Tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm tại công ty giầy Thượng Đình Hà Nội: Luận văn
Đề Tài:
Giải pháp phát triển
thị trường tiêu thụ sản phẩm
tại công ty giầy
Thượng Đình Hà Nội
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế nước ta ngày một phát
triển, vấn đề tìm hiểu thị trường và sản phẩm phù hợp với nhu cầu người
tiêu dùng đặt ra càng cấp thiết, đặc biệt đối với những Công ty sản xuất và
kinh doanh hàng tiêu dùng. Do nước ta đang trong quá trình hội nhập, mở
cửa nền kinh tế nên yếu tố cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Không
những các Công ty trong nước phải cạnh tranh với nhau để tồn tại mà các
Công ty còn phải cạnh tranh với tất cả các công ty ở nước ngoài trong đó
có những Công ty rất hùng mạnh về mặt tài chính, họ lại có kinh nghiệm
hàng chục thậm chí hàng trăm năm, cho nên về thế và lực họ mạnh hơn ta
rất nhiều. Để tồn tại trong cuộc cạnh tranh không cân sức này, chúng ta cần
phải nâng cao hiệu quả kinh doanh trong đó vấn đề tiêu thụ được sản phẩm
đầu ra là vô cùng quan trọng.
Mặt khác, các doanh ng...
124 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm tại công ty giầy Thượng Đình Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề Tài:
Giải pháp phát triển
thị trường tiêu thụ sản phẩm
tại công ty giầy
Thượng Đình Hà Nội
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế nước ta ngày một phát
triển, vấn đề tìm hiểu thị trường và sản phẩm phù hợp với nhu cầu người
tiêu dùng đặt ra càng cấp thiết, đặc biệt đối với những Công ty sản xuất và
kinh doanh hàng tiêu dùng. Do nước ta đang trong quá trình hội nhập, mở
cửa nền kinh tế nên yếu tố cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Không
những các Công ty trong nước phải cạnh tranh với nhau để tồn tại mà các
Công ty còn phải cạnh tranh với tất cả các công ty ở nước ngoài trong đó
có những Công ty rất hùng mạnh về mặt tài chính, họ lại có kinh nghiệm
hàng chục thậm chí hàng trăm năm, cho nên về thế và lực họ mạnh hơn ta
rất nhiều. Để tồn tại trong cuộc cạnh tranh không cân sức này, chúng ta cần
phải nâng cao hiệu quả kinh doanh trong đó vấn đề tiêu thụ được sản phẩm
đầu ra là vô cùng quan trọng.
Mặt khác, các doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường
đầy biến động, với các đối thủ cạnh tranh, với những tiến bộ khoa học kỹ
thuật luôn thay đổi một cách nhanh chóng, cùng với đó là sự giảm sút lòng
trung thành của khách hàng, sự ra đời của nhiều điều luật mới, những
chính sách quản lý thương mại của nhà nước. Do vậy các doanh nghiệp cần
phải giải quyết hàng loạt các vấn đề mang tính thời sự cấp bách.
Một trong những vấn đề tìm đầu ra cho sản phẩm đó là vấn đề phát
triển thị trường tiêu thụ. Trong lĩnh vực kinh doanh hàng tiêu dùng, nhất là
sản phẩm mang tính mùa vụ và nhu cầu luôn thay đổi như ngành giầy thì
vấn đề làm sao bán được hàng là vấn đề rất khó khăn. Nếu một công ty
kinh doanh giầy không biết đâu là thị trường bán của công ty, không biết
được xu hướng giầy của khách hàng trong từng mùa, từng khu vực, từng
năm thì công ty đó không thể sản xuất và làm ăn có lãi. Tiêu thụ sản phẩm
thực hiện mục đích của sản xuất và tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng
hoá, là cầu nối trung gian một bên là sản xuất, phân phối một bên là tiêu
dùng.Vì vậy, một công ty kinh doanh có hiệu quả, nhất thiết phải quan tâm
đến thị trường tiêu thụ của mình. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn
đề trên tôi mạnh dạn chọn đề tài: Giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ
sản phẩm tại công ty giầy Thượng Đình Hà Nội.
2
1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu nhằm phân tích để thấy rõ thực trạng hoạt
động tiêu thụ sản phẩm đầu ra của Công ty giầy Thượng Đình trong những
năm qua.Từ những thành tựu mà Công ty đã đạt được và những khó khăn
còn tồn tại để đưa ra những gợi ý giải pháp cụ thể để phát triển thị trường
tiêu thụ sản phẩm của công ty và khắc phục những mặt còn hạn chế.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài thực tập tốt nghiệp này tập trung nghiên cứu phân tích lí luận
và thực tế tình hình tiêu thụ giầy trên từng thị trường của công ty giầy
Thượng Đình. Do hạn chế về thời gian cũng như năng lực trình độ có hạn,
nên đề tài chỉ nghiên cứu phạm vi dưới góc độ tiếp cận của môn học quản
trị doanh nghiệp thương mại chuyên ngành trong thời gian từ năm 1998
đến nay.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, sinh viên đã cố gắng vận dụng nguyên
lý cơ bản của tư duy đổi mới, phương pháp tiếp cận hệ thống logic nhằm
phân tích biện chứng mục tiêu nghiên cứu, và đặt nó vào trong môi trường
kinh doanh của công ty.
Với mục đích nghiên cứu, phương pháp và giới hạn nghiên cứu trên,
đề tài được chia làm ba chương:
Lời mở đầu.
Chương I : Lí luận chung về thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp trong cơ chế thị trường.
Chương II : Thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty giầy
Thượng Đình
Chương III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị
trường tiêu thụ của công ty.
Kết luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo và giúp đỡ tận tình của
Thầy giáo-Tiến Sĩ Nguyễn Thừa Lộc, Thạc sỹ Nguyễn Anh Tuấn để
tôi hoàn thành bản luận văn. Tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ, nhân
viên trong Công ty giầy Thượng Đình: Phòng Hành chính tổ chức,
phòng Tiêu thụ đã tận tình giúp đỡ tôi trong thời gian thực tập tại
Công ty.
Do còn nhiều hạn chế và thời gian thâm nhập thực tế chưa nhiều
nên bài viết không tránh khỏi những sai sót nhất định, tôi rất mong
3
nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và các bạn sinh viên.
Chương I
LÍ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ CỦA
DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.Một số vấn đề về thị trường và thị trường tiêu thụ
1.1.1.Khái niệm và phân loại :
a) Các khái niệm:
* Khái niệm thị trường dưới góc độ của một nền kinh tế
Thị trường là một phạm trù kinh tế, được nghiên cứu nhiều trong các
học thuyết kinh tế. Thị trường gắn liền với nhu cầu trao đổi của con người,
ở đâu có sự trao đổi hàng hoá là ở đó hình thành nên thị trường. Theo quan
niệm cổ điển trước đây, thị trường được coi như một “cái chợ”, là nơi diễn
ra các quan hệ mua bán hàng hoá. Cùng với sự tiến bộ của loài người và sự
phát triển của khoa học kỹ thuật, quan niệm về thị trường theo nghĩa cổ
điển đã không còn phù hợp nữa. Các quan hệ mua bán không còn đơn giản
là “tiền trao, cháo múc” mà đa dạng, phong phú, phức tạp. Theo nghĩa hiện
đại: Thị trường là quá trình mà người mua, người bán tác động qua lại với
nhau để xác định giá cả và lượng hàng hoá mua bán, hay nói cách khác thị
trường là tổng thể các quan hệ về lưu thông hàng hoá, lưu thông tiền tệ,
các giao dịch mua bán và các dịch vụ. Theo quan điểm này thị trường
được nhận biết qua quan hệ mua bán, trao đổi nói chung chứ không phải
nhận ra bằng trực quan và nó đã được mở rộng về không gian, thời gian và
dung lượng hàng hoá.
Theo nhà Kinh tế học Samuelson: “Thị trường là một quá trình
trong đó người mua và người bán cùng một thứ hàng hoá tác động qua lại
với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá.
Theo Davidbegg: “Thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá trình
thông qua các quyết định của các gia đình về tiêu dùng mặt hàng nào, các
quyết định của công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và cho ai,
đều dung hoà bằng sự điều chỉnh giá cả.
Như vậy, quan niệm về thị trường ngày nay đã nêu một cách đầy đủ
và chính xác hơn, làm rõ được bản chất thị trường. Thị trường không chỉ
4
bao gồm các mối quan hệ mà còn bao gồm các tiền đề cho các mối quan hệ
và hành vi mua bán.
* Khái niệm thị trường dưới góc độ doanh nghiệp.
Xét trong phạm vi của doanh nghiệp cụ thể thì việc phân tích thị
trường như trên là cần thiết song vẫn chưa đủ để doanh nghiệp có thể tổ
chức tốt quá trình kinh doanh của mình. Nếu chỉ dừng lại ở việc mô tả thị
trường trên giác độ phân tích của nhà kinh tế, doanh nghiệp khó có khả
năng mô tả chính xác và cụ thể đối tượng tác động và các yếu tố chi tiết có
liên quan. Đặc biệt, khó hoặc thậm chí không thể đưa ra được các công cụ
điều khiển kinh doanh có hiệu quả.
Ở góc độ doanh nghiệp, thị trường được mô tả: ”Là một hay nhiều
nhóm khách hàng với các nhu cầu tương tự nhauvà những người bán cụ
thể nào đó mà doanh nghiệp với tiềm năng của mình có thể mua hàng hoá
dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của khách hàng.”
Như vậy theo quan niệm này, thị trường của doanh nghiệp trước hết
là những khách hàng có tiềm năng tiêu thụ, có nhu cầu cụ thể về hàng hoá,
dịch vụ trong một thời gian nhất định và chưa được thoả mãn.
Thứ hai, yếu tố quan trọng làm đối trọng với cầu trên thị trường là
cung về hàng hoá, dịch vụ do các cá nhân, doanh nghiệp trong nền kinh tế
quốc dân tạo nên, chính sự tác động qua lại với nhau giữa cung và cầu về
hàng hoá tạo nên quy luật cung cầu chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh
trên thị trường.
Thứ ba, thành phần không thể thiếu được tham gia trên thị trường
của doanh nghiệp là các hàng hoá, sản phẩm cụ thể, đối tượng để mua bán
trao đổi.
Một khi trên thị trường có nhiều người mua, nhiều người bán và
nhiều hàng hoá tương tự nhau về chất lượng, giá cả tất yếu nảy sinh sự cạnh
tranh. Đó là sự cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, về phương thức giao
dịch mua bán hàng hoá, thanh toán, cạnh tranh giữa người mua với người
mua; cạnh tranh giữa người bán với người mua; cạnh tranh giữa người bán
với người bán và giữa những người mua với nhau. Cạnh tranh là bộ máy
điều chỉnh trật tự thị trường, là yếu tố quan trọng kích thích tính tích cực,
5
tính đa dạng và nâng cao chất lượng hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu thị
trường.
b) Phân loại và phân đoạn thị trường:
Có thể có nhiều cách thức và góc độ khác nhau được sử dụng để
phân loại và phân đoạn thị trường của doanh nghiệp. Sự khác nhau khi sử
dụng các tiêu thức này thường được xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu và
nhiệm vụ cần giải quyết.
Phân loại thị trường: Có thể phân loại thị trường theo các tiêu thức
sau:
+ Căn cứ vào mục đích hoạt động của doanh nghiệp gồm: Thị trường
đầu vào và thị trường đầu ra
- Thị trường đầu vào: Là thị trường liên quan đến khả năng và các
yếu tố ảnh hưởng đến nguồn cung cấp các yếu tố kinh doanh của doanh
nghiệp. Thị trường đầu vào bao gồm: thị trường vốn, thị trường lao động,
thị trường hàng hoá dịch vụ. Thông qua việc mô tả thị trường đầu vào của
doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ nắm rõ được tính chất đặc trưng của thị
trường như cung (tức là quy mô, khả năng đáp ứng), cạnh tranh (mức độ
khốc liệt), giá cả (cao, thấp, và biến động giá) để từ đó có thể đưa ra các
quyết định kinh doanh đúng đắn.
- Thị trường đầu ra (thị trường tiêu thụ): Là thị trường liên quan trực
tiếp đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Bất cứ một yếu tố nào
dù rất nhỏ của thị trường này đều có thể ảnh hưởng ở những mức độ khác
nhau đến khả năng thành công hay thất bại trong tiêu thụ. Đặc biệt là tính
chất của thị trường tiêu thụ là cơ sở để doanh nghiệp hoạch định và tổ chức
thực hiện các chiến lược, sách lược, công cụ điều khiển tiêu thụ.
+ Theo đối tượng sản phẩm mua bán trên thị trường :
- Thị trường hàng hoá: gồm hàng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng
- Thị trường sức lao động
- Thị trường vốn (thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản,
thị trường thuê mua tài chính)
- Thị trường tiền tệ
- Thị trường dịch vụ
6
- Thị trường chất xám
+ Theo mức độ quan tâm của doanh nghiệp đến thị trường :
- Thị trường chung
- Thị trường sản phẩm
- Thị trường thích hợp
- Thị trường trọng điểm
+ Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường:
- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Là thị trường trong đó có nhiều
người bán và nhiều người mua trên thị trường, ở đó thường xuyên diễn ra
sự cạnh tranh giữa những người bán với nhau, và không người bán nào có
khả năng đặt giá trên thị trường.
- Thị trường độc quyền: Là thị trường trong đó chỉ có một người bán
có quyền đặt giá
- Thị trường cạnh tranh độc quyền: Là thị trường trong đó có một số
người bán, người sản xuất có khả năng kiểm soát một cách độc lập tương
đối với hàng hoá và giá cả, trên thị trường này cạnh tranh và độc quyền
xen kẽ với nhau.
+ Căn cứ vào phạm vi hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường
có:
- Thị trường thế giới là thị trường nằm ngoài biên giới quốc gia bao
gồm những nước nằm ngoài lãnh thổ. Ví dụ thị trường Châu Âu, Châu Phi,
Trung Đông.
- Thị trường khu vực đối với nước ta như các nước công nghiệp mới
(NICs) bao gồm Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapo và các nước
Đông Nam Á khác như: Indonêxia, Thái Lan.
- Thị trường trong nước: Thị trường toàn quốc là thị trường ngành
hàng bao gồm tất cả các tỉnh, thành phố nước ta.Thị trường địa phương là
thị trường trong phạm vi của một địa phương nào đó.
+ Căn cứ vào vai trò của thị trường đối với doanh nghiệp:
- Thị trường chính.
- Thị trường bổ xung.
Phân đoạn thị trường:
7
Đối với các doanh nghiệp đang kinh doanh và các doanh nghiệp sắp
bước vào kinh doanh thì phân đoạn thị trường là rất quan trọng. Như chúng
ta đã biết, thị trường rất đa dạng, nó tập hợp nhu cầu của những người có
tuổi tác, giới tính, tôn giáo, thu nhập, phong tục tập quán, thói quen tiêu
dùng khác nhau, sự không đồng nhất đó ảnh hưởng rất lớn đến việc mua và
tiêu dùng hàng hoá. Mặt khác, doanh nghiệp cũng không thể có những
chính sách riêng biệt cho từng người. Vì vậy, cần phải phân đoạn thị
trường để doanh nghiệp nhận biết được đặc tính của từng đoạn và tuỳ
thuộc vào khả năng, nguồn lực của mình để có các lựa chọn chính sách,
biện pháp khác nhau để tiếp cận và khai thác thị trường nhằm đạt được các
mục tiêu chiến lược kinh doanh.
