiệp, tài khoản cá nhân tại ngân hàng, khuyến
khích thanh toán không dùng tiền mặt, trả lương qua tài khoản. Điều này phù
hợp với xu hướng phát triển của Chi nhánh là tăng tỷ lệ vốn huy động không
kỳ hạn trong tổng nguồn. Trong năm 2007 chi nhánh đã mời được thêm gần
30 doanh nghiệp đến mở tài khoản và giao dịch tại Chi nhánh, trong đó có
một số khách hàng lớn như Tổng công ty Điện lực Dầu khí, Công ty An Đô…
Thứ hai, lượng vốn có kỳ hạn dưới 12 tháng có xu hướng tăng về số lượng
từ năm 2005 đến 2007 lần lượt là 11.01 tỷ đồng, 47,39 tỷ đồng, 65.12 tỷ
đồng. Nhưng nguồn vốn này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn,
chưa đến 10% của tổng nguồn. Nguồn vốn này chủ yếu là huy động từ tiền
gửi tiết kiệm trong dân cư. Đặc điểm của vốn ngắn hạn là chi phí thấp đưa lại
lợi nhuận cao cho ngân hàng nhưng lại là nguồn có tỷ lệ dự trữ bắt buộc khá
cao, và nó khá nhạy cảm với lãi suất. Vì thế, ngân hàng nên quản lý chặt chẽ
và duy trì tỷ lệ hợp lý đối với nguồn này.
Thứ ba, nguồn vốn có kỳ hạn trên 12 tháng chiếm tỷ trọng chủ yếu trên
60% tổng nguồn, đây là nguồn vốn cơ bản để ngân hàng tiến hành kinh doanh
và sử dụng cho hoạt động tín dụng. Lượng vốn có kỳ hạn trên 12 tháng cũng
có xu hướng tăng đáng kể, năm 2005 là 337.2 tỷ đồng đến năm 2006 là tăng
lên 592.45 tỷ và năm 2007 là 768.09 tỷ đồng. Như vậy, lượng vốn trung và
dài hạn tăng đều qua các năm. Điều này rất thuận lợi vì nó giúp ngân hàng
chủ động hơn trong tín dụng trung và dài hạn, giảm thiểu rủi ro trong thanh
khoản, đặc biệt là tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với nguồn vốn này thấp hơn rất
nhiều so với nguồn vốn ngắn hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Biểu đồ 2.7: CƠ CẤU VỐN HUY ĐỘNG THEO KỲ HẠN
Đơn vị: Tỷ đồng
337.2
592.45
192.77
768.09
200
400
600
800
1000
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Nguồn: Báo cáo hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2005-2007
Nhìn vào biểu đồ trên ta có thể thấy nguồn vốn trung và dài hạn chiếm tỷ
trọng cao trong tổng nguồn huy động của chi nhánh. Điều này nói lên rằng
Chi nhánh đã duy trì được cơ cấu huy động vốn một cách hợp lý, tăng tính
tính chủ động trong hoạt động tín dụng, đảm bảo khả năng thanh toán, tạo
điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh tăng lợi nhuận cho Chi nhánh.
Bên cạnh đó, qua biểu đồ ta cũng có thể thấy được nguồn vốn huy động dưới
12 tháng cũng có xu hướng tăng đáng kể, điều này là phù hợp với kế hoạch
phát triển hoạt động huy động vốn của chi nhánh là tăng nguồn vốn huy động
không kỳ hạn lên bằng nhiều biện pháp như mời các doanh nghiệp mở tài
khoản, tăng cường chế độ chăm sóc đặc biệt với khách hàng truyền thống,
khách hàng VIP.
2.3.2.3 Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền
BẢNG 2.4: CƠ CẤU VỐN HUY ĐỘNG THEO LOẠI TIỀN
Đơn vị: Tỷ đồng
STT Loại tiền
Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Giá trị Tỷ trọng (%) Giá trị
Tỷ trọng
(%) Giá trị
Tỷ trọng
(%)
1 VNĐ 427.98 86.08 589.69 82.48 832.26 81.11
2 USD 69.25 13.92 125.68 17.52 193.72 18.89
Tổng 497.63 100 714.97 100 1025.98 100
Nguồn: Báo cáo hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2005-2007
Qua bảng số liệu trên ta thấy:
Trong tổng nguồn vốn mà Chi nhánh huy động được thì đồng nội tệ vẫn
chiếm ưu thế hơn cả, quy mô vốn huy động bằng nội tệ không ngừng tăng qua
các năm từ 427.98 tỷ đồng năm 2005 tăng lên 832.26 tỷ đồng vào năm 2007.
Tỷ trọng của đồng VNĐ so với tổng nguồn bình quân trên 80%. Cụ thể là
năm 2005 chiếm 86.08% và đến năm 2006 là 82.48% và năm 2007 có giảm
xuống một ít chiếm 81.11%.
Biểu đồ 2.8 : CƠ CẤU VỐN HUY ĐỘNG THEO TỪNG LOẠI TIỀN
Đơn vị: Tỷ đồng
427.98
69.25
589.69
125.68
832.26
193.72
0
200
400
600
800
1000
VND USD
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
427.98
69.25
589.69
125.68
832.26
193.72 200
400
600
800
1000
5
Năm 2006
Năm 2007
Nguồn: Báo cáo hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2005-2007
Ngân hàng TMCP Quân đội chi nhánh Lê Trọng Tấn đã thu hút được
lượng nội tệ khá lớn chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm của cá nhân và tiền gửi
thanh toán của các doanh nghiệp đặc biệt các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực quân đội như Viện kỹ thuật phòng không không quân, Quân chủng
phòng không không quân.
Bên cạnh huy động bằng đồng nội tệ Chi nhánh cũng rất quan tâm tới việc
huy động bằng đồng ngoại tệ. Hiện nay, ở chi nhánh mới chỉ dừng lại huy
động đối với đồng USD và giá trị của đồng ngoại tệ tăng lên theo các năm.
