Luận văn Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Tây

Tài liệu Luận văn Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Tây: LUẬN VĂN: Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Tây LỜI MỞ ĐẦU Tín dụng là một hoạt động quan trọng trong bất cứ một NHTM hay một nền kinh tế nào, một quốc gia muốn tận dụng tối ưu nguồn lực kinh tế của mình thì nhất thiết phải cần đến hoạt động tín dụng. Còn đối với các NHTM thì tín dụng là một hoạt động cơ bản không thể thay thế, tín dụng mang lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng và là hoạt động mà thông qua đó ngân hàng thể hiện tốt chức năng trung gian tài chính của mình. Mặc dù vậy tín dụng lại là hoạt động chứa đựng nhiều nguy cơ tiềm ẩn mà các nhà quản lí, điều hành ngân hàng có kinh nghiệm nhất cũng không thể dự đoán được hết được. Rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng, mặc dù, khi xảy ra có thể gây tổn thất cho NHTM nhưng nó có thể coi là một đặc trưng không thể tách rời của hoạt động tín dụng. Do vậy, hạn chế rủi ro tín dụng giảm thiểu tổn thất có thể gặp phải là một hoạt động hết sức...

pdf54 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 970 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Tây, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Tây LỜI MỞ ĐẦU Tín dụng là một hoạt động quan trọng trong bất cứ một NHTM hay một nền kinh tế nào, một quốc gia muốn tận dụng tối ưu nguồn lực kinh tế của mình thì nhất thiết phải cần đến hoạt động tín dụng. Còn đối với các NHTM thì tín dụng là một hoạt động cơ bản không thể thay thế, tín dụng mang lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng và là hoạt động mà thông qua đó ngân hàng thể hiện tốt chức năng trung gian tài chính của mình. Mặc dù vậy tín dụng lại là hoạt động chứa đựng nhiều nguy cơ tiềm ẩn mà các nhà quản lí, điều hành ngân hàng có kinh nghiệm nhất cũng không thể dự đoán được hết được. Rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng, mặc dù, khi xảy ra có thể gây tổn thất cho NHTM nhưng nó có thể coi là một đặc trưng không thể tách rời của hoạt động tín dụng. Do vậy, hạn chế rủi ro tín dụng giảm thiểu tổn thất có thể gặp phải là một hoạt động hết sức quan trọng quyết định tới sự sống còn của các NHTM hiện đại. Đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập toàn cầu hiện nay, chúng ta đã ra nhập WTO, khi mà hàng loạt các quy định pháp luật về ngân hàng đều phải thay đổi cho phù hợp với thông lệ thế giới thì các NHTM càng cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng và ứng dụng tốt các giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng để có thể tự bảo vệ mình trước những rủi ro tiềm ẩn. Chính vì tầm quan trọng của vấn đề trong hoạt động của NHTM, và để có thể bồi dưỡng và hoàn thiện kiến thức của mình trước khi tốt nghiệp em đã chọn đề tài: “Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Tây” làm đề tài tốt nghiệp của mình. Em cũng hy vọng, những đề xuất, kiến nghị trong đề tài của mình có thể đóng góp phần nào đó giúp cho ngân hàng có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu phòng ngừa tốt rủi ro tín dụng trong môi trường kinh doanh đầy sôi động hiện nay. Kết cấu chuyên đề gồm 3 phần: - Chương 1: Những vấn đề cơ bản về Rủi ro tín dụng NHTM - Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại NH ĐT&PT Việt Nam chi nhánh Hà Tây - Chương 3: Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại NH ĐT&PT Việt Nam chi nhánh Hà Tây CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.1. KHÁI NIỆM, CHỨC NĂNG VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1. Khái niệm NHTM Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. 1.1.2.Chức năng của NHTM trong nền kinh tế thị trường Chức năng của NHTM có thể khái quát lại bao gồm: Trung gian tài chính: Chức năng này của ngân hàng xuất phát từ nhu cầu chuyển từ tiết kiệm thành đầu tư của các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Bao gồm hai loại cá nhân, tổ chức hoàn toàn độc lập với ngân hàng: các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt trong chi tiêu (chi cho tiêu dùng và chi cho đầu tư vượt quá thu nhập) và các tổ chức, cá nhân thặng dư trong chi tiêu (thu nhập hiện tại lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ). Sự tồn tại của ngân hàng đã làm khắc phục được sự hạn chế trong quan hệ tín dụng trực tiếp so sự không phù hợp về qui mô, thời gian, không gian…Do chuyên môn hoá, trung gian tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch. Như vậy trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn cho nhà đầu tư, từ đó khuyến khích đầu tư. Tạo phương tiện thanh toán: Trước kia ngân hàng tạo ra phương tiện thanh toán bằng cách phát hành giấy nhận nợ được chấp nhận rộng rãi. Phương tiện thanh toán này dần thay thế tiền kim loại và nó trở thành tiền giấy. Từ khi các ngân hàng không còn được phát hành tiền giấy riêng của mình, cùng với sự phát triển thanh toán qua ngân hàng khách hàng có thể thực hiện thanh toán, chi trả hàng hóa dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, tiền tệ được quan niệm bao gồm: tiền giấy trong lưu thông, số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng, tiền gửi trên các tài khoản tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn…Khi ngân hàng cho khách hàng vay số dư trên tài khoản thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó bằng việc cho vay ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán. Mặt khác, toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này qua ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Trung gian thanh toán: Ngân hàng thay mặt khách thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ với nhiều hình thức khác nhau như: thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ,…Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. 1.1.3.Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại 1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại, là hoạt động đóng va trò quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng có thể phân loại thành vốn chủ sở hữu và vốn nợ. 1 Vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài. Nguồn hình thành và nghiệp vụ huy động loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng cũng như là yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Bao gồm: - Nguồn vốn hình thành ban đầu - Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động - Các Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần 2 Vốn nợ: Là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng nguồn vốn. Vốn nợ được huy động từ các nguồn cơ bản sau: Tiền gửi: là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Nó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Tiền gửi có thể phân loại thành: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn của của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các ngân hàng khác,… Tiền vay: Ngoài nguồn tiền gửi thì khi có nhu cầu ngân hàng vẫn phải vay mượn thêm. Các nguồn ngân hàng có thể đi vay: + Vay NHNN (NHTW): Là khoản vay của các NHTM để đáp ứng những nhu cầu cấp bách trong chi trả hay thiếu hụt dự trữ. Hình thức phổ biến được áp dụng khi được NHNN cho vay là hình thức tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng. + Vay các tổ chức tín dụng khác: Là hoạt động vay vốn thực hiện trên thị trường liên ngân hàng. Việc vay vốn được thực hiện giữa các ngân hàng có mức dự trữ vượt yêu cầu muốn kiếm lời với các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn để đảm bảo khả năng thanh khoản. + Vay trên thị trường vốn: Các ngân hàng thực hiện vay trên thị trường vốn bằng cách phát hành các giấy nợ như: kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu. Nguồn vốn này được các ngân hàng huy động để bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn.Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Khả năng huy động của một NHTM sẽ phụ thuộc vào uy tín của chính ngân hàng hoạc mức lãi xuất mà ngân hàng đưa ra, do đó việc huy động vốn theo hình thức này sẽ gặp nhiều khó khăn ở các NHTM nhỏ. Đây là một nghiệp vụ huy động vốn tương đối phức tạp do đó các ngân hàng cần cân nhắc kỹ trước khi ra quyết định huy động. - Vốn nợ khác: Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán và các nguồn khác. 1.1.3.2. Hoạt động cho vay - Cho vay thương mại Đây là hoạt động chiết khấu thương phiếu mà thực tế là người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng, sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với người mua, giúp cho người mua có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. - Cho vay tiêu dùng Cho vay tiêu dùng là hoạt động ngân hàng cho các cá nhân và hộ gia đình vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua nhà, mua ô tô hay tiêu dùng…Cho vay tiêu dùng xuất hiện sau cho vay thương mại do rủi ro của các khoản vay này trước đây là tương đối cao. Tuy nhiên các khoản vay này có tốc độ tăng trưởng ngày càng cao xuất phát từ sự cạnh tranh cho vay giữa các NHTM. - Tài trợ dự án Là hoạt động cho trung và dài hạn như tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển các ngành công nghệ cao, cho vay đầu tư vào đất,… 1.1.3.3. Các hoạt động khác - Mua, bán ngoại tệ - Bảo quản hộ tài sản (vàng, giấy tờ có giá và các tài sản khác) - Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán - Quản lý ngân quĩ: quản lí việc thu và chi cho một số doanh nghiệp và cá nhân trong xã hội. - Tài trợ các hoạt động của Chính phủ - Bảo lãnh: Ngân hàng bằng uy tín của mình đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng của mình trong các hợp đồng mua mua sắm trang thiết bị, mua hàng hoá, phát hành chứng khoán, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác… - Cho thuê thiết bị trung và dài hạn: Ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với những điều kiện nhất định. - Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn: Các cá nhân và doanh nghiệp nhờ ngân hàng quản lí tài sản, quản lí tài chính hộ thậm chí là uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư…Bên cạnh đó các ngân hàng còn được coi như những chuyên gia tư vấn tài chính hỗ trợ các khách hàng trong việc ra các quyết định kinh tế. - Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Ngân hàng có thể tổ chức ra công ty chứng khoán độc lập hoặc tự mình bán các dịch vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng. - Cung cấp dịch vụ bảo hiểm: ngân hàng có thể liên doanh với các công ty bảo hiểm, tổ chức các công ty bảo hiểm con hoặc cung cấp các dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí… - Cung cấp các dịch vụ đại lí: Nhiều ngân hàng cung cấp dịch vụ đại lí cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ… 1.2. TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG 1.2.1. Khái niệm - Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. - Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Trong nền kinh tế thị trường cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng. Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM. Đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm tới hơn 1/2 tổng tài sản có và thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Mặt khác, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng. 1.2.2. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng và phân loại rủi ro tín dụng Trong bất kì hình thái xã hội nào tín dụng luôn mang các đặc trưng cơ bản sau: tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin, là quan hệ vay mượn có thời hạn và là quan hệ vay mượn có hoàn trả. Với những đặc trưng như vậy có rất nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng: - Phân loại theo cơ cấu các loại hình rủi ro: rủi ro theo khoản cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn hay vay khoản tín dụng hợp vốn. - Phân loại theo nguồn gốc hình thành có: + Rủi ro từ phía người cho vay (ngân hàng, các tổ chức tín dụng) gồm: Rủi ro ở khâu chính sách, rủi ro ở khâu nghiên cứu, theo dõi, quản lý và xử lý rủi ro, rủi ro ở khâu thông tin, rủi ro ở khâu cán bộ, rủi ro ở công tác kiểm tra, kiểm soát. + Rủi ro từ phía người vay gồm: Rủi ro về đạo đức (chủ quan); Rủi ro do khả năng tài chính yếu kém của người vay; Rủi ro do biến động khả năng kinh doanh của người vay; Rủi ro từ phía người điều hành doanh nghiệp, mối quan hệ của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác; Rủi ro bất khả kháng. - Phân loại khác: Rủi ro từ khâu quản lý, kiểm tra của NHNN; Rủi ro phát sinh từ chế độ chính sách của Nhà nước; Rủi ro quốc gia; Rủi ro môi trường; Rủi ro khác như sự đánh giá không khách quan, chính xác của cơ quan công chứng đối với tài sản thế chấp, do việc cho vay bị áp đặt bởi cấp trên... 1.2.3. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng có thể xảy ra Nhận diện rủi ro qua đó có những giải pháp tối ưu giúp ngân hàng ngăn ngừa và xử lý các khoản tín dụng có vấn đề là khâu quan trọng trong quản lý rủi ro tín dụng. Sau khi khoản vay phát sinh và được phân loại, cán bộ tín dụng luôn phải theo dõi, giám sát khoản vay để nhận diện rủi ro thông qua các dấu hiệu cảnh báo sau: 1.2.3.1. Nhóm các dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng + Có những dấu hiệu không muốn công khai tình hình tài chính cho ngân hàng hoặc trì hoãn gửi các báo cáo tài chính mà không đưa ra được nguyên nhân thuyết phục. Hoặc không thực hiện đầy đủ các qui định, vi phạm pháp luật trong quá trình quan hệ tín dụng. + Thường xuyên phải xin ngân hàng gia hạn hoặc có dự giảm sút bất thường của tài khoản tiền gửi mở tại Ngân hàng hoặc thường xuyên gia tăng mức độ vay, yêu cầu các khoản vay quá nhu cầu dự kiến. + Chậm thanh toán các khoản trả lãi khi đến hạn; Thanh toán các nợ gốc không đầy đủ, đúng hạn. + Đánh giá quá cao và không quản lí hợp lí tài sản thế chấp, hoặc không đánh giá được giá trị thực của nó. + Có dấu hiệu cho thấy khách hàng trông chờ các nguồn thu nhập bất thường khác, không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính.. + Khách hàng có dấu hiệu vay tại nhiều tổ chức khác nhau để đáp ứng nhu cầu của mình, đặc biệt từ các đối thủ cạnh tranh của ngân hàng. + Khách hàng chấp nhận vay với một lãi suất cao. Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quan lý, tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. + Có sự chênh lệch giữa doanh thu và lợi nhuận thực tế so với dự kiến mà không có lí do hợp lí.. Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt động của khách hàng. + Doanh nghiệp thay đổi thường xuyên ban điều hành, cơ cấu tổ chức. + Có dấu hiệu cho thấy việc sử dụng vốn không đúng mục đích. Hoặc phát hiện việc sử dụng vốn không thực sự hiệu quả như khảo sát ban đầu hay có dấu hiệu doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc phát triển sản phẩm dịch vụ mới. + Những thay đổi trong chính sách của nhà nươc, của chính phủ tác động tới chính sách thuế, xuất nhập khẩu. + Đối với khách hàng là tư nhân cá thể, có dấu hiệu người vay bị bệnh kéo dài hoặc chết. 1.2.3.2. Nhóm các dấu hiệu xuất phát từ chính sách tín dụng của ngân hàng Nhóm dấu hiệu này yêu cầu Ngân hàng phải thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, cụ thể bao gồm: + Trong quá trình đánh giá khách hàng, Ngân hàng đã đánh giá không đúng về mức độ rủi ro, khả năng tài chính của khách hàng. + Cho vay mới với giá trị cao hơn nhưng không có thêm tài sản thế chấp. + Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng và năng lực kiểm soát cũng như nguồn vốn của Ngân hàng. + Cán bộ thực hiện khoản vay một cách không hợp lí, bỏ qua các bước cần thiết trong quy trình tín dụng, dựa phần nhiều giữa quan hệ khách hàng với mình. + Chính sách tín dụng quá cứng nhắc hay lỏng lẻo để kẽ hở cho khách hàng lợi dụng. + Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ các quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng. + Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá: giảm thấp lãi suất cho vay, phí dịch vụ hay thực hiện chiến lược “giữ chân” khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ không quan hệ với các TCTD khác mặc dù biết rõ các khoản tín dụng sẽ cấp tiềm ẩn rủi ro cao. 1.2.4. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng Đối với nền kinh tế Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác nhau, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997) và mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn cầu ít nhiều liên quan đến rủi ro tín dụng cùng dòng tiền đầu tư trực tiếp lẫn gián tiếp giữa các quốc gia. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan. Đối với ngân hàng Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không có hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng ngân hàng thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng vì thế mà ảnh hưởng tới thu nhập và lợi nhuận của ngân hàng, nghiệm trọng có thể đưa ngân hàng tới bờ vực phá sản. Nói tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản lý ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay. 1.3. CÁC NGUYÊN NHÂN CỦA RỦI RO TÍN DỤNG Tín dụng ngân hàng là hoạt động có ý nghĩa hết sức quan trọng trong nền kinh tế, nó tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, tham gia vào mọi lĩnh vực và liên quan tới mọi thành phần kinh tế. Chính vì vậy rủi ro trong hoạt động tín dụng chịu nhiều tác động của nhiều yếu tố khác nhau kể cả các yếu tố khách quan và chủ quan của ngân hàng. Nhận biết các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng là một công việc hết sức quan trọng. Quá trình này đòi hỏi phải phân tích theo cả ba hướng: - Các nguyên nhân khách quan từ phía môi trường - Năng lực thanh toán nợ và thái độ sẵn sàng chi trả của khách hàng - Sai sót trong quá trình cho vay của ngân hàng 1.3.1. Nguyên nhân khách quan 1.3.1.1. Sự biến động về chính trị - pháp luật Ngành ngân hàng luôn có một vị trí quan trọng tại mỗi quốc gia nên các ngân hàng luôn bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lí chặt chẽ. Cũng chính vì vậy ngành ngân hàng là một trong nhiều ngành chịu ảnh hưởng lớn trước mỗi sứ biến động của chính trị. Sự biến động về chính trị - pháp luật ảnh hưởng trực tiếp đến ngân hàng hoặc khách hàng của họ đều có nguy cơ gây ra rủi ro tín dụng. Ta có thể thấy sự tác động này ở một số khía cạnh sau: - Sự không đầy đủ, đồng bộ, chặt chẽ, hoàn thiện trong các quy định của Nhà nước cũng có thể gây ra rủi ro cho hệ thống Ngân hàng. - Tình hình chính trị biến động phức tạp trong nước và thế giới như: Chiến tranh, khủng bố... hay sự thay đổi chính sách đối ngoại, chính sách xuất nhập khẩu, pháp luật... - Những quyết định, điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước như: điều chỉnh về lãi suất tái cấp vốn; quy định về phân loại nợ và trích lập, sử dụng dự phòng tín dụng,... ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận cũng như khả năng phòng ngừa rủi ro của các NHTM. Đứng trước những tác động như vậy, các NHTM muốn tự bảo vệ được mình thì phải nắm chắc những qui định của pháp luật, đồng thời phải dự báo được xu hướng thay đổi của chính trị-pháp luật để từ đó có biện pháp điều chỉnh phù hợp. 1.3.1.2. Sự biến động của môi trường kinh tế Sự biến động của môi trường kinh tế trong nước và thế giới, sự tăng trưởng hay suy thoái của chu kỳ kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của người đi vay, là nguyên nhân dẫn đến sự thành công hay thất bại của người đi vay. Trong giai đoạn kinh tế tăng trưởng, doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi trong kinh doanh, doanh số bán ra của doanh nghiệp lớn mạng lại cho doanh nghiệp lợi nhuận cao. Lợi nhuận cao của doanh nghiệp làm cho khả năng thu hồi nợ của ngân hàng tăng lên. Ngược lại, khi mà nền kinh tế trong thời kỳ suy thoái, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đi vay vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn, việc tiêu thụ hàng hoá- dịch vụ không hoàn thành kế hoạch làm giảm sút thu nhập và lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngân hàng khi đó sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thu hồi lãi và gốc đúng hạn của các khoản tín dụng. Tuỳ vào mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng mà việc ảnh hưởng lên cá nhân và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng như lên khả năng thanh toán các khoản nợ của họ ở mức độ khác nhau: mức độ khủng hoảng càng cao, sức mua của nguời tiêu dùng càng giảm sút làm cho hàng hoá bán ra càng giảm mạnh, ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Thất nghiệp tăng cho vay cá nhân tại các ngân hàng cũng dễ gặp rủi ro lớn…. Ngoài ra lạm phát cũng ảnh hưởng bất lợi đến công việc kinh doanh: chi phí đầu vào tăng làm cho các doanh nghiệp khó khăn về tài chính dẫn đến nhu cầu tín dụng tăng. Nợ không thay đổi tương ứng với sức mua đồng tiền, vì vậy đã trở nên gánh nặng đối với doanh nghiệp, kết quả là không trả đuợc nợ. 1.3.1.3. Nguyên nhân về văn hoá – xã hội Thói quen, hành vi tiêu dùng của khách hàng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp, chính vì vậy nó cũng là nhân tố gây ra rủi ro tín dụng cho các NHTM. Trong khi đó, hành vi của khách hàng lại chịu sự chi phối rất lớn của các yếu tố văn hoá – xã hội, để nhận biết được các yếu tố này thay đổi không phải là công việc đơn giản, đòi hỏi phải có sự kết hợp nhiều nghiên cứu về các lĩnh vực: xã hội học, tâm lý... 1.3.1.4. Sự thay đổi môi trường công nghệ Sự thay đổi về công nghệ có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế và xã hội. Nó làm thay đổi phương thức sản xuất, cách thức tiêu dùng và cả phương thức trao đổi của xã hội nói chung và của xã hội nói riêng. Mỗi kĩ thuật công nghệ thường tạo ra một hệ quả lâu dài nhưng lại khó dự kiến trước. Khi có một công nghệ hiện đại xuất hiện có thể làm giảm giá trị của các máy móc cũ, các tài sản đảm bảo của khách hàng không còn giá trị như ban đầu và rất nguy hiểm cho ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ. Ngoài ra còn nhiều yếu tố như thiên tai, dịch bệnh…mà ngân hàng không thể lường hết được đều có thể gây rủi ro cho hoạt động tín dụng. Trong thời gian vừa qua chúng ta đã ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm ảnh hưởng đến người chăn nuôi gia cầm, khi người chăn nuôi gia cầm phải tiêu huỷ đàn gia cầm của mình có nghĩa là họ sẽ khó có khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng, hàng loạt các ngân hàng có khách hàng làm nghề chăn nuôi gia cầm đều phải tiến hành gia hạn nợ cho khách hàng của mình. Các yếu tố khách quan nêu trên thường khó dự báo và ngân hàng thường không thể lường hết được. Mọi ngân hàng kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường không thể loại bỏ hết rủi ro mà chỉ phòng ngừa và dự báo một phần nào mà thôi. 1.3.1.5. Nguyên nhân từ phía khách hàng Rủi ro từ phía khách hàng thường là nguyên nhân chính và cổ điển nhất dẫn đến rủi ro tín dụng. Khách hàng vì muốn được cho vay, cho nên sẽ cung cấp cho ngân hàng những thông tin tốt về mình, thậm chí là những thông tin không chính xác khi mà khách hàng không đáp ứng được những điều kiện tín dụng mà ngân hàng yêu cầu. Ngân hàng nếu nhận được những thông tin không chính xác từ khách hàng mà không có sự chủ động thu thập thông tin, thẩm định để có thể đưa ra phán quyết tín dụng chính xác thì ngân hàng sẽ phải đối mặt với nguy cơ tổn thất là rõ ràng. Một số trường hợp cá biệt khi khách hàng không có thiện chí trả nợ mặc dù có khả năng. Đó là những trường hợp ngân hàng cần phải thận trọng, những khách hàng này thường có đặc điểm chấp nhận những khoản vay có lãi suất cao và vay với khối lượng lớn. Đối với khách hàng là cá nhân thì rủi ro thường xảy ra khi họ lâm vào tình trạng: thất nghiệp, ốm đau, bệnh tật… 1.3.2. Nguyên nhân chủ quan Bên cạnh những tác động bất khả kháng từ bên ngoài và những rủi ro xuất phát từ khách hàng thì rủi ro tín dụng có thể xuất phát từ chính bản thân ngân hàng. Điều này xuất phát từ đặc điểm hoạt động của ngân hàng: - Chính sách tín dụng của ngân hàng chưa hợp lí: Khi các chế độ tín dụng của ngân hàng như điều kiện về lựa chọn khách hàng cho vay, điều kiện về tài sản đảm bảo, qui trình xét duyệt tín dụng...không đầy đủ, đúng đắn và thống nhất sẽ tạo ra định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng.Việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, và hạn mức tạo ra nhiều kẽ hở cho người sử dụng vốn… đều là nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro tín dụng. - Trình độ cán bộ tín dụng cũng thường là nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng: khi cán bộ tín dụng không am hiểu nghiệp vụ, ngành nghề kinh doanh xin vay,…hoặc đạo đức nghề nghiệp không tốt đều có thể dẫn đến rủi ro. - Do chủ trương lôi kéo khách hàng để tăng khả năng canh tranh, các ngân hàng cố tình hạ thấp các điều kiện tín dụng, đánh giá khách hàng, công tác thẩm định tín dụng bị đơn giản hoá hoặc khi ngân hàng muốn duy trì mối quan hệ với các khách hàng truyền thống mà thực hiện giãn nợ, gia hạn nợ, đảo nợ trong khi biết rằng khả năng trả nợ của khách hàng là không cao. - Không thực hiện tốt công tác đảm bảo tín dụng như định giá tài sản đảm bảo, kiểm tra kiểm soát giấy tờ liên quan, cũng như quá trình vận hành sử dụng...