Thực chất của phân đoạn thị trường là quá trình phân chia người
tiêu dùng thành nhóm trên cơ sở những đặc điểm khác biệt về nhu cầu, tính
cách hay hành vi.
1.1.2 Vai trò và chức năng của thị trường đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp:
a) Vai trò:
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường có vị trí trung tâm. Thị
trường vừa là mục tiêu của người sản xuất kinh doanh vừa là môi trường
của hoạt động sản xuất và kinh doanh hàng hoá. Thị trường cũng là nơi
chuyển tải các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên thị trường, người mua,
người bán, người trung gian gặp nhau trao đổi hàng hoá - dịch vụ. Do vậy,
thị trường có những tác dụng sau đây:
Một là, bảo đảm điều kiện cho sản xuất phát triển liên tục với quy
mô ngày càng mở rộngvà bảo đảm hàng hoá cho người tiêu dùng phù hợp
với thị hiếu (sở thích) và sự tự do lựa chọn một cách đầy đủ, kịp thời,
thuận lợi với dịch vụ văn minh.
Hai là, nó thúc đẩy nhu cầu, gợi mở nhu cầu, đưa đến cho người tiêu
dùng sản xuất và người tiêu dùng cá nhân những sản phẩm mới. Nó kích
thích sản xuất ra sản phẩm chất lượng cao, văn minh và hiện đại.
Ba là, dự trữ các hàng hoá phục vụ sản xuất và tiêu dùng xã hội,
giảm bớt dữ trữ ở các khâu tiêu dùng, bảo đảm việc điều hoà cung cầu.
8
Bốn là, phát triển các hoạt động dịch vụ phục vụ tiêu dùng sản xuất
và tiêu dùng cá nhân ngày càng phong phú, đa dạng, văn minh. Giải phóng
con người khỏi những công việc không tên trong gia đình.
Năm là, thị trường hàng hoá dịch vụ ổn định có tác dụng to lớn để ổn
định sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân.
b) Các chức năng của thị trường:
* Chức năng thừa nhận:
Doanh nghiệp thương mại mua hàng hoá về để bán. Hàng hoá có bán
được hay không phải thông qua chức năng thừa nhận của thị trường, của
khách hàng, của doanh nghiệp. Nếu hàng hoá bán được, tức là được thị
trường thừa nhận, doanh nghiệp thương mại mới thu hồi được vốn, có
nguồn thu trang trải chi phí và có lợi nhuận. Ngược lại, nếu hàng hoá đưa ra
bán nhưng không có ai mua, tức là không dược thị trường thừa nhận. Để
được thị trường thừa nhận doanh nghiệp phải nghiên cứu nhu cầu của khách
hàng để từ đó tiến hành kinh doanh những sản phẩm phù hợp. Sự phù hợp ở
đây chính là phù hợp về số lượng, chất lượng, sự đồng bộ, quy cách, cỡ
loại, mầu sắc, bao bì, giá cả, thời gian, và địa điểm thuận tiện cho khách
hàng.
* Chức năng thực hiện:
Chức năng này đòi hỏi hàng hoá và dịch vụ phải được thực hiện giá
trị trao đổi: hoặc bằng tiền hoặc bằng hàng, bằng các chứng từ có giá khác.
Người bán hàng cần tiền còn người mua cần hàng, sự gặp gỡ giữa người
bán và người mua được xác định bằng giá cả mà hai bên đã thoả thuận.
Hàng hóa bán được tức là có sự dịch chuyển từ người bán sang người mua,
nghĩa là có sự thực hiện chuyển đổi giá trị.
* Chức năng điều tiết và kích thích.
Qua hành vi trao đổi hàng hóa và dịch vụ trên thị trường, thị trường
điều tiết và kích thích sản xuất và kinh doanh phát triển và ngược lại. Đối
với doanh nghiệp thương mại, hàng hoá và dịch vụ bán hết nhanh sẽ kích
thích doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động tạo nguồn hàng, thu mua hàng hoá
để cung ứng ngày càng nhiều hơn cho thị trường. Ngược lại, nếu hàng hoá
và dịch vụ không bán được, doanh nghiệp sẽ hạn chế mua, phải tìm khách
hàng mới, thị trường mới, hoặc chuyển hướng kinh doanh mặt hàng khác
9
đang hoặc có khả năng tiêu thụ lớn hơn. Chức năng điều tiết, kích thích
này luôn điều tiết sự gia nhập ngành hoặc rút ra khỏi ngành của một số
doanh nghiệp. Nó khuyến khích các nhà kinh doanh giỏi và điều chỉnh theo
hướng đầu tư vào kinh doanh có lợi, các mặt hàng mới, chất lượng cao, có
khả năng bán được khối lượng lớn.
* Chức năng thông tin
Thông tin trên thị trường là những thông tin về nguồn cung ứng
hàng hoá dịch vụ, nhu cầu hàng hoá, dịch vụ. Đó là những thông tin kinh tế
quan trọng đối với mọi nhà sản xuất kinh doanh, cả người mua và người
bán, cả người cung ứng và tiêu dùng, cả người quản lý và những người
nghiên cứu sáng tạo. Có thể nói đó là những thông tin được sự quan tâm
của toàn xã hội. Thông tin thị trường là những thông tin kinh tế quan trọng.
Không có thông tin thị trường thì không thể có các quyết định đúng đắn
trong sản xuất kinh doanh, cũng như quyết định của các cấp quản lý.Việc
nghiên cứu thị trường và tìm kiếm các thông tin có ý nghĩa cực kì quan
trọng đối với việc ra các quyết định đúng đắn trong kinh doanh. Nó có thể
đưa đến thành công cũng như có thể đưa đến thất bại bởi sự xác thực của
các thông tin được sử dụng.
1.1.3 Tầm quan trọng của hoạt động phát triển thị trường tiêu thụ
trong cơ chế thị trường.
* Khái niệm thị trường tiêu thụ:
Theo Mc Carthy “Thị trường có thể được hiểu là các nhóm khách
hàng tiềm năng với những nhu cầu tương tự (giống nhau) và những người
bán đưa ra các sản phẩm khác nhau với các cách thức khác nhau để thoả
mãn nhu cầu đó”. Đặc điểm và tính chất của thị trường tiêu thụ là cơ sở để
doanh nghiệp hoạch định và tổ chức thực hiện các chiến lược, sách lược,
công cụ điều khiển tiêu thụ.
Theo quan điểm của marketing thương mại, xác định thị trường tiêu
thụ của doanh nghiệp dựa trên một số tiêu thức sau.
a) Thị trường tiêu thụ theo tiêu thức sản phẩm:
Theo tiêu thức này, doanh nghiệp thường xác định thị trường theo
ngành hàng (dòng sản phẩm ) hay nhóm hàng mà họ kinh doanh và bán ra
10
trên thị trường. Tuỳ theo mức độ nghiên cứu người ta có thể mô tả ở mức
độ khái quát cao hay cụ thể.
b) Thị trường tiêu thụ theo tiêu thức địa lý:
Theo tiêu thức này, doanh nghiệp thường xác định thị trường theo
phạm vi khu vực địa lý mà họ có thể vươn tới để kinh doanh. Tùy theo
mức độ rộng hẹp có tính toàn cầu khu vực hay lãnh thổ có thể xác định thị
trường của doanh nghiệp:
- Thị trường ngoài nước
- Thị trường trong nước.
c) Theo tiêu thức khách hàng với nhu cầu của họ.
Theo tiêu thức này, doanh nghiệp mô tả thị trường của mình theo các
nhóm khách hàng mà họ hướng tới để thoả mãn, bao gồm cả khách hàng
hiện tại và khách hàng tiềm năng. Về lý thuyết, tất cả những người mua
trên thị trường đều có thể trở thành khách hàng của doanh nghiệp và hình
thành nên thị trường của doanh nghiệp. Nhưng trong thực tế thì không phải
vậy: nhu cầu của khách hàng rất đa dạng, họ cần đến những sản phẩm khác
nhau để thoả mãn nhu cầu, trong khi doanh nghiệp chỉ có thể đưa ra thoả
mãn họ một hoặc một số sản phẩm nào đó. Để thoả mãn nhu cầu, khách
hàng có thể có nhiều cách thức mua sắm khác nhau trong khi doanh nghiệp
chỉ có thể lựa chọn và đáp ứng tốt một hoặc một số yêu cầu về cách thức
mua sắm và sử dụng nào đó của khách hàng. Điều đó dẫn tới một thực tế là
hình thành nên thị trường - những nhóm khách hàng mà doanh nghiệp có
thể chinh phục.
Cuối cùng, để kết hợp cả ba tiêu thức trên doanh nghiệp cần xác
định được thị trường tiêu thụ trọng điểm cho doanh nghiệp mình: Xác định
thị trường trọng điểm là quá trình phân tích thị trường từ khái quát đến cụ
thể nhằm xác định được các nhóm khách hàng với nhu cầu cụ thể về sản
phẩm và cách thức thoả mãn nhu cầu của họ. Tuỳ vào điều kiện cụ thể của
từng doanh nghiệp có thể thực hiện những bước đi khác nhau để đạt đến thị
trường trọng điểm, nhưng về nguyên tắc có một số bước đi cơ bản khi xác
định thị trường trọng điểm như sau:
- Nghiên cứu thị trường rộng
- Phân tích thị trường sản phẩm chung
11
- Phân tích thị trường sản phẩm
- Phân đoạn thị trường, xác định thị trường thành phần- xác định các
nhóm khách hàng có nhu cầu khác biệt trên thị trường và thái độ của họ
đối với sản phẩm cơ bản.
- Quyết định thị trường trọng điểm và cách tiếp cận: Sau khi đã có
kết quả phân đoạn- xác định được các nhóm khách hàng có nhu cầu khác
biệt trên thị trường, doanh nghiệp cần xác định thị trường mục tiêu của
mình. Thị trường mục tiêu có thể là một hay một số các phân đoạn thị
trường đã xác định được. Số phân đoạn thị trường được chọn làm thị
trường mục tiêu phải phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và hợp thành
thị trường thích hợp của doanh nghiệp. Trên cơ sở đặc trưng nhu cầu của
các khách hàng trong từng thị trường mục tiêu, doanh nghiệp có thể lựa
chọn, chế tạo sản phẩm hoàn thiện và cách thức phù hợp để đưa ra đáp ứng
nhu cầu của khách hàng trọng điểm. Để thực hiện nội dung này, có thể sử
dụng một trong ba cách tiếp cận thị trường trọng điểm sau:
+ Tiếp cận thị trường trọng điểm đơn giản: Chọn một trong các thị
trường thành phần làm thị trường mục tiêu và xây dựng marketing hỗn hợp
cho riêng thị trường này.
+ Tiếp cận thị trường trọng điểm phức tạp: Chọn 2 hoặc nhiều hơn
trong số các thị trường thành phần làm thị trường mục tiêu. Xây dựng
marketing hỗn hợp cho từng thị trường mục tiêu đã lựa chọn.
+ Tiếp cận thị trường trọng điểm chấp nhận được: Chọn 2 hoặc
nhiều hơn trong số các thị trường thành phần làm thị trường mục tiêu.
Ghép các thị trường thành phần đã lựa chọn thành một thị trường tương
đối đồng nhất. Xây dựng marketing hỗn hợp chung cho thị trường ghép.
* Tầm quan trọng của hoạt động phát triển thị trường tiêu thụ:
Đối với doanh nghiệp, thị trường luôn ở vị trí trung tâm. Thị trường
có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến từng hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp vì thị trường là mục tiêu của những người kinh doanh và
cũng là môi trường của hoạt động kinh doanh hàng hoá. Trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp được tự do lựa chọn lĩnh
vực, ngành nghề kinh doanh, song điều quan trọng là họ có tìm được một
chỗ đứng cho mình trên thị trường hay không. Đặc biệt là đối với các
12
doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá, làm ra sản phẩm. Các sản phẩm phải
được người tiêu dùng chấp nhận, đựoc tiêu dùng rộng rãi và ngày càng phổ
biển trên thị trường. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp phải làm công
tác phát triển và mở rộng thị trường.
- Thị trường tiêu thụ quyết định sự sống còn của doanh nghiệp.
Thông qua hoạt động mua bán trên thị trường, các doanh nghiệp đạt được
mục tiêu chính của mình là tìm kiếm lợi nhuận. Với các doanh nghiệp
thương mại, đơn vị kinh doanh chuyên nghiệp trong lưu thông mua bán
hàng hoá để kiếm lời thì thị trường là nhân tố luôn cần tìm kiếm. Thị
trường càng lớn thì hàng hoá tiêu thụ càng nhiều, còn thị trường bị thu hẹp
hay doanh nghiệp bị mất thị trường thì doanh nghiệp sẽ bị suy thoái, không
thể tồn tại lâu. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, với những tiến bộ
khoa học mới làm biến chuyển công nghệ sản xuất, cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp ngày càng khốc liệt. Nhu cầu tiêu dùng cũng vì thế ngày một
nâng cao. Bất kỳ doanh nghiệp nào cho dù đang đứng trên đỉnh cao của sự
thành đạt cũng có thể bị lùi lại phía sau nếu không nắm bắt được thị trường
một cách kịp thời. Ngược lại, cho dù doanh nghiệp đang đứng trên bờ vực
của sự phá sản cũng có thể vươn lên chiếm lĩnh và làm chủ thị trường nếu
họ nhạy bén, phát hiện ra xu thế của thị trường hay những kẽ hở thị trường
mà mình có thể len vào được. Do vậy, thị trường phản ánh tình hình kinh
doanh của doanh nghiệp. Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động kinh
doanh, ở đó người bán, người mua, người trung gian gặp nhau để trao đổi
hàng hoá và dịch vụ. Chính vì thế tình hình kinh doanh hàng hoá đều được
phản ánh trên thị trường. Nhìn vào thị trường sẽ thấy được tốc độ, mức độ
tham gia vào thị trường của doanh nghiệp cũng như quy mô của sản xuất
kinh doanh.
- Thị trường quyết định lợi nhuận của doanh nghiệp. Thị trường
điều tiết, hướng dẫn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Trong cơ chế
thị trường, việc quyết định sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai không phải
do doanh nghiệp tự quyết định theo ý muốn chủ quan của mình mà phải do
nhu cầu của người tiêu dùng. Vì mục đích của nhà sản xuất kinh doanh là
thu lợi nhuận thông qua việc đem bán, kinh doanh những sản phẩm, dịch
vụ mà khách hàng cần chứ không phải kinh doanh cái mà doanh nghiệp có
13
nên họ luôn cố gắng xác định nhu cầu của khách hàng qua các yếu tố của
thị trường như cung, cầu, giá cả…thị trường luôn tồn tại khách quan, các
doanh nghiệp muốn đạt được thành công đều phải thích ứng cùng với thị
trường để đạt được mục tiêu cuối cùng là thu lợi nhuận. Có nhiều cách để
gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp như nâng giá trong điều kiện bán ra
không đổi...nhưng những cách đó rất khó thực hiện khi nhiều sản phẩm
cạnh tranh nhau trên thị trường. Do đó muốn gia tăng lợi nhuận thì cách tốt
nhất là doanh nghiệp phải tiêu thụ được thêm nhiều hàng hoá, nghĩa là phải
mở rộng được thị trường, thu hút được thêm nhiều khách hàng mua và tiêu
dùng sản phẩm của doanh nghiệp. Hoạt động mở rộng thị trường của
doanh nghiệp có thể thực hiện theo hai hướng: thâm nhập sâu hơn vào thị
trường (mở rộng theo chiều sâu) hoặc mở rộng và thâm nhập vào thị trư-
ờng mới (mở rộng theo chiều rộng).