Mặc dù, trong thời gian qua tình hình lãi suất trên thị trường luôn biến động
đặc biệt là lãi suất đồng USD giảm mạnh trong một số tháng cuối năm 2007
khi cục dự trữ liên bang Mỹ FED liên tục cắt giảm lãi suất, nhưng ngân hàng
vẫn thu hút được lượng ngoại tệ khá lớn. Trong năm 2007 đã thu hút được
193.72 tỷ đồng tăng 54% so với lượng vốn huy động bằng USD so với năm
2006. Điều này chứng tỏ Ngân hàng TMCP Quân đội nói chung và chi nhánh
Lê Trọng Tấn nói riêng, đã chủ động thực hiện các biện pháp chính sách lãi
suất linh hoạt phù hợp và cạnh tranh giúp cho lượng ngoại tệ huy động được
ngày càng tăng lên phục vụ cho nhu cầu kinh doanh cũng như đáp ứng Ngân
hàng thương mại cầu vay ngoại tệ của khách hàng.
Tuy nhiên tỷ trọng của đồng ngoại tệ so với tổng nguồn vốn còn rất nhỏ,
chỉ chiếm chưa đến 20% so với tổng nguồn. Như thế lượng ngoại tệ huy động
có thể sẽ không đáp ứng được nhu cầu đầu tư, thanh toán quốc tế…và đồng
ngoại tệ chỉ mới dừng lại huy động ở đồng USD, chưa mở rộng huy động đối
với các đồng tiền ngoại tệ mạnh khác như EURO... Điều này là một hạn chế
cần khắc phục, tạo sự đa dạng trong huy động vốn về loại tiền của chi nhánh,
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Chi nhánh nên tích cực tăng cường
huy động vốn ngoại tệ đồng thời đa dạng danh mục các đồng ngoại tệ mạnh
trên thị trường, không nên chỉ huy động đồng ngoại tệ là USD nhằm giảm
thiểu rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái cho ngân hàng trong trường hợp có sự biến
động mạnh về đồng USD có thể dẫn tới tổn thất cho ngân hàng.
2.3.2.4 Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng khách hàng
Ngân hàng TMCP Quân đội chia lĩnh vực hoạt động của mình theo 2 mảng
khách hàng chính là khách hàng là cá nhân và khách hàng là doanh nghiệp.
Trong hoạt động huy động vốn cũng vậy, đối tượng khách hàng được chia
thành 2 đối tượng là dân cư ( khách hàng là cá nhân), và tổ chức kinh tế
(khách hàng là doanh nghiệp).
BẢNG 2.5: CƠ CẤU VỐN HUY ĐỘNG THEO ĐỐI TƯỢNG KHÁCH HÀNG
Đơn vị: Tỷ đồng
S
T
T
Chỉ tiêu
Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Giá trị
Tỷ
trọng
(%)
Giá trị
Tỷ
trọng
(%)
Giá trị
Tỷ
trọng
(%)
1 Dân cư 149.13 29.97 140.33 19.63 284.15 27.69
2 TCKT 348.5 70.03 574.64 80.37 741.83 72.31
Tổng
vốn huy động 497.63 100 714.97 100 1025.98 100
Nguồn: Báo cáo hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2005-2007
Qua bảng số liệu cho thấy số lượng tiền gửi của tổ chức kinh tế tăng lên
một cách nhanh chóng từ 348.5 tỷ đồng năm 2005 đến năm 2007 đã tăng lên
741.83 tỷ đồng. Đồng thời lượng tiền này cũng chiếm tỷ trọng cao trong tổng
nguồn huy động của chi nhánh, chiếm hơn 70% trong mấy năm gần đây. Đặc
điểm của nguồn huy động từ các tổ chức kinh tế là chủ yếu gửi vào ngân hàng
để thanh toán thuận lợi, và tiền gửi của các tổ chức này nằm dưới dạng tiền
gửi thanh toán. Mặt khác nguồn này có tính biến động cao tùy thuộc vào nhu
cầu và chu kỳ sản xuất kinh doanh trong năm của các đơn vị. Chi phí của
khoản tiền huy động này thấp nhưng đòi hỏi chất lượng phục vụ ngày càng
cao. Nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế của chi nhánh chủ yếu là từ
các khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài với khách hàng. Trong thời
gian sắp tới, chi nhánh có kế hoạch mở rộng quan hệ với đối tượng khách
hàng này, đồng thời có chính sách chăm sóc khách hàng chiến lược để duy trì
mối quan hệ lâu dài của ngân hàng với khách hàng.
Bên cạnh đó, số lượng tiền gửi của dân cư cũng tăng lên trong năm 2006
là 140.33 tỷ đồng và tăng lên 284.15 tỷ đồng năm 2007. Điều này cho thấy
các chính sách huy động tiết kiệm kèm theo việc điều chỉnh lãi suất kịp thời,
mang tính cạnh tranh trong ngành đã tạo niềm tin cho người dân gửi tiền. Tuy
nhiên nguồn vốn huy động từ dân cư vẫn chiếm tỷ trọng khá nhỏ so với tổng
nguồn. Ngân hàng cần thực hiện nhiều biện pháp để nâng tỷ trọng của nguồn
này lên, nâng cao uy tín của ngân hàng trong tầng lớp dân cư, tạo niềm tin cho
người dân. Có thể thấy rõ hơn tỷ trọng huy động vốn theo đối tượng khách
hàng qua biểu đồ sau
Biểu đồ 2.9 : CƠ CẤU VỐN HUY ĐỘNG THEO ĐỐI TƯỢNG KHÁCH HÀNG
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Báo cáo hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2005-2007
2.3.3 Hiệu quả sử dụng vốn
Huy động vốn chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi lượng vốn đó được sử
dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở cân đối nguồn theo kỳ
hạn. Để phân tích sâu hơn về tình hình huy động vốn, sử dụng vốn ngắn,
trung và dài hạn, ta sẽ xem xét biểu số liệu sau:
BẢNG 2.6 : HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN NGẮN HẠN
Đơn vị: Tỷ đồng
STT Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007
348.5
140.33
70.03
284.15
80.37
149.13
0
100
200
300
400
Dân cư TCKT
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
1 Huy động vốn ngắn hạn 122.52 257.89
2 Dư nợ ngắn hạn 177.39 229.62
3 Hiệu quả sử dụng vốn =(1)/(2) 0.69 1.12
4 Chênh lệch (1)-(2) -54.87 28.27
Nguồn: Báo cáo hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2006-2007
Lượng vốn sau khi huy động được trên thị trường, ngân hàng sẽ sử dụng
để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình như: cho vay, đầu tư chứng
khoán. Hiện nay ở chi nhánh lượng vốn huy động được sử dụng cho hoạt
động tín dụng là chủ yếu.