để khách hàng lợi dụng nâng giá tài sản để nâng số tiền được vay. Rủi ro tín dụng do đó mà tăng lên. 1.4. BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sử dụng vốn của các NHTM đòi hỏi các ngân hàng phải thực hiện nhiều biện pháp khác nhau. Những biện pháp này đều hướng đến một quy trình tín dụng chặt chẽ và giám sát quy trình này trong quá trình hoạt động. Các biện pháp đó là: 1.4.1. Chọn lọc người vay và giám sát quá trình sử dụng tiền vay Chọn lọc người vay là một khâu quan trọng nhất trong quy trình tín dụng ngân hàng, phán quyết tín dụng sẽ quyết định đến thu nhập và khả năng xảy ra tổn thất của ngân hàng. Việc lựa chọn người vay giúp ngân hàng loại trừ được những khách hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, sàng lọc, phân loại khách hàng để có chính sách quản lí và chăm sóc phù hợp. Để thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi ngân hàng phải có được một bộ phận thu thập thông tin tốt, bộ phận này sẽ giúp cán bộ tín dụng có cơ sở để đánh giá chính xác về khách hàng tránh rủi ro từ lựa chon đối nghịch. Điều này cũng có nghĩa ngân hàng cần phải luôn tạo cho mình ở thế chủ động khi bất kì khách hàng nào đến vay vốn. Nguyên tắc cũng chỉ ra ngân hàng cần thiết lập cho mình một quy trình giám sát quá trình sử dụng tiền vay chặt chẽ. Vấn đề này lại chỉ có thể thực hiện tốt khi thông tin ngân hàng nắm được là chính xác và kịp thời. 1.4.2. Đưa ra quy tắc cho vay, chuyên môn hoá việc cho vay và duy trì quan hệ khách hàng lâu dài Quy tắc cho vay là những quy định của ngân hàng dựa trên quy định của pháp luật và quy định của NHNN cũng như hướng dẫn của Hội sở chính về những điều khoản mà khách hàng phải tuân thủ trong một quy trình tín dụng ngân hàng. Mỗi một hệ thống NHTM có một hệ thống các quy tắc riêng, nhưng nhìn chung là thống nhất với nhau ở điểm là đều giúp cho ngân hàng và khách giảm thiểu được chi ph, thời gian và loại trừ được những hành vi, giao dịch lừa đảo, gian lận... Sự chuyên môn hoá trong hoạt động tín dụng giúp cán bộ tín dụng có thể phát huy hết năng lực của mình và cho phép khách hàng đến xin vay giảm thời gian một cách tối đa khi đến giao dịch với ngân hàng. Đặc biệt, các ngân hàng cần có mức độ ưu tiên cho những khách hàng có mối quan hệ lâu dài, ổn định với mình. 1.4.3. Đa dạng hoá Đa dạng hoá trong hoạt động cho vay là sự tăng cường, mở rộng các sản phẩm tín dụng ngân hàng về hình thức, phương thức thực hiện cũng như là sự mở rộng hoạt động tín dụng đối với những khách hàng mới, các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh mới có nhiều tiềm năng. Công tác này đòi hỏi ngân hàng không nên qua chú trọng vào một loại hình sản phẩm, một loại khách hàng, một ngành nghề lĩnh vực hay một đồng tiền nhất định.Việc đa dạng hoá hoạt động tín dụng không những giúp cho ngân hàng có thêm nguồn thu nhập mới, có thêm được những có hội kinh doanh mới mà quan trọng hơn nữa là giúp cho ngân hàng hạn chế được những rủi ro đặc thù. 1.4.4. Bảo đảm, bảo lãnh, bảo hiểm Bảo đảm, bảo lãnh, bảo hiểm là những biện pháp cần thiết để NHTM giảm thiểu được những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu khi khách hàng không có khả năng hoàn trả khoản tín dụng ngân hàng đã giải ngân. Đây không phải là một nguyên tắc bắt buộc trong quy trình cho vay, không phải tất cả các khoản tín dụng đều phải có bảo đảm, bảo lãnh hay bảo hiểm, tuy nhiên để tự bảo vệ mình trước những khách hàng có mức độ rủi ro cao, những khách hàng mạo hiểm... ngân hàng cần ràng buộc trách nhiệm của các khách hàng này và đảm bảo nguồn thu thứ hai khi rủi ro xảy ra. Khi đó đảm bảo tiền vay là một biện pháp hữu ích. Đây không phải là một nguyên tắc khi quyết định cho vay mà chỉ giúp các ngân hàng có thể tạo cho mình một nguồn thu thứ hai khi có rủi ro trong khoản vay đã cấp. Ngân hàng cần nêu rõ cho cán bộ tín dụng hiểu rằng không phải mọi khoản tín dụng cần phải có đảm bảo. Tuy nhiên để tự bảo vệ mình trước những khách hàng có mức rủi ro cao, họ cần ràng buộc trách nhiệm của các khách hàng này và đảm bảo tiền vay là một biện pháp hữu ích. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ & PHÁT TRIỂN VIỆT NAM CHI NHÁNH HÀ TÂY 2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ & PHÁT TRIỂN VIỆT NAM CHI NHÁNH HÀ TÂY 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân Hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam Chi nhánh Hà Tây NH ĐT&PT Việt Nam tiền thân là ngân hàng kiến thiết Việt Nam được thành lập theo quyết định số 117/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/04/1957. Trải qua gần 50 năm hoạt động, xây dựng và trưởng thành với các tên gọi khác nhau: + Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam và trực thuộc bộ Tài chính (26/04/1957). + Ngân hàng Đầu tư & Xây dựng Việt Nam thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (26/06/1981) + Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (14/11/1990) Hiện nay, NH ĐT&PT Việt Nam là một doanh nghiệp Nhà nước giữ hạng đặc biệt, là ngân hàng chuyên ngành về lĩnh vực đầu tư và phát triển được thành lập sớm nhất tại Việt Nam, đã và đang hoạt động theo mô hình tổng công ty Nhà nước quy định tại Quyết Định số 90/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 07/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ, có các chức năng nhiệm vụ sau: 1 Huy động vốn trung và dài hạn từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế khác để đầu tư phát triển. 2 Kinh doanh đa năng tổng hợp về tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. 3 Làm ngân hàng đại lý, phục vụ cho đầu tư và phát triển từ các nguồn của chính phủ, các tổ chức kinh tế, tài chính, các tổ chức xã hội trong và ngoài nước. Với tư cách là chi nhánh ngân hàng trực thuộc NHĐT & PT Việt Nam thì nhiệm vụ cũng như sự phát triển của chi nhánh NHĐT & PT Hà Tây không tách rời sự phát triển và nhiệm vụ của ngành. Nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình, trong những năm qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn thử thách nhưng NHĐT & PT Hà Tây vẫn sát hướng phát triển kinh tế của địa phương của ngành để tự vươn lên, thích nghi và đứng vững trên thị trường. Chi nhánh NHĐT & PT Hà Tây luôn thực hiện phương châm “Lấy an toàn trong kinh doanh, đáp ứng cao nhất nhu cầu của khách hàng về sản phẩm dịch vụ ngân hàng với chất lượng tốt nhất”. Với sự cố gắng và nỗ lực vươn lên không ngừng, trong năm qua NHĐT & PT Hà Tây đã được Nhà nước tặng huân chương Lao động hạng nhì cùng nhiều bằng khen của ngành, của Đảng, của Nhà nước và Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây, đóng góp vào danh hiệu “Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới” và giải thưởng “Sao vàng đất Việt” của NHĐT & PT Việt Nam. 2.1.2. Mô hình, cơ cấu tổ chức của NH ĐT&PT Hà Tây Giám đốc: là người đứng đầu và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc NHĐT&PT Việt Nam về điều hành chi nhánh NHĐT&PT Hà Tây Các Phó giám đốc: Hiện nay chi nhánh NHĐT&PT Hà Tây có 2 Phó giám đốc được Giám đốc phân công phụ trách một số công việc và trực tiếp chỉ đạo một số phòng thuộc bộ máy của chi nhánh NHĐT&PT Hà Tây (gọi tắt là phụ trách khối). Trưởng các phòng, ban thuộc NHĐT&PT Hà Tây chịu trách nhiệm điều hành, giải quyết các mặt công tác thuộc chức năng nhiệm vụ của phòng ban mình và phải chịu trách nhiệm về các vấn đề đó. Hình 1: Mô hình tổ chức của NHĐT & PT Hà Tây 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của NH ĐT&PT Hà Tây trong thời gian gần đây 2.1.3.1. Các loại hình sản phẩm dịch vụ của NH ĐT&PT Hà Tây NH ĐT&PT Hà Tây là NHTM Nhà nước, đơn vị thành viên trong hệ thống NH ĐT&PT Việt Nam, kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Trong những năm qua Chi nhánh đã vượt qua khó khăn thử thách để vươn lên đứng vững và phát triển, không ngừng sáng tạo để xây dựng, phát triển các dịch vụ của mình. Hiện nay chi nhánh đã và đang cung cấp các loại hình sản phẩm dịch vụ: - Dịch vụ tiền gửi - Sản phẩm tín dụng - Dịch vụ thanh toán trong nước - Dịch vụ thanh toán quốc tế - Dịch vụ bảo lãnh - Hoạt động kinh doanh tiền tệ - Dịch vụ thẻ - Một số dịch vụ mới như: Phone Banking, Home Banking, trả lương tự động… 2.1.3.2. Đánh giá chung về tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Trong mấy năm gần đây hệ thống ngân hàng phát triển mạnh, nhiều ngân hàng ngoài quốc doanh được hình thành do vậy sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây cũng phải chịu sự cạnh tranh với các ngân hàng trên địa bàn như Ngân hàng công thương, Ngân hàng Nông nghiệp, ngân hàng CP quân đội và các Ngân hàng thương mại khác ngoài ra những biến động không lường trước của nền kinh tế...nhưng chi nhánh vẫn giữ vững được thành tích trong hoạt động kinh doanh của mình. Bảng 1: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh qua 2 năm 2005 và 2006 STT Năm Chỉ tiêu 2005 2006 I Tổng tài sản 1.238 1.555 Huy động vốn Huy động vốn cuối kỳ 1.140 1.496 Huy động vốn bình quân 970 1.195 Huy động vốn TTCK 306 576 Huy động vốn VNĐ 915 1.248 Thị phần huy động vốn 18 19 III Tín dụng Dư nợ tín dụng 916 1.104 - Ngắn hạn 495 588 - Trung, dài hạn 414 516 - Kế hoạch Nhà nước + Chỉ định 7 - 2 Dư nợ theo loại tiền VNĐ 809 995 3 Dư nợ tín dụng bình quân 870 1,085 4 Tỷ trọng dư nợ T,DH/ Tổng dư nợ (%) 46 49 5 Tỷ trọng dư nợ ngoài quốc doanh/ Tổng dư nợ (%) 17 15 6 Tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo/ Tổng dư nợ (%) 59 64 Nợ quá hạn 4,1 3,1 - Ngắn hạn 1,5 2,5 - Trung, dài hạn 0,3 0,6 - Kế hoạch Nhà nước và Chỉ định 2,3 - 8 Tỷ lệ nợ xấu theo điều 6 1,5 1,93% 9 Tỷ lệ nợ xấu theo điều 7 - 6,58% 10 Nợ hạch toán ngoại bảng 13 16 11 Thu nợ hạch toán ngoại bảng 1,8 1,97 12 Thu nợ chỉ định 0,83 0,77 13 Dư lãi treo 9,8 3,6 14 Thị phần tín dụng 15 14 IV Dịch vụ 1 Thu dịch vụ 5,3 7,8 2 Thu dịch vụ ròng 5,2 7,76 Cơ cấu thu dịch vụ ròng - Thanh toán (TT+TT Quốc tế) 2,7 3,3 - Bảo lãnh 2 3,9 - Kinh doanh ngoại tệ 0,388 0,4 - Phát hành thẻ ATM 0,097 0,056 - Thu khác 0,015 0,102 V Kết quả kinh doanh 1 Chênh lệch thu chi (Chưa trích DPRR) 27,3 39,9 2 Trích Dự phòng rủi ro (DPRR) 8 17,7 3 Lợi nhuận trước thuế 19,3 22,2 4 Lợi nhuận sau thuế bình quân / người 0,16 0,166 5 Chênh lệch đầu vào - đầu ra 2,8 3,1 Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn NHĐT&PT Hà Tây(Đơn vị: tỷ đồng) 2 Tổng tài sản đạt 1.555 tỷ đồng tăng 26% so với đầu năm ( số tuyệt đối tăng 317 tỷ đồng) 3 Nguồn vốn huy động đạt 1.496 tỷ đồng tăng lên 31 % so với đầu năm (số tuyệt đối tăng 356 tỷ đồng) và đạt 115% kế hoạch được Trung Ương giao. 4 Dư nợ tín dụng (Không bao gồm Uỷ thác đầu tư, nợ khoanh chờ xử lý) đạt 1.104 tỷ đồng, tăng trưởng 21% so với đầu năm (số tuyệt đối tăng 188 tỷ đồng, đảm bảo đúng giới hạn tín dụng Trung Ương giao. Tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn đạt 49% (So với kế hoạch Trung Ương giao là 50%); Tỷ trọng dư nợ ngoài Quốc doanh đạt 16% (So với kế hoạch Trung Ương giao là 12%); Tỷ trọng dư nợ có tài sản đẳm bảo là 64% (So với kế hoạch Trung Ương giao là 64%). 5 Tỷ lệ nợ quá hạn là 0,27% (So với kế hoạch Trung Ương giao <1%) 6 Lợi nhuận trước thuế đạt 22.193 triệu đồng, đạt 115% (Kế hoạch Trung Ương giao 12%). 7 Thu dịch vụ ròng đạt 7.758 triệu đồng, tăng 49% so với năm 2005, (số tuyệt đối tăng 2.538 triệu đồng) đạt 121% Kế hoạch Trung Ương giao lần 1 và 93 % Kế hoạch Trung Ương giao lần 2. 