- Mở rộng thị trường giúp doanh nghiệp phát triển ổn định, tăng thị
phần nâng cao vị thế của mình trên thị trường trong nước và trên thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, thị trường trong nước, khu vực, và
thế giới có nhiều biến động như hiện nay, các doanh nghiệp trong nước luôn
phải đương đầu với các đối thủ cạnh tranh tầm cỡ trong nước cũng như trên
thế giới. Do vậy, muốn tồn tại và phát triển thì các doanh nghiệp phải không
ngừng củng cố và phát triển thị trường của mình. Khi sản phẩm của doanh
nghiệp được nhiều người tiêu dùng lựa chọn thì uy tín của doanh nghiệp sẽ
ngày càng tăng và càng tạo thuận lợi cho sự phát triển doanh nghiệp.
1.2 Nội dung và hoạt động phát triển thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp
1.2.1.Nội dung
Phát triển thị trường là một trong những yếu tố không thể thiếu được
trong các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Chiến lược phát triển
thị trường có thể xây dựng trên cơ sở kết quả phân tích được tiến hành ở ba
mức độ: Thứ nhất, phát hiện những khả năng mà doanh nghiệp có thể tận
dụng với quy mô hoạt động hiện tại ( khả năng phát triển theo chiều sâu).
Mức độ thứ hai, phát hiện những khả năng hợp nhất với những yếu tố khác
của hệ thống marketing (khả năng phát triển hợp nhất). Mức độ thứ ba,
phát hiện những khả năng đang mở ra ở ngoài ngành (những khả năng phát
14
triển theo chiều rộng).
Phát triển theo chiều sâu:
Phát triển theo chiều sâu thích hợp trong trường hợp doanh nghiệp chưa
tận dụng hết những khả năng vốn có của hàng hoá và thị trường hiện tại
của mình. Để phát hiện những khả năng phát triển theo chiều sâu người ta
có sử dụng một phương pháp rất tiện lợi gọi là “mạng lưới phát triển hàng
hoá và thị trường”. Mạng lưới này bao gồm ba loại hình cơ bản của khả
năng phát triển sâu đó là:
1.Thâm nhập sâu vào thị trường: là việc doanh nghiệp tìm kiếm
cách tăng mức tiêu thụ những hàng hoá hiện có của mình trên những thị
trường hiện có.
2.Mở rộng thị trường: là việc doanh nghiệp tìm cách tăng mức tiêu
thụ bằng cách đưa những hàng hoá hiện có của mình vào những thị trường
mới.
3.Cải tiến hàng hoá: Là việc doanh nghiệp tìm cách tăng mức tiêu
thụ bằng cách tạo ra những hàng hoá mới hay đã được cải tiến cho những
thị trường hiện có.
Phát triển theo chiều rộng:
Phát triển theo chiều rộng thích hợp trong những trường hợp ngành
không tạo được cho công ty khả năng phát triển hơn nữa hay những khả
năng phát triển ở ngoài ngành hấp dẫn hơn nhiều. Phát triển theo chiều
rộng không có nghĩa là doanh nghiệp cần nắm lấy một khả năng bất kỳ nào
đó khi nó xuất hiện. Doanh nghiệp phải phát hiện cho mình những hướng
cho phép vận dụng kinh nghiệm đã được tích luỹ của mình hay những
hướng hỗ trợ khắc phục những nhược điểm hiện có của mình. Có ba loại
hình phát triển rộng:
1.Đa dạng hoá đồng tâm: Tức là bổ sung những danh mục sản phẩm
của mình những sản phẩm giống như các mặt hàng hiện có của doanh
nghiệp xét theo giác độ kỹ thuật hay marketing. Thông thường những mặt
hàng này sẽ thu hút sự chú ý của những giai tầng khách hàng mới.Ví dụ
như một nhà xuất bản có thể mở thêm ngành xuất bản sách bìa mềm và tận
dụng những ưu thế của mạng lưới phát hành có sẵn của mình để bán những
loại sách đó cho những khách hàng có thu nhập cao.
15
2.Đa dạng hoá ngang: Tức là bổ sung cho chủng loại hàng hoá của
mình những mặt hàng hoàn toàn không có liên quan gì đến những mặt
hàng hiện đang sản xuất, nhưng có thể làm cho khách hàng hiện có quan
tâm hơn.
3.Đa dạng hoá rộng: Tức là bổ sung cho chủng loại hàng hoá của
mình những mặt hàng không có quan hệ gì với công nghệ mà công ty đang
sử dụng với hàng hoá và thị trường hiện có.
Phát triển hợp nhất:
Phát triển hợp nhất thích hợp trong những trường hợp các lĩnh vực hoạt
động có những vị trí vững chắc và doanh nghiệp có lợi hơn khi dịch
chuyển về phía sau, lên phía trước hay theo chiều ngang theo khuôn khổ
của ngành.
1.Hợp nhất về phía sau: là việc doanh nghiệp tìm cách năm quyền
sở hữu hay thiết lập sự kiểm soát chặt chẽ hơn những người cung ứng của
mình.
2.Hợp nhất về phía trước: là việc doanh nghiệp tìm cách nắm quyền
sở hữu hay thiết lập sự kiểm soát chặt chẽ hơn hệ thống phân phối.
3.Hợp nhất ngang: là việc doanh nghiệp tìm cách nắm quyền sở hữu
hay thiết lập sự kiểm soát chặt chẽ hơn một số đối thủ cạnh tranh.
Trên đây là một số cách thức phát triển thị trường tổng thể. Để phát
triển thị trường một cách có hiệu quả, doanh nghiệp nên có những chiến
lược phát triển cụ thể trong mỗi chiến lược tổng thể trên. Đó là các chiến
lược như: phát triển sản phẩm, phát triển khách hàng, mở rộng phạm vi địa
lý và tiến hành đa dạng hoá kinh doanh.
Phát triển sản phẩm
Yêu cầu của kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi
các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới về sản phẩm- tức là cho ra
đời sản phẩm mới, bởi sản phẩm là yếu tố trực tiếp tác động đến khách
hàng, thông qua sản phẩm nhu cầu của khách hàng mới được đáp ứng.
Thông thường các doanh nghiệp vẫn quan niệm sản phẩm mới phải là một
sản phẩm hoàn toàn mới theo công năng hoặc giá trị sử dụng của nó. Điều
này có thể hạn chế khả năng phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Từ
góc độ khách hàng, doanh nghiệp có thể đưa ra các “sản phẩm mới” của
16
mình một cách đa dạng và hiệu quả hơn. Từ cách nhìn của khách hàng,
một sản phẩm mới không có nghĩa là sản phẩm hoàn toàn mới. Một sản
phẩm cải tiến cũng được xem như là một sản phẩm mới. Trong trường hợp
này, sản phẩm mới bao gồm cả những sản phẩm hiện tại nhưng đã được
hoàn thiện thêm về các chi tiết bộ phận của nó, có thêm công năng mới
hoặc bao bì mới, hoặc nhãn hiệu mới, hình ảnh mới hoặc có thêm cách
thức phục vụ mới…
Phát triển sản phẩm của khách hàng rất có ích cho doanh nghiệp,
giúp cho doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc đề ra các hoạch định chiến
lược phát triển sản phẩm.
Phát triển khách hàng:
”Đích”cuối cùng của sản phẩm luôn là người sử dụng sản phẩm mà
doanh nghiệp đang kinh doanh hay còn gọi là khách hàng của doanh
nghiệp. Trong chiến lược phát triển thị trường, yếu tố khách hàng luôn
đóng vai trò quan trọng bởi nó quyết định đến quy mô thị trường tiêu thụ
của doanh nghiệp. Khách hàng càng nhiều thì quy mô thị trường của doanh
nghiệp càng lớn.Vì vậy để phát triển thị trường một cách có hiệu quả, đòi
hỏi doanh nghiệp phải tìm kiếm các thông tin về khách hàng, dự đoán nhu
cầu và cách thức ứng xử của họ nhằm đưa ra các quyết định tốt nhất có khả
năng thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Qua đó, thu hút nhiều
khách hàng đến với doanh nghiệp nhằm mở rộng khách hàng hiện có.
Ý nghĩa quan trọng của việc nghiên cứu khách hàng, không chỉ ở
chỗ doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm mà điều quan trọng hơn khi thực
hiện công việc này là đảm bảo khả năng bán được hàng nhưng đồng thời
giữ được khách hàng hiện tại và lôi kéo được khách hàng tiềm năng.
Khách hàng tiềm năng ở đây có thể là những người mua tiềm ẩn của doanh
nghiệp, khách hàng hiện có, những người thông qua quyết định hay có ảnh
hưởng đến việc thông qua quyết định. Khách hàng đó cũng có thể là từng
cá nhân, từng nhóm người, những khách hàng có tiếp xúc cụ thể hay quảng
đại quần chúng. Khách hàng của doanh nghiệp thường đa dạng, khác nhau
về lứa tuổi, giới tính, mức thu nhập, nơi cư trú, sở thích tiêu dùng và vị trí
trong xã hội. Do đó khi đưa ra các biện pháp thu hút khách hàng, doanh
nghiệp cần chú ý đến những đặc trưng này.
17
Phát triển phạm vi địa lý:
Thông thường khi tham gia kinh doanh các doanh nghiệp phải xác
định một khu vực địa lý cụ thể mà họ có thể vươn tới để kinh doanh. Vì
vậy, phát triển thị trường thực chất là doanh nghiệp tìm cách mở rộng
phạm vi địa lý mà mình hiện có. Tuỳ thuộc vào tiềm lực của doanh nghiệp
mà doanh nghiệp có thể mở rộng phạm vi kinh doanh của mình ở trong
nước, ví dụ thị trường miền Trung, miền Nam…hay vươn tới những thị
trường nước ngoài như thị trường Châu Âu, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc… Tuy
nhiên, khi đưa ra các biện pháp phát triển thị trường hay mở rộng phạm vi
địa lý kinh doanh doanh nghiệp cần phải chú ý đến mối liên hệ giữa độ
rộng của khu vực thị trường với khả năng (quy mô) kinh doanh của doanh
nghiệp. Bởi vì, sự không phù hợp giữa quy mô doanh nghiệp với độ rộng
của thị trường sẽ dẫn tới những sai lầm trong việc xây dựng và tổ chức
thực hiện chiến lược kinh doanh.
Đa dạng hoá kinh doanh:
Kinh doanh trong cơ chế thị trường đem lại cho doanh nghiệp nhiều
thuận lợi nhưng cũng có không ít khó khăn. Để hạn chế những khó khăn
gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nên tiến hành
đa dạng hoá kinh doanh nhằm phân tán bớt những rủi ro mà doanh nghiệp
có thể gặp phải, bên cạnh đó đa dạng hoá kinh doanh còn giúp doanh
nghiệp có điều kiện mở rộng phát triển thị trường của mình. Đa dạng hoá
kinh doanh có thể là đa dạng hoá sản phẩm hoặc doanh nghiệp có thể tham
gia vào nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Tuỳ vào điều kiện cụ thể của
mình mà doanh nghiệp có cách lựa chọn hình thức kinh doanh phù hợp.
Nhìn chung phát triển thị trường của doanh nghiệp là một trong
những chiến lược quan trọng của chính doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, để
đưa ra những chiến lược phát triển đúng đắn và phù hợp thì doanh nghiệp
cần thực hiện theo những nguyên tắc cụ thể nhằm thực hiện một cách có
hiệu quả hơn.
1.2.2 Hoạt động nghiên cứu phát triển thị trường
Phát triển thị trường là công tác quan trọng đảm bảo cho doanh
nghiệp có thể đạt được các mục tiêu trong chiến lược kinh doanh chung là lợi
18
nhuận, thế lực, an toàn. Công tác phát triển thị trường thường được xuất phát
từ việc xác định các mục tiêu về thị trường của doanh nghiệp. Khi tiến hành
phát triển thị trường, các nhà hoạch định thường làm theo quy trình sau:
A)Nghiên cứu thị trường:
Doanh nghiệp là một tác nhân trên thị trường. Để có thể tiến hành
hoạt động kinh doanh trên thị trường doanh nghiệp phải xây dựng cho
mình một kế hoạch kinh doanh phù hợp, trong kế hoạch đó doanh nghiệp
nhất thiết phải xác định rõ những phần thị trường ( đặc biệt là thị trường
trọng điểm) để khai thác những cơ hội hấp dẫn do thị trường đó mang lại
nhiều hơn là những phần thị trường khác. Dù doanh nghiệp đang ở bước
đầu định vị thị trường để tiến hành kinh doanh hay doanh nghiệp muốn
phát triển thị trường truyền thống của mình sâu, rộng hơn nữa thì các
doanh nghiệp đều phải tiến hành nghiên cứu thị trường. Đây là một bước
bắt buộc trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nghiên cứu thị
trường là để tìm hiểu thêm về nhu cầu của thị trường, những thay đổi mới
trên thị trường để đáp ứng kịp thời, những sản phẩm, chiến lược kinh
doanh của các đối thủ cạnh tranh…Thông qua các phương pháp nghiên
cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ nhận ra vị trí của mình trên thị trường,
nhận ra được phần thị trường cần chiếm lĩnh hay cần phát triển từ đó có
phương hướng và đề ra các biện pháp đúng đắn để mở rộng và phát triển
thị trường một cách thích hợp. Để tiến hành nghiên cứu thị trường cần tiến
hành như sau:
- Trước hết đó là phát hiện vấn đề và xác định mục tiêu nghiên cứu:
Trong giai đoạn đầu doanh nghiệp và nhà nghiên cứu phải xác định rõ vấn
đề cũng như mục tiêu nghiên cứu. Việc xác định rõ vấn đề sẽ đảm bảo tới
50% sự thành công trong các cuộc nghiên cứu. Ở cấp công ty các mục tiêu
có thể đề ra một cách chung nhất nhưng ở cấp đơn vị thành viên, các bộ
phận chức năng thì mục tiêu phải được cụ thể hoá để người lãnh đạo các
đơn vị này xác định được hướng tập chung nhất cần nghiên cứu.
- Thu thập thông tin: Nghiên cứu thị trường không thể không dựa
vào các thông tin. Những thông tin cần thiết sẽ giúp cho các bước nghiên
cứu thị trường được tiến hành thuận lợi hơn cũng như giúp cho doanh
nghiệp giảm được chi phí về thời gian và tài chính không cần thiết. Thông
19
tin gồm có thông tin sơ cấp và thông tin thứ cấp.Thông tin sơ cấp là những
thông tin mới hoàn toàn chưa qua phân tích, xử lý của bất kì một cơ quan
cá nhân nào. Còn thông tin thứ cấp là những thông tin được phân tích kĩ
lưỡng. Trong khi thu thập thông tin, doanh nghiệp đều có thể sử dụng hai
loại thông tin này, phân tích thông tin thứ cấp để có thể nhận định đúng
đắn về mục tiêu và khả năng thị trường. Phân tích thông tin sơ cấp để
doanh nghiệp xác định bước đi tiến bộ, độc đáo. Các thông tin thường được
nghiên cứu là: thông tin về môi trường kinh doanh, thông tin về nhu cầu
người tiêu dùng với mặt hàng nào đó, đối thủ cạnh tranh, người cung cấp
hàng hoá…
- Xử lý thông tin : Sau khi thu thập, doanh nghiệp phải tiến hành xử
lý thông tin. Xử lý thông tin là phân tích những loại thông tin cần thiết để
đưa ra một kết quả, một đánh giá cụ thể về nhu cầu thị trường, những cơ
hội cần khai thác và nguy cơ phòng tránh.Việc xử lý thông tin rất quan
trọng, nếu thông tin được xử lý không đúng mục tiêu nghiên cứu sẽ không
đạt được và quan trọng nhất là dẫn đến sai lầm trong ra quyết định. Ra
quyết định là bước khẳng định sự thành công hay thất bại trong kinh
doanh. Để xử lý thông tin doanh nghiệp thường tổng hợp các số liệu thành
bảng biểu, phân tích các chỉ tiêu như sự phân bố tần suất, mức trung bình
và mức độ phân tán…để đưa ra quyết định
- Ra quyết định: Việc xử lý thông tin chính là lựa chọn, đánh giá thị
trường, đưa ra các quyết định phù hợp với công tác phát triển thị trường.
