Luận văn Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam

Tài liệu Luận văn Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam: 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do hình thành đề tài Trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động ngân hàng không những chịu các áp lực về kinh tế mà còn chịu áp lực ngày càng gia tăng của các tội phạm liên quan đến hoạt động ngân hang, trong đó có tội phạm rửa tiền. Ngoài việc phải đối phó với các khoản tiền bất hợp pháp được tẩy rửa trong nước, hiện nay hệ thống nhân hang Việt Nam đang phải đối phó với nguy cơ từ các tổ chức tội phạm quốc tế sử dụng Việt Nam như nơi rửa tiền của các hoạt động bất hợp pháp. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 về phòng, chống rửa tiền và Nghị định này tập trung chủ yếu trong lĩnh vực ngân hang. Điều này thể hiện quyết tâm chống rửa tiền của Việt Nam trong bối cảnh hệ thống thanh tra, giám sát ngân hang còn yếu, tình trạng tham nhũng diễn ra tinh vi, mức độ sử dụng tiền mặt cao và các luồng chuyển tiền không chính thức khá lớn. Tuy nhiên, với những hạn chế của khung pháp lý cho hoạt động phòng, chống ...

pdf76 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1087 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do hình thành đề tài Trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động ngân hàng không những chịu các áp lực về kinh tế mà còn chịu áp lực ngày càng gia tăng của các tội phạm liên quan đến hoạt động ngân hang, trong đó có tội phạm rửa tiền. Ngoài việc phải đối phó với các khoản tiền bất hợp pháp được tẩy rửa trong nước, hiện nay hệ thống nhân hang Việt Nam đang phải đối phó với nguy cơ từ các tổ chức tội phạm quốc tế sử dụng Việt Nam như nơi rửa tiền của các hoạt động bất hợp pháp. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 về phòng, chống rửa tiền và Nghị định này tập trung chủ yếu trong lĩnh vực ngân hang. Điều này thể hiện quyết tâm chống rửa tiền của Việt Nam trong bối cảnh hệ thống thanh tra, giám sát ngân hang còn yếu, tình trạng tham nhũng diễn ra tinh vi, mức độ sử dụng tiền mặt cao và các luồng chuyển tiền không chính thức khá lớn. Tuy nhiên, với những hạn chế của khung pháp lý cho hoạt động phòng, chống rửa tiền cùng những thách thức cho ngành ngân hang Việt Nam trước thềm hội nhập đòi hỏi Nhà nước và ngành ngân hang phải nhanh chóng có giải pháp để đương đầu với vấn nạn rửa tiền và thực hiện chống rửa tiền có hiệu quả cao nhất. Đây chính là lý do để hình thành Luận văn này với nội dung nghiên cứu tập trung vào “Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam” xoay quanh chủ yếu ba vấn đề chính đó là: hoàn thiện khung pháp lý phòng, chống rửa tiền, tạo lập môi trường kinh tế thích hợp và chuẩn bị cơ sở vật chất đầy đủ cho hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam. 2. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở thực trạng hoạt động rửa tiền trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng cùng với những nguy cơ rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn tập trung đưa ra các giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Với mục tiêu chính là đưa ra các giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam, đối tượng nghiên cứu của luận văn chính là hoạt động 2 rửa tiền, hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam và phạm vi nghiên cứu được tập trung vào hệ thống ngân hang Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn đã kết hợp phương pháp phân tích lý thuyết các văn bản, tài liệu và sử dụng phương pháp thống kê số liệu có lien quan đến hoạt động rửa tiền dể tiến hành phân tích những nguy cơ dẫn đến hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, Luận văn tập trung đưa ra các giải pháp để phòng chóng rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam. 5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu Các giải pháp được đưa ra trong Luận văn tập trung vào ba mảng chính là: hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống rửa tiền, tạo lập môi trường kinh tế thích hợp để hạn chế nạn rửa tiền,và chuẩn bị cơ sở vật chất đầy đủ cho cuộc chiến chống rưa3 tiền. Các giải pháp này được phân loại phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các cấp, ngành, đó là nhóm giải pháp về phía Nhà nước, về phía ngân hang Nhà nước và về phía các ngân hang thương mại. Nhóm giải pháp về phía Nhà nước mang tính chất dài hạn nhằm tạo lập một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và một môi trường kinh tế thích hợp. Nhóm giải pháp về phía Ngân hang Nhà nước và các ngân hang thương mặi được sử dụng trong ngắn hạn như những công cụ tác nghiệp và có thể được vận dụng ngay. Tuy nhiên việc xem xét và lựa chọn giải pháp nào còn tuỳ thuộc vào tình hình thực tế và đặc điểm riêng có của từng ngân hang. 6. Kết cấu của luận văn Nội dung của luận văn gồm ba phần: Phần 1: Phần mở đầu giới thiệu đề tài nghiên cứu và trình bày sơ lược về nội dung nghiên cứu. Phần 2: Nội dung nghiên cứu của đề tài,bao gồm ba chương: - Chương 1: Khái quát về hoạt động rửa tiền và phòng,chống rửa tiền - Chương 2: Hoạt động rửa tiền và phòng,chống rửa tiền tại Việt Nam - Chương 3: Giải pháp phòng,chống rửa tiền qua hệ thống ngân hang Việt Nam Phần 3:Phần kết luận chung qua quá trình nghiên cứu. 3 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN 1.1. Khái quát về hoạt động rửa tiền Rửa tiền không phải là một hiện tượng mới mẻ, nó cũng xưa như chính tội ác. Từ ngàn xưa, nhũng kẻ phạm tội đều tìm mọi cách che giấu nguồn gốc của các đồng tiền tội ác nhằm xoá sạch dấu vết các hành động tội phạm của họ. Ngày nay, do sự bành trướng của nạn tham nhũng tại nhiều quốc gia, nạn buôn bán mà tuý và buôn lậu vũ khí trên toàn cầu với doanh số mỗi năm ước lượng đến hàng trăm, hàng ngàn tỉ đô la Mỹ, thêm vào đó là các tổ chức khủng bố quốc tế với khả năng tài chính và nhu cầu cung cấp tiền cho mạng lưới khủng bố trên toàn thế giới rất lớn đã khiến cho việc rửa tiền trở thành một dịch vụ béo bở cho một thị trường ngày càng rộng lớn. Hoạt động rửa tiền ngày càng trở nên tinh vi hơn, khéo léo và với kỹ thuật cao cấp hơn. Không những nó giúp cho những “ông trùm” thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật, ngang nhiên trở thành những ông chủ giàu có, lương thiện mà còn tạo điều kiện cho việc phát triển các mạng lưới khủng bố tại nhiều quốc gia, mang lại những hậu quả khó lường đối với vấn đề an ninh quốc gia và quốc tế. Do đó, rửa tiền đang là một mối đe dọa nguy hiểm đặt ra cho toàn thế giới, đòi hỏi sự hợp tác cũng mang tính chất toàn cầu của các quốc gia trên thế giới nhằm ngăn chặn hiểm họa này. Hiện nay và trong tương lai gần, nền kinh tế Việt Nam sẽ hội nhập sâu hơn vào hệ thống tài chính thế giới. Điều này đặt ra nhiều thách thức trong việc xây dựng pháp luật, kiểm soát tài chính và nhất là các công cụ để chống rửa tiền có hiệu quả. Sự hội nhập kinh tế ngày càng sâu sẽ làm cho hệ thống tài chính của Việt Nam đối mặt nhiều hơn nữa các hành vi rửa tiền ở cấp độ tinh vi hơn. Đây là một trở ngại và thách thức đáng kể trong phát triển kinh tế của Việt Nam. Việc nhận thức được những tác hại nghiêm trọng từ hoạt động rửa tiền và xây dựng khung pháp lý trong phòng, chống rửa tiền là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. 4 1.1.1. Khái niệm rửa tiền Trên thế giới có rất nhiều khái niệm rửa tiền với những phạm vi và mức độ khác nhau. Theo Liên Hiệp Quốc, dựa vào công ước Vienna (1988) và công ước Palermo (2000), khái niệm rửa tiền được nhiều quốc gia đồng thuận nhất là “Việc sử dụng (nghĩa là với bất cứ hình thức nào của cả hành động cho và nhận) bất cứ tài sản nào mà nó được cho là có nguồn gốc từ hoạt động hoàn toàn hay một phần của phạm tội mà có hoặc từ hoạt động che đậy, trá hình nhằm giúp đỡ người phạm tội đó thoát khỏi pháp luật”. Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB): “Rửa tiền là quá trình chuyển đổi qua nhiều giai đoạn khoản tiền kiếm được từ những hoạt động bất hợp pháp hoặc tội phạm để nó có vẻ được phát sinh từ các quỹ hợp pháp”. Theo quan điểm của các nhà tội phạm học: “Rửa tiền là hoạt động mà bọn tội phạm tiến hành để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của những đồng tiền tội lỗi. Hoạt động rửa tiền là hành vi hợp thức hoá những khoản tiền thu được từ hoạt động tội phạm”. Ở Việt Nam, theo Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 do Chính phủ ban hành thì khái niệm rửa tiền được định nghĩa như sau: “Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có thông qua các hoạt động cụ thể sau đây: - Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản do phạm tội mà có; - Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có; - Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thực sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có”. 5 1.1.2. Nguồn gốc của tiền “bẩn” Mục đích của hoạt động rửa tiền là tạo ra một khoảng cách xa nhất giữa tài sản bất hợp pháp và chủ sở hữu những tài sản đó. Hình thức biểu hiện lợi nhuận có được ban đầu thông thường là tiền, cũng có thể gọi đây là tiền “bẩn”. Sau các giai đoạn chuyển đổi để hợp pháp hoá, tiền “bẩn” sẽ có các hình thức biểu hiện khác như: thẻ tín dụng, bất động sản, các khoản đầu tư hợp pháp, ... Nguồn gốc của tiền “bẩn” thường từ các hoạt động sau: - Buôn lậu ma túy, vũ khí, mại dâm và các loại hàng hoá bị cấm mua bán, trao đổi như rượu, thuốc lá, … - Tiền tham nhũng, nhận hối lộ; - Tiền có do lợi dụng chức vụ, địa vị trong bộ máy nhà nước để biết trước các thông tin về chủ trương, chính sách, qui hoạch, ... nhằm trục lợi; - Tiền có được do mua bán nội gián trên thị trường chứng khoán, mua bán lòng vòng; - Tiền của các tổ chức tội phạm có được do làm tiền giả, tống tiền, tổ chức đánh bạc; - Tiền có được do hoạt động chuyển giá giữa các công ty thuộc cùng một tập đoàn hoặc công ty mẹ - con hoặc tiền có được do trốn thuế. Nhìn chung các hình thức biểu hiện lợi nhuận của hoạt động rửa tiền bao gồm những lợi ích kinh tế của hoạt động rửa tiền mang lại được quy là “sản phẩm của tội phạm” (Theo Công ước Strasbong 1990 của Hội đồng Châu Âu). 1.1.3. Đối tượng tham gia vào hoạt động rửa tiền Đối tượng tham gia vào hoạt động rửa tiền bao gồm những cá nhân và pháp nhân tham gia vào quá trình rửa tiền với mong muốn hợp pháp hóa tiền và tài sản có được từ hoạt động tội phạm và sử dụng tài sản đó. Chủ sở hữu những khoản tiền cần tẩy rửa bao gồm những cá nhân và tổ chức đã thực hiện các hành vi tội phạm về ma túy, tài chính, tham nhũng, lừa đảo, mại dâm, buôn bán vũ khí,... 6 Có thể xếp những người rửa tiền làm bốn nhóm: Nhóm thứ nhất, những người buôn lậu (ma túy, vũ khí, lao động bất hợp pháp…); Nhóm thứ hai, những người tham nhũng; Nhóm thứ ba, những người muốn tránh thuế; Nhóm thứ tư là các tổ chức khủng bố. Tất nhiên, các nhóm trên không hoàn toàn biệt lập, tham nhũng, tội phạm và kinh doanh bất chính có nhiều chỗ giống nhau, cấu kết với nhau và tiếp sức cho nhau. Ví dụ, các quan chức thì cần có người để rửa tiền tham nhũng, tiền nhận hối lộ, người rửa tiền này có thể là tội phạm chuyên nghiệp hoặc công ty ma. Ngược lại, tội phạm và doanh nghiệp cũng thường đút lót các quan chức tham ô để làm ngơ cho các hoạt động kinh doanh phi pháp, trốn thuế. Ở một số nước có hệ thống chống rửa tiền nghiêm khắc và hoàn chỉnh như Mỹ và cộng đồng Châu Âu thì đối tượng hoạt động rửa tiền khá rộng. Ngoài những cá nhân, pháp nhân có hành vi rửa tiền một cách trực tiếp, nhân viên ngân hàng vô ý hay cố ý tiếp tay cho hành vi rửa tiền qua ngân hàng đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Vì vậy, luật Ngân hàng các nước này quy định: mọi nhân viên ngân hàng khi tiếp nhận các khoản tiền gửi lớn đều phải có nghĩa vụ yêu cầu khách hàng khai báo nguồn gốc tiền, chủ sở hữu thực, ... phục vụ thông tin phòng, chống rửa tiền. Nhân viên nào không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trên, nếu phát hiện ra các khoản tiền bất hợp pháp, cơ quan pháp luật hoàn toàn có thể truy tố họ về một trong các tội rửa tiền vì mất cảnh giác, không thực hiện nghĩa vụ quy định cho dù họ không biết đây là tiền có nguồn gốc tội phạm và như vậy, họ cũng bị quy kết tham gia vào quá trình rửa tiền. 1.1.4. Độ lớn của rửa tiền trong nền kinh tế Việc đo lường mức độ rửa tiền của một quốc gia như thế nào nhằm đánh giá tính nghiêm trọng khi có nhu cầu phân tích lại là một vấn đề không đơn giản. Có nhiều cách đo lường trực tiếp hoặc gián tiếp để ước lượng số lượng tiền được rửa ở một nền kinh tế nào đó. Ta có thể xem xét hai cách tiếp cận như sau: 7 Thứ nhất là cách tiếp cận vĩ mô. Đây là cách đo lường