Tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020: 1
MỞ ĐẦU
I. LÝ DO NGHIÊN CỨU
Vùng ĐBSCL có diện tích tự nhiên khoảng 3,97 triệu ha (chiếm khoảng 12%
diện tích đất của cả nước), dân số trên 17,7 triệu người, chiếm hơn 20% dân số cả
nước, GDP của vùng chiếm khoảng 27% GDP của cả nước. Hàng năm toàn vùng sản
xuất hơn 50% sản lượng lúa và hơn 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước, thu về
nguồn ngoại tệ khoảng 2,7 tỉ USD/năm. Vì vậy, có thể khẳng định sản xuất và chế
biến lúa gạo là thế mạnh của vùng ĐBSCL. Sản xuất và chế biến lúa gạo đã góp phần
rất lớn vào việc đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước, là tiền đề cho quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước nói chung và thành phố Cần Thơ nói riêng.
Với vị trí là trung tâm của vùng ĐBSCL, thành phố Cần Thơ là nơi hội tụ của
nhiều tuyến giao thông thủy, bộ và hàng không quan trọng. Có hai con sông lớn là
sông Tiền và sông Hậu trải dài khắp các tỉnh, thành trong vùng, hệ thống các cảng
biển lớn nhất vùng như cảng Cái Cui, cảng Cần...
238 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1016 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
MỞ ĐẦU
I. LÝ DO NGHIÊN CỨU
Vùng ĐBSCL có diện tích tự nhiên khoảng 3,97 triệu ha (chiếm khoảng 12%
diện tích đất của cả nước), dân số trên 17,7 triệu người, chiếm hơn 20% dân số cả
nước, GDP của vùng chiếm khoảng 27% GDP của cả nước. Hàng năm toàn vùng sản
xuất hơn 50% sản lượng lúa và hơn 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước, thu về
nguồn ngoại tệ khoảng 2,7 tỉ USD/năm. Vì vậy, có thể khẳng định sản xuất và chế
biến lúa gạo là thế mạnh của vùng ĐBSCL. Sản xuất và chế biến lúa gạo đã góp phần
rất lớn vào việc đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước, là tiền đề cho quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước nói chung và thành phố Cần Thơ nói riêng.
Với vị trí là trung tâm của vùng ĐBSCL, thành phố Cần Thơ là nơi hội tụ của
nhiều tuyến giao thông thủy, bộ và hàng không quan trọng. Có hai con sông lớn là
sông Tiền và sông Hậu trải dài khắp các tỉnh, thành trong vùng, hệ thống các cảng
biển lớn nhất vùng như cảng Cái Cui, cảng Cần Thơ, đặc biệt là có kênh Quan Chánh
Bố cho tàu trọng tải lớn ra vào sông Hậu đã được khởi công vào năm 2009 và dự kiến
hoàn thành vào năm 2012. Quốc lộ 1A đi từ TP. HCM đến Cần Thơ và đến tỉnh Cà
Mau, nơi tận cùng của tổ quốc; các tuyến quốc lộ từ Cần Thơ đi đến các tỉnh Vĩnh
Long, Sóc Trăng, Đồng Tháp, Kiên Giang, An Giang hướng về Phnôm Pênh
(Campuchia); cùng với đó là sân bay Cần Thơ được đầu tư nâng cấp để trở thành sân
bay quốc tế, hoàn thành và đưa vào khai thác đầu năm 2011. Với những lợi thế trên,
thành phố Cần Thơ có đủ điều kiện để phát triển công nghiệp chế biến lúa gạo và trở
thành trung tâm chế biến lúa gạo của vùng ĐBSCL.
Trong thời gian qua các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ
đã có những bước phát triển đáng khích lệ như: giá trị sản xuất kinh doanh của năm
sau đều tăng cao so với năm trước, kim ngạch xuất khẩu gạo tăng trưởng khá cao
trong nhiều năm liền, thị trường xuất khẩu được mở rộng, chất lượng và mẫu mã sản
2
phẩm ngày càng được cải tiến, qua đó đã góp phần làm nâng cao hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp và nâng cao đời sống cho người trồng lúa.
Tuy vậy, nếu so với những tiềm năng và yêu cầu của quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế thì các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ còn rất nhiều
hạn chế như: quy mô của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo nhỏ, các doanh nghiệp
còn gặp khó khăn về vốn, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, trong khi trình độ
công nghệ còn thấp; công tác nghiên cứu thị trường, quảng cáo, xây dựng thương
hiệu chưa được các doanh nghiệp quan tâm đúng mức, tình trạng tranh mua tranh bán
giữa các doanh nghiệp với nhau vẫn còn diễn ra; vấn đề ô nhiễm môi trường trong
sản xuất và chế biến đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái tự nhiên
và đời sống của người dân. Vì vậy, để hội nhập với kinh tế quốc tế, nhất là sau khi
Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), các doanh nghiệp chế
biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ cần phải có chiến lược phát triển dài hạn, bền
vững, tận dụng tối đa những tiềm năng, lợi thế sẵn có, khắc phục những yếu kém, tồn
tại của mình nhằm nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế xã hội
phát triển và góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, nhất là đối với người trồng
lúa. Đây chính là lý do thôi thúc tôi chọn đề tài “Giải pháp phát triển sản xuất kinh
doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020”
để làm luận án tiến sĩ nhằm góp phần phát triển bền vững các doanh nghiệp chế biến
lúa gạo trong thời gian tới và sự phát triển đó sẽ góp phần thúc đẩy quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của thành phố.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của luận án là khái quát tổng quan về hoạt động sản xuất kinh
doanh lúa gạo, cùng với hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn để thấy được vai trò
của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo trong bối cảnh phát triển kinh tế của thành phố
Cần Thơ và toàn vùng ĐBSCL hiện nay. Thông qua những kết quả điều tra, luận án
đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành
phố Cần Thơ, từ đó đề xuất những định hướng, mục tiêu và xây dựng các giải pháp
3
nhằm phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố
Cần Thơ đến năm 2020.
2. Mục tiêu cụ thể
Để giải quyết mục tiêu chung, luận án nghiên cứu ba mục tiêu cụ thể sau:
Thứ nhất: Khái quát tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh lúa gạo,
cùng với hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn để khẳng định việc phát triển sản xuất
kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo là phù hợp với tình hình thực tiễn và
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO).
Thứ hai: Thông qua kết quả điều tra, phân tích thực trạng sản xuất kinh
doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo thành phố Cần Thơ. Từ đó, đánh giá những
thành công và hạn chế của các doanh nghiệp trong thời gian qua.
Thứ ba: Đề xuất các giải pháp để phát triển sản xuất kinh doanh các doanh
nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020 nhằm góp phần vào
việc thúc đẩy kinh tế xã hội của thành phố và cả vùng phát triển một cách bền vững.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu của luận án: Là quá trình hình thành và phát triển
của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ.
2. Phạm vi nghiên cứu của luận án: Là các doanh nghiệp chế biến lúa gạo
trên địa bàn TP. Cần Thơ. Số liệu nghiên cứu của luận án tập trung từ năm 2000 đến
năm 2009, các giải pháp đề xuất sẽ được áp dụng từ nay đến năm 2020, giai đoạn mà
nước ta đẩy mạnh phát triển công nghiệp để cơ bản trở thành một nước công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
IV. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Thời gian qua, việc nghiên cứu ngành hàng lúa gạo đã được nhiều tác giả quan
tâm. Do những hạn chế về thông tin và điều kiện nghiên cứu, dưới đây tác giả xin nêu
một số công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án.
4
Tác giả Nguyễn Công Thành (2010), Viện lúa ĐBSCL, trong công trình
nghiên cứu “Đánh giá và phát triển sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và tập huấn nâng
cao nhận thức cho các thành viên trong hoạt động này tại tỉnh Hậu Giang”, đã
phân tích, đánh giá tình hình sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và thực trạng về nhận thức
của tất cả các thành viên có liên quan. Từ đó tập huấn nhằm nâng cao nhận thức và sự
hiểu biết của họ để đẩy mạnh hoạt động sản xuất, xuất khẩu lúa gạo của tỉnh Hậu
Giang trong thời gian tới.
Trong công trình nghiên cứu này, tác giả cũng đã điều tra và phân tích chiều
hướng phát triển, tốc độ tăng trưởng, sự ổn định trong sản xuất, xuất khẩu lúa gạo;
hiện trạng về sản xuất và xuất khẩu; thuận lợi và khó khăn của nông dân, cán bộ
khuyến nông, thương lái và nhà xuất khẩu; hiện trạng về sự nhận thức của cán bộ
khuyến nông, nông dân và các thành viên trong hệ thống thu mua, chế biến, xuất
khẩu lúa gạo.
Từ những nội dung nghiên cứu trên đề tài đã xây dựng các giải pháp thiết thực
nhằm tham mưu cho chính quyền địa phương trong việc điều chỉnh chính sách và
hoạt động để phục vụ tốt hơn cho sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và cải thiện đời sống
người nông dân. Đây là đề tài nghiên cứu một cách tổng hợp từ sản xuất đến tiêu thụ
lúa gạo, đối tượng nghiên cứu bao gồm nông dân, cán bộ khuyến nông, thương lái và
nhà xuất khẩu. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu này không có phân tích và không có đưa
ra giải pháp nào đối với lĩnh vực chế biến lúa gạo [37].
Tác giả Cao Minh Nghĩa (2005), Viện Kinh tế TP.HCM, trong công trình
nghiên cứu “Đánh giá thực trạng và định hướng phát triển ngành công nghiệp chế
biến thực phẩm trên địa bàn TP.HCM”, đã đánh giá rõ thực trạng phát triển của
ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trên địa bàn thành phố, phân tích sâu những
lợi thế và tồn tại trong phát triển của ngành, nguyên nhân của những tồn tại, đặc biệt
là các nguyên nhân làm giảm tốc độ tăng trưởng ngành chế biến thực phẩm và làm
giảm tỷ trọng của ngành so với tổng giá trị sản xuất công nghiệp trong các năm 2003
và 2004. Qua đó định hướng phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trong
thời gian tới, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển ngành cho
5
tương xứng với vị trí của ngành trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh.
Các nội dung được đề cập đến trong đề tài này bao gồm: phân tích thực trạng
tăng trưởng ngành CNCB thực phẩm của TP. HCM giai đoạn 1995 2004 và đưa ra
các so sánh với cả nước và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; phân tích thực trạng
tăng trưởng bảy ngành chế biến thực phẩm trên địa bàn thành phố như: ngành chế
biến thịt, chế biến thủy hải sản, chế biến dầu thực vật, chế biến bơ, sữa, sản xuất sản
phẩm từ tinh bột (mì ăn liền), sản xuất bánh, kẹo, sản xuất rượu, bia, nước uống
không cồn.
Từ những phân tích đó, tác giả đã đề xuất hệ thống 9 giải pháp để nâng cao
năng lực cạnh tranh của sản phẩm và các kiến nghị với Chính phủ, Bộ, ngành để đẩy
mạnh tăng trưởng bảy ngành chế biến thực phẩm nêu trên. Tuy nhiên, đề tài đã không
sử dụng phương pháp phân tích SWOT và phương pháp chuyên gia để phân tích, để
trên cơ sở đó đưa ra các hệ thống giải pháp. Vì đây là đề tài nghiên cứu về ngành
CNCB thực phẩm nên trong đề tài không có nghiên cứu về chế biến lúa gạo [20].
Tác giả Lê Văn Gia Nhỏ (2005), trong công trình nghiên cứu “Phân tích
ngành hàng lúa gạo thơm tỉnh Long An và lúa gạo cao sản tỉnh An Giang”, đã
phân tích hiệu quả kinh doanh của các tác nhân tham gia ngành hàng lúa gạo, phân
tích tác động chính sách của Chính phủ đến ngành hàng lúa gạo xuất khẩu, đánh giá
lợi thế so sánh của bốn nhóm mặt hàng gạo xuất khẩu: gạo thơm đặc sản, gạo chất
lượng cao, gạo chất lượng trung bình và gạo chất lượng thấp, từ đó đề xuất các chính
sách hỗ trợ quá trình sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo.
Kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng, nông dân là đối tượng đạt được lợi
ích nhiều nhất trong các tác nhân tham gia ngành hàng lúa gạo. Bên cạnh đó, các
chính sách của Nhà nước liên quan đến sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo gần như
không ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận của các tác nhân tham gia trong quá trình
sản xuất và xuất khẩu gạo. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy, việc sản xuất và xuất
khẩu gạo của Việt Nam có lợi thế so sánh cao, đặc biệt là nhóm gạo thơm đặc sản và
nhóm gạo chất lượng cao.
6
Từ những phân tích đó, tác giả đã đề xuất ba chính sách đối với Chính phủ.
Một là, tập trung vào việc phát triển vùng nguyên liệu và chế biến xuất khẩu gạo đặc
sản và gạo chất lượng cao. Hai là, khuyến khích tư nhân tham gia xuất khẩu nhằm
làm tăng khả năng cạnh tranh trong thị trường thu mua lúa gạo và tăng khả năng tìm
kiếm thị trường xuất khẩu gạo trên thế giới. Ba là, các chính sách liên quan đến vấn
đề quota xuất khẩu, đó là: tổ chức đấu thầu quota xuất khẩu và Chính phủ sử dụng
khoản thu từ đấu thầu này để hỗ trợ nghiên cứu khoa học cho sản xuất, chế biến và
xuất khẩu, đồng thời cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu trong trường hợp nhu cầu
xuất khẩu gạo lớn hơn hạn ngạch nhưng phần xuất khẩu vượt trội này phải chịu thuế
xuất khẩu. Tuy nhiên, trong đề tài này, tác giả đã không phân tích thực trạng và
không đưa ra giải pháp nào đối với lĩnh vực chế biến lúa gạo [21].
Tác giả Nguyễn Ngọc Châu (2008), trong công trình nghiên cứu “Phân tích
chuỗi giá trị gạo của thành phố Cần Thơ, đã phân tích về doanh thu, chi phí và hiệu
quả sản xuất, kinh doanh của các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị gạo, gồm có:
nông dân, thương lái, doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gạo và nhà bán lẻ. Đồng thời,
tác giả đã phân tích kinh tế chuỗi giá trị gạo ở hai trường hợp: gạo tiêu thụ nội địa và
gạo xuất khẩu. Trong công trình nghiên cứu có sử dụng phương pháp phân tích
SWOT về tình hình sản xuất lúa của nông dân, phân tích mô hình năm áp lực cạnh
tranh của Michael Porter đối với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gạo, phân
tích lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của sản phẩm gạo Cần Thơ cũng được tác
giả đề cập đến.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, dù gạo tiêu thụ nội địa hay xuất khẩu, lợi ích của
người nông dân đạt được trên mỗi kg gạo nhiều hơn so với những tác nhân còn lại.