Năm 2006, lượng vốn huy động ngắn hạn của chi nhánh đã không những
được sử dụng hết cho tín dụng ngắn hạn mà tín dụng ngắn hạn còn được phát
triển rộng hơn nữa chi nhánh đã phải sử dụng lượng vốn trung và dài hạn để
phục vụ cho tín dụng ngắn hạn. Năm 2007, lượng vốn huy động ngắn hạn
chiếm 30.24% tổng vốn huy động của chi nhánh, và lượng vốn này được sử
dụng có hiệu quả cao cho hoạt động tín dụng ngắn hạn, được sử dụng hầu hết
cho tín dụng ngắn hạn. Kết quả này cho thấy, Chi nhánh đã đạt được hiệu quả
cao trong họat động sử dụng vốn của mình cho hoạt động kinh doanh của chi
nhánh, đặc biệt là nguồn vốn ngắn hạn trên cơ sở đưa ra các sản phẩm tín
dụng thương mại, tín dụng tiêu dùng với những mức lãi suất hấp dẫn thu hút
khách hàng.
Biểu đồ 2.10: LƯỢNG VỐN HUY ĐỘNG NGẮN HẠN SỬ DỤNG
Đơn vị: Tỷ đồng
257.89
177.39
229.62
200
300
Nguồn: Báo cáo hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2005-2007
Qua biểu đồ ta thấy dư nợ ngắn hạn của chi nhánh năm 2007 tăng 29% so
với năm 2006, chứng tỏ chi nhánh rất quan tâm cho việc sử dụng vốn tập
trung vào các sản phẩm phục vụ bán lẻ như cho vay thương mại, cho vay tiêu
dùng…đặc biệt là cho vay đối với khách hàng cá nhân, doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Song hoạt động tín dụng tăng trưởng nhanh là một tín hiệu tốt vì nó đem
lại nguồn thu nhập lớn cho ngân hàng, nhưng đây cũng là hoạt động chứa
nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, cùng với việc phát triển số lượng tín dụng chi nhánh
cũng nên quan tâm nhiều hơn đến chất lượng tín dụng, nhằm hạn chế tối đa
rủi ro ngân hàng. Ngoài ra, qua biểu đồ ta thấy, số lượng vốn huy động ngắn
hạn được ngân hàng sử dụng cho ngắn hạn luôn đạt hiệu quả cao, năm 2006
được sử dụng tối đa, năm 2007 sử dụng gần 90% cho hoạt động tín dụng ngắn
hạn. Kết quả này cho thấy chi nhánh đã có những nỗ lực trong việc sử dụng
nguồn vốn của mình, đặc biệt là nguồn ngắn hạn.
BẢNG 2.7: HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN
Đơn vị: Tỷ đồng
STT Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007
1 Huy động vốn dài hạn 592.45 768.09
2 Dư nợ dài hạn 48.82 62.15
3 Hiệu quả sử dụng vốn =(1)/(2) 12.14 12.36
4 Chênh lệch (1)-(2) 543.63 705.94
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2006-2007
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, lượng vốn huy động tăng nhanh, chiếm
tỷ lệ cao trong tổng vốn huy động của Chi nhánh, trên 60% tổng số vốn huy
động được trong đó chủ yếu là nguồn tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn Có
được kết quả này, chứng tỏ uy tín của ngân hàng đối với khách hàng ngày
càng tăng, ngân hàng đã có những chính sách lãi suất linh hoạt thu hút được
lượng vốn trung và dài hạn lớn. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn trung và dài
hạn của Chi nhánh còn rất thấp, chỉ sử dụng chưa đến 10% lượng vốn huy
động được. Đây là một hạn chế lớn đối với Chi nhánh vì đây là một lượng
vốn có tính ổn định cao, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp, có thể sử dụng cho hoạt
động kinh doanh để đưa lại thu nhập cao cho Chi nhánh. Trong thời gian tới,
Chi nhánh cần có biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn trung và dài hạn
này, tránh tình trạng để vốn không sử dụng gây lãng phí nguồn vốn.
2.3.4 Chi phí huy động vốn
Chi phí huy động vốn trong đó cơ bản là lãi suất huy động được Ngân
hàng xem như một chính sách thu hút vốn có hiệu quả nhất. Tiêu chí mà Ngân
hàng TMCP Quân đội đưa ra là điều chỉnh lãi suất trên cơ sở phù hợp với thị
trường và đảm bảo mục tiêu lợi nhuận.
Chi phí huy động vốn trong một số năm gần đây có xu hướng tăng nguyên
nhân là do ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn từ tiền nhàn rỗi của
dân cư, và đặc biệt là từ tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn của các doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, trong các năm gần đây, Ngân hàng TMCP Quân đội đã
tiến hành tăng lãi suất huy động do cuộc đua tăng lãi suất của các ngân hàng
Việt Nam, để đảm bảo khả năng cạnh tranh thu hút khách hàng, cũng làm cho
chi phí huy động vốn tăng lên.
BẢNG 2.8: CHI PHÍ HUY ĐỘNG VỐN THỰC TẾ
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của MB Lê Trọng Tấn năm 2006-2007
Qua bảng trên cho ta thấy ngoài chi phí trả lãi Chi nhánh còn phải bỏ ra
thêm một phần chi phí ngoài trả lãi là những chi phí như: chi lương, chi quản
lý chung, chi phí bảo hiểm tiền gửi, dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán…
Khoản chi phí này lớn hơn so với chi phí trả lãi, điều này làm cho chi phí trả
lãi thực tế bình quân của Chi nhánh tăng lên. Qua đó, ta có thể thấy rằng trong
chi phí huy động vốn thực tế của chi nhánh thì chi phí huy động ngoài trả lãi
chiếm tỷ lệ cao.