phổ biến vào những năm 1980, họ ước lượng hoạt động của kinh tế ngầm chiếm bao nhiêu phần trăm của GDP và thông qua đó phỏng đoán mức rửa tiền. Công cụ thường dùng là quan sát sự dịch chuyển bất thường nhu cầu xã hội theo thời gian, hoặc là sự tăng vọt hay giảm thuế đột ngột. Cách tiếp cận thứ hai là tiếp cận vi mô. Cách này thường ước lượng gộp thông qua các hoạt động tội phạm được phát hiện, các kênh thông tin đường phố (street knowledge). Thông thường thì các thống kê mức độ rửa tiền công bố với một biên độ dao động khá rộng tính bằng phần trăm GDP. Chẳng hạn như những kết quả công bố gần đây của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF1, số lượng tiền được rửa ở Úc khoảng 4% - 12% GDP, ở Đức là 2% - 11%, ở Ý là 10% - 33%, Nhật là 4% - 15%, Anh là 1% - 15% và ở Mỹ là 4% - 33%. Ở Việt Nam chưa có một công bố thống kê chính thức nào về hoạt động rửa tiền cũng như độ lớn của nó trong nền kinh tế. Tuy nhiên một nghiên cứu công bố gần đầy về hoạt động không chính thức của kinh tế Việt Nam làm chúng ta lo ngại. Nghiên cứu của Stoyan2 và cộng sự cho rằng hoạt động phi chính thức của Việt Nam vào năm 2001 vào khoảng 50% GDP và có xu hướng tăng dần hàng năm. Trong đó, các hoạt động phụ của hộ gia đình ở nông thôn chiếm 24%, hoạt động kinh doanh và dịch vụ không khai báo ở thành thị là khoảng 10,5% và hoạt động không khai báo khác là 10%. Như vậy chúng ta thấy dù ít hay nhiều thì hoạt động rửa tiền ở Việt Nam có thể tồn tại và nếu tính quy đổi theo tỷ lệ phần trăm nào đó đối với hoạt động kinh tế ngầm theo nghiên cứu của Stoyan nêu trên thì Việt Nam cũng có cơ sở quan tâm và nghiên cứu đến chủ đề này khá phức tạp và khó đo lường này. 1.2. Quy trình rửa tiền Một quy trình rửa tiền tiêu biểu thông qua hệ thống ngân hàng thường bao gồm 3 giai đoạn sau: 1 Peter J. Quirk, “Money Laundering: Muddying the Macroeconomy”, IMF Working Paper 96/66. 2 Stoyan Tenev và cộng sự, Hoạt động không chính thức và môi trường kinh doanh ở VN, 2003, NXB Thông tấn. 8 - Đầu tư phân tán (Placement). - Phân tán lòng vòng (Layering). - Hợp nhất (Intergration). 1.2.1. Đầu tư phân tán (Placement) Đây là thuật ngữ nói lên việc phân phối nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp vào trong hệ thống tài chính mà không gây ra sự chú ý của các định chế tài chính và của các cơ quan chức năng. Các tội phạm rửa tiền có thể thực hiện đầu tư phân tán bằng cách chia các khoản tiền bẩn thành nhiều khoản tiền nhỏ dưới mức quy định - theo đề xuất của tổ chức chống rửa tiền quốc tế mức quy định là 15.000 USD hoặc 10.000 EUR - và thường được thực hiện ở những ngân hàng có các quy chế kiểm soát nội bộ yếu kém, hoặc là những ngân hàng có uy tín thấp. Thậm chí các tội phạm rửa tiền còn thực hiện một cách hoàn hảo các kế hoạch của mình bằng cách chuyển tiền vào những tài khoản của những đối tác mà những hóa đơn thu tiền của các đối tác này sẽ không bao giờ có các hàng hóa hoặc dịch vụ đối ứng. 1.2.2. Phân tán lòng vòng (Layering) Đây là thuật ngữ nói lên một quy trình tạo ra một chuỗi các giao dịch tài chính phức tạp nhằm mục đích che đậy các nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp để cuối cùng chúng quay trở lại và trở nên “sạch” hơn. Các kỹ thuật phân tán thông thường là cho vay lại (loan-backs) và tính giá cao (double invoicing): Việc cho vay lại (loan backs) được thực hiện bằng cách các tội phạm rửa tiền sẽ chuyển tiền ra nước ngoài, thường trực tiếp vào những ngân hàng dễ dãi (bank secrecy haven). Cần lưu ý rằng trong giai đoạn này, người chuyển tiền và người thụ hưởng chỉ là một người. Sau đó, họ sẽ tìm cách vay lại từ chính các ngân hàng dễ dãi này, và đương nhiên đồng tiền đi ra từ ngân hàng đã trở nên “sạch”. Kỹ thuật này được thực hiện khá dễ dàng ở những quốc gia chưa thực sự quan tâm đến hoạt động rửa tiền và lúc này sẽ rất khó kiểm soát được các tài khoản này. Đối với việc tính giá cao (double invoicing), tội phạm rửa tiền sẽ mua hàng hóa hoặc dịch vụ từ nước ngoài với giá trị trên hóa đơn cao hơn nhiều lần so với giá trị 9 thực. Khi chuyển tiền thanh toán, các đồng tiền “bẩn” được đưa vào hệ thống ngân hàng một cách hợp pháp và trở nên “sạch” ở nước ngoài. Ngoài ra, các giao dịch tài chính tinh vi như tham gia vào thị trường tài chính thứ cấp gắn liền với việc sử dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến như Internet banking cũng gây khó khăn cho hoạt động điều tra. 1.2.3. Hợp nhất (Integration) Đây là thuật ngữ nói lên giai đoạn cuối cùng của việc rửa tiền, là việc tái phân phối trở lại vào nền kinh tế các nguồn tiền không thể lần ra dấu vết được nữa. Giai đoạn này được tiến hành thông qua hàng loạt các hành vi tiêu dùng xa hoa lãng phí, đầu tư bất động sản, các chi tiêu đầu tư vào các doanh nghiệp và đầu tư tài chính. Việc đầu tư vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sẽ làm gia tăng giá trị đồng tiền phạm tội, trộn lẫn đồng tiền hợp pháp và bất hợp pháp, đây cũng là công đoạn khó khăn để có thể xác định hành vi cấu thành tội phạm. Ngoài ra, hành vi rửa tiền cũng có thể được thực hiện không thông qua ngân hàng như: - Bất động sản; - Chứng khoán, các công cụ phái sinh; - Thuê mua tài chính; - Bảo hiểm; Nếu xét về mặt không gian, hành vi rửa tiền thể hiện dưới 5 trường hợp: - Trường hợp 1: các nguồn tiền “bẩn” được tẩy rửa và sử dụng ngay trong nước. Đây là quá trình rửa tiền trong đó số tiền bất hợp pháp được thu, được rửa cũng như được tái đầu tư qua hệ thống tài chính của nước đó. - Trường hợp 2: lượng tiền “bẩn” có nguồn gốc trong nước, sau đó chuyển ra nước ngoài để rửa trong hệ thống tài chính khác và cuối cùng đem trở lại lưu thông trên thị trường trong nước. - Trường hợp 3: tiền “bẩn” được tạo ra ở nước ngoài, được tẩy rửa ở đó hay một nước khác và cuối cùng được đầu tư cho các nước đang phát triển. 10 - Trường hợp 4: số tiền được rửa và rút ra khỏi hệ thống tài chính của một quốc gia đang phát triển để sử dụng ở nơi khác, không quay lại đầu tư cho quốc gia đó. - Trường hợp 5: lượng tiền sau khi rửa được chuyển vào một quốc gia đang phát triển nhưng không phải để đầu tư mà được lưu thông tản mạn, tiêu thụ khắp nơi. 1.3. Các phương thức rửa tiền Các phương thức, thủ đoạn rửa tiền rất phong phú đa dạng, gắn liền với khe hở trong hệ thống pháp luật mỗi nước, nhất là pháp luật hình sự, pháp luật về tài chính, ngân hàng ... Từ thực tiễn phòng chống rửa tiền của nhiều nước có thể mô tả các phương thức, thủ đoạn của tội phạm rửa tiền như sau: - Rửa tiền qua các giao dịch trực tiếp bằng tiền mặt, đây là phương thức rửa tiền truyền thống và chủ yếu của bọn tội phạm, như đổi từ đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác để tiêu thụ. - Rửa tiền thông qua việc mua vàng, kim cương, … là những tài sản gọn nhẹ, có giá trị cao, có thể mua đi bán lại ở mọi nơi, mọi thời điểm trên thế giới. Đây là phương thức rửa tiền được bọn tội phạm sử dụng nhiều nhất do cách thức đơn giản, dễ thực hiện, nhưng lại dễ bị cơ quan điều tra phát hiện. - Rửa tiền thông qua đầu tư vào gửi tiết kiệm, mua tín phiếu, trái phiếu. Bọn tội phạm sẽ gửi tiết kiệm vào ngân hàng hoặc mua tín phiếu, trái phiếu ... làm cho đồng tiền nằm im trong một thời gian phù hợp với quy định với mỗi nước. Sau đó, người gửi tiền có thể rút ra toàn bộ gốc và lãi hoặc rút một phần, biến số tiền đó thành tiền hợp pháp. - Rửa tiền thông qua hoạt động đầu tư, góp vốn thành lập doanh nghiệp. Hiện tượng này thường xảy ra ở những quốc gia đang phát triển, có nhu cầu vốn đầu tư để phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, thị trường tài chính ở các quốc gia này kém phát triển, khả năng quản lý kém sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm rửa tiền phát triển. - Rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng “ngầm”. Tại một số nước, hệ thống ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, đắt đỏ mà lại quan liêu. Do đó, trong cộng đồng những người nước ngoài tại các quốc gia này tồn tại hệ thống ngân hàng không 11 chính thức gọi là ngân hàng “ngầm”. Hệ thống ngân hàng ngầm này hoạt động và luân chuyển tài chính như các ngân hàng chính thức nhưng với chi phí dịch vụ rẻ hơn, bí mật hơn các ngân hàng hợp pháp. Các ngân hàng ngầm có đại diện ở nhiều nước khác nhau để thực hiện dịch vụ chuyển tiền từ nước này sang nước khác hoặc từ thành phố này sang thành phố khác trong cùng một quốc gia. Sự hoạt động của ngân hàng này chủ yếu dựa trên niềm tin giữa ngân hàng và bạn hàng nên thủ tục giấy tờ gọn nhẹ. Bọn tội phạm lợi dụng nguyên tắc giữ bí mật của những ngân hàng này đã đem tiền đến gửi và yêu cầu nhận lại ở một thành phố khác. Những địa chỉ cần nhận tiền tẩy rửa thông thường là những quốc gia khao khát đầu tư tài chính nhưng ít quan tâm đến nguồn gốc đồng tiền, việc thanh toán qua ngân hàng chưa phải là yêu cầu bắt buộc và phổ biến, hệ thống pháp luật về phòng chống rửa tiền chưa nghiêm. 1.4. Ảnh hưởng của hoạt động rửa tiền đến nền kinh tế Về mặt phát triển kinh tế, khối lượng tiền rửa sẽ có ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế qua ba kênh chính như sau. Thứ nhất là làm xói mòn hệ thống tài chính; thứ hai là làm giảm hiệu quả của khu vực kinh tế chính thức và thứ ba là tác động đến khu vực kinh tế nước ngoài bằng cách bóp méo giá cả và làm chệch hướng các dòng vốn quốc tế. Rửa tiền sẽ làm suy yếu sự phát triển của hệ thống tài chính bằng hai lý do. Lý do thứ nhất, rửa tiền làm xói mòn chính bản thân nội tại của các tổ chức tài chính. Điều dễ dàng nhận thấy mối quan hệ nguy hiểm giữa hành vi rửa tiền và cán bộ phụ trách của các tổ chức tài chính. Một số lượng tiền có nhu cầu được rửa càng cao thì tính nguy hiểm càng lớn thông qua các hành vi tham nhũng và các tìm kiếm đặc lợi khác. Điều này làm thiên lệch các quyết định đầu tư tài chính và dẫn đến giảm hiệu quả của hệ thống tài chính ở cấp vi mô lẫn vĩ mô. Lý do thứ hai, ở các nước đang phát triển, lòng tin của khách hàng đối với hệ thống tài chính là một yêu cầu quan trọng để phát triển hệ thống này qua thời gian, và như vậy, bất cứ một tín hiệu nào mà khách hàng cho rằng những định chế tài chính là gian lận hoặc tiếp tay cho hoạt động gian lận này đều có thể làm suy sụp niềm tin và có thể làm tổn hại đến cả hệ 12 thống. Trong tình trạng tồi tệ, khủng hoảng ngân hàng có thể xảy ra vì công chúng sẽ cư xử theo hiệu ứng tâm lý bầy đàn hoặc rút vốn hàng loạt nếu lòng tin này không còn. Bên cạnh tác động đến hệ thống tài chính, rửa tiền còn tác động tiêu cực trực tiếp đến tăng trưởng của khu vực kinh tế chính thức. Rửa tiền sẽ làm chệch hướng và phân bổ nguồn lực trong khu vực chính thức kém hiệu quả. Theo các báo cáo rửa tiền, phần lớn lượng tiền này được đem đi đầu tư ở những khu vực xem như là “vô trùng” để đảm bảo tính an toàn hơn là suất sinh lợi. Những khoản đầu tư này không những chỉ tạo ra ít hiệu suất cho nền kinh tế mà nó chệch hướng cung và cầu tự nhiên của khu vực chính thức. Thường thì trong khu vực bất động sản, các hoạt động nghệ thuật, đồ cổ, nữ trang và các ngành ô tô đắt tiền được giới rửa tiền quan tâm. Những dấu hiệu bất thường về cung hoặc cầu trong xã hội thường là do các hoạt động bất chính gây ra, và rửa tiền là một hoạt động quan trọng tạo nên sự mất cân đối trong xã hội này. Việt Nam có thể cho chúng ta một dấu hiệu khác thường về bất thường cung cầu trong lĩnh vực bất động sản. Giá bất động sản cao xấp xỉ bằng Nhật Bản, trong khi đó thu nhập thì chỉ bằng 1/20, nghiêm trọng hơn là bất động sản đa số đã có chủ nhưng hầu như lại ít sử dụng thực sự. Trong một nghiên cứu chuẩn bị cho Báo cáo giao dịch và Trung tâm phân tích của Úc3, tổ chức tư vấn dịch vụ Jonh Walker đã sử dụng mô hình Input – Output phân tích kịch bản tác động của việc rửa tiền. Trong một kịch bản trung hoà nhất cho thấy tác động ròng như sau: 1 tỷ đô la của tiền rửa làm giảm đi khoảng 1,13 tỷ giá trị sản lượng, 609 ngàn thu nhập và 25 việc làm. Đây là một tác động thật sự lớn, và thực tế ở các nền kinh tế lớn số tiền được rửa là nhiều hơn chứ không phải dừng lại như kịch bản đã phân tích. Rửa tiền cũng có tác động lên khu vực nước ngoài. Có hai tác động kinh tế chính của việc rửa tiền lên khu vực nước ngoài đối với một nền kinh tế là làm giảm đầu tư nước ngoài và bóp méo giá cả ngoại thương. Việc rửa tiền phần lớn dính líu đến các hoạt động tham nhũng và điều này dẫn đến những khuyến khích sai lệch 3 IMF, International Financial Statistics, “Australia”, 3.2002 13 trong danh mục đầu tư hoặc lựa chọn đầu tư nước ngoài. Chính sự phân bố sai lệch này trong ngắn hạn làm giảm và nản lòng các dòng vốn đầu tư chính thức và hiệu quả. Kết quả này trong dài hạn làm