Tuy nhiên, đời sống của bà con nông dân vẫn còn nghèo, nguyên nhân chủ yếu là do
diện tích đất canh tác ít (bình quân 0,5 ha/hộ). Trong khi đó, thương lái, doanh nghiệp
chế biến, xuất khẩu gạo và nhà bán lẻ có lợi ích đạt được trên mỗi kg gạo thấp hơn
nông dân nhưng do không bị giới hạn tự nhiên về sản lượng tiêu thụ, năng lực tốt thì
tiêu thụ nhiều, năng lực không tốt thì tiêu thụ ít cho nên tổng lợi nhuận họ có thể thu
về là rất lớn. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, trong tình hình hiện nay
7
chuỗi giá trị gạo xuất khẩu hiệu quả hơn chuỗi giá trị gạo tiêu thụ nội địa. Chính vì
vậy, các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gạo quan tâm tìm kiếm hợp đồng xuất
khẩu nhiều hơn là khai thác thị trường nội địa.
Từ những phân tích trên, tác giả đã đề xuất các giải pháp nâng cao chuỗi giá trị
gạo của thành phố Cần Thơ, bao gồm: giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất lúa, giải
pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động chế biến, phân phối và giải pháp nâng cao giá
trị tăng thêm cho toàn chuỗi.
Do mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích chuỗi giá trị gạo của thành phố
Cần Thơ cho nên trong phần phân tích thực trạng tác giả không nghiên cứu sâu vào
hoạt động chế biến, mà chỉ trình bày khái quát làm cơ sở bổ sung để đề xuất một số
giải pháp nâng cao chuỗi giá trị gạo [6].
Tác giả Diệp Hoàng Sơn (2008), trong công trình nghiên cứu “Hoạch định
chiến lược marketing mặt hàng gạo xuất khẩu đồng bằng sông Cửu Long”, đã
phân tích, đánh giá các nội dung như: đánh giá tình hình sản xuất lúa gạo khu vực
ĐBSCL, phân tích hiện trạng chế biến và kinh doanh gạo xuất khẩu của các doanh
nghiệp đóng trên địa bàn, tìm hiểu tình hình sản xuất, tiêu thụ gạo trên thế giới và xây
dựng chiến lược marketing xuất khẩu gạo.
Kết quả của công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng ĐBSCL có nhiều tiềm năng
sản xuất lúa gạo, đủ cung cấp nhu cầu an ninh lương thực trong nước và có dư để
xuất khẩu từ 4 đến 4,5 triệu tấn gạo đến năm 2015, Việt Nam xếp hạng trên trung
bình so với các nước xuất khẩu gạo, nhu cầu tiêu thụ gạo của thế giới trong thời gian
tới rất cao nên sẽ thuận lợi cho việc xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, sản xuất lúa ở đây vẫn còn manh mún, nguồn nguyên liệu mang tính thời
vụ cao, hệ thống kho bãi dự trữ thiếu, hoạt động marketing trong các doanh nghiệp
kinh doanh xuất khẩu gạo chưa được xây dựng hoàn chỉnh và nghiêm túc, hệ thống
thông tin chưa hoàn thiện.
Trên cơ sở của những đánh giá đó, tác giả tiến hành xây dựng chiến lược
marketing hỗn hợp, bao gồm: sản phẩm, giá cả, phân phối và chiêu thị. Đồng thời,
8
kiến nghị một số giải pháp cần phối hợp đồng bộ các thành phần: nông dân sản xuất
lúa, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo, hệ thống tín dụng và Nhà nước [25].
Qua các công trình nghiên cứu trên, có thể thấy rằng chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách khoa học, có hệ thống và đề xuất các giải pháp có tính chiến
lược nhằm phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sẽ được kết hợp giữa lý luận và thực tiễn dựa trên những quy luật phát
triển khách quan về kinh tế xã hội, các quan điểm và chính sách của Nhà nước về
lĩnh vực lúa gạo.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án là phương pháp thống kê
mô tả, phân tích thống kê, so sánh tổng hợp, phương pháp điều tra và phương pháp
chuyên gia.
VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN
Luận án là một công trình nghiên cứu nghiêm túc của tác giả. Kết quả nghiên
cứu của luận án sẽ có những đóng góp khoa học sau:
Một là, rút ra được những bài học kinh nghiệm đối với sự phát triển sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ trong thời gian tới.
Hai là, góp phần đánh giá thực trạng phát triển của các doanh nghiệp chế
biến lúa gạo TP. Cần Thơ trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2009. Qua đó, rút ra
được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp chế
biến lúa gạo trong bối cảnh phát triển kinh tế của đất nước nói chung và TP. Cần Thơ
nói riêng.
Ba là, đề xuất các giải pháp đồng bộ và khả thi để phát triển sản xuất kinh
doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ nhanh và bền vững; trên cơ sở
khai thác một cách hợp lý các nguồn nguyên liệu của địa phương và vùng ĐBSCL.
Bốn là, xác định được mức độ quan trọng của các giải pháp, nhằm giúp các
danh nghiệp chế biến lúa gạo của TP. Cần Thơ xây dựng chiến lược phát triển sản
9
xuất kinh doanh đến năm 2020. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn làm tài liệu tham
khảo bổ ích cho các nghiên cứu khoa học liên quan đến lĩnh vực chế biến của các
ngành hàng khác trong vùng ĐBSCL và cả nước.
VII. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Kết cấu của luận án gồm 03 chương ngoài phần mở đầu và kết luận:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
chế biến lúa gạo.
Chương 2: Đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến
lúa gạo của thành phố Cần Thơ trong thời gian qua.
Chương 3: Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến
lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020.
Vì thời gian và trình độ của nghiên cứu sinh còn hạn chế nên luận án không
thể tránh được những thiếu sót nhất định, rất mong được sự góp ý của quý thầy cô và
các bạn.
10
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO
Với phương pháp nghiên cứu nêu ở phần mở đầu, chương 1 sẽ trình bày sự
hình thành và phát triển của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo, đặc điểm hoạt động
sản xuất kinh doanh, vai trò của các doanh nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân, cũng
như những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Trong chương này, cũng sẽ nghiên cứu kinh nghiệm phát triển sản xuất kinh
doanh lúa gạo của một số doanh nghiệp trong nước và trên thế giới nhằm rút ra các
bài học kinh nghiệm để có thể vận dụng cho các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của
thành phố Cần Thơ trong thời gian tới.
1.1. KHÁI NIỆM VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với
xã hội loài người; mỗi doanh nghiệp cần phải nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của thị
trường và đưa ra những chiến lược đúng đắn nhằm đạt được những mục tiêu mà
doanh nghiệp đã đề ra.
Hoạt động sản xuất kinh doanh có các đặc điểm sau:
Do một chủ thể thực hiện và gọi là chủ thể kinh tế, chủ thể kinh tế có thể là
cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp.
Khác với hoạt động tự túc tự cấp phi kinh doanh, động cơ và mục đích của
hoạt động sản xuất kinh doanh là sản xuất sản phẩm vật chất hay dịch vụ không phải
để tự tiêu dùng mà để phục vụ cho nhu cầu của người khác nhằm thu lợi nhuận.
Sản phẩm của hoạt động sản xuất kinh doanh có thể cân, đong, đo đếm được,
đó là sản phẩm hàng hóa để trao đổi trên thị trường. Người chủ thể sản xuất phải chịu
trách nhiệm đối với sản phẩm của mình sản xuất ra.
11
Hoạt động sản xuất kinh doanh cần phải hướng tới thị trường. Trong đó, các
chủ thể kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau, đó là: quan hệ với các bạn hàng,
với chủ thể cung cấp các yếu tố đầu vào, với khách hàng, với các đối thủ cạnh tranh
và với Nhà nước. Các mối quan hệ này giúp cho doanh nghiệp duy trì hoạt động sản
xuất kinh doanh và giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Hoạt động sản xuất kinh doanh phải luôn nắm được các thông tin về sản
phẩm của doanh nghiệp trên thị trường như các thông tin về số lượng, chất lượng, giá
cả sản phẩm, thông tin về xu hướng tiêu dùng của khách hàng, thông tin về kỹ thuật
công nghệ, về chính sách kinh tế tài chính, pháp luật Nhà nước có liên quan đến sản
phẩm của doanh nghiệp.
Hoạt động sản xuất kinh doanh phải có sự vận động của đồng vốn: Vốn là
yếu tố có vai trò quyết định rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, là cơ sở đánh
giá tiềm lực của doanh nghiệp. Không có vốn thì không thể có hoạt động sản xuất
kinh doanh. Chủ thể kinh tế sử dụng vốn để mua nguyên liệu, thiết bị sản xuất, thuê
lao động,…
Hoạt động sản xuất kinh doanh luôn thúc đẩy mở rộng sản xuất và tiêu dùng
xã hội, tạo điều kiện cho tích lũy vốn phát triển sản xuất, phát triển kinh tế xã hội,
phát triển khoa học kỹ thuật, mở rộng quan hệ giao lưu hàng hóa, tạo ra sự phân công
lao động xã hội và cân bằng cơ cấu sản xuất trong nền kinh tế.
Mục đích chủ yếu và bao trùm của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đó là
lợi nhuận.
Từ những đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh nêu trên, có thể hiểu
khái niệm hoạt động sản xuất kinh doanh:
Hoạt động sản xuất kinh doanh là các hoạt động kinh tế trong điều kiện tồn
tại nền kinh tế thị trường, gồm tổng thể những phương pháp, hình thức và phương
tiện mà chủ thể kinh tế sử dụng để thực hiện các hoạt động kinh tế của mình (bao
gồm quá trình đầu tư, sản xuất, vận tải, thương mại, dịch vụ,...) trên cơ sở vận
dụng quy luật giá trị cùng với các quy luật khác, nhằm đạt mục tiêu vốn sinh lời
nhiều nhất [1].
12
1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ
BIẾN LÚA GẠO
Theo chiều dài lịch sử, lúc đầu nền kinh tế của mỗi nước đều là nền kinh tế tự
nhiên, mang nặng tính tự cấp, tự túc, đa số sống bằng nghề nông. Ngoài việc trồng
trọt, chăn nuôi, đánh bắt, khai thác để có sản phẩm, người nông dân đã tự mình bảo
quản, chế biến, thậm chí tự mình chế tạo ra cả công cụ lao động. Trong dân cư hầu
như không có hoặc có rất ít sự phân công lao động xã hội và sự trao đổi sản phẩm.
Dần dần, lực lượng sản xuất và năng suất lao động tăng lên xuất hiện sản
phẩm thừa và do những yêu cầu của cuộc sống dẫn đến nhu cầu trao đổi sản phẩm
thừa đó với nhau. Trao đổi tác động trở lại sản xuất và thúc đẩy sự phân công xã hội.
Sự hình thành các loại lao động sản xuất đã làm cho sản phẩm của từng loại lao động
đó chuyển thành hàng hóa, thành những vật ngang giá với nhau, dùng làm vật phẩm
trao đổi với nhau và hình thành thị trường. Kinh tế hàng hóa phát triển, thị trường
từng bước mở rộng ra, đưa đến chỗ ngày tăng thêm những ngành công nghiệp riêng
biệt tách ra khỏi nông nghiệp. Theo đó, CNCB tách ra trở thành một ngành kinh tế
độc lập. Ngành này có mặt ở các hoạt động chế biến khác nhau, tạo ra nhiều loại sản
phẩm hàng hóa đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau và chính từ đây ngành CNCB các
sản phẩm từ nông nghiệp như: lúa gạo, lúa mì, ngũ cốc, hoa quả,… đã được hình
thành.
Như vậy, sự hình thành và phát triển của CNCB nói chung, CNCB lúa gạo nói
riêng là do quá trình phân công lao động xã hội dưới tác động của quá trình phát triển
lực lượng sản xuất được diễn ra ở một số quốc gia trên thế giới.
Ngày nay, trong điều kiện thế giới đã diễn ra cuộc cách mạng khoa học công
nghệ, xu hướng quốc tế hóa, khu vực hóa sản xuất và dịch vụ diễn ra mạnh mẽ; trình
độ lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao động ở mức rất cao, mọi lĩnh vực trong nền
kinh tế của các nước đều chịu tác động sâu sắc bởi các nhân tố quốc tế, thì sự hình
thành và phát triển CNCB ở mỗi nước cũng không thể tách rời các tác động quốc tế
đó. Chính nhờ những tác động đó, các nước đi sau có điều kiện “đi tắt”, rút ngắn các
giai đoạn phát triển CNCB hơn so với các nước đi trước.
13
Ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ XVIII, sản xuất nông nghiệp đã đạt được những
kết quả đáng kể. Lúa gạo làm ra không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của mỗi gia
đình, mỗi địa phương mà còn thừa một khối lượng lớn để bán đi nơi khác. Để phục
vụ cho việc sản xuất lúa gạo, nghề đóng cối xay ra đời ở khắp các vùng trong cả nước
và phát triển rất nhanh cho đến khi người Pháp nắm độc quyền ngành xay xát lúa gạo
với những nhà máy xay xát lúa gạo hiện đại ra đời vào nửa cuối thế kỷ XIX.
Ngày nay, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ các nhà
máy xay xát lúa gạo phát triển rất nhanh, nó không dừng lại ở hoạt động xay xát mà
còn thêm vào đó các công đoạn khác như: đánh bóng gạo, phân loại hạt gạo, phân
loại gạo với tấm và cám, đóng gói, bảo quản,… Với sự bổ sung những công đoạn đó
thì các nhà máy xay xát lúa gạo trở thành các doanh nghiệp chế biến lúa gạo.
Hiện nay, Việt Nam là quốc gia đang phát triển, có nhiều ưu thế vượt trội so
với các quốc gia phát triển nông nghiệp trong khu vực để phát triển mặt hàng lúa gạo,
mở rộng thị trường, gia tăng tích lũy vốn phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Do đó, sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng lúa gạo trên thị trường
không chỉ có ý nghĩa kinh tế đơn thuần mà còn luôn gắn kết với sự ổn định kinh tế,
chính trị xã hội đối với sự phát triển của đất nước. Để nâng cao sức cạnh tranh của
mặt hàng lúa gạo, các doanh nghiệp chế biến lúa gạo đóng vai trò rất quan trọng. Có
thể nói sau hơn một thế kỷ hình thành và phát triển, thời gian tới sẽ là giai đoạn phát
triển nhanh chóng của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo, sự phát triển này sẽ theo
các xu hướng như:
Các doanh nghiệp chế biến lúa gạo sẽ phát triển theo mô hình khu liên hợp
chế biến lúa gạo để nâng cao chất lượng sản phẩm sau chế biến. Khu liên hợp sẽ thực
hiện tất cả các chức năng từ sấy lúa cho đến xay xát, chế biến và tồn trữ lúa gạo. Các
công nghệ được sử dụng trong khu liên hợp này là những công nghệ hiện đại, đáp
ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm trong nước và quốc tế.