8 Số dư quỹ dự phòng rủi ro đạt 21.538 triệu đồng. Trong năm 2006 trích 17.700 triệu đồng, đạt 133 % kế hoạch Trung Ương giao. Hoạt động kinh doanh của Chi nhánh năm 2006 đã bám sát định hướng phát triển kinh tế của Tỉnh, mục tiêu nhiệm vụ Kế hoạch kinh doanh của Ngân hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam để tập trung chỉ đạo quyết liệt nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác quản trị điều hành và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2006 của Chi nhánh đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức đồng bộ toàn diện các chỉ tiêu Kế hoạch kinh doanh Trung Ương giao, một số chỉ tiêu có tốc độ tăng trưởng cao như chỉ tiêu huy động vốn cuối kỳ tăng 33% so với năm 2005 đạt 115% kế hoạch Trung Ương giao, chỉ tiêu thu dịch vụ ròng tăng 49% so với 2005, đạt 121% kế hoạch Trung Ương giao lần 1, chỉ tiêu trích lập dự phòng rủi ro vượt 33% kế hoạch Trung Ương giao… 2.1.3.3. Đánh giá trên một số mặt hoạt động cụ thể 1 Công tác huy động vốn Xác định công tác huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm để mở rộng kinh doanh, nâng vị thế và năng lực cạnh tranh trước mắt cũng như lâu dài. Chính vì vậy, ban lãnh đạo Chi nhánh đã quán triệt chỉ đạo tập trung đẩy mạnh công tác huy động vốn dưới nhiều hình thức và bằng nhiều giải pháp. Nhờ đó nguồn vốn huy động của Chi nhánh đã tăng rõ rệt qua các năm. 9 Huy động vốn bình quân năm 2006: 1.195 tỷ đồng tăng 23% so với đầu năm, đạt 105% kế hoạch Trung Ương giao. 10 Huy động cuối kỳ: 1.496 tỷ đồng, tăng 31% so với đầu năm, đạt 115 % kế hoạch Trung Ương giao. 11 Công tác tín dụng, bảo lãnh Hoạt động tín dụng của Chi nhánh mặc dù có những khó khăn nhất định do nhiều cơ chế chính sách trong và ngoài ngành thay đổi để từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế. Nhưng với phương châm Chất lượng- tăng trưởng bền vững- hiệu quả- an toàn. Chi nhánh đã tập trung được trí tuệ của tập thể, bám sát chỉ đạo của Ngân hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam để quyết liệt chỉ đạo hoàn thành tốt kế hoạch Trung Ương giao cho. Kết quả: Tổng dư nợ tín dụng đạt 1104 tỷ đồng tăng 21% so với đầu năm (số tuyệt đối tăng 188 tỷ đồng) đạt 98% giới hạn tín dụng Trung Ương giao. Như vậy, quy mô tín dung của Chi nhánh ngày càng được mở rộng đáp ứng nhu cầu vay vốn ngày càng cao của khách hàng. 2 Công tác phát triển dịch vụ Hoạt động dịch vụ năm 2006 có những bước phát triển mạnh mẽ thể hiện: Thu dịch vụ ròng đạt 7.758 triệu đồng, tăng 49% so với năm 2005, (số tuyệt đối tăng 2.538 triệu đồng) đạt 121% kế hoạch Trung Ương giao lần 1 và đạt 93% kế hoạch Trung Ương giao lần 2. Nâng tỷ trọng thu dịch vụ ròng/ lợi nhuận trước thuế từ 26% năm 2005 lên 31% năm 2006. Tuy nhiên, thu dịch vụ tại Chi nhánh chủ yếu tập trung vào các sản phẩm dịch vụ truyền thống như: dịch vụ bảo lãnh chiếm tỷ trọng 50%, dịch vụ thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế chiếm tỷ trọng 43%. Chi nhánh NHĐT&PT Hà Tây đã và đang từng bước tiến tới mô hình ngân hàng hiện đại, thực hiện kinh doanh đa năng. Các hoạt động của chi nhánh dần được nâng cao và mở rộng. Chi nhánh đã triển khai xây dựng kế hoạch và đề án phát triển đồng bộ các tiện ích ngân hàng, trong đó chú trọng đẩy mạnh các loại hình dịch vụ mới như: ATM, PhoneBanking, HomeBanking… nhằm thu hút thêm nguồn vốn, nâng cao cơ cấu giữa nguồn vốn và sử dụng, tạo tiền đề cho nâng cao hệ số sinh lời, ứng dụng triển khai chương trình hiện đại hoá giao dịch ngân hàng để thúc đẩy mở rộng các loại hình dịch vụ thông qua công tác tiền mặt, thanh toán chuyển tiền, dịch vụ kho quỹ. 3 Kết quả, hiệu quả kinh doanh, trích lập dự phòng rủi ro Với mục tiêu tăng trưởng- an toàn- hiệu quả. Kinh doanh phải có lãi góp phần cho tích luỹ Nhà nước, do vậy Chi nhánh đã tích cực đôn đốc thu lãi, tiết kiệm chi tiêu, chấn chỉnh công tác quản lý tài sản cơ quan theo hướng thực hành tiết kiệm, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh. + Chênh lệch thu chi năm 2006: 39,9 tỷ đồng tăng 46% so với năm 2005 đạt 115% kế hoạch Trung Ương giao. + Trích đủ dự phòng rủi ro 17,7 tỷ đạt 133% kế hoạch Trung Ương giao. +Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên ròng đạt 3,28%. Chênh lệch lãi xuất bình quân đầu vào – đầu ra: 3,1%. Với kết quả đó, đời sống của của cán bộ công nhân viên được cải thiện và nâng lên rõ rệt, tạo sự yên tâm phấn đấu trong công tác của cán bộ công nhân viên. 4 Các mặt mặt hoạt động khác: Quan hệ khách hàng; Công tác kiểm tra, kiểm soát; Công tác tổ chức bộ máy nhân lực; Công tác chỉ đạo điều hành… đều bám sát định hướng của Ngành, mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương và chỉ đạo của NH ĐT&PT Việt Nam để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ được giao. 2.2. THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NH ĐT&PT VIỆT NAM CHI NHÁNH HÀ TÂY 2.2.1. Tình hình hoạt động tín dụng tại Chi nhánh 2.2.1.1. Mối quan hệ theo quy trình tín dụng với các bộ phận khác Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của Chi nhánh. Do đó hoạt động của phòng tín dụng có quan hệ với rất nhiều phòng ban chức năng khác. Trên cơ sở nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ của từng phòng ban có thể thấy được mối quan hệ theo quy trình tín dụng với các bộ phận khác như sau: - Phòng tín dụng phối hợp với phòng dịch vụ khách hàng trong việc giải ngân, xử lí nợ phát sinh, thu hồi nợ gốc, lãi và phí dịch vụ. - Phối hợp với tổ thẩm định và quản lí tín dụng trong việc chấm điểm khách hàng, định giá tài sản đảm bảo, thẩm định dự án, quản lí và xử lí nợ xấu phát sinh. - Phối hợp với phòng nguồn vốn trong việc mua, bán ngoại tệ, điều chuyển nguồn vốn và định kỳ lập các báo cáo cần thiết. - Xin tham vấn các vấn đề liên quan tới pháp lý với bộ phận kiểm tra nội bộ. - Phối hợp với bộ phận tài chính kế toán trong việc lập sổ sách và xử lí chứng từ. - Phối hợp với bộ phận kho quỹ trong việc quản lí tài sản đảm bảo tiền vay. 2.2.1.2. Phân cấp uỷ quyền phán quyết tín dụng Phân cấp quản lý của NHĐT&PT Việt Nam quy định rõ mức phán quyết của từng chức vụ cụ thể trong sổ tay tín dụng của Ngân hàng, từ chức vụ tổng giám đốc cho tới trưởng các quỹ tiết kiệm và sở giao dịch. Chi nhánh NHĐT&PT là chi nhánh cấp 1 nên được phân cấp phán quyết như sau: Phân cấp uỷ quyền theo quyết định của NH ĐT&PT Việt Nam - Giám đốc chi nhánh: Tổng giám đốc uỷ quyền thường xuyên mức tối đa cho vay, bảo lãnh đối với Giám đốc chi nhánh cấp 1. Trường hợp vượt quá thẩm quyền phán quyết, Tổng giám đốc sẽ có văn bản giao quyền từng lần - Phó giám đốc chi nhánh: Phó giám đốc phụ trách tín dụng được uỷ quyền phán quyết với mức tối đa bằng 50% thẩm quyền thực tế của Giám đốc chi nhánh. - Trưởng phòng tín dụng: được uỷ quyền phán quyết với mức tối đa bằng 40% (đối với khách hàng doanh nghiệp), 20% (đối với khách hàng Cá nhân, cá thể, hộ sản xuất…không phải là pháp nhân ) so với mức thẩm quyền thực tế của Phó giám đốc. - Phó phòng tín dụng: được uỷ quyền phán quyết với mức tối đa bằng 50% mức uỷ quyền phán quyết tín dụng thực tế của Trưởng phòng tín dụng. Bảng2: Mức uỷ quyền cụ thể kèm theo quyết định 1369 GIỚI HẠN DƯ NỢ CAO NHẤT Cho vay Bảo lãnh Tổng công ty Doanh nghiệp Khác Tổng công ty Doanh nghiệp Khác 70 40 2.5 50 35 1 Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn NHĐT&PT Hà Tây(Đơn vị: tỷ đồng) Phân cấp uỷ quyền theo quyết định của Giám đốc chi nhánh - Các trường hợp được Hội đồng tín dụng Chi nhánh xét duyệt: + Xét duyệt hạn mức tín dụng và Hạn mức bảo lãnh + Xét duyệt các dự án cho vay trung- dài hạn của Doanh nghiệp có số tiền vay từ 5 tỷ trở lên + Xét duyệt các khoản vay của tư nhân, cá thể có số tiền vay từ 100 triệu đồng trở lên + Xét duyệt các khoản vay không có đảm bảo trên 10 triệu đồng và một số trường hợp cụ thể khác - Đối với phó giám đốc Chi nhánh: Bảng 3 : Mức uỷ quyền cụ thể kèm theo quyết định 1369 đối với Phó giám đốc GIỚI HẠN DƯ NỢ CAO NHẤT ĐỐI VỚI PHÓ GIÁM ĐỐC Cho vay Bảo lãnh Tổng công ty Doanh nghiệp Khác Tổng công ty Doanh nghiệp Khác 35 20 1,25 25 17,5 0,5 Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn NHĐT&PT Hà Tây(Đơn vị: tỷ đồng) Việc quy định cụ thể như trên đã quy định rõ mức trách nhiệm của từng cán bộ có thẩm quyền, qua đó tăng tính chịu trách nhiệm với khoản vay. Hơn nữa, phân cấp phán quyết sẽ giúp cho NH kiểm soát tốt các khoản tín dụng, tránh tăng trưởng quá nóng, dễ gây ra rủi ro tín dụng lớn mà bản thân NH cũng không có khả năng chịu được. 2.2.1.3. Quy trình tín dụng Quy trình tín dụng được băt đầu từ khi Cán bộ tín dụng (Bộ phận quan hệ trực tiếp với khách hàng) nhận hồ sơ khách hàng và kết thúc khi tất toán thanh lí hợp đồng tín dụng. Quy trình tín dụng ngắn hay dài hạn đều bao gồm các bước cơ bản sau: Bước 1: Tiếp nhận và hướng dẫn khách hàng về hồ sơ vay vốn. Kiểm tra hồ sơ của khách hàng có đầy đủ và hợp lệ hay không bao gồm: +Hồ sơ pháp lý +Hồ sơ khoản vay +Hồ sơ bảo đảm tiền vay Đối với tín dụng trung-dài hạn, do quy mô và tính chất phức tạp hơn tín dụng ngắn hạn nên hồ sơ cần phải yêu cầu chặt chẽ hơn, trong đó nhất thiết phải có hồ sơ về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các báo cáo nghiên cứu khả thi và tiền khả thi đối với dự án, báo cáo đầu tư,…và các quyết định phê duyệt dự án của các cấp có thẩm quyền, thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán dự án…các giấy tờ chứng minh tính hợp pháp, hợp lệ của Tài sản đảm bảo. Bước 2: Thẩm định các điều kiện tín dụng Cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định chịu trách nhiệm tiến hành thẩm định những nội dung sau: - Thẩm định về năng lực pháp lý của khách hàng. - Thẩm định về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính, năng lực hoạt động và uy tín của khách hàng. - Thẩm định khả năng đáp ứng nguồn vốn, lãi suất, thời hạn cho vay của ngân hàng. - Thẩm định về phương thức và nhu cầu vay; phương án sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng (Đối với quy trình tín dụng ngắn hạn). - Thẩm định kinh tế kỹ thuật của dự án (Đối với quy trình tín dụng dài hạn). - Thẩm định các biện pháp đảm bảo tiền vay. Bước 3: Xét duyệt cho vay, ký kết hợp đồng tín dụng. Quyết dịnh cho vay của Lãnh đạo phải thể hiện rõ các ý kiến sau: - Chấp thuận cho vay, các điều kiện đề nghị khách hàng phải thực hiện trước khi ký kết hợp đồng tín dụng và trước khi giải ngân. - Hoặc đề nghị các phòng tham gia thẩm định giải trình thêm các vướng mắc. - Từ chối không cho vay phải đưa ra lý do từ chối. Nếu quyết định cho vay thì ngân hàng và khách hàng tiến hành ký kết hợp đồng tín dụng theo mẫu quy định. Bước 4: Giải ngân, theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay. Khách hang và cán bộ tín dụng hoàn thiện hồ sơ pháp lý và thực hiện thủ tục giải ngân: - Đối với tín dụng ngắn hạn khách hàng khi có nhu cầu rút vốn, khách hàng gửi đến cho ngân hàng những chứng từ chứng minh nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng kinh tế phát sinh. Cán bộ tín dụng kiểm tra, nếu hợp lệ thì giải ngân và lập tờ trình giải ngân trình lãnh đạo. - Đối với tín dụng trung-dài hạn thủ tục giải ngân: + Kiểm tra và trình duyệt giải ngân lên lãnh đạo phê duyệt + Quyết định giải ngân: lãnh đạo xem xét và quyết định đồng ý hay từ chối giải ngân. + Hoàn thiện hồ sơ và trả lời khách hàng. + Giải ngân cho khách hàng. Sau khi giải ngân, cán bộ tín dụng phải kiểm tra việc sử dụng số vốn đã giải ngân, đối chiếu tài sản vay với tài sản được đầu tư, kiểm tra khối lượng thực hiện, tài sản đã mua sắm, đối chiếu với mục đích đầu tư theo dự án, dự toán được duyệt và hợp đồng tín dụng đã ký kết. Bước 5: Thu nợ, lãi, phí và xử lí phát sinh. Cán bộ tín dụng theo dõi việc thu nợ theo từng hợp đồng tín dụng đã ký cho từng dự án, cho từng khách hàng, gồm có: theo dõi số dư tiền gửi của khách hàng, theo dõi trả nợ gốc, trả nợ lãi và trả phí đối với các khoản vay có phí. Bước 6: Thanh lí hợp đồng tín dụng. Khi khách hàng trả hết nợ, cán bộ tín dụng tiến hành đối chiếu, kiểm tra với phòng kế toán về số tiền trả nợ gốc, lãi, phí, để tất toán khoản vay. Có thể thấy quy trình tín dụng như trên có thể giúp chi nhánh có thể ra quyết định một cách khá chính xác về năng lực khách hàng. Đó cũng là một cách hiệu quả chi nhánh đã áp dụng để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng khi cho vay là các doanh nghiệp trong thời gian vừa qua. 2.2.1.4. Nhận xét về kết quả đạt được Tính đến thời điểm cuối năm 2006, đầu năm 2007 Phòng tín dụng của Chi nhánh có quan hệ tín dụng với hơn 40 khách hàng lớn, chủ yếu là các Doanh nghiệp Nhà nước hoặc có vốn cổ phần chi phối của Nhà nước. Trong đó có quan hệ với các