nền kinh tế không tiếp thu được tác động lan tỏa của đầu tư nước ngoài, chẳng hạn như công nghệ, kỹ năng lao động, kiến thức và cả các kênh phân phối quốc tế… điều mà đáng lý ra các nước đang phát triển rất cần đến để bắt kịp các nước phát triển. Ngoài việc làm phân bổ sai lệch danh mục đầu tư, các hoạt động rửa tiền thông qua hoạt động xuất và nhập khẩu sẽ làm bóp méo giá cả ngoại thương. Về mặt lý thuyết, nếu hiện tượng này lặp đi lặp lại và với số lượng lớn có thể dẫn đến làm thay đổi cơ cấu kinh tế đất nước và tạo ra sự cân bằng giả tạo. Một lúc nào đó, việc rửa tiền hoàn tất hoặc rút ra khỏi một nước đột ngột với số lượng lớn có thể dẫn đến khủng hoảng tiền tệ hoặc khủng hoảng ngân hàng, chưa kể đến những hệ quả như thay đổi tỉ giá hối đoái thực và làm mất cân bằng giữa khu vực hàng ngoại thương và phi ngoại thương. Ngoài những ảnh hưởng về phân bố nguồn lực, hoạt động rửa tiền sẽ là sai lệch các thống kê kinh tế và như vậy sẽ làm cho việc đưa ra các chính sách kinh tế, nhất là chính sách tiền tệ sẽ không thể đúng liều lượng và hữu hiệu được. Và điều quan trọng hơn hết chính là rủi ro về danh tiếng cho quốc gia nếu không kiểm soát được vấn nạn rửa tiền tại quốc gia mình. 1.5. Các biện pháp phòng, chống rửa tiền 1.5.1. Lực lượng đặc nhiệm trong lĩnh vực tài chính (FATF) Vào năm 1989 các nước G-7 đã thành lập lực lượng đặc nhiệm trong lĩnh vực tài chính, FATF (Financial Action Task Force). FATF được xem như là một công cụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chống rửa tiền. Tổ chức này tập trung vào các lĩnh vực sau: - Truyền bá các thông điệp về phòng, chống rửa tiền cho các quốc gia trên toàn thế giới; - Theo dõi việc thực thi các khuyến nghị trong phòng, chống rửa tiền do chính FATF ban hành; 14 - Xem xét và công bố những xu hướng biến đổi của hành vi rửa tiền và đưa ra các biện pháp để đối phó với vấn nạn này. Năm 1990, FATF đã cho phát hành 40 khuyến nghị phòng, chống rửa tiền. Đây là những biện pháp cơ bản nhất và được ứng dụng rộng rãi trong phòng, chống rửa tiền. Đến năm 2001, sau sự kiện 11 tháng 09, FATF đã cho ban hành 8 khuyến nghị đặc biệt về phòng, chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố. Đây được xem là các chuẩn mực quốc tế được biết đến với tên gọi là FATF 40+8. Đến ngày 22/10/2004, khuyến nghị đặc biệt thứ 9 được ban hành với tên gọi là Cash Couriers. Các đề xuất này là tập hợp các quy định toàn diện về phòng, chống rửa tiền cho các chính phủ, các cơ quan lập pháp và hành pháp, các định chế tài chính và các tổ chức kinh doanh nói chung. FATF có nhiệm vụ đánh giá, giám sát các biện pháp chống rửa tiền, theo dấu các hoạt động rửa tiền ở các quốc gia thành viên và không phải là thành viên tổ chức này. Hiện nay có hơn 130 quốc gia và lãnh thổ - đại diện cho khoảng 85% dân số thế giới và khoảng 90% đến 95% sản lượng kinh tế toàn cầu - đã thực hiện những cam kết chính trị để thực hiện các khuyến nghị của FATF. Việt Nam vẫn chỉ mới là quan sát viên chứ chưa phải là thành viên chính thức của FATF. FATF còn có một nhiệm vụ nữa là công bố danh sách những nước và vùng lãnh thổ không cam kết hoặc không hưởng ứng tích cực chống lại nạn rửa tiền. Ngay khi bản danh sách này được công bố lần đầu tiên vào tháng 6 năm 2000, 15 nước và lãnh thổ trong danh sách không hợp tác đã nhanh chóng hành động để thực hiện những khuyến nghị của FATF. Đây là một trong những cảnh báo cho những quốc gia nào không có thiện chí trong các nỗ lực hợp tác quốc tế chống lại rửa tiền và khủng bố và tất nhiên con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các quốc gia không phải thành viên này cũng sẽ gặp phải những trở ngại tương xứng. 1.5.2. Các khuyến nghị của FATF Các khuyến nghị của FATF gồm có 40 khuyến nghị về phòng, chống rửa tiền và 9 khuyến nghị đặc biệt về hoạt động rửa tiền với việc tài trợ cho khủng bố. Bốn mươi khuyến nghị phòng, chống rửa tiền đề cập đến những vấn đề như sau: 15 Thứ nhất, các khuyến nghị đề cập đến hệ thống luật pháp về phòng, chống rửa tiền như phạm vi của tội phạm rửa tiền (khuyến nghị 1 và 2), các biện pháp tạm thời được áp dụng trong phòng, chống rửa tiền (khuyến nghị 3). Thứ hai, các khuyến nghị đưa ra các biện pháp ngăn ngừa rửa tiền và tài trợ cho khủng bố bao gồm: - Các biện pháp nhận biết khách hàng và lưu giữ thông tin được chi tiết hóa từ khuyến nghị thứ 4 đến khuyến nghị thứ 12. - Báo cáo các giao dịch đáng ngờ, từ khuyến nghị 13 đến khuyến nghị 16. - Các biện pháp để ngăn chặn rửa tiền và tài trợ khủng bố. Các biện pháp này nằm trong các khuyến nghị từ 17 đến 20. - Các biện pháp dành cho các quốc gia không tuân thủ đầy đủ các khuyến nghị của FATF (khuyến nghị 21 và 22). - Các quy định và sự giám sát (khuyến nghị 23, 24, 25) Thứ ba, các biện pháp được đưa ra cho các cơ quan công quyền trong cuộc chiến chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố, bao gồm: - Các quy định về quyền lực và nguồn lực của các cấp có thẩm quyền, được nêu trong các khuyến nghị từ 26 đến 32. - Sự minh bạch của các quan chức và các thỏa thuận, khuyến nghị 33 và 34. - Vấn đề hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền, khuyến nghị 35. - Sự trợ giúp pháp lý lẫn nhau và vấn đề dẫn độ tội phạm rửa tiền (các khuyến nghị từ 36 đến 39). - Khuyến nghị 40 là các hình thức hợp tác khác. Ngoài 40 khuyến nghị trên, FATF còn đưa ra 9 khuyến nghị đặc biệt liên quan đến rửa tiền và tài trợ cho khủng bố. 1.6. Hoạt động rửa tiền và kinh nghiệm phòng, chống rửa tiền trên thế giới 1.6.1. Hoạt động rửa tiền trên thế giới Rửa tiền không phải là một hiện tượng mới. Theo nhiều sử gia, thương nhân Trung Quốc đã biết “rửa tiền” hơn ba ngàn năm trước để tránh thuế của triều đình. Tuy nhiên, hoạt động này đã bùng nổ với quy mô toàn cầu, gây nhiều hậu quả 16 nghiêm trọng về mặt kinh tế và xã hội, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Nhiều xì-căn-đan rửa tiền, dính líu đến các quan chức cao cấp, đã gây khủng hoảng chính trị ở một số quốc gia. Gần đây hơn, liên hệ giữa tiền bẩn và các hoạt động khủng bố đã trở thành quan tâm hàng đầu của các cơ quan công lực. Bản báo cáo điều tra về tội phạm kinh tế quốc tế năm 2003 của Pricewaterhouse Coopers (PWC) dựa trên 3.600 cuộc phỏng vấn tiến hành tại 50 quốc gia trên thế giới cho thấy tội phạm kinh tế đang tăng mạnh, cứ ba doanh nghiệp được hỏi, có một doanh nghiệp là nạn nhân của tội phạm kinh tế. Báo cáo cũng cho thấy công ty càng lớn, khả năng bị tội phạm kinh tế “thăm viếng” càng cao, không có lĩnh vực nào là an toàn trước các loại tội phạm kinh tế nhưng rủi ro cao nhất rơi vào lĩnh vực tài chính như ngành ngân hàng và bảo hiểm. Nguồn tiền bẩn thường đến từ nhiều hoạt động tội phạm. Tuy nhiên, hiện rất khó để đưa ra con số tổng của hoạt động rửa tiền khi nó diễn ra ngoài số liệu thống kê kinh tế thông thường. FATF và Liên hợp quốc dự đoán hiện có khoảng 1,5 nghìn tỷ USD bị rửa trên thế giới mỗi năm. Số tiền trên chiếm 2 % - 5 % GDP của toàn thế giới. Hoạt động rửa tiền ngoài khối ngân hàng còn được thực hiện ở các giao dịch ngoại hối, môi giới chứng khoán và kinh doanh chứng khoán, buôn bán kim loại quý hiếm. Ngay cả những nơi như quán bar, nhà hàng, casino, công ty thương mại, kinh doanh ôtô, bất động sản, kinh doanh đồ cổ, các công ty bảo hiểm ... cũng có những hoạt động rửa tiền. Một nguồn tin của Hãng tin Reuters (được báo Tuổi Trẻ đưa lại) chỉ ra rằng, hàng năm trên thế giới có gần 150.000 công ty bình phong (công ty ma) được thành lập trên khắp thế giới. Tiền bẩn được chuyển qua các công ty này và đến hơn 60 “thiên đường tài chính” lên đến hàng tỷ USD. Theo Tổ chức phi chính phủ Oxfam, số tiền này nhiều gấp sáu lần chi phí cần cho giáo dục cơ bản ở những nước đang phát triển và nhiều gấp ba lần chi phí dành cho chăm sóc sức khỏe cơ bản. Trong những năm 1970 người ta chỉ thấy có 25 quốc gia được xem là “thiên đường tài chính”, thì hiện nay con số này đã vọt lên đến 63 và khoảng phân nửa trong số đó là những quốc gia hoặc lãnh thổ nằm dưới quyền bảo hộ của Anh hoặc là các quốc gia 17 thuộc địa cũ. Chỉ riêng ở Anh, số tiền bị chảy máu ra ngoài dao động ở mức 36 - 123 tỷ euro. Công nghiệp rửa tiền lại được thêm nhiều “cú hích” do các thay đổi về thể chế và chính sách tài chính cũng như những tiến bộ về công nghệ trên thế giới. Thứ nhất, hầu hết mọi quốc gia đều nới lỏng kiểm soát ngoại hối, nhất là từ đầu thập kỷ 1990. Ở nhiều nước, việc đổi nội tệ ra ngoại tệ, và ngược lại, là hoàn toàn tự do. Đi xa hơn, nhiều quốc gia đã chính thức sử dụng chung một thứ tiền (trường hợp đồng euro), hoặc công nhận USD hay EUR như là nội tệ bán chính thức của họ. Nhờ thế, một lượng tiền (sạch hay bẩn) khổng lồ có thể được chuyển từ nước này sang nước khác trong nháy mắt, ngoài tầm kiểm soát của cơ quan công lực. Thứ hai, tiến độ mở cửa kinh tế ở hầu hết các nước đã tăng vọt, nhất là từ 10 - 15 năm gần đây. Các thị trường tài chính (đặc biệt là vốn) trở nên thông thoáng hơn. Số lượng tiền lưu hành toàn cầu đã tăng gấp ba (từ 6.800 tỷ USD năm 1990 lên đến 19.900 tỷ năm 2005), mức độ phức tạp cũng tăng lên. Hiển nhiên, càng nhiều loại hình dịch vụ tài chính thì càng lắm cơ hội và cách thức để chuyển tiền phi pháp, hoặc đưa tiền bẩn vào luồng tiền sạch. Thứ ba, cạnh tranh thu hút vốn ngày càng kịch liệt giữa các nước, các công ty phát hành chứng khoán, các ngân hàng và các loại định chế tài chính trung gian khác. Đây cũng là sự kiện làm những người rửa tiền thích thú vì họ biết rằng sớm muộn gì cũng có ngân hàng, hay các công ty chứng khoán, sẵn sàng nhận tiền của họ mà không cần biết nguồn gốc tiền ấy. Thứ tư là tác động của cuộc cách mạng thông tin. Ở rất nhiều nước, ngân hàng là lĩnh vực đưa tiến bộ công nghệ thông tin vào ứng dụng sớm và nhanh nhất. Những thành quả của cuộc cách mạng thông tin đã được những người rửa tiền lợi dụng triệt để, trong khi đó, ở lĩnh vực này, các cơ quan công lực tỏ ra chậm chạp hơn nhiều, nhất là khi họ cần phối hợp giữa nhiều địa phương hay xuyên quốc gia. Cuối cùng, phải kể đến những lối rửa tiền mới, sử dụng internet. Những trang web “đen” như trang sex, cờ bạc, cá cược... thường được dùng để rửa tiền vì các cơ quan công lực khó có thể truy ra tiền ấy từ đâu đến và vào tay ai. 18 Tại châu Á, khó khăn để chống nạn rửa tiền là các khoản quỹ “tiền lậu” ở các nước mọc lên dày đặc theo các kênh khác nhau. Thị trường tài chính khu vực ngày càng được sáp nhập và liên kết nhiều thành viên hơn thì khả năng rửa tiền của bọn tội phạm càng lớn, trong hoạt động này gồm cả các tổ chức khủng bố. Mỗi ngày số tiền luân chuyển khắp thế giới về châu Á lên tới nhiều tỷ USD và việc kiểm soát để biệt lập đâu là đồng tiền “bẩn” hay tiền “sạch” quả là rất khó. Ngoài ra, các tổ chức tội phạm hiện cũng rất tinh vi. Chúng rửa tiền dựa trên những công nghệ mới mà các chuyên gia gọi là “hệ thống tài chính di động”. Hệ thống này hoạt động ngầm rất khó phát hiện nhờ có sự móc ngoặc của nhiều mắt xích khác nhau. Có một điều trớ trêu là, nhiều doanh nghiệp khi kinh doanh hợp pháp thì không thành công, nhưng khi bên bờ phá sản thì lại móc ngoặc được với các tổ chức rửa tiền để hoạt động. Số doanh nghiệp này hiện nay tồn tại không phải là nhỏ, nhất là trong thời điểm cạnh tranh kinh tế ngày càng tăng. Mới đây, các chuyên gia về tiền tệ của ngân hàng Trung ương Singapore đã ra lời cảnh báo rằng, nếu hoạt động rửa tiền không được kiểm soát tốt thì nó sẽ có tác động rất xấu tới hoạt động kinh doanh của khu vực. Hiện nay, rửa tiền và các hoạt động khủng bố trong lĩnh vực tài chính đang gia tăng mạnh ở châu Á. Để đạt được mục đích đưa ra, bọn tội phạm đã không ngần ngại móc nối với nhau để có bằng được đồng tiền bẩn. Khi có đồng tiền bất hợp pháp trong tay, chúng cho xây dựng các công ty ảo. Các công ty này khi hoạt động sẽ tác động xấu tới môi trường kinh doanh. Nguy hiểm hơn, bọn tội phạm còn sử dụng đồng tiền bẩn vào việc tài trợ cho các hoạt động phạm pháp như: khủng bố, buôn bán ma tuý, buôn lậu, ... Một thông báo mới đây của tổ chức Liên Hiệp Quốc cho thấy, số tiền bẩn đã được bọn tội phạm sử dụng vào mục đích khủng bố, tống tiền ngày càng lớn và quy mô hoạt động của chúng ngày càng dày đặc hơn. Trong thời gian gần đây, cả Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) đã tăng cường đưa ra các hệ thống giám sát chống rửa tiền ở nhiều nước ở châu Á và Singapore được xem là nơi điển hình để chống lại loại tội phạm này. Một điều cần thấy rõ là, khi hoạt động tài chính của một quốc gia bị tổn thương thì khả 19 năng kiểm soát giá trị của đồng tiền sẽ gặp nhiều khó khăn. Về lâu dài có thể gây ra những cuộc khủng hoảng nhẹ về kinh tế. Vì vậy, chống rửa