Các doanh nghiệp sẽ gắn kết với nông dân sản xuất lúa để xây dựng vùng
nguyên liệu cho doanh nghiệp nhằm ổn định sản xuất kinh doanh và hướng tới phát
triển một cách bền vững.
14
Các doanh nghiệp phát triển theo hình thức Công ty cổ phần; trong đó, nông
dân, các hợp tác xã nông nghiệp sẽ là những cổ đông của công ty nhằm góp phần làm
nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo [28].
1.3. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO
1.3.1. Quy trình chế biến lúa gạo
Quy trình chế biến lúa gạo hiện nay được thể hiện ở biểu đồ 1.1 dưới đây:
Lúa
nguyên liệu
Sàng tạp
chất
Bóc vỏ Thùng rê Sàng
phân ly
Sàng tách
đá
Cân,
Đóng gói
Máy
tách màu
Thùng chứa
thành phẩm
Trống
chọn hạt
Máy
đánh
bóng
Máy sát
trắng
Nguồn: Khảo sát của tác giả tại Công ty Nông nghiệp Sông Hậu, 2009
Biểu đồ 1.1: Sơ đồ quy trình chế biến lúa gạo
Lúa nguyên liệu sau khi qua sàng tạp chất để tách các tạp chất như rác, dây,
kim loại sẽ qua hệ thống bóc vỏ (vỏ lúa còn gọi là trấu), kế tiếp lúa sau khi bóc vỏ sẽ
được đưa qua thùng rê rồi đến sàng phân ly và sàng tách đá … Tiếp theo, qua công
đoạn xát trắng để tách bớt lượng cám trước khi vào hệ thống máy đánh bóng nước
kiểu phun sương nhằm cải thiện độ bóng bề mặt gạo. Kế tiếp, gạo được đưa vào hệ
thống trống phân loại hạt theo chiều dài để phân ly thành từng loại như: gạo thành
phẩm, tấm 1, tấm 2, tấm 3 và đưa vào các silo chứa riêng biệt. Tại đây, tùy theo yêu
cầu, gạo được đưa qua máy tách màu điện tử để loại ra các tạp chất màu lẫn trong gạo
như hạt đen, hạt đỏ, hạt vàng, hạt bạc bụng. Cuối cùng, gạo thành phẩm sẽ vào thiết
bị cân và đóng gói tự động theo yêu cầu trọng lượng cho trước để xuất kho.
Quy trình công nghệ nói trên là quy trình điển hình, tiên tiến. Đây là quy trình
khép kín từ khâu nguyên liệu đến khâu thành phẩm, mức độ tự động hóa cao, dễ vận
hành, thu được gạo thành phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu và hoàn toàn có
khả năng cạnh tranh được với các sản phẩm gạo hiện có trên thị trường thế giới.
15
Hiện nay, một số doanh nghiệp chế biến lúa gạo trên địa bàn TP. Cần Thơ đã
đầu tư trang bị các thiết bị chế biến lúa gạo tiên tiến của các hãng sản xuất có uy tín
như Bùi Văn Ngọ, Sinco, Satake,... Thiết bị chế biến lúa gạo của các hãng này có độ
tin cậy cao, sản phẩm qua chế biến đạt những yêu cầu cơ bản như độ xát trắng, tỷ lệ
thóc, tỷ lệ tấm, độ ẩm, hạt màu, độ đồng đều, vệ sinh và hạn chế tối thiểu tạp chất
trước khi đóng gói.
1.3.2. Nguyên liệu sử dụng trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo
Nguyên liệu sử dụng trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo gồm có lúa
hàng hóa và gạo bán thành phẩm, do đó để đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định thì
vấn đề quy hoạch vùng sản xuất lúa và quy hoạch diện tích đất trồng lúa có ý nghĩa
rất quan trọng.
(1) Nguồn nguyên liệu là lúa hàng hóa: Lúa được người nông dân trồng ở
khắp các tỉnh, thành trong cả nước, với sản lượng hàng năm đạt gần 40 triệu tấn và
vùng ĐBSCL là nơi sản xuất lượng lúa hàng hóa lớn nhất của cả nước, với sản lượng
hàng năm đạt trên 20 triệu tấn.
Bảng 1.1: Sản lượng lúa cả năm vùng ĐBSCL và cả nước giai đoạn 2005 2009
ĐVT: Tấn
Nơi sản xuất 2005 2006 2007 2008 2009
1/ Vùng ĐBSCL
2/ Cả nước
19.385.620
35.832.900
18.075.036
35.849.500
19.221.771
35.942.700
21.166.627
38.729.800
20.483.400
38.895.500
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2010 [26]
(2) Nguồn nguyên liệu là gạo bán thành phẩm: Gạo bán thành phẩm được
cung cấp bởi các nhà máy xay xát lúa gạo có quy mô nhỏ. Lúa sau khi trãi qua các
công đoạn như sàng tạp chất và bóc vỏ thì được gọi là gạo bán thành phẩm (hay còn
gọi là gạo nguyên liệu). Từ gạo nguyên liệu, sẽ qua các nhà máy chế biến có quy mô
16
lớn hơn để thực hiện các công đoạn tiếp theo cho đến công đoạn cuối cùng là đóng
gói và được gọi là gạo thành phẩm để phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng.
1.3.3. Máy móc, thiết bị trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo
Các máy và móc thiết bị chủ yếu của doanh nghiệp chế biến lúa gạo bao gồm:
Máy làm sạch lúa: Đây là máy thực hiện công đoạn đầu tiên của quá trình chế
biến, nó có nhiệm vụ loại bỏ các tạp chất như: đá, rơm rạ, kim loại,... lẫn trong lúa để
làm sạch lúa trước khi đi vào chế biến.
Máy bóc vỏ: Lúa sau khi qua công đoạn làm sạch sẽ qua máy bóc vỏ để tách
lớp thóc bên ngoài của hạt lúa, đây là công đoạn rất quan trọng của quá trình chế biến,
nó có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng gạo như ảnh hưởng số lượng hạt bị gãy, số
lượng tấm sau khi bóc vỏ.
Máy xát trắng: Lúa sau khi bóc vỏ sẽ qua công đoạn xát trắng để tách bớt
lượng cám ở trong hạt gạo trước khi đánh bóng.
Máy đánh bóng: Máy đánh bóng có chức năng làm cho hạt gạo trắng bóng,
giúp nâng cao chất lượng và giá trị của hạt gạo.
Máy phân loại hạt: Máy phân loại hạt có chức năng phân loại gạo thành các
loại như gạo thành phẩm, tấm 1, tấm 2, tấm 3.
Máy tách màu: Sau khi phân loại gạo với các loại tấm, gạo được đưa qua
máy tách màu để loại ra các tạp chất màu còn lẫn trong gạo như: hạt đen, hạt đỏ, hạt
vàng, hạt bạc bụng.
Thiết bị cân và đóng gói: Sau các công đoạn nêu trên, cuối cùng gạo thành
phẩm sẽ qua thiết bị cân và đóng gói tự động theo yêu cầu trọng lượng để tiêu thụ
trên thị trường.
Như vậy, máy móc và thiết bị chính của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo gồm
có: máy sàng tạp chất, máy bóc vỏ, máy xát trắng, máy đánh bóng, máy phân loại hạt,
máy tách màu, thiết bị cân tự động và đóng gói.
Hiện nay, các máy móc và thiết bị này có trên thị trường khá đa dạng về mẫu
mã, tính năng sử dụng và trình độ về công nghệ là khá hiện đại. Do vậy, để tạo ra sản
17
phẩm gạo đạt chất lượng cao, các doanh nghiệp cần phải quan tâm đổi mới máy móc,
thiết bị và công nghệ một cách hợp lý.
1.3.4. Lao động trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo
Lao động trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo có thể chia làm 03 nhóm
chính:
(1) Nhóm cán bộ quản lý và kinh doanh: Do yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng cao, do đó cán bộ quản lý và kinh doanh phải có trình trình quản lý của
người CEO, phải có hiểu biết về kinh doanh trong môi trường toàn cầu hóa. Vì vậy,
các doanh nghiệp phải thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ
này mới đáp ứng được yêu cầu của công việc, chứ không thể tuyển dụng mới là có thể
sử dụng được ngay.
(2) Nhóm kỹ sư kỹ thuật và công nhân kỹ thuật bậc cao: Đây là các kỹ sư, công
nhân kỹ thuật bậc cao của các ngành cơ khí, điện, công nghệ,… những người này
thường đảm đương công tác tại bộ phận kỹ thuật, chuyên phụ trách các công việc về
cơ khí, điện, vận hành và sửa chữa các máy móc, thiết bị trong các phân xưởng chế
biến. Ngày nay, với yêu cầu đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại, đòi hỏi lực
lượng lao động này phải thường xuyên được đào tạo để nâng cao trình độ tay nghề
nhằm theo kịp với xu hướng phát triển rất nhanh về khoa học công nghệ như hiện
nay.
(3) Nhóm công nhân lao động phổ thông: Những lao động này thường làm các
công việc liên quan nhiều đến chân tay như đóng gói, bốc xếp, quản lý kho tàng, bến
bãi,… các lao động này thường không đòi hỏi cao về trình độ chuyên môn, chỉ yêu
cầu có sức khỏe tốt, nhiệt tình trong công việc. Công tác đào cho lực lượng lao động
này khá đơn giản, chỉ là đào tạo nghiệp vụ cho các công việc thường làm hàng ngày
và trong thời gian ngắn hạn.
1.3.5. Vốn trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo phụ
thuộc vào thời vụ sản xuất lúa, trong năm có hai mùa vụ lúa chính, đó là: Đông Xuân
và Hè Thu. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn lưu động rất lớn để
18
thu mua lúa nguyên liệu nhằm giúp cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong quá
trình sản xuất kinh doanh của mình. Mặt khác, rất nhiều doanh nghiệp có quy mô sản
xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, muốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và đổi mới
máy móc, thiết bị các doanh nghiệp này cần phải có một lượng vốn khá lớn (có thể
lên đến hàng chục tỷ đồng), nhưng hiện tại đa phần các doanh nghiệp đều gặp khó
khăn về vốn.
1.3.6. Thị trường của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo
Thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo bao gồm thị trường
trong nước và nước ngoài.
1. Đối với thị trường trong nước: Việt Nam có dân số khoảng 87 triệu người,
hàng năm tiêu dùng ước khoảng 17 triệu tấn gạo, đây là thị trường rất rộng lớn và ổn
định của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo. Dự báo trong thời gian tới thị trường tiêu
thụ trong nước sẽ tăng lên rất nhanh, nguyên nhân là do dân số tăng (ước đạt khoảng
100 triệu người vào năm 2020) và do các ngành CNCB khác phát triển rất nhanh, mà
các ngành này sử dụng lúa gạo là nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất.
Hiện nay, với sản lượng lúa hàng năm đạt khoảng 39 triệu tấn (tương đương 23
triệu tấn gạo), ngoài đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia thì chúng ta vẫn còn dư trên dưới 6 triệu tấn gạo cho xuất khẩu.
2. Đối với thị trường nước ngoài: Thị trường xuất khẩu gạo của các doanh
nghiệp Việt Nam gồm nhiều nước ở nhiều châu lục khác nhau như: Châu Á, Châu
Âu, Châu Phi, Trung Đông (xem bảng 1.2). Trong năm 2009, các doanh nghiệp của
Việt Nam đã xuất khẩu hơn 5,95 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch xuất khẩu gần 2,7 tỷ
USD, chiếm khoảng 15% thị phần của thị trường xuất khẩu gạo thế giới. Trong đó,
các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trên địa bàn thành phố Cần Thơ đã xuất khẩu được
557 ngàn tấn, đạt kim ngạch trên 240 triệu USD.
Dự báo trong thời gian tới thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của các doanh
nghiệp Việt Nam vẫn là các nước ở khu vực Châu Á, Châu Phi, Châu Âu và một số
nước ở khu vực Trung Đông.
19
Bảng 1.2: Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của doanh nghiệp Việt Nam giai
đoạn 2005 2009
ĐVT: %
Stt Thị trường
Năm
2005 2006 2007 2008 2009
1 Châu Á 49,8 48,9 56,9 74,4 55,2
2 Châu Phi 43,9 43,3 27,9 15,2 24,3
3 Châu Âu 5,2 0,7 5,1 6,3 13,1
4 Trung Đông 1,1 6,8 7,1 2,1 4,8
5 Châu Mỹ 0,0 0,0 2,9 0,1 1,4
6 Châu Đại Dương 0,0 0,2 0,1 1,8 1,2
Nguồn: Trung tâm Thông tin Phát triển Nông nghiệp Nông thôn, 2010 [29]
1.4. VAI TRÒ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO ĐỐI VỚI
NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1.4.1. Cung cấp và đảm bảo an ninh lương thực
Tất cả người dân Việt Nam đều sử dụng lúa gạo làm lương thực chính, từ gạo
có thể chế biến thành các sản phẩm khác như bột, phở, bún và rất nhiều loại thực
phẩm khác được làm từ gạo. Vì vậy, lúa gạo đã trở thành nguồn lương thực chính
trong đời sống hàng ngày của mỗi người dân.
Việt Nam trong nhiều năm liền được xếp vào nhóm các nước dẫn đầu về xuất
khẩu gạo, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và quốc
tế. Có thể nói, lúa gạo đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp lương thực cho
người dân, ngoài ra còn là ngành kinh tế tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao
động, đặc biệt là lao động ở những vùng nông thôn, qua đó đã góp phần tích cực vào
việc xóa đói giảm nghèo. Trong những năm gần đây chính sách phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông dân và nông thôn của Nhà nước luôn gắn liền với phát triển ngành
hàng lúa gạo.
20
1.4.2. Góp phần nâng cao thu nhập cho người nông dân và hiện đại hóa khu vực
nông thôn
Chế biến lúa gạo giúp cho giá trị sản phẩm của người nông dân sản xuất ra được
nâng lên, từ đó lợi nhuận từ sản xuất lúa đạt được cao hơn, người nông dân trồng lúa
sẽ chuyên tâm đầu tư cho sản xuất tốt hơn làm cho sản lượng và chất lượng lúa ngày
được nâng cao. Do thu nhập ngày được nâng lên, người dân có điều kiện cùng với
Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn như hạ tầng về giao
thông, điện, nước, thủy lợi,... ngày càng tốt hơn để phục các yêu cầu của sản xuất và
đời sống người dân.