đơn vị trực thuộc 7 tổng công ty. Hầu hết các khách hàng đều là khách hàng truyển thống và có đến 65% khách hàng thuộc lĩnh vực xây lắp. Do đó quy trình tín dụng thực hiện đơn giản hơn ở bước 1 và 2: là bước tiếp nhận khách hàng và thẩm định các điều kiện vay vốn do hồ sơ đã được thẩm định và lưu trữ tại kho Ngân hàng, cán bộ tín dụng chỉ cần bổ sung thêm hồ sơ trong trường hợp cần thiết, hơn nữa việc thường xuyên phát sinh quan hệ tín dụng với chi nhánh nên họ nắm rất rõ các thủ tục cần thiết, công việc của cán bộ tín dụng nhờ đó mà tiến hành nhanh chóng hơn. Dư nợ tín dụng ngắn hạn của Chi nhánh vào thời điểm cuối tháng 12/2006 là 588 tỷ đồng (chiếm 53,26% tổng dư nợ). Điều này cho thấy nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Mặt khác hệ thống NH ĐT&PT với đặc trưng là cho vay phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển nên tỷ lệ dư nợ cho vay trung và dài hạn thường xuyên ở mức cao, thường xuyên chiếm trên 40% tổng dư nợ. Tính đến thời điểm 31/12/2006, dư nợ dài hạn của chi nhánh đạt 46,74% tổng dư nợ của chi nhánh. Hiện tại, Chi nhánh đã và đang cho vay nhiều dự án lớn với thời hạn tương đối dài, điển hình là dự án đầu tư Trung tâm xúc tiến thương mại Hà Đông với giá trị 55 tỷ, giải ngân trong vòng 5 năm Với những khách hàng mang tính chất đặc thù như vậy cũng tạo cho chi nhánh những thách thức không nhỏ. Bởi vì các dự án vay vốn phục vụ cho đầu tư xây lắp có mức độ rủi ro cao, cán bộ tín dụng đòi hỏi phải có sự am hiểu kỹ thuật cao. Hơn nữa, quy mô vốn lớn của các dự án dạng này buộc ngân hàng phải tìm các biện pháp tăng cường tài sản đảm bảo, thắt chặt các điều kiện cho vay, hạn mức tín dụng cũng như là phải nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác phân tích khách hàng để đảm bảo hiệu quả, an toàn và sinh lời của đồng vốn Ngân hàng. 2.2.2. Thực trạng rủi ro trong hoạt động tín dụng tại chi nhánh 2.2.2.1. Quy mô, cơ cấu, chất lượng các khoản tín dụng tại Chi nhánh Bảng 4: Thực trạng hoạt động tín dụng tại NH ĐT&PT Hà Tây ỉ Thời điểm báo cáo 31/12/06 %TH %KH Dư nợ tín dụng 916 1.163 1.104 21 95 - Ngắn hạn 495 588 19 - Trung, dài hạn 414 516 25 - Kế hoạch Nhà nước + Chỉ định 7 - - 2 Dư nợ theo loại tiền VNĐ 809 995 23 3 Dư nợ tín dụng bình quân 870 1,085 25 4 Tỷ trọng dư nợ T,DH/ Tổng dư nợ (%) 46 50 49 5 Tỷ trọng dư nợ ngoài quốc doanh/ Tổng dư nợ (%) 17 12 15 6 Tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo/ Tổng dư nợ (%) 59 64 64 Nợ quá hạn 4,1 11,6 3,1 -24% - Ngắn hạn 1,5 2,5 - Trung, dài hạn 0,3 0,6 - Kế hoạch NN và Chỉ định 2,3 - 8 Tỷ lệ nợ xấu theo điều 6 1,5 2 1,93% 9 Tỷ lệ nợ xấu theo điều 7 - 6,58% 10 Nợ hạch toán ngoại bảng 13 16 23 11 Thu nợ hạch toán ngoại bảng 1,8 2,1 1,97 93 12 Thu nợ chỉ định 0,83 0,73 0,77 106 13 Dư lãi treo 9,8 3,6 14 Thị phần tín dụng 15 14 Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn NHĐT&PT Hà Tây(Đơn vị: tỷ đồng) Như vậy tính đến thời điểm 31/12/2006: 11 Dư nợ tín dụng (Không bao gồm Uỷ thác đầu tư, nợ khoanh chờ xử lý) đạt 1.104 tỷ đồng, tăng trưởng 21% so với đầu năm (số tuyệt đối tăng 188 tỷ đồng, đảm bảo đúng giới hạn tín dụng Trung Ương giao. 12 Về cơ cấu tín dụng: Cơ cấu tín dụng được đổi mới và chuyển dịch theo hướng mở rộng cho vay tất cả các thành phần kinh tế và dân cư, mọi ngành nghề kinh doanh được Nhà nước cho phép. Cụ thể: + Tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn đạt 49% (Kế hoạch Trung Ương giao tối đa 50%) + Tỷ trọng dư nợ ngoài Quốc doanh đạt 15% (Kế hoạch Trung Ương giao là 12%) + Tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo là 64% (Kế hoạch Trung Ương giao là 64%) 13 Về chất lượng tín dụng: + Tỷ lệ nợ quá hạn 0,27% + Tỷ lệ nợ xấu theo điều 6 QĐ 493: 1,93% + Tỷ lệ nợ xấu theo điều 7 QĐ 493: 6,58% + Chỉ đạo quyêt liệt và tập trung các giải pháp để xử lý nợ xấu gắn với công tác thu hồi nợ xấu, trong năm Chi nhánh đã thu nợ ngoại bảng đạt: 2.607 triệu đồng đạt 102% kế hoạch Trung Ương giao. Thu nợ chỉ định 864 triệu đạt 102% kế hoạch Trung Ương giao 14 Nợ quá hạn: Tỷ lệ nợ quá hạn là 0,27% (So với kế hoạch Trung Ương giao <1%).Như đã thấy ở các phần trên ta có thể dễ dàng nhận thấy chi nhánh NHĐT&PT Hà Tây đang có tỉ lệ nợ quá hạn rất nhỏ. Đây là một chỉ tiêu mà nhiều ngân hàng thương mại khác cần phấn đấu đạt được. Trong phần này ta sẽ nghiên cứu kĩ hơn về thực trạng nợ quá hạn tại chi nhánh để thấy rõ hơn chất lượng tín dụng và rủi ro tín dụng mà chi nhánh đang gặp phải. Nợ quá hạn tại chi nhánh hầu như là nợ quá hạn ngắn hạn, và nợ quá hạn phần lớn đều là nợ quá hạn có tài sản đảm bảo. Ta có thể xem xét nợ quá hạn của chi nhánh qua bảng sau: Bảng 5: Thực trạng rủi ro tín dụng thể hiện qua chỉ tiêu nợ quá hạn Năm Chỉ tiêu 2005 2006 Tổng dư nợ 916 1104 Tổng nợ quá hạn -0 Nợ quá hạn, ngắn hạn -1 Nợ quá hạn trung, dài hạn -2 Kế hoạch Nhà nước + Chỉ định 4.1 1.5 0.3 2.3 3.1 2.5 0.6 0 % so với tổng dư nợ (Nợ quá hạn/Tổng dư nợ) 0.45 0.28 Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2006 Doanh số cho vay của chi nhánh tăng lên (từ 916 tỷ đồng lên 1104 tỷ đồng) trong khi tổng nợ quá hạn lại giảm đi (từ 4,1 xuống còn 3,1 tỷ đồng) đã làm cho Tỷ lệ (%) nợ quá hạn so với tổng dư nợ của chi nhánh giảm mạnh từ 0,45% xuống 0,28% trong khi nợ quá hạn ngắn hạn tăng lên. Điều này chứng tỏ chất lượng của các khoản tín dụng của chi nhánh đã tăng lên đáng kể. Đây là tín hiệu đáng mừng đối với hoạt động kinh doanh mà Chi nhánh cần phải tiếp tục duy trì và phát huy trong thời gian tới. Tuy nhiên nợ quá hạn ngắn hạn và nợ quá hạn trung-dài hạn lại tăng lên, trong thời gian tới ngân hàng cần phải có biện pháp để khắc phục tình trạng này để đảm bảo an toàn nguồn vốn ngân hàng. - Nợ xấu: Trước năm 2005, khi chưa có quyết định 493 về phân loại nợ xấu thì chỉ tiêu NQH là chỉ tiêu chính phản ánh RRTD tại Chi nhánh. Từ năm 2005 trở đi thì chỉ tiêu Nợ xấu là chỉ tiêu chính, đó là nợ được phân vào nhóm 2 đến nhóm5. Bảng 6: Thực trang rủi ro tín dụng thể hiện qua chỉ tiêu nợ xấu Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 Chênh lệch Tổng dư nợ (Tỷ đồng) 916 1104 +188 Tỷ lệ nợ xấu theo điều 6 (%) 1.5 1.93 +0.43 Tỷ lệ nợ xấu theo điều 7 (%) - 6.58 +6.58 Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2006 Theo số liệu bảng trên ta nhận thấy: cả tỷ lệ nợ xấu theo điều 6 và 7 của QĐ493 đều có xu hướng tăng. Điều này chứng tỏ Chi nhánh đang gặp khó khăn trong quản lí rủi ro tín dụng và kiểm soát tăng trưởng tín dụng. Mặc dù vậy Chi nhánh đã có chỉ đạo quyết liệt, tập trung, kịp thời các giải pháp để xử lí nợ xấu gắn với công tác thu hồi nợ xấu. Nhờ vậy mà trong năm 2006 chi nhánh thu nợ ngoại bảng đạt 1970 triệu đồng, thu nợ chỉ định đạt 770 triệu đồng, đều vượt so với kế hoạch TW giao. Bảng 7: Kết quả xử lí tài sản ngoại bảng năm 2005 và 2006 Chỉ tiêu 2005 2006 Chênh lệch (+/-) %chênh lệch Nợ hạch toán ngoại bảng 13 16 3 23,1% Thu nợ hạch toán ngoại bảng 1,8 1,97 0,17 9,4% Thu nợ chỉ định 0,83 0,77 -0,06 -7,2% Dư lãi treo 9,8 3,6 -6,2 -63,3% Thị phần tín dụng 15 14 -1 -6,7% Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2006 Để đạt được kết quả tốt hơn trong thời gian tới Chi nhánh cần phải có những biện pháp để tăng cường hiệu quả hoạt động này bằng cách: + Tuân thủ đúng giới hạn tín dụng và cơ cấu giới hạn tín dụng TW giao, chấp hành nghiêm qui chế và qui trình tín dụng. Thường xuyên tiến hành phân tích đánh giá phân loại nợ để từ đó phối hợp với cùng với đơn vị khó khăn tìm ra giải pháp tháo gỡ giúp đơn vị ổn định sản xuất đồng thời củng cố chất lượng tín dụng… + Quan tâm đặc biệt đến chất lượng hiệu quả hoạt động tín dụng, lựa chọn các dự án, các khách hàng tốt để đầu tư và thường xuyên coi trọng công tác kiểm tra trước trong và sau khi cho vay đồng thời tích cực mở rộng co vay ngắn hạn, ngoài quốc doanh, dân doanh, tăng cường tài sản đảm bảo nợ vay… 2.2.2.2. Công tác phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý Rủi ro tín dụng trong hoạt động của NH ĐT&PT Hà Tây Trong hoạt động tín dụng, rủi ro là điều khó tránh khỏi do vậy, nhằm bù đắp thiệt hại khi có rủi ro xảy ra, các ngân hàng phải tiến hành trích lập quỹ dự phòng từ nguồn lợi nhuận sau thuế. Trước năm 2005, các ngân hàng thuộc hệ thống NH ĐT&PT Việt Nam phân loại nợ và tiến hành trích lập dự phòng rủi ro theo quy định 488/2000/QĐ - NHNN. Tuy nhiên phân loại nợ theo quy định này chỉ dựa vào thời gian quá hạn thanh toán của từng khoản vay là chưa phản ánh được hết rủi ro tiềm ẩn. Vì vậy, năm 2005, ngân hàng Nhà nước ban hành quy định 493/2005/QĐ - NHNN về việc phân loại nợ và trích lập dự phòng. Theo quy định này: Phân loại nợ được phân thành năm nhóm theo mức độ rủi ro dựa trên thời gian quá hạn và mỗi loại ứng với một tỷ lệ trích lập riêng nên nhìn chung đã đánh giá được rủi ro ngân hàng có thể gặp phải và số tiền phải dự phòng. Ngoài ra, ngân hàng chỉ được sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất do các khoản vay nhóm 5 gây nên sau khi đã thương thảo với khách hàng và phát mại tài sản đảm bảo mà không đủ. Các khoản nợ sau khi được phân loại phải được thực hiện trích lập dự phòng theo quy định của NHNN Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng. Dự phòng rủi ro bao gồm: Dự phòng cụ thể và Dự phòng chung. Hàng quý, trong thời hạn 15 ngày làm việc đầu tiên của tháng tiếp theo, Chi nhánh thực hiện phân loại nợ gốc và trích lập dự phòng rủi ro đến thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng của quý (tháng) trước. Riêng đối với quý IV, trong thời hạn 15 ngày làm việc đầu tiên của tháng, Chi nhánh thực hiện phân loại nợ gốc và trích lập dự phòng rủi ro đến thời điểm cuối ngày 30/11. Đối với các khoản nợ xấu (NPL), Chi nhánh phải thực hiện việc phân loại nợ, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng trên cơ sở hàng tháng để phục vụ cho công tác quản lý chất lượng và rủi ro tín dụng. Qua các năm Chi nhánh đã tích thực hiện theo đúng quy định của NHNN về phân loại nợ lập quỹ dự phòng rủi ro, và xử lý kịp thời những khoản nợ không còn khả năng thu hồi. Đựợc thể hiện qua bảng dưới đây. Bảng 8 : Báo cáo Phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý Rủi ro tín dụng trong hoạt động của NH ĐT&PT Hà Tây theo điều 7 – QĐ 493 thời điểm Quý IV (31/12/2006) TT Chỉ tiêu Giá trị của các khoản nợ Số tiền trích lập dự phòng I Dự phòng chung 1.615.185.743.150 12.113.878.074 II Dự phòng cụ thể 362.294.985.199 22.702.304.993 Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: 1.214.701.396.403 - Các khoản nợ trong hạn được TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn 741.683.546.655 - Các khoản bảo lãnh, cam kết, cho vay và chấp nhận TT theo QĐ tại khoản 4, điều 3 QĐ này 473.017.849.748 Nhóm 2 (nợ cần lưu ý) bao gồm: 289.668.394.979 10.682.030.983 Các khoản nợ được TCTD đánh giá là có khả năng thu dủ cả gốc và lãi nhưng có dấu hiệu KH suy giảm khả năng trả nợ 289.668.394.979 10.682.030.983 Nhóm 3 gồm: 65.868.017.840 8.473.448.941 Các khoản nợ được TCTD đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được TCTD đánh giá là có khả năng tổn thất 1 phần nợ gốc và lãi 65.868.017.840 8.473.448.941 Nhóm 4 gồm: 0 0 Các khoản nợ được TCTD đánh giá là khả năng tổn thất cao 0 0 Nhóm 5 gồm: 6.758.572.380 3.546.965.069 Các khoản nợ được TCTD đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn 6.758.572.380 3.546.965.069 Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn NH ĐT&PT Hà Tây (Đơn vị: Đồng) Sử dụng dự phòng là việc Ngân hàng sử dụng dự phòng rủi ro để bù đắp tổn thất đối với các khoản nợ. Ngân hàng đã sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng đối với các khoản nợ trong các trường hợp sau: - Khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp bi giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật; cá nhân bị chết hoặc mất tích. - Các khoản nợ thuộc nhóm 5 được quy định tại Điều 6 và 7 của Quy định 493. Riêng các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, tổ chức tín dụng được xử dự phòng (nếu có) để xử lý rủi ro tín dụng, Cụ thể: Bảng 9: Sử dụng dự phòng để xử lý Rủi ro tín dụng trong hoạt động của NH ĐT&PT Hà Tây Quý IV năm 2006 (Theo quy định số 9365/QĐ-BIDV ngày 27/11/2006 của NHĐT&PT VN) TT Chỉ tiêu Số tiền I Tổng số tiền dự phòng đã trích lập 4.700 II Sử dụng Dự phòng để xử lý Rủi ro tín dụng trong quý 2.817 1 Khách hàng là tổ chức, Doanh nghiệp bị giải thể, phá sản theo QĐ của pháp luật; cá nhân bị chết, mất tích 2 Các khoản nợ thuộc nhóm 5: Các khoản nợ được TCTD đánh giá không có khả năng thu hồi, mất vốn 2.817 III Số tiền dự phòng còn lại sau khi xử lý Rủi ro tín dụng 21.538 IV Số tiền thu hồi được của các khoản nợ đã xử lý Rủi ro tín dụng trong quý 925 V Tổng số tiền đã xử lý Rủi ro tín dụng nhưng chưa thu hồi 16.475 được đến thời điểm báo cáo (Số luỹ kế) Ghi chú: Tỷ giá tính phân loại nợ ngày 31/12/2006 là 16101VNĐ/USD, 21059VNĐ/EUR. (Đơn vị: Triệu đồng) Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn NHĐT&PT Hà Tây(Đơn vị: tỷ đồng) 2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH Năm 2006, dưới sự chỉ đạo kịp thời và cương quyết của Ban giám đốc Chi nhánh, sự nỗ lực của Cán Bộ công nhân viên trong Chi nhánh, hoạt động tín dụng của Chi nhánh đã có những chuyển biến mạnh mẽ ngay từ nhận thức thể hiện vấn đề chất lượng tín dụng được coi trọng hàng đầu, tỷ lệ Nợ quá hạn, nợ xấu luôn ở mức thấp hơn kế hoạch Trung Ương giao... NH đã quan tâm hơn tới việc kiểm soát tỷ lệ tăng trưởng tín dụng, tập trung vào hiệu quả của các hoạt động tín dụng. Quy trình tín dụng được thực hiện gần hơn với chuẩn mực quốc tế. Danh mục cho vay theo nhóm khách hàng của các NHTM tiếp tục thay đổi tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp Nhà nước, tăng dần tỷ trọng cho vay đối với thành phần kinh tế phi nhà nước. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển kinh tế Việt Nam và thế giới vì khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế năng động, phát triển nhanh và ngày càng chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thu nhập quốc dân. Bên cạnh đó, quản lý rủi ro tín dụng vẫn còn một số tồn tại, tổng nợ quá hạn của ngân hàng giảm xuống nhưng phần lớn là do nguyên nhân nợ quá hạn chỉ định giảm xuống, trong khi nợ quá hạn ngắn hạn, nợ quá hạn trung- dài hạn lại tăng lên. Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ của ngân hàng có chiều hướng gia tăng khiến cho chi nhánh gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn và tái đầu tư. Công tác cung cấp, khai thác và sử dụng thông tin tín dụng tại nhiều NH vẫn còn yếu. Việc phân tích, đánh giá rủi ro khách hàng còn nhiều bất cập, chưa hỗ trợ hiệu quả cho việc ra quyết định cho vay và thu hồi nợ. Công tác quản trị rủi ro tín dụng chưa được tiến hành một cách bài bản, nghiêm ngặt; Rủi ro tín dụng chưa được xác định, đo lường, đánh giá và kiểm soát một cách chặt chẽ, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập. Nguyên nhân của tình hình này là do: Thứ nhất: chưa có sự phân công rõ ràng theo hướng chuyên môn hoá tới từng cán bộ tín dụng. Thực tế hiện nay, tại chi nhánh chưa có sự phân công rõ nhiệm vụ theo hướng chuyên môn hoá tới từng cán bộ tín dụng. Các cán bộ tín dụng phải thực hiện phần lớn quy trình cho vay đối với mọi loại hình doanh nghiệp. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới thời gian và hiệu quả của công việc bởi vì không phải cán bộ tín dụng nào cũng có khả năng hiểu biết sâu về tất cả các ngành nghề kinh doanh cũng như hoạt động tài chính của tất cả các loại hình doanh nghiệp. Mỗi ngành nghề kinh doanh đều có những thuận lợi, khó khăn và đặc thù riêng, nếu thực hiện phân công theo loại hình doanh nghiệp hoặc theo ngành nghề kinh doanh sẽ giúp cho cán bộ tín dụng có điều kiện hiểu sâu hơn về từng ngành nghề, lĩnh vực hoặc loại hình doanh nghiệp mà mình phụ trách. Như vậy thì chất lượng của tín dụng sẽ được nâng cao, việc theo dõi sau khi cho vay và mở rộng quan hệ với khách hàng cũng sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. Ngoài ra, lãnh đạo quản lý cũng dễ dàng hơn. Thứ hai: Trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ tín dụng vẫn còn nhiều hạn chế. Trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm của mỗi một cán bộ tín dụng trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả công việc của cán bộ tín dụng này, là nhân tố quan trọng tác động vào chất lượng phân tích, đánh giá khách hàng. Hiện nay, với chủ trương mở rộng hoạt động kinh doanh trong toàn hệ thống, đội ngũ cán bộ của hệ thống nói chung và chi nhánh nói riêng ngày càng được trẻ hoá. Với đội ngũ cán bộ trẻ năng nổ này, chi nhánh có nhiều thuận lợi để phát triển, tuy nhiên chi nhánh lại gặp phải hạn chế là kinh nghiệm nghề nghiệp của họ chưa nhiều, trình độ nghiệp vụ chưa thật toàn diện…làm ảnh hưởng đến hiệu quả, năng suất công việc. Do vậy, chi nhánh cần có biện pháp kịp thời khắc phục những hạn chế này. Thứ ba: Công tác thu thập thông tin, cảnh báo rủi ro chưa thực sự hiệu quả. Trong thực tế, các doanh nghiệp khi đi vay vốn thường muốn báo cáo những thông tin tốt, có lợi cho doanh nhiệp để có thể đáp ứng được điều kiện vay vốn. Ngoài những doanh nghiệp lớn hoặc những doanh nghiệp Nhà nước có báo cáo tài chính là có thể tin cây được do loại hình doanh nghiệp này được quản lý chặt chẽ bởi hệ thống quy chế quản lí tài chính của Nhà nước, bên cạnh đó đối tượng khách hàng vay vốn ngoài quốc doanh là loại hình khách hàng mục tiêu mà chi nhánh hướng tới có sự báo cáo thông tin không thực sự đáng tin cậy, nguyên nhân là do cơ chế tài chính áp dụng đối với loại hình khách hàng này khá lỏng lẻo, việc hạch toán kế toán chưa chính xác và đầy đủ. Mặc dù vậy chi nhánh không có một bộ phận chuyên trách cho việc thu thập thông tin và cảnh báo rủi ro đáp ứng được nhu cầu thực tế. Thứ tư: Quy trình cấp tín dụng mặc dù phát huy được hiệu quả nhưng vẫn chưa thực sự hoàn thiện, vẫn còn có những hạn chế ở từng khâu đặc biệt ở khâu phân tích khách hàng. Những nội dung trong từng phương diện thẩm đỉnh mà Ngân hàng đang thực hiên còn chưa đầy đủ, sơ sài, đôi khi thiếu những nội dung phân tích cơ bản. Điều này hầu như diễn ra trong quá trình đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp. Khi phân tích các hê số tài chính, Ngân hàng thường ít quan tâm đến nhóm các hệ số sinh lời, khả năng hoạt động và cơ cấu nợ. Những đánh giá của cán bô tín dụng phòng không có sự so sánh về tương quan ngành và so sánh xu hướng của các chỉ tiêu theo thời gian (so sánh các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp với các chỉ tiêu tài chính của các doanh nghiệp cùng loại trong ngành theo thời gian). Thứ năm: Công tác xếp hạng doanh nghiệp trong quá trình cấp tín dụng của Hệ thống nói chung và Chi nhánh nói riêng hiện vẫn chưa thực hiện hoàn chỉnh xây dựng mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế, đặc điểm kinh doanh của NHTM theo tinh thần Quyết định 493 của Thống đốc NHNN. Đây là một bước tiến ban đầu trong tiếp cận an toàn vốn, không chỉ nhằm mục đích phân loại nợ, mà còn nhằm đánh giá rủi ro khoản vay, quản lý chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, bản thân QĐ 493 cũng cần được điều chỉnh và đổi mới theo hướng quản trị rủi ro phải theo qui chuẩn của sổ tay tín dụng để phản ánh đúng các tiêu chí rủi ro theo “493” thực tế chứ không phải “493” danh nghĩa theo hệ thống báo cáo và còn nhiều khe hở như hiện nay. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG ĐT & PT VIỆT NAM CHI NHÁNH HÀ TÂY 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG ĐT & PT HÀ TÂY TRONG THỜI GIAN TỚI - Căn cứ vào định hướng kế hoạch của Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam. - Căn cứ vào tình hình thực tế và khả năng hiện tại của Chi nhánh - Bám sát định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, Chi nhánh đã đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh như sau: 3.1.1. Kế hoạch phát triển lâu dài - Bám sát định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, mục tiêu nhiệm vụ kế hoạch của Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam. - Tiếp tục tăng trưởng và phát triển bền vững: Lấy an toàn, chất lượng và hiệu quả làm mục tiêu hàng đầu. - Đẩy mạnh công tác huy động vốn để nâng cao năng lực canh tranh và tạo dựng thương hiệu; mở rộng tăng trưởng nguồn vốn đi đôi với việc đa dạng hoá các nghiệp vụ huy động vốn và sử dụng vốn đối với các thành phần kinh tế, dân cư bằng các cơ chế đòn bẩy linh hoạt theo cung-cầu thị trường và đảm bảo tối đa hoá lợi nhuận. Tăng cường các giải pháp quảng cáo tiếp thị sản phẩm mới và nâng cao phong cách giao dịch phục vụ khách hàng và thực hiện có hiệu quả các loại sản phẩm dịch vụ huy động vốn. - Luôn bám sát mục tiêu giới hạn tín dụng cao nhất và cơ cấu giới hạn tín dụng do TW giao. Thực hiện phân loại nợ và trích lập dự rủi ro theo quyết định 493/QĐ-NHNN và hướng dẫn 2695/CV-QLTD1 của NH ĐT & PT Việt Nam. Đảm bảo chất lượng tín dụng – an toàn cho vay - hiệu quả đầu tư tạo động lực phát triển bền vững. Tách bạch hoạt động tín dụng chính sách và hoạt động tín dụng kinh doanh để có chiến lược và phương thức quản lí phù hợp trên cơ sở ưu tiên các dự án phát triển kinh tế địa phương. Thực hiện phục vụ trọn gói các sản sản phẩm tín dụng, bảo lãnh gắn với dịch vụ. Mở rộng các phương tiện thanh toán bằng phương tiện và công nghệ hiện đại như thẻ tín dụng, thẻ ATM, dịchvụ chuyển tiền nhanh… Thực hiện quản lý rủi ro tín dụng phù hợp với các thông lệ quốc tế và tiến trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam bằng kỹ thuật và công nghệ hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và an toàn hoạt động ngân hàng. 3.1.2. Mục tiêu-chỉ tiêu kinh doanh năm 2007 Chỉ đạo quyết liệt chuyển dần sang mô hình Ngân hàng bán lẻ nhằm hướng tới mục tiêu phát triển ổn định lâu dài. Lựa chọn, duy trì nền khách hàng cũ, mở rộng hướng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng vào khối khách hàng tại các Khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề truyền thống. Đổi mới cách thức quản lý - quản trị kinh doanh - quản trị điều hành, tập trung cho công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ trong thời kỳ mới. Mở rộng mạng lưới hoạt động hướng tới các Khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề truyền thống, lắp đặt thêm các máy ATM, các điểm chấp nhận thẻ POS… Triển khai các biện pháp quyết liệt để sử lý nợ tồn đọng; tận thu nợ xấu nợ ngoại bảng; trích lập đủ dự phòng rủi ro hoạt động và kiểm soát được rủi ro. 3.2. HƯỚNG DẪN CỦA NH ĐT & PT VIỆT NAM VỀ CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA, KHẮC PHỤC VÀ XỬ LÍ ĐỐI VỚI RỦI RO TÍN DỤNG 3.2.1. Cơ sở phân loại dấu hiệu rủi ro tín dụng Để phòng ngừa, khắc phục và sử lí đối với rủi ro tín dụng một cách hiệu quả, trong hệ thống NH ĐT & PT Việt Nam đã thống nhất việc phân loại nhóm khách hàng trong toàn ngành: Nhóm I: Có chất lượng cao (Nhóm A*,A) - Khách hàng có tiềm lực mạnh, triển vọng phát triển, thiện trí trả nợ tốt. Khách hàng và ngân hàng có mối quan hệ tín dụng tốt và vững chắc - Luồng tiền mặt > các khoản công nợ - Có đủ tài sản đảm bảo cần thiết cho khoản vay Nhóm II: Chất lượng tốt (nhóm A*,A,B) - Khách hàng có thể bị hạn chế về các nguồn tài trợ nhưng nhìn chung được coi là những đối tượng hấp dẫn đối với ngân hàng - Thực hiện tốt các nghĩa vụ trả nợ, trả lãi đúng hạn - Có đủ tài sản đảm bảo cho khoản vay Nhóm III: Chất lượng đạt yêu cầu (nhóm A,B) - Chưa đáp ứng đủ yêu cầu về TSĐB, tuy nhiên tất cả các tài sản đảm bảo của khách hàng này có thể chuyển đổi được để thanh toán đầy đủ các nghĩa vụ tài chính qua thanh lí - Dòng tiền thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính đủ để đáp ứng nhu cầu hoàn trả các nghĩa vụ tài chính đã xác định rõ, mặc dù có dấu hiệu cho thấy phải chông trờ vào nguồn thu nhập khác trong trường hợp khẩn cấp - Dư nợ lớn hơn so với giá trị thuần của nguồn vay vốn Nhóm IV: Cần theo dõi (nhóm C,D) - Xuất hiện một số khoản tín dụng quá hạn trả nợ gốc hoặc lãi từ 10-30 ngày. - Có dấu hiệu gặp khó khăn trong ngành sản xuất kinh doanh mà khách hàng đang tham gia. Có dấu hiệu tài chính không tốt, như: thất thoát trong kinh doanh - Khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng phụ thuộc vào khả năng thanh khoản của TSĐB - Thiếu các thông tin tài chính - Khoản vay phải gia hạn do khách hàng tạm thời chưa trả được nợ - TSĐB chư đủ cho khoản vay. Nhóm V : kém chất lượng (nhóm C,D,E) - Nhóm khách hàng này có các khoản vay quá hạn trả gốc và lãi từ 1-3 tháng - Mặc dù chưa thể dự đoán chính xác các thất thoát từ những khoản tín dụng này nhưng những yếu kém phát