tiền làm trong sạch hệ thống tài chính là nhiệm vụ của mỗi quốc gia. 1.6.2. Kinh nghiệm phòng, chống rửa tiền tại một số nước trên thế giới 1.6.2.1. Kinh nghiệm phòng, chống rửa tiền tại Mỹ Mỹ là nước có hệ thống luật pháp về phòng, chống rửa tiền toàn diện và nghiêm khắc nhất trên thế giới mà tất cả các định chế tài chính và nhân viên của họ đều phải tuân theo. Một trong những đạo luật quan trọng nhất liên quan đến phòng, chống rửa tiền là Luật bí mật ngân hàng (BSA) năm 1970 và những quy tắc của nó. Mục đích của BSA là tạo ra một văn bản pháp lý tạo điều kiện điều tra tội phạm rửa tiền, trốn thuế … bằng cách yêu cầu các tổ chức tài chính phải lưu giữ những chứng từ liên quan đến giao dịch trên 10.000 USD. Sau đó luật được sửa đổi cho phép Chính phủ và các cơ quan chức năng có thể hạ thấp mức chuẩn 10.000 USD trong các cuộc điều tra. Một số luật quan trọng khác trong việc phòng, chống rửa tiền tại Mỹ gồm Luật quản lý toàn diện tội phạm năm 1984, Luật quản lý rửa tiền năm 1986, Luật chống sử dụng ma tuý năm 1988, Luật chống rửa tiền Annunzio-Wylie năm 1992. Những luật và quy định về phòng, chống rửa tiền tại Mỹ luôn được bổ sung, sửa chữa cho phù hợp với những thay đổi của tội phạm rửa tiền. Luật chống rửa tiền quy định nghĩa vụ của tất cả các đối tượng, từ các cá nhân đến các tổ chức khi phát hiện có sự tham gia vào bất kỳ hoạt động rửa tiền nào và là căn cứ để tịch thu, sung quỹ tiền và tài sản liên quan đến hoạt động rửa tiền. Việc không tuân thủ những quy tắc và luật lệ liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền của các nhân viên của các tổ chức tín dụng có thể dẫn tới bị phạt dân sự và hình sự. Về mặt dân sự, nhân viên ngân hàng có thể bị phạt tới 100.000 USD cho việc cố tình vi phạm những quy định về báo cáo và lưu giữ chứng từ của BSA. Về mặt hình sự, người vi phạm có thể bị phạt tiền tới 250.000 USD, 5 năm tù hoặc cả hai. 20 Một trong những vụ sớm nhất và nổi tiếng nhất liên quan đến việc ngân hàng bị phạt do vi phạm các quy định và luật lệ liên quan đến hoạt động rửa tiền tại Mỹ là trường hợp ngân hàng Boston. Mặc dù đã được yêu cầu phải tuân thủ chặt chẽ hơn trong việc lưu giữ các chứng từ giao dịch vào năm 1980, song ngân hàng Boston vẫn tiếp tục giao dịch với các ngân hàng nước ngoài, bao gồm cả các ngân hàng đại lý của nó mà không hề lưu giữ hồ sơ chứng từ đến tận năm 1984. Nghiêm trọng hơn, các chi nhánh của ngân hàng Boston đã tiếp tục thực hiện những giao dịch với những tội phạm nổi tiếng qua nhiều năm. Những nhân vật này đã thực hiện những phi vụ kinh doanh bất động sản, nhưng nhân viên của ngân hàng Boston đã không báo cáo và lưu giữ chứng từ của những giao dịch này mặc dù chúng không được loại trừ theo các quy định và luật lệ về tài chính. Đến năm 1985, ngân hàng Boston mới thực hiện đúng các yêu cầu về phòng, chống rửa tiền theo các quy định, luật lệ nên cuối cùng đã bị kết án và bị phạt 500.000 USD. 1.6.2.2. Kinh nghiệm phòng, chống rửa tiền tại Anh Tại Anh, các định chế tài chính cũng hoạt động theo những quy định về phòng, chống rửa tiền tương tự như tại Mỹ. Tháng 12/1990, nước Anh ban hành một loạt văn bản hướng dẫn các ngân hàng trong việc phát hiện và chấm dứt các hoạt động rửa tiền, trong đó tập trung chủ yếu vào các nhiệm vụ của ngân hàng trong việc cảnh báo cho các cơ quan quyền lực những hoạt động và giao dịch đáng ngờ. Các hướng dẫn này được xây dựng bởi Ngân hàng Trung ương Anh và các NHTM với sự phối hợp, tham gia của Cơ quan tình báo quốc gia, hải quan, cảnh sát. Theo đó, ngân hàng phải đích thân nhận dạng tất cả các khách hàng bằng mọi cách có thể, kể cả bằng cách gặp mặt trực tiếp. Hướng dẫn cũng chỉ rõ các cách thức xác nhận thông tin cá nhân, trong đó hộ chiếu là hình thức được ưu tiên, ngoài ra các hình thức khác cũng được chấp nhận như thẻ nhân viên, bằng lái xe,… Hơn nữa, các ngân hàng phải lưu giữ tất cả các chứng từ giao dịch trong 6 năm để phục vụ điều tra. Cũng giống như tại Mỹ, việc không tuân theo những hướng dẫn và các luật, quy định sẽ dẫn tới những trách nhiệm pháp lý. Những trách nhiệm pháp lý dân sự 21 có thể nảy sinh nếu vi phạm những quy định về sự bảo mật của khách hàng. Hướng dẫn tại Anh chỉ ra rằng các nhân viên của các định chế tài chính phải hợp tác một cách toàn diện với các cơ quan pháp luật và phải thông báo trước cho các cơ quan này các giao dịch đáng ngờ. Trong khi các ngân hàng là chủ thể chính, các tổ chức tài chính khác như công ty bảo hiểm, tổ chức môi giới, … cũng phải thực hiện theo những hướng dẫn này. Những quy định, luật lệ khác liên quan đến phòng, chống rửa tiền tại Anh bao gồm Luật chống buôn bán ma tuý năm 1986, Luật phòng, chống khủng bố năm 1987, Luật hình sự (Hợp tác quốc tế) năm 1990 và Luật hình sự năm 1993. Bộ luật chống buôn bán ma túy năm 1986 cho phép cảnh sát có quyền điều tra những tài sản đáng ngờ có liên quan đến ma tuý, phong toả chúng và khi có chứng cớ sẽ tịch thu những tài sản này. Luật phòng, chống khủng bố năm 1987 quy định sẽ kết tội những người sử dụng hoặc sở hữu quỹ khủng bố. Luật hình sự năm 1990 cho phép kết tội những người che giấu, biển thủ, chuyển nhượng hoặc vận chuyển những tài sản hoặc giúp đỡ người khác làm việc đó khi biết hoặc nghi ngờ những tài sản do phạm tội buôn bán ma tuý mà có. Luật hình sự năm 1993 mở rộng quyền lực của toà án trong việc kết tội rửa tiền như một tội phạm hình sự. Hệ thống luật lệ ngân hàng và các hướng dẫn thực hành giám sát của cộng đồng châu Âu yêu cầu tất cả các nhân viên ngân hàng đều phải nhận biết khách hàng của họ; đồng thời cải thiện hệ thống lưu giữ chứng từ, ngăn chặn kịp thời những hành động đáng ngờ và tập huấn các nhân viên để họ tuân theo các luật lệ ngân hàng một cách chủ động và có thể nhận biết, báo cáo các hành động rửa tiền. 1.6.2.3. Kinh nghiệm phòng, chống rửa tiền tại Trung Quốc Hoạt động kinh doanh không chỉ cần đến một hệ thống quản lý thông tin về chống rửa tiền tốt mà cần phải có các biện pháp phòng ngừa và một cơ chế thích hợp. Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã nổ lực ở nhiều cấp độ nhằm xây dựng một hệ thống chống rửa tiền. Trước hết, dưới sự chỉ đạo của Ủy ban Nhà nước, Hội nghị cấp Bộ trưởng về chống rửa tiền do ngân hàng trung ương chủ trì đã được tổ chức. Với sự tham gia của 23 cơ quan Chính phủ trong đó có cơ quan tư pháp, an ninh, thương mại, thuế, hải quan, … Hội nghị đã nghiên cứu và đề ra chiến lược, 22 xây dựng các hướng dẫn và chính sách về chống rửa tiền đồng thời tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chính phủ trong việc xây dựng các quy các chế và kiểm tra các hành vi vi phạm. Cấp độ thứ hai là hệ thống quản lý chống rửa tiền. Đây là một hệ thống quốc gia do ngân hàng trung ương điều hành. Hệ thống này bao gồm hệ thống kiểm tra các hành vi vi phạm chống rửa tiền tập trung vào lĩnh vực tài chính và một trung tâm theo dõi thông tin chống rửa tiền. Trung tâm theo dõi thông tin là một hệ thống xử lý dữ liệu lớn giúp phát hiện ra các hoạt động rửa tiền và các manh mối giao dịch chuyển tiền khác liên quan đến các hoạt động bất hợp pháp thông qua việc thu thập và phân tích thông tin về các giao dịch nghi ngờ và có giá trị lớn do các NHTM báo cáo. Cuối cùng là hợp tác với tổ chức chống rửa tiền quốc tế vì các hoạt động rửa tiền luôn đi kèm với vận chuyển ma túy và khủng bố. Hiện nay Trung Quốc đang nổ lực để tham gia vào Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) và các tổ chức quốc tế khác, thiết lập sự hợp tác giám sát song phương và trao đổi thông tin về chống rửa tiền với các nước khác để tạo ra môi trường thuận lợi cho các tổ chức tài chính và các chủ thể kinh tế trong các hoạt động kinh doanh. Một vài số liệu về hoạt động chống rửa tiền tại Trung Quốc trong thời gian qua như sau: Cục Quản lý ngoại hối Nhà nước Trung Quốc (SAFE) đã thông báo một số thành tựu ban đầu trong cuộc chiến chống nạn rửa tiền của nước này. Từ tháng 3 đến cuối năm 2003, SAFE đã lệnh cho các chi cục khu vực tiến hành kiểm tra tính xác thực của các giao dịch ngoại hối của 18.279 công ty và cá nhân. Kết quả phát hiện được 36 trường hợp có các giao dịch ngoại hối bất hợp pháp với số tiền 20,5 triệu USD. Ngoài ra, SAFE cũng đã chuyển cho cảnh sát 123 trường hợp nghi ngờ có liên quan đến hoạt động rửa tiền với số tiền lên đến 414 triệu USD. Trong đó, 6 trường hợp liên quan đến rửa tiền, trị giá 5,8 triệu USD đã được xử lý. Trong năm 2002 và 2003, cảnh sát Trung Quốc đã bắt giữ 62 tổ chức chuyên rửa tiền, thu giữ 130 triệu Nhân dân tệ (15,6 triệu USD) và bắt giữ 200 kẻ tình nghi. Theo quy định mới của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC), kể từ đầu năm 2003, các tổ chức tài chính phải thông báo cho ngân hàng và các cơ quan chức năng 23 của Chính phủ về tất cả các giao dịch ngoại hối bằng tiền mặt nếu lượng tiền giao dịch vượt quá 10.000 USD. Toàn bộ các giao dịch phi tiền mặt của cá nhân với số tiền trên 100.000 USD và giao dịch phi tiền mặt của công ty với lượng tiền trên 500.000 USD cũng phải được thông báo. Những năm gần đây, Chính phủ Trung Quốc đã tăng cường các hoạt động chống tham nhũng, kể cả việc cấm sử dụng tên giả để mở tài khoản ngân hàng - sử dụng tên giả là “thủ thuật” mà các quan chức tham nhũng thường sử dụng để “hợp pháp hoá” khoản thu nhập bất hợp pháp. Theo ước tính của PBOC, hàng năm có khoảng 200 tỷ Nhân dân tệ (24 tỷ USD) tiền “bẩn” được “rửa” tại Trung Quốc. Như vậy, rõ ràng, Trung Quốc cũng như các nước khác trên thế giới đang phải đối mặt với tình trạng rửa tiền ngày càng nghiêm trọng và chống nạn rửa tiền là nhiệm vụ cấp bách và quan trọng. 1.6.2.4. Kinh nghiệm phòng, chống rửa tiền tại Nga Vào tháng 08/2001, Nga đã ban hành Luật về phòng chống hợp thức hóa (tẩy rửa) các khoản thu nhập từ con đường tội phạm và Luật được điều chỉnh, bổ sung một số điều khoản liên quan đến tài trợ hoạt động khủng bố vào tháng 12/2002. Theo pháp luật này, tất cả các giao dịch vượt quá 600.000 rúp (hơn 20,000 USD) đều chịu sự kiểm soát, theo đó, các ngân hàng cần phải cung cấp cho các cơ quan hữu quan về tất cả các giao dịch tiền tệ và tài sản khác có dấu hiệu đáng ngờ. Năm 2002, Nga rơi vào “danh sách đen” của FATF, danh sách các nước không thực hiện các biện pháp về phòng, chống rửa tiền. Đứng trước tình hình đó, Nga đã thực hiện hàng loạt các biện pháp phòng chống hợp thức hóa các khoản thu nhập bất hợp pháp. Tháng 03/2004, Ủy ban Liên bang Nga về giám sát tài chính, cơ quan chịu trách nhiệm về chống rửa iền ở Nga, về thu thập, phân tích và cung cấp thông tin tương ứng cho các cơ quan bảo vệ pháp luật Nga, đã dược chuyển thành cơ quan liên bang về kiểm soát tài chính. Ngân hàng trung ương Nga, cơ quan giám sát sự tuân thủ pháp luật về phòng chống hợp thức hóa các khoản thu nhập bất hợp pháp của hệ thống ngân hàng, đã thực hiện kiểm tra hơn 1000 định chế tài chính và thu hồi giấy phép của một số ngân hàng vi phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền. 24 Kết luận chương 1 Trong chương này, luận văn đã giới thiệu các khái niệm về rửa tiền, các phương thức và quy trình rửa tiền tiêu biểu cũng như những ảnh hưởng của hoạt động rửa tiền đến nền kinh tế. Hoạt động rửa tiền ngày nay không bó hẹp trong phạm vi một quốc gia hay một khu vực nữa mà luôn có xu hướng mở rộng trên toàn thế giới với khối lượng tiền được tẩy rửa mỗi năm ngày càng gia tăng. Các biện pháp phòng, chống rửa tiền được FATF đưa ra dưới dạng các khuyến nghị được xem như những tiêu chuẩn để xem xét một quốc gia có thực sự tham gia vào cuộc chiến chống rửa tiền hay không. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của kinh tế thế giới, các phương thức rửa tiền cũng ngày càng tinh vi hơn. Chính vì vậy, FATF luôn theo dõi những xu hướng biến đổi của hành vi rửa tiền và đưa ra các biện pháp để đối phó với vấn nạn này. Dù cho hoạt động rửa tiền có xu hướng biến đổi như thế nào thì ngân hàng vẫn là sự lựa chọn hàng đầu để thực hiện hành vi tẩy rửa bởi vì khả năng giao dịch rất lớn và đồng tiền qua ngân hàng sẽ trở thành một đồng tiền sạch, từ đó có thể giao dịch đến bất kỳ đâu mà không gây ra bất cứ một sự nghi ngờ gì về tính hợp pháp của chúng. Ngành ngân hàng Việt Nam hiện cũng đang đứng trước vấn nạn này. Thực trạng về hoạt động rửa tiền ở Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng Việt Nam nói riêng được tiếp tục trình bày ở chương 2 sẽ cho thấy rõ hơn về vấn đề này. 25 CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN TẠI VIỆT NAM 2.1. Hoạt động rửa tiền tại Việt Nam trong thời gian qua Như đã trình bày trong tiểu mục 1.1.3, ở Việt Nam chưa có một công bố thống kê chính thức nào về hoạt động rửa tiền cũng như độ lớn của nó trong nền kinh tế. Theo nghiên cứu của Stoyan và cộng sự về hoạt động không chính thức của kinh tế Việt Nam cho rằng, hoạt động không chính thức của Việt Nam vào năm 2001 vào khoảng 50% GDP và có xu hướng tăng dần hàng năm. Việt Nam là một quốc gia với nền kinh tế đang phát triền, hệ thống tư pháp và tài chính ngân hàng đang trong quá trình hoàn thiện, đại đa số người dân có thói quen thanh toán tiền mặt, các vấn nạn chưa được kiểm soát một cách có hiệu quả, đó là những điểm rất dễ bị “lợi dụng” để tội phạm rửa tiền phát triển. Trên thực tế tại Việt Nam trong các năm qua đã xuất hiện những hoạt động tội phạm có thể xem là rửa tiền. Một số vụ án lớn có liên quan đến rửa tiền đã bị phát hiện trong thời gian qua như sau: 2.1.1. Liên quan đến hành vi lợi dụng việc được mở tài khoản tại NHNN để lừa đảo Năm 1998, một nhân vật người Đức đến NHNN Việt Nam xin mở một tài khoản và nói rằng nếu cho mở tài khoản thì sau một tuần sẽ chuyển vào 100 triệu USD để cho vay trong 30 năm, với lãi suất ưu đãi 2%/năm4. Không ít cán bộ trong NHNN Việt Nam lúc đó, kể cả lãnh đạo, cũng đã phấn khởi theo đuổi việc này. Nhưng sau khi thận trọng xem xét, tìm hiểu, lãnh đạo ngân hàng mới biết được đây là hành vi lợi dụng việc được mở tài khoản tại NHNN để lừa đảo. Theo lời ông Lê Đức Thúy, Thống đốc NHNN Việt Nam: “Tôi cũng đã từng tiếp một số nhân vật vào Việt Nam, được cả người làm trong cơ quan bảo vệ pháp 4 Bảo Minh, Nghị định về chống rửa tiền có thực sự đáng lo ngại, Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 19/06/2005 26 luật giới thiệu, nói rằng nếu ký kết hợp đồng tín dụng, họ sẽ cho vay 20 tỷ USD trong 20 năm, lãi suất ưu đãi, sau 10 năm sẽ xóa luôn khoản nợ, chỉ với điều kiện là có 5% “lại quả”. Và các tổ chức tín dụng của ta cũng nhận được nhiều giấy tờ về tín dụng thư, nếu ngân hàng đứng ra bảo lãnh thanh toán thì sẽ được hưởng một khoản phí rất hấp dẫn. Đó là những hành vi lừa đảo có thể diễn ra ở Việt Nam dưới hành vi tội phạm rửa tiền.” 2.1.2. Vụ án Lê Thị Phương Mai Một vụ án lớn về sản xuất, buôn bán trái phép chất ma túy và rửa tiền xuyên quốc gia liên quan đến 24 Việt kiều Canada đã bị phát hiện bởi cơ quan bài trừ ma túy Hoa Kỳ phối hợp với cảnh sát Hoàng gia Canada và Interpol Việt Nam. Vụ án đã khép lại nhưng vẫn để lại câu hỏi lớn quanh số tiền 25 triệu USD mà “người Việt thành đạt nhất ở Canada” Lê Thị Phương Mai dự định đầu tư vào Khánh Hòa. Đầu năm 2004, Việt kiều Lê Thị Phương Mai lấy danh nghĩa công ty Viet- Can Resorts & Plantation Inc. (Trụ sở tại 857 Unit 1, Somerset St.West Ottawa, Ontario, Canada) về Việt Nam tìm cơ hội đầu tư. Sau đó, Mai và đại diện công ty Viet-Can Resorts & Plantation Inc. đã làm việc với lãnh đạo tỉnh Khánh Hòa và các ban ngành liên quan để bàn kế hoạch đầu tư 25 triệu USD vào dự án khu nghỉ mát và căn hộ cho thuê với diện tích khoảng 70 ha tại Dốc Lếch, thuộc huyện Ninh Hòa. Thế nhưng dự án này chưa kịp triển khai thì Lê Thị Phương Mai bị cảnh sát quốc tế bắt giữ. Những tài liệu do Interpol Việt Nam thu thập cho biết Mai nằm trong đường dây tội phạm gốc Á đặc biệt nguy hiểm. Trong đường dây này, Ze Wai Wong (48 tuổi, gốc Hoa) phụ trách việc trồng cần sa trong nhà kính, điều chế thành Ecstasy (ma túy tổng hợp), nhập lậu và phân phối ma túy tại Canada và Mỹ. Lợi nhuận thu được từ việc sản xuất, mua bán ma túy bất hợp pháp sẽ do Lê Thị Phương Mai (38 tuổi) tiến hành rửa tiền bất hợp pháp. Trong quá trình phối hợp điều tra, các cơ quan chức năng Việt Nam cũng tiếp nhận một nguồn tin về việc thông qua 8 doanh nghiệp và 1 ngân hàng, tổ chức tội phạm do Lê Thị Phương Mai cầm đầu đã chuyển khoảng 25 triệu USD về Thành 27 phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, Mai còn dự định xin thành lập một ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời cơ quan điều tra cũng tiến hành xác minh về một tổ chức chuyển ngân bất hợp pháp có tên là A.C Transfers có chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy từ năm 2000 đến 2004, hàng triệu USD đã được chuyển về Việt Nam và vào thời gian cao điểm, tổ chức này đã chuyển tới 190 ngàn USD/ngày. Vào thời điểm Mai bị cảnh sát quốc tế bắt giữ, số tiền 25 triệu USD này chưa đầu tư vào dự án Dốc Lếch tại tỉnh Khánh Hòa. Có thông tin cho biết vào cuối năm 2003 đầu năm 2004, có 11 triệu USD trong số này đã được tổ chức tội phạm của Mai chuyển ra khỏi Việt Nam tới 3 quốc gia châu Á và châu Mỹ. Interpol Việt Nam cho biết đang tiếp tục phối hợp truy lùng 25 triệu USD. 2.1.3. Vụ án tại công ty Xăng dầu Hàng không Trong năm 2005, cơ quan điều tra đã phát hiện dấu vết của tội phạm rửa tiền trong vụ án tại công ty Xăng dầu Hàng không5. Ngày 27/05/2005, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ cho biết con số bị can trong vụ án tham ô xảy ra tại Công ty Xăng dầu hàng không thuộc Tổng Công ty Hàng không Việt Nam đã lên đến 18 đối tượng. Điều đặc biệt của vụ án này là cơ quan điều tra đã phát hiện ra dấu vết của tội phạm rửa tiền. Kết quả điều tra bước đầu cho thấy, với thủ đoạn lập các chứng từ thanh toán khống tiền cước phí vận chuyển và hao hụt xăng dầu, các đối tượng đã tham ô khoảng 50 tỷ đồng và dùng số tiền này cùng nhau lập công ty cổ phần Nam Vinh. Tiếp đó, các đối tượng lập thêm công ty cổ phần Dầu khí Đông Xuyên (trực thuộc công ty cổ phần Nam Vinh) để xây dựng kho chứa xăng dùng cho máy bay và cho công ty Xăng dầu Hàng không... thuê lại! Nguồn tiền có được từ hành vi tham ô đã chuyển sang “tiền sạch” và sinh lợi. 5 Phát hiện rửa tiền trong vụ án công ty xăng dầu Hàng không, Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 28/05/2005. 28 Cơ quan điều tra đã yêu cầu công ty cổ phần Dầu khí Đông Xuyên bán kho và thu hồi tiền cho ngân sách được gần 40 tỷ đồng (đạt gần 80% so với tổng số 50 tỷ đồng bị thiệt hại). Đây là vụ án tham nhũng có số tiền thu hồi được lớn nhất từ trước đến nay. 2.1.4. Liên quan đến hành vi mở tài khoản cá nhân để thực hiện các giao dịch chuyển tiền có giá trị lớn từ nước ngoài Thông qua văn bản số 1030 ngày 24/11/2005 gửi các tổ chức tín dụng, NHNN đã yêu cầu “đề cao cảnh giác với một số khách hàng mang quốc tịch nước ngoài tới mở tài khoản cá nhân để thực hiện các giao dịch chuyển tiền có giá trị lớn từ nước ngoài". Sở dĩ có khuyến cáo trên bởi theo NHNN, trên địa bàn Hà Nội đã xuất hiện một số khách hàng mang quốc tịch nước ngoài tới mở tài khoản cá nhân tại NHTM để thực hiện các giao dịch chuyển tiền có giá trị lớn từ các ngân hàng nước ngoài gửi về. Sau khi các chủ tài khoản này thực hiện giao dịch rút tiền, một thời gian sau NHTM nhận được thông báo từ nước ngoài gửi về đề nghị thu lại số tiền đã bị rút với lý do giao dịch bị giả mạo. Tuy nhiên, khi liên hệ với chủ tài khoản thì không liên lạc được vì các dữ liệu liên quan cũng đều là giả mạo. Theo Công an Thành phố Hà Nội, đã xuất hiện một nhóm tội phạm người nước ngoài, nhập cảnh vào Việt Nam với mục đích giao dịch, rút ra những khoản tiền mờ ám từ các tài khoản quốc tế. Nhóm tội phạm này có thể mạo danh một cá nhân hay tổ chức quốc tế để lập tài khoản tại các ngân hàng Việt Nam nhưng đều sử dụng tên tuổi, giấy tờ, điện thoại, địa chỉ liên hệ giả. Ngay sau khi thực hiện trót lọt các giao dịch rút tiền, bọn chúng lập tức hủy những tấm hộ chiếu hay số điện thoại có liên quan khiến các ngân hàng khi nhận được yêu cầu thoái hối khoản tiền đã trả cho khách hàng đều không thể liên lạc được. Đây được coi là một hình thức rửa tiền mới xuất hiện tại Việt Nam. Và còn rất nhiều hành vi rửa tiền của bọn tội phạm trong các vụ án khác như vụ Trịnh Nguyên Thủy, vụ Hùng “xì – tẹc” buôn lậu xăng dầu, … Đó là những vụ án 29 lớn được cơ quan điều tra phát hiện, còn trên thực tế nhiều hoạt động rửa tiền đơn giản hơn nhiều và dễ dàng “qua mắt” các cơ quan chức năng, ví dụ như, các khoản tiền thu được do đánh bạc, bảo kê, mại dâm, ma túy, … có thể được sử dụng đưa vào các nơi kinh doanh sử dụng nhiều tiền mặt như nhà hàng, quán ăn hoặc thông qua việc mua vàng, nhà, đất, cổ phiếu, các loại đá quý, kim loại quý và các chứng từ có giá khác hoặc mua vé số trúng thưởng với giá cao hơn cả giá trị giải thưởng. Như vậy, ta thấy bọn tội phạm rửa tiền có thể hoạt động ở bất kỳ ở lĩnh vực nào, bất cứ hình thức nào, bất cứ nơi dâu và gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng cho nền kinh tế Việt Nam. Qua những vụ án được phát hiện gần dây cho thấy quy mô rửa tiền tại Việt Nam ngày càng lớn với mức độ tinh vi ngày càng cao. Điều này đòi hỏi các cơ quan chức năng phải có nhận thức đầy đủ hơn về loại tội phạm nguy hiểm này và có những giải pháp để thực hiện một cách hiệu quả nhất ở khâu phòng ngừa hơn là xử lý hậu quả do tội phạm rửa tiền gây ra. 2.2. Hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam 2.2.1. Sự cần thiết phải có pháp luật về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam Trong báo cáo năm 2000, Cơ quan chống các chất gây nghiện quốc tế (INCSR) đã sắp xếp nguy cơ rửa tiền ở các nước trên thế giới vào một hệ thống phân loại gồm có 3 mức: nhóm mức độ lo ngại cao, nhóm mức độ lo ngại trung bình và các nhóm được theo dõi. Việt Nam thuộc nhóm quốc gia có mức độ lo ngại trung bình. Việt Nam trở thành mục tiêu của hoạt động rửa tiền do hệ thống thanh tra, giám sát, các hệ thống kế toán và tìm hiểu khách hàng của các ngân hàng còn kém phát triển. Mức độ sử dụng tiền mặt và các luồng chuyển tiền không chính thức khá lớn khiến cho việc kiểm soát các giao dịch, thanh toán trở nên khó khăn. Thêm vào đó, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, các nhà tài trợ quốc tế, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đều đòi hỏi Việt Nam phải có pháp luật về chống rửa tiền, nếu không có thì Việt Nam không đạt được các điều kiện để nhận các khoản tài trợ. Ngoài ra, một số nước trong khu vực đã bị FATF đưa vào danh sách “các quốc gia, vùng và lãnh thổ không hợp tác” do thiếu pháp luật về chống rửa tiền, không có đơn vị tình báo tài chính... Chắc chắn 30 mọi người Việt Nam đều không muốn có tên nước mình trong đó, bởi điều này có thể ảnh hưởng xấu tới hình ảnh Việt Nam và tiến trình hội nhập kinh tế. Càng đáng lo ngại hơn nữa khi một dạng nền kinh tế ngầm trên thị trường phi chính thức (shadow economy) hiện đang hiện diện mạnh mẽ ở Việt Nam bất chấp những nỗ lực của các cơ quan chức năng. Đây là một dạng nền kinh tế mà những bất cập trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đã làm cho đồng USD và vàng vẫn còn là những phương tiện thanh toán phổ biến trong nền kinh tế. Thậm chí ngay cả những doanh nghiệp hoạt động chân chính cũng buộc phải sử dụng USD và vàng trong các giao dịch chính thức của mình. Đây là một cảnh báo về nguy cơ dẫn đến các hành vi rửa tiền khó lần ra dấu vết nếu như các nhà hoạch định chính sách không có những định hướng hợp lý trong chính sách tiền tệ, đặc biệt là việc tháo gỡ các rào cản phi lý trên thị trường ngoại hối. Tình trạng tham nhũng tràn lan đến mức đã trở thành một “thị trường tham nhũng” hẳn hoi, tình trạng trốn thuế, tình trạng tiêu cực lãng phí và thất thoát trong xây dựng cơ bản cùng với các dạng tổ chức tội phạm đang ngày càng phát triển nhưng các biện pháp để ngăn chận vẫn chưa mang lại thành quả như mong đợi và đây chính là nguồn gốc dẫn đến hoạt động rửa tiền. Hiện nay có nhiều NHTM trong nước có ý định mở văn phòng đại diện tại Mỹ như: ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và NHTM cổ phần Á Châu nhưng Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) vừa thông báo chính thức không cho phép các ngân hàng trên lập văn phòng đại diện. Nguyên nhân được FED đưa ra là Việt Nam chưa có luật chống rửa tiền. Theo Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, Việt Nam cần phải có khung pháp lý về chống rửa tiền thì các ngân hàng Việt Nam mới có thể mở văn phòng tại Mỹ và văn bản pháp lý có giá trị cao nhất chính là Luật chống rửa tiền. Bên cạnh đó, Bộ Luật Hình sự và Luật các Tổ chức Tín dụng cũng đã quy định về những tội liên quan tới việc sử dụng, cất trữ… tiền do phạm tội mà có, nhưng do từ trước tới nay chưa có hướng dẫn thực hiện. 31 Như vậy, việc ban hành các văn bản pháp luật về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam là cần thiết trong tiến trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của lĩnh vực tài chính cũng như phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. 