2.4 Đánh giá hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Quân đội chi
nhánh Lê Trọng Tấn
2.4.1 Những kết quả đạt được
Qua gần 4 năm đi vào hoạt động chi nhánh Lê Trọng Tấn đã không ngừng
tăng về quy mô huy động vốn. Đây là điều kiện thuận lợi cho Chi nhánh trong
việc chủ động phục vụ nhu cầu vay vốn của khách hàng đồng thời tỷ trọng
STT Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007
1 Tổng chí phí trả lãi 40.06 59.66
2 Tổng chi phí liên quan hđv 59.87 67.96
3 Tổng vốn huy động 714.97 1025.98
4 Chi phí trả lãi thực tế bình quân 0.14 0.12
nguồn tiền gửi lớn hơn nhiều so với nguồn tiền vay giúp ngân hàng giảm chi
phí tăng lợi nhuận.
Ngân hàng đã ngày càng đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, trên cơ
sở vì lợi ích khách hàng. Ngoài tiền gửi tiết kiệm thông thường Chi nhánh còn
triển khai các hình thức huy động khác như tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm với
hình thức trả lãi trước, trả lãi sau hay trả lãi định kỳ với các kỳ hạn linh hoạt.
Đến ngày 31/12/2007 tổng số vốn mà ngân hàng huy động được là 1025.98 tỷ
đồng vượt 6% kế hoạch đề ra cho năm 2007.
Chi nhánh còn chia nhỏ kỳ hạn gửi tiền thành 1, 2, 3, 6, 9, 12…tháng tạo
điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách
hàng.
Trong nguồn tiền gửi, tiền gửi không kỳ hạn có xu hướng tăng nhanh
trong năm 2007 là nhờ việc thực hiện có hiệu quả chiến lược khách hàng,
nâng cao chất lượng phục vụ nên số lượng khách hàng mở tài khoản tại Chi
nhánh không ngừng tăng lên. Đây là nguồn vốn với chi phí rẻ, có thể đưa lại
lợi nhuận cao trong hoạt động sử dụng vốn của chi nhánh, mặt khác giúp cho
Chi nhánh mở rộng các dịch vụ liên quan đến huy động vốn như phát hành
thẻ…Tiền gửi của tầng lớp dân cư tuy có tăng trong năm 2007 nhưng vẫn
chiếm tỷ trọng khá nhỏ so với tổng nguồn. Ngân hàng cần thực hiện nhiều
biện pháp để nâng tỷ trọng của nguồn này lên, nâng cao uy tín của ngân hàng
trong tầng lớp dân cư, tạo niềm tin cho người dân.
Cơ cấu huy động vốn của chi nhánh chuyến dịch theo xu hướng ngày càng
phù hợp với chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Tỷ trọng nguồn vốn ngắn
hạn ngày càng tăng trong tổng nguồn. Nguồn vốn này có hiệu quả sử dụng
vốn cao, đưa lại lợi nhuận cho ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của
mình.
Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng cao trên 70% tổng
nguồn vốn cho thấy Chi nhánh đã thường xuyên quan tâm tới chính sách
khách hàng, duy trì lượng khách hàng truyền thống với số dư đạt 741.83 tỷ
đồng.
Kết quả huy động vốn đã luôn đạt và vượt chỉ tiêu đề ra, sẵn sàng đáp ứng
nhu cầu trong tín dụng và đầu tư. Năm 2006 vượt kế hoạch 126%, năm 2007
vượt kế hoạch 102.5%. Kết quả huy động này đóng góp vào thành công
chung của toàn hệ thống Ngân hàng TMCP Quân đội. Năm 2007 kết quả huy
động vốn củả chi nhánh là 1025.98 tỷ đồng, chiếm 4.45% tổng vốn huy động
của toàn hệ thống Ngân hàng TMCP Quân đội. Chi nhánh được đánh giá là
một trong những chi nhánh có hoạt động huy động vốn hiệu quả nhất.
Nguyên nhân đạt được :
Để có được kết quả tăng vốn huy động cao, và luôn vượt chỉ tiêu đề ra
như thế, phần lớn là do Chi nhánh Lê Trọng Tấn đã áp dụng nhiều biện pháp
khác nhau một cách đồng bộ và hiệu quả. Bên cạnh đó, không thể không nói
đến sự đóng góp hết mình của đội ngũ cán bộ nhân viên trong hoạt động huy
động cũng như quản lý nguồn vốn huy động được của chi nhánh. Cụ thể như
sau:
Công tác huy động vốn đựợc thực hiện một cách có hiệu quả từ việc theo
dõi sát sao sự biến động lãi suất trên thị trường và cùng với sự chỉ đạo của
NHNN để đưa ra mức lãi suất hợp lý để thu hút khách hàng đồng thời đưa lại
lợi nhuận tối đa cho ngân hàng. Chi nhánh đã điều chính lãi suất linh hoạt
theo diễn biến thị trường, coi lãi suất là công cụ cạnh tranh với các ngân hàng
khác. Song song với việc điều chỉnh lãi suất linh hoạt, Chi nhánh đã ngày
càng đa dạng hóa các hình thức huy đông của mình. Ngoài tiền gửi tiết kiệm
thông thường còn có các sản phẩm mới như tiết kiệm trả trước, tiết kiệm trả
lãi hàng tháng, tiết kiệm tích lũy. Qua mỗi đợt huy động Chi nhánh luôn có
buổi đánh giá tổng kết, rút kinh nghiệm trên cở sở những kết quả đạt được.
Ngân hàng TMCP Quân đội có một lợi thế so với các NHTM khác là luôn
nhận được sự quan tâm, chỉ đạo, giúp đỡ có hiệu quả của Bộ Tài Chính, Bộ
Quốc phòng và các ban ngành hữu quan. Ngân hàng TMCP Quân đội luôn có
nhiều dự án lớn, trọng điểm của Chính phủ, Bộ Quốc phòng đã giúp cho ngân
hàng chủ động hơn trong việc tìm kiếm đầu vào. Nhiều khách hàng lớn đến
mở tài khoản tại Chi nhánh là các đơn vị, doanh nghiệp của Bộ Quốc phòng.
Vì vậy, số lượng các doanh nghiệp đến mở tài khoản tại chi nhánh tăng làm
cho nguồn vốn huy động ngắn hạn của Chi nhánh không ngừng tăng lên qua
các năm.