Bảng 1.3: Lợi nhuận từ sản xuất lúa của nông dân giai đoạn 2005 2009
ĐVT: Triệu đồng
Lợi nhuận Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Lợi nhuận thu được từ
01 ha lúa
19,37 22,47 24,86 26,50 28,26
Nguồn: Viện Nghiên cứu lúa ĐBSCL, 2010 [40]
Ghi chú: Lợi nhuận này được tính cho hai vụ lúa chính trong năm là Đông Xuân và Hè Thu.
1.4.3. Góp phần giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn
Các doanh nghiệp chế biến lúa gạo đã góp phần giải quyết việc làm cho lao
động nhàn rỗi ở khu vực nông thôn. Năm 2009, số lao động đang làm việc trong các
doanh nghiệp chế biến lúa gạo trên địa bàn TP. Cần Thơ khoảng 22.000 ngàn người,
trong đó lao động có trình độ chuyên môn thấp chiếm khoảng 70% tổng số lao động
(lực lượng lao động này chủ yếu ở khu vực nông thôn), với mức thu nhập bình quân
khoảng 2,6 triệu đồng/tháng.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn góp phần làm tăng giá trị sản xuất công nghiệp,
qua đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn và làm tăng tỷ trọng
của khu vực công nghiệp trong cơ cấu kinh tế ở địa phương.
21
1.4.4. Góp phần tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước
Trong nhiều năm liền, sản phẩm lúa gạo Việt Nam luôn giữ vị trí cao trong
danh sách các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất đất nước, năm 2009 xuất khẩu
gạo đứng vị trí thứ 5 (sau dệt may, dầu khí, da giày, thủy sản) với kim ngạch xuất
khẩu đạt khoảng 2,7 tỷ USD. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai
thế giới chỉ sau Thái Lan, đã góp phần tích cực vào việc đảm bảo an ninh lương thực
cho thế giới và làm cho vị thế của Việt Nam trên thế giới ngày càng được nâng cao.
Bảng 1.4: Số lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 2005 2009
Chỉ tiêu ĐVT Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
1. Số lượng gạo xuất
khẩu
Triệu
tấn
5,25 4,50 4,56 4,83 5,95
2. Kim ngạch xuất
khẩu gạo
Triệu
USD
1.407 1.238 1.490 2.910 2.700
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2010 [26]
1.4.5. Thúc đẩy nhiều ngành kinh tế khác phát triển
Lúa gạo là nguồn nguyên liệu chính cho các ngành chế biến lương thực, thực
phẩm. Vì vậy, khi các doanh nghiệp chế biến lúa gạo phát triển một cách bền vững sẽ
tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho các ngành chế biến này phát triển.
Bên cạnh đó, sự phát triển của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo sẽ tác động
dây chuyền tới sự phát triển của cơ sở vật chất phục vụ nó như: ngành cung ứng vật
tư, điện, nước, thương mại, dịch vụ,… Nó cũng thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát
triển như: xây dựng, vận tải, kho bãi, tài chính, tín dụng, bưu chính, viễn thông, khoa
học công nghệ,… Qua đó, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa hiện đại hóa.
1.4.6. Góp phần làm ổn định chính trị xã hội
22
Các doanh nghiệp chế biến lúa gạo phát triển đã thúc đẩy hoạt động sản xuất lúa
phát triển, một khi sản xuất lúa phát triển thì sẽ góp phần vào việc đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của người nông dân.
Chính từ những đóng góp rất quan trọng nêu trên, có thể nói các doanh nghiệp
chế biến lúa gạo đã góp phần tích cực vào ổn định chính trị xã hội của đất nước.
1.5. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp chế biến
lúa gạo, nhưng có thể phân thành hai nhóm yếu tố chủ yếu là: nhóm yếu tố bên ngoài
và nhóm yếu tố bên trong.
1.5.1. Nhóm yếu tố môi trường bên ngoài
1.5.1.1. Môi trường vĩ mô
Bất cứ hoạt động sản xuất nào trong quá trình hoạt động của mình cũng chịu
sự tác động nhất định của môi trường vĩ mô. Đối với các doanh nghiệp chế biến lúa
gạo, các yếu tố môi trường vĩ mô có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của doanh
nghiệp bao gồm các yếu tố cơ bản như sau:
(1) Đường lối, chủ trương phát triển công nghiệp: Chính phủ mỗi nước đều có
đường lối, chủ trương phát triển công nghiệp riêng phù hợp với bối cảnh kinh tế xã
hội và môi trường của mỗi nước, ví dụ như Singapore lúc đầu họ phát triển công
nghiệp nhẹ, sau đó phát triển các ngành công nghệ kỹ thuật cao; Nhật Bản, Hàn Quốc
ngay từ đầu công nghiệp hóa họ đã đi vào phát triển các ngành công nghiệp nặng, vì
thế họ đã có các ngành công nghiệp tầm cỡ quốc tế như sản xuất thép, công nghệ
đóng tàu, công nghệ ô tô, công nghệ điện tử…
Ở Việt Nam, đường lối phát triển công nghiệp được thực hiện và thay đổi qua
nhiều thời kỳ. Ở thời kỳ 1975 đến 1986 thực hiện chính sách ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng. Giai đoạn 1986 đến 1990 đã có sự điều chỉnh về đường lối phát triển
công nghiệp, ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến là chính. Từ năm 2001 đến nay,
đang thực hiện đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa theo Nghị quyết Đại hội IX
và Đại hội X, nhằm xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp phát triển theo
23
hướng hiện đại vào năm 2020 [13]; trong đó, chú trọng phát triển công nghiệp chế
biến nông lâm thủy sản, các ngành công nghiệp sử dụng hàm lượng công nghệ cao
như: điện tử, công nghệ phần mềm, công nghệ ô tô,…
(2) Các chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp: Mỗi một quốc gia đều
có chính sách về phát triển kinh tế riêng của mình, trong đó có chính sách liên quan
đến doanh nghiệp. Một số nước trong thời kỳ đầu thực hiện đường lối công nghiệp
hóa, để thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế xã hội, họ đã thành lập nhiều tổng
công ty ở nhiều lĩnh vực, mà các lĩnh vực này có ảnh hưởng đến chính sách phát triển
kinh tế quốc gia như năng lượng, dầu khí, viễn thông,… Một số quốc gia khác thì
trong thời kỳ đầu, họ ưu tiên cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa để khai thác tốt các
nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước. Chính sách phát triển của Việt Nam hiện nay
bên cạnh tập trung phát triển các Tổng công ty, các Tập đoàn kinh tế lớn ở những lĩnh
vực kinh tế then chốt như điện, dầu khí, đóng tàu,… Việt Nam còn chú trọng phát
triển các doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa nhằm phát huy những lợi thế về nguồn
nguyên liệu, lao động ở các địa phương; trong đó, đặc biệt quan tâm đến phát triển
các doanh nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, vì Việt Nam có thế mạnh về nguồn
nguyên liệu phục vụ cho các doanh nghiệp chế biến này.
(3) Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế: Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi
nước có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển của các doanh nghiệp. Với các quốc gia đã
trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì chắc chắn sẽ gặp
nhiều thách thức trong cạnh tranh quốc tế, nhưng đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội
cho các doanh nghiệp vươn ra thị trường thế giới.
(4) Mức độ phát triển cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng là tổng thể các công trình
và là yếu tố rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Cơ sở hạ tầng bao gồm cơ
sở hạ tầng kỹ thuật cần thiết cho quá trình sản xuất như: nhà xưởng, hệ thống giao
thông, điện, nước, bưu chính, viễn thông,… và cơ sở hạ tầng xã hội phục vụ đời sống
dân cư như nhà ở, trường học, cơ sở y tế, cơ sở văn hóa, dịch vụ,…
Việt Nam là một nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Do đó, để
phát triển nhanh các ngành kinh tế, cơ sở hạ tầng cần đi trước một bước, cần đầu tư
hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng như: cảng biển, giao thông thủy, bộ, cảng hàng
24
không, năng lượng,… Trong thời gian qua, Nhà nước đã hết sức quan tâm đến đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng và bước đầu đã có những cải thiện rất đáng kể.
(5) Tác động của các khu vực kinh tế khác: Các khu vực kinh tế khác trong cơ
cấu kinh tế có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của các ngành công nghiệp,
trong đó có các doanh nghiệp của ngành CNCB lúa gạo. Nông nghiệp giữ vai trò
quan trọng, là ngành cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho các doanh nghiệp chế biến lúa
gạo. Các ngành khác như tài chính, viễn thông, điện,… có tác động lớn đến hoạt động
của các ngành kinh tế và hỗ trợ cho các ngành này phát triển. Ví dụ như nếu không có
ngành ngân hàng hay điện lực thì tất cả các ngành khác không thể phát triển.
1.5.1.2. Môi trường vi mô
Các yếu tố của môi trường vi mô được thể hiện theo mô hình năm tác lực của
Michael E. Porter dưới đây:
Biểu đồ 1.2: Mô hình năm tác lực của Michael E. Porter (1980) [42]
Nhà
cung cấp
Đối thủ
mới tiềm
năng
Những đối thủ cạnh
tranh trong ngành
Cạnh tranh giữa các
đối thủ hiện hữu
Sản phẩm
thay thế
Khách
hàng
25
Mô hình năm tác lực của Michael E. Porter được sử dụng để phân tích môi
trường vi mô của các doanh nghiệp. Riêng các doanh nghiệp chế biến lúa gạo năm
nguồn áp lực thể hiện như sau:
Quyền năng của nhà cung cấp: Nhà cung cấp thiết bị chính cho các doanh
nghiệp chế biến lúa gạo là các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, còn nhà cung
cấp nguyên liệu chính cho doanh nghiệp là nông dân, thương lái, các doanh nghiệp
trong nước, do có nhiều nhà cung cấp nên sự phụ thuộc không cao, vì thế quyền năng
của họ không lớn.
Khách hàng: Khách hàng của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo là các nhà
phân phối trong nước, các công ty trong nước và nước ngoài, thậm chí là Chính phủ
một số nước như Philippine, Indonesia,… Do có nhiều khách hàng trong và ngoài
nước nên áp lực từ khách hàng đối với doanh nghiệp cũng không quá lớn.
Đối thủ hiện tại: Đối thủ hiện tại là các doanh nghiệp của các tỉnh lân cận
trong vùng và các doanh nghiệp của các nước như: Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ,
Pakistan, nhưng chủ yếu vẫn là Thái Lan.
Đối thủ tiềm năng: Đối thủ tiềm năng của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo
là các doanh nghiệp có thể gia nhập ngành hàng lúa gạo ở các tỉnh trong vùng
ĐBSCL, trong đó đáng chú ý là các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp. Đối với
các doanh nghiệp nước ngoài đối thủ tiềm năng là các doanh nghiệp của Indonesia.
Sản phẩm thay thế: Không có nhiều sản phẩm thay thế chính, vì lúa gạo là
lương thực chính của nhiều quốc gia nên ít có sản phẩm nào thay thế được lúa gạo
trong tương lai.
1.5.2. Nhóm yếu tố bên trong
Nhóm yếu tố bên trong bao gồm các yếu tố sau:
1.5.2.1. Cơ cấu sản phẩm chủ lực
Sản phẩm chủ lực có vai trò quan trọng là thế mạnh của mỗi đơn vị để cạnh
tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa. Việc xác định cơ cấu sản phẩm chủ lực tối ưu sẽ là
cơ sở giúp cho doanh nghiệp phát triển bền vững cũng như đạt được các mục tiêu đã
đề ra.
26
Sản phẩm chủ lực của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo là các loại gạo trắng
5%, 15%, 20%, 25% tấm và các loại gạo thơm chất lượng cao.
1.5.2.2. Trình độ phát triển về công nghệ
Trình độ công nghệ cao sẽ làm tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của mỗi
doanh nghiệp. Vì thế, yếu tố công nghệ có tác động lớn đến sự phát triển của doanh
nghiệp, song cần phải đánh giá mối quan hệ của việc đầu tư công nghệ mới với giá
thành sản phẩm và hiệu quả kinh tế do công nghệ mới mang lại. Từ cơ sở đó, doanh
nghiệp sẽ xây dựng các chiến lược và lộ trình phát triển công nghệ phù hợp.
Theo khuyến cáo của Liên hợp quốc, các nước đang phát triển nên lựa chọn
công nghệ thích hợp. Công nghệ thích hợp được hiểu không phải công nghệ đắt tiền
nhất, nhưng phải là công nghệ tiên tiến, có khả năng tạo ra sản phẩm có thể cạnh
tranh trên thị trường dự tính. Công nghệ thích hợp được du nhập bằng hoạt động
“chuyển giao công nghệ”. Công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam theo quy định
của Nghị định số 11/2005/NĐCP ngày 02/02/2005 của Chính phủ phải là:
Công nghệ tạo ra sản phẩm mới và cần thiết tại Việt Nam hoặc để sản xuất
hàng xuất khẩu.
Công nghệ nâng cao tính năng kỹ thuật, chất lượng sản phẩm vào việc sản
xuất.
Công nghệ nhằm tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, khai thác và sử dụng có
hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.
Nghiêm cấm việc chuyển giao công nghệ có ảnh hưởng xấu đến môi trường
sinh thái, an toàn lao động.
Đối với trình độ công nghệ của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo hiện nay là
khá hiện đại, các công nghệ này đã được tự động hóa hoàn toàn từ công đoạn đầu đến
công đoạn cuối của quá trình chế biến và chất lượng của sản phẩm sau khi chế biến
đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Vì vậy, ngày nay các doanh nghiệp có rất nhiều
lựa chọn về công nghệ cho doanh nghiệp mình.
1.5.2.3. Khả năng cung ứng nguyên liệu
27
Nguyên liệu được coi là yếu tố “đầu vào” quan trọng cho quá trình sản xuất.
Việt Nam đi vào quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa từ điểm xuất phát là một
nước nông nghiệp với 75% lao động nông nghiệp, 80% dân số ở nông thôn. Nông
nghiệp Việt Nam là cơ sở, chỗ dựa cung cấp nguồn nguyên liệu dồi dào cho phát triển
công nghiệp chế biến. Trong những năm qua Việt Nam luôn là nước đứng thứ hai về
xuất khẩu gạo trên thế giới, đây chính là một trong những minh chứng thể hiện tiềm
năng nguyên liệu nông nghiệp hỗ trợ cho phát triển công nghiệp chế biến của Việt
Nam là rất lớn.
