Luận văn Giải pháp quản lý Nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay

Tài liệu Luận văn Giải pháp quản lý Nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN: Giải phỏp quản lý Nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đẩy mạnh XK nói chung và XKTS nói riêng là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Việc đẩy mạnh XK góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo nguồn thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, kích thích đầu tư, phát triển kinh tế, góp phần giải quyết việc làm, đáp ứng yêu cầu mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm qua, cùng với những thành công trong XK nói chung, XKTS đã đạt được những thành tựu đáng kể. TS đã trở thành một trong những mặt hàng XK chủ lực của Việt Nam. Hàng TSXK luôn xếp vào top đầu về KNXK, sản phẩm TSXK không những tăng về số lượng, chủng loại, giá trị XK, mà còn có mặt ở 130 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2006, KNXK TS đạt 3,358 tỷ USD. Con số đó của năm 2007 và 2008 tương ứng là 3,7637 tỷ USD và 4,5101 tỷ USD. Năm 2008, KNXK TS chỉ đứng sau dầu thô (...

pdf113 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp quản lý Nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giải phỏp quản lý Nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đẩy mạnh XK nói chung và XKTS nói riêng là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Việc đẩy mạnh XK góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo nguồn thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, kích thích đầu tư, phát triển kinh tế, góp phần giải quyết việc làm, đáp ứng yêu cầu mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm qua, cùng với những thành công trong XK nói chung, XKTS đã đạt được những thành tựu đáng kể. TS đã trở thành một trong những mặt hàng XK chủ lực của Việt Nam. Hàng TSXK luôn xếp vào top đầu về KNXK, sản phẩm TSXK không những tăng về số lượng, chủng loại, giá trị XK, mà còn có mặt ở 130 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2006, KNXK TS đạt 3,358 tỷ USD. Con số đó của năm 2007 và 2008 tương ứng là 3,7637 tỷ USD và 4,5101 tỷ USD. Năm 2008, KNXK TS chỉ đứng sau dầu thô (10,3568 tỷ USD), dệt may (9,1204 tỷ USD), giày dép (4,7678 tỷ USD) [21] Hà Tĩnh là một tỉnh có tiềm năng sản xuất và XKTS rất lớn. Trong những năm qua, XKTS của Hà Tĩnh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Hà Tĩnh. Tuy nhiên, so với tiềm năng, XKTS của Hà Tĩnh còn ở mức độ khiêm tốn. Mặt khác, XKTS của Hà Tĩnh cũng như của Việt Nam đang đứng trước những thách thức mới. Hàng TSXK của Hà Tĩnh hiện phải cạnh tranh quyết liệt với hàng TS của nhiều địa phương khác và của nhiều nước khác cũng có điều kiện tương đồng như Việt Nam. Chẳng hạn Trung Quốc, một số nước ASEAN. Hơn nữa, hàng TSXK của Hà Tĩnh cũng như của Việt Nam hiện đang đứng trước những rào cản mới. Đó là những quy định khắt khe của Chính phủ các nước NKTS về VSATTP, các điều kiện kỹ thuật,…Trong nhiều trường hợp, việc vượt qua những rào cản này còn khó khăn gấp bội so với hàng rào thuế quan trước đây. Trong khi đó, chất lượng hàng TSXK của Hà Tĩnh chưa cao. Chính sách hỗ trợ XKTS còn hạn chế và bị ràng buộc bởi những quy định của WTO. Hoạt động XKTS và QLNN đối với lĩnh vực này ở Hà Tĩnh còn nhiều hạn chế. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể khai thác tốt hơn lợi thế của mặt hàng XK chủ lực này, đảm bảo cho hàng TSXK có thể trở thành mặt hàng mũi nhọn, có thể đứng vững và có uy tín trên thị trường quốc tế? Điều đó cũng đòi hỏi cần có sự nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện hơn về XKTS và QLNN đối với lĩnh vực này của Hà Tĩnh, nhằm tìm ra giải pháp thúc đẩy hơn nữa XKTS trong giai đoạn tới. Đây cũng là lý do tôi chọn vấn đề: “Giải phỏp quản lý Nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm gần đây, lĩnh vực XK hàng hoá nói chung và XKTS nói riêng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, nhiều đề tài, công trình được công bố: - Bộ Thương Mại: “Các giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2000-2010” đề tài khoa học cấp bộ mã số: 1999- 78-161, năm 2004 - Bộ Thương Mại: “Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010”, năm 2006. - Bộ Thương Mại: “Yếu tố môi trường trong phát triển xuất khẩu nông sản ở nước ta”, đề tài khoa học cấp bộ mã số: 2001-78- 069, năm 2003. - Nguyễn Trọng Liên: “Phương hướng, giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu trong tình hình mới qua thực tế ở Quảng Ninh”, luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2003. - Hoàng Thị Ngọc Loan: “Thị trường tiêu thụ nông sản của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AFTA”, luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005. - Bộ Thương Mại: “Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển xuất khẩu nông sản, TS, hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản", đề tài khoa học cấp bộ, mã số đề tài: 2003-78- 013, năm 2004. - Nguyễn Văn Hùng: “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá”, luận văn thạc sỹ kinh doanh và quản lý, Học viện Chính trị Hành chính - Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008. - Trần Khắc Xin: "Phát triển xuất khẩu thuỷ sản của Thành phố Đà Nẵng thực trạng và giải pháp", luận văn thạc sỹ kinh doanh và quản lý, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006. Mặc dù, các đề tài đã hệ thống hoá được lý luận và thực tiễn về hoạt động XK của một số mặt hàng, một số thị trường xuất khẩu, tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đã chính thức là thành viên của tổ chức Thương Mại thế giới, những thay đổi, các động thái kinh tế của các nước đều ảnh hưởng cả gián tiếp và trực tiếp vào thị trường nước ta, do đó vấn đề bức thiết, cần được tiếp tục nghiên cứu nhằm góp phần thúc đẩy xuất khẩu nói chung và TS nói riêng, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế, phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu. Tính đến thời điểm này, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh chưa có đề tài nghiên cứu nào tập trung vào XKTS và QLNN về XKTS. Chính vì vậy, đây là vấn đề bức thiết cần tập trung nghiên cứu nhằm góp phần phục vụ phát triển KT-XH của tỉnh, phù hợp với xu thế đổi mới nền kinh tế của đất nước. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất một số giải pháp QLNN nhằm đẩy mạnh XKTS của Hà Tĩnh trong thời kỳ tới. Để thực hiện mục đích đó, đề tài có nhiệm vụ: - Hệ thống hoá và góp phần làm rõ hơn một số vấn đề về XKTS, QLNN đối với XKTS của Hà Tĩnh. - Phân tích đánh giá thực trạng XKTS, QLNN đối với XKTS của Hà Tĩnh trong thời gian qua. - Trên cơ sở những phân tích đánh giá đó, cùng với những dự báo về XKTS của Việt Nam cũng như thị trường TS thế giới, đề xuất một số giải pháp QLNN nhằm đẩy mạnh XKTS của Hà Tĩnh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là QLNN đối với XKTS của Hà Tĩnh - Về phạm vi nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên cứu QLNN ở khâu xuất khẩu. Tuy nhiên, để đảm bảo nâng cao chất lượng TSXK, đề tài cũng đề cập tới đến khâu sản xuất, chế biến như là một giải pháp điều kiện. Mặt khác, hàng TSXK được nghiên cứu khảo sát trong đề tài bao gồm tôm, cá, mực... Về thời gian, vấn đề được nghiên cứu trong giai đoạn từ 2001 - 2008, số liệu cập nhật đến 2008. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Dựa trên lý luận về QLNN về kinh tế nói chung, các văn bản, Nghị quyết của Chính phủ, của tỉnh về phát triển ngành thủy sản. - Phương pháp cụ thể: luận văn sử dụng các phương pháp khảo sát, thống kê, phân tích và tổng hợp, phương pháp lôgic-lịch sử... 6. Một số đóng góp của luận văn - Góp phần hệ thống hóa và làm rõ hơn một số vấn đề cơ bản QLNN đối với XKTS của Hà Tĩnh. - Luận văn có thể dùng là tài liệu tham khảo giúp UBND tỉnh Hà Tỹnh đề ra các giải pháp mang tính khả thi trong công tác XKTS của tỉnh thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 9 tiết. Chương 1 Những vấn đề cơ bản về quản lý Nhà nước đối với XUấT KHẩU THUỷ SảN của hà tĩnh 1.1. khái quát chung về QUảN Lý NHà NƯớC đối với XUấT KHẩU THUỷ SảN của hà tĩnh 1.1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước đối với xuất khẩu thuỷ sản Theo nghĩa chung nhất, quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý, nhằm đạt mục tiêu đề ra [ 20, tr.11]. QLNN là hoạt động của bộ máy Nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước. Đó là sự tác động của chủ thể quản lý bằng quyền lực Nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý. Bốn lĩnh vực hoạt động QLNN do bộ máy QLNN thực hiện là: - Hoạt động của hệ thống các cơ quan quyền lực. - Hoạt động của hệ thống các cơ quan xét xử. - Hoạt động của hệ thống các cơ quan kiểm sát. - Hoạt động của hệ thống các cơ quan hành chính. Các cơ quan hành chính Nhà nước tiến hành quản lý hành chính Nhà nước trên lĩnh vực hành pháp, đó là hành chính công quyền. Bộ máy thực hiện quyền lực Nhà nước nhằm duy trì trật tự xã hội và thỏa mãn các lợi ích xã hội với hai chức năng cơ bản là chấp hành và điều hành. Chấp hành: pháp luật, mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên và các nghị quyết của cơ quan quyền lực, các chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình của Nhà nước. Điều hành: thông báo, truyền đạt các biện pháp đối với cấp dưới; chỉ đạo thực hiện các hoạt động hiệu quả. Theo nghĩa rộng, QLNN về kinh tế được thực hiện thông qua cả 3 loại cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước. Theo nghĩa hẹp, QLNN về kinh tế được hiểu như hoạt động quản lý có tính chất Nhà nước, nhằm điều hành nền kinh tế, được thực hiện bởi cơ quan hành pháp. Tuy nhiên, trong luận văn này, khái niệm QLNN về kinh tế được tiếp cận theo nghĩa rộng, tức là QLNN về kinh tế được thực hiện thông qua cả 3 loại cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. QLNN về kinh tế là những tác động của các cơ quan QLNN có chức năng và thẩm quyền nhất định tới các hoạt động KT-XH, bằng các công cụ, chính sách, phương pháp có tính chất Nhà nước nhằm đạt mục tiêu định trước. QLNN đối với XKTS là một trong những nội dung cơ bản của QLNN về kinh tế và QLNN đối với hoạt động XK. Từ những phân tích trên, chúng ta có thể xác định khái niệm về QLNN đối với XKTS như sau: QLNN đối với XKTS là những tác động của cơ quan QLNN có chức năng, thẩm quyền nhất định tới các hoạt động XKTS, bằng các công cụ, chính sách, phương pháp có tính chất Nhà nước, nhằm đạt được các mục tiêu đã định trước. Phân tích khái niệm này, chúng tôi muốn làm rõ bốn điểm. Một là, về chủ thể QLNN đối với XKTS Chủ thể quản lý về XKTS là Nhà nước mà cụ thể là các cơ quan QLNN có chức năng, thẩm quyền ở Trung ương và địa phương quản lý hoạt động XKTS. ở Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ có chức năng QLNN về kinh tế, trong đó có QLNN về XKTS. ở đây, Bộ NN & PTNT và Bộ Công Thương đóng vai trò quan trọng, trực tiếp QLNN đối với XKTS. ở địa phương, cơ quan QLNN đối với XKTS (chủ thể quản lý) được tổ chức ở cấp tỉnh và cấp huyện. ở cấp tỉnh chủ thể QLNN về XKTS bao gồm HĐND tỉnh, UBND tỉnh, các Sở, Ban ngành liên quan đến QLNN đối với XKTS. Trong đó, Sở NN & PTNT, Sở Công Thương có chức năng trực tiếp tham mưu cho UBND tỉnh về lĩnh vực XKTS. ở cấp huyện, chủ thể QLNN về XKTS là các cơ quan tương ứng như cấp tỉnh. Đó là HĐND huyện, UBND huyện, các phòng ban liên quan tới XKTS ở huyện, như phòng NN & PTNT, phòng Công thương, Chi cục thuế huyện. Ngoài ra, chủ thể QLNN đối với XKTS còn là các cơ quan bảo vệ pháp luật gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Thanh tra nhà nước. Các cơ quan này có chức năng kiểm tra, kiểm soát, bảo vệ quyền lực Nhà nước, xét xử các vi phạm pháp luật và tranh chấp trong các hoạt động kinh tế nói chung, XKTS nói riêng. Trong luận văn này, chủ thể QLNN đối với XKTS được xem xét là các cơ quan QLNN cấp tỉnh của Hà Tĩnh (HĐND, UBND tỉnh Hà Tĩnh và các Sở, Ban, Ngành cấp tỉnh như Sở NN & PTNT, Sở Công Thương Hà Tĩnh…). Hai là, đối tượng của QLNN là lĩnh vực XKTS. Lĩnh vực XKTS được xem xét ở đây bao gồm khai thác, NT, chế biến và XKTS. ở cấp Trung ương, quản lý hoạt động này được thực hiện trên phạm vi cả nước. Cấp tỉnh, huyện quản lý lĩnh vực này trên phạm vi lãnh thổ mình quản lý. Tuy nhiên, sự phân cấp này chỉ mang tính tương đối. Bởi vì trên địa bàn tỉnh, huyện có nhiều khi có những cơ quan đơn vị, lĩnh vực cũng tham gia các hoạt động XKTS nhưng không thuộc cơ quan quản lý của địa phương. Chẳng hạn, như Cảng vụ Hà Tĩnh, Cục Hải quan Hà Tĩnh,... Ba là, về mục tiêu quản lý Nhà nuớc về XKTS Mục tiêu quản lý là đích phải đạt tới trong quá trình quản lý, do chủ thể quản lý đề ra. Mục tiêu QLNN