Chính sách khách hàng được thực hiện một cách thường xuyên và hiệu
quả. Lợi ích khách hàng luôn được đặt lên hàng đầu. Bộ phận chăm sóc khách
hàng làm việc hiệu quả tạo cho khách hàng cảm giác thoải mái khi đến giao
dịch với ngân hàng.
Ngoài ra, đội ngũ cán bộ nhân viên chi nhánh có trình độ chuyên môn cao,
có tinh thần học hỏi, kế thừa và phát huy kinh nghiệm của những đồng nghiệp
đi trước cũng là một trong những yếu tố nâng cao hiệu quả của hoạt động huy
động vốn.
2.4.2 Những mặt hạn chế tồn tại và nguyên nhân
Mặc dù quy mô huy động vốn của chi nhánh tăng nhanh qua các năm
nhưng chủ yếu là tiền gửi của tổ chức kinh tế với lãi suất cao và không ổn
định. Bởi nguồn tiền này thường lớn nhưng lại hay được các tổ chức kinh tế
dùng để thanh toán, dẫn đến quy mô nguồn tiền này thường xuyên có sự biến
động. Điều này sẽ gây khó khăn cho Chi nhánh trong việc hoạch định các kế
hoạch, chính sách đầu tư dài hạn.
Hình thức huy động vốn của chi nhánh chưa được mở rộng. Chưa xây
dựng được nhiều sản phẩm có đặc trưng riêng biệt, mang tính cạnh tranh cao
đối với các ngân hàng khác. Trong khi các dịch vụ truyền thống thị phần bị
cạnh tranh của nhiều ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Hiện tại, Chi nhánh
chưa huy động vốn qua kênh phát hành giấy tờ có giá như: Kỳ phiếu, trái
phiếu. Huy động vốn qua hình thức này tuy lãi suất có cao hơn qua hình thức
huy động bằng tiền gửi nhưng có thể đưa lại sự ổn định cao cho ngân hàng,
đưa lại cho khách hàng nhiều sự lựa chọn khi đến giao dịch với ngân hàng.
Tiền gửi thanh toán là nguồn tiền có chi phí vốn rẻ, nó là nguồn ngắn hạn
nhưng không quá nhạy cảm với lãi suất do chủ yếu là nguồn tiền gửi của tổ
chức kinh tế nên phụ thuộc nhiều vào chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Mặc dù tỷ trọng của nguồn này trong năm 2007 đã có sự tăng nhanh
so với năm 2006 nhưng vẫn chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong tổng nguồn vốn huy
động của chi nhánh.
Tỷ trọng của đồng ngoại tệ so với tổng nguồn vốn còn rất nhỏ, chỉ chiếm
chưa đến 20% so với tổng nguồn. Như thế lượng ngoại tệ huy động có thể sẽ
không đáp ứng được nhu cầu đầu tư, thanh toán quốc tế…và đồng ngoại tệ chỉ
mới dừng lại huy động ở đồng USD, chưa mở rộng huy động đối với các
đồng tiền ngoại tệ mạnh khác như EURO...
Nguồn tiền gửi của dân cư so với tổ chức kinh tế còn hạn chế, tăng trưởng
không ổn định( năm 2005 chiếm 29.97% tổng nguồn huy động, nhưng đến
năm 2006 giảm xuống chỉ chiếm 19.63%, năm 2007 lại tăng lên 27.69% của
tổng nguồn). Điều này chứng tỏ việc thực hiện chính sách khách hàng đối với
đối tượng này còn hạn chế.
Hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn chưa phù hợp. Công tác huy
động vốn của chi nhánh chưa gắn với việc sử dụng vốn. Hoạt động huy động
vốn và sử dụng vốn là 2 nghiệp vụ quan trọng trong kinh doanh ngân hàng, nó
có liên hệ mật thiết với nhau. Việc sử dụng vốn có hiệu quả là cơ sở để chi
nhánh thực hiện việc huy động vốn sau này. Thực tế cho thấy, trong những
năm qua việc sử dụng vốn huy động của chi nhánh chưa đưa lại được kết quả
cao. Lượng vốn huy động ngắn hạn được sử dụng nhiều và có hiệu quả. Trong
khi đó lượng vốn trung và dài hạn của chi nhánh huy động được chưa được
khai thác nhiều, mặc dù đây là nguồn vốn tiềm năng được rất nhiều ngân hàng
sử dụng triệt để do là nguồn ổn định có thể đưa lại lợi nhuận cao cho ngân
hàng.
Nguyên nhân:
Nguyên nhân khách quan
Trong những năm qua thị trường tài chính tiền tệ thế giới nói chung và thị
trường Việt Nam nói riêng có nhiều biến động, đặc biệt là sự biến động của
nền kinh tế Mỹ đã ảnh hưởng đến tình hình lớn kinh tế của cả thế giới. Tỷ giá
hối đoái, giá vàng, giá cả nguyên liệu đầu vào tăng, giá cả tiêu dùng tăng,
những bất ổn về chính trị tạo tâm lý chưa thực sự yên tâm vào hệ thống ngân
hàng của người dân.
Đến năm 2007 trên địa bàn Lê Trọng Tấn đã có trên 10 chi nhánh, Phòng
giao dịch các Ngân hàng : Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển, Ngân hàng kỹ thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng An
Bình, Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông Thôn…Sự gia nhập của các
ngân hàng này đã làm nóng lên cuộc chạy đua về lãi suất, cũng như làm ảnh
hưởng đến thị phần của Chi nhánh trong việc huy động tiết kiệm và phát triển
các sản phẩm khác.
Một số thay đổi về quy định đường một chiều ôtô trên tuyến đường Lê
Trọng Tấn đã gây trở ngại cho việc đi lại của khách hàng; tình hình lạm phát
tăng cao, người dân có xu hướng rút tiền để đầu tư vào các lĩnh vực khác như:
bất động sản, vàng, mua EURO… Tất cả các yếu tố trên đã làm ảnh hưởng
lớn đến tình hình huy động vốm của Chi nhánh. Cụ thể trong tháng 10/2007.
dư tiền gửi tiết kiệm bình quân giảm 100 tỷ.