1.5.2.4. Tổ chức sản xuất và quy mô sản xuất
(1) Tổ chức sản xuất: Tổ chức sản xuất là hệ thống các giải pháp nhằm sử
dụng tối ưu các nguồn lực của doanh nghiệp như tài lực (vốn,…), vật lực (máy móc
thiết bị, nguyên vật liệu,…), nhân lực (người quản lý, công nhân trực tiếp sản
xuất,…) nhằm đảm bảo sự hài hòa trong thực hiện các chức năng nghiệp vụ của
doanh nghiệp.
Tổ chức sản xuất bao gồm các giải pháp sản xuất ra sản phẩm theo số lượng,
chủng loại theo kế hoạch, bảo đảm tiến hành sản xuất một các nhịp nhàng. Tổ chức
sản xuất còn bao gồm mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp như điều hành các phân
xưởng, tổ chức lao động, công tác cung ứng vật tư kỹ thuật,…
Hình thức tổ chức sản xuất phổ biến và hiệu quả hiện nay là tổ chức sản xuất
theo dây chuyền. Hình thức tổ chức sản xuất này đáp ứng khả năng sản xuất sản
phẩm một các đều đặn, nhịp nhàng, đúng thời hạn và hạ giá thành sản phẩm.
Hiện nay, các doanh nghiệp chế biến lúa gạo đã áp dụng phổ biến phương
pháp tổ chức sản xuất dây chuyền nói trên.
(2) Quy mô sản xuất: Quy mô sản xuất thể hiện năng lực của doanh nghiệp
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Quy mô sản xuất có vai trò quan trọng trong
phát triển thị phần, tăng năng lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp. Cho nên, khi
hoạch định quy mô sản xuất cần phân tích kỹ về thị trường đầu ra, thị trường nguyên
liệu, nguồn nhân lực,… có như vậy doanh nghiệp mới có quy mô sản xuất hợp lý.
Đối với lĩnh vực chế biến lúa gạo, quy mô sản xuất của phần lớn các doanh
28
nghiệp hiện nay là khá nhỏ, do đó năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn
thấp. Đây chính là những thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
1.5.2.5. Tổ chức quản lý
Đây là yếu tố quan trọng tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh và
phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải có cơ cấu bộ máy tổ
chức hợp lý, đủ năng lực điều hành, cán bộ quản lý cần được cập nhật các kiến thức
quản lý lẫn các kiến thức về chuyên môn, kiến thức trong kinh doanh, kiến thức về
hội nhập kinh tế quốc tế và các doanh nghiệp phải xây dựng quy chế quản lý thích
hợp cho doanh nghiệp. Làm được như vậy, hiệu quả quản lý sẽ cao, tiết kiệm được
chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.5.2.6. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo bao gồm hai thành
phần cơ bản, đó là: nhân lực quản lý thực hiện các hoạt động không trực tiếp sản xuất
và nhân lực trực tiếp sản xuất làm ra sản phẩm cụ thể của doanh nghiệp.
Nhân lực quản lý đòi hỏi có kỹ năng quản lý, có khả năng thực hiện các chức
năng quản lý nhất định như: giám đốc điều hành chung, giám đốc kinh doanh, giám
đốc tài chính, giám đốc marketing,…
Nhân lực trực tiếp sản xuất là người đứng máy, tác động trực tiếp lên đối
tượng lao động bằng công cụ lao động để làm ra sản phẩm cụ thể.
Nguồn nhân lực có vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp nói chung
và doanh nghiệp chế biến lúa gạo nói riêng, cho nên Nhà nước cùng các doanh
nghiệp cần có chiến lược ngắn hạn và dài hạn trong công tác đào tạo nguồn nhân lực
nhằm đảm bảo cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nâng
cao khả năng cạnh tranh và đạt hiệu quả kinh tế ngày càng cao hơn.
1.5.2.7. Nguồn Vốn
Bất kỳ doanh nghiệp nào khi bắt đầu thành lập đều cần đến vốn. Đối với các
doanh nghiệp chế biến lúa gạo có hai thành phần vốn cơ bản là vốn cố định và vốn
lưu động.
29
Vốn cố định bao gồm các thành phần như: chi phí chuẩn bị đầu tư, mua máy
móc, thiết bị, dụng cụ, xây dựng nhà xưởng và chi phí đào tạo lao động ban đầu,…
Vốn lưu động gồm có các thành phần như: chi phí mua nguyên vật liệu, lương,
bảo hiểm xã hội, điện, nước, nhiên liệu, vốn bằng tiền mặt,...
Việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, muốn tồn tại và phát triển các doanh
nghiệp chế biến lúa gạo phải nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn và có các biện
pháp thích hợp để tạo nguồn vốn như: liên doanh, liên kết, cổ phần, vay tín dụng,
thuê tài chính,...
1.6. CÁC CÔNG CỤ ĐỂ XÂY DỰNG VÀ LỰA CHỌN GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA
GẠO CỦA TP. CẦN THƠ ĐẾN NĂM 2020
Để xây dựng và lựa chọn các giải pháp, luận án sử dụng các công cụ sau:
Một là, ma trận các yếu tố bên trong để phân tích và đánh giá một cách khách
quan về nội bộ các doanh nghiệp thông qua hội thảo và khảo sát ý kiến các chuyên
gia là lãnh đạo của các doanh nghiệp, các nhà quản lý.
Hai là, ma trận các yếu tố bên ngoài để phân tích một cách khách quan về các
yếu tố bên ngoài ở gốc độ vĩ mô và vi mô thông qua hội thảo và khảo sát ý kiến các
chuyên gia là lãnh đạo của các doanh nghiệp, các nhà quản lý.
Ba là, ma trận hình ảnh các đối thủ cạnh tranh chính để đánh giá các đối thủ
cạnh tranh chính của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ.
Bốn là, ma trận SWOT của Albert S Humphrey. Trên cơ sở phân tích, tổng
hợp các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ từ ma trận các yếu tố bên trong, bên
ngoài và ma trận hình ảnh các đối thủ cạnh tranh chính, sử dụng công cụ ma trận
SWOT để đề xuất các giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế
biến lúa gạo của TP. Cần Thơ đến năm 2020.
Năm là, ma trận hoạch định chiến lược có thể định lượng QSPM. Trên cơ sở
các giải pháp được đề xuất từ ma trận SWOT, luận án lựa chọn các giải pháp bằng
việc sử dụng ma trận hoạch định chiến lược có thể định lượng QSPM.
30
Thông qua các giải pháp được lựa chọn từ ma trận hoạch định chiến lược có
thể định lượng QSPM, luận án sử dụng phương pháp khảo sát chuyên gia và phương
pháp thống kê mô tả để xác định thứ tự mức độ quan trọng của các giải pháp.
1.7. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG
NƯỚC VÀ TRÊN THẾ GIỚI
1.7.1. Kinh nghiệm phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế
biến lúa gạo ở một số địa phương trong nước
1.7.1.1. Kinh nghiệm của Công ty lương thực Tiền Giang (Tigifood)
Từ trước đến nay, tập quán sản xuất của các hộ nông dân vẫn là sản xuất nhỏ,
nông dân chỉ quan tâm đến năng suất lúa mà chưa quan tâm nhiều đến chất lượng.
Đặc biệt, trong khâu xử lý sau thu hoạch còn nhiều hạn chế, vẫn chưa đầu tư sản xuất
tập trung theo vùng và theo từng loại giống lúa chất lượng cao, lúa đặc sản. Đó là một
trong những nguyên nhân làm cho gạo của Việt Nam thua kém gạo Thái Lan. Tuy
nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có được giải pháp tốt để khắc phục những
hạn chế đó.
Để giải quyết bài toán này, Công ty Lương thực Tiền Giang (Tigifood) đã xây
dựng một lực lượng có kinh nghiệm nhận biết, chế biến, phân loại gạo,... Đồng thời,
công ty cũng hình thành mạng lưới thu mua và tiêu thụ lúa gạo trong nông dân thông
qua các phương thức như: mua lúa gạo trực tiếp của nông dân thông qua các xí
nghiệp, các kho của Tigifood tại các vùng trọng điểm của tỉnh và các tỉnh lân cận.
Qua đó, Tigifood sẽ báo niêm yết giá mua từng thời điểm để người dân có thể tham
khảo và quyết định việc bán lúa của mình. Bên cạnh đó, công ty thành lập các tổ thu
mua lưu động trực tiếp mua lúa tại ruộng của nông dân trong thời gian thu hoạch rộ
để đưa về kho phơi, sấy. Xây dựng những vệ tinh là các doanh nghiệp tư nhân, hợp
tác xã có chức năng xay xát lúa gạo trong tỉnh đã có quan hệ cung ứng lúa gạo cho
Tigifood từ nhiều năm trước đứng ra thu mua lúa trong nông dân rồi bán lại cho
Tigifood.
31
Các giải pháp thu mua lúa gạo của công ty Tigifood đã tạo điều kiện cho nông
dân an tâm gắn bó với ruộng đồng và là “cầu nối” đồng hành giữa người sản xuất với
doanh nghiệp. Hàng năm, Tigifood thu mua khoảng 250.000 300.000 tấn gạo các
loại. Nhờ mạng lưới tổ chức hợp lý, vừa chủ động nguồn kinh doanh, vừa đảm bảo
tồn trữ gối đầu, Tigifood đã đưa ra một lượng lớn gạo để bán lẻ cho người tiêu dùng
trong và ngoài tỉnh, qua đó góp phần cùng với cả nước bình ổn được giá gạo khi có
hiện tượng sốt “ảo”.
Có thể nói, năm 2010 là năm thắng lợi của Công ty lương thực Tiền Giang, đó
là tiếp tục kinh doanh có hiệu quả, bảo toàn được vốn, ổn định thu nhập của người lao
động, đời sống cán bộ công nhân viên không ngừng được nâng lên, tạo đà cho sự tiếp
tục phát triển của công ty trong các năm tiếp theo.
Một số chỉ tiêu thực hiện được trong năm 2010 của công ty như sau: sản lượng
gạo mua vào 206.687 tấn (đạt 114,83 % kế hoạch), sản lượng gạo bán ra 245.004 tấn
(đạt 106,52% kế hoạch), sản lượng gạo xuất khẩu 150.661 tấn (đạt 107,62% kế
hoạch), kim ngạch xuất khẩu 68.286.226 USD (đạt 115,31% kế hoạch).
Công ty luôn phát huy tối đa những lợi thế về kinh nghiệm, cơ sở vật chất, về
xuất khẩu gạo thơm, gạo cao cấp, bám sát thông tin thị trường, điều hành linh hoạt
công tác mua vào, bán ra. Bên cạnh đó, công ty rất chú trọng công tác phát triển đào
tạo nguồn nhân lực, quan tâm bồi dưỡng lực lượng trẻ, lực lượng trực tiếp sản xuất,
và có chính sách tuyển dụng thu hút nhân tài vào làm việc tại công ty nhằm đảm bảo
yêu cầu phát triển bền vững của công ty [10].
1.7.1.2. Kinh nghiệm của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang (Angimex)
Công ty Angimex luôn nằm trong Top 10 doanh nghiệp xuất gạo lớn nhất Việt
Nam. Angimex hiện có năng lực sản xuất 350.000 tấn gạo/năm với hệ thống các nhà
máy chế biến lương thực được phân bố tại các vùng nguyên liệu trọng điểm, giao
thông thuận lợi, sức chứa kho trên 70.000 tấn và hệ thống sấy, xay xát, lau bóng gạo,
máy tách màu hiện đại. Mỗi năm Công ty xuất khẩu từ 230.000 300.000 tấn gạo các
loại sang các thị trường như: Singapore, Malaysia, Philippines, Indonesia, Africa,
Iran, Iraq, Cuba, Hongkong, Campuchia,…
32
Công ty đã hình thành mạng lưới thu mua và tiêu thụ lúa gạo trong nông dân
qua các phương thức như: mua lúa gạo trực tiếp của nông dân thông qua các xí
nghiệp, các kho của công ty tại các vùng trồng lúa lớn của tỉnh và các tỉnh lân cận.
Bên cạnh đó, công ty cũng đã thành lập các tổ thu mua lúa lưu động, trực tiếp mua
lúa tại ruộng của nông dân trong thời gian thu hoạch rộ để đưa về kho phơi, sấy.
Công ty còn thực hiện bao tiêu sản phẩm lúa gạo với các hợp tác xã nông nghiệp
thông qua việc ký kết hợp đồng với các hợp tác xã.
Để nâng cao chất lượng lúa gạo sau chế biến, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu
An Giang (Angimex) đã đầu tư xây dựng khu liên hợp chế biến lúa gạo. Khu liên hợp
thực hiện chức năng như: sấy lúa, xay xát, chế biến, tồn trữ lúa gạo thông qua việc
mua lúa tươi khi thu hoạch, giúp giảm chi phí, gia tăng thu nhập cho nông dân trồng
lúa.
Khu liên hợp có hệ thống kho dự trữ, sức chứa gần 30.000 tấn lúa, hệ thống
sấy lúa đạt năng suất 600 tấn lúa/ngày, cùng với dây chuyền xay xát có công suất 20
tấn/giờ, và lau bóng gạo đạt công suất 20 tấn/giờ. Việc xây dựng khu liên hợp chế
biến lúa gạo đã góp phần làm giảm thất thoát trong khâu thu hoạch lúa, đồng thời tạo
nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định để phát triển thị trường xuất khẩu gạo chất lượng
cao và thị trường gạo nội địa, tiến tới phát triển các sản phẩm tiềm năng tích hợp từ
hạt lúa. Ngoài ra, khu liên hợp còn thực hiện nhiệm vụ hợp tác giữa đơn vị kinh
doanh và nông dân. Công ty Angimex sẽ cung ứng giống, phân bón, thuốc bảo vệ
thực vật, hướng dẫn kỹ thuật canh tác và bao tiêu sản phẩm cho nông dân [9].
1.7.2. Kinh nghiệm phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế
biến lúa gạo ở một số địa phương trên thế giới
1.7.2.1. Kinh nghiệm phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế
biến lúa gạo ở các tỉnh vùng Đông Bắc Thái Lan
Thái Lan là một trong những nước sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo lớn của
thế giới. Nghiên cứu kinh nghiệm của các doanh nghiệp Thái Lan giúp ích rất nhiều
cho việc phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo thành
phố Cần Thơ trong thời gian tới.