Khi đưa ra các quyết định phù hợp với công tác phát triển thị trường. Khi
đưa ra các quyết định cần phải có cân nhắc đến các mặt mạnh yếu của
doanh nghiệp cũng như những thuận lợi hay khó khăn khi thực hiện quyết
định. Ngoài ra doanh nghiệp cũng đồng thời phải có những biện pháp khắc
phục những điểm yếu, đặt được khách hàng vào vị trí trung tâm cho hoạt
động phát triển thị trường của doanh nghiệp.
Nghiên cứu thị trường bao gồm nghiên cứu khái quát và nghiên cứu
chi tiết thị trường:
- Nghiên cứu khái quát thị trường: Nghiên cứu khái quát thị trường
thực chất là nghiên cứu vĩ mô. Đó là nghiên cứu tổng cung hàng hoá, tổng
cầu hàng hoá, giá cả thị trường của hàng hoá, chính sách của Chính phủ về
20
hàng hoá đó (kinh doanh tự do, kinh doanh có điều kiện, khuyến khích
kinh doanh hay cấm kinh doanh).
Nghiên cứu tổng cầu hàng hoá là nghiên cứu tổng khối lượng hàng
hoá và cơ cấu loại hàng hoá tiêu dùng thông qua mua sắm hoặc sử dụng
với giá cả thị trường trong một khoảng thời gian nhất định. Tổng khối
lượng hàng hoá chính là quy mô của thị trường. Nghiên cứu quy mô thị
trường phải nắm được số lượng người hoặc đơn vị tiêu dùng, số lượng các
loại hàng hoá, số lượng của một loại hàng hoá được tiêu thụ. Thông qua
nghiên cứu quy mô thị trường doanh nghiệp xác định cho mình loại hàng
hoá kinh doanh, khách hàng và phạm vi thị trường của doanh nghiệp. Khi
nghiên cứu tổng cầu và cơ cấu hàng hoá doanh nghiệp cũng cần nghiên
cứu trên môi trường địa bàn, đặc biệt là thị trường trọng điểm, ở đó tiêu
thụ lượng hàng lớn và giá thị trường của hàng hoá đó trên địa bàn từng thời
gian.
Nghiên cứu tổng cung hàng hoá là nghiên cứu để xác định xem khả
năng sản xuất trong một thời gian, các đơn vị sản xuất, kinh doanh có khả
năng cung ứng cho thị trường tổng số bao nhiêu hàng, khả năng nhập khẩu
bao nhiêu, khả năng dự trù (tồn kho) xã hội bao nhiêu. Giá cả bán hàng của
doanh nghiệp sản xuất, giá hàng nhập khẩu. Nghiên cứu giá cả thị trường
doanh nghiệp phải tìm được chênh lệch giá bán và gía mua. Thông qua
nghiên cứu tổng cung, doanh nghiệp xác định vai trò và vị trí của mình
cũng như của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, từ đó có phương
hướng biện pháp để phát triển thị trường thích hợp. Nghiên cứu chính sách
của Chính phủ về loại hàng kinh doanh cho phép kinh doanh tự do, kinh
doanh có điều kiện, khuyến khích kinh doanh hoặc cấm kinh doanh. Đó là
chính sách thuế, giá các loại dịch vụ có liên quan. Qua nội dung nghiên
cứu này, doanh nghiệp xác định được môi trường kinh doanh và các điều
kiện để đáp ứng yêu cầu của môi truờng đó, những thuận lợi cũng như khó
khăn của môi trường.
Ngoài những vấn đề trên, nghiên cứu khái quát thị trường còn cần
phải nghiên cứu động thái của cầu, cung trên từng địa bàn và trong từng
thời điểm.
- Nghiên cứu chi tiết thị trường : Nghiên cứu chi tiết thị trường thực
21
chất là nghiên cứu đối tượng mua bán hàng hoá mà doanh nghiệp kinh
doanh, cơ cấu thị trường hàng hoá và chính sách mua bán của các doanh
nghiệp có nguồn hàng lớn. Nghiên cứu chi tiết thị trường phải trả lời được
câu hỏi: Ai mua hàng? Mua bao nhiêu? Cơ cấu của loại hàng? Mua ở đâu?
Mua hàng dùng làm gì? Đối thủ cạnh tranh? Nghiên cứu chi tiết thị trường
phải nghiên cứu nhu cầu và yêu cầu của khách hàng về loại hàng mà doanh
nghiệp kinh doanh và phải xác định tỷ trọng thị trường doanh nghiệp đạt
được (thị phần của doanh nghiệp) và thị phần của các doanh nghiệp khác
cùng ngành, so sánh về chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, mẫu mã,
mấu sắc và các dịch vụ phục vụ khách hàng của doanh nghiệp so với các
doanh nghiệp khác…để đổi mới thu hút khách hàng mua hàng của doanh
nghiệp mình.
Để nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp người ta thường dùng
các phương pháp như sau:
Phương pháp nghiên cứu tại bàn: Hay còn gọi là phương pháp
nghiên cứu văn phòng là cách nghiên cứu thu thập các thông tin qua các tài
liệu như sách báo, tạp chí, tạp chí quảng cáo, bản tin kinh tế, thông tin thị
trường, tạp chí thương mại, niên giám thống kê và các loại tài liệu có liên
quan đến các loại mặt hàng mà doanh nghiệp đang kinh doanh, sẽ kinh
doanh cần nghiên cứu: khả năng cung ứng, khả năng hàng tồn kho xã hội,
nhu cầu của khách hàng, giá thị trường của loại hàng và khả năng biến
động. Nghiên cứu tại bàn cho phép doanh nghiệp nhìn được khái quát thị
trường mặt hàng cần nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường: Đây là phương pháp trực
tiếp cử cán bộ đến tận nơi để nghiên cứu. Cán bộ nghiên cứu thông qua
việc trực tiếp quan sát, thu thập các thông tin và số liệu ở đơn vị tiêu dùng
lớn, ở khách hàng hoặc ở các đơn vị nguồn hàng bằng cách điều tra trọng
điểm, điều tra trọn mẫu, điển hình, toàn bộ hay tham quan, phỏng vấn các
đối tượng, gửi phiếu điều tra, hội nghị khách hàng hay qua hội chợ, triển
lãm…Nghiên cứu tại hiện trường giúp doanh nghiệp có những nhận xét về
thị trường một cách sinh động, thực tế, hiện thực.
Một khâu không thể thiếu được trong chiến lược phát triển thị
trường là dự báo thị trường nó được coi là tiền đề của kế hoạch kinh
22
doanh.Thông thường có ba loại dự báo: dự báo ngắn hạn, dự báo trung hạn
và dự báo dài hạn. Tuỳ theo phương pháp thu thập thông tin và yêu cầu dự
báo về thị trường hàng hoá người ta lựa chọn những phương pháp dự báo
khác nhau. Tuy nhiên, mọi dự báo chỉ là những tiên đoán, có tính khả thi
hay không phụ thuộc phần lớn ở cơ sở của các dự báo đó và kĩ năng thực
hành của doanh nghiệp.
B) Xây dựng chiến lược marketing hỗn hợp:
Marketing-mix (marketing hỗn hợp) được hiểu là một phối thức định
hướng các biến số marketing có thể kiểm soát được mà công ty thương mại
sử dụng một cách liên hoàn và đồng bộ nhằm theo đuổi một sức bán và lợi
nhuận dự kiến trong một thị trường trọng điểm xác định.
23
Mô hình mạng marketing – Mix
Ta có thể mô hình hoá bằng hình ảnh marketing - mix như sau:
Marketing - mix bao gồm tất cả những gì mà công ty có thể vận
dụng để tác động lên nhu cầu về hàng hoá của mình có thể hợp nhất rất
nhiều khả năng hình thành bốn nhóm cơ bản: hàng hoá, giá cả, phân phối
và xúc tiến.
Hàng hoá là tập hợp " sản phẩm và dịch vụ " mà công ty cung ứng cho
thị trường mục tiêu.
Hàng hoá hay nói chung là sản phẩm là nội dung quan trọng quyết
định hiệu quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Lựa chọn sản phẩm thích ứng,
có nghĩa là phải tổ chức sản xuất những sản phẩm mà thị trường đòi hỏi.
Sản phẩm thích ứng bao hàm về số lượng, chất lượng, giá cả. Về mặt
lượng sản phẩm phải thích ứng với quy mô thị trường. Về chất lượng sản
phẩm phải phù hợp với yêu cầu, tương xứng với trình độ tiêu dùng. Thích
ứng về giá cả là hàng hoá được người mua chấp nhận và tối đa hoá lợi ích
người bán. Đưa một sản phẩm ra thị trường, cần xác định các sản phẩm
đưa ra đang ở chu kỳ nào của chu kỳ sống sản phẩm. Thực hiện tốt được
Công ty thương
mại, chất lượng
phong cách, tên ,
đường nét, lưạ
chọn, nhãn hiệu,
quy cách, bao gói,
dịch vụ, bảo h nh
Bảng giá, chất liệu
Giá theo v chấp
nhận, thời hạn
thanh toán tín
dụng.
Kênh bao phủ, phân
bố, kiểm soát, tồn
kho, điều vận, sức
bán ,
Quảng cáo, bán trực
tiếp, khuyếch
trương bán, quan
hệ công chúng, xúc
tiến cổ động, yểm
Sản phẩm
Giá bán
Phân phối-sức
bán
Quảng cáo
24
vấn đề này, cần tìm hiểu sáu giai đoạn triển khai sản phẩm mới.
- Nghiên cứu và đề xuất ý tưởng về sản phẩm: Xuất phát từ nhu cầu
của khách hàng, đặc điểm sản phẩm hiện tại, đặc điểm thị trường (đối thủ
cạnh tranh), tiềm lực của doanh nghiệp…bộ phận nghiên cứu phát triển sản
phẩm của doanh nghiệp đưa ra những ý tưởng về một sản phẩm mới cần
được phát triển để đưa vào kinh doanh.
- Nghiên cứu tiền khả thi ý tưởng về sản phẩm mới: Tổ chức đánh
giá ưu/nhược điểm của sản phẩm dự kiến phát triển. Đưa các hiện tượng
liên quan đến hoạt động phát triển, phản ứng của người tiêu thụ, đối thủ
cạnh tranh nhằm lựa chọn phương án sẽ được phát triển từ các ý tưởng ban
đầu. Các chỉ tiêu làm cơ sở cho tiên lượng sản phẩm là: Chi phí sản xuất,
chi phí phân phối, mức độ thoả mãn nhu cầu khách hàng, khả năng tiêu
thụ, khối lượng vốn đầu tư, khả năng phân biệt với đối thủ về mặt hàng,
trách nhiệm trước pháp luật.
- Nghiên cứu khả thi: Tính toán cụ thể các chỉ tiêu cho phép dự báo
về lợi nhuận, tốc độ thu hồi vốn đầu tư…từ những dự báo về chi phí và
doanh số bán hàng (dự kiến) của sản phẩm mới. Các kết quả tốt từ giai
đoạn này là cơ sở đưa đến quyết định chính thức về việc đưa sản phẩm mới
vào chiến lược kinh doanh.
- Phát triển sản phẩm mới (chế thử): Chế tạo, hình thành nên các sản
phẩm mới đáp ứng yêu cầu đặt ra của ý tưởng về sản phẩm. Chú ý có thể
liên quan cả đến những chi tiết mới, công năng mới (sản phẩm cải tiến)
hoặc các yếu tố dịch vụ mới trong cấu trúc tổng thể của một sản phẩm
“chất lượng toàn diện”.
- Thử nghiệm sản phẩm mới trên thị thường: Đưa sản phẩm mới ra
thị trường để kiểm tra trên thực tế khả năng chấp nhận của thị trường, phản
ứng của người tiêu thụ…qua đó, tổng kết, đánh giá lại sản phẩm và nếu
cần, tiếp tục hoàn thiện từ ý tưởng đến sản phẩm, đánh giá lại hiệu quả có
thể đạt đến kinh doanh của sản phẩm mới.
- Thương mại hoá sản phẩm: Liên quan đến các quyết định cuối
cùng về chiến lược tiêu thụ sản phẩm mới trên thị trường; quy mô, phạm vi
tiêu thụ, giá cả và các tham số khác như xúc tiến và địa điểm triển khai bán
hàng.
25
Nói tới phát triển sản phẩm cần phải nói đến chu kỳ sống của sản
phẩm bao gồm 4 giai đoạn: xâm nhập thị trường, thị trường phát triển, thị
trường chín muồi (bão hoà) và thị trường suy giảm.
- Sản phẩm thương mại được tung ra thị trường. Sản phẩm không có
tính cạnh tranh. Doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng định giá. Khối lượng
tiêu thụ tăng chậm vì hàng hoá chưa được mọi người biết đến, nhà sản xuất
phải bỏ chi phí lớn để hoàn thiện sản phẩm. Hi vọng có lợi nhuận cao ngay
là rất khó khăn vì doanh số ban đầu là thấp, chi phí xúc tiến cao.
- Thị trường phát triển: vượt qua được phân kì đầu tiên là một thành
công cơ bản của chiến lược phát triển sản phẩm. Giai đoạn này khách hàng
đã quen thuộc và ưa chuộng sản phẩm. Doanh số bán tăng nhanh và có thể
đạt được điểm cực đại. Chi phí xúc tiến giảm. Các yếu tố thuận lợi đó giúp
doanh nghiệp có lợi nhuận cao. Lợi nhuận đạt đến điểm cực đại. Tuy nhiên
sự thành công của sản phẩm mới (hoặc cải tiến) sẽ dẫn đến sự quan tâm
của đối thủ cạnh tranh và hiện tượng “bắt chuớc”
- Thị trường chín muồi (bão hoà): Là giai đoạn kém hấp dẫn trong
kinh doanh. Sau thời kì để tăng trưởng mạnh, doanh số bán tăng chậm và
giảm dần. Thường có nhiều đối thủ cạnh tranh với sản phẩm tương tự. Để
duy trì mức bán hoặc không giảm sút quá nhanh, bắt buộc phải đưa ra
những giải pháp đòi hỏi chi phí cao: giảm giá, tăng chi phí xúc tiến.Lợi
nhuận giảm và cần có những chiến lược marketing hiệu quả hơn.
- Thị trường suy giảm: Giai đoạn cuối cùng trong chu kỳ sống của
sản phẩm.Tuy trong giai đoạn này, kinh doanh vẫn có hiệu quả, song đòi
hỏi những nỗ lực rất lớn cho việc lựa chọn đúng các tham số giá, xúc tiến
và phân phối của marketing hỗn hợp. Doanh số và lợi nhuận giảm rõ rệt
(xuống thấp và rất thấp) bởi nhu cầu tiêu thụ giảm, cạnh tranh và chi phí
tăng cao. Giai đoạn này thường dẫn đến yêu cầu thay thế sản phẩm cũ bằng
sản phẩm mới.