2.2.2. Các văn bản pháp lý về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam Các văn bản pháp lý có liên quan đến việc phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam có thể kể đến như sau: - Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997; - Bộ Luật hình sự năm 1999; - Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/03/2002 về việc ban hành quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán do NHNN nước ban hành; - Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 do Chính phủ ban hành về phòng, chống rửa tiền; - Quyết định số 1002/QĐ-NHNN ngày 08/07/2005 do NHNN ban hành về việc thành lập Trung tâm Thông tin phòng chống rửa tiền trực thuộc NHNN. Văn bản pháp lý quan trọng hiện nay trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền là Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 do Chính phủ ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/08/2005. Nghị định ra đời đã tạo hành lang pháp lý cũng như thể hiện cam kết của Việt Nam về phòng, chống loại tội phạm kinh tế này trong tiến trình hội nhập quốc tế. Một trong những nội dung đáng chú ý của Nghị định 74 đó là yêu cầu giám sát các khoản giao dịch tiền mặt có giá trị lớn nhằm phòng ngừa những thương vụ rửa tiền. Các định chế tài chính phải kiểm soát chặt và báo cáo về những giao dịch tiền mặt (gồm đồng Việt Nam, ngoại tệ, vàng) trong ngày của một cá nhân, hay tổ chức mà tổng trị giá từ 200 triệu đồng trở lên; đối với giao dịch tiền gửi tiết kiệm thì tổng giá trị là 500 triệu đồng trở lên. Các mức giá trị giao dịch tiền mặt sẽ được Thủ tướng quy định lại cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo từng thời kỳ. 32 Giao dịch được coi là đáng ngờ khi các bên liên quan cung cấp thông tin nhận biết khách hàng không chính xác, không đầy đủ, không có báo cáo giao dịch... Ngoài ra, giao dịch thực hiện theo lệnh hay ủy quyền của cá nhân, tổ chức có liên quan đến hoạt động tội phạm nằm trong danh sách thống kê và cảnh báo do Bộ Công an lập ra, cá nhân, tổ chức tham gia giao dịch với số tiền có giá trị lớn không tương xứng hoặc không liên quan tới các giao dịch thường ngày... Có tổng cộng 13 giao dịch được coi là giao dịch đáng ngờ được nêu một cách khá chi tiết trong Nghị định 74/2005/NĐ-CP. Trong quá trình điều tra, cơ quan có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp như phong tỏa tài khoản, niêm phong hoặc tạm giữ tài sản, tạm giữ người vi phạm và các biện pháp ngăn chặn khác theo quy định. Ngoài một số nội dung như trên, trong Nghị định về phòng, chống rửa tiền cũng quy định các cơ quan phối hợp tham gia và thành lập Trung tâm Thông tin phòng, chống rửa tiền trực thuộc NHNN. Theo yêu cầu của Chính phủ, các định chế tài chính phải xây dựng quy trình kiểm soát, kiểm toán nội bộ bảo đảm cho việc phòng, chống rửa tiền có hiệu quả và phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành. Một quy trình về tìm hiểu, cập nhật thông tin và thủ tục nhận biết khách hàng cũng phải được xây dựng nhằm giám sát chặt những khách hàng cũng như giao dịch đáng ngờ. Người phạm tội có liên quan đến rửa tiền thì bị xử lý theo Bộ luật Hình sự. Trường hợp các cá nhân, tổ chức có trách nhiệm trong phòng, chống rửa tiền, nếu vi phạm quy định mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị xử phạt vi phạm hành chính, với mức phạt có thể lên tới 30 triệu đồng, thậm chí có thể bị tước giấy phép hoạt động, chứng chỉ hành nghề. Theo đánh giá của các chuyên gia trong và ngoài nước, việc ban hành nghị định riêng về phòng, chống rửa tiền là quyết tâm lớn của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng còn yếu, trong khi tình trạng tham nhũng diễn ra tinh vi, mức độ sử dụng tiền mặt cao và các luồng chuyển tiền không chính thức khá lớn. 33 Ngày 08/07/2005, NHNN đã ra Quyết định số 1002/QĐ-NHNN về việc thành lập Trung tâm Thông tin phòng chống rửa tiền trực thuộc NHNN. Đây là bước đi tiếp theo cụ thể hoá việc thực thi Nghị định số 74 về việc phòng chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam. Theo Quyết định này, từ 01/08/2005, Trung tâm Thông tin phòng chống rửa tiền sẽ hoạt động. Đây là đơn vị trực thuộc NHNN, hoạt động như một đơn vị sự nghiệp, có chức năng làm đầu mối tiếp nhận và xử lý thông tin và thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến rửa tiền tại Việt Nam. Trung tâm thông tin phòng chống rửa tiền được quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp tài liệu, hồ sơ các thông tin về các giao dịch tại ngân hàng khi có vấn đề; cung cấp tài liệu, thông tin giúp Thống đốc NHNN Việt Nam và các cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền. Vấn đề xử lý tội phạm rửa tiền được thực hiện theo đều 251 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Trong điều luật đã xác định, hành vi hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có là hình thức hợp thức hóa tiền, tài sản bằng cách thông qua các hoạt động ngân hàng tài chính, đầu tư, hợp đồng kinh tế và các giao dịch khác để che giấu nguồn gốc phạm tội. Thực chất của tội phạm này là người có tiền thực hiện các hành vi rửa tiền nói trên hoặc người khác biết được nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản đó nhưng đã giúp sức tiếp tay, tạo điều kiện để hợp pháp hóa. Luật các Tổ chức Tín dụng cũng có quy định trách nhiệm của tổ chức tín dụng đối với các khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp tại điều 19. Theo đó, tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng không được che giấu, thực hiện bất kỳ dịch vụ nào liên quan đến khoản tiền đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp. Trong trường hợp phát hiện các khoản tiền có dấu hiệu bất hợp pháp, tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng phải thông báo ngay cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/03/2002 của NHNN Việt Nam ban hành Qui chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cũng có qui định tại khoản 2 Điều 26 – Nghĩa vụ của tổ chức cung ứng 34 dịch vụ thanh toán “Từ chối thực hiện giao dịch thanh toán đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp”. Những văn bản pháp lý trên đã tạo bước khởi đầu cho cuộc chiến chống rửa tiền tại Việt Nam. Tuy nhiên, đây vẫn chưa phải là một khung pháp lý hoàn chỉnh và thống nhất cho hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. 2.2.3. Các biện pháp phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam Tại Việt Nam, các biện pháp phòng, chống rửa tiền được thực hiện theo những quy định trong Nghị định 74 như sau: Thứ nhất là các biện pháp phòng ngừa chung buộc các định chế tài chính phải tuân thủ như: xây dựng quy trình từ lúc nhận biết khách hàng, thực hiện các giao dịch, lưu giữ các số liệu, chứng từ cho đến khâu kiểm soát, kiểm toán nội bộ. Bên cạnh đó, các định chế tài chính phải đào tạo nhân viên, bố trí công việc phù hợp để có thể thực hiện quy trình một cách hiệu quả nhất. Và yếu tố không thể thiếu khi thực hiện quy trình này là phải có sự phối hợp với các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác trong việc phòng, chống rửa tiền. Thứ hai, nghị định đưa ra các trường hợp cần nhận biết khách hàng, các yêu cầu nhận biết, các thông tin cần thu thập về khách hàng và một số các biện pháp để nhận biết khách hàng. Đây là giai đoạn đầu nhưng hết sức quan trọng trong quá trình nhận diện tội phạm rửa tiền. Thứ ba là các mức giao dịch phải báo cáo theo quy định, bao gồm: - Một hoặc nhiều giao dịch trong một ngày do cá nhân hay tổ chức thực hiện bằng tiền mặt có tổng giá trị từ 200.000.000 đồng trở lên hoặc bằng ngoại tệ, bằng vàng có giá trị tương đương. - Đối với giao dịch tiền gửi tiết kiệm thì mức tổng giá trị của một hay nhiều giao dịch bằng tiền mặt trong một ngày do cá nhân, tổ chức thực hiện là 500.000.000 đồng trở lên hoặc bằng ngoại tệ, bằng vàng có giá trị tương đương. Thứ tư, các giao dịch đáng ngờ được xác lập thông qua 13 dấu hiệu sau: 35 1) Các bên liên quan tới giao dịch cung cấp thông tin nhận biết khách hàng không chính xác, không đầy đủ, không nhất quán hoặc thuyết phục cá nhân, tổ chức cung ứng dịch vụ không báo cáo giao dịch đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; 2) Các giao dịch được thực hiện theo lệnh hay ủy quyền của các cá nhân, tổ chức có liên quan đến hoạt động tội phạm nằm trong danh sách thống kê và cảnh báo do Bộ Công an lập ra nhằm phòng ngừa, đấu tranh chống rửa tiền và chống sử dụng tiền hay tài sản để tạo điều kiện hay tài trợ cho hoạt động phạm tội trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam; 3) Các giao dịch mà qua thông tin nhận dạng hoặc qua xem xét về cơ sở kinh tế và pháp lý của các bên tham gia giao dịch có thể xác định được mối liên hệ giữa các bên tham gia giao dịch với các hoạt động phạm tội hoặc có liên quan tới cá nhân, tổ chức nêu tại điểm 2; 4) Các cá nhân, tổ chức tham gia giao dịch với số tiền có giá trị lớn không tương xứng hoặc không liên quan tới hoạt động thường ngày hay bất cứ hoạt động hợp pháp nào; 5) Có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên tài khoản; tiền gửi vào và rút ra nhanh khỏi tài khoản; doanh số giao dịch lớn trong ngày, nhưng số dư tài khoản rất nhỏ hoặc bằng không; 6) Các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một khoản tiền lớn hay chuyển qua nhiều tài khoản khác nhau về một tài khoản trong một thời gian ngắn hoặc ngược lại; tiền được chuyển lòng vòng qua nhiều tài khoản; các bên liên quan không quan tâm đến phí giao dịch; 7) Sử dụng tín dụng thư và các phương thức tài trợ thương mại khác có giá trị lớn, chiết khấu với giá trị cao nhằm chuyển tiền giữa các quốc gia khi giao dịch này không liên quan đến hoạt động thường xuyên của khách hàng; 8) Pháp nhân không thực hiện giao dịch trong một thời gian dài trên tài khoản của mình kể từ khi mở; doanh nghiệp trong nước mở và sử dụng tài khoản ở nước ngoài dưới tên pháp nhân hoặc thể nhân nước ngoài; 36 9) Chuyển lượng tiền lớn từ tài khoản ngoại hối của doanh nghiệp ra nước ngoài sau khi nhận được nhiều khoản tiền nhỏ được chuyển vào bằng chuyển tiền điện tử, séc, hối phiếu; 10) Doanh nghiệp nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được vốn đầu tư hoặc chi trả tiền ra nước ngoài không phù hợp với tính chất hay nhu cầu của hoạt động kinh doanh; 11) Các công ty bảo hiểm thường xuyên đền bù hoặc chi trả bảo hiểm với số tiền lớn cho cùng một khách hàng; 12) Các tổ chức chứng khoán chuyển tiền không phù hợp với các hoạt động kinh doanh chứng khoán; 13) Bất cứ giao dịch nào khác mà các định chế tài chính thấy có biểu hiện bất thường hoặc cơ sở pháp lý không đáng tin cậy. Thứ năm, các biện pháp tạm thời được áp dụng trong phòng chống rửa tiền: - Không thực hiện giao dịch; - Phong tỏa tài khoản; - Niêm phong hoặc tạm giữ tài sản; - Tạm giữ người vi phạm; - Các biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của pháp luật. Thứ sáu, thành lập Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền có chức năng làm đầu mối tiếp nhận và xử lý thông tin. 2.2.4. Thực trạng hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam 2.2.4.1. Nguồn lực cho hoạt động phòng, chống rửa tiền Về công tác đào tạo nhân lực cho hoạt động phòng, chống rửa tiền, Hiệp hội ngân hàng Việt Nam từ cuối năm 2003 đã phối hợp với Cơ quan chuyển giao công nghệ tài chính Luxembourg tổ chức các khóa đào tạo kiến thức về ngân hàng hiện đại cho các nhân viên ngân hàng là thành viên của hiệp hội. Trong đó, chú trọng chuyên sâu về công tác nhận biết, phòng và chống các hoạt động rửa tiền. Trong năm 2006, một Chương trình hỗ trợ kỹ thuật sẽ được triển khai để Việt Nam tổ chức thực hiện quy định phòng chống rửa tiền có tổng trị giá 630,000 37 USD, trong đó phần tài trợ không hoàn lại của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) là 500,000 USD và 130,000 USD còn lại là phần vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam do NHNN đóng góp từ nguồn chi nghiệp vụ của mình. 2.2.4.2. Ảnh hưởng của Nghị định 74 về phòng, chống rửa tiền đến hoạt động của hệ thống ngân hàng. Việc cơ quan chức năng giám sát và báo cáo giao dịch "đáng ngờ" qua ngân hàng làm cho người dân và doanh nghiệp có thu nhập chân chính lo ngại, thậm chí không muốn quan hệ với ngân hàng vì có cảm giác tài sản của mình luôn bị theo dõi. Đã có nhiều ý kiến lo ngại rằng số lượng tiền gửi tiết kiệm vào ngân hàng sẽ giảm và người dân sẽ đầu tư vào vàng, đôla Mỹ hoặc nhà đất để bảo đảm bí mật. Còn các doanh nghiệp sẽ ưu tiên phương thức thanh toán bằng tiền mặt để khỏi bị “nhòm ngó” mỗi khi giao dịch qua ngân hàng với giá trị lớn. Việc lập Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền càng tạo thêm áp lực tâm lý đối với người dân và doanh nghiệp, luôn lo sợ vì bất kỳ lúc nào cũng có thể bị thẩm vấn nguồn gốc những đồng tiền đang có trong tài khoản. Thực tế trong ngày đầu tiên “chống rửa tiền” 01/08/2005 