33
(1) Hoạt động sản xuất, chế biến: Thái Lan là nước xuất khẩu gạo đứng đầu
thế giới, hàng năm các doanh nghiệp Thái Lan xuất khẩu khoảng từ 8 10 triệu tấn
gạo, đạt kim ngạch khoảng 6 tỷ USD. Các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của Thái
Lan thời gian qua phát triển rất mạnh và họ đã hình thành được những doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh lúa gạo với quy mô lớn và phần lớn những doanh nghiệp này
nằm ở các tỉnh thuộc vùng Đông Bắc.
Ưu điểm của gạo Thái Lan là chất lượng cao, mẫu mã, bao bì rất đẹp và trên
bao bì có ghi đầy đủ các thông tin về sản phẩm như: hạn sử dụng, loại gạo, hàm
lượng dinh dưỡng,... Các doanh nghiệp cùng với Chính phủ nước này đã kiểm soát rất
tốt vấn đề giống gieo trồng của nông dân, nông dân Thái Lan chủ yếu trồng các giống
lúa cao sản có chất lượng rất cao và phần lớn họ chỉ trồng một vụ lúa trong năm. Việc
quy hoạch vùng nguyên liệu được các doanh nghiệp thực hiện rất chặt chẽ; trong
khâu thu hoạch được cơ giới hóa hoàn toàn từ công đoạn cắt, gom, tuốt, làm khô đến
bảo quản. Trong lĩnh vực chế biến, các doanh nghiệp chế biến lúa gạo ở vùng Đông
Bắc Thái Lan có máy móc, thiết bị khá hiện đại và đồng thời họ tổ chức rất nghiêm
ngặt quy trình chế biến lúa gạo.
Để nâng cao chất lượng gạo sau khi chế biến, hầu hết các doanh nghiệp của
các địa phương này đều có xây dựng vùng nguyên liệu thông qua ký kết hợp đồng
bao tiêu sản phẩm với nông dân và các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Các doanh
nghiệp sẽ ứng vốn trước, cung cấp giống và hỗ trợ về kỹ thuật canh tác lúa cho nông
dân và các hợp tác xã này. Chất lượng lúa được các doanh nghiệp này kiểm định và
phân loại ngay tại đồng ruộng, từ đó làm cho chất lượng lúa trước khi chế biến rất
cao. Chính vì vậy, chất lượng gạo của Thái Lan được khách hàng ưa chuộng, tin cậy
và có khả năng cạnh tranh rất cao.
Nhằm giúp cho ngành sản xuất lúa phát triển, bên cạnh sự đầu tư của Chính
phủ, các doanh nghiệp đã dành nguồn kinh phí rất lớn đầu tư cho nghiên cứu và triển
khai các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất lúa đến nông dân để nâng cao năng suất, chất
lượng lúa gạo. Từ khi Viện lúa quốc tế (IRRI) được thành lập vào năm 1960, các
34
doanh nghiệp luôn hợp tác chặt chẽ với cơ quan này trong nghiên cứu lai tạo các
giống lúa mới cho năng suất, chất lượng cao và phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ
nhưỡng.
Để triển khai các ứng dụng tiến bộ kỹ thuật đến với nông dân, các doanh
nghiệp đã phối hợp chặt chẽ với Cục triển khai nông nghiệp Thái Lan nhằm giúp
nông dân sản xuất lúa trong các vấn đề như: giúp nông dân cải tiến thực trạng sản
xuất và hiện đại hóa nông nghiệp; giúp nông dân những khó khăn về kỹ thuật trong
sản xuất lúa.
(2) Sự hỗ trợ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp: Để hỗ trợ cho các
doanh nghiệp chế biến lúa gạo phát triển nhanh và bền vững, Chính phủ Thái Lan đã
thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ như: đẩy mạnh sản xuất lúa, đầu tư cơ sở hạ tầng,
khuyến khích xuất khẩu, hỗ trợ về tài chính,…
Hỗ trợ tài chính, tín dụng: Chính phủ Thái Lan can thiệp có hệ thống vào thị
trường vốn thông qua đòn bẩy lãi suất tín dụng, hướng luồng vốn chảy vào các
ngành, lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư. Lĩnh vực chế biến lúa gạo là một trong những
hướng mà Chính phủ Thái Lan quan tâm đầu tư. Chính phủ nước này còn thông qua
chính sách ưu tiên phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để phát triển CNCB lúa gạo
hướng về xuất khẩu. Thực hiện các ưu đãi về tài chính bằng cách "tài trợ ngầm"
thông qua tín dụng, tức là duy trì lãi suất tín dụng thấp hơn lãi suất thị trường chứng
khoán. Đây là cách kiềm chế nhẹ, nó không chỉ giữ cho lãi suất ổn định mà còn đảm
bảo "thực dương” với lãi suất tiền gửi.
Khuyến khích về thuế: Đi liền với những trợ giúp về tài chính là việc sử dụng
đòn bẩy thuế để khuyến khích các doanh nghiệp chế biến kinh doanh lúa gạo phát
triển. Chính phủ Thái Lan đã giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị và các phụ kiện
từ 40% xuống còn 5%.
Thúc đẩy xuất khẩu: Để sản phẩm lúa gạo tiếp vận với thị trường thế giới và
phát triển lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và lao động; Chính phủ nước này đã đưa
ra những chính sách khuyến khích và thúc đẩy xuất khẩu lúa gạo.
35
Từ năm 1952, Thái Lan đã có cơ quan xúc tiến xuất khẩu, nay là Cục xúc tiến
xuất khẩu Thái Lan (Department of Industrial Promotion DEP), trực thuộc Bộ
Thương mại. DEP hiện có 57 văn phòng ở cả trong và ngoài nước. Trong lĩnh vực
xúc tiến xuất khẩu gạo, DEP có nhiệm vụ: cung cấp thông tin về thị trường thế giới,
cơ hội buôn bán và các quy định trong xuất khẩu lúa gạo,...
Đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực: Ngày
nay, Thái Lan thực hiện chính sách phát triển các ngành CNCB không phải trực tiếp
đi vào các phát minh và cũng không phải thực hiện lần lượt các giai đoạn phát triển
công nghệ từ trình độ thấp lên trình độ cao mà chủ yếu là bằng con đường học hỏi
thông qua mô phỏng, tiếp thu kinh nghiệm, lựa chọn kỹ thuật công nghệ cần thiết để
phát triển.
Hướng phát triển công nghệ ở Thái Lan tập trung vào chuyển dịch cơ cấu kinh
tế cho phù hợp với lợi thế vốn có của đất nước để tham gia vào phân công lao động
và hợp tác quốc tế. Hiện nay, Thái Lan ưu tiên cho phát triển CNCB lương thực, thực
phẩm để chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đi liền với chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế là chính sách “đi tắt khoa
học công nghệ”. Nó được kết hợp chặt chẽ giữa nhập khẩu công nghệ hiện đại của
thế giới với việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, cán bộ
quản lý và nâng cao tay nghề cho người lao động trong nước. Cứ một cán bộ khoa
học kỹ thuật ở Thái Lan hàng năm sử dụng bình quân 18.000 USD khoảng chi tài
chính của Chính phủ.
Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng: Để phát triển nhanh các ngành công nghiệp,
Chính phủ Thái Lan đã đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng như: giao thông, hệ thống
cảng, kho bãi, điện, nước, khu công nghiệp,… và hiện nay cơ sở hạ tầng của Thái
Lan phát triển khá hoàn chỉnh.
Thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế
biến lúa gạo ở vùng Đông Bắc Thái Lan ghi nhận những nỗ lực rất lớn của các doanh
nghiệp cùng sự hỗ trợ có hiệu quả từ phía Chính phủ thông qua việc thực hiện nhiều
36
chính sách như: chính sách đầu tư nghiên cứu và triển khai, chính sách đầu tư trong
nông nghiệp, chính sách tài chính, tín dụng, chính sách thương mại quốc tế,... Hiệu
quả tích cực từ các chính sách này đã đưa nền sản xuất lúa gạo Thái Lan trở nên hiện
đại và dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo trong nhiều thập kỷ qua [28].
1.7.2.2. Kinh nghiệm phát triển sản xuất kinh doanh lúa gạo của Công ty
Riceland Food bang Arkansas nước Mỹ
(1) Hoạt động sản xuất, chế biến: Mỹ là nước sản xuất và chế biến lúa gạo lớn
thứ ba thế giới. Để khuyến khích người trồng lúa, hàng năm trên cơ sở tính toán của
Bộ nông nghiệp Mỹ, Chính phủ có thể ứng trước 1/3 chi phí trồng lúa cho nông dân
thông qua ngân hàng nông nghiệp hoặc các công ty kinh doanh chế biến lúa gạo. Mặc
dù được ứng trước vốn nhưng đến khi thu hoạch, nông dân được quyền tự do bán lúa
cho người mua nào mà họ thấy có lợi nhất. Khi đó nông dân chỉ phải trả lại vốn ứng
trước với lãi suất ưu đãi từ 2 3%/năm.
Bang Arkansas nằm ở phía Nam nước Mỹ, đường biên tự nhiên phía Đông
sông Mississippi cung cấp nguồn nước ngầm cho sản xuất nông nghiệp của cả bang.
Arkansas đứng đầu nước Mỹ về diện tích và sản lượng lúa gạo với gần 9.000 nông
trại trồng lúa của Arkansas hàng năm cung cấp gần 50% sản lượng lúa của Hoa Kỳ.
Diện tích canh tác bình quân của mỗi nông trại khoảng 3.000 mẫu Anh. Nông dân
trồng luân canh ngô, đậu tương và lúa mì. Sản xuất nông nghiệp tại Arkansas là
ngành thâm dụng vốn, mỗi nông trại thường chỉ có 2 đến 3 nhân công. Trong khi đó
yêu cầu đầu tư vốn vào thiết bị canh tác và hệ thống thủy lợi lại rất lớn. Số tiền đầu tư
bình quân tại mỗi trang trại khoảng 500.000 USD.
Để được hỗ trợ tiếp thị và bán hàng, khoảng 60% nông dân ở Arkansas tham
gia với tư cách thành viên của Công ty Chế biến và Kinh doanh lương thực Riceland
Food. Riceland Food hoạt động theo hình thức một hợp tác xã của nông dân, lệ phí
tham gia thành viên của Riceland Food là 1 đô la Mỹ/năm/nông dân. Riceland Food
cung cấp dịch vụ tiếp thị sản phẩm cho gạo, đậu tương và lúa mì của 9.000 nông dân
thành viên ở các bang Arkansas, Louisiana, Mississippi, Missouri và Texas. Công ty
37
luôn nỗ lực tôn trọng quy tắc tối đa hóa giá thu mua lương thực cho các nông trại.
Riceland Food bố trí một hệ thống kho bãi và điểm xuất khẩu dọc theo sông
Mississippi. Mỗi năm, Riceland Food thu nhận, dự trữ, vận chuyển, chế biến và bán
ra khoảng 2,5 triệu tấn lương thực. Sản phẩm gạo của Riceland có chất lượng rất cao.
Riceland Foods đầu tư toàn bộ quá trình sản xuất gạo khép kín từ thóc, gạo lức, gạo
trắng đến gạo đồ. Hiện tại, Riceland Food là công ty chế biến và kinh doanh lúa gạo
lớn nhất thế giới.
Riceland Food phối hợp chặt chẽ với Trung tâm Nghiên cứu và Khuyến nông
Arkansas trong kiểm tra chất lượng giống lúa mới, kiểm tra năng suất chế biến của
gạo được trồng thử nghiệm từ những giống lúa mới, nhờ vậy giúp đảm bảo chất
lượng các hoạt động nghiên cứu ứng dụng phục vụ khuyến nông cho các khách hàng
là nông dân Arkansas.
Trong mùa thu hoạch, nếu giá lúa trên thị trường xuống thấp, bất lợi cho nông
dân sản xuất lúa thì công ty sẽ cấp cho người trồng lúa số tiền lưu kho số lúa đã thu
hoạch, số tiền này bằng giá chuẩn nhân với sản lượng. Giá chuẩn do Bộ Nông nghiệp
Mỹ quy định bằng chi phí sản xuất lúa của nông dân cộng với lợi nhuận bình quân.
Trong thời gian lúa lưu kho, hàng tuần công ty cung cấp thông tin về thị trường lúa
gạo để nông dân tự quyết định bán lúa ra lúc nào có lợi nhất. Với những biện pháp
trên, công ty Riceland Food đã tạo điều kiện cho người nông dân trồng lúa an tâm sản
xuất và đảm bảo lợi nhuận tối đa cho họ [43].
(2) Sự hỗ trợ của Chính phủ: Để hỗ trợ cho ngành hàng lúa gạo phát triển bền
vững, Chính phủ Mỹ đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ như: đầu tư cho khâu sản
xuất lúa, đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công
nghệ,...
Về phát triển sản xuất lúa: Nhằm giúp cho ngành sản xuất lúa phát triển,
trong thời gian qua Chính phủ Mỹ đã dành nguồn kinh phí rất lớn đầu tư cho nghiên
cứu và triển khai các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất lúa đến nông dân để nâng cao
năng suất, chất lượng lúa gạo.
38
Hỗ trợ tài chính, tín dụng: Ngành hàng lúa gạo là một trong những ngành
được Chính phủ Mỹ quan tâm trợ giúp. Hàng năm, Chính phủ Mỹ dành khoảng 2 tỷ
USD hỗ trợ cho những doanh nghiệp chế biến lúa gạo để đổi mới công nghệ, tạm trữ
lúa gạo và đầu tư vốn cho người trồng lúa. Bên cạnh đó, Chính phủ Mỹ còn thực hiện
chính sách hỗ trợ xuất khẩu gạo nhằm giúp cho các doanh nghiệp mở rộng và giữ
vững thị trường xuất khẩu của mình với khoảng kinh phí dành cho hoạt động này
hàng năm khoảng từ 500 700 triệu USD. Thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của các
doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo ở Mỹ là các nước như EU, Nhật, Trung Đông với
các loại gạo phẩm chất cao.
Đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ: Công nghệ chế biến lúa gạo của
nước Mỹ thuộc loại hiện đại nhất của thế giới. Các doanh nghiệp chủ yếu sử các công
nghệ được sản xuất ở trong nước và thực tiễn đã chứng minh các công nghệ sản xuất
ở trong nước hiện đại hơn nhiều so với công nghệ ngoại nhập. Hàng năm, Chính phủ
Mỹ dành nguồn kinh phí rất lớn cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Vì
vậy, ngành cơ khí nông nghiệp của Mỹ rất phát triển và là một trong những nước
đứng đầu thế giới.
Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng: Để phát triển nhanh các ngành công nghiệp,
nước Mỹ đã đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng trong nhiều thập kỷ qua. Hiện nay, cơ
sở hạ tầng về giao thông, hệ thống cảng, sân bay, kho bãi, điện, nước,… của Mỹ vào
loại quy mô và hiện đại nhất thế giới [28].
1.7.2.3. Kinh nghiệm phát triển sản xuất kinh doanh lúa gạo của Công ty
SunRice bang New South Wales nước Úc
So với doanh nghiệp các nước Việt Nam, Thái Lan và Mỹ; hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp chế biến lúa gạo của Úc có nhiều điểm khác biệt. Tuy
nhiên, hiệu quả kinh tế đem lại cho người nông dân trồng lúa và doanh nghiệp chế
biến lúa gạo này là rất cao.
(1) Hoạt động sản xuất, chế biến: Úc không phải là nước sản xuất và chế biến
lúa gạo lớn của thế giới, nhưng Úc có nền sản xuất nông nghiệp và ngành chế biến
lúa gạo rất phát triển so với các nước trên thế giới.
39
Vùng trồng lúa chính của Úc là bang New South Wales, trong đó tập trung ở
03 khu vực là Murrumbidgee, Coleambally và thung lũng Murray, đây là những khu
vực có địa hình bằng phẳng và thuận lợi về nước tưới do có hai con sông
Murrumbidgee và Murray chảy qua. Tiềm năng phát triển trồng lúa của nước Úc rất
lớn vì có đất đai rộng lớn, dân số ít và khả năng cạnh tranh mạnh nhờ năng suất lúa
cao; nhưng diện tích trồng lúa của nước này cũng bị giới hạn bởi yếu tố nước tưới và
biến đổi khí hậu. Tổng diện tích trồng lúa của Úc hàng năm giao động từ 100 150
ngàn ha với hơn 1.700 hộ nông dân trồng lúa. Tại bang New South Wales, bình quân
một hộ nông dân sở hữu 300 ha, trong đó diện tích đất lúa bình quân hộ là 70 ha; lao
động trực tiếp sản xuất lúa khoảng 2.000 người và lao động gián tiếp khoảng 8.000
người (thông thường một lao động đảm nhiệm khoảng 70 ha). Diện tích trồng lúa của
Úc không ổn định một mặt do nông dân trồng lúa không được hưởng chính sách trợ
cấp nên diện tích gieo trồng và sản lượng tăng giảm tùy theo diễn biến giá cả trên thị
trường, mặt khác do thiếu nước nước tưới và biến đổi khí hậu gây ra hạn hán liên tiếp
trong những năm gần đây. Sử dụng nước tiết kiệm và hợp lý là một trong những điều
kiện đặt ra đối với nông dân trồng lúa. Theo quy định, hộ nông dân được sản xuất lúa
nếu thỏa mãn 3 điều kiện: có diện tích đất thích hợp cho việc trồng lúa, sử dụng nước
hợp lý và tổng diện tích gieo trồng lúa phải có 70% diện tích được tưới.
Hiện nay, năng suất lúa của Úc luôn đạt mức trên 10 tấn/ha. Sở dĩ nước Úc đạt
năng suất lúa cao nhất thế giới là do nông dân trồng lúa thực hiện các biện pháp kỹ
thuật như luân canh lúa và các loại cây ngũ cốc, cơ giới hóa từ khâu canh tác đến chế
biến, và các cánh đồng lúa hầu như không có sâu bệnh. Bình quân một hộ nông dân
sở hữu 300 ha đất, nông dân chỉ trồng lúa 1 vụ/năm trên một phần ba ruộng đất của
mình theo hệ thống luân canh: lúa + kiều mạch hoặc đại mạch. Hệ thống luân canh
này là phương pháp canh tác lý tưởng giúp sử dụng ít phân hóa học (chỉ 60 kg đạm
Ure/ha cho lúa, trong khi bình quân ở các nước khác là khoảng 300 kg đạm Ure/ha),
ít thuốc diệt cỏ và bồi dưỡng tốt cho đất đai, nhưng năng suất rất cao. Bên cạnh đó,
ngành trồng lúa của nước Úc cũng ít bị nhiễm các loại sâu bệnh thường thấy ở các
vùng sản xuất lúa nhiệt đới và ôn đới khác trên thế giới, nhờ chương trình kiểm dịch
40
chặt chẽ (rice check), khí hậu tốt, trồng một vụ lúa/năm, hệ thống luân canh hữu hiệu
và chương trình cải thiện giống lúa tiến bộ.
Tiêu dùng gạo nội địa chỉ chiếm 15%, còn lại 85% là xuất khẩu, khối lượng
gạo xuất khẩu của Úc chiếm 20 25% thương mại gạo loại hạt gạo cỡ trung bình
(medium grain) toàn thế giới. Trong thập niên 1980, giá lúa gạo trên thị trường thế
giới xuống thấp gây khó khăn trong việc tiêu thụ lúa gạo của Úc. Để đối phó với tình
hình này, ngành lúa gạo Úc đã phát động các chiến dịch kích cầu để gia tăng tiêu thụ
lúa gạo trên thị trường nội địa, qua đó kích thích công nghiệp chế biến lúa gạo phát
triển. Kể từ đó đến nay, hạ tầng chế biến lúa gạo Úc liên tục được đầu tư, đổi mới
theo hướng đồng bộ và hiện đại. Công nghiệp chế biến lúa gạo phát triển đã nâng đỡ
cho ngành lúa gạo Úc phát triển sản phẩm và thị trường ra ngoài biên giới Úc với các
sản phẩm có chất lượng cao, thâm nhập các thị trường cao cấp và thu về giá trị gia
tăng rất cao.
(2) Tổ chức ngành hàng lúa gạo và vai trò của Chính phủ Úc: Tổ chức ngành
hàng lúa gạo Úc khá đơn giản, gọn nhẹ, nhưng hiệu quả, bao gồm 3 cơ quan: Hội
đồng giám sát hoạt động thương mại gạo bang New South Wales (gọi tắt là RMB
Rice Marketing Board for the State of New South Wales), Hiệp hội những người
trồng lúa Úc (gọi tắt là RGA Rice Growers’ Association of Australia) và Công ty
TNHH thương mại SunRice. Ba cơ quan này hoạt động thông qua Ủy ban phối hợp
ngành hàng lúa gạo (Rice Industry Coordination Committee).
RMB thành lập từ năm 1928 và hoạt động dựa trên luật marketing các sản
phẩm chính (the Marketing of Primary Products Act, 1927). Cơ quan này giữ vai trò
quản lý hạ tầng kho bãi ngành hàng lúa gạo Úc, đồng thời thực hiện ba chức năng đối
với riêng bang New South Wales, đó là: khuyến khích phát triển thị trường gạo trong
nước cạnh tranh cao, bảo vệ lợi ích người trồng lúa trong hoạt động kinh doanh xuất
khẩu gạo, đại diện người trồng lúa bang New South Wales.
RGA thành lập năm 1930, là cơ quan đại diện tiếng nói tập thể của người
trồng lúa, với số lượng hội viên tham gia tự nguyện hiện nay là hơn 1.700 người. Cơ
41
quan này thực hiện ba chức năng như: đề xuất và thực thi các chính sách ngành lúa
gạo nhằm đảm bảo lợi ích cho người trồng lúa; đại diện cho người trồng lúa đối với
chính quyền bang, Chính phủ, các cơ quan, tổ chức địa phương, các nhóm lợi ích
khác có liên quan đến ngành hàng lúa gạo; phục vụ các yêu cầu cụ thể của các hội
viên.
SunRice là công ty kinh doanh lúa gạo được thành lập từ năm 1950, ban đầu
dưới dạng tổ chức hợp tác của những người trồng lúa. Hiện nay, công ty hoạt động
dưới hình thức công ty cổ phần, trong đó những nông dân trồng lúa đóng vai trò là
những cổ đông. Sunrice là một trong những thương hiệu chế biến xuất khẩu lớn của
Úc với 500 ngàn tấn của hơn 1.000 sản phẩm từ gạo các loại, xuất khẩu đến 60 quốc
gia trên thế giới. Hiện nay, công ty có 3 nhà máy chế biến đóng gói sản phẩm ở
Leeton, Deniliquin và Coleambally, chế biến ra 3 dòng sản phẩm chính là gạo, bột
gạo và các loại bánh chế biến từ gạo; ngoài ra công ty còn có các nhà máy đặt tại một
số quốc gia như Ấn Độ, Jordan, Solomon,...
Mô hình tổ chức ngành hàng lúa gạo nước Úc cho thấy vai trò của Chính phủ
không lớn trong việc đảm bảo lợi ích của nông dân trồng lúa. Việc đề xuất và thực thi
các chính sách liên quan đến ngành hàng lúa gạo đều xuất phát từ người trồng lúa,
Chính phủ và Chính quyền bang chỉ đóng vai trò là cơ quan giám sát quá trình thực
thi dựa trên các đạo luật có liên quan. Đặc biệt, mô hình công ty SunRice hoạt động
dưới hình thức công ty cổ phần trong đó người trồng lúa là thành viên đã thúc đẩy
quá trình chuyên môn hóa trong sản xuất lúa gạo của nước Úc. Nông dân trồng lúa ở
Úc trong vai trò là người sản xuất chỉ tập trung canh tác lúa thật tốt để cho năng suất,
sản lượng tối đa; các khâu chế biến, tiêu thụ do công ty đảm nhiệm, song lợi nhuận
cuối cùng được phân phối công bằng cho các thành viên theo tỷ lệ công việc mà họ
đóng góp. Cách thức tổ chức khép kín từ khâu sản xuất đến chế biến và tiêu thụ đã
giúp loại bỏ được các thành phần trung gian, giảm chi phí và giúp ngành hàng lúa gạo
của nước Úc tăng khả năng cạnh tranh so với các quốc gia sản xuất lúa gạo khác trên
thế giới [41].
42
1.7.3. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ các doanh nghiệp trong và
ngoài nước đối với sự phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến
lúa gạo của TP. Cần Thơ
Từ thực tiễn phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến lúa
gạo trong nước và trên thế giới, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với sự
phát triển của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của TP. Cần Thơ trong thời gian tới
như sau:
Một là, doanh nghiệp phải chủ động xây dựng vùng nguyên liệu và thiết lập
mạng lưới thu mua lúa đến tận nông dân: Kinh nghiệm của các doanh nghiệp trên
cho thấy, để phát triển sản xuất kinh doanh bền vững thì trước tiên doanh nghiệp phải
chủ động xây dựng vùng nguyên liệu thông qua việc ký kết hợp đồng bao tiêu sản
phẩm với các hợp tác xã nông nghiệp và nông dân; hình thành mạng lưới thu mua lúa
gạo đến tận nông dân thông qua các phương thức như: mua lúa gạo trực tiếp của nông
dân thông qua các xí nghiệp, các kho của doanh nghiệp tại các vùng trồng lúa trọng
điểm, thành lập các tổ thu mua lưu động trực tiếp mua lúa tại ruộng của nông dân
trong thời gian thu hoạch. Xây dựng những vệ tinh là các doanh nghiệp tư nhân, hợp
tác xã có chức năng xay xát lúa gạo đứng ra thu mua lúa trong nông dân rồi bán lại
cho doanh nghiệp.
Hai là, xây dựng quy trình chế biến lúa gạo theo mô hình khu liên hợp: Để
nâng cao chất lượng lúa gạo sau chế biến, các doanh nghiệp cần đầu tư xây dựng khu
liên hợp chế biến lúa gạo. Khu liên hợp thực hiện chức năng như: sấy lúa, xay xát,
chế biến, tồn trữ lúa gạo. Việc xây dựng khu liên hợp chế biến lúa gạo sẽ góp phần
làm giảm thất thoát trong khâu thu hoạch lúa, nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu
và giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc phát triển thị trường xuất khẩu cũng
như thị trường gạo nội địa.
Ba là, đẩy mạnh phát triển theo mô hình “Công ty cổ phần nông nghiệp” để
nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo và góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã
hội: Việc nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo thông qua mô hình công ty cổ
phần giống như mô hình công ty Sunrice của nước Úc có một số ưu điểm như: duy trì
43
và kiểm soát được số lượng và lợi ích của các tác nhân trong chuỗi cung theo hướng
công bằng và minh bạch; giúp các thành phần trong chuỗi có động lực để làm tốt các
công việc của mình, qua đó làm cho cả hệ thống vận hành hiệu quả, giá trị sản phẩm
luôn được gia tăng qua mỗi công đoạn và làm tăng lợi nhuận trên đơn vị sản phẩm
cuối cùng; mô hình công ty cổ phần tập hợp và tổ chức được nông dân sản xuất lúa
gạo theo nhu cầu thị trường để thu được lợi ích cao nhất; quyền lợi và lợi ích của
người sản xuất lúa được đảm bảo; phân công lao động trong chuỗi cung ngành hàng
lúa gạo đạt trình độ hợp lý, khoa học và hiệu quả cao.
Qua kinh nghiệm công ty Sunrice của nước Úc, có thể thấy mô hình “Công ty
cổ phần nông nghiệp” là hình thức tổ chức phù hợp đối với nông dân trồng lúa và các
doanh nghiệp chế biến lúa gạo của Cần Thơ.
Bốn là, sự hỗ trợ của Nhà nước về tài chính, tín dụng, thuế, thúc đẩy xuất
khẩu, khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực là rất quan trọng.
Về tài chính, tín dụng và thuế: Chính phủ các nước đã hướng luồng vốn chảy
vào các ngành, lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư. Trong đó, ngành hàng lúa gạo là một
trong những lĩnh vực mà Chính phủ các nước Thái Lan, Mỹ quan tâm đầu tư. Đi liền
với những trợ giúp về tài chính là việc sử dụng đòn bẩy thuế để khuyến khích các
doanh nghiệp chế biến lúa gạo phát triển. Các phương thức hỗ trợ thông qua chính
sách về thuế bao gồm: miễn và giảm thuế thu nhập, thuế kinh doanh, thuế lợi tức,
giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị và các phụ kiện,… Ví dụ như: Thái Lan thực
hiện chính sách giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị và các phụ kiện từ 40%
xuống chỉ còn 5%.