đối với XKTS phải được xác định trước, chi phối, dẫn dắt cả hệ thống quản lý trong toàn bộ quá trình hoạt động. Mục tiêu của QLNN đối với XKTS nhằm làm cho hoạt động XKTS có hiệu quả, phù hợp với chiến lược phát triển KT-XH của tỉnh, của đất nước, góp phần vào thực hiện chiến lược CNH hướng vào XK của quốc gia. Các mục tiêu chung của XKTS bao gồm: - Khơi dậy nội lực và ngoại lực thúc đẩy XKTS, nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh của địa phương cho phát triển XKTS. - Thúc đẩy xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu nhập khẩu phục vụ sản xuất đời sống nhân dân trong nước, phục vụ quá trình CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân. - Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng dần tỷ trọng chăn nuôi, tăng tỷ trọng kinh tế TS. - Giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động trong ngành TS. Mục tiêu cụ thể của QLNN đối với XKTS là tổng giá trị và tốc độ tăng KNXK TS, khối lượng TSXK, thị trường XKTS, mặt hàng TSXK; tỷ trọng sản lượng TS chế biến XK, tăng hàm lượng TS chế biến sâu. Các chỉ tiêu này được đưa ra hàng năm, kỳ kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, hoặc trong các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh. Bốn là, về cơ chế quản lý đối với lĩnh vực XKTS Cơ chế quản lý kinh tế trong giai đoạn hiện nay là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, quản lý bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và công cụ khác [23, tr.46]. Như vậy, cơ chế quản lý kinh tế bao gồm rất nhiều yếu tố cấu thành, đó là các luật liên quan, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, chính sách, quy chế, quy định của Nhà nước Trung ương và địa phương. Pháp luật được coi là yếu tố quan trọng nhất, bởi vì nó là công cụ chủ yếu của Nhà nước được sử dụng để quản lý nền KTTT định hướng XHCN mà Việt Nam đang xây dựng. Cơ chế quản lý XKTS bao gồm các yếu tố như các Luật về TS, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hoá, Pháp lệnh VSATTP, Pháp lệnh thú y..., các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án về XKTS... Hệ thống các văn bản pháp qui là công cụ chủ yếu mà chính quyền địa phương sử dụng nhằm phối hợp thống nhất các luật mà Nhà nước đã ban hành để vận dụng vào quá trình quản lý XKTS. Các Luật, Nghị định, Quyết định phê duyệt chương trình dự án ,... sau khi được Chính phủ phê duyệt, được các Bộ chức năng, UBND các cấp, các sở chức năng ở tỉnh cụ thể hóa bằng các văn bản pháp quy (Quyết định, Thông tư, Quy định...). Đây là cơ sở pháp lý cho QLNN cấp quốc gia, cấp tỉnh. QLNN đối với XKTS ở cấp tỉnh chủ yếu dựa trên hệ thống văn bản quản lý XKTS mà Chính phủ và các Bộ đã ban hành như Quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển TS, chiến lược XKTS, chương trình XKTS, đề án XKTS, chương trình xúc tiến XKTS,... 1.1.2. Vai trò quản lý của Nhà nước đối với xuất khẩu thuỷ sản Trong nền KTTT, Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Thực hiện QLNN về kinh tế, trong đó có QLNN đối với lĩnh vực XKTS, Nhà nước có các vai trò sau: Thứ nhất, Nhà nước tạo hành lang pháp lý cho phát triển XKTS. Đó là Nhà nước xây dựng, củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chính sách khuyến khích XKTS như: Luật TS, Luật Thương mại, Luật chất lượng, sản phẩm hàng hoá, Chiến lược XK, Chương trình XK. Nhà nước ban hành các chính sách khuyến khích XK như các chương trình đánh bắt, khai thác, NT, chế biến TS, chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia…Trên cơ sở đó, các ngành, địa phương, với chức năng, nhiệm vụ của mình triển khai thực hiện, xây dựng quy hoạch, kế hoạch, đề án, chương trình phát triển XKTS, xây dựng các quỹ hỗ trợ XKTS, quỹ bảo hiểm rủi ro trong XKTS... Đây là khung khổ pháp lý cho các hoạt động XKTS phát triển. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực XKTS sẽ được tự do hoạt động trong khuôn khổ, phạm vi mà pháp luật, chính sách của Nhà nước không cấm. Đồng thời, các doanh nghiệp có định hướng chung cho sự phát triển của mình. Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh TSXK cạnh tranh tự do theo quy định của pháp luật. Ngăn chặn các hành vi gian lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh, bảo đảm hoạt động XKTS phát triển một cách ổn định. Thứ hai, Nhà nước đóng vai trò thúc đẩy XK như xúc tiến XKTS, mở rộng thị trường XK bao gồm đàm phán mở cửa thị trường, tăng cường cung cấp thông tin thương mại TS; giúp đỡ các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu hàng TSXK, thương hiệu doanh nghiệp XKTS..., hỗ trợ các chủ thể hoạt động XKTS tham gia hội chợ TS ở nước ngoài, trong nước; đàm phán, tìm kiếm bạn hàng, ký kết hợp đồng XKTS... Thứ ba, Nhà nước khuyến khích XKTS bằng các chính sách miễn, giảm thuế, chính sách đất đai, vốn, công nghệ, xúc tiến XK… Thứ tư, với tư cách là người cung cấp hàng hoá công cộng, Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đảm bảo và tạo điều kiện để các đơn vị sản xuất kinh doanh XNK TS hoạt động thuận lợi. Nhà nước tác động trực tiếp vào khâu quản lý để điều tiết nền kinh tế phát triển bền vững trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ năm, thông qua quản lý quy hoạch phát triển XKTS, Nhà nước có thể điều chỉnh được cơ cấu kinh tế ngành, tổ chức lại sản xuất, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, tổ chức khai thác bền vững nguồn lợi TS. Thứ sáu, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các hiệp hội ngành nghề sản xuất, chế biến, XKTS hoạt động có hiệu quả. Nhà nước khuyến khích việc thành lập tự nguyện các hiệp hội của những ngành nghề khác nhau hay hiệp hội ở các địa phương khác nhau nhằm có biện pháp hỗ trợ phát triển cho các đơn vị khai thác, NT, chế biến, XKTS. Từ đó, Nhà nước có thể hiểu được tâm tư, nguyện vọng của các cơ sở, và về phía các hiệp hội cũng có những ý kiến đóng góp xác đáng, mang tính thực tiễn cho các cơ quan Nhà nước hoạch định những cơ chế chính sách phát triển XKTS. Thứ bảy, Nhà nước xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, định mức...của các hoạt động XK, lấy tiêu chuẩn quốc tế làm nền tảng của mình, có sự điều tiết của Nhà nước cho phù hợp với điều kiện Việt Nam. Nhà nước có thể bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp XKTS ở nước ngoài trong trường hợp Chính phủ nước ngoài áp dụng các biện pháp phân biệt đối xử, hoặc cản trở hoạt động XKTS của các doanh nghiệp ở thị trường nước ngoài. 1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý Nhà nước đối với xuất khẩu thuỷ sản Trước hết, quy mô và năng lực quản lý điều hành của bộ máy Nhà nước cả Trung ương và địa phương có tác động đến hoạt động XKTS. Bộ máy tinh gọn, hiệu quả, sẽ tiết kiệm chi thường xuyên, tăng các khoản chi cho đầu tư phát triển XKTS, đồng thời có khả năng thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư, nhất là các nguồn đầu tư nước ngoài cho các chương trình mục tiêu Chính phủ về phát triển XKTS. Yếu tố quan trọng nhất trong bộ máy tổ chức và cán bộ là trình độ cán bộ làm công tác quy hoạch, kế hoạch, công tác hoạch định và thực thi các chính sách phát triển XK... Nếu đội ngũ cán bộ này thật sự có năng lực, phẩm chất tốt thì sẽ tham mưu cho chính quyền địa phương quản lý hoạt động XKTS có hiệu quả, góp phần thúc đẩy XKTS phát triển. Thứ hai, cơ chế, chính sách của Nhà nước Trung ương và địa phương sẽ tạo ra hành lang thuận lợi hoặc kìm hãm sự phát triển. Trước hết là hệ thống các văn bản pháp luật như Luật Thương mại, Luật TS, Luật Tài nguyên môi trường, Luật Đầu tư; các văn bản quản lý về XKTS, quản lý về VSATTP TS, sau đó là các cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư phát triển TS, có tác động thúc đẩy các thành phần kinh tế mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực khai thác, NT và chế biến, XKTS. Tuy nhiên, sự thiếu đồng bộ trong các văn bản chính sách hoặc các chính sách thiếu chặt chẽ, kiểm soát không tốt ở một số địa phương, một số lĩnh vực có thể dẫn đến bất ổn trong hoạt động XKTS . Thực tế, ở nước ta trong thời gian qua, những hạn chế trong cơ chế chính sách đã dẫn đến hệ quả là chương trình đánh bắt xa bờ đã thất bại. Cơ chế vay vốn đóng tàu quá dễ dàng và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, trong khi đó không tính được ngư dân đã dốc hết vốn đầu tư cho đóng tàu, vốn lưu động để ra khơi đánh bắt hải sản thiếu, đã dẫn đến hàng trăm tàu sau khi nghiệm thu, không được khai thác sử dụng. Thứ ba, môi trường chính trị ổn định, sự đồng thuận trong xã hội, các điều kiện môi trường tự nhiên là nhân tố quan trọng để thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực XKTS. Thực tế cho thấy, những năm qua, các quốc gia có nền chính trị kém ổn định như Pakistan, vùng Trung Đông, Thái Lan, tốc độ tăng trưởng kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đầu tư nước ngoài giảm mạnh. Tại Thành phố Đà Nẵng, các điều kiện về môi trường tự nhiên thuận lợi, chính trị ổn định, không khí đồng thuận xã hội và tinh thần hăng say sáng tạo của các doanh nghiệp đã là nhân tố quan trọng đưa Đà Nẵng trở thành một trong những thành phố dẫn đầu cả nước về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, về tăng trưởng kinh tế nói chung và tăng trưởng XK nói riêng. Thứ tư, mức độ mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế Việt Nam có ảnh hưởng tới QLNN đối với XKTS. Nền kinh tế Việt Nam mở cửa và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, thì sự ảnh hưởng của kinh tế thế giới tới nền kinh tế Việt Nam, tới hoạt động sản xuất, chế biến TSXK càng lớn. Bởi lẽ, trong điều kiện đó, hoạt động sản xuất, chế biến TSXK rất có thể sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ với TSNK. Các doanh nghiệp chế biến và XKTS sẽ có thể sử dụng nguyên liệu TSNK để chế biến và sau đó tái xuất. Điều này đã từng xảy ra ở Việt Nam. Theo đó QLNN đối với lĩnh vực XKTS phải có những đổi mới, điều chỉnh để đảm bảo tối đa hóa lợi ích quốc gia và đảm bảo lợi ích của người đánh bắt, NT TSXK, lợi ích của các doanh nghiệp chế biến TSXK và các doanh nghiệp XKTS. Mặt khác, trong điều kiện Việt Nam đã gia nhập WTO và ký kết hiệp định thương mại với nhiều nước, Việt Nam phải thực hiện nhiều cam kết quốc tế về thương mại và đầu tư, trong đó các cam kết về XK nói chung, cam kết về hỗ trợ nông nghiệp nói riêng. Theo đó, các quy định trong QLNN đối với lĩnh vực XKTS cũng phải đổi mới, điều chỉnh phù hợp với các cam kết quốc tế. Chẳng hạn, theo quy định của Quốc tế, các biện pháp về hỗ trợ trực tiếp đối với XKTS sẽ có xu hướng giảm dần, thay vào đó là các biện pháp hỗ trợ gián tiếp. Hoặc như, đối với tiêu chuẩn VSATTP, hầu hết các nước tiến tiến trên thế giới đều áp dụng tiêu chuẩn HACCP trong quản lý chất lượng sản phẩm TS. Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các nhà quản lý phải thay đổi cách nghĩ, cách quản lý thích ứng với điều kiện mới là phải tuân thủ luật pháp quốc tế và tập quán quốc tế trong XKTS, đổi mới thể chế XNK, đổi mới các chính sách XKTS. Một điểm nữa, trong điều kiện mở cửa và hội nhập nền kinh tế quốc tế, QLNN còn chịu ảnh hưởng của các nước bạn hàng (các nước NKTS và các nước XKTS cạnh tranh với Việt Nam trên trường quốc tế). Trong điều kiện các doanh nghiệp nước ta XK sang các nước đã ký kết các hiệp định thương mại, các tiêu chuẩn để công nhận sản phẩm TS của nhau, thì việc QLNN đối với XKTS thuận lợi hơn. Trái lại, trong điều kiện cạnh tranh giữa các quốc gia, giữa các doanh nghiệp XKTS trên thế giới, các nước thường áp dụng các chính sách bảo hộ. Theo đó, họ đưa ra các đạo luật nhằm bảo hộ sản xuất trong nước như luật chống bán phá giá, luật cạnh tranh không bình đẳng, luật sở hữu trí tuệ... Ngoài ra các nước đưa ra các rào cản thương mại như rào cản về ATVSTP, an toàn dịch động vật, bảo vệ động vật quý hiếm, môi sinh môi trường. Trong điều kiện đó, QLNN phải có những đối sách phù hợp, bảo đảm hoạt động XKTS của các doanh nghiệp có thể vượt qua các rào cản đó, hoặc hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp thương mại, theo đuổi các vụ kiện mới... 1.2. nội dung của quản lý Nhà nước đối xuất khẩu thuỷ sản ở cấp tỉnh 1.2.1. Xây dựng chương trình, quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển xuất khẩu thủy sản KTTT có nhiều ưu điểm song chúng cũng có không ít những hạn chế khuyết tật. Những hạn chế, khuyết tật của thị trường có thể dẫn đến sự đổ vỡ của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, theo đó gây thiệt hại cho nền kinh tế. Để đảm bảo cho hoạt động XKTS phát triển ổn định, bền vững và có hiệu quả, hạn chế những bất lợi từ thị trường, Nhà nước xây dựng các quy hoạch phát triển XKTS, kế hoạch, đề án phát triển XK. Chương