Phân phối: là mọi hoạt động để hàng hoá dễ dàng đến tay khách hàng
mục tiêu.
Các dạng kênh phân phối đã được mô tả kỹ ở phần Tổ chức phát
triển mạng lưới bán hàng. Kênh phân phối chủ yếu trình bày dòng vận
động của hàng hoá vật chất, dịch vụ trong quá trình bán hàng của doanh
26
nghiệp. Hàng hoá vật chất hoặc dịch vụ được chuyển từ nhà sản xuất đến
người sử dụng cuối cùng như thế nào.
Giá cả: là tổng số tiền mà người tiêu dùng phải chi để có được hàng hoá
Giá là yếu tố nhạy cảm trong kinh doanh, nó ảnh hưởng trực tiếp
đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, đến lợi nhuận cũng như sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Sự vận động ngược chiều về lợi ích giữa người bán
và người mua từ một sản phẩm, dịchvụ nào đó được giải quyết thông qua
mức giá.
Việc xây dựng mức giá phù hợp phải đáp ứng các mục tiêu đã được
đặt ra của doanh nghiệp. Để thoả mãn nhu cầu này, các mức giá phải định
ra trên cơ sở mục tiêu rõ ràng. Tuỳ theo yêu cầu, đặc điểm cụ thể, điều
kiện hoạt động và sản phẩm đưa ra trên thị trường phải giải quyết tốt ba
yêu cầu thị phần, doanh số, lợi nhuận. Nhằm hướng tới những mục tiêu đã
xác định cho giá, doanh nghiệp có thể định giá và quản lý giá có hiệu quả
trong kinh doanh. Các chính sách giá chính thường áp dụng gồm
- Chính sách về sự linh hoạt của giá: Chính sách này phản ánh cách
thức sử dụng mức giá như thế nào đối với các đối tượng khách hàng.
Doanh nghiệp phải lựa chọn giữa chính sách một giá hay giá linh hoạt.
- Chính sách theo chu kỳ sống của sản phẩm. Theo đó mỗi chu kỳ
sống của sản phẩm nói trên được xác định một mức giá khác nhau (thường
định giá cho sản phẩm mới). Mỗi mức giá khác nhau tương ứng với một
phân kỳ thị trường khác nhau do mức độ hấp dẫn của cạnh tranh hay sản
phẩm thay thế.
- Chính sách giá theo chi phí: Dựa vào kết quả tính toán và phân tích
chi phí của doanh nghiệp và mức lãi suất cần thiết để dự kiến mức giá khác
nhau phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng dựa vào
chi phí vận chuyển để tính giá công bố một cách linh hoạt và đúng đắn để
tạo ra những lợi thế trong bán hàng và cạnh tranh trong một khu vực thị
trường.
- Chính sách hạ giá và chiếu cố giá: Các mức giá được hình thành
theo các điều kiện tiêu chuẩn đã định trước. Trong kinh doanh, các tiêu
chuẩn này được thay đổi theo các trường hợp cụ thể thực tế, không thể
luôn bán hàng theo tiêu chuẩn định trước. Do vậy cần phải có chính sách
27
điều chỉnh hạ giá và chiếu cố giá. Cơ sở để nghiên cứu sự điều chỉnh này là
giá công bố của doanh nghiệp.Ví dụ cho chính sách hạ giá: khoản hạ giá
theo khối lượng nhằm khuyến khích mua nhiều, hạ giá theo thời vụ, hạ giá
theo thời hạn thanh toán, hạ giá ưu đãi…Chiếu cố giá cũng tương tự như
hạ giá nhưng khoản giảm giá mà khách hàng được nhận thường kèm theo
điều kiện đưa ra bởi người bán: tiền chênh lệch giành cho quảng cáo được
tính theo % so với doanh số mua hàng.
Xúc tiến thương mại:
Xuất phát từ góc độ thương mại ở các doanh nghiệp, xúc tiến thương mại
là các hoạt động có chủ đích trong lĩnh vực marketing của các doanh
nghiệp nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hàng hoá và cung
ứng dịch vụ thương mại. Xúc tiến thương mại bao gồm các hoạt động
chính như: quảng cáo, khuyến mại, hội chợ triển lãm, quan hệ công chúng
và các hoạt động khuyếch trương khác.
Hoạt động xúc tiến sẽ giúp cho các doanh nghiệp có cơ hội phát
triển các mối quan hệ thương mại với bạn hàng ở nhiều nơi trong nước
cũng như ngoài nước. Doanh nghiệp sẽ có các thông tin tốt về khách hàng
cũng như đối thủ cạnh tranh. Từ đó có những hướng đổi mới kinh doanh,
đầu tư công nghệ mới. Các hoạt động xúc tiến thể hiện khả năng chiếm
lĩnh thị trường và tăng tính cạnh tranh cho doanh nghiệp. Cũng thông qua
xúc tiến doanh nghiệp sẽ có điều kiện nhìn nhận về ưu nhược điểm của
hàng hoá dịch vụ của mình. Từ đó doanh nghiệp có cơ sở để ra quyết định
điều chỉnh phù hợp. Xúc tiến thương mại là một trong bốn tham số quan
trọng có thể kiểm soát được của marketing hỗn hợp. Tuỳ thuộc vào chiến
lược kinh doanh và phát triển thị trường, doanh nghiệp có những thiết kế
riêng trong các hoạt động quảng cáo, khuyến mại, hội chợ triển lãm, bán
hàng trực tiếp, quan hệ công chúng và các hoạt động khác.
Mọi quyết định về các bộ phận cấu thành marketing-mix tuỳ thuộc
rất nhiều vào việc xác định vị trí hàng hoá cụ thể mà công ty đó làm. Kết
quả việc phân tích các tham số trong maketing hỗn hợp có ảnh hưởng lớn
đến hoạt động phát triển thị trường. Trong các tham số của maketing, sự
sắp xếp thứ tự theo các mức độ quan trọng của từng tham số đối với mỗi
doanh nghiệp khác nhau là khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu hoạt động phát
28
triển thị trường ở mỗi doanh nghiệp không thể không nói đến các tham số
marketing.
Để hoạt động nghiên cứu marketing có hiệu quả thì quá trình
marketing ở công ty cần phải được tổ chức thành 5 bước như sau:
C) Tổ chức phát triển mạng lưới bán hàng:
Sau khi nghiên cứu thị trường một cách kĩ lưỡng phù hợp với mục
tiêu phát triển của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tổ chức tốt mạng lưới
bán hàng. Bởi với bất kì doanh nghiệp nào trong cơ chế thị trường hiện
nay, muốn phát triển được doanh nghiệp đó cần phải chú trọng đến thị
trường đầu ra. Nghĩa là doanh nghiệp đó phải tổ chức tốt công tác tiêu thụ
sản phẩm, làm cho lưu thông trên thị trường diễn ra trôi chảy. Doanh
nghiệp phải tạo được một mạng lưới bán hàng hợp lý nhằm đáp ứng một
cách tốt nhất nhu cầu khách hàng. Để tổ chức một mạng lưới bán hàng tốt,
doanh nghiệp cần tìm kiếm và phát hiện ra những khách hàng có nhu cầu
về sản phẩm mà mình đang kinh doanh, đưa sản phẩm tới tay người tiêu
dùng một cách nhanh nhất, hay nói cách khác lựa chọn các kênh phân phối
phù hợp để đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Một kênh phân phối
có thể được hiểu là một tập hợp có hệ thống các phần tử tham gia vào qua
trình chuyển đưa hàng hoá từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Kênh phân
phối bao gồm kênh phân phối trực tiếp, kênh phân phối gián tiếp và kênh
phân phối hỗn hợp.
- Kênh phân phối trực tiếp: trong dạng kênh này doanh nghiệp
không sử dụng người mua trung gian để phân phối hàng hoá. Lực lượng
bán hàng của doanh nghiệp chịu trách nhiệm trực tiếp bán hàng đến tận tay
người tiêu dùng sử dụng hàng hoá.
Hình thức tiêu thụ này có ưu điểm là giảm chi phí lưu thông, thời gian
sản phẩm tới tay người tiêu dùng nhanh hơn, các doanh nghiệp có điều
kiện tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng…song nó cũng có nhược điểm
là doanh nghiệp phải tiếp xúc với nhiều bạn hàng, phải dành nhiều công
sức, thời gian vào quá trình tiêu thụ, nhiều khi làm tốc độ chu chuyển của
Xác định vấn
đề v các mục
tiêu nghiên
Xây dựng
kế hoạch
nghiên
Thu thập
thông tin
Phân
tích
thông tin
Trình b y
các kết
quả thu
29
vốn lưu động chậm hơn.
- Kênh phân phối gián tiếp: là dạng kênh phân phối mà trong đó
doanh nghiệp bán hàng của mình cho người sử dụng thông qua các người
mua trung gian. Tuỳ từng trường hợp, khách hàng trực tiếp của doanh
nghiệp là nhà buôn hoặc bán lẻ, doanh nghiệp không trực tiếp bán hàng
cho người sử dụng sản phẩm. Sự tham gia nhiều hay ít của người trung
gian trong quá trình tiêu thụ sẽ làm cho kênh tiêu thụ gián tiếp dài ngắn
khác nhau.Với hình thức tiêu thụ này các doanh nghiệp có thể tiêu thụ
được khối lượng lớn hàng hoá trong thời gian ngắn nhất, từ đó thu hồi vốn
nhanh, tiết kiệm chi phí bảo quản hao hụt…Tuy nhiên hình thức tiêu thụ
này làm cho thời gian lưu thông hàng hoá dài hơn, tăng chi phí tiêu thụ và
doanh nghiệp khó có thể kiểm soát được các khâu trung gian…
- Kênh phân phối hỗn hợp: Đây là một phương án lựa chọn kênh
phân phối trên cơ sở sử dụng đồng thời cả hai dạng kênh phân phối trực
tiếp và gián tiếp. Doanh nghiệp vừa tổ chức bán hàng trực tiếp đến tận tay
người sử dụng vừa khai thác lợi thế trong hệ thống phân phối của người
mua trung gian.
Ngoài ra để thúc đẩy quá trình bán hàng, doanh nghiệp còn tiến hành
một loạt các hoạt động hỗ trợ như: Thông tin quảng cáo, tham gia hội chợ,
triển lãm, tổ chức hội nghị khách hàng, tham gia tổ chức liên kết kinh tế…
- Thiết kế hệ thống kênh phân phối : là quá trình kết hợp các
quyết định về địa điểm theo yếu tố địa lý và khách hàng để xác định và xây
dựng phương án kênh phân phối của doanh nghiệp. Để thiết kế hệ thống
kênh người ta cần thực hiện những nội dung sau:
Nghiên cứu phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn kênh
phân phối: Giới hạn địa lý của thị trường, các nhóm khách hàng trọng
điểm, lực lượng bán hàng của doanh nghiệp, các lực lượng trung gian trên
thị trường, các mục tiêu trọng điểm của doanh nghiệp.
Xác định mục tiêu và tiêu chuẩn của hệ thống kênh phân phối.
Các mục tiêu này được xác định trên cơ sở mục tiêu chung của doanh
nghiệp và các mục tiêu cụ thể về tiêu thụ. Mục tiêu của hệ thống kênh
được xác định theo các hướng cơ bản: Mức độ thoả mãn nhu cầu khách
hàng về thời gian, địa điểm và các dịch vụ bên cạnh sản phẩm hiện vật;
30
doanh số bán hàng tổng quát và cho từng nhóm sản phẩm, bán mối, duy trì
hay mở rộng doanh số; tăng cường khả năng chiếm lĩnh, kiểm soát thị
trường; giảm chi phí bán hàng hay điều chỉnh chi phí vận chuyển. Tuỳ theo
đặc điểm sản phẩm, đặc điểm kinh doanh và thị trường, doanh nghiệp có
thể lựa chọn mục tiêu cho thích hợp. Mục tiêu cụ thể có thể đựơc định
hướng theo các hướng trên để phân phối cho hợp lý.
Xác định dạng kênh và phương án kênh phân phối: Từ các dạng
kênh và khả năng thiết lập kết hợp với mục tiêu và tiêu chuẩn kênh đã
được xác định, doanh nghiệp có thể lựa chọn các dạng kênh sẽ sử dụng
trong kinh doanh. Để có thể lựa chọn chính xác các dạng kênh và thiết lập
hệ thống kênh phân phối, tốt nhất, nên xây dựng nhiều phương án khác
nhau làm cơ sở để phân tích và lựa chọn phương án tối ưu về kênh phân
phối.
Lựa chọn và phát triển các phần tử trong kênh phân phối.Các
phần tử trong kênh bao gồm: Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp; người
mua trung gian.Tuỳ theo dạng kênh phân phối trực tiếp hay gián tiếp mà
phần tử trong kênh có người trung gian hay không.
Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp: Trong bất kỳ dạng kênh
nào, lực lượng bán hàng của doanh nghiệp cũng đều đóng một vai trò rất
quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất hoạt động của kênh. Lực
lượng bán hàng của doanh nghiệp thường được xác định bao gồm: Lực
lượng bán hàng cơ hữu: bao gồm tất cả các thành viên trong doanh nghiệp
có trách nhiệm trực tiếp đến hoạt động bán hàng; Các đại lý bán hàng có
hợp đồng: bao gồm các cá nhân hay tổ chức độc lập không thuộc hệ thống
cơ hữu của doanh nghiệp nhận bán hàng cho doanh nghiệp để hưởng hoa
hồng đại lý theo các hợp đồng để ký kết giữa hai bên
Người mua trung gian trong kênh phân phối: bao gồm tất cả
những người mua hàng của doanh nghiệp để bán lại cho người khác nhằm
kiếm lời. Đó là các nhà buôn lớn, nhà buôn nhỏ, các đại lý mua đứt bán
đoạn, các nhà bán lẻ. Khi xây dựng kênh phân phối, doanh nghiệp phải tiến
hành nghiên cứu để đưa ra quyết định về vấn đề; Sử dụng dạng người mua
trung gian như thể nào? Lựa chọn người mua trung gian nào trong các
dạng người mua trung gian trên các phân đoạn thị trường cụ thể để đưa vào
31
kênh phân phối của mình.
Xác định dạng người mua trung gian: Xác định dạng người mua
trung gian trong hệ thống kênh phân phối liên quan đến dạng kênh phân
phối đã được lựa chọn của doanh nghiệp. Ở các dạng kênh khác nhau, dạng
người mua trung gian trong kênh sẽ khác nhau. Vấn đề đặt ra là phải cụ thể
hoá một cách chi tiết vị trí, nhiêm vụ của từng dạng người mua trung gian
trong hệ thống phân phối. Tương ứng với vai trò và nhiệm vụ của từng
dạng người mua trung gian trong kênh, doanh nghiệp có thể đưa ra các
chính sách khuyến khích, động viên và kiểm soát hoạt động của họ một
cách thích ứng nhằm đạt được mục đích xây dựng kênh và mục tiêu bán
hàng của mình.
Lựa chọn người mua trung gian cho kênh phân phối: Mỗi dạng
người mua trung gian bao gồm rất nhiều nhà kinh doanh (tổ chức) độc lập.