Thực hiện có hiệu quả chính sách thúc đẩy xuất khẩu: Để hỗ trợ các doanh
nghiệp chế biến lúa gạo phát triển các nước đã đưa ra những chính sách khuyến khích
và thúc đẩy xuất khẩu như thực hiện miễn, giảm thuế và cấp vốn với lãi suất thấp để
tăng sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, hỗ trợ về xúc tiến thương mại cho các
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
Phát triển khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực: Ngày nay, các
nước đang phát triển và có điều kiện tương đồng giống Việt Nam đang thực hiện
44
chính sách phát triển khoa học công nghệ chủ yếu là bằng con đường học hỏi, tiếp thu
kinh nghiệm và lựa chọn kỹ thuật công nghệ cần thiết để phát triển. Đi liền với các
chính sách trên là chính sách “đi tắt khoa học công nghệ”. Nó được kết hợp chặt chẽ
giữa nhập khẩu công nghệ với nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ khoa học công
nghệ, cán bộ quản lý và nâng cao tay nghề cho người lao động. Ví dụ như cứ một cán
bộ khoa học kỹ thuật ở Thái Lan hàng năm sử dụng bình quân 18.000 USD khoảng
chi tài chính của Chính phủ.
Trong quá trình phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến
lúa gạo các nước, việc lựa chọn công nghệ thích hợp có vai trò rất quan trọng, không
nhất thiết các công nghệ đó phải là nhập ngoại mà có thể đó là những công nghệ được
sản xuất trong nước, nếu nó đáp ứng được yêu cầu. Hiện nay, các nước rất chú trọng
đến phát triển ngành cơ khí nông nghiệp nhằm làm giảm bớt sức lao động trong nông
nghiệp, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm sau khi chế biến.
Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng: Để phát triển nhanh các ngành công nghiệp,
Chính phủ các nước đã đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng như giao thông, hệ thống
cảng, kho bãi, điện, nước, khu công nghiệp,… và hiện nay cơ sở hạ tầng của các nước
trong khu vực phát triển khá hoàn chỉnh.
Những kinh nghiệm nêu trên là sẽ những bài học quý giá và bổ ích đối với sự
phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ
trong thời gian tới.
45
CHƯƠNG 2
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH CÁC DOANH
NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO CỦA THÀNH PHỐ CẦN THƠ
TRONG THỜI GIAN QUA
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của chương 1, trong chương 2 sẽ đánh giá thực
trạng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo với mục tiêu phân tích,
đánh giá các kết quả đạt được và tìm ra các hạn chế cản trở sự phát triển của doanh
nghiệp. Đồng thời, sẽ phân tích các yếu tố môi trường để tìm ra các cơ hội và nguy cơ
để làm cơ sở cho việc định hướng phát triển các doanh nghiệp chế biến lúa gạo thành
phố Cần Thơ đến năm 2020.
2.1. TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHỐ CẦN THƠ
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Thành phố Cần Thơ được thành lập trên cơ sở tách từ tỉnh Cần Thơ cũ theo
Nghị quyết số 22/2003/QH 11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (khóa XI) và Nghị định số 05/2004/NĐCP ngày 02/01/2004 của
Chính phủ, là một trong năm thành phố trực thuộc Trung ương trong cả nước.
Thành phố Cần Thơ nằm ở vị trí trung tâm vùng ĐBSCL, trải dài trên 55km
dọc bờ Tây sông Hậu, tổng diện tích tự nhiên là 1.389,6 km 2 chiếm 3,49% diện tích
vùng ĐBSCL. Phía Bắc giáp tỉnh An Giang, phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp và tỉnh
Vĩnh Long, phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang và phía Nam giáp tỉnh Hậu Giang.
Với vị trí địa lý trung tâm và quá trình phát triển thành đô thị lớn nhất vùng
ĐBSCL, thành phố Cần Thơ là cửa ngõ giao lưu chính của vùng Tây Nam sông Hậu
với Tứ giác Long Xuyên, vùng Bắc sông Tiền và vùng trọng điểm kinh tế phía Nam;
là giao điểm của nhiều tuyến giao thông thủy, bộ quan trọng như: trục đường bộ
46
thành phố Hồ Chí Minh thành phố Cần Thơ, từ thành phố Cần Thơ rẽ các nhánh đi
Cà Mau, Kiên Giang và Long Xuyên Châu Đốc hướng về Phnôm Pênh
(Campuchia); trục sông Hậu nối từ Biển Đông đến Phnôm Pênh; các tuyến đường
thủy quốc gia cái Sắn, xà No; có cảng biển lớn nhất vùng ĐBSCL và đặc biệt là có
sân bay quốc tế Cần Thơ, là sân bay quốc tế duy nhất của cả vùng.
Thành phố Cần Thơ gồm có 5 quận: Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn,
Thốt Nốt và 4 huyện: Cờ Đỏ, Phong Điền, Thới Lai, Vĩnh Thạnh. Trung tâm thành
phố Cần Thơ đặt tại quận Ninh Kiều, là nơi tập trung các cơ quan Trung ương, cơ
quan Đảng, đoàn thể, trụ sở các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước, các cơ sở
quan trọng về thương mại, dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông, vận tải, giáo dục,
văn hóa thể dục thể thao, an ninh, quốc phòng và khu dân cư đô thị.
Với vị trí địa lý trên, thành phố Cần Thơ có lợi thế trong phát triển công nghiệp
chế biến so với các tỉnh trong vùng ĐBSCL, có lợi thế để hướng tới trung tâm công
nghiệp chế biến lúa gạo của cả vùng [17].
2.1.1.2. Khí hậu, thời tiết
Thành phố Cần Thơ nằm trong vùng khí hậu chung của vùng ĐBSCL, vùng
khí hậu nhiệt đới cận xích đạo, với các đặc điểm: năng lượng bức xạ dồi dào, nắng
nhiều (trung bình 6,4 giờ/ngày), nhiệt độ cao đều trong năm (khoảng 27 o c), biên độ
dao động giữa ngày và đêm nhỏ; khí hậu chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng
5 đến tháng 11 trùng với gió Tây Nam và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 trùng với
giá mùa Đông Bắc. Thành phố Cần Thơ có khí hậu rất thuận lợi cho việc phát triển
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ [17].
2.1.1.3. Chế độ thủy văn, nguồn nước
Tổng chiều dài dòng chảy trên địa bàn thành phố là 3.405km so với mật độ
trung bình của sông rạch 1,80 km/km 2 , dòng chảy chính là sông Hậu. Sông Hậu chảy
qua trên 55 km chiều dài địa bàn thành phố, các kênh rạch khác gồm 03 nhóm: các
kênh rạch chuyển nước từ sông Hậu về biển Tây và bán đảo Cà Mau, các kênh song
song với sông Hậu và các sông rạch tự nhiên chịu ảnh hưởng triều cường. Vào mùa lũ
47
(từ tháng 9 đến đầu tháng 11 hàng năm), địa bàn thành phố Cần Thơ chịu ảnh hưởng
của dòng lũ từ sông Hậu và tứ giác Long Xuyên, trong đó có khoảng 87.800 88.400
ha ngập trung bình 50 100 cm, những ảnh hưởng của triều cường vẫn rõ nét. Với
đặc điểm này thành phố Cần Thơ có lợi thế để phát triển nuôi trồng, đánh bắt thủy
sản, vận tải sông, du lịch sông nước và thuận lợi cho việc phát triển các khu đô thị
sinh thái [17].
2.1.1.4. Tài nguyên
Thành phố Cần Thơ nằm trong vùng đồng lũ nửa mở, bao gồm 03 dạng địa
mạo: đê tự nhiên ven sông Hậu, đồng lũ nửa mở thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên và
đồng bằng Châu thổ. Cao trình phổ biến từ +0,8 1,0m và thấp dần từ Đông Bắc sang
Tây Nam. Địa hình được hình thành chủ yếu qua quá trình bồi lắng trầm tích biển và
phù sa của sông Cửu Long, trên bề mặt ở độ sâu 50m có 2 loại trầm tích: Holocene
(phù sa mới) và Pleistocene (phù sa cổ).
Về thổ nhưỡng: Có 02 nhóm đất chính là nhóm đất phù sa chiếm 84% diện tích
tự nhiên và nhóm đất phèn chiếm 16% diện tích tự nhiên.
Về khoáng sản: Tài nguyên khoáng sản nghèo, chỉ bao gồm một số đất sét làm
gạch ngói (khoảng 16,8 triệu m 3 ), cát nền (khoảng 70 triệu m 3 ) và than bùn (khoảng
30.000 150.000 tấn). Nước ngầm có dung lượng khá dồi dào, chất lượng tốt.
Về sinh vật: Tài nguyên sinh vật phong phú, bao gồm hệ thống sinh vật nuôi
trồng và sinh vật tự nhiên.
Các loại cây trồng khá phong phú, bao gồm lúa nước, các loại cây ăn trái, rau,
màu, với đặc điểm là đất phù sa màu mỡ nên cho năng suất cao và chất lượng tốt. Vật
nuôi chính là trâu, bò, heo, gia cầm,...
Thực vật tại vùng đất phù sa nước ngọt chủ yếu là các loại cỏ, rong tảo,... tại
vùng đất phèn, hệ thực vật chủ yếu là tràm, chà là nước, choại, mớp,... Động vật gồm
các loài chim, gà nước, le le, trích, bò sát,...
Thủy sinh vật nước ngọt khá phong phú và đa dạng với 173 loài cá, 14 loài
tôm, 98 loài thực vật nổi, 129 loài động vật nổi, 43 loài động vật đáy. Nguồn tài
48
nguyên thủy sản trong thời gian qua bị suy giảm do ảnh hưởng của canh tác nông
nghiệp sử dụng nhiều chất hóa học (phân bón, thuốc trừ sâu), chất thải công nghiệp
và sinh hoạt; khai thác vượt quá khả năng tái tạo của tự nhiên. Tuy nhiên, so với các
tỉnh, thành khác trong vùng và cả nước thì môi trường nước của Cần Thơ là rất tốt.
Tóm lại, yếu tố tự nhiên hiện có là điều kiện thuận lợi để thành phố Cần Thơ
phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, nuôi trồng thủy hải sản, trồng trọt, chăn
nuôi và đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy hải sản [17].
2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
2.1.2.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tăng trưởng kinh tế: Những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành
phố Cần Thơ luôn giữ được ở mức khá cao, với mức tăng trưởng bình quân hàng năm
đạt xấp xỉ 14%/năm (GDP theo giá so sánh 1994), cao hơn so với mức tăng trưởng
bình quân của vùng ĐBSCL là 12,26%/năm và cao hơn mức tăng trưởng bình quân
của cả nước đạt xấp xỉ 8%/năm trong giai đoạn 2005 2009. Tổng sản phẩm trên địa
bàn thành phố (GDP theo giá thực tế) năm 2009 đạt 37.202 tỉ đồng, tăng gấp 2,6 lần
so với năm 2005, bình quân GDP/người từ 11,87 triệu đồng/người/năm năm 2005
tăng lên 31,2 triệu đồng/người/năm năm 2009, cao hơn mức bình quân chung của cả
nước khoảng 20% [7].
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố Cần
Thơ trong thời gian qua chuyển dịch đúng hướng, ngành công nghiệp đã đóng vai trò
quan trọng trong nền kinh tế thành phố. Giai đoạn 2001 2005, công nghiệp xây
dựng tăng 17,58%/năm, thương mại dịch vụ tăng 13,44%/năm và nông nghiệp tăng
8,14%/năm. Giai đoạn 2005 2009, công nghiệp xây dựng tăng 21,33%/năm,
thương mại dịch vụ tăng 29,66%/năm và nông nghiệp tăng 11,26%/năm.
Năm 2006, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, đạt 25,89% (GDP theo giá hiện
hành); cơ cấu kinh tế thành phố Cần Thơ tiếp tục chuyển biến theo hướng tích cực, cụ
thể như sau: khu vực I chiếm 17,05%, khu vực II chiếm 38,70% và khu vực III chiếm
44,25%, mặc dù khu vực II tăng khá cao 23,33% so với cùng kỳ năm trước, song vẫn
49
thấp hơn so với khu vực III, tăng 33,36%, thêm vào đó tỷ trọng giá trị khu vực II còn
khá thấp nên cơ cấu kinh tế của thành phố trong năm 2006 có hướng thiên về tăng
mạnh khu vực III .
Năm 2007, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao 22,23% (GDP theo giá hiện hành),
cơ cấu kinh tế TP. Cần Thơ tiếp tục chuyển biến theo hướng tích cực, cụ thể như sau:
khu vực I chiếm 15,15%, khu vực II chiếm 41,23% và khu vực III chiếm 43,62%,
mặc dù khu vực II tăng khá cao 21,2% so với cùng kỳ năm trước, song vẫn thấp hơn
so với khu vực III, tăng 24,78%, thêm vào đó tỷ trọng giá trị khu vực II còn khá thấp
nên cơ cấu kinh tế của thành phố trong năm 2007 có hướng thiên về tăng mạnh khu
vực III .
Năm 2008, trong bối cảnh tình hình thế giới có những biến động phức tạp và
khó lường đã làm ảnh hưởng đến tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã
hội của cả nước và thành phố Cần Thơ. Tuy còn nhiều khó khăn thách thức, song
tăng trưởng kinh tế của thành phố vẫn giữ mức tăng khá cao là 27,86% (GDP theo giá
hiện hành), trong đó: Khu vực I tăng 41,26%, khu vực II tăng 19% và khu vực III
tăng 31,58%. Thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt 24,549 triệu
đồng, quy USD đạt 1,444 USD, vượt 7,8% kế hoạch và tăng 232 USD so với năm
2007.
Năm 2009, tình hình kinh tế thế giới có những bước khởi sắc đã có ảnh hưởng
tích cực đến tình hình phát triển kinh tế của cả nước nói chung và thành phố Cần Thơ
nói riêng. Tuy vẫn còn nhiều khó khăn thách thức, song tăng trưởng kinh tế vẫn giữ
mức tăng khá cao là 17,73% (GDP theo giá hiện hành), trong đó: Khu vực I tăng
7,99%; khu vực II tăng 19,96% và khu vực III tăng 19,04%. Thu nhập bình quân đầu
người theo giá hiện hành đạt 31,2 triệu đồng, quy USD đạt 1.642 USD, tăng 198
USD so với năm 2008. Cơ cấu kinh tế của thành phố tiếp tục chuyển dịch theo đúng
định hướng, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp dịch dụ nông nghiệp
công nghệ cao, nhưng còn chậm so với yêu cầu; tỷ trọng khu vực nông, lâm, ngư
nghiệp, thủy sản chiếm 14,02% , khu vực công nghiệp xây dựng chiếm 42,49%, khu
vực dịch vụ chiếm 43,49% trong cơ cấu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_phap_phat_trien_san_xuat_kinh_doanh_cac_doanh_nghiep_che_bien_lua_gao_cua_thanh_pho_can_tho.pdf