Nguyên nhân chủ quan:
Mặc dù lãi suất của Ngân hàng TMCP Quân đội cao hơn một số ngân
hàng khác nhưng không phải ở mức cạnh tranh được. Ngoài ra, lãi suất huy
động vốn chưa thật sự đa dạng hóa cho phù hợp với từng đối tượng khách
hàng, vì vậy số lượng khách hàng gửi tiền vào ngân hàng còn hạn chế.
Các hình thức huy động của ngân hàng đa dạng hơn trước nhưng nó vẫn
chỉ là những hình thức truyền thống, giản đơn chưa đáp ứng được hết yêu cầu
ngày càng cao và phức tạp của khách hàng, còn quá ít sản phẩm cho khách
hàng lựa chọn, chưa thực sự đi sâu vào việc quảng bá tiện ích của các sản
phẩm đặc thù của ngân hàng. Các sản phẩm của ngân hàng chưa có sự khác
biệt đối với các ngân hàng khác. Các sản phẩm mới như tiết kiệm tích lũy mới
được triển khai nhưng còn chậm, mới chỉ dừng lại ở thăm dó thử nghiệm.
Việc chưa triển khai hình thức huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có
giá của Chi nhánh là một hạn chế lớn cần có biện pháp khắc phục.
Hoạt động maketing ngân hàng chưa được quan tâm đúng mức. Ngân hàng
chưa đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, tìm hiểu khách hàng.Việc tiếp
cận dân cư còn thụ động, công tác tuyên truyền, quảng cáo, cung cấp thông
tin cho khách hàng không được tổ chức thường xuyên liên tục và nội dung
hoạt động còn nghèo nàn, từ đó sự hiểu biết của người dân với ngân hàng còn
hạn chế.
Phòng giao dịch còn chưa được mở rộng. Vì vậy, nếu số lượng khách
hàng đến giao dịch đông ở chi nhánh có thể sẽ phải chờ đợi trong thời gian
tương đối dài mới được phục vụ.
Hệ thống công nghệ thông tin chưa được đầu tư theo chiều sâu, các trang
thiết bị làm việc còn thiếu, chưa đáp ứng được hoạt động của chi nhánh.
Công tác quản lý sử dụng nguồn vốn sau khi huy động còn hạn chế do chi
nhánh mới chỉ có kế hoạch cho hoạt động huy động vốn của mình để hoàn
thành kế hoạch do Ngân hàng TMCP Quân đội giao. Còn kế hoạch sử dụng
nguồn vốn huy động được do sự quản lý của Hội sở chính. Ngân hàng TMCP
Quân đội cần có chính sách tăng tính chủ động của các chi nhánh trong việc
sử dụng nguồn vốn huy động được để đưa lại hiệu quả cao nhất cho việc sử
dụng vốn huy động.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI
CHI NHÁNH LÊ TRỌNG TẤN
3.1 Định hướng phát triển hoạt động huy động vốn tại chi nhánh Ngân
hàng TMCP Quân đội Lê Trọng Tấn
3.1.1 Định hướng phát triển của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội
Lê Trọng Tấn trong giai đoạn 2008-2015
Trên cơ sở quán triệt chiến lược phát triển của Ngân hàng TMCP Quân
đội trước những yêu cầu của đời sống kinh tế xã hội đất nước, chi nhánh Lê
Trọng Tấn đã xây dựng phương hướng hoạt động trong thời gian tới như sau:
- Tập trung huy động nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn huy động từ dân
cư, các TCKT. Nâng cao chất lượng huy động vốn trung và dài hạn cả nội tệ
và ngoại tệ.
- Duy trì tăng trưởng có chất lượng các mặt hoạt động kinh doanh. Tăng
dư nợ tín dụng và những khách hàng tốt, tình hình tài chính lành mạnh, đáp
ứng đầy đủ nhu cầu về vay vốn, kiểm soát được rủi ro. Tiếp tục tìm mọi giải
pháp nâng cao chất lượng tín dụng, tiếp tục ráo riết thu hồi nợ quá hạn, đồng
thời khống chế nợ quá hạn mới phát sinh, giảm tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu.
- Tăng cường đào tạo nhân viên về kỹ năng giao tiếp, kỹ năng chăm sóc
khách hàng. Cải thiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có chính sách thu
hút đầu vào, chế độ đãi ngộ nhân viên thông qua cải thiện các chế độ lương
thưởng, trợ cấp cho nhân viên giữ chân nhân viên cũ và thu hút nguồn nhân
lực có trình độ cao.
- Hoàn thiện công tác quản lý, tăng cường vai trò lãnh đạo của ban lãnh
đạo Chi nhánh trên cơ sở quyền hạn và nhiệm vụ được giao nhằm đảm bảo
hoạt động kinh doanh của chi nhánh ổn định và an toàn; Tập trung hơn nữa
công tác kiểm tra kiểm soát chặt chẽ các quy trình nghiệp vụ tín dụng, kế
toán, kho quỹ. Đảm bảo các hoạt động này tiếp tục được trôi chảy, thông suốt
và đạt hiệu quả cao, hạn chế tối đa mọi rủi ro.
- Triển khai các loại hình dịch vụ, sản phẩm dịch vụ toàn diện có hiệu quả,
phù hợp với nhu cầu thị trường. Đa dạng hóa các các sản phẩm cho vay để
giảm thiểu rủi ro.
- Hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin giúp cho quá trình giao dịch
của khách hàng với ngân hàng trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn, giảm
thiểu sai sót tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng, tiết kiệm thời gian cho ngân
hàng và khách hàng làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng tăng lên.
- Tập trung triển khai toàn diện có chất lượng công tác quảng cáo, quảng
bá toàn diện kịp thời các hoạt động nghiệp vụ nhằm nâng cao thương hiệu uy
tín vị thế của Ngân hàng TMCP Quân đội nói riêng và chi nhánh Lê Trọng
Tấn nói chung.
3.1.2 Định hướng phát triển hoạt động huy động vốn tại chi nhánh Ngân
hàng TMCP Quân đội Lê Trọng Tấn
Trên cơ sở phát huy những thành tích đã đạt được trong thời gian qua
trong công tác huy động vốn, Chi nhánh Lê Trọng Tấn đã đề ra các định
hướng huy động vốn như sau:
- Tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn, trong đó tập trung cơ cấu lại vốn huy
động, huy động vốn không kỳ hạn chiếm 25%, huy động vốn có kỳ hạn chiếm
75% để giảm được chi phí huy động vốn, bằng cách tích cực mời các doanh
nghiệp, các đơn vị sử dụng dịch vụ trả lương qua tài khoản, qua dịch vụ này
Chi nhánh có thể thu hút được nguồn vốn không kỳ hạn giá rẻ.
- Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng huy động vốn ở mức cao, tập trung
huy động nguồn vốn chú trọng huy động nguồn vốn trung và dài hạn, đồng
thời tuân thủ các quy định của pháp luật về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt
động kinh doanh.
- Chăm sóc khách hàng chiến lược, phân khúc thị trường theo các tiêu
thức khác nhau ( như phân loại theo địa bàn, điều kiện kinh doanh vùng, mức
độ cạnh tranh…) để từ đó xây dựng chiến lược sản phẩm, giá cả, phân
phối…thích hợp cho từng phân khúc thị trường. Tập trung nguồn lực cho
mảng thị trường đã chọn, tiếp tục hoạt động tiếp thị khách hàng trên cơ sở
định hướng đã chọn.
- Bên cạnh việc mở rộng nguồn vốn huy động, chi nhánh không ngừng
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chú trọng công tác cân đối vốn hợp lý, đồng
thời nhấn mạnh sự tăng trưởng, an toàn và hiệu quả, chú trọng tới phát triển
vốn theo xu hướng tích cực tăng vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu
của các thành phần kinh tế.
3.2 Giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng
TMCP Quân đội Lê Trọng Tấn
3.2.1 Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt
Lãi suất huy động là một trong các yếu tố có vai trò quan trọng trong việc
thu hút lượng khách hàng đến gửi tiền ở ngân hàng. Vì người dân khi có tiền
nhàn rỗi gửi vào ngân hàng thường đặt mục tiêu lãi suất lên trên hàng đầu. Lãi
suất được coi là giá cả của sản phẩm dịch vụ tài chính và thường rất khó xác
định vì nó rất phức tạp. Để sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất cho việc huy
động vốn ngân hàng cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Lãi suất phải được xác định phù hợp với thời hạn của nguồn huy động vốn,
đảm bảo lợi ích cho khách hàng. Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn dài phải cao hơn
lãi suất tiền gửi có kỳ hạn ngắn.
- Lãi suất huy động phải được xây dựng trên cơ sở lãi suất đầu ra, bù đắp
được chi phí và có lãi.
- Lãi suất phải được xây dựng theo nguyên tắc thị trường, phản ánh đúng
cung cầu trên thị trường vốn.
Ngân hàng phải sử dụng công cụ lãi suất mềm dẻo linh hoạt phù hợp với
quy mô và cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng. Khi có sự biến động của thị
trường lãi suất phải đảm bảo mang tính cạnh tranh đồng thời đảm bảo được
lợi tức yêu cầu cho ngân hàng.
Ngoài những cách phân chia chính sách lãi suất thông thường theo kỳ hạn
khoản tiền gửi hay hình thức lĩnh lãi và gốc, Ngân hàng nên phân loại khách
hàng theo nhiều nhóm khác nhau (như nhóm khách hàng thường xuyên, nhóm
khách hàng mới đến giao dịch lần đầu, khách hàng VIP…) để áp dụng lãi suất
phù hợp cho từng nhóm. Đối với những khách hàng truyền thống, khách hàng
có lượng tiền lớn nên có mức lãi suất cao hơn hoặc có thể tăng số lượng dịch
vụ đi kèm, để giữ chân khách hàng tăng cường mối quan hệ giữa khách hàng
và ngân hàng. Ngoài ra, đối với đối tượng khách hàng là dân cư, ngân hàng
cần thường xuyên khảo sát thị trường để vận dụng lãi suất linh hoạt, đồng thời
đưa ra các sản phẩm tiền gửi với lãi suất lũy tiến theo số dư tiền gửi.
Mặt khác lãi suất huy động và lãi suất cho vay của ngân hàng có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Trên cơ sở lãi suất huy động để ngân hàng đưa ra
mức lãi suất cho vay hợp lý. Vì vậy, ngoài lãi suất huy động Ngân hàng cũng
cần phải chú ý nhiều đến lãi suất cho vay để có thể có các hoạt động kinh
doanh hợp lý, đem lại các khoản thu nhập cao nhất cho Ngân hàng bù đắp
được các khoản chi phí đã bỏ ra và vẫn mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Trong những năm tới khi dịch vụ ngân hàng phát triển, công tác thanh
toán qua Ngân hàng được hiện đại hóa, ngân hàng sẽ tiến tới không trả lãi đối
với các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn như ở các ngân hàng nước ngoài đã
làm hiện nay.
Ngược lại, với các khoản tiền gửi trung và dài hạn thì mục đích chính của
người gửi tiền là để hưởng lãi hoặc tích lũy cho các mục đích mục đích mua
sắm. Do đó, ngân hàng có thể tăng lãi suất loại tiền gửi này để khuyến khích
người dân.
3.2.2 Hoàn thiện và phát triển các hình thức huy động vốn
Thời gian qua, các NHTM đã tung ra nhiều “chiêu thức” mang tính cạnh
tranh để có thể huy động vốn đạt hiệu quả cao nhất. Bên cạnh mức lãi suất
tiền gửi được thống nhất trong từng thời điểm, hầu hết các NHTM đề cố gắng
nghiên cứu, đa dạng hóa các hình thức huy động vốn như: tiết kiệm, tiết kiệm
quà tặng, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm bốc
thăm trúng thưởng, tiết kiệm trả lãi bậc thang, tiết kiệm trả góp…
Để huy động vốn một cách tối đa ngân hàng phải tạo ra được nhiều loại
sản phẩm huy động vốn đa dạng để cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn, phù
hợp với yêu cầu của khách hàng. Các sản phẩm khác nhau sẽ nhau sẽ đáp ứng
được các yêu cầu khác nhau của khách hàng. Các sản phẩm huy động vốn
hiện nay của chi nhánh là tiết kiệm thông thường, tiết kiệm trả lãi trước, tiết
kiệm trả lãi hàng tháng, tiết kiệm tích lũy. Các sản phẩm này được chia thành
nhiều kỳ hạn khác nhau 1, 3, 6, 9, 12, 24, 36 tháng phù hợp với yêu cầu đa
dạng của khách hàng. Tuy nhiên, so sánh với các NHTM khác thì sản phẩm
của Ngân hàng TMCP Quân đội nói chung và Chi nhánh Lê Trọng Tấn nói
riêng chưa thật sự đa dạng, chưa thỏa mãn được nhu cầu ngày càng khắt khe
của khách hàng. Trong thời gian tới Ngân hàng TMCP Quân đội cần phải
hoàn thiện các sản phẩm đã có đồng thời nghiên cứu triển khai những sản
phẩm mới nhằm giữ chân khách hàng cũ, và thu hút thêm nhiều khách hàng
mới. Để từ đó triển khai các sản phẩm mới cho các chi nhánh của Ngân hàng
để tăng hiệu quả huy động vốn trong toàn ngân hàng. Cụ thể như sau:
Mở rộng các khoản tiền gửi trong dân bao gồm cả tiền gửi tiết kiệm, tiền
gửi thanh toán, tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm bậc thang, tiết kịêm dự thưỏng. Đa
dạng hóa kỳ hạn tiền gửi tiết kiệm: không chỉ dừng lại ở việc chỉ có tiền gửi
không kỳ hạn, và có kỳ hạn 1, 3, 6, 9, 12 tháng Ngân hàng cần có giải pháp tự
động chuyển hóa tiền gửi không kỳ hạn sang tiền gửi có kỳ hạn cho khách
hàng. Chẳng hạn như những người đã gửi tiền tiết kiệm không kỳ hạn ở ngân
hàng từ 2 tháng trở lên có thể chuyển cho họ được hưởng quyền lợi tiền gửi
tiết kiệm có kỳ hạn của 1 tháng. Và những khoản tiền rút trước hạn nên có
những cách tính cho phù hợp. Linh hoạt về thời hạn tiền gửi cũng sẽ là một
yếu tố thu hút khách hàng đến với ngân hàng.
Mặt khác, đối với tiền gửi thanh toán do nhu cầu của khách hàng là để
thanh toán giao dịch nên các tiện ích dịch vụ đi kèm mà ngân hàng cung cấp
cho khách hàng là quan trọng. Vì vậy, ngân hàng cần phải tăng cường tính
tiện ích trong các sản phẩm dịch vụ mình cung cấp. Ngân hàng cần đẩy mạnh
hơn nữa công tác tiếp thị các sản phẩm tiền gửi không kỳ hạn cho các cá
nhân, doanh nghiệp. Tích cực mời các doanh nghiệp, đơn vị có nguồn vốn lớn
mở tài khoản tại ngân hàng mình, sử dụng dịch vụ trả lương qua tài khoản.
Nếu thực hiện tốt công việc này chi nhánh sẽ thu hút được nguồn vốn không
kỳ hạn với giá rẻ, thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch với ngân
hàng.
Mở rộng các hình thức trả lãi : Bên cạnh việc áp dụng các hình thức trả lãi
trước, trả lãi sau, trả lãi hàng tháng, Ngân hàng có thể áp dụng hình thức lãi
suất lũy tiến theo số lượng tiền gửi. Hiện nay, ở chi nhánh đã áp dụng hình
thức này, tuy nhiên mức lũy tiến 500 triệu VNĐ là quá cao so với thu nhập
bình quân của người dân Việt Nam trong giai đoạn này, nên chăng có thể hạ
mức lũy tiến này xuống để có thể phù hợp với thu nhập của người dân, sẽ thu
hút được lượng khách hàng lớn đến với Ngân hàng.
Ngoài các hình thức huy động vốn như hiện nay, Chi nhánh cần triển khai
áp dụng các hình thức huy động khác như tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm hưu
trí, tiết kiệm mua sắm nhà ở…nhằm huy động tối đa nguồn tiền nhàn rỗi trong
dân cư.
Qua phần thực trạng huy động vốn của ngân hàng ở chương II, ta thấy
cho đến nay việc huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá chưa được triển
khai sâu rộng đến chi nhánh. Trong thời gian tới, chi nhánh cần có biện pháp
để phát triển hình thức huy động này để có thể tạo ra nguồn vốn dài hạn cho
ngân hàng.
3.2.3 Phát triển và đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng
Hiện nay, phương thức cạnh tranh hiện đại giữa các ngân hàng là cạnh
tranh bằng loại hình và chất lượng dịch vụ. Các loại hình dịch vụ của ngân
hàng hiện được đổi mới áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực
ngân hàng. Nhờ đó, ngân hàng có thể phục vụ nhu cầu ngày càng đa dạng của
khách hàng, cũng như nắm bắt được các hoạt động của khách hàng rõ hơn.
Hiện tại, ở chi nhánh Lê Trọng Tấn các dịch vụ tiện ích nhằm gia tăng tiện
ích cho người gửi tiền còn hạn chế. Hoạt đông kinh doanh thẻ đã có sự phát
triển nhanh trong năm 2007, số thẻ ATM mới được phát hành thêm với số
lượng lớn vượt kế hoạch, tăng 299,2% so với năm 2006. Tuy nhiên tiện ích
thẻ đưa lại cho khách hàng không nhiều khi sử dụng thẻ, chưa có sự khác biệt
đáng kể nào so với hệ thống thẻ ATM của các ngân hàng khác
Chi nhánh nên đầu tư phát triển máy rút tiền tự động ATM hiện đại, an
toàn cho phép người sử dụng có thể sử dụng được nhiều tiện ích như vấn tin
quan tài khoản, nạp tiền vào tài khoản điện thoại từ tài khoản tiền gửi của
khách hàng…Ngoài ra, tại chi nhánh hiện nay chưa triển khai áp dụng các
loại thẻ khác như thẻ VISA, Master…Trong điều kiện hội nhập khu vực và
thế giới sâu rộng như hiện nay, Ngân hàng TMCP Quân Đội nói chung và chi
nhánh Lê Trọng Tấn nói riêng nên nghiên cứu triển khai các loại hình thẻ này
tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình giao dịch với các các
đối tác trong khu vực và toàn thế giới.
Song song với việc phát triển mạng lưới thẻ, Chi nhánh nên phát triể
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội – Lê Trọng T.pdf