Đặc điểm của mỗi một tổ chức trung gian độc lập thường là rất khác nhau
về quy mô, tiềm lực uy tín trên thương trường, kinh nghiệm tổ chức và
quản lý
Điều chỉnh hệ thống kênh phân phối: Hệ thống kênh phân phối
không phải là bất biến. Các doanh nghiệp thường sử dụng hệ thống kênh
với các thành viên trong kênh như là một truyền thống và ít quan tâm đến
khả năng điều chỉnh kênh để đạt được hiệu quả cao hơn. Điều này có thể
ảnh hưởng đến khả năng phát triển bán hàng và hiệu quả mong đợi của
doanh nghiệp. Sau khi đã đưa các kênh phân phối vào hoạt động, cần đảm
bảo được khả năng kiểm soát hoạt dộng của kênh và thường xuyên phân
tích hiệu quả của từng kênh bán cũng như toàn bộ hệ thống. Đáng chú ý là
dạng kênh có thể ít thay đổi và mức độ đòi hỏi điều chỉnh không cao nếu
không có biến động lớn. Nhưng việc điều chỉnh thành viên kênh phân phối
luôn là việc làm cần thiết mà doanh nghiệp phải thực hiện nếu muốn thành
công trong phân phối.
D)Tổ chức thực hiện và điều khiển hoạt động tiêu thụ:
* Tổ chức hoạt động xúc tiến bán hàng:
Hoạt động xúc tiến nhằm tìm kiếm và thúc đẩy cơ hội bán hàng
trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Thực tế cho thấy, sản phẩm có hoàn
hảo thế nào đi chăng nữa nếu khách hàng không biết đến thì cũng khó mà
32
tiêu thụ được. Xúc tiến bán hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc chiếm
lĩnh thị trường và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thương
trường, nhờ đó quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được đẩy
mạnh. Hoạt động xúc tiến chủ yếu: quảng cáo, chào hàng, khuyến mãi,
tham gia hội chợ triển lãm…
- Quảng cáo có thể thông qua rất nhiều phương tiện, tuỳ thuộc vào
đặc điểm của sản phẩm và tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- Tham gia triển lãm và hội chợ thương mại: mục đích của triển lãm
và hội chợ thương mại là giới thiệu sản phẩm, ký kết các hợp đồng mua
bán, nghiên cứu thị trường, duy trì mối quan hệ với khách hàng…
- Tổ chức chào hàng: Chào hàng cũng là một hoạt động có vai trò
quan trọng giúp doanh nghiệp tìm kiếm khách hàng, thông qua chào hàng,
khách hàng có thêm thông tin về sản phẩm, hàng hoá. Khi tuyển chọn nhân
viên chào hàng cần chú ý đội ngũ này phải hiểu rõ tính năng sử dụng, đặc
điểm sản phẩm của doanh nghiệp mang đi chào hàng, dễ gây thiện cảm và
tín nhiệm cho khách hàng.
- Tổ chức bán thử: Hoạt động này không nhất thiết phải thực hiện
đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, sản phẩm nào. Thông qua bán thử, doanh
nghiệp dự đoán được quy mô nhu cầu, những phản ứng của khách hàng về
chất lượng, giá cả hàng hoá… Từ đó hoàn thiện hơn nữa những nhược
điểm về sản phẩm, giá cả và phương thức bán.
- Phát hành tài liệu liên quan đến tiêu thụ sản phẩm: song song với
việc quảng cáo các doanh nghiệp phải phát hành thêm những tài liệu phục
vụ cho tiêu thụ sản phẩm, đó là các loại cataloge, tờ quảng cáo, giới thiệu
bao bì, công dụng, hướng dẫn sử dụng và bảo quản sản phẩm, bảng giá.
* Tổ chức tiêu thụ
Toàn bộ công việc hoạt động trên nhằm mục đích lôi kéo khách
hàng đến mua sắm sản phẩm của doanh nghiệp.Vấn đề quan trọng đối với
doanh nghiệp là làm sao cho khách hàng mua sản phẩm của doanh nghiệp
không chỉ một lần mà mãi mãi. Do đó doanh nghiệp cần phải thực hiện các
công việc sau:
- Tổ chức tiêu thụ: là việc tổ chức ký kết hợp đồng, chuẩn bị hàng
hoá, phương tiện vận tải và giao hàng cho các kênh tiêu thụ (đại lý bán
33
buôn, bán lẻ) giao hàng đến tận tay người tiêu dùng.Với hình thức bán
hàng trực tiếp cần phải chú ý đến các kỹ thuật trưng bày, bố trí hàng hoá
tại nơi bán, quầy hàng, các kỹ thuật giao tiếp với khách hàng, các nghiệp
vụ thu tiền. Hoạt động bán hàng mang tính nghệ thuật cao, làm sao tác
động đến tâm lý người mua sao cho bán hàng được nhiều nhất.
- Tổ chức hội nghị khách hàng: doanh nghiệp phải thường xuyên tổ
chức hội nghị khách hàng, đặc biệt chú trọng tới khách hàng lớn, khách
hàng quan trọng. Mục đích của hội nghị khách hàng là thu lượm ý kiến của
khách hàng về sản phẩm, giá cả, dịch vụ của sản phẩm của doanh nghiệp
đồng thời phải gợi ý cho họ về ưu điểm của sản phẩm, những thiếu sót
trong quan hệ mua bán.
- Tham gia các hội nghị kinh doanh: Kinh doanh trong nền kinh tế
thị trường không thể xa rời đối tác, “Buôn có bạn, bán có phường” thông
qua hiệp hội doanh nghiệp không những có thể quảng cáo khuếch trương
sản phẩm và uy tín của chính mình mà còn bảo vệ được thị trường, bảo vệ
giá cả, chống lại sự độc quyền, giảm bớt cạnh tranh…
Song song với hoạt động xúc tiến bán hàng cần tổ chức các hoạt
động dịch vụ phục vụ khách hàng như chuổn bị nhân lực và phương tiện
vận tải và các phương tiện cần thiết khác tiến hành giao cho khách hàng
hàng hoá theo yêu cầu. Khi giao hàng phải bảo đảm giao đúng, đủ về số
lượng và chất lượng.
* Tổ chức theo dõi và điều khiển hoạt động tiêu thụ
Sau khi tiêu thụ, doanh nghiệp cần có những hoạt động theo dõi để
kiểm tra các thành viên trong kênh, giám sát hoạt động tiêu thụ nhằm bảo
đảm cho hoạt động này đạt kết quả. Đồng thời doanh nghiệp cần có các
dịch vụ sau bán hàng tăng uy tín trách nhiệm của doanh nghiệp, tạo sự tin
tưởng của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng và chỉ tiêu đánh giá thị trường tiêu thụ của doanh
nghiệp.
1.3.1 Nhân tố ảnh hưởng.
Mỗi doanh nghiệp khi tiến hành kinh doanh trên thị trường đều chịu
rất nhiều ảnh hưởng của các nhân tố xung quanh tác động. Sự thành công
34
trong hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp xuất hiện khi kết hợp hài hoà
các yếu tố bên ngoài và bên trong doanh nghiệp. Tuy từng cách phân loại
khác nhau mà ta có các yếu tố ảnh hưởng khác nhau, theo cách thông
thường có thể chia thành các nhân tố bên ngoài môi trường kinh doanh và
nhân tố thuộc tiềm lực doanh nghiệp.
A. Nhân tố ảnh hưởng thuộc môi trường kinh doanh:
Môi trường văn hoá xã hội, dân số, xu hướng vận động dân số
Yếu tố văn hoá xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh
cũng như sự hình thành đặc điểm thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp. Các
thị trường luôn bao gồm con người thực với số tiền mà họ sử dụng trong
việc thoả mãn nhu cầu của họ. Các thông tin về môi trường văn hoá - xã
hội cho phép doanh nghiệp hiểu biết ở những mức độ khác nhau (từ khái
quát đến cụ thể) về đối tượng phục vụ của mình. Qua đó, có thể đưa ra một
cách chính xác sản phẩm và cách thức phục vụ khách hàng.Các tiêu thức
được nghiên cứu khi phân tích môi trường văn hoá xã hội và ảnh hưởng
của nó đến thị trường của doanh nghiệp gồm:
- Dân số và xu hướng vận động
- Hộ gia đình và xu hướng vận động
- Sự di chuyển của dân cư
- Thu nhập của dân cư và xu hướng vận động; phân bố thu nhập giữa
các nhóm người và các vùng địa lý.
- Việc làm và vấn đề phát triển việc làm
- Dân tộc và các đặc điểm tâm sinh lí
Môi trường kinh tế và công nghệ:
Ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường kinh tế và công nghệ
đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là rất lớn. Các yếu tố thuộc
môi trường này quy định cách thức doanh nghiệp trong việc sử dụng tiềm
năng của mình và qua đó ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ. Môi trường
kinh tế và kĩ thuật công nghệ quyết định quy mô, cấu trúc thị trường của
doanh nghiệp. Thị trường của doanh nghiệp phải có quy mô và cấu trúc
phù hợp với môi trường kinh tế và công nghệ, nếu không nó sẽ tạo ra một
lực cản lớn làm giảm hiệu quả tiêu thụ và sự phát triển thị trường của
doanh nghiệp. Các yếu tố quan trọng có thể tác động đến thị trường của
35
doanh nghiệp gồm:
- Tiềm năng tăng trưởng nền kinh tế.
- Sự thay đổi về cơ cấu sản xuất và phân phối
- Tiềm năng kinh tế và sự gia tăng đầu tư.
- Lạm phát thất nghiệp, sự phát triển ngoại thương.
- Các chính sách tiền tệ tín dụng.
- Tiến bộ kĩ thuật của nến kinh tế và khả năng ứng dụng kĩ thuật
trong hoạt động kinh doanh.
- Chiến lược phát triển kĩ thuật công nghệ của nến kinh tế .
Môi trường chính trị luật pháp:
Các yếu tố thuộc lĩnh vực chính trị luật pháp chi phối mạnh mẽ đến
thị trường và công tác phát triển thị trường của doanh nghiệp. Sự ổn định
của môi trường luật pháp là một trong những tiền đề quan trọng cho sự
hình thành và phát triển thị trường của doanh nghiệp. Sự thay đổi điều kiện
chính trị có thể hoặc tạo thuận lợi hoặc có thể gây khó khăn trên thị trường
kinh doanh. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và thực thi pháp luật trong nền
kinh tế có ảnh hưởng lớn đến hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược
phát triển thị trường của doanh nghiệp. Các yếu tố cơ bản gồm có:
- Sự ổn định về chính trị, đường lối ngoại giao.
- Sự cân bằng các chính sách của nhà nước.
- Vai trò và các chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và chính phủ.
- Sự điều tiết và khuynh hướng can thiệp của chính phủ vào đời sống
kinh tế.
- Sự phát triển các quyết định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Hệ thống luật pháp, sự hoàn thiện và hiệu lực thi hành.
Môi trường cạnh tranh:
Cạnh tranh được xác định là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế thị trường với nghuyên tắc ai hoàn thiện hơn, thỏa mãn nhu cầu tốt
hơn người đó sẽ chiến thắng, tồn tại và phát triển. Gắn với sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp kinh doanh là sự tồn tại và phát triển của thị
trường. Trong một thị trường chung doanh nghiệp cố gắng dành được một
thị trường riêng. Sự thành công hay thất bại trong cạnh tranh quyết định sự
36
hình thành thị trường của doanh nghiệp. Môi trường cạnh tranh ngày càng
gay gắt thì hoạt động kinh doanh trên thị trường càng gặp khó khăn và hiệu
quả của công tác phát triển thị trường cũng bị ảnh hưởng. Mối quan hệ
giữa môi trường cạnh tranh và phát triển thị truờng của doanh nghiệp phụ
thuộc vào phương hướng và tiềm lực của doanh nghiệp, môi trường cạnh
tranh có thể thúc đẩy doanh nghiệp tiến hành phát triển thị trường một cách
tích cực hoặc triệt tiêu thị trường của doanh nghiệp .
Môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng:
Tham gia vào quá trình xác định cơ hội kinh doanh và khả năng khai
thác, phát triển thị trường còn có các yếu tố thuộc tự nhiên địa lí, sinh thái.
Trước hết, khi nói đến thị trường, người ta thường nói đến một vị trí địa lí
nhất định, vị trí địa lí là một trong những tiêu thức quan trọng đầu tiên xác
định thị trường của doanh nghiệp. Doanh nghiệp xác định địa điểm phù
hợp để khai thác tức là có thể có một thị trường tốt để khai thác và ngược
lại, địa điểm là một trong những tiêu thức đánh giá hiệu quả phát triển thị
trường thông qua khoảng cách thị trường với nhóm khách hàng, thị trường
với nguồn cung ứng hàng hoá lao động…Các yếu tố của môi trường sinh
thái như khí hậu, thời tiết, tính chất mùa vụ, cân bằng sinh thái, ô nhiễm
môi trường ảnh hưởng đến các chu kỳ sản xuất tiêu dùng trong khu vực,
đến nhu cầu về các loại sản phẩm được tiêu dùng của khách hàng dẫn đến
ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp.
B. Nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp
Thị trường và khả năng phát triển thị trường của doanh nghiệp luôn
phụ thuộc chặt chẽ vào các yếu tố phản ánh tiềm lực của một doanh nghiệp
cụ thể. Một thị trường có thể phù hợp để phát triển với doanh nghiệp này
nhưng lại không thể áp dụng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
khác, tất cả đều phải xuất phát từ nội lực doanh nghiệp quyết định
Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp:
Bao gồm vốn chủ sở hữu, vốn huy động, giá cổ phiếu trên thị
trường, tỷ lệ khả năng sinh lợi…có ảnh hưởng quyết định đến quy mô và
cơ cấu của thị trường doanh nghiệp, quy mô lớn hay nhỏ, cơ cấu thị trường
đơn giản hay phức tạp đều phụ thuộc vào khả năng tài chính của doanh
nghiệp.
37
Tiềm năng con người:
Con người là nhân tố duy nhất thực hiện mọi hoạt động trong doanh
nghiệp, đưa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp xuất hiện và phát triển
trên thị trường. Con người có tri thức, khả năng thực hiện các công việc từ
đơn giản đến phức tạp, các công việc trong hoạt động kinh doanh, nghiên
cứu khai thác và phát triển thị trường của doanh nghiệp. Đánh giá và phát
triển tiềm năng con người trở thành nhiệm vụ ưu tiên mang tính chiến lược
trong kinh doanh, doanh nghiệp trong quá trình hoạt động của mình phải
quan tâm đến các yếu tố quan trọng liên quan đến tiềm lực con người như
lực lượng lao động có năng xuất, có khả năng phân tích, sáng tạo và chiến
lược con người cùng với vấn đề phát triển nguồn nhân lực.
Sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp:
Trên thương trường, uy tín của doanh nghiệp là một trong những
điều kiện tiên phong giúp doanh nghiệp tồn tại. Các doanh nghiệp luôn cố
gắng xây dựng tạo nên chữ tín tốt đối với khách hàng và bạn hàng. Với chữ
tín tốt đẹp về doanh nghiệp, về sản phẩm của doanh nghiệp thì người tiêu
dùng sẽ đón nhận sản phẩm và góp phần tạo nên ưu thế nhất định cho
doanh nghiệp. Vì sản phẩm là đối tượng được trực tiếp tiêu dùng, được
đánh giá về chất lượng, mẫu mã nên nó là nhân tố quyết định khiến người
tiêu dùng lựa chọn sản phẩm. Ngày nay, người tiêu dùng quan tâm đến
chất lượng hàng hoá và một xu thế tất yếu là họ sẽ ưa chuộng những sản
phẩm “đồ hiệu”, nghĩa là sản phẩm từ các doanh nghiệp có uy tín, nổi
tiếng. Sản phẩm có chất lượng cao và giá hợp lý sẽ là lợi thế cạnh tranh vô
cùng lớn. Do đó với chính sách giá phù hợp doanh nghiệp sẽ có được tiềm
năng để duy trì và tiếp tục chiếm lĩnh phần thị trường mới.