sinh khó có thể khắc phục như các xu hướng tài chính ngày càng có dấu hiệu xấu đi. - TSĐB không đủ cho khoản vay. Nhóm VI : Khó đòi (nhóm D,E) - Khách hàng quá trả nợ gốc và lãi quá 3 tháng. - Khoản tín dụng có thể bị thất thoát lãi thậm chí có thể mất một phần nợ gốc nhưng vẫn có thể hi vọng thu hồi nợ thông qua xử lí TSĐB - TSĐB không đủ cho khoản vay Nhóm VII: Mất vốn (nhóm E,F) - Khách hàng hoàn toàn không có khả năng trả được nợ - Việc thu hồi chỉ có thể thực hiện thông qua giải pháp duy nhất là xử lí TSĐB bằng các vụ kiện pháp lí ra toà, song khả năng thu hồi là rất ít 3.2.2. Biện pháp phòng ngừa, khắc phục, xử lí đối với các nhóm dấu hiệu rủi ro 3.2.2.1. Biện pháp phòng ngừa - Tăng cường quản lý, giám sát các khoản vay: + Phân loại và đánh giá khách hàng, khoản vay thông qua việc thu thập và quan sát các báo cáo tài chính mới nhất của khách hàng cũng như các thông tin về tình hình tài chính. + Xây dựng một quy trình tín dụng chặt chẽ và tuân thủ nghiêm túc quy trình tín dụng từ khi nhận hồ sơ của khách hàng cho đến khi tất toán thanh lý hợp đồng. Cán bộ tín dụng cần kiểm tra cẩn thận trước, trong và sau khi cho vay vốn. Thường xuyên kiểm tra tình hình tài chính của của khách hàng kết hợp với việc kiểm tra đột xuất để tránh tình trạng khách hàng chuẩn bị trước. + Kịp thời phát hiện ra những dấu hiệu bất ổn trong hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính của khách hàng; phân tích nguyên nhân và có biện pháp xử lí phù hợp. - Thẩm định, quản lý, kiểm tra, xem xét tài sản đảm bảo cho khoản vay một cách chặt chẽ. - Tiếp nhận, hoàn thiện hồ sơ pháp lý của khách để đảm bảo hồ sơ đầy đủ, hợp lệ và chính xác làm căn cứ để ra các quyết định tín dụng. 3.2.2.2. Biện pháp khắc phục - Yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản đảm bảo cho khoản vay nhưng không được gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Xác định phương án cơ cấu nợ: Ngân hàng quyết định tiếp tục duy trì mối quan hệ tín dụng với khách hàng trong trường hợp khách hàng chứng minh được khả năng hoàn trả gốc và lãi của mình từ dòng tiền thông thường, từ việc bán tài sản đảm bảo hoặc một khoản thu trong tương lai. Khi thực hiện cơ cấu nợ thì khoản nợ sẽ được giám sát một cách chặt chẽ. - Trong trường hợp khoản vay không còn khả năng phục hồi, ngân hàng thực hiện chiến dịch thu hồi nợ nhằm thu hồi được vốn và hạn chế đến mức thấp nhất những chi phí phát sinh như: chi phí ngân hàng chịu do vốn bị chiếm dụng và chi phí thu hồi nợ. 3.2.2.3. Biện pháp xử lí Khi mà các khoản vay của khách hàng đã trở thành các khoản vay bị đánh giá là có chất lượng kém, khó có khả năng thu hồi vốn, việc áp dụng các biện pháp khắc phục là không hiệu quả thì ngân hàng phải thực hiện biện pháp xử lí: + Thực hiện các biện pháp khuyến khích khách hàng trả nợ (miễn giảm lãi xuất cho khách hàng có thiện chí trả nợ) + Phát mại tài sản đảm bảo cho khoản vay + Yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện trả nợ thay cho khách hàng vay vốn + Thực hiện khởi kiện nếu cần thiết + Sử dụng quĩ dự phòng rủi ro: Đối với các khoản nợ xấu, ngân hàng mặc dù đã sử dụng mọi biện pháp để thu hồi nhưng không được hoặc chỉ thu hồi được một phần gốc và lãi thì phải thực hiện sử dụng quĩ dự phòng rủi ro để bù đắp. Những khoản vay sau khi được bù đắp bằng quĩ dự phòng rủi ro được chuyển ra ngoại bảng để theo dõi, tận thu. 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHONG NGỪA RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NH ĐT&PT VIỆT NAM CHI NHÁNH HÀ TÂY Rủi ro là một tất yếu trong hoạt động kinh doanh của mọi ngân hàng thương mại, các ngân hàng do đó không thể loại trừ được hết rủi ro trong quá trình hoạt động, cũng như là rủi ro trong hoạt động tín dụng của mình. Mỗi loại rủi ro thì đều có những giải pháp phòng ngừa và biện pháp kiểm soát khác nhau, mỗi một ngân hàng thương mại tuỳ vào tình hình cụ thể của mình mà cũng có giải pháp phòng ngừa thích hợp. Xét tình hình thực tế của Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây trong thời gian vừa qua, em xin đề xuất một số giải pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng trong thời gian trước mắt như sau: 3.3.1. Phân tích khách hàng một cách thường xuyên, chủ động Phân tích khách hàng thực chất là quá trình thẩm định các điều kiện tín dụng và thẩm định hiệu quả và khả năng trả nợ của một hoạt động tín dụng. Đây là một nội dung rất quan trọng trước khi đưa ra phán quyết tín dụng, nội dung này quyết định đến chất lượng của các khoản tín dụng. Nội dung này càng được thực hiện chặt chẽ, hiệu quả và chính xác thì tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu của ngân hàng càng giảm xuống, rủi ro tín dụng nhờ đó mà được hạn chế. Hoạt động cho vay phải thực hiện đúng quy trình, việc xét duyệt cho vay phải đảm bảo khả năng thu hồi vốn. Cán bộ tín dụng phải kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Thẩm định tín dụng là bước thứ 2 trong một quy trình tín dụng, nó bắt đầu từ khi ngân hàng tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng, các thông tin liên quan đến điều kiện tín dụng được thu thập và phân tích để đưa ra quyết định cuối cùng. Hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng luôn biến động do đó để nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng việc thu thập thông tin, đánh giá khách hàng phải thường xuyên, kịp thời và chủ động. Đối với khách hàng là các doanh nghiệp việc phân tích khách hàng thường xuyên đòi hỏi cán bộ tín dụng phải theo dõi giám sát tình hình khách hàng trong cả quy trình tín dụng: trước, trong và sau khi giải ngân. Nhất là sau khi giải ngân, việc sử dụng vốn vay của khách hàng phải được giám sát một cách chắt chẽ, việc kiểm tra giám sát phải kết hợp giữa kiểm tra thường xuyên định kỳ với việc kiểm tra đột xuất tình hình sử dụng vốn, hiện trạng của tài sản đảm bảo cũng như là tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Phân tích khách hàng chủ động đòi hỏi cán bộ tín dụng phải chủ động cập nhật, thu thập thông tin về khách hàng một cách thường xuyên và đảm bảo độ chính xác, không nên chỉ tin vào thông tin mà khách hàng cung cấp. Thực tế đã cho thấy, sẽ là rất nguy hiểm nếu việc phân tích, theo dõi khoản vay chỉ phụ thuộc vào nguồn thông tin một chiều từ phía khách hàng. Nội dung phân tích phải đi sâu vào tình hình thực hiện doanh thu, lợi nhuận, khả năng mở rộng kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn. Đồng thời việc phân tích phải được thực hiện nghiêm túc do một tổ chuyên môn có trình độ, có kỹ năng nghiệp vụ ngân hàng tài chính vững vàng cũng như có kinh nghiệm trong hoạt động này thực hiện nhằm đưa ra những quyết định chính xác. Đối với hoạt động cho vay tiêu dùng là hoạt động tín dụng được ưu tiên chú trọng trong thời gian tới do đây là sản phẩm tín dụng hứa hẹn mang lại thu nhập tương đối cao cho ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay cho vay tiêu dùng chiếm tỷ trọng tương đối thấp trong tổng tài sản của ngân hàng, nguyên nhân là do rủi ro tín dụng đối với sản phẩm này vẫn còn cao do thu nhập của người dân trên địa bàn vẫn chưa ổn định. Do vậy trong thời gian tới đây, chi nhánh cần có một quy trình cụ thể, những quy định hợp lí hơn đối với cho vay tiêu dùng (điều kiện cho vay, hệ thống chấm điểm tín dụng, nội dung phân tích thẩm định tín dụng,…) để vừa đảm bảo được mục tiêu an toàn nhưng cũng đảm bảo không bỏ qua những khách hàng tốt. 3.3.2. Nâng cao hiệu quả công tác thu thập thông tin dự báo rủi ro tiềm ẩn Để thực hiện tôt giải pháp trên thì công tác thu thập thông tin đóng vai trò quyết định. Thông tin không chỉ giữ vị trí chủ chốt trong hoạt động kinh doanh ngân hàng mà hoạt động tín dụng cũng không phải là ngoại lệ. Chi nhánh cần thu nhận, nắm bắt mọi thông tin liên quan đến khách hàng vay vốn bằng biện pháp trực tiếp hoặc gián tiếp, có thể thông qua việc phỏng vấn, qua các bạn hàng của khách hàng và qua các cơ quan hữu quan: cơ quan thuế, cơ quan chủ quản.... Chi nhánh cần xây dựng cho mình một bộ phận thu thập và xử lí thông tin nhanh chóng và chính xác. Vấn đề này đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải am hiểu sâu hơn vể hoạt động của khách hàng cũng như các yếu tố liên quan đến sản xuất kinh doanh của khách hàng. Chi nhánh cần tăng cường trang thiết bị, sử dụng cán bộ có trình độ đảm bảo công tác thông tin để cung cấp cho cán bộ tín dụng và lãnh đạo trước khi quyết định cho vay và sau khi cho vay. 3.3.3. Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản phẩm - dịch vụ tín dụng Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là trong điều kiện công nghệ hiện đại, công nghệ thông tin đang đổi mới không ngừng như hiện nay nhu cầu của khách hàng về sản phẩm dịch vụ ngày càng cao và đa dạng. Ngân hàng nào muốn tồn tại, phát triển và tạo được vị thế của mình trong cạnh tranh phải cải tiến hoạt động kinh doanh sao cho đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Mặt khác, việc đa dạng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng nói chung cũng như sản phẩm tín dụng nói riêng còn giúp ngân hàng đa dạng hoá được khách hàng, các khoản vay được đầu tư vào nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau giúp ngân hàng chủ động hơn trong quản lý rủi ro tín dụng và hạn chế được rủi ro hàng loạt do sự biến động kinh tế, chính trị, pháp luật… Vì vậy, bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống, các ngân hàng phải nỗ lực tạo ra các sản phẩm mới làm đa dạng hoá danh mục sản phẩm, từ đó góp phần phân tán và giảm thiểu rủi ro. Hiện nay, các sản phẩm tín dụng của NH ĐT&PT Hà Tây nhìn chung chưa đa dạng, chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn ngày càng phong phú của khách hàng. Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng, Chi nhánh ngoài phương thức cho vay từng lần nên mở rộng các hình thức tín dụng khác như cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay đồng tài trợ, cho vay hợp vốn. Đồng thời trong tình hình mà hoạt động xuất nhập khẩu của một số doanh nghiệp trong địa bàn tỉnh ngày càng tăng, chi nhánh nên chú trọng vào phát triển hình thức cho vay chiết khấu bộ chứng từ có giá, đây là hình thức cho vay chi nhánh có thể thu lãi nhanh mà mức độ an toàn vẫn được đảm bảo. Ngoài ra chi nhánh còn có thể mở rộng cho vay tín dụng bằng ngoại tệ với khách hàng có khả năng tái tạo ngoại tệ. Kết hợp cho vay với áp dụng các công cụ phòng chống rủi ro về lãi xuất: Swif, Swap, Option, Future. Để có thể đạt được mục tiêu đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản phẩm - dịch vụ chi nhánh cần có biện pháp tập trung vốn để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, xác lập hệ thống thiết bị công nghệ hoàn chỉnh, đồng bộ để phục vụ hoạt động kinh doanh, phát triển các sản phẩm dịch - vụ mới kịp thời với chất lượng cao. Đồng thời, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và nhân viên ngân hàng đáp ứng được yêu cầu của công việc, đủ khả năng để thực hiện ngiệp vụ mới, phức tạp thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và chính sách tuyển dụng cán bộ công nhân viên. 3.3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ Kiểm tra, kiểm soát nội bộ là hoạt động không thể thiếu trong một ngân hàng thương mại, hoạt động này do phòng kiểm tra nội bộ chịu trách nhiệm thực hiện. Mục đích của hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ là đứng ngoài quy trình tín dụng và phát hiện ra những chỗ thiếu sót của cán bộ tín dụng và các bộ phận có liên quan khi thực hiện các mặt nghiệp vụ, báo cáo cho lãnh đạo của chi nhánh để có biện pháp xử lí kịp thời. Người kiểm soát không chịu trách nhiệm trước những thiếu sót của cán bộ tín dụng mà chỉ chịu trách nhiệm báo cáo trước lãnh đạo chi nhánh. Do vậy công kiểm giúp cho ngân hàng kiểm tra, giám sát được việc làm của cán bộ lãnh đạo và cán bộ tín dụng, tạo ra động lực giúp họ tuân thủ đầy đủ, nghiêm túc các quy trình, quy chế nghiệp vụ, đảm bảo kinh doanh an toàn, hiệu quả, theo đúng pháp luật Hiện nay, công tác kiểm tra nội bộ của chi nhánh nhìn chung đã phát huy được vai trò quan trọng của mình trong việc hạn chế rủi ro nói chung mà đặc biệt là rủi ro tín dụng. Có được kết quả đó là do chi nhánh đã thực hiện việc duy trì thường xuyên chỉ đạo của Tổng giám đốc NHĐT & PT Việt Nam tại