trình phát triển XKTS được xây dựng nhằm đề ra những mục tiêu phương hướng và hệ thống giải pháp lớn để huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển XKTS quốc gia, góp phần thực hiện chiến lược phát triển XK, chiến lược phát triển KT-XH của quốc gia trong từng thời kỳ. Thông thường, chương trình XKTS được xây dựng cho khoảng thời gian khá dài, 10 - 15 năm. Xây dựng chương trình XKTS của quốc gia là một nội dung của QLNN về XKTS, thể hiện những quan điểm chủ đạo chung của Nhà nước đối với XKTS, thể hiện định hướng, mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ chủ yếu của XKTS. Chương trình cũng đưa ra các giải pháp chính nhằm phát triển XKTS. Chương trình XKTS quốc gia thường do Bộ TS (nay là Bộ NN & PTNT) xây dựng và được Chính Phủ phê duyệt. Ngoài chương trình chung của quốc gia, còn có các chương trình XKTS vùng, lãnh thổ. Đây là bộ phận của chương trình phát triển KT-XH vùng lãnh thổ do Bộ NN & PTNT xây dựng. ở cấp tỉnh, có các chương trình phát triển XK của tỉnh, trong đó có chương trình phát triển XKTS. Dự thảo Chương trình XKTS của tỉnh do Sở NN & PTNT và Sở Công thương phối hợp xây dựng, trên cơ sở đóng góp ý kiến của các ngành, các cấp, các địa phương. Sau đó, dự thảo này được trình lên UBND tỉnh xem xét và phê duyệt. Chương trình XKTS của tỉnh thường được xây dựng cho thời kỳ 10 năm. Chương trình XKTS của tỉnh thể hiện những quan điểm chủ đạo chính, các định hướng chính đối với XKTS của tỉnh. Chương trình XKTS tỉnh cũng thể hiện mục tiêu tổng quát trong cả giai đoạn, kế hoạch thực hiện, các nghiệm vụ, giải pháp chính về XKTS trong suốt thời kỳ thực hiện chương trình. Quy hoạch phát triển XKTS nhằm thể hiện rõ ý tưởng của Nhà nước về bố trí lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lĩnh vực XKTS của quốc gia, của tỉnh, thành phố. Quy hoạch phát triển XKTS gồm các nội dung chủ yếu như xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng chung cho XKTS, bố trí nguồn nhân lực và các loại chủ thể tham gia hoạt động XKTS. Hệ thống quy hoạch phát triển TSXK bao gồm Quy hoạch tổng thể phát triển TS của quốc gia; Quy hoạch phát triển XKTS theo vùng lãnh thổ; Quy hoạch phát triển TS của các tỉnh, thành phố. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể chung về phát triển TS, Nhà nước xây dựng quy hoạch chi tiết về phát triển XKTS, chẳng hạn, quy hoạch chi tiết các vùng NTTS nước mặn, lợ, nước ngọt phục vụ XK; quy hoạch chi tiết các cơ sở chế biến TSXK… ở cấp tỉnh, Quy hoạch phát triển XKTS cũng được cụ thể hoá bằng các quy hoạch chi tiết về phát triển XKTS, như quy hoạch chi tiết các vùng NTTS nước mặn, lợ, nước ngọt phục vụ XK; quy hoạch chi tiết các cơ sở chế biến TSXK…của tỉnh. Kế hoạch là công cụ để Nhà nước chuyển tải nội dung các đường lối chính sách kinh tế và định hướng cho các chủ thể trong nền kinh tế hoạt động đạt được mục tiêu chung. Trên cơ sở các dự báo tình hình kinh tế thế giới, kinh tế trong nước, kế hoạch của Nhà nước cấp trên, các cơ quan QLNN căn cứ vào điều kiện và khả năng, tiềm năng, lợi thế để đề ra kế hoạch hàng năm hoặc 5 năm cho lĩnh vực quản lý và hướng dẫn, động viên thực hiện. Đối với lĩnh vực XKTS, cơ quan QLNN xây dựng các chỉ tiêu định hướng như khối lượng, giá trị kim ngạch XKTS, cơ cấu mặt hàng TSXK, phát triển mặt hàng, thị trường, định hướng các mặt hàng TSXK, thị trường XKTS, đưa ra các dự báo tình hình thị trường, giá cả, cung cầu hàng TS trong nước quốc tế, xu hướng tiêu dùng TS của từng thị trường; dự báo các rào cản thương mại… Kế hoạch XKTS cần phải xác định xu thế phát triển chủ yếu để hướng dẫn các chủ thể kinh tế hoạt động; đồng thời phải đảm bảo tính công khai, năng động, gắn với hiệu quả và lợi ích kinh tế. Kế hoạch phải được phổ biến tới các ngành, các chủ thể tham gia XKTS. Cơ quan QLNN về XKTS phải có chương trình hành động, các biện pháp cụ thể để làm cho các tổ chức hữu quan hiểu, thống nhất và cùng phấn đấu thực hiện kế hoạch. Kế hoạch XKTS được xây dựng có cơ sở khoa học, bám sát tình hình thực tế, có tính khả thi và thống nhất lợi ích của Nhà nước và của các chủ thể kinh doanh XKTS. Kế hoạch không chỉ là chỉ tiêu, mà còn là các giải pháp thực hiện, có phân công cơ quan chỉ đạo, cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp thực hiện và được triển khai thường xuyên, từng thời kỳ có thể sơ kết, tổng kết đánh giá việc thực hiện, và điều chỉnh khi cần thiết. Mục tiêu của kế hoạch phát triển XKTS là nhằm giữ một sự cân đối lớn của thị trường và thương mại TS, ổn định thị trường, phát triển XNK và lợi nhuận. Đối tượng của kế hoạch XKTS bao quát toàn bộ các quá trình kinh tế trong hoạt động XKTS. Kế hoạch XKTS trong nền kinh tế quốc dân gồm kế hoạch XKTS quốc gia, kế hoạch XKTS của vùng lãnh thổ, kế hoạch XKTS của các tỉnh, thành phố. Đề án XKTS quốc gia do Bộ NN & PTNT xây dựng, phê duyệt và tổ chức thực hiện, dựa trên quan điểm, mục tiêu, các giải pháp định hướng của đề án phát triển XK của quốc gia. ở cấp tỉnh, thành phố, Sở Công Thương xây dựng đề án XK chung của tỉnh, thành phố; Sở NN & PTNT xây dựng đề án XKTS của tỉnh, thành phố. Nhà nước xây dựng chương trình, quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển XKTS, dựa trên tiềm năng và lợi thế về XKTS của quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương. Sau khi phê duyệt các quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển XKTS được tổ chức triển khai thực hiện. Các quy hoạch, kế hoạch, đề án là căn cứ pháp lý để quản lý hoạt động XKTS. Trên cơ sở quy hoạch chung về phát triển XKTS, tiến hành quy hoạch chi tiết vùng nguyên liệu TS như quy hoạch vùng NT nước ngọt, NT mặn, lợ; quy hoạch chế biến XKTS; xây dựng chương trình khai thác, bảo vệ nguồn lợi TS; chương trình xúc tiến thương mại TS. Những quy hoạch, kế hoạch này là cơ sở để phát triển vùng nguyên liệu tập trung khai thác các tiềm năng lợi thế về điều kiện tự nhiên về biển, sông hồ, mặt nước và tiềm năng về lao động TS. 1.2.2. Xây dựng các chính sách hỗ trợ xuất khẩu thuỷ sản (thuế, đất, vốn, công nghệ, xúc tiến thương mại…) Chính sách hỗ trợ XKTS thuộc hệ thống chính sách kinh tế của Nhà nước. Đó là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp, mà Nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động XKTS trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu xác định trong chương trình phát triển XKTS nói riêng, chiến lược phát triển XK nói chung của quốc gia trong thời kỳ nhất định. Chính sách hỗ trợ XKTS do cơ quan QLNN cấp tỉnh ban hành nhằm khuyến khích phát triển XKTS, khuyến khích NTTS, đánh bắt xa bờ, khuyến khích chế biến TS, XKTS trên địa bàn tỉnh...Chính sách XKTS bao gồm nhiều chính sách bộ phận như chính sách hỗ trợ qua thuế, chính sách đất đai, chính sách hỗ trợ vốn, tín dụng, chính sách khuyến khích áp dụng tiến bộ KHCN, chính sách xúc tiến thương mại... Xây dựng chính sách hỗ trợ XKTS là một trong những nội dung quan trọng của QLNN về XKTS. Các chính sách hỗ trợ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy XKTS. Nội dung các chính sách hỗ trợ XK gồm: Một là, xây dựng chính sách hỗ trợ qua thuế Thuế là một công cụ hết sức quan trọng trong hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô. Chính phủ sử dụng công cụ thuế để huy động thu cho ngân sách, điều chỉnh các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và đảm bảo công bằng xã hội [2, tr 9]. Để khuyến khích XKTS Nhà nước điều chỉnh giảm, miễn thuế trong khâu đánh bắt, NT, chế biến XK, góp phần làm giảm giá cả sản phẩm XKTS. Do đó, thuế được sử dụng như một công cụ hàng đầu trong các chính sách kinh tế nói chung và chính sách khuyến khích XKTS nói riêng. Như vậy, chính sách hỗ trợ XK qua thuế là việc Nhà nước chấp nhận từ bỏ một phần nào đó trong nguồn thu ngân sách từ thuế để tạo ra sự khuyến khích kinh tế dành riêng cho các đơn vị sản xuất kinh doanh XK [17, tr.31]. Xây dựng các chính sách hỗ trợ qua thuế nhằm khuyến khích kinh tế trực tiếp cho các đơn vị tham gia sản xuất, kinh doanh XKTS, chính sách này mang tính định hướng ưu tiên phát triển đối với lĩnh vực, ngành nghề mà Nhà nước ưu tiên phát triển. Khi xây dựng các chính sách hỗ trợ qua thuế, các cơ quan Nhà nước một mặt đưa ra các ưu đãi về thuế đối với các đơn vị được thụ hưởng, đồng thời cũng đưa ra các quy trình, quy phạm, hồ sơ, thủ tục, trình tự để được hưởng các ưu đãi nói trên. Các nội dung chủ yếu của chính sách này là miễn, giảm thuế, thuế suất thấp, hoàn thuế cho đối tượng tính thuế và đối tượng nộp thuế. Miễn giảm thuế là một trong những nội dung cấu thành sắc thuế. Miễn giảm được quy định áp dụng khi hoàn cảnh khách quan gây ra khó khăn, làm giảm thu nhập của đối tượng nộp thuế, hoặc áp dụng một số ngành nghề cần khuyến khích. Quy định chế độ miễn, giảm thuế bao gồm: quy định các trường hợp được xét miễn giảm; thẩm quyền từng cấp xét miễn, giảm [1, tr.17]. Trên thực tế, chế độ khuyến khích bằng miễn, giảm thuế cũng được áp dụng cho lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh XK. Đồng thời, khi gặp rủi ro trong khai thác, NT, chế biến XKTS làm thu nhập của cơ sở sản xuất kinh doanh XK bị thiệt hại cũng được xét để miễn giảm thuế như khi gặp thiên tai bão lũ, thời tiết làm giảm sản lượng, dịch bệnh, hay do giảm giá trên thị trường XK. Đối với thuế suất thấp, thuế suất thấp là các thuế suất từ 0% đến dưới thuế suất trung bình trong biểu thuế. Thông thường, để khuyến khích XK, Nhà nước thường áp dụng thuế suất thấp (0%) đối với đối tượng tính thuế là hàng hoá và dịch vụ XK hoặc coi như XK. áp dụng thuế suất thấp có tác dụng duy trì giá XK hàng hoá thấp, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm hàng hoá, dịch vụ khuyến khích XK. Đối với hoàn thuế, hoàn thuế là việc Nhà nước sẽ hoàn lại cho các cơ sở sản xuất kinh doanh một phần hay toàn bộ số thuế đã nộp (theo đối tượng tính thuế) khi cơ sở này chứng minh được họ có đủ tiêu chuẩn hoàn trả một phần hay toàn bộ số thuế đã nộp được quy định trong sắc thuế cụ thể. Khi Nhà nước muốn thúc đẩy XK, thường thực hiện chính sách hoàn thuế đối với các đầu vào NK (đã tính thuế) được dùng để sản xuất hàng XK. Bên cạnh đó, Nhà nước có thể áp dụng chính sách hoàn các loại thuế trong nước khác như thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hàng hoá được XK. Như vậy, xây dựng chính sách thuế là một trong những nội dung quan trọng của QLNN về XK nhằm thúc đẩy XK nói chung và XKTS nói riêng. Thông thường, ở cấp tỉnh chỉ xây dựng chính sách thuế bằng việc góp ý các chính sách thuế của Trung ương chứ không xây dựng chính sách thuế riêng cho từng tỉnh, thành phố. Hai là, xây dựng chính sách hỗ trợ đất đai, để khuyến khích sản xuất, NTTS. Tỉnh có chính sách giao đất lâu dài cho ngư dân tiến hành NT, miễn giảm, tiền thuê đất. Ưu tiên cho thuê đất đối với các cơ sở chế biến XKTS. Nhà nước có thể giao đất không thu tiền đối với những cơ sở này… Ba là, xây dựng chính sách hỗ trợ về vốn, tín dụng. Vốn là một yếu tố đầu vào hết sức quan trọng trong sản xuất và XKTS. Tỉnh cấp một phần vốn ngân sách để hỗ trợ cơ sở sản xuất, XKTS đối với lĩnh vực khuyến khích XK thông qua hoạt động của cơ quan khuyến nông, khuyến ngư... Chính sách hỗ trợ qua tín dụng, là Nhà nước áp dụng lãi suất thấp để tạo ra sự khuyến khích dân doanh tăng chi cho đầu tư và XK, qua đó làm tăng sản lượng XK của nền kinh tế tỉnh. Nội dung của chính sách này, bao gồm cho vay với lãi suất thấp, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng XK. Bốn là, xây dựng chính sách hỗ trợ xúc tiến XKTS. Hoạt động xúc tiến XK của Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng và đòi hỏi chi phí và công sức rất nhiều. Nhà nước tiến hành công tác xúc tiến XK bằng việc áp dụng các biện pháp thâm nhập thị trường và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hóa ở nước ngoài. Điều này thông thường được thực hiện bởi việc: lập các viện nghiên cứu và trung tâm thông tin cung cấp thông tin cho các nhà XK; hỗ trợ đào tạo cán bộ, chuyên gia giúp các nhà sản xuất và XK; lập các cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài để nghiên cứu tại chỗ tình hình thị trường hàng hóa, thương nhân và chính sách của nước sở tại, đồng thời tích cực tham dự các hoạt động xúc tiến thương mại như hội chợ triển lãm, hội thảo...; đứng ra ký kết các hiệp định thương mại, hiệp định hợp tác kỹ thuật, vay nợ, viện trợ...trên cơ sở đó thúc đẩy XK. Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động xúc tiến XK thông qua hỗ trợ xây dựng thương hiệu, quảng bá thương hiệu, hỗ trợ hoạt động triển lãm, hội chợ, hỗ trợ trong các chuyến công tác nước ngoài của các doanh nghiệp để đàm phán ký kết hợp đồng XKTS…Nội dung của chính sách này bao gồm: hỗ trợ tham gia hội chợ triển lãm ở trong nước, nước ngoài, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng trang website giới thiệu quảng bá sản phẩm TSXK, hoặc cung cấp thông tin miễn phí thương mại TS trên thị trường trong nước và thế giới, hỗ trợ dự báo tình hình thị trường, cung cầu hàng hoá, cung cấp thông tin về chính sách XNK TS của các nước... Năm là, xây dựng các chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực XKTS; chính sách hỗ trợ về giống NT; chính sách về bảo vệ nguồn lợi TS; chính sách khuyến khích đánh bắt xa bờ… nhằm tạo nguồn nguyên liệu ổn định, chất lượng cao cho XKTS. 1.2.3. Tổ chức hệ thống các cơ sở sản xuất, chế biến thủy sản xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Một trong những nội dung không kém phần quan trọng của QLNN đối với XKTS là tổ chức hệ thống cơ sở sản xuất, XKTS. Trong nền KTTT định hướng XHCN hiện nay, nhiệm vụ của Nhà nước là sắp xếp tổ chức lại các đơn vị kinh tế, sắp xếp củng cố lại DNNN, tổ chức các vùng kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu. Mục đích của những công việc này là góp phần tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý. Chủ thể tham gia quá trình XKTS là các cơ sở khai thác, NT, chế biến, XKTS. Do đó, Nhà nước tổ chức hệ thống các cơ sở sản xuất, XKTS có ý nghĩa trọng việc thúc đẩy XK. QLNN đối với các cơ sở này nhằm mục tiêu hỗ trợ các cơ sở phát triển sản phẩm XKTS, nâng cao khả năng cạnh tranh của XKTS. Tổ chức hệ thống cơ sở này đảm bảo phát huy tối đa tiềm năng lợi thế về XKTS. Việc tổ chức hệ thống các cơ sở sản xuất, chế biến TSXK phải đảm bảo hợp lý về số lượng, chủng loại, quy mô, phân bố, trình độ công nghệ của các cơ sở, bảo đảm chất lượng và số lượng của TS tương ứng cho XK, bảo đảm sự phát triển bền vững (môi trường sinh thái, phát triển ổn định trong dài hạn). Việc tổ chức hệ thống các doanh nghiệp XKTS cũng phải hợp lý về số lượng, quy mô, cơ cấu, loại hình doanh nghiệp. Không nên để quá nhiều doanh nghiệp XKTS cùng tham gia hoạt động sẽ kém hiệu quả (cạnh tranh với nhau, quy mô nhỏ bé, khối lượng và chất lượng hàng XK khó đáp ứng yêu cầu thị trường thế giới…). Nội dung này bao gồm tổ chức hệ thống các cơ sở NTTS như các trang trại NT, các hộ gia đình nuôi; tổ chức hệ thống các tàu thuyền đánh bắt xa bờ, gần bờ; tổ chức hệ thống các cơ sở chế biến XKTS, hệ thống dịch vụ nghề cá…; tổ chức hệ thống các doanh nghiệp XKTS. 1.2.4. Tổ chức thực hiện các chính sách của Nhà nước đối với xuất khẩu thuỷ sản trên địa bàn tỉnh Đây là nội dung quan trọng của QLNN đối với XKTS của chính quyền cấp tỉnh. Các chính sách của Nhà nước cấp trên ban hành được các cơ quan QLNN cấp tỉnh triển khai thực hiện. Về luật, pháp lệnh, liên quan đến XKTS, Quốc Hội đã sửa đổi Luật Thương mại năm 2005, Luật TS ban hành vào năm 2003, Luật Đầu tư (năm 2005), Luật Tài nguyên môi trường, Luật chất lượng, sản phẩm hàng hoá (năm 2007), Pháp lệnh VSATTP (năm 2003)… Các luật trên đã được ban hành theo hướng bổ sung những điều mới để phù hợp với các quy định của WTO, loại bỏ những điều lạc hậu, không phù hợp với điều kiện hội nhập trong giai đoạn hiện nay. Sau khi các Luật, Pháp lệnh được ban hành, các Nghị định, Thông tư tiếp tục được ban hành nhằm hướng dẫn thực hiện các Luật. Về quản lý hoạt động XNK có Nghị định 12/2006/NĐ-CP, của Chính phủ ngày 23 tháng 01 năm 2006, quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và nước ngoài, hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 10/2006/QĐ - TTg ngày 11 tháng 1 năm 2006, phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển ngành TS đến năm 2010 và định hướng đến 2020. Ngày 25 tháng 10 năm 2006, Thủ Tướng Chính phủ ban hành quyết định số 242/2006/QĐ - TTg, phê duyệt chương trình phát triển XKTS đến năm 2010 định hướng đến 2020, các văn bản về quản lý VSATTP TS… và nhiều văn bản khác của Bộ Ngành Trung ương về hoạt động XKTS. Các văn bản được triển khai tới đối tượng thực hiện, đối tượng thụ hưởng và đối tượng chịu tác động của các chính sách. Ban hành chế độ chính sách là nội dung đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xây dựng, tổ chức thực hiện và tuyên truyền phổ biến chính sách tới đối tượng thụ hưởng chính sách. Nếu việc ban hành chính sách không đúng, sát với thực tiễn thì chính sách sẽ không được chấp nhận trong thực tiễn hoặc đem lại hiệu quả không cao, thậm chí có thể phản tác dụng gây hiệu quả nghiêm trọng. Ban hành chính sách bao gồm các khâu: lựa chọn chính sách; xác định mục tiêu và thời hạn của chính sách; xây dựng phương án chính sách; lựa chọn phương án chính sách tối ưu; quyết định chính sách. Tất cả các khâu này đều có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ việc ban hành chính sách. Một mắc xích trong chuỗi các khâu không được chuẩn bị tốt, sẽ dẫn đến sự thất bại hoặc kết quả không đạt được ở mức độ như mong muốn. Tổ chức thực hiện chính sách là công đoạn chính trong quá trình ban hành, chỉ đạo thực hiện chính sách. Mục tiêu của chính sách có đạt được hay không, phụ thuộc nhiều vào khâu này, tổ chức thực hiện chính sách nhằm biến chính sách thành hoạt động và kết quả trong thực tế. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách là quá trình phức tạp, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của chính sách, là điều kiện quan trọng để đưa chính sách vào cuộc sống. Tổ chức thực hiện chính sách nói chung và chính sách XKTS nói riêng chịu tác động, chi phối của nhiều yếu tố như: vấn đề chính sách cần giải quyết; đối tượng mà chính sách tác động; bối cảnh chính trị, xã hội, kinh tế trong nước, quốc tế; tiềm lực kinh tế; các nguồn lực và điều kiện để thực thi chính sách; công tác tuyên truyền; năng lực trình độ của của bộ máy và công chức làm nhiệm vụ tổ chức thực thi chính sách; thể chế hành chính và thái độ của các đối tượng chịu tác động của chính sách đã ban hành... Thông thường, tổ chức thực hiện chính sách bao gồm hai bước: Thứ nhất, chuẩn bị cán bộ, tổ chức đứng ra chỉ đạo thực hiện; cán bộ, tổ chức chủ trì thực hiện và cán bộ, tổ chức phối hợp thực hiện. Các cán bộ, tổ chức liên quan đến thực hiện chính sách phải đủ năng lực, trách nhiệm, quyền hạn và nguồn lực để thực hiện. Phải bố trí cán bộ, tổ chức, phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa các thành viên và các ngành tham gia để tổ chức thực hiện chính sách có hiệu quả. Thứ hai, các cơ quan liên quan chỉ đạo thực hiện chính sách XKTS, tuỳ theo nhiệm vụ, quyền hạn được giao có thể thành lập tổ giúp việc thực hiện chính sách, theo dõi, đánh giá, kiến nghị sửa đổi chính sách cho phù hợp. Đưa chính sách vào cuộc sống thông qua các tổ chức Đảng, chính quyền các cấp; thông qua hệ thống thông tin truyền thống đại chúng. Chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện chính sách XKTS bao gồm các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân liên quan đến sản xuất, chế biến, XKTS; các cơ quan Nhà nước như ngành Công thương, NN & PTNT, Tài chính, Kế hoạch - đầu tư, Khoa học - công nghệ, Tài nguyên môi trường, Hải quan, Thuế, Ngân hàng... Chính sách XKTS muốn đi vào cuộc sống có hiệu quả cần phải đảm bảo đồng thời nhiều yếu tố, trước hết, chính sách đó phải đúng đắn; thứ hai, phải có nền hành chính công đủ mạnh, với sức mạnh tổng hợp từ trên xuống dưới, với đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện. Cuối cùng, phải phát huy cao độ sự tham gia tích cực của những đối tượng được hưởng lợi đồng thời phải đảm bảo lợi ích kinh tế đối với đối tượng bị tác động ngược. Tuyên truyền phổ biến chính sách tới các đối tượng thụ hưởng, các cơ quan liên quan, tiến hành đưa các chính sách này vào cuộc sống thông qua các tổ chức Đảng, và chính quyền các cấp; thông qua hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng; thông qua các website của các cơ quan Nhà nước... Kiểm tra, đánh giá, tổng kết và điều chỉnh chính sách là khâu cuối cùng của chu trình chính sách và có ý nghĩa quan trọng, vì i) công tác này cho chúng ta biết mức độ hiệu quả của chính sách; ii) khâu này cho biết cần phải làm gì ở các bước tiếp theo. Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách trên cơ sở thu thập thông tin về thực hiện chính sách, tiến hành kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chính sách; đánh giá hiệu quả, hiệu lực của chính sách đã ban hành và thực hiện. Từ đó có thể nghiên cứu, bổ sung, điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn, đảm bảo cho chính sách đã ban hành phù hợp, phát huy hiệu quả cao nhất trong thực tiễn. Việc điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi chính sách bao gồm cả mục tiêu, các giải pháp và công cụ của chính sách, điều chỉnh các điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện chính sách được liên tục, không bị gián đoạn, và dẫn đến thành công của chính sách. Công tác tổng kết thực hiện chính sách nhằm đánh giá lại toàn bộ mục tiêu và tiến trình triển khai, đánh giá mặt được, hạn chế, từ đó đề xuất những điều cần bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện hoặc đề xuất chính sách mới nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu đã đề ra. 1.2.5. Tổ chức kiểm tra, kiểm soát hoạt động xuất khẩu thủy sản Nhà nước tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động XKTS. Nhà nước thực hiện chức năng này nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động XKTS, nhằm phát hiện và ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm pháp luật, sai phạm chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Nhà nước phải luôn kiểm tra việc thực hiện và triển khai các chính sách, pháp luật về XKTS trong cả ba thành tố của thị trường: hàng hóa, chủ thể và phương thức XKTS. Chức năng, nhiệm vụ này giúp Nhà nước có thể kiểm soát và hướng dẫn phát triển XKTS đúng hướng. Các chủ thể tham gia vào thị trường XKTS khá đông đảo xét cả quá trình khai thác, NT và chế biến XK. Phương thức XKTS diễn ra đa dạng, phong phú, hơn nữa, TSXK là mặt hàng đòi hỏi cao về yêu cầu VSATTP, yêu cầu cao của các nước NK. Do vậy, kiểm tra thường xuyên hoạt động này thì Nhà nước mới nắm bắt được và "uốn nắn" kịp thời theo đúng pháp luật. Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động XKTS bao gồm các nội dung chủ yếu sau: Một là, kiểm tra điều kiện XKTS như kiểm tra đăng ký kinh doanh, giấy đủ điều kiện về XKTS… Hai là, kiểm tra việc thực hiện các quy định về VSATTP TS trong sản xuất, bảo quản, NT, chế biến XKTS. Ba là, kiểm tra dư lượng thuốc thu y, thuốc kháng sinh, hoá chất vượt quá hàm lượng cho phép trong NT, bảo quản, chế biến. Bốn là, kiểm tra việc thực hiện các quy định bảo vệ môi trường trong đánh bắt, NT, chế biến TS. Năm là, kiểm tra việc vi phạm về ghi nhãn mác hàng hoá, thương hiệu hàng hoá, chống buôn lậu và gian lận thương mại trong sản xuất, kinh doanh hàng TSXK. Sáu là, kiểm tra việc thực hiện các quy hoạch phát triển TS, quy hoạch phát triển chế biến XKTS, quy hoạch phát triển NTTS. 1.2.6. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về xuất khẩu thủy sản Bộ máy QLNN về XKTS ở Trung ương bao gồm Quốc hội, Chính phủ, các Bộ chức năng như Bộ Công thương, Bộ NN & PTNT,...các cơ quan này được tổ chức và được quy định về chức năng, nhiệm vụ riêng. Các cơ quan lập pháp như Quốc hội, HĐND các cấp ban hành hiến pháp, các luật, pháp lệnh…như Hiến pháp, Luật TS, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hoá, Pháp lệnh ATVSTP…(đối với Quốc hội), ban hành các Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển KT-XH, an ninh quốc phòng...(đối với HĐND cấp tỉnh). Chính phủ ban hành các văn bản dưới luật như Nghị định, Thông tư, Quyết định…về phát triển XKTS như quyết định phê duyệt chương trình XK quốc gia, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển XKTS từng thời kỳ. Bộ Công Thương có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn QLNN về XK hàng hoá và dịch vụ. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ các cơ quan thuộc Chính phủ khác cũng có nhiệm vụ, quyền hạn QLNN về XK đối với một số lĩnh vực được phân công phụ trách và có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công Thương để thực hiện việc QLNN về XK theo quy định của Chính phủ. Ngoài ra, các cơ quan tham tán thương mại, đại diện thương mại ở nước ngoài làm nhiệm vụ môi giới, xúc tiến XK và tìm kiếm thị trường. Bộ máy QLNN về XKTS ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm HĐND tỉnh, UBND tỉnh thống nhất QLNN về XK nói chung và XKTS nói riêng. Các Sở, Ban, Ngành cấp tỉnh được quy định các chức năng và nhiệm vụ cụ thể đối với quản lý XKTS. ở tỉnh, Sở Công Thương, Sở NN & PTNT là cơ quan tham mưu, trực tiếp giúp UBND tỉnh, thành phố thực hiện chức năng QLNN về XKTS ở địa phương. Dưới các Sở Công thương, Sở NN & PTNT có các phòng chức năng, trực tiếp soạn thảo các quy định về QLNN đối với XKTS, trình lãnh đạo sở, trình UBND, HĐND tỉnh xem xét và phê duyệt. Sở Công thương có các phòng như phòng quản lý thương mại, phòng xuất nhập khẩu, phòng kế hoạch trực tiếp ban hành soạn thảo các văn bản QLNN về XKTS, trình lãnh đạo sở quyết định. Tại Sở NN & PTNN có các phòng như phòng kế hoạch tổng hợp, phòng quản lý thủy sản,…trực tiếp dự thảo các văn bản QLNN đối với XKTS, trình lãnh đạo sở quyết định. Ngoài ra, một số cơ quan khác tham gia QLNN đối với XKTS ở tỉnh như Tòa án nhân tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, các Ban quản lý các khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu… Vận hành bộ máy QLNN về XKTS ở tỉnh là đội ngũ công chức QLNN về XKTS. Họ là cán bộ lãnh đạo từ phó phòng (của sở) trở lên, giữ cương vị lãnh đạo quản lý các phòng chức năng, các sở chức năng, UBND tỉnh…Họ là các chuyên viên phụ trách chuyên sâu từng lĩnh vực cụ thể trong các bộ phận chức năng. Chẳng hạn, chuyên viên phụ trách XNK, chuyên viên phụ trách quản lý nguồn lợi thủy sản, chuyên viên quản lý ATVSTP TS...Trong ngạch chuyên viên gồm có chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính, chuyên viên. Họ cũng là các nhân viên giúp việc làm việc trong các cơ quan QLNN về XKTS ở cấp tỉnh. Chẳng hạn như nhân viên văn thư, công nghệ thông tin, nhân viên kế toán… 1.3. Kinh nghiệm quản lý Nhà nước đối với xuất khẩu thuỷ sản ở một số địa phương và bài học kinh nghiệm cho Hà tĩnh 1.3.1. Kinh nghiệm quản lý Nhà nước đối với xuất khẩu thuỷ sản ở một số nước và một số địa phương trong nước 1.3.1.1. Kinh nghiệm quốc tế - Kinh nghiệm Trung quốc Trong nhiều năm trở lại đây, Trung Quốc luôn là một trong những nước có khối lượng và KNXK TS lớn nhất thế giới. Trung Quốc phát triển mạnh sản xuất nguyên liệu TS trong đó NT chiếm vị trí chủ đạo. Lĩnh vực NTTS của Trung Quốc trong thời gian qua đã có những bước tiến đáng kể. Một kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc nâng cao sản lượng XK, làm tăng kim ngạch XK là Trung Quốc thực hiện kế hoạch đẩy mạnh XK sản phẩm nuôi dựa vào ưu thế vùng. Những sản phẩm XK của Trung Quốc mang rõ đặc tính sản phẩm sản xuất theo vùng như sản phẩm cá chình nướng XK có nguồn gốc chủ yếu ở tỉnh Phúc Kiến, tôm he và cá rô XK chủ yếu có nguồn gốc từ Quảng Đông, cá hồng Mỹ từ tỉnh Triết Giang… [16, tr.32]. Một số biện pháp QLNN mà nước này đã sử dụng trong XKTS có thể kể tới: - Trung Quốc khuyến khích đầu tư vào ngành chế biến TS với quy mô lớn, với những cơ sở chế biến lớn và hiện đại đã giúp cho các doanh nghiệp chế biến của Trung Quốc hoạt động có hiệu quả với chi phí sản xuất và lao động thấp. - Trung Quốc phát triển gia công hàng TS, đã thúc đẩy việc đầu tư trang thiết bị, trình độ quản lý của các nhà máy chế biến, đồng thời giải quyết được lực lượng lao động dôi dư ở nông thôn. Các địa phương kết hợp với Bộ Nông nghiệp lập kế hoạch bố trí từng vùng, tăng mức độ đầu tư vào những vùng nuôi TS theo quy phạm thực hành nuôi tốt, nhằm cung cấp đầy đủ nguyên liệu, hình thành hệ thống những nhà máy chuyên sản xuất XK. - Chính phủ Trung Quốc coi trọng công tác VSATTP, Trung tâm chứng nhận sản phẩm TS Trung Quốc có chức năng quản lý chất lượng TS và cấp chứng chỉ cho các sản phẩm TSXK. - Chiến lược phát triển ngành TS của Trung Quốc là chiến lược phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Đối với ngành chế biến, Trung Quốc đã thực hiện việc đa dạng các mặt hàng XK như sản phẩm đông lạnh sơ chế, các sản phẩm đông lạnh chín, các sản phẩm tôm bao bột, các loại tôm ăn liền, tôm đóng hộp, các sản phẩm surumi… - Trung quốc luôn coi trọng nâng cao chất lượng và an toàn thực phẩm trong NTTS. Chính phủ Trung Quốc đã ban hành một loạt các biện pháp để chấn chỉnh vấn đề dư lượng hóa chất trong sản phẩm. Chính phủ đẩy mạnh quản lý nguồn nguyên liệu và nhà máy sản xuất chế biến, theo dõi chất lượng ATVSTP từ đầu vào, tập trung thực hiện chế độ quản lý chất lượng sản phẩm TS, tích cực giám sát và hướng dẫn doanh nghiệp thiết lập chế độ quản lý toàn diện trong sản xuất sản phẩm có chất lượng cao. - Ngoài ra, để đẩy mạnh hoạt động XKTS, Chính phủ Trung Quốc đã hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp trong công tác khai thác thị trường XK. Hàng năm, Chính phủ Trung Quốc tổ chức cho các doanh nghiệp tham gia các hội chợ quốc tế tại Tokyo, Boston... nhằm giới thiệu với thị trường quốc tế những sản phẩm uy tín, tạo điều kiện cho sản phẩm TS của Trung Quốc thâm nhập những thị trường có nhu cầu lớn trên thế giới. Tóm lại, Trung Quốc sử dụng tổng hợp các biện pháp, chính sách để điều chỉnh cơ cấu NTTS; chỉ đạo tập trung vào tìm kiếm những thị trường mới và mở rộng những thị trường hiện có; đẩy mạnh cầu TS thông qua việc tiếp thị, quảng cáo, phát triển những mặt hàng có giá trị gia tăng lớn; nâng cao chất lượng TS bằng cách đổi mới công nghệ; xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ XKTS và cải cách hệ thống luật pháp. - Kinh nghiệm Thái Lan Thái Lan cũng là một trong những nước đứng đầu thế giới về XKTS, có vị trí địa lý gần nước ta, có điều kiện tương đồng với Việt Nam trong sản xuất, XKTS. Chính phủ Thái Lan trong những năm qua đã thực hiện nhiều giải pháp, áp dụng nhiều chính sách nhằm thúc đẩy XKTS, cụ thể: - Thái Lan đã khuyến khích phát triển ngành công nghiệp chế biến TS, đã huy động nguồn vốn lớn để đầu tư, nâng cấp các nhà máy với công nghệ tiên tiến. Các doanh nghiệp chế biến đã chú trọng áp dụng công nghệ hiện đại và các yêu cầu mới về hệ thống quản lý chất lượng trong sản xuất, chế biến. Nhờ đó, các doanh nghiệp của Thái Lan đã nâng cao chất lượng, giảm giá thành, đa dạng hóa sản phẩm, tăng kim ngạch XK hàng TS. - Thái Lan rất coi trọng công tác đảm bảo VSATTP TS, Thái Lan là một trong số các nước đi đầu trên thế giới bắt buộc áp dụng HACCP trong các cơ sở chế biến TSXK. Nước này kiểm tra thường xuyên và áp đặt lệnh cấm NK một số loại kháng sinh. Đồng thời, trước khi XK, sản phẩm TS được kiểm tra rất chặt dư lượng kháng sinh. - Trước những đòi hỏi về chất lượng TS của các nước NK, những năm qua, Thái Lan đã đưa ra những tiêu chuẩn khắt khe trong chuỗi chế biến từ trại giống, trại nuôi đến nhà máy chế biến. Với những quy định nghiêm ngặt về chất lượng sản phẩm như vậy, sản phẩm thủy sản XK của Thái Lan ngày càng có uy tín trên thị trường thế giới. - Thái Lan là nước rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường và nguồn lợi TS. Đây có thể được coi là một giải pháp đồng bộ giúp ngành TS của Thái Lan tăng trưởng bền vững, gia tăng được lượng hàng XK mà vẫn duy trì được nguồn lợi TS lâu dài. Chính phủ Thái Lan và các hiệp hội ngành hàng có vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp giải quyết những vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc kiểm tra về VSATTP đối với các công tác NT, bảo quản và chế biến TS rất được chú trọng cả từ phía doanh nghiệp và phía Chính phủ. Đối với khâu NT, người sản xuất cũng thực hiện an ninh sinh học trong trại nuôi để hạn chế sự xâm nhập của mầm bệnh từ môi trường bên ngoài cũng như giảm tình trạng mầm bệnh lây lan trong hệ thống nuôi. - Trong việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, các doanh nghiệp XKTS và Chính phủ Thái Lan thường có sự phối hợp chặt chẽ để hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại đối với ngành TSXK. 1.3.1.2. Kinh nghiệm trong nước - Kinh nghiệm của Thành phố Đà Nẵng Đà Nẵng có bờ biển dài khoảng 30 km, có vịnh nước sâu, có 2 cửa biển chính là Liên Chiểu và Tiên Sa, với diện tích ngư trường 15.000 m2. Đà nẵng có vùng lãnh hải thềm lục địa dài 125 km, tạo ra vành đai nước nông rộng lớn, thích hợp cho phát triển kinh tế biển tổng hợp. Trữ lượng hải sản của Đà Nẵng lớn, từ 60 - 70 ngàn tấn. Ngoài ra, Đà Nẵng có hơn 2.107 ha mặt nước NT có thể phát triển nuôi trồng TS công nghiệp. Đà nẵng có nhiều kinh nghiệm trong QLNN đối với XKTS: - Thành phố đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của công tác XK, trong đó TS là một trong những mặt hàng có vai trò chủ lực. Thành phố đã tạo điều kiện hết sức thông thoáng cho các thành phần kinh tế được tham gia đầu tư phát triển ngành, sớm định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Thành phố Đà Nẵng kịp thời ban hành những chủ trương, chính sách ưu tiên và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp XKTS. - Trên cơ sở chính sách chung, lãnh đạo Thành phố đã vận dụng linh hoạt trên địa bàn và tư vấn cho doanh nghiệp nắm được các chính sách tài chính, tín dụng khuyến khích XKTS, bao gồm: + Miễn, giảm các loại thuế đối với sản xuất XK hàng TS. + Có chính sách tài trợ XK và thành lập quỹ hỗ trợ sản xuất, XK hàng TS và phát triển thị trường. + Khuyến khích các loại hình doanh nghiệp tham gia hoạt động XK, kết hợp XNK và vận dụng linh hoạt các phương thức mua bán quốc tế. + Thành phố ban hành các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn trung, dài hạn để đầu tư trang thiết bị hiện đại, mở rộng sản xuất và XK. - Kinh nghiệm của tỉnh Kiên Giang Kiên giang có tiềm năng lớn về kinh tế TS, với bờ biển dài 200 km, 105 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có đảo lớn nhất là đảo Phú Quốc, có diện tích trên 53 ha. Thời tiết, khí hậu ổn định, thuận lợi cho sản xuất ngư nghiệp. Ngoài ra, Kiên Giang có truyền thống về nuôi cá hầm, cá vuông (kết hợp cấy lúa và nuôi cá), nuôi tôm nước lợ, nuôi đồi mồi, sò huyết,…Nguồn lợi TS tự nhiên vùng thềm lục địa như rong biển, sò, nghêu…phong phú, đa dạng, với trữ lượng lớn. Vùng biển Kiên Giang được xác định là ngư trường trọng điểm của cả nước. Với tiềm năng to lớn về kinh tế TS, tỉnh đã xác định kinh tế TS là thế mạnh của tỉnh sau sản xuất nông nghiệp. Ngoài những ưu đãi của thiên nhiên, tỉnh Kiên Giang sớm xây dựng quy hoạch phát triển ngành TS, tỉnh đã triển khai đồng bộ các văn bản của Nhà nước, vận dụng linh hoạt vào điều kiện kinh tế của tỉnh: - Tỉnh đã nhanh chóng triển khai Luật TS 2003. - Triển khai các Chương trình tạo nguồn nguyên liệu cho XKTS: Chương trình đánh bắt xa bờ, Chương trình phát triển NTTS. - Chương trình phát triển XK của quốc gia năm 1998, năm 2006. - Triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình về quản lý chất lượng sản phẩm; chính sách khuyến khích phát triển XK của Nhà nước… Trên cơ sở các văn bản của Nhà nước, tỉnh đã huy động một lượng vốn đầu tư xây dựng một số cơ sở chế biến. Các cơ sở đã mạnh dạn đầu tư máy móc thiết bị công nghệ mới để tạo sản phẩm mới có giá trị gia tăng ngày càng cao hơn. Ngoài ra, tỉnh đã khuyến khích, nên một số nhà máy sản xuất bột cá ra đời, tạo nguyên liệu, đáp ứng nhu cầu thị trường, giảm chi phí cho người NTTS, giá thành hạ, chất lượng cao, kích thích ngư dân mở rộng quy mô NT, tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho sản xuất và chế biến XK. 1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Hà Tĩnh Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm QLNN đối với XKTS của một số nước, và một số tỉnh có tiềm năng về kinh tế TS, có thể rút ra một số bài học có giá trị đối với Hà Tĩnh: - Chính quyền địa phương đóng vai trò quan trọng trong định hướng và khuyến khích XKTS. Tỉnh sớm xác định lợi thế so sách của tỉnh, từ đó, xây dựng quy hoạch, chương trình phát triển sản xuất, XK mặt hàng được xác định là có lợi thế. Tăng cường hợp tác kinh tế của tỉnh với các tỉnh khác trong nước, tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế của tỉnh với các nước khác trên thế giới. - Chính quyền tỉnh phải hết sức năng động, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các chính sách của Nhà nước về phát triển XKTS, phù hợp với thực tiễn của tỉnh Hà Tĩnh. - Đầu tư cơ sở hạ tầng nghề cá phù hợp với sản xuất với quy mô tập trung, NT thâm canh tăng năng suất, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho chế biến, XKTS. - Quan tâm đến công tác xúc tiến XKTS, kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực chế biến XK và chế biến thức ăn phục vụ NTTS. - Chú trọng công tác bảo đảm VSATTP TS từ khâu NT, đánh bắt, bảo quản và chế biến XK. - Kiểm soát chặt chẽ dư lượng thuốc kháng sinh trong NT, bảo quản và chế biến TS. - Coi trọng công tác bảo vệ môi trường vùng nuôi, đồng thời bảo vệ nguồn lợi TS, bảo đảm phát triển TS bền vững. - Xây dựng cơ chế chính sách XKTS phù hợp với tỉnh. - Hình thành quỹ bảo hiểm rủi ro nghề cá, quỹ bảo hiểm sản xuất, XKTS. Chương 2 Thực trạng quản lý Nhà nước đối với xuất khẩu thuỷ sản của hà tĩnh trong giai đoạn 2001-2008 2.1. tiềm năng xuất khẩu thủy sản của hà tĩnh 2.1.1. Điều kiện tự nhiên Hà Tĩnh