1.3.2 Chỉ tiêu đánh giá:
a) Chỉ tiêu định lượng:
Chỉ tiêu Công thức
1.Doanh số
tiêu thụ(Q)
Q = Qi x Pi
Qi : Khối lượng sản phẩm i tiêu thụ
Pi : Đơn giá sản phẩm i được tiêu thụ.
2. Chỉ tiêu
đánh giá tốc
C t +1
K = ------------ x 100 %
38
độ tiêu thụ
sản
phẩm.(K)
C t
K : Tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
C t: Doanh thu tiêu thụ năm trước.
C t+ 1:Doanh thu tiêu thụ năm sau.
K<100% năm nay kém hơn năm trước và tốc độ tiêu thụ
giảm
K=100% tốc độ tiêu thụkhông thay đổi, doanh nghiệp tăng
trưởng chưa đều.
K>100% tốc độ tiêu thụ năm nay lớn hơn năm trước, doanh
nghiệp có chiều hướng tăng trưởng.
3.Chỉ tiêu
đánh giá mức
độ tiêu thụ
hàng năm của
doanh nghiệp
(H)
Số sản phẩm tiêu thụ
H = --------------------------------
Số sản phẩm sản xuất
H 1 Chứng tỏ hoạt động tiêu thụ đạt hiệu quả.
4. Tỷ lệ hoàn
thành kế
hoạch tiêu
thụ
(T )
- Xét về mặt hiện vật
Qt1
T = ----------------
Qt0
Qt1: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ từng loại kỳ thực hiện.
Qt0: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ từng loại kỳ kế hoạch.
- Xét về mặt giá trị:
Doanh thu tiêu thụ thực hiện
T = -------------------------------------------
Doanh thu tiêu thụ kế hoạch
5. Tốc độ
tăng kim
ngạch xuất
khẩu.(X)
N t+1
X = -------------- x 100%
N t
N t : Tổng kim ngạch xuất khẩu năm trước.
N t+1: Tổng kim ngạch xuất khẩu năm sau.
6. Thị phần
của doanh
nghiệp
- Thị phần tuyệt đối là tỷ lệ phần doanh thu của doanh nghiệp
so với toàn bộ sản phẩm cùng loại được tiêu thụ trên thị
trường(F).
- Thị phần tương đối được xác định trên cơ sở thị phần tuyệt
đối của doanh nghiệp so với thị phần tuyệt đối của đối thủ
cạnh tranh
Doanh số bán ra của doanh nghiệp
F = ------------------------------------------------ x100%
Tổng doanh số bán ra của toàn ngành
39
b) Chỉ tiêu định tính:
- Sự nổi tiếng của nhãn hiệu sản phẩm trên thị trường:
Doanh nghiệp có thể thông qua các cuộc phỏng vấn khách hàng, các
cuộc thăm dò dư luận khách hàng, các cuộc bình chọn sản phẩm…để xác
định uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, sự nổi tiếng nhãn hiệu hàng
hoá của doanh nghiệp mình. Đó cũng là một cách để đánh giá hoạt động
tiêu thụ của doanh nghiệp.
a) Mức độ nổi tiếng của tên công ty trên thị trường:
Chỉ tiêu này được đánh giá qua kết quả nghiên cứu thị trường, qua các cuộc
phỏng vấn khách hàng trong các chiến dịch marketing quảng cáo sản phẩm.
Chương II
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM
CỦA CÔNG TY GIẦY THƯỢNG ĐÌNH
2.1 Giới thiệu khái quát về công ty giầy Thượng Đình
2.1.1 Khái quát chung của công ty
- Tên: Công ty Giầy Thượng Đình
- Địa chỉ: 227-Km8-Nguyễn Trãi-Thanh Xuân-Hà Nội
- Điện thoại: (84-4) 8541346, 5582240, 8544312
- Website:
- Email: tdfootwear@fpt.vn
- Loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp Nhà nước.
- Cơ quan cấp trên trực tiếp: Sở Công nghiệp Hà nội.
- Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh: sản xuất giầy vải, giầy thể thao, dép
Sandal phục vụ cho mục đích chính là xuất khẩu và tiêu thụ trong nước.
* Hoàn cảnh ra đời
40
Xí nghiệp X30-tiền thân của công ty giầy Thượng Đình - chịu sự quản
lý của Cục Quân nhu Tổng cục Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, có
nhiệm vụ sản xuất mũ cứng, giầy vải
Mục tiêu hiện tại của Công ty với nhiệm vụ trong buổi đầu thành lập
có sự khác nhau rất rõ: Xí nghiệp X30 ra đời trong hoàn cảnh đất nước có
chiến tranh và hoạt động của Xí nghiệp là phục vụ cho cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, còn Công ty Giầy Thượng Đình ngày
nay hoạt động theo cơ chế thị trường lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh là
mục tiêu hàng đầu.Tuy có sự khác nhau như vậy nhưng giầy vải vẫn là sản
phẩm truyền thống của Công ty.
* Lịch sử hình thành
Giai đoạn 1957 - 1960 :
- Về tổ chức quản lý:
+ Chịu sự quản lý của Cục Quân nhu Tổng cục Hậu cần Quân đội nhân
dân Việt Nam.
+ Ban giám đốc và công nhân đều xuất thân từ quân đội, các kiến thức về
quản lý chưa được trang bị đầy đủ, trong hoàn cảnh chiến tranh thiếu thốn
về nguyên liệu, lao động có tay nghề, máy móc thiết bị.., hoạt động của Xí
nghiệp còn mang tính tự phát. Tuy nhiên, nhờ lòng nhiệt tình, tất cả vì miền
Nam ruột thịt, Xí nghiệp vẫn hoàn thành nhiệm vụ được giao và hoạt động
quản lý dần dần đi vào quy củ.
b) Về nhiệm vụ sản xuất kinh doanh:
Sản xuất mũ cứng và giầy vải cung cấp cho bộ đội. Kết quả sản xuất
của thời kỳ đầu: năm 1957 và 1958 tổng số mũ các loại gần 50.000
chiếc/năm. Năm 1960 lên đến hơn 60.000 chiếc/năm và cùng năm sản lượng
giầy vải ngắn cổ đạt trên 200.000 đôi. Với những thành tích này, năm 1960,
xí nghiệp được chính phủ tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba và
vinh dự đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng chỉ huy Quân đội về thăm.
Giai đoạn 1961 - 1972
- Về tổ chức quản lý:
+ 2-1961, Xí nghiệp X30 chính thức chuyển giao từ Cục Quân nhu,
Tổng Cục Hậu cần sang Cục Công nghiệp, Thành phố Hà nội.
41
+ 6-1965, Xí nghiệp X30 tiếp nhận một đơn vị công tư hợp doanh
sản xuất giầy dép là Liên xưởng kiến thiết giầy vải ở phố Trần Phú và phố
Kỳ Đồng và đổi tên thành Nhà máy cao su Thuỵ Khuê
+ 1970, sáp nhập thêm Xí nghiệp giầy vải Hà nội cũ và đổi tên thành
Xí nghiệp giầy vải Hà nội. Như vậy, sự thay đổi về mặt tổ chức quản lý phù
hợp với xu hướng lúc đó là tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư
doanh, chuyển các cơ sở sản xuất tư bản tư doanh sang Xí nghiệp công tư
hợp doanh hoặc Xí nghiệp quốc doanh.
+ Trong giai đoạn này nhiều lần Xí nghiệp phải phân tán đi nhiều nơi
để tránh bom đạn tàn phá của kẻ thù. Sự không ổn định về địa điểm sản xuất
gây nhiều khó khăn cho hoạt động quản lý của Xí nghiệp. Các cán bộ của Xí
nghiệp, vừa lao động, chiến đấu, vừa thu xếp công việc gia đình, nhưng với
lòng quyết tâm cao, họ vẫn khắc phục mọi khó khăn hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao.
- Về nhiệm vụ sản xuất kinh doanh:
+ Cung cấp giầy vải, mũ cứng cho bộ đội.
+ Góp phần xây dựng nền công nghiệp còn non trẻ của thành phố
(đánh dấu bằng việc chuyển chủ thể quản lý từ Cục Quân nhu sang Cục
Công nghiệp thành phố Hà Nội).
+ Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh không chỉ giới hạn trong nước mà đã
có những sản phẩm xuất sang Liên Xô và các nước Đông Âu (giầy Basket)
nhờ mở rộng quy mô và đa dạng hoá sản phẩm.
Giai đoạn 1973-1989
c) Về tổ chức quản lý:
Giai đoạn này đánh dấu sự xuất hiện nhiều đơn vị mới tách ra từ Xí
nghiệp giầy vải Hà Nội:
+ Ngày 1-4-1973: Phân xưởng mũ cứng của Xí nghiệp tách ra thành
lập Xí nghiệp mũ Hà nội.
42
+ Năm 1976: Giao phân xưởng may ở Khâm Thiên để UBND Thành
phố Hà nội thành lập trường dạy cắt may Khâm Thiên. Cùng năm đó, Hội
Đồng Nhà thờ Thế giới đã viện trợ 2 triệu USD cho việc xây dựng một nhà
máy sản xuất giầy vải, một dây chuyền sản xuất giầy vải công nghiệp đầu
tiên được lắp đặt tại Thượng Đình cũ.
+Tháng 6-1978: Xí nghiệp giầy vải Hà nội hợp nhất với Xí nghiệp
giầy vải Thượng Đình cũ và lấy tên là Xí nghiệp giầy vải Thượng Đình nằm
trong Khu công nghiệp Thượng Đình.
+ Tháng 4-1989, theo yêu cầu phát triển của ngành giầy, Xí nghiệp
đã tách cơ sở 152 Thuỵ Khuê để thành lập Xí nghiệp giầy Thuỵ Khuê. Mặc
dù quy mô và cơ cấu tổ chức của Xí nghiệp luôn luôn biến động nhưng Xí
nghiệp luôn chịu sự quản lý trực tiếp của Sở Công nghiệp Hà nội.
d) Về nhiệm vụ sản xuất kinh doanh:
Trang bị giầy vải, mũ cứng cho quân đội. Đáp ứng nhu cầu trong nước và
xuất khẩu sang Liên Xô và các nước XHCN (giầy Basket, X314, X330). Đa
dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm theo khẩu hiệu: “ chất lượng là
sống còn”
Giai đoạn 1990-2002
- Về tổ chức quản lý:
+ Những giai đoạn trước đây, Xí nghiệp chịu sự chỉ đạo kế hoạch tập
trung của Nhà nước thông qua cơ quan cấp trên trực tiếp là Sở Công nghiệp
Hà Nội. Sau Đại hôi Đảng VI, cơ chế kế hoạch hoá tập trung được xoá bỏ
thay vào đó là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Hình thức tổ
chức quản lý thay đổi một cách căn bản, vai trò tự chủ, độc lập trong sản
xuất kinh doanh được nâng cao.
+ Ngày 8/7/1993, theo quyết định số 2556/QĐUB của Chủ tịch
UBND Thành phố, phạm vi chức năng của Công ty được mở rộng: Xí
nghiệp trực tiếp xuất khẩu và kinh doanh giầy dép các loại cũng như nguyên
vật liệu, máy móc thiết bị phục vụ cho nó, cũng theo quyết định này, Xí
nghiệp đổi tên thành Công ty Giầy Thượng Đình.
43
+ Cải tiến liên tục thiết bị máy móc, mở các lớp đào tạo nâng cao tay
nghề cho cán bộ công nhân, xây dựng phong trào tự quản nhằm nâng cao
tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật của công nhân, tổ chức quản lý theo
tiêu chuẩn ISO 9000-9001.
-Về nhiệm vụ sản xuất kinh doanh:
+ Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, Xí nghiệp gặp rất nhiều
khó khăn do mất thị trường xuất khẩu chính. Nhưng Xí nghiệp vẫn xác định
mục tiêu là phải có thị trường xuất khẩu, Xí nghiệp đã chuyển hướng thị
trường xuất khẩu sang các nước thuộc EU và Mỹ và đã đạt được một số
thành công bước đầu.
+ Chiếm lĩnh thị trường trong nước.
+ Nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm thoả mãn tối đa nhu cầu
khách hàng.
2.1.2.Cơ cấu tổ chức
Bộ máy tổ chức (quản lý):
* Sơ đồ bộ máy tổ chức (trang bên)
-------------------------------------------------------------------------------------------
--------
H Ngọc Quý - Thương Mại 41A
44
-------------------------------------------------------------------------------------------
--------
H Ngọc Quý - Thương Mại 41A
45
Bộ máy tổ chức quản lý của Công ty được phân thành hai cấp quản lý:
- Cấp quản lý doanh nghiệp
- Cấp quản lý phân xưởng
- Giám đốc là người đứng đầu Công ty, đại diện cho Nhà nước và
công nhân viên quản lý toàn bộ mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của
Công ty, có quyền quyết định mọi hoạt động của Công ty theo đúng kế
hoạch và chính sách pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết của Đại hội
công nhân viên chức.
- Giám đốc trực tiếp xây dựng định mức và chất lượng sản phẩm, coi
đó là căn cứ cơ bản để thực hiện chế độ lương, thưởng.
- Giám đốc phải chịu mọi trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh
doanh của Công ty trước Nhà nước và tập thể Công ty.
- Giúp việc cho Giám đốc là 2 trợ lý Giám đốc và 4 Phó Giám đốc ,
bao gồm : Phó Giám đốc Kỹ thuật, công nghệ và chất lượng; Phó
Giám đốc Sản xuất ; Phó Giám đốc Xuất nhập khẩu; Phó Giám đốc vệ
sinh môi trường và an toàn lao động. Các giám đốc đảm nhiệm các mảng
công việc theo đúng tên gọi chức danh.
* Chức năng và nhiệm vụ : Nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là sản xuất,
kinh doanh, xuất nhập khẩu giầy dép, phụ liệu, thiết bị da giầy và dịch vụ
du lịch. Năng lực sản xuất đạt từ 3 - 4 triệu đôi các loại.
* Trong cơ cấu tổ chức của công ty có 12 phòng ban và 7 phân xưởng.
Phòng Hành chính - Tổ chức (HC - TC)
- Thực hiện việc bố trí, sắp xếp, điều động lao động trong Công ty,
tuyển dụng và đào tạo lao động, công tác tiền lương, chế độ chính sách đối
với người lao động.
- Thực hiện tổ chức các hội nghị, phong trào thi đua, đón tiếp khách
của công ty và các thủ tục hành chính khác. Đặc biệt phòng còn quản lý bộ
phận ISO như hướng dẫn và giám sát chất lượng sản phẩm...
Phòng Kế toán - Tài chính (KT - TC)
Quản lý toàn bộ vốn và tài sản của công ty, đưa ra các quyết định
đầu tư, hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong kỳ. Bộ máy kế toán
-------------------------------------------------------------------------------------------
--------
H Ngọc Quý - Thương Mại 41A
46
được tổ chức theo hình thức kế toán tập trung, hạch toán độc lập theo
phương pháp kê khai thường xuyên, ghi sổ kế toán theo hình thức: Nhật
ký. Chứng từ, hạch toán thuế giá trị gia tăng (VAT) theo phương pháp
khấu trừ (đầu ra - đầu vào)
Phòng tiêu thụ
Phụ trách việc bốc dỡ, lưu kho vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm phục
vụ thị trường nội địa.