chỉ thị số 719/CT-TCKT 2 ngày 19/02/2004 về việc tăng cường công tác kiểm tra giám sát và thực hiện các quy trình nghiệp vụ đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh của ngân hàng.Tuy nhiên để có được kết quả tốt hơn nữa trong thời gian sắp tới, công tác kiểm tra nội bộ cần được thắt chặt để tạo ra một môi trường làm việc kỷ luật, hiệu quả làm cơ sở để phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh. 3.3.5. Thực hiện bảo hiểm tín dụng Bảo hiểm tín dụng là một biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng phổ biến của các ngân hàng thương mại hiện đại trên thế giới. Bảo hiểm tín dụng chính là việc bảo hiểm số vốn mà ngân hàng cấp cho khách hàng của mình hoặc bảo hiểm cho các tài sản mà người vay thế chấp cho ngân hàng. Hoạt động bảo hiểm tín dụng có thể được thực hiện thông qua các hình thức: - Bảo hiểm tín dụng gián tiếp: Khách hàng vay vốn của ngân hàng phải trực tiếp bỏ tiền ra để mua bảo hiểm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Khi đó khách hàng đã gián tiếp bảo hiểm cho vốn vay của ngân hàng, vì trong trường hợp khách hàng gặp phải khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì họ đã có nguồn để thanh toán nợ cho ngân hàng. Hình thức bảo hiểm này rất thuận lợi cho các ngân hàng vừa đảm bảo được an toàn kinh doanh mà không phải phát sinh thêm nghiệp vụ và chi phí bảo hiểm. - Bảo hiểm tín dụng bằng cách trích lập quỹ dự phòng: Hàng năm, ngân hàng trích một phần lợi nhuận của mình để lập các quĩ dự phòng để bù đắp những thiệt hại không thu hồi hết nợ quá hạn, từ đó hạn chế hậu quả xấu có thể xảy ra. - Bảo hiểm tín dụng bằng cách mua bảo hiểm tín dụng của các tổ chức tín dụng chuyên nghiệp: Ngân hàng phải bỏ một khoản chi phí tương đối lớn để mua bảo hiểm.Tuy nhiên, hình thức bảo hiểm này chỉ áp dụng đối với các khoản tín dụng có giá trị lớn, thời hạn dài và ngân hàng có thể chuyển một phần chi phí cho khách hàng cùng chia sẻ. Bảo hiểm tín dụng mặc dù là một giải pháp mạnh trong việc phòng ngừa rủi ro tín dụng cho các ngân hàng thương mại, nhưng lại chưa được áp dụng phổ biến ở Việt Nam, ngay ở cả các ngân hàng thương mại lớn. Hiện tại, Việt Nam chỉ áp dụng hình thức bảo hiểm cho tài sản thế chấp. Nhưng ngay cả với hình thức bảo hiểm tín dụng này thì các ngân hàng thương mại nói chung và các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng ĐT&PT Việt Nam đều chưa thực sự được chú ý. Trong thời gian tới, để tăng cường hiệu quả công tác quản lí rủi ro tín dụng Chi nhánh cần quan tâm hơn nữa trong việc thực hiện giải pháp này và sớm kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền hình thành quĩ bảo hiểm tín dụng vì đây là một cách phòng ngừa rủi ro tín dụng rất hiệu quả đã được chứng minh tại nhiều nước trên thế giới. 3.3.6. Thiết lập, củng cố mối quan hệ với khách hàng Xây dựng mối quan hệ với khách hàng, tạo được niềm tin với khách hàng là cơ sở cho sự thành công trong kinh doanh của ngân hàng. Trong tình hình cạnh tranh gay gắt hiện nay tạo lập mối quan hệ với khách hàng lại càng đóng vai trò quan trọng. Khi chưa có sự hiểu biết lẫn nhau, người ta không dễ gì đưa ra các thông tin về mình cho người khác biết. Khách hàng của các ngân hàng cũng vậy, họ sẽ rè chừng việc cung cấp thông tin cho ngân hàng khi không có sự tin tưởng đối với ngân hàng. Trong hoạt đông quản lý rủi ro nói riêng và hoạt động quản lý tín dụng nói chung thông tin về khách hàng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Chính vì vậy có thiết lập được mối quan hệ vững chắc với khách hàng thì mới tạo được sự tin tưởng của khách hàng từ đó có điều kiện khai thác tốt nhất thông tin từ phía khách hàng. Nếu như để mất đi những khách hàng truyền thống ngân hàng sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro: mất nhiều chi phí cho việc tìm kiếm các khách hàng mới, phải tiếp xúc với các khách hàng có mức rủi ro cao hơn.... Cũng như nhiều ngân hàng khác, chi nhánh NHĐT&PT Hà Tây cũng có nhiều khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài và hiệu quả với ngân hàng. Xác định được tầm quan trọng của việc duy trì và củng cố quan hệ với khách hàng, trong thời gian tới chi nhánh cần thường xuyên có các chính sách để chăm lo cho các mối quan hệ tốt đẹp, bền vững hơn. Đồng thời tích cực thiết lập, mở rộng quan hệ với những khách hàng mới với những khách hàng chiến lược có tiềm năng. Muốn vậy Chi nhánh cần phải thực hiện tốt chính sách quảng bá uy tín ngân hàng, áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi với những khách hàng truyền thống, chiến lược, nâng cao chất lượng dịch vụ và thái độ phục vụ của các nhân viên chi nhánh để tạo ấn tượng tốt đối với khách hàng. 3.3.7. Phát huy vai trò tư vấn của chi nhánh Dịch vụ tư vấn không còn xa lạ đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tuy nhiên dịch vụ này chưa thất sự phát huy hiệu quả tại Chi nhánh NHĐT&PT tỉnh Hà Tây. Tư vấn vừa là một dịch vụ ngân hàng có thể kiếm lời và cũng là dịch vụ giúp ngân hàng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng. Chi nhánh cần chú trọng tới hình thức này, vì khi tư vấn cho khách hàng, nhất là các khách hàng có quan hệ tín dụng với mình thì chi nhánh có thể giúp khách hàng có thể tránh những khó khăn trong quá trình kinh doanh, chỉ khi khách hàng kinh doanh có lợi nhuận thì chi nhánh mới đạt được hiệu quả như mong muốn. Để tư vấn được cho khách hàng, trước hết chi nhánh cần phải hiểu được mục tiêu mà họ muốn đạt được, tiếp đó sử dụng đúng những hiểu biết của cán bộ để giúp đỡ một cách có ích cho khách hàng. Muốn phát huy vai trò tư vấn, ngân hàng cần rất nhiều điều kiện, đặc biệt điều kiện về con người. Để đưa hoạt động tư vấn tiến tới một dịch vụ sinh lời, chi nhánh nên đi theo hai giai đoạn: đầu tiên là tư vấn cho khách hàng về các vần đề liên quan tới khoản vay, sử dụng và quản lí các khoản vay; tiếp đó là mở rộng ra các lĩnh vực kinh doanh khác để có thể thu phí và mức phí này có thể ưu đãi cho các khách hàng truyền thống. 3.3.8. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm tín dụng Cán bộ làm công tác tín dụng là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng để phân tích và đưa ra quyết định có nên cho vay hay không, do đó trình độ của cán bộ tín dụng có tính chất quyết định đến chất lượng tín dụng, và ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng. Cán bộ tín dụng có trình độ cao sẽ đánh giá được đầy đủ những thông tin cần thiết liên quan đến hoạt động cấp tín dụng, từ đó sẽ đưa ra được những ý kiến chính xác. Nhận thức được vai trò quan trọng của nhân tố con người trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, chi nhánh đã khuyến khích cán bộ tín dụng không ngừng học tập nên đã có nhiều cán bộ có trình độ cao học, bồi dưỡng kiến thức mới về kinh tế thị trường, về lí luận nghiệp vụ. Ngoài ra ngân hàng cũng nên ban hành quy chế cụ thể làm cơ sở hướng dẫn hoạt động tín dụng cho đội ngũ cán bộ góp phần tạo nên một đội ngũ cán bộ ngày càng hoàn thiện hơn. 3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.4.1. Kiến nghị đối với Nhà nước Hiện nay, hệ thống pháp luật nước ta chưa hoàn chỉnh và đồng bộ bao gồm cả luật kinh tế, ngân hàng… Do đó để đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư và người sử dụng vốn thì nhà nước cần có biện pháp hoàn thiện, sửa đổi, ban hành luật, văn bản dưới luật có liên quan đến hoạt động kinh tê và ngân hàng tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp và các NHTM. Cụ thể, Chính phủ cần tăng cường quản lý các DNNN cũng như các DNNQD. Đẩy mạnh công tác cổ phần hoá. Hiện nay tình hình nợ đọng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản rất lớn có ảnh hưởng đến hoạt độg của nền kinh tế và doanh nghiệp trong hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Chính phủ cần quy định rõ trách nhiệm của các chủ đầu tư, người quyết định đầu tư, phê duyệt dự án. Đối với nợ đọng Chính phủ nên có biện pháp xử lý dứt điểm, đối với các đơn vị vay vốn ngân hàng để thi công Chính phủ nên có biện pháp cho dãn thời gian vay và cấp bù lãi suất. 3.4.2. Kiến nghị đối với NHNN Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường biện pháp quản lí tín dụng của các Ngân hàng, tổ chức tín dụng như: bổ sung các cơ chế, biện pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu lực trong việc chấp hành cơ chế, thể lệ, quy trình tín dụng. Nâng cao hiệu lực công tác thanh toán ngân hàng để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Nổi bật lên là một số vấn đề: + NHNN cần sớm có qui định cụ thể về hoạt động bảo kiểm tín dụng để các ngân hàng thương mại có thêm giải pháp phòng ngừa rủi ro, đồng thời lại tăng được tiềm lực vốn cho nền kinh tế. + Ban hành và hoàn thiện cơ chế phát hành và sử dụng các phương tiện thanh toán điện tử: Thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… nhằm giúp cho các NHTM triển khai các nghiệp vụ thanh toán có hiệu quả. Tạo điều kiện cho các NHTM quyết định áp dụng các dịch vụ bằng viêc ban hành những cơ chế về dịch vụ ngân hàng, giao quyền cho các NHTM quyết định loại dịch vụ cần thu phí theo nguyên tắc thương mại để tăng tính cạnh tranh. + Đơn giản hoá các quy trình nghiệp vụ mang nặng tính thủ công và giấy tờ nhưng vẫn đảm bảo được hiệu quả hoạt động cho các ngân hàng. 3.4.3. Kiến nghị đối với NH ĐT&PT Việt Nam - Nâng cao hiệu quả của trung tâm phòng ngừa rủi ro của NHĐT&PT Việt Nam. Trung tâm phải thường xuyên cung cấp các thông tin cho chi nhánh về các khách hàng, và những đánh giá phân tích của mình từ các thông tin thu thập được về khách hàng đó cho các Chi nhánh. - Trong tình hình hoạt động cho vay tiêu dùng ngày càng mở rộng quy mô và tỷ trọng như hiện nay, NH ĐT&PT Việt Nam cần sớm đưa ra hướng dẫn cụ thể cho các chi nhánh hoạt động cho vay tiêu dùng. - Hoàn chỉnh quy chế phân cấp thực hiện sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng để bù đắp tổn thất của những khoản nợ xấu, những tổn thất lâu ngày nhưng không đủ điều kiện để xử lí do thủ tục xử lí rườm rà. - Đứng trước xu thế phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực ngân hàng tài chính hiện nay, các NHTM trong và ngoài nước không ngừng mở rộng quy mô và thị trường hoạt động thì hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị của chi nhánh vẫn còn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Mạng lưới hoạt động của chi nhánh còn mỏng, các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm phần lớn phải đi thuê, diện tích nhỏ hẹp, thời gian thuê không ổn định. Vì vậy đề nghị TW tạo điều kiện cho chi nhánh được thuê dài hạn hoặc mua, góp vốn xây dựng tại các vị trí có lợi thế thương mại nhằm tạo vị thế ổn định lâu dài cho NH ĐT&PT Việt Nam. Tăng cường đầu tư mở rộng, đổi mới trang thiết bị, phương tiện làm việc, đầu tư nâng cao chất lượng cán bộ để nâng cao hiệu quả, năng suất làm việc. - Tiếp tục tạo điều kiện để chi nhánh thực hiện tốt nội dung thông báo số 194/TB- VP giữa NH ĐT&PT Việt Nam với lãnh đạo tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây. Sau khi thẩm định đủ điều kiện vay vốn, đề nghị TW hỗ trợ nguồn vốn trung-dài hạn để cho vay các dự án lớn, trọng điểm của tỉnh. KẾT LUẬN Trong sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế, trong không khí thi đua phấn đấu của toàn ngành ngân hàng, chi nhánh NHĐT&PT Hà Tây cũng đang và nỗ lực không kém để khẳng định vai trò và vị thế của mình trong hệ thống NHĐT&PT. Thông qua việc nghiên cứu lý luận về vấn đề Thực trạng và giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Tây cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh trong thời gian vừa qua để thấy được sự đi lên của đúng đắn của chi nhánh trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới diễn ra mạnh mẽ. Chuyên đề tập trung đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng phòng ngừa rủi ro tín dụng tại chi nhánh, tìm ra một số mặt hạn chế mà chi nhánh đang gặp phải. Trên cơ sơ đó, chuyên đề đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động phòng ngừa rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, vì điều kiện kiến thức còn hạn chế, do đó chuyên đề còn nhiều thiếu sót. Em mong sẽ nhận được sự góp ý của các thầy cô và các cán bộ ngân hàng để chuyên đề được hoàn chỉnh hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Tây.pdf
Tài liệu liên quan