mọi hoạt động giao dịch qua ngân hàng vẫn diễn ra bình thường. Theo VietNamNet đưa tin ngày 01/08/2005, một cán bộ kế toán của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Láng Hạ (24 - Láng Hạ, Hà Nội) cho biết, lượng khách đến gửi và rút tiền tại quầy giao dịch của chị vẫn như bình thường, không thay đổi. Một cán bộ ngân quỹ làm việc tại quầy giao dịch Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quảng Ninh (Thành phố Hạ Long) cũng cho biết, lượng khách hàng đến giao dịch với ngân hàng vẫn như mọi ngày. Một ngày quầy giao dịch của chị phục vụ khoảng gần trăm khách hàng đến rút và gửi tiền. Một vài khách hàng cũng hỏi nhân viên ngân hàng rằng áp dụng Nghị định rửa tiền có đáng lo ngại không, nhưng sau khi được giải thích họ đã không ái ngại gì và tiếp tục gửi tiết kiệm vào ngân hàng. Trao đổi nhanh với VietNamNet qua điện thoại, đại diện một vài ngân hàng cổ phần khác tại Hà Nội cũng cho hay, ngày 01/08/2005 tuy là mốc áp dụng Nghị định 74 nhưng nhịp điệu làm việc của ngân hàng không biến động gì bất thường. Người dân thời 38 gian qua cũng có đến hỏi ngân hàng và có những người có ý định rút tiền ra, nhưng sau đó lại yên tâm gửi tiền vào lại ngân hàng. Chúng ta sẽ thử kiểm chứng lại điều này qua việc xem xét tình hình huy động vốn của các NHTM ở các thời điểm trước và sau ngày Nghị định 74 có hiệu lực. Thành phố Hồ Chí Minh được xem là khu vực kinh tế năng động nhất cả nước nên các giao dịch kinh tế qua hệ thống ngân hàng rất đa dạng và khối lượng giao dịch cũng rất lớn. Chúng ta sẽ xem xét những ảnh hưởng của Nghị định 74 về phòng, chống rửa tiền đến nguồn vốn huy động qua hệ thống NHTM ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bảng 2.1: Số dư vốn huy động qua hệ thống NHTM trên địa bàn TP.HCM ĐVT: Tỷ đồng Chỉ tiêu 30/06/2005 31/12/2005 31/03/2006 30/06/2006 Tổng vốn huy động 164.370 180.970 199.180 226.195 Chia theo loại tiền gửi Đồng Việt Nam 110.700 122.520 136.268 149.515 Ngoại tệ 53.670 58.450 62.913 76.680 Chia theo đối tượng gửi Tiền gửi dân cư (tiết kiệm và kỳ phiếu) 65.740 88.270 97.749 102.258 Tiền gửi tổ chức kinh tế và cá nhân 98.630 92.700 101.432 123.937 Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của Cục Thống kê TP.HCM Nguồn vốn huy động của các NHTM từ 30/06/2005 đến 30/06/2006 luôn tăng trưởng liên tục. Tốc độ tăng nguồn vốn đến thời điểm 31/12/2005 đạt 10,10% so với 30/06/2005. Riêng 6 tháng đầu năm 2006, tốc độ tăng của nguồn vốn đạt 24,99% so với đầu năm 2006. Đặc biệt là nguồn vốn huy động được từ tiền gửi dân cư (tiết kiệm và kỳ phiếu) vẫn gia tăng mạnh cả về số tuyệt đối và tương đối. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc tăng trưởng nguồn vốn huy động như: - Dưới sức ép từ việc Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất cơ bản và để đảm bảo nguồn vốn cung ứng trên thị trường tiền tệ, các NHTM trên địa bàn Thành 39 phố Hồ Chí Minh tiếp tục tăng lãi suất huy động tăng và đưa ra nhiều chương trình khuyến mãi nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi; - Các NHTM mở rộng quy mô và mạng lưới hoạt động qua việc điều chỉnh tăng vốn điều lệ và mở thêm nhiều chi nhánh, phòng giao dịch. - Các ngân hàng không ngừng nâng cấp, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng. Tuy không có một thống kê chính thức nào về sự tác động của Nghị định 74 đến tốc độ huy động vốn của các NHTM trong thời gian qua nhưng ta vẫn thấy nguồn vốn huy động qua các NHTM vẫn không giảm sút. Lý giải cho vấn đề này ta có thể xem xét đến 2 trường hợp tác động. Thứ nhất, Nghị định 74 không có tác động đến việc huy động vốn của ngân hàng; thứ hai, Nghị định 74 chỉ có tác động ít và trong thời gian ngắn nên cũng không làm ảnh hưởng đáng kể đến tốc độ tăng nguồn vốn huy động, đặc biệt là lượng tiền gửi tiết kiệm mà phần lớn là tiền mặt trong nền kinh tế. Có được kết quả như trên là do các cơ quan chức năng thực hiện tốt công tác tuyên truyền về việc ban hành Nghị định 74 không nhằm hạn chế giao dịch tiền mặt mà chỉ nhằm theo dõi những khoản giao dịch không bình thường, phục vụ nguồn gốc bất hợp pháp và về sự thiết thực phải ban hành Nghị định phòng, chống rửa tiền là nhằm bảo vệ tốt nhất lợi ích của đất nước, của cá nhân và của doanh nghiệp. 2.2.4.3. Về khía cạnh hợp tác quốc tế của Việt Nam trong hoạt động phòng, chống rửa tiền. Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 156 của tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol) vào năm 1991. Việt Nam và Interpol đã có sự phối hợp hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Nhiều vụ án quốc tế có liên quan đến buôn lậu, ma tuý, khủng bố, rửa tiền, … đã bị phát hiện và xử lý kịp thời. Việt Nam cũng hợp tác chặt chẽ và có hiệu quả với các quốc gia thành viên khác của Interpol và Hiệp hội cảnh sát các nước Đông Nam Á (Aseanapol) trong đấu tranh với các loại tội phạm khác như rửa tiền, cướp biển, lừa đảo tài chính, buôn bán phụ nữ và trẻ em, tội phạm trên mạng Internet. 40 Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm của Liên hiệp quốc (UNODC) hiện là tổ chức đi đầu toàn cầu trong công tác chống tội phạm ma tuý và các tội phạm quốc tế, xuyên quốc gia: buôn người, rửa tiền, tham nhũng, khủng bố, buôn bán vũ khí… UNODC và Việt Nam cũng đã có sự hợp tác rất lâu trong lĩnh vực phòng, chống các loại tội phạm này. UNODC hiện đang hỗ trợ Việt Nam trong nâng cao năng lực phòng chống tội phạm và ma túy, bao gồm việc tăng cường cường hệ thống lập pháp, tư pháp và hành chính. Trong thời gian tới, các dự án của UNODC tại Việt Nam sẽ tập trung vào 3 lĩnh vực là công tác thi hành án về ma tuý, hoạt động cai nghiện ma túy ở các tỉnh phía Bắc và tăng cường năng lực trong phòng chống tội phạm rửa tiền. Lực lượng đặc nhiệm trong lĩnh vực tài chính (FATF) được xem như là một công cụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chống rửa tiền: có nhiệm vụ đánh giá, giám sát các biện pháp chống rửa tiền, theo dấu các hoạt động rửa tiền ở các quốc gia thành viên và không phải là thành viên tổ chức này.Việt Nam chỉ mới là quan sát viên chứ chưa phải là thành viên của tổ chức này. Trở thành thành viên của FATF, Việt Nam mới chứng minh với thế giới quyết tâm thực sự của mình trong việc tuyên chiến chống lại tội phạm tham nhũng và các tội phạm khác có liên quan đến hoạt động rửa tiền. Ngoài ra việc trở thành thành viên của FATF còn giúp Việt Nam nhận được nhiều hơn nữa sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật chống rửa tiền cũng như tiến trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu trở nên thuận lợi hơn. 2.3. Những nguy cơ dẫn đến hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới Trong khoảng 20 năm trở lại đây, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế của thời đại và diễn ra ngày càng sâu về nội dung, ngày càng rộng về quy mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, Việt Nam cũng đã và đang thực hiện giai đoạn đầu tiên của quá trình hội nhập quốc tế. Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), ký Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ và đang trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, tham gia vào nhiều tổ chức kinh 41 Ngân hàng là lĩnh vực hoàn toàn mở trong cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam. Vấn đề về sở hữu ngân hàng sẽ có những thay đổi căn bản khi Việt Nam gia nhập WTO bởi các tổ chức tài chính nước ngoài có thể nắm giữ cổ phần của các ngân hàng Việt Nam. Những ngân hàng yếu kém, quy mô nhỏ sẽ phải sáp nhập. Đặc biệt, việc xuất hiện các ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ làm thay đổi mạnh cơ cấu thị phần tiền tệ. Trước mắt, ngay từ năm 2006, Việt Nam phải gỡ bỏ dần các hạn chế về tỷ lệ tham gia cổ phần của các định chế tài chính nước ngoài theo những cam kết trong Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ. Đến năm 2008, Việt Nam sẽ phải “mở” toàn bộ các quy định về việc khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, dịch vụ, giá trị giao dịch của các ngân hàng nước ngoài theo các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định khung về hợp tác thương mại dịch vụ (AFAS) của Hiệp hội các nước ASEAN. Cơ chế quản lý ngoại hối được đổi mới theo hướng tự do hoá các giao dịch vãng lai. NHNN cũng đã nới lỏng quy định về đối tượng và điều kiện được mua ngoại tệ từ NHNN đối với các NHTM; nâng mức phải khai báo Hải quan khi mang tiền mặt bằng ngoại tệ và đồng Việt Nam ra nước ngoài của các công dân Việt Nam. Cơ chế quản lý đối với các giao dịch vốn cũng từng bước thay đổi, hoàn thiện, đảm bảo theo dõi sát tình hình vay trả nợ nước ngoài, tình hình thu thút vốn đầu tư nước ngoài và tình hình đầu tư ra nước ngoài. Trong quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài, NHNN đã mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn ngoại tệ của doanh nghiệp Việt Nam được phép đầu tư ra nước ngoài, thông qua việc bổ sung, nới rộng các nguồn ngoại tệ doanh nghiệp được phép chuyển ra nước ngoài để góp vốn đầu tư hoặc thực hiện dự án đầu tư. Nhằm thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam, NHNN đã xây dựng Đề án về lộ trình nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục từng bước hiện tượng đô la hoá trong nền kinh tế. 42 Thách thức lớn nhất của ngân hàng Việt Nam đối với quá trình hội nhập quốc tế trong dịch vụ ngân hàng là xuất phát điểm còn thấp về trình độ phát triển thị trường, tiềm lực về vốn yếu, công nghệ và tổ chức ngân hàng lạc hậu và trình độ quản lý thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Chính từ những thách thức của ngành ngân hàng Việt Nam nên những rủi ro trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cho ngành cũng ngày càng tăng nhanh. Một trong những rủi ro đó chính là hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng sẽ ngày càng tăng về số lượng và mức độ cũng tinh vi hơn. Không một quốc gia nào có thể ngăn chặn triệt để hành vi rửa tiền mà chỉ có thể đưa ra các biện pháp thích hợp trong từng thời kỳ để hạn chế ở mức thấp nhất. Ngân hàng vẫn là “mảnh đất” thường được sử dụng trong hoạt động rửa tiền bởi việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng để thực hiện các giao dịch là điều tất yếu trong nền kinh tế hiện đại và hệ thống ngân hàng ở Việt Nam vẫn không ngoại lệ. Chính vì vậy, việc nhận diện những nguy cơ có thể dẫn đến những hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng sẽ góp phần đưa ra những giải pháp để thực hiện phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng nói riêng cũng như góp phần vào cuộc chiến chống rửa tiền của Việt Nam và thế giới. 2.3.1. Về khung pháp lý cho hoạt động phòng, chống rửa tiền Những nỗ lực chống lại hoạt động rửa tiền hầu như chưa mang lại những thành quả đáng kể do hiện nay Việt Nam chỉ mới ban hành nghị định về phòng, chống rửa tiền, vẫn chưa có luật rửa tiền phù hợp với những chuẩn mực quốc tế. Tội phạm rửa tiền là một loại tội phạm phái sinh, nghĩa là việc đấu tranh chống tội phạm rửa tiền cần được thực hiện song song với việc đấu tranh với các loại tội phạm nguồn khác, đó chính là những hành vi phạm tội làm phát sinh các khoản tiền phạm pháp cần được tẩy rửa. Đây là một trong những đặc thù đối với hoạt động đấu tranh chống tội phạm rửa tiền. Thực tế là hiện nay các qui định về phòng, chống tội phạm rửa tiền được qui định rải rác tại các văn bản khác nhau, các thiết chế có chức năng đấu tranh chống loại tội phạm này lại chưa có một cơ chế hợp tác và phối hợp hiệu quả và chuyên trách. Nguyên nhân là do chúng ta thiếu một khung pháp luật 43 2.3.2. Môi trường kinh tế Việt Nam 2.3.2.1. Nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế tiền mặt Nền kinh tế tiền mặt của Việt Nam hiện cũng là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động rửa tiền. Phần lớn các tội phạm rửa tiền tại Việt Nam đều thích tiền mặt bởi nó dễ dàng tiêu xài, dễ ẩn danh, các cơ quan chức năng khó kiểm soát. Các hình thức rửa tiền đơn giản nhất ở Việt Nam thường là mua ôtô, vàng, nhà, đất, đồ cổ, mua vé số. Theo thống kê của NHNN, hiện nay lượng tiền mặt sử dụng trong thanh toán rất lớn, tiền mặt chiếm 20% - 23% trên tổng phương tiện thanh toán. Riêng trong khu vực Chính phủ trên 90% lương của cán bộ, công chức được trả bằng tiền mặt. Việt Nam hiện có trên 80 triệu dân với thu nhập 400 USD/người/năm. Các hình thức thanh toán phi tiền mặt ở Việt Nam mới dừng lại chủ yếu là séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thư tín dụng, thanh toán điện tử, thẻ tín dụng, thẻ ATM... Tuy nhiên, các hình thức thanh toán phi tiền mặt trên lại được sử dụng một cách không triệt để, ví dụ như: các hình thức ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi chỉ được thực hiện phần lớn ở các doanh nghiệp có quy mô lớn, số tiền giao dịch mỗi lần tương đối cao; hình thức thanh toán điện tử đã phát triển nhanh trong những năm gần đây nhưng người dân vẫn không quen sử dụng do thời gian chuyển tiền lâu, đặc biệt là giữa các ngân hàng không cùng hệ thống và ngoại tỉnh; thẻ tín dụng và thẻ ATM được các ngân hàng khuyến khích người dân sử dụng nhưng các địa điểm chấp nhận thẻ tín dụng rất ít nên thường được người dân sử dụng khi đi ra nước ngoài, còn thẻ ATM lại chỉ được dùng để rút tiền lương và chi xài tiền mặt trong nền kinh 44 2.3.2.2.Tình trạng tham nhũng ngày càng gia tăng Các tổ chức quốc tế đánh giá Việt Nam là một trong những quốc gia có nạn tham nhũng trầm trọng nhất trên thế giới. Tổ chức minh bạch thế giới đã xếp hạng tham nhũng Việt Nam thứ 107/159 quốc gia vào năm 2005, còn Diễn đàn Kinh tế thế giới đã xếp hạng Việt Nam thứ 97/104 quốc gia. “Báo cáo phát triển Việt Nam” năm 2005 của WB khuyến cáo mức độ tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian gần đây đã có những triệu chứng ngày càng xấu đi nghiêm trọng: “Tham nhũng đã lệch khỏi xu hướng chung so với các nước có cùng trình độ phát triển”. Trong lĩnh vực học thuật, thuật ngữ “lệch hướng” được sử dụng với ý nghĩa không thể xem thường. Đó là lệch khỏi các giá trị, thậm chí là cả giá trị đạo đức, trung bình thường có. Ban nội chính Trung ương và Cơ quan Phát triển quốc tế Thụy Điển đã mở một cuộc điều tra về nạn tham nhũng từ tháng 3/2005 ở 7 tỉnh, thành phố là: Sơn La, Hà Nội, Hải Dương, Nghệ An, Thừa Thiên - Huế, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Tháp và 3 bộ: Công nghiệp, Xây dựng và Giao thông - Vận tải. Ban Nội chính Trung ương công bố danh sách liệt kê 10 cơ quan tham nhũng phổ biến nhất Việt Nam. Trong đó ba cơ quan dẫn đầu là: Địa chính nhà đất, Hải quan/quản lý xuất nhập khẩu và Cảnh sát giao thông. Thông qua cuộc điều tra này, những con số được đưa ra cho thấy nạn tham nhũng ở Việt Nam đã trở nên ngày càng trầm trọng. Có đến 40% số cán bộ công chức được hỏi cho biết đã chứng kiến hành vi "người có chức vụ, quyền hạn cố tình gây khó khăn khi giải quyết công việc để buộc người cần giải quyết phải chi tiền hoặc biếu quà". Theo báo cáo, tham nhũng hiện nay vừa tinh vi, vừa trắng trợn. Người tham nhũng thường có chức vụ quyền hạn, trình độ cao, am hiểu pháp luật nên hành vi tham nhũng của họ thường được che chắn rất kín đáo, khó bị phát hiện. Họ có nhiều cách để tham nhũng, chẳng hạn, gọi điện, viết thư tay can thiệp nhằm mưu lợi cho người thân quen khá phổ biến. Có khoảng 30% số người được hỏi đã chứng kiến 45 Về mức độ tham nhũng, ngày nay ai cũng biết có tảng băng tham nhũng, nhưng không ai nhìn thấy tảng băng đó to lớn như thế nào. Chính vì vậy trong những năm qua, tỉnh nào, bộ nào cũng có đơn thư tố cáo tham nhũng. Tuy nhiên, số người bị tố cáo tham nhũng ít hơn rất nhiều so với số hành vi tham nhũng mà cán bộ công chức đã chứng kiến. Tính chung, có tới 56,5% số cán bộ công chức đánh giá cấp trên trực tiếp của mình có tham nhũng, chỉ khác nhau ở mức độ mà thôi. Trong đó, chỉ có 21,6% tin tưởng cấp trên của họ không tham nhũng. Một trong những nguồn gốc của nạn rửa tiền chính là tham nhũng. Với tình trạng tham nhũng ngày càng gia tăng như hiện nay thì Việt Nam chắc chắn phải đối phó với nạn rửa tiền cũng ngày càng tăng hơn về quy mô cũng như tính chất phức tạp và điều này sẽ gây trở ngại rất lớn trong cuộc chiến phòng, chống rửa tiền. 2.3.2.3. Hiện tượng đô la hóa trong nền kinh tế Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang phải đối phó với tình trạng đô la hóa ở mức cao. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này nhưng nguyên nhân quan trọng là do trước đây pháp luật không thừa nhận quyền nắm giữ ngoại tệ của các cá nhân. Pháp lệnh ngoại hối có hiệu lực từ ngày 01/06/2006 đã chính thức công nhận việc các cá nhân có quyền nắm giữ ngoại tệ. Sự thừa nhận này cho phép các cá nhân quyền được mở tài khoản và sử dụng ngoại tệ và đương nhiên họ được toàn quyền thực hiện thu chi ngoại tệ trên các tài khoản này một cách công khai. Chủ trương này của Chính phủ rất hợp lý trong quá trình tiến tới một sân chơi bình đẳng cho các cá nhân và các tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, kẽ hở cho 46 2.3.3. Quá trình hội nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam 2.3.3.1. Tự do hóa chu chuyển vốn quốc tế Pháp lệnh ngoại hối được Quốc hội ký ban hành vào ngày 13/12/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/06/2006. Theo đó, các giao dịch vãng lai cũng như các giao dịch vốn đều được tự do hóa và nguy cơ rửa tiền sẽ rất cao. Các giao dịch vãng lai được đơn giản hóa các thủ tục cấp giấy phép mua chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của cá nhân. Đây là một trong những cải cách triệt để nhất trong Pháp lệnh ngoại hối. Theo đó người cư trú sẽ được phép tự do hơn nữa trong việc mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Đối với người không cư trú và người cư trú là người nước ngoài có ngoại tệ tương ứng có các nguồn thu hợp pháp bằng đồng Việt Nam cũng được mua ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài. Đây là một bước đột phá mới trong quá trình tiến tới tự do hóa hoàn toàn các giao dịch vãng lai bởi trước đây khi các doanh nghiệp và các cá nhân có nhu cầu ngoại tệ trong các giao dịch vãng lai đều phải xin NHNN cấp phép. Chủ trương xóa bỏ việc cấp giấy phép mua chuyển ngoại tệ ra nước ngoài một mặt phù hợp với những cam kết của Chính phủ với các đối tác quốc tế trong quá trình xóa bỏ những rào cản trong các giao dịch thương mại nhưng mặt khác chúng lại tạo ra một nguy cơ mới cho các loại tội phạm lợi dụng kẽ hở này để thực hiện những hành vi rửa tiền ở quy mô lớn. Trong điều kiện hệ thống quản trị rủi ro và năng lực của các NHTM ở nước ta vẫn còn đang rất yếu kém thì việc nhận diện những nguồn gốc từ các hành vi rửa tiền của các khách hàng quả thật không phải đơn giản. Các tội phạm rửa tiền có khả năng qua mặt hệ thống kiểm soát của các 47 định chế tài chính và các ngân hàng bằng cách chia các khoản ngoại tệ ra thành nhiều các khoản nhỏ và sau đó chuyển dần ra nước ngoài. Về các giao dịch vốn, theo pháp lệnh ngoại hối thì các cá nhân được tự do vay nợ nước ngoài. Dễ thấy ngay rằng nguy cơ rửa tiền từ chủ trương nới lỏng này là rất cao. Các tội phạm trong nước và quốc tế giờ đây đã có thêm một miền đất hứa mới mà trước đây họ khó có cơ may xâm nhập để có thể thực hiện các hành vi rửa tiền ngay trên lãnh thổ Việt Nam thông qua các mối quan hệ cá nhân như kiều hối. Đây chính là những mối quan hệ khó kiểm soát nhất và trong bối cảnh cơ chế giám sát của các định chế tài chính và của các cơ quan chức năng như công an, tư pháp vẫn còn chưa theo kịp với những yêu cầu mới của một dạng tội phạm kinh tế mới. Một mảng giao dịch vốn nữa cũng cần chú ý, đó là việc cá nhân được cho vay và đầu tư ra nước ngoài. Khi đã chấp nhận cho các cá nhân vay nợ nước ngoài thì cũng có nghĩa là chúng ta sẽ tiếp tục cho phép họ được quyền cho vay và thu hồi nợ nước ngoài. Nói một cách khác quá trình đi vay, cho vay và trả nợ nước ngoài chính là một bước cụ thể hóa hơn nữa những chủ trương tự do hóa đến mức cao nhất có thể được các giao dịch trên tài khoản vốn. Như vậy nếu như việc cho phép các cá nhân được phép vay nợ nước ngoài đã tạo ra một nguy cơ cho các hoạt động rửa tiền quốc tế xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam thì việc cho phép các cá nhân được tự do cho vay và trả nợ nước ngoài lại tạo ra một nguy cơ rửa tiền từ trong nước ra quốc tế. Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hiện đang được điều chỉnh bởi Nghị định 22 ngày 14/04/1999 nhưng chỉ đối với các doanh nghiệp, còn các cá nhân thì chưa được phép. Hiện nay, pháp lệnh ngoại hối đã cho phép cá nhân được đầu tư ra nước ngoài. Đây là một xu thế phù hợp với các cam kết của Chính phủ trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, lại có quan điểm cho rằng nếu cho các cá nhân được phép đầu tư ra nước ngoài, có khả năng Chính phủ sẽ không kiểm soát được hết các giao dịch này và do đó dẫn đến một nguy cơ làm thất thoát vốn và nguy cơ rửa tiền. Đó là chưa kể, đầu tiên là họ sẽ đầu tư ra nước ngoài nhưng sau đó họ lại có thể chuyển hướng đầu tư sang các lĩnh vực tiêu dùng hoặc là đầu tư tài chính, hoặc là đầu tư vào bất động sản v.v... là những lĩnh vực mà pháp luật Việt Nam rất hạn chế và không khuyến khích. Nhưng nguy cơ hơn cả, theo những khuyến nghị của tổ 48 chức chống rửa tiền quốc tế, đây chính là một hình thức rửa tiền ở giai đoạn cuối dưới dạng thâu tóm lại các khoản tiền đã phân tán trước đây của các tội phạm rửa tiền, nơi mà các loại tiền bẩn đã được tẩy sạch hoàn toàn và được thể hiện cuối cùng ở các khoản đầu tư tài chính, bất động sản và các tài sản quý hiếm khác. Vấn đề càng được mở rộng ra hơn nữa, đó là các doanh nghiệp được phép phát hành chứng khoán ra nước ngoài. Theo đó, không những Chính phủ được phép phát hành trái phiếu ngoại tệ ra nước ngoài mà các NHTM và các tổng công ty lớn cũng được phép phát hành chứng khoán ra nước ngoài. Theo những khuyến cáo của tổ chức chống rửa tiền quốc tế, quá trình niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán nước ngoài cũng là một kênh thoát vốn quan trọng cho các hoạt động rửa tiền thông qua việc các tội phạm lập ra các công ty cổ phần hợp pháp rồi sau đó niêm yết cổ phiếu ra thị trường chứng khoán quốc tế. 2.3.3.2. Sự phát triển các công cụ phái sinh Các định chế tài chính và các cá nhân hiện nay được phép thực hiện các giao dịch phái sinh trên thị trường như các giao dịch quyền chọn vàng và ngoại tệ, các giao dịch hoán đổi, hợp đồng kỳ hạn và trong tương lai sẽ có hợp đồng giao sau. Đặc biệt gần đây NHNN đã cho phép các định chế tài chính và cá nhân thực hiện giao dịch quyền chọn đồng Việt Nam và ngoại tệ. Nếu như trước đây các cá nhân có xu hướng găm giữ ngoại tệ hoặc đầu tư vào bất động sản hoặc vàng thì giờ đây để tránh tình trạng đồng Việt Nam bị mất giá họ sẽ thực hiện các giao dịch quyền chọn đồng Việt Nam và ngoại tệ. Tuy nhiên đó là đối với những doanh nghiệp và cá nhân hoạt động chân chính, còn đối với các tội phạm rửa tiền, đây là một cơ hội để họ có thể chuyển hóa một cách hợp pháp những đồng Việt Nam có nguồn gốc phạm tội và chuyển hóa ra thành ngoại tệ mạnh. Sau đó họ sẽ xin phép mở tiếp một tài khoản ngoại tệ cá nhân và tiếp tục sử dụng một cách hợp pháp số ngoại tệ này để chuyển ra khỏi lãnh thổ. Những tên tội phạm rửa tiền sẽ bất chấp các diễn biến trên thị trường ngoại hối như thế nào, họ vẫn sử dụng các quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán ngoại tệ hoặc đồng Việt Nam bất chấp những dự đoán trong tương lai các diễn biến tỷ giá là như thế nào. Họ chấp nhận mất một khoản phí và thậm chí cả lỗ để thực hiện quyền mua cho được ngoại tệ một cách công khai từ các NHTM, bởi lẽ mục đích của các 49 tội phạm không phải là phòng ngừa rủi ro mà là chuyển hóa từ đồng nội tệ sang ngoại tệ. Nguy cơ càng hiện hữu hơn nữa trong bối cảnh NHNN đang có chủ trương đơn giản hóa việc cấp giấy phép hoạt động ngoại hối theo hướng nếu các định chế tài chính đã được cấp phép hoạt động thì họ sẽ được thực hiện bất kỳ các giao dịch nào với khách hàng (mà không cần phải xin phép một lần nữa). Các tội phạm rửa tiền sẽ thực hiện các giao dịch phái sinh tại các ngân hàng nào có năng lực quản lý yếu kém và không có cơ chế giám sát các giao dịch có rủi ro một cách có hiệu quả. 2.3.3.4. Rửa tiền điện tử Ngân hàng điện tử là một khái niệm dùng để chỉ việc thực hiện các giao dịch nhằm chuyển giao thông tin, sản phẩm và dịch vụ bằng các phương tiện điện tử như điện thoại, internet, máy ATM. Các giao dịch này được thực hiện một cách nhanh chóng và rộng khắp trên toàn thế giới. Gần như toàn bộ các sản phẩm của ngân hàng hiện đại ngày nay đều được thực hiện qua ngân hàng điện tử như: thẻ tín dụng, các khoản vay, các khoản tiền gửi, chuyển tiền điện tử, thanh toán hối phiếu, … Quy trình phổ biến về giao dịch tiền điện tử có thể được tóm tắt như sau: thông qua Internet, người sở hữu chữ ký điện tử sẽ ký và chuyển thông điệp điện tử đi. Thông điệp điện tử sẽ được nhà cung cấp chứng thực số (Certification Authority – CA) xác nhận trước khi được chuyển đến ngân hàng. Một khi thông điệp đã được CA xác nhận, thì ngân hàng đã được bảo đảm rằng thông điệp đó đúng là của người chủ sở hữu hợp pháp gửi đến và ngân hàng sẽ thực hiện lệnh thanh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf45617.pdf
Tài liệu liên quan