là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung bộ, có tọa độ địa lý: 17°54’ - 18°38’ vĩ độ Bắc, 105°11’ - 106°36’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía Nam giáp Tỉnh Quảng Bình, phía Tây giáp tỉnh Bôlikhămxay và Khămmuộn của Lào, phía Đông giáp biển Đông. Hà Tĩnh có vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ với cả nước, mà còn với nước bạn Lào, và vùng Đông Bắc của Thái Lan. Hà Tĩnh có điều kiện trở thành cầu nối của hai miền Nam, Bắc và điểm đầu mối quan trọng trong trục hành lang Đông Tây, với các tuyến giao thông huyết mạch đi qua: đó là Quốc lộ 1A, đường sắt, đường Hồ Chí Minh, đường biển (trục giao thông Bắc Nam; Quốc lộ 8 và Quốc lộ 12 (trục hành lang Đông - Tây) [19, tr.7] Tài nguyên thiên nhiên ở Hà Tĩnh rất phong phú Hà Tĩnh có diện tích tự nhiên 6.018,97 km2, bằng 1,8% tổng diện tích cả nước. Trong đó, diện tích đã đưa vào sử dụng là 536.779,03 ha, bằng 89 % diện tích đất tự nhiên [19, tr.7] Về tài nguyên biển, Hà Tĩnh có bờ biển dài 137 km; trên 20 con sông lớn, nhỏ đổ ra biển, với 4 cửa sông lớn tạo ra tiềm năng to lớn cho phát triển kinh tế biển. Hà Tĩnh có những cảng có giá trị kinh tế lớn như cảng biển nước sâu Vũng áng. Theo số liệu điều tra của Viện nghiên cứu Hải sản trung ương, vùng biển Hà Tĩnh có 267 loài của 90 họ, trong đó có 60 loài có giá trị, đặc biệt 20 loài tôm, mực có giá trị XK cao. Nguồn lợi TS phong phú cả về số lượng và thành phần loài như nguồn lợi tôm sú, tôm he, tôm rảo, tôm tít, tôm gai…cá nước lợ có nhiều loại có giá trị kinh tế như cá đối, cá vược, cá sú vàng, cá chai; nguồn lợi cua, biển, ghẹ, các loại rong biển và các loài nhuyễn thể khác. Trữ lượng cá là 85,8 nghìn tấn (chiếm 3%) trữ lượng cá vịnh Bắc bộ, trong đó, cá nổi 41 nghìn tấn, cá đáy 44,8 nghìn tấn. Khả năng cho phép khai thác, theo đánh giá mới đây của Bộ NN & PTNT, khoảng 34 nghìn tấn/năm, gấp gần 1,8 lần sản lượng khai thác hiện nay. Trữ lượng tôm vùng lộng 500 - 600 tấn; mực vùng lộng là 3.000 - 3.500 tấn. Dọc bờ biển có 4 cửa lạch lớn là Cửa Hội, Cửa Sót, Cửa Nhượng và Cửa Khẩu, tạo ra vùng nước lợ và bãi ngập mặn 6.000 ha, có cấu trúc đất đai, độ mặn thích hợp, có thể nuôi tôm, cua, trồng rau câu…; Cửa Khẩu có địa thế khuất gió, mực nước sâu, không bị cát bồi lấp là điều kiện tốt để xây dựng thành cảng thương mại. Đồng thời các cửa lạch cũng là những địa điểm thích hợp để xây dựng các bến cảng, cảng cá… Đặc biệt, cảng nước sâu Vũng áng, với độ sâu trên 20 m, có khả năng cho tàu có trọng tải từ 4,5-10 vạn tấn cập bến thuận lợi [19, tr.10]. Về tài nguyên nguồn nước phục vụ NTTS Hà Tĩnh có nguồn mặt nước lớn, lượng mưa hàng năm khá lớn, cùng với nguồn nước từ trên 20 con sông lớn nhỏ trong tỉnh đã tạo cho Hà Tĩnh nguồn tài nguyên nước dồi dào, khoảng 11 - 13 tỷ m3/ năm, tạo thuận lợi cho cung cấp nước NTTS. Tuy nhiên, lượng nước nhiều, nhưng phân bố không đều trong năm nên gây khó khăn cho sản xuất đời sống nói chung và kinh tế TS nói riêng. Đặc điểm của Hà Tĩnh là thiếu nước vào mùa khô và thừa nước vào mùa mưa. Tỉnh có một số hồ lớn như hồ Kẻ Gỗ, Sông Rác, Hồ Bộc Nguyên, nhưng khả năng trữ nước của các hồ này bị hạn chế. Về tài nguyên đất NTTS Đối với NTTS nước mặn, lợ, ngọt: Sở TS (nay là Sở NN & PTNT Hà Tĩnh) xác định có 7.261 ha diện tích có khả năng phát triển NTTS nước mặn, lợ; diện tích tiềm năng có thể phát triển NTTS nước ngọt là 20.012 ha, hiện nay diện tích khai thác NT thứ tự là 2.813 ha (chiếm 38,7%), 3.911 ha (chiếm 19,6 %). Đặc điểm khí hậu Khí hậu Hà Tĩnh mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, tương đối khắc nghiệt. Nhiệt độ cao tập trung vào các tháng từ 5-8, trong thời gian này có gió Nam Lào rất khắc nghiệt, lượng mưa thấp, tổng lượng bốc hơi cao và độ ẩm thấp…ảnh hưởng đến sản xuất đời sống nói chung và hoạt động NTTS nói riêng. Hà Tĩnh được xem là nơi xảy ra nhiều trận bão, lũ, ảnh hưởng lớn đến khai thác, NT, chế biến TSXK. Trung bình mỗi năm có từ 1-1,6 cơn bão trực tiếp đổ bộ vào Hà Tĩnh. Do ảnh hưởng của bão, ở Hà Tĩnh thường có mưa lớn, lũ lụt thường xảy ra. Ngoài ra, sương mù nhiều vào mùa đông và vào các tháng chuyển tiếp, do đó ảnh hưởng đến khả tăng hoà tan ôxi trong nước, tác động đến các hoạt động sống của thuỷ sinh vật. 2.1.2. Điều kiện kinh tế-xã hội ảnh hưởng tới sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản 2.1.2.1. Dân số và việc làm Theo số liệu thống kê năm 2007, dân số của tỉnh Hà Tĩnh tính đến ngày 1/7/2007, là 1.280.549 người, phân bố trên 12 thành phố, huyện, thị xã với 6.018,97 km2. Dân số khu vực thành thị chiếm 12,24%, nông thôn chiếm 87,76%. Trong đó, dân số là nam giới chiếm 49,3%, nữ chiếm 50,7%. Mật độ dân số trung bình là 213 người/1km2, xếp vào loại trung bình trong cả nước (toàn quốc 252 người/1km2). Mật độ dân cư phân bố không đồng đều theo cả hai hướng thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi. Về việc làm, theo số liệu thống kê, số lao động có việc làm trong các ngành kinh tế có đến tháng 1/7/2007 là 618.204 người, chiếm 48,3 % dân số toàn tỉnh, trong đó lao động trong ngành TS là 49.240 người chiếm 7,96 % lực lượng lao động toàn tỉnh. Số lượng lao động TS giảm về lao động đánh bắt, tăng về lao động NT. Mức sống của người dân Hà Tĩnh thấp hơn so với cả nước, GDP bình quân đầu người năm 2001 đạt 2,86 triệu đồng/người/năm. Năm 2007, con số đó là 6,403 triệu đồng/người/năm. Bảng 2.1: Lao động trong ngành TS Hà Tĩnh từ năm 2001-2008 Chỉ tiêu ĐVT 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 TT BQ % Tổng số lao động ngành thủy sản Ngư- ời 29.30 0 31.60 0 34.00 0 38.24 0 42.40 0 44.45 0 49.24 0 52.24 3 8,6 - Lao động đánh bắt ngư- ời 16.56 0 16.55 0 16.46 0 16.40 0 15.56 0 15.59 0 16.67 0 16.65 8 0,08 Tỷ trọng % 56,52 52,37 48,41 42,89 36,70 35,07 33,85 31,89 - Lao động chế biến ngư- ời 5.400 5.550 5.740 5.800 5.820 6.020 6.120 6.700 3,13 Tỷ trọng % 18,43 17,56 16,88 15,17 13,73 13,54 12,43 12,82 - Lao động nuôi ngư- 5.100 7.250 9.510 13.80 18.78 20.60 24.20 26.63 26,6 trồng ời 0 0 0 0 1 Tỷ trọng % 17,41 22,94 27,97 36,09 44,29 46,34 49,15 50,98 - Lao động dịch vụ ngư- ời 2.240 2.250 2.290 2.240 2.240 2.240 2.250 2.254 0,09 Tỷ trọng % 7,65 7,12 6,74 5,86 5,28 5,04 4,57 4,31 Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tĩnh (2007), Sở TS Hà Tĩnh (2005). Về lao động TS, ở Bảng 2.1 cho ta thấy, tốc độ tăng lao động ngành TS giai đoạn 2001- 2008 là 8,6 %, cao so với bình quân chung cả nước. Trong số lao động TS, lực lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn là lao động đánh bắt, chiếm từ 31,89-59,52%. Tuy nhiên, lực lượng lao động này có xu hướng giảm dần. Đây là xu hướng chung của cả nước, do số lao động đánh bắt chuyển sang NTTS. Lao động NTTS có tốc độ tăng trưởng khá cao, đạt bình quân 26,6%/năm, tỷ trọng lao động này tăng dần qua các năm từ 17,41-50,98%. Sở dĩ lực lượng lao động này có tốc độ tăng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong lao động TS vì: i) số lao động đánh bắt chuyển đổi nghề nghiệp sang NT TS nước mặn, lợ; ii) phong trào NTTS cả nước ngọt, mặn, lợ phát triển mạnh trong giai đoạn này do chuyển đổi ruộng đất phèn chua, ruộng trũng, ruộng nhiễm mặn, đất bãi triều, đất cát ven biển, đất đồng muối không hiệu quả sang NTTS. Truyền thống canh tác của nông dân nói chung và ngư dân nói riêng là phương thức canh tác độc canh, sản xuất mang tính nhỏ lẻ, manh mún. Trình độ văn hóa, trình độ sản xuất thấp, hiểu biết pháp luật còn thấp, không hiểu cách vận hành máy móc kỹ thuật nuôi, người dân có thói quen canh tác theo kinh nghiệm truyền thống, thiếu kế hoạch trong sản xuất, bảo thủ. Tất cả những thói quen canh tác đó không những dẫn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và chế biến, XK thường mang tính tự phát, và có nguy cơ rủi ro cao, mà còn ảnh hưởng bất lợi đối các khâu đánh bắt, NT, chế biến, bởi vì tất cả các khâu đều đòi hỏi quy trình kỹ thuật khắt khe, có kế hoạch chủ động. 2.1.2.2. Giá trị GDP và chỉ số ICOR Bảng 2.2 cho thấy một số chỉ tiêu KT-XH chủ yếu của Hà Tĩnh trong giai đoạn 2001-2007. Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu KT-XH chủ yếu của tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2001 – 2007 Chỉ tiêu ĐV T 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 1. GDP theo giá so sánh 1994 tr đồng 2.886. 731 3.303. 513 3.603. 803 3.946. 524 4.298. 949 4.708. 209 5.056. 615 Nông lâm TS tr đồng 1.415. 932 1.476. 708 1.554. 802 1.632. 630 1.654. 485 1.677. 493 1.623. 007 Tỷ trọng % 49,05 44,70 43,14 41,37 38,49 35,63 32,10 Công nghiệp xây dựng tr đồng 341.46 9 587.41 2 735.55 4 881.77 3 1.062. 688 1.291. 391 1.476. 911 Tỷ trọng % 11,83 17,78 20,41 22,34 24,72 27,43 29,21 Thương mại dịch vụ tr đồng 1.129. 330 1.238. 393 1.315. 447 1.432. 121 1.581. 776 1.739. 325 1.956. 697 Tỷ trọng % 39,12 37,49 36,50 36,29 36,79 36,94 38,70 2. Kim ngạch XK ng US D 20.825 20.539 29.138 38.380 40.431 40.339 46.575 3. Dân số trung bình Ngư ời 1.275. 000 1.277. 878 1.282. 329 1.286. 655 1.289. 056 1.288. 513 1.280. 549 4. Giải quyết việc làm Ngư ời 582.34 1 604.37 2 611.66 8 626.85 0 638.51 5 618.85 0 625.27 4 Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tĩnh (2007). Trong giai đoạn 1996-2004, tỉnh hoàn thành chỉ tiêu KT-XH mà Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra với tốc độ tăng trưởng GDP khá cao, nông nghiệp phát triển khá vững chắc. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ. Từ năm 2001 đến 2007, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 8,77%/năm (giá so sánh 1994). Cơ cấu chuyển dịch theo hướng CNH, tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Cũng thời kỳ này, GDP nông lâm ngư nghiệp tăng ổn định, bình quân 2,5%/năm. Năm 2007, GDP bình quân đầu người đạt 3,949 triệu đồng (theo giá so sánh 1994). Theo giá thực tế, con số đó là 6,403 triệu đồng, bằng 46% GDP/người so với cả nước, bằng 55,6% GDP/người so với tỉnh Nghệ An. Trong vùng Bắc Trung bộ, GDP của Hà Tĩnh chỉ lớn hơn tỉnh Quảng Bình, nhưng nhỏ hơn nhiều so với Nghệ An, Thanh Hoá. GDP của Hà Tĩnh chỉ chiếm 0,7% GDP cả nước, trong khi, tỷ trọng tương ứng của Thanh Hoá là 2,9%, Nghệ An 2,2%, Quảng Bình là 0,46% [19, tr 8]. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế Hà Tĩnh chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ giảm dần tỷ trọng ngành nông-lâm-ngư nghiệp, và chuyển dịch khá nhanh so với Bắc Trung bộ và cả nước. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành TS theo hướng tăng dần tỷ trọng khối lượng, giá trị sản phẩm NTTS, giảm dần tỷ trọng khối lượng, giá trị sản phẩm đánh bắt. Về chỉ số ICOR Chỉ số ICOR là chỉ số cho biết để tăng thêm một đồng GDP thì cần phải bỏ thêm vào bao nhiêu đồng vốn đầu tư. Kết quả tính toán chỉ số ICOR của các ngành, ta thấy hiệu quả sử dụng đồng vốn của các ngành khác nhau khá xa. Theo các chuyên gia kinh tế, chỉ số ICOR phù hợp nhất dao động trong khoảng 2,5 - 3, như vậy ngành dịch vụ và ngành TS vẫn là ngành có tiềm năng nhất đối với phát triển kinh tế của tỉnh (ngành dịch vụ trong đó có cả dịch vụ TS như chế biến TS, thu mua nguyên liệu TS…) [ 13, tr.20]. Bảng 2.3: Chỉ số ICOR một số ngành kinh tế của tỉnh Hà Tĩnh ST T Hạng mục 2002 2003 2004 2005 Toàn tỉnh 1,46 2,19 2,33 2,08 1 Nông lâm ngư nghiệp 0,73 1,19 1,58 1,06 2 Thuỷ sản 4,48 1,89 1,63 3,67 3 Công nghiệp-xây dựng 1,06 1,58 1,20 0,89 4 Dịch vụ 2,38 4,96 6,07 3,47 Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tĩnh (2006). 