Phòng kinh doanh - xuất nhập khẩu (XNK)
Có nhiệm vụ thu thập thông tin thị trường, giao dịch và tìm kiếm các
đối tác nước ngoài để ký kết các hợp đồng sản xuất và tiêu thụ giầy xuất
khẩu.
Phòng chế thử mẫu (CTM)
Chịu trách nhiệm về việc thiết kế, chế thử mẫu, đảm bảo việc thực
hiện kỹ thuật sản xuất theo đúng quy trình công nghệ.
Phòng Kế hoạch - vật tư (KH-VT):
Lập kế hoạch sản xuất, lập định mức vật tư, khai thác các nguồn cung
ứng và thu mua vật tư phục vụ sản xuất theo đúng tiến độ.
Phòng quản lý chất lượng (QC)
Quản lý và chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của công ty,
thường xuyên theo sát từng công đoạn sản xuất và kiểm tra chất lượng của
sản phẩm trước khi đem ra thị trường tiêu thụ.
Phòng kỹ thuật công nghệ (KT-CN)
Đưa ra quy trình công nghệ (các bước công việc) trong quá trình sản
xuất. Định mức nguyên vật liệu và kiểm tra. Theo dõi, kiểm soát và đo
lường sản phẩm nếu có khuyết tật thì phải có hành động phòng ngừa và khắc
phục.
Phòng sản xuất - gia công (SX - GC)
Tổ chức và quản lý gia công thành phẩm và bán thành phẩm tại các
đơn vị. Tổ chức quá trình sản xuất, chất lượng, xác nhận mẫu, phân tích dữ
liệu và đề xuất cải tiến.
-------------------------------------------------------------------------------------------
--------
H Ngọc Quý - Thương Mại 41A
47
Các phòng ban khác
Trạm y tế thường xuyên kiểm tra, khám sức khoẻ định kỳ cho người
lao động. Phòng bảo vệ đảm bảo an ninh trật tự cho mọi hoạt động diễn ra
trong công ty. Ban vệ sinh lao động thực hiện nhiệm vụ kiểm tra giám sát vệ
sinh an toàn lao động.
Xưởng cơ năng
Có nhiệm vụ sửa chữa kịp thời các máy móc, thiết bị sản xuất bị hỏng
hóc nhằm phục vụ cho việc sản xuất diễn ra đúng với tiến độ đã định.
2.2 Đặc điểm chung về hoạt động kinh doanh của công ty ảnh
hưởng đến phát triển thị trường.
2.2.1 Sản phẩm kinh doanh
Sản phẩm chính là giầy vải, giầy thể thao, dép Sandal, phục vụ nhu
cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Đây là các sản phẩm truyền thống
của Công ty. Ngoài ra Công ty có các sản phẩm khác ví dụ như: Giầy GTS,
Supega, Black, AVIA, Allstar, Nike, giầy 98 - 01 tới 03, giầy Footech
9709 - 9716...
Cơ cấu sản phẩm của công ty được chia thành 2 loại căn cứ vào
phạm vi mặt hàng sản xuất, đó là sản phẩm giầy nội địa sản xuất ngoài đơn
đặt hàng, phụ thuộc vào nhu cầu thị trường và sản phẩm giầy xuất khẩu sản
xuất theo đơn đặt hàng của khách nước ngoài. Tỷ lệ sản phẩm sản xuất
phục vụ tiêu thụ trên thị trường nội địa của công ty năm 1998 chiếm 60%
tổng số sản phẩm sản xuất ra, năm 1999 chiếm 73% gồm các loại giầy vải
như giầy ba ta, giầy bộ đội, giầy basket, giầy thể thao... Mặt hàng giầy thể
thao chiếm 70% cơ cấu hàng xuất khẩu của công ty, với nhiều kiểu mẫu
khác nhau, 30% còn lại là các loại giầy vải cao cấp, giầy thể dục nhịp
điệu... Mỗi loại giầy nội địa được ký hiệu bằng một mã riêng như: BK, ED,
96-01, 99-02... giầy xuất khẩu được gọi tên theo tên của khách hàng như
giầy Foottech, Golden Steps, Novi, Melcosa...
Giá thành công xưởng của mỗi chủng loại sản phẩm được xây dựng
bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi
phí sản xuất chung (theo phân bổ).
-------------------------------------------------------------------------------------------
--------
H Ngọc Quý - Thương Mại 41A
48
Ngày nay khi mà nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng
được nâng cao thì việc đa dạng hoá mẫu mã, chủng loại và chất lượng sản
phẩm cần phải được quan tâm đến như một yêu cầu tất yếu, một vấn đề sống
còn quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty.
Nguyên vật liệu(chủng loại và nguồn nhập)
Nguyên vật liệu sử dụng để sản xuất được nhập về theo từng mã sản
phẩm hoặc từng đơn hàng gồm có các loại: vải, mút, keo, cao su, hoá chất,
chất phụ gia, bao bì... Chi phí nguyên vật liệu chiếm khoảng 70% giá thành
sản phẩm. Nguyên vật liệu được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau trong
đó 80% là thu mua trong nước; 20% còn lại chủ yếu được mua để sản xuất
hàng xuất khẩu, đó là các chi tiết trang trí giầy cao cấp, đinh khoá chất
lượng cao, các loại vải đặc chủng...Phần lớn những nguyên liệu nhập khẩu
đó trong nước chưa sản xuất được hoặc đã sản xuất nhưng chất lượng không
đáp ứng được yêu cầu cao của sản phẩm. Nguồn trong nước khai thác chủ
yếu là từ các bạn hàng sau:
- Vải các loại: Công ty dệt vải công nghiệp, công ty dệt 8/3, dệt Vĩnh Phú,
công ty dệt nhuộm 19/5
- Chỉ may, chỉ thêu: Công ty liên doanh COAST-TOTAL Phong Phú
- Cao su hoá chất: Công ty vật tư công nghiệp, các Công ty cao su Đắc
Lắc, Gia Lai-Kon Tum, Công ty hoá chất Đức Giang...
Còn lại chủ yếu là những NVL mà trong nước chưa sản xuất được
hoặc bên đặt hàng tự cung cấp. Cao su hoàn toàn do thị trường trong nước
cung cấp, vải có nhập nhưng không đáng kể. Do đặc điểm là sản xuất theo
từng đơn hàng nên việc cung cấp NVL phải phù hợp với từng đơn hàng,
điều đó làm cho NVL đa dạng và phong phú hơn. Song Công ty đã thực
hiện khai thác triệt để nguồn vật liệu trong nước nhằm giảm chi phí sản
xuất, tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường.
2. 2. 2. Đặc điểm về lao động:
Cơ cấu lao động : Tổng số lao động hiện nay : 2052 người
- Hợp đồng : + Lao động hợp đồng dài hạn : 1020 người
+ Lao động hợp đồng có thời hạn: 1032 người
- Chuyên môn : + Lao động chuyên môn kỹ thuật : 300 người
-------------------------------------------------------------------------------------------
--------
H Ngọc Quý - Thương Mại 41A
49
+ Lao động phổ thông :1752 người
-------------------------------------------------------------------------------------------
--------
H Ngọc Quý - Thương Mại 41A
50
Bảng 1: Cơ cấu lao động theo trình độ Đơn vị: người
Trình độ Số lượng Tỉ lệ(%)
Đại học 149 7.26
Trên đại học 20 0.97
Cao đẳng và trung cấp 24 1.67
Dưới trung cấp 1859 90.59
Tổng 2052 100
Nguồn : Báo cáo tình hình lao động hàng năm
Bảng 2: Cơ cấu lao động theo bậc thợ Đơn vị: người
Bậc 1 2 3 4 5 6 7 Tổng
Số lượng 50 252 567 620 303 39 15 1752
% 2.85 14.38 32.36 35.39 17.29 2.23 0.86 100
Nguồn : Báo cáo tình hình lao động hàng năm
Nhận xét sơ bộ:
- Cơ cấu nghề nghiệp khá hợp lý theo hướng tinh giản bộ máy quản
lý, giúp cho công tác quản lý gọn nhẹ, năng động.
- Số lượng cán bộ có trình độ đại học và trên đại học còn tương đối
ít, trong thời gian tới Công ty cần có phương án nâng cao trình độ của cán
bộ nhân viên đặc biệt là cán bộ quản lý.
- Lực lượng lao động của Công ty có trình độ chuyên môn tương
đối thấp, chủ yếu là lao động phổ thông, sở dĩ như vậy là do nhiều giai đoạn
sản xuất không thể tự động hoá.
- Số thợ bậc cao (6-7) tương đối ít, công ty cần có chương trình
tuyển dụng đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân.
Giáo dục, đào tạo và phát triển người lao động
- Tất cả các nhân viên của công ty đều có cơ hội được đào tạo nâng
cao trình độ và tay nghề hàng năm.
- Công ty căn cứ vào chiến lược phát triển dài hạn và kế hoạch sản
xuất kinh doanh để làm cơ sở xác định nhu cầu đào tạo.
- Các hình thức giáo dục, đào tạo và phát triển người lao động:
+ Đào tạo qua các trường lớp trong và ngoài nước
-------------------------------------------------------------------------------------------
--------
H Ngọc Quý - Thương Mại 41A
51
+ Đào tạo tại chỗ
+ Đào tạo lại, đào tạo nâng cao trình độ nghề nghiệp trong nội bộ công ty.
+ Đào tạo thông qua hội thảo, tham quan.
+ Mở các lớp đào tạo ngắn ngày cho các chuyên ngành.
- Các lĩnh vực đào tạo:
+ Lĩnh vực quản lý
+ Lĩnh vực kỹ thuật công nghệ
+ Các lĩnh vực khác
Môi trường và điều kiện lao động
Tính chất công việc của người công nhân, về cơ bản không ở mức
nặng nhọc nhưng đòi hỏi phải qua đào tạo và cần tính kiên nhẫn, cẩn thận,
và độ khéo léo nhất định, điều này phụ thuộc rất lớn vào tâm lý của người
lao động. Công ty đã cố gắng tạo môi trường làm việc thuận lợi cho người
lao động về vật chất và tinh thần, giúp cho họ yên tâm, hăng hái hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao
- Về vật chất:
Hội đồng thi đua mỗi tháng họp một lần để đánh giá, tuyên dương
các tập thể, cá nhân có nhiều thành tích. Tổ chức các hoạt động phục vụ
bữa ăn giữa ca cho công nhân, bán các nhu yếu phẩm phục vụ CBCNV.
Chia sẻ với người lao động mỗi khi gia đình họ có sự kiện trọng đại (kết
hôn, sinh con, tang lễ...). Trả lương, phụ cấp, trợ cấp kịp thời và thoả đáng
cho người lao động.
- Về tinh thần:
Tổ chức một Trạm Y Tế chuyên lo chăm sóc sức khoẻ cho ngưòi
lao động theo chế độ Bảo hiểm y tế. Tổ chức các hội diễn văn nghệ, hội
khoẻ phù đổng, tham gia các hoạt động thể thao do quận, ngành, thành phố
tổ chức. Xây dựng nhà nghỉ mát tại Sầm Sơn để tổ chức cho CBCNV đi du
lịch nghỉ mát....
2.2.3. Đặc trưng về kỹ thuật công nghệ và nguồn lực
Về quy trình công nghệ sản xuất: Các quá trình sản xuất sản phẩm
được liên kết chặt chẽ với nhau và có 6 quá trình: Bồi, cắt, may, cán, gò, bao
gói. Đầu ra của quá trình trước là đầu vào của quá trình sau và được thực
-------------------------------------------------------------------------------------------
--------
H Ngọc Quý - Thương Mại 41A
52
hiện theo hai công nghệ: Công nghệ sản xuất giầy vải và công nghệ sản
xuất giầy thể thao. Tất cả các công đoạn đều rất quan trọng, trong quá trình
sản xuất, tại mỗi công đoạn đều có mẫu mã đối xứng để nhân viên QC (quản
lý chất lượng) tại bộ phận đó đối chiếu kiểm tra nghiệm thu. Một yêu cầu
luôn được đặt ra trong quá trình sản xuất là sai hỏng phải được phát hiện và
kịp thời ngăn chặn. Trong quá trình sản xuất từ giai đoạn gò đến giai đoạn
lưu hoá giầy có vai trò cực kỳ quan trọng, có ảnh hưởng đến tỷ lệ sản phẩm
hỏng vì nếu hỏng ở giai đoạn này không được phát hiện sớm thì đến cuối
giai đoạn chúng không có khả năng sửa chữa.
Trong tổ chức sản xuất, nhà máy bố trí 2 xưởng sản xuất giầy vải và
giầy thể thao, mỗi xưởng lại chia thành nhiều phân xưởng phù hợp với quy
trình công nghệ nêu trên(xem sơ đồ quy trình công nghệ).
Phòng KH-VT, phòng XNK, phòng QC hoạch định yêu cầu cần đạt
được của sản phẩm, các phòng SX-GC, KT-CN trực tiếp chỉ đạo quá trình
sản xuất, phòng XNK, phòng Tiêu thụ, phòng Kế toán đảm nhận xử lý sản
phẩm đầu ra. Các phòng có mối quan hệ hỗ trợ chặt chẽ với nhau trong quá
trình chỉ đạo sản xuất. Sơ đồ công nghệ sản xuất chính của công ty:(trang
bên)
-------------------------------------------------------------------------------------------
--------
H Ngọc Quý - Thương Mại 41A
53
-------------------------------------------------------------------------------------------
--------
H Ngọc Quý - Thương Mại 41A
54
Công nghệ sản xuất giầy vải Công nghệ sản xuất giầy thể thao
PX Gò
GV
PX May TT
PX Bồi
tráng
Yêu cầu
của sản
Quá trình Bồi
Quá trình Cắt
Quá trình
May
Quá trình Gò-
lưu hoá
Bao gói
Quá
trình
cán
Sản phẩm
thoả mãn
PX Cắt
GV
Kho
Kho
Kho
Kho
Yêu cầu
của sản
Quá trình Bồi
Quá trình Cắt
Quá trình
May
Quá trình Gò-
sản xuất đế
Bao gói
Sản phẩm
thoả mãn
khách h ng
PX Bồi tráng
PX Cắt TT
PX May TT
PX Gò TT
Kho
Kho
Kho
Kho
-------------------------------------------------------------------------------------------
--------
H Ngọc Quý - Thương Mại 41A
55
Bảng 3 : Danh mục một số thiết bị quan trọng
TT Tên thiết bị SL
Nguồn
sản xuất
Năm
SX
Năm
trang bị
CL còn
lại
Ghi chú
1 Dây chuyền sản xuất
giầy chuyên dụng
1 Đài Loan 1991 1992 -
2 Dây chuyền SX giầy
TT
2 Hàn Quốc 1996 1997 1 triệu
đôi/năm
3 Dây chuyền SX giầy
vải
3 Đài Loan 1991 1992 4 triệu
đôi/năm
4 Máy cắt dập thuỷ lực 35 Hàn
Quốc,Đài
Loan
- - - 5 máy
mới
nhập
của Hàn
quốc
5 Máy may thế hệ mới 700 Nhập từ
nhiều nguồn
- - - 100 máy
của
Nhật
6 Dàn máy thêu vi tính 2 Nhật 1995 1997 -
7 Dàn ép đế thuỷ lực 3 Hàn Quốc 1999 2000 70%
8 Hệ thống máy vi tính 35 Đông Nam
Á
1997 1998 50%
Nguồn: Số liệu về máy móc xưởngcơ năng
Nhận xét sơ bộ:
- Công ty đang sử dụng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm tại công ty giầy Thượng Đình Hà Nội.pdf