2.1.2.3. Tình hình một số ngành của Hà Tĩnh - Ngành nông lâm ngư nghiệp Trong những năm qua, nông lâm ngư nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính, góp phần quan trọng trong phát triển KT-XH và ổn định đời sống nhân dân. Năm 2007, giá trị sản xuất nông lâm ngư ngiệp đạt 2.367.856 triệu đồng, giảm 6,7% so với 2006, trong đó, nông nghiệp giảm 6,31 %, lâm nghiệp tăng 4,9%, TS tăng 1,97%. Sản lượng lương thực có hạt năm 2007 đạt 388.115 tấn [3]. - Ngành công nghiệp Ngành công nghiệp Hà Tĩnh có điểm xuất phát thấp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều dự án được triển khai ở Hà Tĩnh, do đó tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 1994) giai đoạn 2001-2007, đạt 22,44%. Năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 1994) đạt 1.415.791 triệu đồng, khá thấp so với các tỉnh Nghệ An, Thanh Hoá. - Ngành thương mại Theo số liệu của Cục thống kê tỉnh, tổng kim ngạch XK toàn tỉnh giai đoạn 2001- 2008 đạt 283.973 triệu USD, với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn này là 12,45%. Trong đó, kim ngạch XKTS có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn này là 11,45%, và chiếm tỷ trọng từ 15% đến 19% tổng kim ngạch XK toàn tỉnh [3]. Về cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất kinh doanh thủy sản xuất khẩu Về thuỷ lợi, toàn tỉnh có hệ thống tưới tiêu với 530 công trình lớn, nhỏ. Các công trình thuỷ lợi được chú trọng đầu tư, xây dựng, đang bước vào thời kỳ phát huy tác dụng. Hệ thống các kênh, đê phục vụ tưới tiêu nói chung đáp ứng một phần nhu cầu sản xuất nông nghiệp và sản xuất, NT chế biến TSXK nói riêng. Tuy nhiên, do địa hình bị chia cắt, độ dốc cao, thuỷ lợi khó có thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng nước trong sản xuất và đời sống, nhất là vào các tháng có gió Tây Nam, ảnh hưởng đến NT, chế biến TS. Về giao thông vận tải, hệ thống giao thông được xây dựng theo quy hoạch và hợp lý, có tính liên hoàn cao. Từ quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ và hệ thống giao thông nông thôn, với tổng chiều dài là 8.085 km. Tổng km được rải nhựa là 2.671 km, chiếm tỷ trọng 34%. Hệ thống đường sông biển, đường sắt tương đối thuận tiện. Chiều dài bờ biển 137 km với 4 cửa biển lớn thuận lợi cho vận tải đường thuỷ là Cửa Hội, Cửa Sót, Cửa Khẩu. Cảng Vũng áng đã đi vào hoạt động với công suất 400 nghìn tấn/năm và đang được đầu tư mở rộng giai đoạn II cho tàu trọng tải 45.000 tấn. Cảng biển Xuân Hải có thể cho tàu 2.000 tấn cập cảng. Đường sông có tổng chiều dài 437 km, đã đưa vào quản lý 232,5 km. Các tuyến sông này cho phép các loại tàu, thuyền xà lan với trọng tải 10-150 tấn hoạt động. Đường sắt đoạn đi qua Hà Tĩnh chỉ dài 70 km qua các huyện Đức Thọ, Vũ Quang, Hương Khê, với 11 ga, trong đó có hai ga hàng hoá. Về phương tiện vận tải, các phương tiện vận tải đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về vận chuyển khách và hàng hoá của dân cư. Về văn hoá xã hội - Về giáo dục, giáo dục đào tạo được quan tâm phát triển toàn diện ở tất cả các ngành học, bậc học. Hệ thống giáo dục phổ thông của Hà Tĩnh khá phát triển. Hệ thống giáo dục đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập trong tỉnh. Hà Tĩnh là một trong những tỉnh sớm đạt chuẩn quốc gia về giáo dục so với cả nước. Bậc tiểu học đạt chuẩn quốc gia năm 1999, bậc trung học đạt chuẩn quốc gia năm 2002. Số học sinh trên một vạn dân có xu hướng giảm do các chính sách về kế hoạch hoá gia đình có tác dụng (từ 2.881 số học sinh phổ thông/1vạn dân, năm 2002, xuống còn 2.360 học sinh phổ thông/1vạn dân, năm 2007). Tuy vậy, tỷ lệ học sinh đi học ở các cấp học đều cao hơn trung bình so với cả nước. Chất lượng giáo dục toàn diện từng bước được nâng lên. Đào tạo nghề cũng được quan tâm. Hiện tại, trên địa bàn có 1 trường Đại học, 4 trường trung học chuyên nghiệp, 1 trường dân tộc nội trú, 3 trường dạy nghề dài hạn, 1 trung tâm xúc tiến việc làm và 4 trung tâm dạy nghề và xúc tiến việc làm. Ngoài ra, mỗi huyện đều có 1 trung tâm thực hành hướng nghiệp dạy nghề. Cơ sở trường lớp từng bước được kiên cố hoá. - Về y tế, mạng lưới Y tế chăm sóc sức khoẻ phát triển khá hoàn chỉnh. Số giường bệnh/1vạn dân tăng lên đáng kể, từ 26,4 giường bệnh/1vạn dân, năm 2002 lên 29,5 số giường bệnh/1vạn dân, năm 2007. Số bác sỹ trên một vạn dân cũng có xu hướng tăng lên, từ 2,6 người năm 1995 lên 5 người năm 2005, tăng gần gấp đôi. Cơ sở vật chất ngành Y tế được củng cố. Chất lượng dịch vụ được nâng cao. 2.2. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản và quản lý Nhà nước đối với xuất khẩu thuỷ sản của Hà Tĩnh 2.2.1. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của Hà Tĩnh 2.2.1.1. Thực trạng sản xuất và chế biến hàng thủy sản xuất khẩu Bảng 2.4: Tình hình phát triển năng lực sản xuất và XKTS tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ 2001-2008 Chỉ tiêu ĐVT 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 TTB Q% 1. Tổng sản l- ượng tấn 24.9 49 25.8 42 27.8 70 28.7 36 29.6 88 30.5 56 31.3 61 32.8 38 4,00 - khai thác tấn 21.1 70 21.0 99 20.6 34 21.0 50 20.1 19 20.5 08 21.3 18 22.2 36 0,70 - nuôi trồng tấn 3779 4.74 3 7.23 6 7.68 6 9.56 9 10.0 48 10.0 43 10.6 02 15,8 8 2. Giá trị XK ng USD 2984 3.92 9 4.55 0 4.71 7 6.14 1 6.06 6 6.22 5 6.36 8 11,4 5 3. Năng lực sản xuất - Tàu thuyền máy cái 3.38 6 2.65 4 2.52 0 2.49 3 2.26 8 2.51 8 2.66 5 3.74 1 1,20 - Tổng công suất (CV) 51.4 84 48.0 48 45.2 41 56.2 64 43.2 65 49.6 70 49.5 59 60.0 85 2,23 - diện tích nuôi ha 2.96 7 3.51 7 4.55 8 5.30 4 6.08 4 6.84 3 6.72 4 6.18 4 11,0 6 - Số nhà máy chế biến nhà máy 2 2 2 2 2 3 3 3 5,96 - Tổng công suất tấn/n gày 2.4 3 3 3 3 8 8 8 18,7 7 Nguồn:Niên giám thống kê tỉnh 2007, Sở TS (nay là Sở NN&PTNT). Trong những năm đầu mới tách tỉnh, từ tỉnh Nghệ Tĩnh, lãnh đạo tỉnh đã xác định TS và là một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Trong giai đoạn từ năm 2001-2008, tổng sản phẩm theo giá so sánh do ngành TS tạo ra đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7,9 %/năm. Tỷ trọng giá trị sản phẩm của ngành trong GDP của toàn tỉnh giảm từ 4,2%, năm 2002 xuống còn 3,53%, năm 2007. Đây là xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý của tỉnh. Trong giai đoạn này, tổng giá trị sản xuất của ngành tăng bình quân 7,59%/ năm. Trong đó, giá trị khai thác TS chỉ tăng 0,454%, giá trị NTTS tăng 25,58%, chế biến, dịch vụ TS tăng 10,1%. Do đó, tỷ trọng giá trị sản xuất của khu vực khai thác giảm từ 80,56% năm 2001 xuống còn 49,85 % năm 2008. Đây là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành phù hợp với xu thế chung của đất nước và thế giới, tăng tỷ trọng NT và giảm tỷ trọng khai thác (kể cả về khối lượng và giá trị) Số liệu ở Bảng 2.4 cho thấy tổng sản lượng khai thác và NTTS của tỉnh tăng bình quân giai đoạn này là 4%/năm, trong đó sản lượng khai thác tăng không đáng kể, tăng 0,7%/năm, sản lượng NT tăng bình quân 15,58%. Sản lượng NT tăng nhiều nhất vào các năm 2001, 2002 do phong trào NTTS ở các huyện, thị xã phát triển mạnh. Năm 2008, sản lượng NT đạt 10.602 tấn, cao nhất giai đoạn này. Sở dĩ tốc độ tăng của tổng sản lượng khai thác thấp là do năng lực khai thác biển tăng không đáng kể. Do số lượng thuyền máy giảm liên tục từ 2001 đến 2005, từ 3.386 chiếc xuống còn 2.268 chiếc. Sau năm 2005, số tàu thuyền đóng mới và cải hoán có tăng lên, song không nhiều. Tính trung bình trong cả giai đoạn 2001-2008 số thuyền máy chỉ tăng bình quân 1,2%/năm. Tổng công suất khai thác giai đoạn 2001-2008 là 403.616 CV (mã lực), chỉ tăng bình quân hàng năm 2,23%. Do đó, tổng sản lượng tăng chủ yếu do tăng diện tích và tăng năng suất NTTS. Diện tích NTTS Hà Tĩnh giai đoạn này tăng bình quân 11,06%, cao nhất năm 2003, tăng 29,6%. Năm 2007, đưa vào khai thác một nhà máy chế biến TS ở Khu Công nghiệp Vũng áng. Do đó, công suất chế biến hiện nay là 300.000 tấn/năm. Về vốn đầu tư vào ngành TS Số liệu Bảng 2.5 cho thấy, vốn đầu tư vào ngành TS theo giá thực tế từ 2002-2007 là 443.522 triệu đồng, chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với vốn đầu tư toàn tỉnh (chỉ bằng 3,77 % tổng vốn đầu tư toàn tỉnh), với tốc độ tăng bình quân năm giai đoạn này là 5,35%/ năm. Tổng giá trị tài sản mới tăng lên giai đoạn 2002-2007 là 354.254 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 4,18% tổng giá trị tài sản mới tăng lên toàn tỉnh. Việc huy động vốn khó khăn, do đặc thù của nghề nghiệp tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn trong đầu tư. Ngành TS Hà Tĩnh cũng như các tỉnh khác được Nhà nước đầu tư rất thấp so với ngành khác. Năm 2005, vốn đầu tư dành cho TS (theo giá thực tế) chiếm tỷ trọng có 2,73 % vốn đầu tư toàn tỉnh. Trong khi đó, GDP TS (theo giá thực tế) chiếm 4,244 % toàn tỉnh. Thực tế cho thấy, vốn đầu tư cho ngành chưa tương xứng so với sự phát triển của ngành. Trong khi đó, vốn đầu tư cho ngành khác chiếm từ 8% đến trên 50%. Do thiếu vốn nên Hà Tĩnh khó khăn để trang bị hiện đại cho đánh bắt xa bờ, đánh bắt cá đáy, cho phát triển NT và chế biến TS. Chính hạn chế này làm cho ngành TS chưa được khai thác hết thế mạnh của mình. Bảng 2.5: Vốn đầu tư vào ngành thuỷ sản giai đoạn từ 2002-2007 ĐVT: triệu đồng,% 2002 2003 2004 2005 2006 2007 cả GĐ Vốn đầu tư thuỷ sản 76.694 74.120 51.920 60.322 80.923 99.543 443.52 2 Tốc độ tăng -3,36 -29,95 16,18 34,15 23,01 5,35 Vốn đầu tư toàn tỉnh 682.06 2 1.021. 281 1.422. 919 2.207. 761 2.889. 646 3.554. 555 11.778 .224 tốc độ tăng 49,73 39,33 55,16 30,89 23,01 39,11 tỷ trọng vốn TS/ Vốn toàn tỉnh 11,24 7,26 3,65 2,73 2,80 2,80 3,77 GT Tài sản CĐ tăng thêm ngành TS 83.643 94.154 50.684 53.614 72.159 354.25 4 Tốc độ tăng 12,57 -46,17 5,78 34,59 -3,7 GT Tài sản CĐ tăng thêm toàn tỉnh 890.31 9 1.002. 165 1.853. 388 1.989. 665 2.740. 466 8.476. 003 Tốc độ tăng 12,56 84,94 7,35 37,74 32,45 Tỷ trọng 9,39 9,40 2,73 2,69 2,63 4,18 Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tĩnh năm 2007. Về khai thác và bảo vệ nguồn lợi TS, trước đây, do khai thác hải sản gần bờ nhiều, nên số lượng tàu đánh cá gần bờ cao. Nhưng vì nguồn lợi TS gần bờ ngày càng cạn kiệt, nên số lượng tàu đánh bắt gần bờ giảm. Tuy vậy, số tàu đánh bắt xa bờ tăng qua các năm. Nhóm tàu có công suất từ 20-50 CV chiếm tỷ trọng lớn nhất 21,7% tổng số tàu có công suất; số tàu có công suất trên 90 CV là 31 cái, chiếm tỷ lệ thấp. Cả tỉnh chỉ có duy nhất một tàu dịch vụ kiểm ngư đạt công suất trên 400 CV (xem Phụ lục 1). Về sản lượng, khai thác TS biển chiếm từ 87-95 % tổng sản lượng khai thác. Tuy nhiên sản lượng khai thác hải sản tăng không đáng kể (bình quân cả giai đoạn chỉ 0,7%). Xu hướng tăng sản lượng hàng năm không đồng đều, giảm từ 2001-2003, tiếp tục giảm trong năm 2005, từ 2006, sản lượng khai thác mới có xu hướng tăng đều, và đạt sản lượng cao nhất vào năm 2008, đạt 22.236 tấn. Sản lượng khai thác hải sản thấp nhất vào năm 2005 đạt 20.119 tấn. Năm đạt sản lượng khai thác tôm ở biển cao nhất là năm 2002, đạt 339 tấn. Con số này của cá là 16.234 tấn vào năm 2003[3]. Về cơ cấu sản phẩm đánh bắt hiện nay ở Hà Tĩnh, cá vẫn là sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất (từ 77% - 83%), sau đó đến mực (14% -14,5%), tiếp đến là tôm chiếm gần (2%), cuối cùng các hải sản khác (từ 0,5% - 7%)[3] Khai thác và bảo vệ nguồn lợi TS ở Hà Tĩnh còn có những mặt hạn chế: - So với các tỉnh ven biển khác, sản lượng khai thác biển của Hà Tĩnh quá nhỏ bé. - Số lượng tàu đánh cá có trên 80% là tàu thuyền nhỏ nằm tại các xã bãi ngang. Hiệu quả sản xuất thấp, đời sống khó khăn, không có vốn đầu tư để mua sắm trang thiết bị, như lưới cụ, ngư cụ, mở rộng ngành nghề hoặc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nên công tác quản lý khó khăn. Về nuôi trồng thuỷ sản, Hà Tĩnh, được xem là tỉnh có tiềm năng về NTTS ở cả nước mặn, lẫn nước lợ và nước ngọt. Phong trào NTTS 2001-2005 phát triển rộng rãi trên toàn tỉnh, đặc biệt là nuôi TS nước lợ. Nhiều doanh nghiệp, hộ nông dân đã mạnh dạn bỏ vốn rất lớn để xây dựng và cải tạo ao nuôi tôm XK, và đã thu được kết quả cao. Qua đó, phong trào NTTS được mở rộng trong nhân dân, góp phần xoá đói giảm nghèo. Nhiều hộ ngư dân và doanh nghiệp đã làm giàu bằng nghề NTTS trong những năm qua [13, tr.31]. Nhiều hình thức NT được áp dụng như nuôi tăng năng suất, quảng canh cải tiến và nuôi thâm canh. NTTS có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong ngành TS Hà Tĩnh kể cả về sản lượng và diện tích nuôi (xem Bảng 2.6). Bảng 2.6: Diện tích nuôi trồng TS năm 2007 Chỉ tiêu Diện tích có khả năng Diện tích đã nuôi Tỷ lệ sử dụng % Số ha Tỷ trọng (%) Số ha Tỷ trọng (%) Diện tích toàn tỉnh 27.381 100 6.724 100 24,56 Diện tích nước mặn, lợ 7.261 26,52 2.813 41,84 38,74 - Nuôi cá 71 1,06 - Nuôi tôm 2.393 35,59 - Nuôi hỗn hợp và TS khác 345 5.13 - Uơm nuôi giống TS 3 0,04 Diện tích nước ngọt 20.120 73,48 3.911 58,16 19,44 - Nuôi cá 3.832 56,99 - Nuôi tôm 11 0,16 - Nuôi hỗn hợp và TS khác 27 0,40 - Uơm nuôi giống TS 41 0,61 Nguồn: Niên giám thống kê (2007), [13, tr.11, [14, t.17]. Tổng diện tích có khả năng NTTS của tỉnh là 27.381 ha. Tuy nhiên, tỷ lệ diện tích sử dụng NT còn thấp, chỉ đạt 24,56%, thấp hơn so với các vùng khác và so với cả nước (61%). Trong đó, diện tích NT nước mặn tập trung chủ yếu ở các huyện ven biển: Nghi Xuân, Lộc Hà, Thành phố Hà Tĩnh, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh. Về đối tượng nuôi, đối với NTTS nước mặn, đối tượng nuôi chủ yếu là tôm sú, tôm he chân trắng, nhuyễn thể, cua, hải sản khác. Đối với NT nước ngọt, đối tượng nuôi là: cá mè, trôi, trắm cỏ, chép VI, chép ta và cá khác. Trong những năm gần đây, đối tượng nuôi được mở rộng với những loài có giá trị kinh tế cao như ếch, baba… Về sản lượng nuôi, mặc dù tốc độ tăng trưởng về diện tích NT nước mặn và nước lợ toàn tỉnh đạt 12,1%/năm, nhưng tốc độ tăng sản lượng đạt 47,4%/năm. Điều đó có nghĩa vai trò của tăng sản lượng nuôi TS nước mặn và nước lợ của tỉnh chủ yếu do áp dụng KHCN, thay đổi phương thức nuôi theo hướng thâm canh. Tốc độ tăng trung bình về sản lượng tôm sú đạt 75,6%/năm, tôm he chân trắng đạt 19,3%/năm, tôm lợ khác 16,7%, nhuyễn thể 37,3%, cua xanh 8,3% và hải sản khác 48,9% [13, tr.7]. Dịch vụ NTTS bao gồm cung cấp giống, thuốc thu y TS và vật tư cho NTTS còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của các vùng nuôi. Sự tăng trưởng cao về sản lượng và năng suất NT trong thời gian qua cho thấy tiềm năng phát triển NTTS là rất lớn. Tuy nhiên, ngoài những thành công trên, lĩnh vực NTTS ở Hà Tĩnh còn một số hạn chế: - Hệ thống kênh mương thuỷ lợi phục vụ cho NTTS hầu như chưa có. Các vùng nuôi được xây dựng theo chương trình 773, nhưng chưa đảm bảo cho NT ở hình thức bán thâm canh và thâm canh. Hệ thống giao thông các vùng nuôi, hệ thống điện, nước ngọt cho NTTS kém. Trình độ tiếp thu kỹ thuật, khuyến ngư của ngư dân thấp, khả năng đầu tư vốn không có, nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước và tỉnh hạn hẹp [13, tr.52] - Dịch vụ cung cấp giống NTTS còn bất cập, chưa chủ động được nguồn giống. Hạn chế bất cập này xét cả về giá cả, và chất lượng giống. Dịch vụ cung cấp thức ăn NTTS cũng chưa tốt. - Năng suất NTTS tăng lên hàng năm, song thiếu ổn định, dẫn đến sản lượng NT bấp bênh. Ngoài ra, NTTS ảnh hưởng rất nhiều bởi thời tiết, khí hậu. Nắng quá, thiếu nước, hàm lượng muối trong nước quá cao gây ra dịch bệnh, không thích hợp cho NT. Chưa chủ động được nguồn nước cho NTTS do hệ thống thuỷ lợi riêng dành cho NT chưa có. - Mặc dù, quy hoạch NTTS đã được phê duyệt, song việc triển khai quy hoạch còn bất cập. Quy hoạch được xây dựng chủ yếu mới là quy hoạch tổng thể, chưa có quy hoạch từng vùng nuôi, từng địa phương, từng đối tượng nuôi, vì vậy việc kiểm soát quy mô sản xuất là khó khăn. Về chế biến thuỷ sản xuất khẩu Trong những năm qua, lĩnh vực chế biến TSXK hoạt động khá hiệu quả và tương đối ổn định. Cả tỉnh có 2 công ty chế biến TSXK, sau khi cổ phần hoá đã nhanh chóng ổn định sản xuất và trở thành đơn vị chủ lực XK của tỉnh. Đó là Công ty Cổ phần XNK TS Hà Tĩnh và Công ty Cổ phần XNK TS Nam Hà Tĩnh. Một số cơ sở tư nhân cũng cố gắng mạnh dạn đầu tư chế biến hàng TSXK. Năm 2005, sản phẩm chế biến đạt 3.600 tấn. Năm 2007, sản phẩm chế biến đạt 3.900 tấn. Tuy nhiên chế biến TS Hà Tĩnh còn một số hạn chế: - Số lượng doanh nghiệp tham gia chế biến, XK còn quá ít. Số lượng doanh nghiệp đủ điều kiện XK sang thị trường có yêu cầu cao về chất lượng, về VSATTP, về môi trường càng ít hơn. - Tỷ lệ sản phẩm chế biến trên sản phẩm khai thác còn thấp (chỉ đạt 20-25%). - Công nghệ chế biến TSXK mặc dù đã được chú trọng đầu tư, song chưa đáp ứng được đòi hỏi cao về VSATTP TS của các nước trong khu vực và thế giới. 2.2.1.2. Thực trạng xuất khẩu Về thực trạng các doanh nghiệp XKTS Tỉnh Hà Tĩnh có 21 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực TS, bao gồm NT, chế biến, XKTS. Các cơ sở chế biến TS đều được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ngành. Tuy nhiên, chỉ có 2 doanh nghiệp được cấp chứng nhận các tiêu chuẩn về HACCP và được phép chế biến XK sang thị trường EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên Bang Nga. Theo số liệu thống kê, đến tháng 12/2007, trên địa bàn tỉnh có 21 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực TS. Tuy nhiên, chỉ có 2 doanh nghiệp trực tiếp XKTS là công ty Cổ phần TS Hà Tĩnh và công ty Cổ phần TS Nam Hà Tĩnh. Hiện nay, ở Hà Tĩnh có 21 doanh nghiệp, công ty hoạt động trong lĩnh vực này.Trong đó, có 2 doanh nghiệp Nhà nước địa phương (Nhà nước nắm cổ phần chi phối); 8 công ty cổ phần (không có vốn Nhà nước); 3 doanh nghiệp tư nhân; 5 công ty trách nhiệm hữu hạn; 2 chi nhánh và 1 doanh nghiệp FDI. Doanh nghiệp nhà nước Trung ương hoạt động trong lĩnh vực này không có mặt tại Hà Tĩnh. Nhìn chung, các doanh nghiệp TS có quy mô nhỏ, chỉ có 2 công ty của Nhà nước có quy mô tương đối lớn, sản xuất chế biến ổn định. Các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH có mức độ đầu tư trang thiết bị không đồng đều, quy mô nhỏ bé, chưa đủ điều kiện XK vào thị trường EU, Nhật, Hàn Quốc...Mặc dù số lượng các doanh nghiệp ít, song đến mùa chế biến và mùa thu hoạch sản phẩm, hiện tượng tranh mua, tranh bán vẫn diễn ra trên địa bàn giữa các doanh nghiệp trong tỉnh và các doanh nghiệp ngoại tỉnh. Các doanh nghiệp trong tỉnh nhiều khi phải khai thác nguyên liệu ở thị trường các tỉnh khác, thậm chí NK để chế biến XK. Cho đến nay tình trạng này chưa được khắc phục. Trên thực tế vẫn chưa có một cơ chế phối hợp nào được xác lập đủ sức thuyết phục các doanh nghiệp cùng liên kết, phối hợp hoạt động để tạo ra sức cạnh tranh của sản phẩm TS Hà Tĩnh. Nhìn chung, năng lực của các doanh nghiệp còn hạn chế về cả tiềm lực tài chính, cả về trình độ quản trị, marketing, và khả năng giao dịch quốc tế... Một thực tế là, thị trường Trung quốc là thị trường dễ tính và sản phẩm của Hà Tĩnh khá phù hợp với thị trường này (như mực khô, tôm khô, cá khô, nguyên liệu TS...). Song, khả năng tiếp cận thị trường này của các doanh nghiệp Hà Tĩnh còn yếu kém. Sản phẩm TSXK của Hà Tĩnh vào Trung Quốc chưa tương xứng với tiềm năng. Hơn nữa, XK tiểu ngạch sang thị trường này chiếm tỷ lệ khá lớn. Theo báo cáo của Sở TS Hà Tĩnh (nay là Sở NN & PTNT Hà Tĩnh), kim ngạch XK tiểu ngạch hàng năm đạt xấp xỉ với XK chính ngạch. Chủ yếu các doanh nghiệp bán trực tiếp cho các tàu của các nước Trung Quốc, Đài Loan vào mua nguyên liệu ngay trên biển Đông, hoặc XK qua biên giới đất liền của Trung Quốc (các sản phẩm TS khô; một số đặc sản như ếch, baba). Về hoạt động của các hiệp hội. Hiện nay, Hà Tĩnh chỉ có 2 công ty tham gia Hiệp hội chế biến và XKTS Việt Nam (VASEP). Các doanh nghiệp còn lại chưa tham gia vào hiệp hội này. Các hiệp hội sản xuất, chế biến, XKTS ở Hà Tĩnh hoạt động khá mờ nhạt, chưa đủ mạnh để quy tụ các doanh nghiệp sản xuất, chế biến TSXK. Hiệp hội chưa có vai trò trong lĩnh vực hợp tác quốc tế. Tổ chức của hiệp hội lỏng lẻo, kinh phí hoạt động thiếu, thiếu người tâm huyết với nghề để đứng ra điều hành hiệp hội. Do đó, việc tổ chức phối hợp sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chưa hiệu quả. Chưa tìm kiếm khách hàng và thị trường, chưa có định hướng sản xuất và thị trường tiêu thụ... - Về kiểm định hàng hoá xuất khẩu. Kiểm định hàng TSXK là công việc mang tính chất kiểm tra của tổ chức kiểm định hàng hoá nhằm cấp giấy chứng nhận hàng hoá và xuất xứ hàng hoá. Đối với mặt hàng TS, dịch vụ kiểm nghiệm TSXK phải thông qua một số tổ chức như Bộ NN & PTNT, Cục quản lý chất lượng nông lâm sản và TS (NAFIQAD), Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi TS và một số Bộ, Ngành hữu quan... Để đảm bảo an toàn vệ sinh và chất lượng hàng TSXK, Bộ Thuỷ sản ban hành Chỉ thị 13/CT/KHCN vào tháng 6/1995. Ngày 21/8/97, Bộ ban hành chỉ thị 02/CT và 3/2/1998 ban hành văn bản số 245/CV/KHCN (hướng dẫn chỉ thị 02) và nhiều văn bản khác. Gần đây, Bộ NN & PTNT ban hành quyết định số 118/2008/QĐ-BNN, ngày 11/12/2008, quy chế kiểm tra và chứng nhận chất lượng, VSATTP hàng hoá TS. Các văn bản trên nhằm đảm bảo chất lượng VSATTP, ngăn cấm mọi tổ chức các các nhân tổ chức kinh doanh các sản phẩm TS có tạp chất lạ như kim loại, agar, tinh bột, hoá chất...gây thiệt hại về lợi ích kinh tế của đất nước và người tiêu dùng. Tuy nhiên, do trình độ giám định của các cơ quan chức năng còn thấp, cho nên vẫn còn hiện tượng sản phẩm TSXK của Việt Nam còn lẫn tạp chất, dư lượng kháng sinh vượt liều lượng cho phép. Nhiều lô hàng XK bị trả, lô hàng bị kiện do vi phạm VSATTP TS... là minh chứng cho tình trạng này. Bên cạnh đó, điểm yếu trong khâu kiểm tra hàng XK là sự lạc hậu về thiết bị phục vụ cho công tác kiểm định hàng hoá XK (thường được thực hiện bằng phương pháp thủ công, và phương pháp cảm quan). Sự phức tạp của tổ chức với nhiều đầu mối kiểm tra và quản lý chất lượng TS dẫn đến việc kiểm tra còn chồng chéo, tốn thời gian, kinh phí, kéo dài thời gian hàng lưu kho...Điều đó ảnh hưởng không tốt đến chất lượng sản phẩm TS và thời cơ kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với kiểm tra thông quan, Hải quan cửa khẩu căn cứ vào các quy định của Nhà nước đối với XNK hàng TS tiến hành làm thủ tục. Về cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu Cơ sở hạ tầng phục vụ XKTS ở Hà Tĩnh còn nghèo nàn, lạc hậu. Trong những năm qua, Nhà nước đã đầu tư một số công trình như cảng cá, chợ cá, khu neo đậu tránh bão, song so với yêu cầu thì còn nhiều bất cập. Các công trình thủy lợi tưới tiêu dùng chung cho cả sản xuất nông nghiệp và sản xuất TS. Điều này chưa hợp lý, vì quy trình nuôi TS công nghiệp đòi hỏi phải có hệ thống kênh mương riêng, đủ tiêu chuẩn để đảm bảo nuôi năng suất cao, sạch bệnh, và đảm bảo vệ sinh môi trường theo quy chuẩn. Tuy nhiên, trên thực tế, Hà Tĩnh chưa có kênh mương thuỷ lợi cấp nước NT riêng và cũng chưa có kênh mương thuỷ lợi thoát nước thải riêng. Do đó, tình trạng lây nhiễm bệnh giữa các vùng nuôi vẫn diễn ra, nhưng chưa có biện pháp xử lý. Ngoài ra, hệ thống xử lý vệ sinh NT vùng nuôi chưa được quan tâm đầu tư. Mặc dù, Cảng Vũng áng đã đi vào khai thác, song số lượng TSXK qua Cảng này còn nhỏ bé. Các kho đông lạnh lớn, phục vụ bảo quản, dự trữ nguyên liệu chế biến chưa được quan tâm đầu tư. Các công trình, điện nước phục vụ chế biến XK còn nhiều bất cập. Tình trạng thiếu điện, thiếu nước sạch chế biến TS cũng là một hạn chế lớn của tỉnh. Trong khi đó, chế biến TS đòi hỏi phải có sự chủ động lớn về nguồn điện và nguồn nước sạch. - Động thái xuất khẩu thuỷ sản + Giá trị XKTS của tỉnh trong tổng kim ngạch XK của tỉnh Bảng 2.7: Tỷ trọng, tốc độ tăng kim ngạch mặt hàng TSXK trong kim ngạch XK chung của tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2001 - 2008 Năm Chỉ tiêu ĐVT Kim ngạch chung cả tỉnh Mặt hàng TS 2001 Kim ngạch nghìn USD 20.825 2.984 tỷ trọng % 100 14,33 2002 Kim ngạch ng USD 20.539 3.929 tỷ trọng % 100 19,23 Tốc độ tăng trưởng % -1,37 31,67 2003 Kim ngạch ng USD 29.135 4.576 tỷ trọng % 100 15,71 Tốc độ tăng trwởng % 41,85 16,47 2004 Kim ngạch ng USD 38.380 4.717 tỷ trọng % 100 12,29 Tốc độ tăng trưởng % 31,73 3,08 2005 Kim ngạch ng USD 40.858 6.141 tỷ trọng % 100 15,03 Tốc độ tăng trưởng % 6,46 30,19 2006 Kim ngạch ng USD 40.339 6.066 tỷ trọng % 100 15,04 Tốc độ tăng trưởng % -1,27 -1,22 2007 Kim ngạch ng USD 46.575 6.225 tỷ trọng % 100 13,37 Tốc độ tăng trưởng % 15,46 2,62 2008 Kim ngạch ng USD 47.319 6.368 tỷ trọng % 100 13,46 Tốc độ tăng trưởng % 1,60 2,30 Cả giai đoạn Tổng kim ngạch ng USD 283.970 41.006 tỷ trọng % 100 14,44 Tốc độ tăng trưởng bình quân năm % 12,45 11,45 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh năm (2005), năm (2007). Kim ngạch XKTS của Hà Tĩnh từ năm 2001 đến năm 2008 đã tăng nhanh chóng, năm sau cao hơn năm trước. Từ 2.984 nghìn USD, năm 2001, lên 6.368 nghìn USD, năm 2008, tăng gấp hơn 2 lần. Tổng giá trị XKTS giai đoạn này đạt 41.006 nghìn USD, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 11,45%/năm. Năm 2008, kim ngạch XKTS đạt 6.368 nghìn USD, tăng 2,23% so với năm 2007. Trong tổng KNXK của tỉnh, TS luôn là mặt hàng chiếm tỷ trọng khá, từ 14%-19% tổng KNXK hàng năm. Mặt hàng TSXK vẫn là mặt hàng XK ổn định và quan trọng của tỉnh Hà Tĩnh (Bảng 2.7) + Về cơ cấu mặt hàng TSXK và kim ngạch XKTS của Hà Tĩnh Bảng 2.8: Khối lượng sản phẩm TSXK giai đoạn 2001-2008 ĐVT: tấn, nghìn USD,% Mặt hàng 2001 2002 2003 2004 2005 KL % KL % KL % KL % KL % Tổng khối lượng 798 100 1.14 2 100 1.122, 2 100 975 100 1.132 100 Tôm đông lạnh các loại 162 20,3 0 158 13,8 4 172,0 15,3 3 332 34,0 5 452 39,9 3 Mực đông lạnh 478 59,9 0 600 52,5 4 565,2 50,3 7 347 35,5 9 438 38,6 9 Cá các loại 121 15,1 6 264 23,1 2 242,0 21,5 6 161 16,5 1 154 13,6 0 Ghẹ 31,6 3,96 102 8,93 143,0 12,7 4 135 13,8 5 88 7,77 ốc hương 3,8 0,48 18 1,58 0,00 0,00 0,00 Tôm nguyên con 1,6 0,20 0 0,00 0,00 0,00 0,00 Mặt hàng 2006 2007 2008 Cả giai đoạn KL % KL % KL % KL % tốc độ TTB Q Tổng khối luợng 1.03 2 100 1.00 6 100 1.007 100 8.214, 2 100 3,38 Tôm đông lạnh các loại 503 48,7 4 526 52,2 9 581 57,7 0 2.886, 0 35,1 3 20,01 Mực đông lạnh 324 31,4 0 221 21,9 7 203 20,1 6 3.176, 2 38,6 7 - 11,51 Cá các loại 120 11,6 3 160 15,9 0 122 12,1 2 1.344, 0 16,3 6 0,113 Ghẹ 85 8,24 99 9,84 101 10,0 3 784,6 9,55 18 ốc hương 0,00 0,00 0,00 21,8 0,27 Tôm nguyên 0,00 0,00 0,00 1,6 0,02 con Nguồn: Niên giám thống kê Hà Tĩnh 2005, 2007, số 2008 dự ước của thông kê tỉnh. Số liệu Bảng 2.8, cho ta thấy, trong suốt cả giai đoạn 2001-2008,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp quản lý Nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan