Luận văn Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020

Tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020: 1  MỞ ĐẦU  I. LÝ DO NGHIÊN CỨU  Vùng ĐBSCL có diện tích tự nhiên khoảng 3,97  triệu ha (chiếm khoảng 12%  diện  tích đất của cả nước), dân số  trên 17,7  triệu người,  chiếm hơn 20% dân số cả  nước, GDP của vùng chiếm khoảng 27% GDP của cả nước. Hàng năm toàn vùng sản  xuất hơn 50% sản lượng  lúa và hơn 90%  lượng gạo xuất khẩu của cả nước,  thu về  nguồn ngoại  tệ  khoảng 2,7  tỉ USD/năm. Vì vậy, có  thể khẳng định sản xuất và chế  biến lúa gạo là thế mạnh của vùng ĐBSCL. Sản xuất và chế biến lúa gạo đã góp phần  rất lớn vào việc đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước,  là  tiền đề cho quá trình  công nghiệp hóa ­ hiện đại hóa đất nước nói chung và thành phố Cần Thơ nói riêng.  Với vị trí là trung tâm của vùng ĐBSCL, thành phố Cần Thơ là nơi hội tụ của  nhiều  tuyến giao thông  thủy, bộ  và hàng không quan trọng. Có hai con sông  lớn  là  sông Tiền và sông Hậu  trải dài khắp các  tỉnh,  thành  trong vùng, hệ  thống các cảng  biển lớn nhất vùng như cảng Cái Cui, cảng Cần...

pdf238 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1033 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1  MỞ ĐẦU  I. LÝ DO NGHIÊN CỨU  Vùng ĐBSCL có diện tích tự nhiên khoảng 3,97  triệu ha (chiếm khoảng 12%  diện  tích đất của cả nước), dân số  trên 17,7  triệu người,  chiếm hơn 20% dân số cả  nước, GDP của vùng chiếm khoảng 27% GDP của cả nước. Hàng năm toàn vùng sản  xuất hơn 50% sản lượng  lúa và hơn 90%  lượng gạo xuất khẩu của cả nước,  thu về  nguồn ngoại  tệ  khoảng 2,7  tỉ USD/năm. Vì vậy, có  thể khẳng định sản xuất và chế  biến lúa gạo là thế mạnh của vùng ĐBSCL. Sản xuất và chế biến lúa gạo đã góp phần  rất lớn vào việc đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước,  là  tiền đề cho quá trình  công nghiệp hóa ­ hiện đại hóa đất nước nói chung và thành phố Cần Thơ nói riêng.  Với vị trí là trung tâm của vùng ĐBSCL, thành phố Cần Thơ là nơi hội tụ của  nhiều  tuyến giao thông  thủy, bộ  và hàng không quan trọng. Có hai con sông  lớn  là  sông Tiền và sông Hậu  trải dài khắp các  tỉnh,  thành  trong vùng, hệ  thống các cảng  biển lớn nhất vùng như cảng Cái Cui, cảng Cần Thơ, đặc biệt là có kênh Quan Chánh  Bố cho tàu trọng tải lớn ra vào sông Hậu đã được khởi công vào năm 2009 và dự kiến  hoàn thành vào năm 2012. Quốc lộ 1A đi từ TP. HCM đến Cần Thơ và đến tỉnh Cà  Mau, nơi  tận cùng của tổ quốc; các tuyến quốc lộ từ Cần Thơ đi đến các tỉnh Vĩnh  Long,  Sóc  Trăng,  Đồng  Tháp,  Kiên  Giang,  An  Giang  hướng  về  Phnôm  Pênh  (Campuchia); cùng với đó là sân bay Cần Thơ được đầu tư nâng cấp để trở thành sân  bay quốc tế, hoàn thành và đưa vào khai thác đầu năm 2011. Với những lợi thế trên,  thành phố Cần Thơ có đủ điều kiện để phát triển công nghiệp chế biến lúa gạo và trở  thành trung tâm chế biến lúa gạo của vùng ĐBSCL.  Trong thời gian qua các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ  đã có những bước phát triển đáng khích lệ như: giá trị sản xuất kinh doanh của năm  sau đều  tăng  cao  so  với năm  trước,  kim ngạch  xuất khẩu  gạo  tăng  trưởng khá cao  trong nhiều năm liền, thị trường xuất khẩu được mở rộng, chất lượng và mẫu mã sản 2  phẩm ngày càng được cải tiến, qua đó đã góp phần làm nâng cao hiệu quả kinh doanh  của các doanh nghiệp và nâng cao đời sống cho người trồng lúa.  Tuy vậy, nếu so với những tiềm năng và yêu cầu của quá trình hội nhập kinh  tế quốc tế thì các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ còn rất nhiều  hạn chế như: quy mô của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo nhỏ, các doanh nghiệp  còn  gặp  khó  khăn  về vốn,  chất  lượng nguồn nhân  lực  chưa cao,  trong  khi  trình độ  công nghệ  còn  thấp;  công  tác nghiên  cứu  thị  trường,  quảng  cáo,  xây  dựng  thương  hiệu chưa được các doanh nghiệp quan tâm đúng mức, tình trạng tranh mua tranh bán  giữa các doanh nghiệp  với nhau vẫn còn diễn ra; vấn đề ô nhiễm môi  trường  trong  sản xuất và chế biến đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái tự nhiên  và đời sống của người dân. Vì vậy, để hội nhập với kinh tế quốc tế, nhất  là sau khi  Việt Nam đã gia nhập Tổ chức  thương mại  thế giới  (WTO), các doanh nghiệp chế  biến  lúa gạo của thành phố Cần Thơ cần phải có chiến lược phát triển dài hạn, bền  vững, tận dụng tối đa những tiềm năng, lợi thế sẵn có, khắc phục những yếu kém, tồn  tại  của mình nhằm nâng cao năng  lực sản xuất kinh doanh,  thúc đẩy kinh  tế xã hội  phát triển và góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, nhất là đối với người trồng  lúa. Đây chính là lý do thôi thúc tôi chọn đề tài “Giải pháp phát triển sản xuất kinh  doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020”  để làm luận án tiến sĩ nhằm góp phần phát triển bền vững các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo trong thời gian tới và sự phát triển đó sẽ góp phần  thúc đẩy quá trình công  nghiệp hóa ­ hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của thành phố.  II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU  1. Mục tiêu chung  Mục tiêu chung của luận án là khái quát tổng quan về hoạt động sản xuất kinh  doanh lúa gạo, cùng với hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn để thấy được vai  trò  của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo trong bối cảnh phát triển kinh tế của thành phố  Cần Thơ và toàn vùng ĐBSCL hiện nay. Thông qua những kết quả điều tra, luận án  đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành  phố Cần Thơ, từ đó đề xuất những định hướng, mục tiêu và xây dựng các giải pháp 3  nhằm phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố  Cần Thơ đến năm 2020.  2. Mục tiêu cụ thể  Để giải quyết mục tiêu chung, luận án nghiên cứu ba mục tiêu cụ thể sau:  ­ Thứ nhất: Khái quát  tổng quan  về hoạt động  sản xuất  kinh doanh  lúa gạo,  cùng với hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn để khẳng định việc phát triển sản xuất  kinh doanh các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo là phù hợp với tình hình thực tiễn và  quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ  chức thương mại thế giới (WTO).  ­  Thứ  hai:  Thông  qua  kết  quả  điều  tra,  phân  tích  thực  trạng  sản  xuất  kinh  doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo thành phố Cần Thơ. Từ đó, đánh giá những  thành công và hạn chế của các doanh nghiệp trong thời gian qua.  ­ Thứ ba: Đề xuất các giải pháp để phát  triển sản xuất kinh doanh các doanh  nghiệp chế biến  lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020 nhằm góp phần vào  việc thúc đẩy kinh tế xã hội của thành phố và cả vùng phát triển một cách bền vững.  III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU  1. Đối tượng nghiên cứu của luận án: Là quá trình hình thành và phát triển  của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ.  2. Phạm vi nghiên cứu của luận án: Là các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo  trên địa bàn TP. Cần Thơ. Số liệu nghiên cứu của luận án tập trung từ năm 2000 đến  năm 2009, các giải pháp đề xuất sẽ được áp dụng từ nay đến năm 2020, giai đoạn mà  nước ta đẩy mạnh phát triển công nghiệp để cơ bản trở thành một nước công nghiệp  hóa, hiện đại hóa.  IV. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI  Thời gian qua, việc nghiên cứu ngành hàng lúa gạo đã được nhiều tác giả quan  tâm. Do những hạn chế về thông tin và điều kiện nghiên cứu, dưới đây tác giả xin nêu  một số công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án. 4  ­  Tác  giả  Nguyễn  Công  Thành  (2010),  Viện  lúa  ĐBSCL,  trong  công  trình  nghiên cứu “Đánh giá và phát triển sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và tập huấn nâng  cao  nhận  thức cho các  thành  viên  trong hoạt động này  tại  tỉnh  Hậu  Giang”, đã  phân tích, đánh giá tình hình sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và thực trạng về nhận thức  của tất cả các thành viên có liên quan. Từ đó tập huấn nhằm nâng cao nhận thức và sự  hiểu biết  của họ để đẩy mạnh hoạt động  sản xuất,  xuất  khẩu  lúa  gạo  của  tỉnh Hậu  Giang trong thời gian tới.  Trong công trình nghiên cứu này,  tác giả cũng đã điều tra và phân tích chiều  hướng phát  triển,  tốc độ tăng trưởng, sự ổn định trong sản xuất, xuất khẩu lúa gạo;  hiện  trạng  về  sản  xuất  và  xuất  khẩu;  thuận  lợi  và  khó  khăn  của  nông dân,  cán  bộ  khuyến nông,  thương  lái  và nhà  xuất  khẩu; hiện  trạng  về  sự nhận  thức  của  cán bộ  khuyến  nông, nông  dân  và  các  thành  viên  trong  hệ  thống  thu mua,  chế biến,  xuất  khẩu lúa gạo.  Từ những nội dung nghiên cứu trên đề tài đã xây dựng các giải pháp thiết thực  nhằm  tham mưu  cho  chính  quyền  địa  phương  trong  việc  điều  chỉnh  chính  sách  và  hoạt động để phục vụ tốt hơn cho sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và cải  thiện đời sống  người nông dân. Đây là đề tài nghiên cứu một cách tổng hợp từ sản xuất đến tiêu thụ  lúa gạo, đối tượng nghiên cứu bao gồm nông dân, cán bộ khuyến nông, thương lái và  nhà xuất khẩu. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu này không có phân tích và không có đưa  ra giải pháp nào đối với lĩnh vực chế biến lúa gạo [37].  ­  Tác  giả Cao Minh Nghĩa  (2005), Viện Kinh  tế  TP.HCM,  trong  công  trình  nghiên cứu “Đánh giá thực trạng và định hướng phát triển ngành công nghiệp chế  biến  thực  phẩm  trên  địa  bàn  TP.HCM”,  đã  đánh  giá  rõ  thực  trạng phát  triển  của  ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trên địa bàn thành phố, phân tích sâu những  lợi thế và tồn tại trong phát triển của ngành, nguyên nhân của những tồn tại, đặc biệt  là các nguyên nhân làm giảm tốc độ tăng trưởng ngành chế biến thực phẩm và làm  giảm tỷ trọng của ngành so với tổng giá trị sản xuất công nghiệp trong các năm 2003  và 2004. Qua đó định hướng phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trong  thời gian tới, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh phát  triển ngành cho 5  tương xứng với vị trí của ngành trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn  thành phố Hồ Chí Minh.  Các nội dung được đề cập đến trong đề tài này bao gồm: phân tích thực trạng  tăng trưởng ngành CNCB thực phẩm của TP. HCM giai đoạn 1995 ­ 2004 và đưa ra  các so sánh với cả nước và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; phân tích thực trạng  tăng  trưởng bảy ngành  chế biến  thực phẩm  trên địa bàn  thành phố như: ngành chế  biến thịt, chế biến thủy hải sản, chế biến dầu thực vật, chế biến bơ, sữa, sản xuất sản  phẩm  từ  tinh  bột  (mì  ăn  liền),  sản  xuất  bánh,  kẹo,  sản  xuất  rượu,  bia,  nước  uống  không cồn.  Từ những phân  tích đó,  tác giả đã đề xuất hệ  thống 9 giải pháp để nâng cao  năng lực cạnh tranh của sản phẩm và các kiến nghị với Chính phủ, Bộ, ngành để đẩy  mạnh tăng trưởng bảy ngành chế biến thực phẩm nêu trên. Tuy nhiên, đề tài đã không  sử dụng phương pháp phân tích SWOT và phương pháp chuyên gia để phân tích, để  trên cơ sở đó đưa  ra các hệ thống giải pháp. Vì đây  là đề  tài nghiên cứu về ngành  CNCB thực phẩm nên trong đề tài không có nghiên cứu về chế biến lúa gạo [20].  ­ Tác  giả  Lê Văn Gia Nhỏ  (2005),  trong  công  trình nghiên  cứu  “Phân  tích  ngành  hàng  lúa gạo  thơm  tỉnh  Long An  và  lúa gạo cao  sản  tỉnh  An  Giang”, đã  phân tích  hiệu quả kinh doanh của các tác nhân tham gia ngành hàng lúa gạo, phân  tích tác động chính sách của Chính phủ đến ngành hàng lúa gạo xuất khẩu, đánh giá  lợi  thế so  sánh của bốn nhóm mặt hàng gạo xuất khẩu: gạo  thơm đặc sản, gạo chất  lượng cao, gạo chất lượng trung bình và gạo chất lượng thấp, từ đó đề xuất các chính  sách hỗ trợ quá trình sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo.  Kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng, nông dân là đối  tượng đạt được lợi  ích  nhiều  nhất  trong  các  tác  nhân  tham gia  ngành hàng  lúa  gạo. Bên  cạnh  đó,  các  chính sách của Nhà nước liên quan đến sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo gần như  không  ảnh hưởng đáng kể đến  lợi nhuận của các  tác nhân  tham gia  trong quá  trình  sản xuất và xuất khẩu gạo. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy, việc sản xuất và xuất  khẩu gạo của Việt Nam có lợi thế so sánh cao, đặc biệt là nhóm gạo thơm đặc sản và  nhóm gạo chất lượng cao. 6  Từ những phân  tích đó,  tác giả đã đề xuất ba chính sách đối với Chính phủ.  Một là, tập trung vào việc phát triển vùng nguyên liệu và chế biến xuất khẩu gạo đặc  sản và gạo chất  lượng cao. Hai  là, khuyến khích  tư nhân  tham gia xuất khẩu nhằm  làm tăng khả năng cạnh tranh trong thị trường thu mua lúa gạo và tăng khả năng tìm  kiếm thị trường xuất khẩu gạo trên thế giới. Ba là, các chính sách liên quan đến vấn  đề quota xuất khẩu, đó là:  tổ chức đấu thầu quota xuất khẩu và Chính phủ sử dụng  khoản thu từ đấu thầu này để hỗ trợ nghiên cứu khoa học cho sản xuất, chế biến và  xuất khẩu, đồng thời cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu trong trường hợp nhu cầu  xuất khẩu gạo lớn hơn hạn ngạch nhưng phần xuất khẩu vượt trội này phải chịu thuế  xuất  khẩu.  Tuy  nhiên,  trong  đề  tài  này,  tác  giả  đã  không  phân  tích  thực  trạng  và  không đưa ra giải pháp nào đối với lĩnh vực chế biến lúa gạo [21].  ­ Tác giả Nguyễn Ngọc Châu (2008), trong công trình nghiên cứu “Phân tích  chuỗi giá trị gạo của thành phố Cần Thơ, đã phân tích về doanh thu, chi phí và hiệu  quả sản xuất, kinh doanh của các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị gạo, gồm có:  nông dân, thương lái, doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gạo và nhà bán lẻ. Đồng thời,  tác giả đã phân tích kinh tế chuỗi giá trị gạo ở hai trường hợp: gạo tiêu thụ nội địa và  gạo  xuất  khẩu.  Trong  công  trình  nghiên  cứu  có  sử  dụng  phương  pháp  phân  tích  SWOT về tình hình sản xuất  lúa của nông dân, phân tích mô hình năm áp lực cạnh  tranh của Michael Porter đối với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gạo, phân  tích lợi  thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của sản phẩm gạo Cần Thơ cũng được tác  giả đề cập đến.  Kết quả nghiên cứu cho thấy, dù gạo tiêu thụ nội địa hay xuất khẩu, lợi ích của  người nông dân đạt được trên mỗi kg gạo nhiều hơn so với những tác nhân còn lại.  Tuy nhiên, đời sống của bà con nông dân vẫn còn nghèo, nguyên nhân chủ yếu là do  diện tích đất canh tác ít (bình quân 0,5 ha/hộ). Trong khi đó, thương lái, doanh nghiệp  chế biến, xuất khẩu gạo và nhà bán lẻ có lợi ích đạt được trên mỗi kg gạo thấp hơn  nông dân nhưng do không bị giới hạn tự nhiên về sản lượng tiêu thụ, năng lực tốt thì  tiêu thụ nhiều, năng lực không tốt thì tiêu thụ ít cho nên tổng lợi nhuận họ có thể thu  về  là  rất  lớn.  Bên  cạnh  đó,  nghiên  cứu  cũng  chỉ  ra  rằng,  trong  tình  hình  hiện  nay 7  chuỗi giá trị gạo xuất khẩu hiệu quả hơn chuỗi giá trị gạo tiêu thụ nội địa. Chính vì  vậy,  các  doanh nghiệp  chế  biến,  xuất  khẩu  gạo  quan  tâm  tìm  kiếm hợp đồng  xuất  khẩu nhiều hơn là khai thác thị trường nội địa.  Từ những phân tích trên, tác giả đã đề xuất các giải pháp nâng cao chuỗi giá trị  gạo của thành phố Cần Thơ, bao gồm: giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất lúa, giải  pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động chế biến, phân phối và giải pháp nâng cao giá  trị tăng thêm cho toàn chuỗi.  Do mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích chuỗi giá trị gạo của thành phố  Cần Thơ cho nên trong phần phân tích thực trạng tác giả không nghiên cứu sâu vào  hoạt động chế biến, mà chỉ trình bày khái quát làm cơ sở bổ sung để đề xuất một số  giải pháp nâng cao chuỗi giá trị gạo [6].  ­ Tác giả Diệp Hoàng Sơn (2008), trong công trình nghiên cứu “Hoạch định  chiến  lược  marketing  mặt  hàng  gạo  xuất  khẩu  đồng  bằng  sông  Cửu  Long”,  đã  phân tích, đánh giá các nội dung như: đánh giá  tình hình sản xuất  lúa gạo khu vực  ĐBSCL, phân  tích hiện  trạng chế biến và kinh doanh gạo xuất khẩu của các doanh  nghiệp đóng trên địa bàn, tìm hiểu tình hình sản xuất, tiêu thụ gạo trên thế giới và xây  dựng chiến lược marketing xuất khẩu gạo.  Kết quả của công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng ĐBSCL có nhiều tiềm năng  sản xuất  lúa gạo, đủ cung cấp nhu cầu an ninh lương  thực  trong nước và có dư để  xuất  khẩu  từ 4 đến 4,5  triệu  tấn  gạo đến năm 2015, Việt Nam xếp hạng  trên  trung  bình so với các nước xuất khẩu gạo, nhu cầu tiêu thụ gạo của thế giới trong thời gian  tới rất cao nên sẽ thuận lợi cho việc xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp Việt Nam.  Tuy nhiên, sản xuất lúa ở đây vẫn còn manh mún, nguồn nguyên liệu mang tính thời  vụ cao, hệ thống kho bãi dự trữ thiếu, hoạt động marketing trong các doanh nghiệp  kinh doanh xuất khẩu gạo chưa được xây dựng hoàn chỉnh và nghiêm túc, hệ thống  thông tin chưa hoàn thiện.  Trên  cơ  sở  của  những  đánh  giá  đó,  tác  giả  tiến  hành  xây  dựng  chiến  lược  marketing hỗn hợp, bao gồm:  sản phẩm, giá cả, phân phối và chiêu  thị. Đồng  thời, 8  kiến nghị một số giải pháp cần phối hợp đồng bộ các thành phần: nông dân sản xuất  lúa, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo, hệ thống tín dụng và Nhà nước [25].  Qua các công trình nghiên cứu trên, có thể thấy rằng chưa có một công trình  nào nghiên cứu một cách khoa học, có hệ thống và đề xuất các giải pháp có tính chiến  lược nhằm phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo.  V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đề tài sẽ được kết hợp giữa lý luận và thực tiễn dựa trên những quy luật phát  triển khách quan về kinh tế  ­ xã hội, các quan điểm và chính sách của Nhà nước về  lĩnh vực lúa gạo.  Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án là phương pháp thống kê  mô tả, phân tích thống kê, so sánh tổng hợp, phương pháp điều tra và phương pháp  chuyên gia.  VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN  Luận án là một công trình nghiên cứu nghiêm túc của tác giả. Kết quả nghiên  cứu của luận án sẽ có những đóng góp khoa học sau:  ­ Một là, rút ra được những bài học kinh nghiệm đối với sự phát triển sản xuất  kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ trong thời gian tới.  ­ Hai  là,  góp  phần đánh giá  thực  trạng phát  triển  của  các  doanh nghiệp chế  biến lúa gạo TP. Cần Thơ trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2009. Qua đó, rút ra  được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và  thách  thức của các doanh nghiệp chế  biến lúa gạo trong bối cảnh phát triển kinh tế của đất nước nói chung và TP. Cần Thơ  nói riêng.  ­ Ba là, đề xuất các giải pháp đồng bộ và khả thi để phát  triển sản xuất kinh  doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ nhanh và bền vững; trên cơ sở  khai thác một cách hợp lý các nguồn nguyên liệu của địa phương và vùng ĐBSCL.  ­ Bốn là, xác định được mức độ quan trọng của các giải pháp, nhằm giúp các  danh nghiệp chế biến  lúa gạo của TP. Cần Thơ xây dựng chiến  lược phát  triển  sản 9  xuất kinh doanh đến năm 2020. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn làm tài  liệu tham  khảo bổ  ích  cho  các nghiên cứu khoa học  liên quan đến  lĩnh vực chế biến  của  các  ngành hàng khác trong vùng ĐBSCL và cả nước.  VII. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN  Kết cấu của luận án gồm 03 chương ngoài phần mở đầu và kết luận:  Chương 1: Tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp  chế biến lúa gạo.  Chương 2: Đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo của thành phố Cần Thơ trong thời gian qua.  Chương 3: Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020.  Vì thời gian và trình độ của nghiên cứu sinh còn hạn chế nên luận án không  thể tránh được những thiếu sót nhất định, rất mong được sự góp ý của quý thầy cô và  các bạn. 10  CHƯƠNG 1  TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH  CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO  Với phương pháp nghiên cứu nêu ở phần mở đầu, chương 1  sẽ  trình bày sự  hình thành và phát triển của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo, đặc điểm hoạt động  sản xuất kinh doanh, vai trò của các doanh nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân, cũng  như  những  nhân  tố  ảnh  hưởng đến  hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh  của  các  doanh  nghiệp. Trong chương này, cũng sẽ nghiên cứu kinh nghiệm phát triển sản xuất kinh  doanh lúa gạo của một số doanh nghiệp trong nước và trên thế giới nhằm rút ra các  bài học kinh nghiệm để có thể vận dụng cho các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của  thành phố Cần Thơ trong thời gian tới.  1.1. KHÁI NIỆM VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH  Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với  xã hội loài người; mỗi doanh nghiệp cần phải nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của thị  trường  và  đưa  ra  những  chiến  lược  đúng  đắn  nhằm  đạt  được  những mục  tiêu  mà  doanh nghiệp đã đề ra.  Hoạt động sản xuất kinh doanh có các đặc điểm sau:  ­ Do một chủ thể thực hiện và gọi là chủ thể kinh tế, chủ thể kinh tế có thể là  cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp.  ­ Khác với hoạt động tự túc tự cấp phi kinh doanh, động cơ và mục đích của  hoạt động sản xuất kinh doanh là sản xuất sản phẩm vật chất hay dịch vụ không phải  để tự tiêu dùng mà để phục vụ cho nhu cầu của người khác nhằm thu lợi nhuận.  ­ Sản phẩm của hoạt động sản xuất kinh doanh có thể cân, đong, đo đếm được,  đó là sản phẩm hàng hóa để trao đổi trên thị trường. Người chủ thể sản xuất phải chịu  trách nhiệm đối với sản phẩm của mình sản xuất ra. 11  ­ Hoạt động sản xuất kinh doanh cần phải hướng tới thị trường. Trong đó, các  chủ thể kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau, đó là: quan hệ với các bạn hàng,  với chủ thể cung cấp các yếu tố đầu vào, với khách hàng, với các đối thủ cạnh tranh  và với Nhà nước. Các mối quan hệ này giúp cho doanh nghiệp duy trì hoạt động sản  xuất kinh doanh và giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển.  ­ Hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh phải  luôn nắm  được  các  thông  tin  về  sản  phẩm của doanh nghiệp trên thị trường như các thông tin về số lượng, chất lượng, giá  cả sản phẩm, thông tin về xu hướng tiêu dùng của khách hàng, thông tin về kỹ thuật  công nghệ, về chính sách kinh tế tài chính, pháp luật Nhà nước có liên quan đến sản  phẩm của doanh nghiệp.  ­ Hoạt động sản xuất kinh doanh phải có  sự vận động của đồng vốn: Vốn  là  yếu tố có vai trò quyết định rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, là cơ sở đánh  giá  tiềm  lực của doanh nghiệp. Không có vốn  thì không  thể có hoạt động sản xuất  kinh doanh. Chủ thể kinh tế sử dụng vốn để mua nguyên liệu, thiết bị sản xuất, thuê  lao động,…  ­ Hoạt động sản xuất kinh doanh luôn thúc đẩy mở rộng sản xuất và tiêu dùng  xã hội,  tạo điều kiện cho  tích  lũy vốn phát  triển  sản xuất, phát  triển kinh  tế xã hội,  phát triển khoa học kỹ thuật, mở rộng quan hệ giao lưu hàng hóa, tạo ra sự phân công  lao động xã hội và cân bằng cơ cấu sản xuất trong nền kinh tế.  ­ Mục đích chủ yếu và bao trùm của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đó là  lợi nhuận.  Từ những đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh nêu trên, có thể hiểu  khái niệm hoạt động sản xuất kinh doanh:  Hoạt động sản xuất kinh doanh là các hoạt động kinh tế trong điều kiện tồn  tại nền kinh tế thị trường, gồm tổng thể những phương pháp, hình thức và phương  tiện mà chủ thể kinh tế sử dụng để thực hiện các hoạt động kinh tế của mình (bao  gồm  quá  trình  đầu  tư,  sản  xuất,  vận  tải,  thương mại, dịch  vụ,...)  trên  cơ  sở  vận  dụng quy luật giá trị cùng với các quy luật khác, nhằm đạt mục tiêu vốn sinh lời  nhiều nhất [1]. 12  1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ  BIẾN LÚA GẠO  Theo chiều dài lịch sử, lúc đầu nền kinh tế của mỗi nước đều là nền kinh tế tự  nhiên, mang nặng tính tự cấp,  tự túc, đa số sống bằng nghề nông. Ngoài việc trồng  trọt, chăn nuôi, đánh bắt, khai thác để có sản phẩm, người nông dân đã tự mình bảo  quản, chế biến,  thậm chí  tự mình chế tạo ra cả công cụ lao động. Trong dân cư hầu  như không có hoặc có rất ít sự phân công lao động xã hội và sự trao đổi sản phẩm.  Dần  dần,  lực  lượng  sản  xuất  và  năng  suất  lao  động  tăng  lên  xuất  hiện  sản  phẩm thừa và do những yêu cầu của cuộc sống dẫn đến nhu cầu  trao đổi  sản phẩm  thừa đó với nhau. Trao đổi tác động trở lại sản xuất và thúc đẩy sự phân công xã hội.  Sự hình thành các loại lao động sản xuất đã làm cho sản phẩm của từng loại lao động  đó chuyển thành hàng hóa, thành những vật ngang giá với nhau, dùng làm vật phẩm  trao đổi  với nhau và hình  thành  thị  trường. Kinh  tế hàng hóa phát  triển,  thị  trường  từng bước mở rộng ra, đưa đến chỗ ngày tăng thêm những ngành công nghiệp riêng  biệt  tách ra khỏi nông nghiệp. Theo đó, CNCB tách ra trở thành một ngành kinh tế  độc lập. Ngành này có mặt ở các hoạt động chế biến khác nhau, tạo ra nhiều loại sản  phẩm hàng hóa đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau và chính từ đây ngành CNCB các  sản phẩm  từ  nông  nghiệp  như:  lúa  gạo,  lúa mì, ngũ  cốc,  hoa  quả,…  đã được  hình  thành.  Như vậy, sự hình thành và phát triển của CNCB nói chung, CNCB lúa gạo nói  riêng là do quá trình phân công lao động xã hội dưới tác động của quá trình phát triển  lực lượng sản xuất được diễn ra ở một số quốc gia trên thế giới.  Ngày nay, trong điều kiện thế giới đã diễn ra cuộc cách mạng khoa học công  nghệ, xu hướng quốc tế hóa, khu vực hóa sản xuất và dịch vụ diễn ra mạnh mẽ; trình  độ lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao động ở mức rất cao, mọi lĩnh vực trong nền  kinh tế của các nước đều chịu tác động sâu sắc bởi các nhân tố quốc tế,  thì sự hình  thành và phát triển CNCB ở mỗi nước cũng không thể tách rời các tác động quốc tế  đó. Chính nhờ những tác động đó, các nước đi sau có điều kiện “đi tắt”, rút ngắn các  giai đoạn phát triển CNCB hơn so với các nước đi trước. 13  Ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ XVIII, sản xuất nông nghiệp đã đạt được những  kết quả đáng kể. Lúa gạo làm ra không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của mỗi gia  đình, mỗi địa phương mà còn thừa một khối lượng lớn để bán đi nơi khác. Để phục  vụ cho việc sản xuất lúa gạo, nghề đóng cối xay ra đời ở khắp các vùng trong cả nước  và phát triển rất nhanh cho đến khi người Pháp nắm độc quyền ngành xay xát lúa gạo  với những nhà máy xay xát lúa gạo hiện đại ra đời vào nửa cuối thế kỷ XIX.  Ngày nay, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ các nhà  máy xay xát lúa gạo phát triển rất nhanh, nó không dừng lại ở hoạt động xay xát mà  còn  thêm vào  đó các công đoạn khác như: đánh bóng gạo, phân  loại hạt gạo, phân  loại gạo với tấm và cám, đóng gói, bảo quản,… Với sự bổ sung những công đoạn đó  thì các nhà máy xay xát lúa gạo trở thành các doanh nghiệp chế biến lúa gạo.  Hiện nay, Việt Nam là quốc gia đang phát  triển, có nhiều ưu thế vượt trội so  với các quốc gia phát triển nông nghiệp trong khu vực để phát triển mặt hàng lúa gạo,  mở rộng thị trường, gia tăng tích lũy vốn phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất  nước. Do đó, sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng lúa gạo trên thị  trường  không chỉ có ý nghĩa kinh tế đơn thuần mà còn luôn gắn kết với sự ổn định kinh tế,  chính trị xã hội đối với sự phát  triển của đất nước. Để nâng cao sức cạnh tranh của  mặt hàng lúa gạo, các doanh nghiệp chế biến lúa gạo đóng vai trò rất quan trọng. Có  thể nói sau hơn một thế kỷ hình thành và phát triển, thời gian tới sẽ là giai đoạn phát  triển nhanh chóng của các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo, sự phát  triển này sẽ theo  các xu hướng như:  ­ Các doanh nghiệp chế biến lúa gạo sẽ phát triển theo mô hình khu liên hợp  chế biến lúa gạo để nâng cao chất lượng sản phẩm sau chế biến. Khu liên hợp sẽ thực  hiện tất cả các chức năng từ sấy lúa cho đến xay xát, chế biến và tồn trữ lúa gạo. Các  công nghệ được sử dụng  trong khu  liên hợp này  là những công nghệ hiện đại, đáp  ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm trong nước và quốc tế.  ­ Các doanh nghiệp  sẽ gắn kết với nông dân  sản xuất  lúa để xây dựng vùng  nguyên liệu cho doanh nghiệp nhằm ổn định sản xuất kinh doanh và hướng tới phát  triển một cách bền vững. 14  ­ Các doanh nghiệp phát triển theo hình thức Công ty cổ phần; trong đó, nông  dân, các hợp tác xã nông nghiệp sẽ là những cổ đông của công ty nhằm góp phần làm  nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo [28].  1.3. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC DOANH  NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO  1.3.1. Quy trình chế biến lúa gạo  Quy trình chế biến lúa gạo hiện nay được thể hiện ở biểu đồ 1.1 dưới đây:  Lúa  nguyên liệu  Sàng tạp  chất  Bóc vỏ  Thùng rê  Sàng  phân ly  Sàng tách  đá  Cân,  Đóng gói  Máy  tách màu  Thùng chứa  thành phẩm  Trống  chọn hạt  Máy  đánh  bóng  Máy sát  trắng  Nguồn: Khảo sát của tác giả tại Công ty Nông nghiệp Sông Hậu, 2009  Biểu đồ 1.1: Sơ đồ quy trình chế biến lúa gạo  Lúa nguyên liệu sau khi qua sàng tạp chất để tách các tạp chất như rác, dây,  kim loại sẽ qua hệ thống bóc vỏ (vỏ lúa còn gọi là trấu), kế tiếp lúa sau khi bóc vỏ sẽ  được đưa qua thùng rê rồi đến sàng phân ly và sàng tách đá … Tiếp theo, qua công  đoạn xát  trắng để  tách bớt  lượng cám  trước khi vào hệ  thống máy đánh bóng nước  kiểu phun sương nhằm cải thiện độ bóng bề mặt gạo. Kế tiếp, gạo được đưa vào hệ  thống  trống phân  loại hạt  theo chiều dài để phân  ly  thành  từng  loại như: gạo  thành  phẩm, tấm 1, tấm 2, tấm 3 và đưa vào các silo chứa riêng biệt. Tại đây, tùy theo yêu  cầu, gạo được đưa qua máy tách màu điện tử để loại ra các tạp chất màu lẫn trong gạo  như hạt đen, hạt đỏ, hạt vàng, hạt bạc bụng. Cuối cùng, gạo thành phẩm sẽ vào thiết  bị cân và đóng gói tự động theo yêu cầu trọng lượng cho trước để xuất kho.  Quy trình công nghệ nói trên là quy trình điển hình, tiên tiến. Đây là quy trình  khép kín từ khâu nguyên liệu đến khâu thành phẩm, mức độ tự động hóa cao, dễ vận  hành, thu được gạo thành phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu và hoàn toàn có  khả năng cạnh tranh được với các sản phẩm gạo hiện có trên thị trường thế giới. 15  Hiện nay, một số doanh nghiệp chế biến lúa gạo trên địa bàn TP. Cần Thơ đã  đầu tư trang bị các thiết bị chế biến lúa gạo tiên tiến của các hãng sản xuất có uy tín  như Bùi Văn Ngọ, Sinco, Satake,... Thiết bị chế biến lúa gạo của các hãng này có độ  tin cậy cao, sản phẩm qua chế biến đạt những yêu cầu cơ bản như độ xát trắng, tỷ lệ  thóc,  tỷ  lệ  tấm, độ ẩm, hạt màu, độ đồng đều, vệ  sinh và hạn chế  tối  thiểu  tạp chất  trước khi đóng gói.  1.3.2. Nguyên liệu sử dụng trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo  Nguyên  liệu  sử  dụng  trong  các  doanh  nghiệp  chế  biến  lúa  gạo  gồm  có  lúa  hàng hóa và gạo bán thành phẩm, do đó để đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định thì  vấn đề quy hoạch vùng sản xuất lúa và quy hoạch diện tích đất trồng lúa có ý nghĩa  rất quan trọng.  (1)  Nguồn  nguyên  liệu  là  lúa  hàng  hóa:  Lúa  được  người  nông  dân  trồng  ở  khắp các tỉnh,  thành trong cả nước, với sản lượng hàng năm đạt gần 40 triệu tấn và  vùng ĐBSCL là nơi sản xuất lượng lúa hàng hóa lớn nhất của cả nước, với sản lượng  hàng năm đạt trên 20 triệu tấn.  Bảng 1.1: Sản lượng lúa cả năm vùng ĐBSCL và cả nước giai đoạn 2005 ­ 2009  ĐVT: Tấn  Nơi sản xuất  2005  2006  2007  2008  2009  1/ Vùng ĐBSCL  2/ Cả nước  19.385.620  35.832.900  18.075.036  35.849.500  19.221.771  35.942.700  21.166.627  38.729.800  20.483.400  38.895.500  Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2010 [26]  (2)  Nguồn  nguyên  liệu  là  gạo  bán  thành  phẩm:  Gạo  bán  thành  phẩm  được  cung cấp bởi các nhà máy xay xát  lúa gạo có quy mô nhỏ. Lúa sau khi trãi qua các  công đoạn như sàng tạp chất và bóc vỏ thì được gọi là gạo bán thành phẩm (hay còn  gọi là gạo nguyên liệu). Từ gạo nguyên liệu, sẽ qua các nhà máy chế biến có quy mô 16  lớn hơn để thực hiện các công đoạn tiếp theo cho đến công đoạn cuối cùng là đóng  gói và được gọi là gạo thành phẩm để phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng.  1.3.3. Máy móc, thiết bị trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo  Các máy và móc thiết bị chủ yếu của doanh nghiệp chế biến lúa gạo bao gồm:  ­ Máy làm sạch lúa: Đây là máy thực hiện công đoạn đầu tiên của quá trình chế  biến, nó có nhiệm vụ loại bỏ các tạp chất như: đá, rơm rạ, kim loại,... lẫn trong lúa để  làm sạch lúa trước khi đi vào chế biến.  ­ Máy bóc vỏ: Lúa sau khi qua công đoạn làm sạch sẽ qua máy bóc vỏ để tách  lớp thóc bên ngoài của hạt lúa, đây là công đoạn rất quan trọng của quá trình chế biến,  nó có ảnh hưởng rất  lớn đến chất  lượng gạo như ảnh hưởng số lượng hạt bị gãy, số  lượng tấm sau khi bóc vỏ.  ­ Máy xát  trắng: Lúa sau khi bóc vỏ sẽ qua công đoạn xát  trắng để  tách bớt  lượng cám ở trong hạt gạo trước khi đánh bóng.  ­ Máy đánh bóng: Máy đánh bóng có chức năng làm cho hạt gạo trắng bóng,  giúp nâng cao chất lượng và giá trị của hạt gạo.  ­ Máy phân loại hạt: Máy phân loại hạt có chức năng phân loại gạo thành các  loại như gạo thành phẩm, tấm 1, tấm 2, tấm 3.  ­ Máy  tách màu:  Sau  khi phân  loại  gạo  với các  loại  tấm,  gạo được đưa qua  máy tách màu để loại ra các tạp chất màu còn lẫn trong gạo như: hạt đen, hạt đỏ, hạt  vàng, hạt bạc bụng.  ­ Thiết bị cân và đóng gói: Sau các công đoạn nêu trên, cuối cùng gạo thành  phẩm sẽ qua  thiết bị  cân và đóng gói  tự động  theo yêu cầu  trọng  lượng để  tiêu  thụ  trên thị trường.  Như vậy, máy móc và thiết bị chính của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo gồm  có: máy sàng tạp chất, máy bóc vỏ, máy xát trắng, máy đánh bóng, máy phân loại hạt,  máy tách màu, thiết bị cân tự động và đóng gói.  Hiện nay, các máy móc và  thiết bị này có trên thị  trường khá đa dạng về mẫu  mã, tính năng sử dụng và trình độ về công nghệ là khá hiện đại. Do vậy, để tạo ra sản 17  phẩm gạo đạt chất lượng cao, các doanh nghiệp cần phải quan tâm đổi mới máy móc,  thiết bị và công nghệ một cách hợp lý.  1.3.4. Lao động trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo  Lao  động  trong  các doanh nghiệp  chế biến  lúa  gạo  có  thể  chia  làm 03  nhóm  chính:  (1) Nhóm cán bộ quản lý và kinh doanh: Do yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế  ngày càng cao, do đó cán bộ quản  lý và kinh doanh phải có  trình  trình quản  lý của  người CEO, phải có hiểu biết về kinh doanh trong môi trường toàn cầu hóa. Vì vậy,  các doanh nghiệp phải  thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ  này mới đáp ứng được yêu cầu của công việc, chứ không thể tuyển dụng mới là có thể  sử dụng được ngay.  (2) Nhóm kỹ sư kỹ thuật và công nhân kỹ thuật bậc cao: Đây là các kỹ sư, công  nhân  kỹ  thuật  bậc  cao  của  các  ngành  cơ  khí,  điện,  công nghệ,…  những người  này  thường đảm đương công tác tại bộ phận kỹ thuật, chuyên phụ trách các công việc về  cơ khí, điện, vận hành và sửa chữa các máy móc,  thiết bị  trong các phân xưởng chế  biến.  Ngày  nay,  với  yêu  cầu  đổi mới  công  nghệ  theo  hướng  hiện  đại,  đòi  hỏi  lực  lượng  lao động này phải  thường xuyên được đào  tạo để nâng cao  trình độ  tay nghề  nhằm  theo  kịp  với  xu hướng phát  triển  rất  nhanh về khoa học  công nghệ như hiện  nay.  (3) Nhóm công nhân lao động phổ thông: Những lao động này thường làm các  công việc liên quan nhiều đến chân tay như đóng gói, bốc xếp, quản lý kho tàng, bến  bãi,… các lao động này thường không đòi hỏi cao về trình độ chuyên môn, chỉ yêu  cầu có sức khỏe tốt, nhiệt tình trong công việc. Công tác đào cho lực lượng lao động  này khá đơn giản, chỉ là đào tạo nghiệp vụ cho các công việc thường làm hàng ngày  và trong thời gian ngắn hạn.  1.3.5. Vốn trong các doanh nghiệp chế biến lúa gạo  Hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh  của  các  doanh  nghiệp  chế  biến  lúa  gạo  phụ  thuộc vào thời vụ sản xuất lúa, trong năm có hai mùa vụ lúa chính, đó là: Đông Xuân  và Hè Thu. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn lưu động rất lớn để 18  thu mua  lúa nguyên  liệu nhằm giúp  cho  các doanh nghiệp chủ động hơn  trong quá  trình sản xuất kinh doanh của mình. Mặt khác, rất nhiều doanh nghiệp có quy mô sản  xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, muốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và đổi mới  máy móc,  thiết bị các doanh nghiệp này cần phải có một  lượng vốn khá lớn (có thể  lên đến hàng chục  tỷ đồng), nhưng hiện  tại đa phần các doanh nghiệp đều gặp khó  khăn về vốn.  1.3.6. Thị trường của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo  Thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo bao gồm thị trường  trong nước và nước ngoài.  1. Đối với  thị  trường trong nước: Việt Nam có dân số khoảng 87 triệu người,  hàng năm tiêu dùng ước khoảng 17 triệu tấn gạo, đây là thị trường rất rộng lớn và ổn  định của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo. Dự báo trong thời gian tới thị trường tiêu  thụ trong nước sẽ tăng lên rất nhanh, nguyên nhân là do dân số tăng (ước đạt khoảng  100 triệu người vào năm 2020) và do các ngành CNCB khác phát triển rất nhanh, mà  các ngành này sử dụng lúa gạo là nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất.  Hiện nay, với sản lượng lúa hàng năm đạt khoảng 39 triệu tấn (tương đương 23  triệu tấn gạo), ngoài đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và đảm bảo an ninh lương  thực quốc gia thì chúng ta vẫn còn dư trên dưới 6 triệu tấn gạo cho xuất khẩu.  2.  Đối  với  thị  trường  nước  ngoài:  Thị  trường  xuất  khẩu  gạo  của  các  doanh  nghiệp Việt Nam  gồm nhiều nước ở nhiều châu  lục  khác nhau như: Châu Á, Châu  Âu, Châu Phi, Trung Đông (xem bảng 1.2). Trong năm 2009, các doanh nghiệp của  Việt Nam đã xuất khẩu hơn 5,95  triệu  tấn gạo, đạt kim ngạch xuất khẩu gần 2,7 tỷ  USD, chiếm khoảng 15% thị phần của thị  trường xuất khẩu gạo thế giới. Trong đó,  các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trên địa bàn thành phố Cần Thơ đã xuất khẩu được  557 ngàn tấn, đạt kim ngạch trên 240 triệu USD.  Dự  báo  trong  thời  gian  tới  thị  trường  xuất  khẩu  gạo  chủ  yếu  của  các  doanh  nghiệp Việt Nam vẫn là các nước ở khu vực Châu Á, Châu Phi, Châu Âu và một số  nước ở khu vực Trung Đông. 19  Bảng  1.2:  Cơ  cấu  thị  trường  xuất  khẩu  gạo  của  doanh  nghiệp  Việt  Nam  giai  đoạn 2005 ­ 2009  ĐVT: %  Stt  Thị trường  Năm  2005  2006  2007  2008  2009  1  Châu Á  49,8  48,9  56,9  74,4  55,2  2  Châu Phi  43,9  43,3  27,9  15,2  24,3  3  Châu Âu  5,2  0,7  5,1  6,3  13,1  4  Trung Đông  1,1  6,8  7,1  2,1  4,8  5  Châu Mỹ  0,0  0,0  2,9  0,1  1,4  6  Châu Đại Dương  0,0  0,2  0,1  1,8  1,2  Nguồn: Trung tâm Thông tin Phát triển Nông nghiệp Nông thôn, 2010 [29]  1.4. VAI TRÒ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO ĐỐI VỚI  NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN  1.4.1. Cung cấp và đảm bảo an ninh lương thực  Tất cả người dân Việt Nam đều sử dụng lúa gạo làm lương thực chính, từ gạo  có  thể  chế  biến  thành  các  sản phẩm  khác  như bột, phở, bún  và  rất nhiều  loại  thực  phẩm khác được  làm  từ  gạo. Vì  vậy,  lúa  gạo  đã  trở  thành nguồn  lương  thực  chính  trong đời sống hàng ngày của mỗi người dân.  Việt Nam trong nhiều năm liền được xếp vào nhóm các nước dẫn đầu về xuất  khẩu gạo, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và quốc  tế. Có thể nói, lúa gạo đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp lương thực cho  người dân, ngoài ra còn là ngành kinh tế tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao  động, đặc biệt là lao động ở những vùng nông thôn, qua đó đã góp phần tích cực vào  việc  xóa  đói  giảm nghèo. Trong  những năm  gần  đây  chính  sách phát  triển  kinh  tế  nông nghiệp, nông dân và nông thôn của Nhà nước luôn gắn liền với phát triển ngành  hàng lúa gạo. 20  1.4.2. Góp phần nâng cao thu nhập cho người nông dân và hiện đại hóa khu vực  nông thôn  Chế biến lúa gạo giúp cho giá trị sản phẩm của người nông dân sản xuất ra được  nâng lên, từ đó lợi nhuận từ sản xuất lúa đạt được cao hơn, người nông dân trồng lúa  sẽ chuyên tâm đầu tư cho sản xuất tốt hơn làm cho sản lượng và chất lượng lúa ngày  được nâng cao. Do thu nhập ngày được nâng  lên, người dân có điều kiện  cùng với  Nhà  nước  đầu  tư  xây  dựng  cơ  sở hạ  tầng  khu  vực nông  thôn như hạ  tầng  về  giao  thông, điện, nước, thủy lợi,... ngày càng tốt hơn để phục các yêu cầu của sản xuất và  đời sống người dân.  Bảng 1.3: Lợi nhuận từ sản xuất lúa của nông dân giai đoạn 2005 ­ 2009  ĐVT: Triệu đồng  Lợi nhuận  Năm  2005  Năm  2006  Năm  2007  Năm  2008  Năm  2009  Lợi nhuận thu được từ  01 ha lúa  19,37  22,47  24,86  26,50  28,26  Nguồn: Viện Nghiên cứu lúa ĐBSCL, 2010 [40]  Ghi chú: Lợi nhuận này được tính cho hai vụ lúa chính trong năm là Đông Xuân và Hè Thu.  1.4.3. Góp phần giải quyết việc làm ở khu vực nông thôn  Các  doanh nghiệp  chế biến  lúa  gạo  đã  góp  phần  giải  quyết  việc  làm  cho  lao  động nhàn rỗi ở khu vực nông thôn. Năm 2009, số lao động đang làm việc trong các  doanh nghiệp chế biến lúa gạo trên địa bàn TP. Cần Thơ khoảng 22.000 ngàn người,  trong đó lao động có trình độ chuyên môn thấp chiếm khoảng 70% tổng số lao động  (lực lượng lao động này chủ yếu ở khu vực nông thôn), với mức thu nhập bình quân  khoảng 2,6 triệu đồng/tháng.  Ngoài ra, các doanh nghiệp còn góp phần làm tăng giá trị sản xuất công nghiệp,  qua đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn và làm tăng tỷ trọng  của khu vực công nghiệp trong cơ cấu kinh tế ở địa phương. 21  1.4.4. Góp phần tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước  Trong nhiều  năm  liền,  sản phẩm  lúa  gạo Việt Nam  luôn  giữ  vị  trí  cao  trong  danh sách các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất đất nước, năm 2009 xuất khẩu  gạo đứng vị  trí  thứ 5  (sau dệt may, dầu khí, da giày,  thủy sản) với kim ngạch xuất  khẩu đạt khoảng 2,7 tỷ USD. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai  thế giới chỉ sau Thái Lan, đã góp phần tích cực vào việc đảm bảo an ninh lương thực  cho thế giới và làm cho vị thế của Việt Nam trên thế giới ngày càng được nâng cao.  Bảng 1.4: Số lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 2005 ­ 2009  Chỉ tiêu  ĐVT  Năm  2005  Năm  2006  Năm  2007  Năm  2008  Năm  2009  1.  Số  lượng  gạo  xuất  khẩu  Triệu  tấn  5,25  4,50  4,56  4,83  5,95  2.  Kim  ngạch  xuất  khẩu gạo  Triệu  USD  1.407  1.238  1.490  2.910  2.700  Nguồn: Tổng cục thống kê, 2010 [26]  1.4.5. Thúc đẩy nhiều ngành kinh tế khác phát triển  Lúa gạo là nguồn nguyên  liệu  chính  cho  các ngành chế biến  lương  thực,  thực  phẩm. Vì vậy, khi các doanh nghiệp chế biến lúa gạo phát triển một cách bền vững sẽ  tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho các ngành chế biến này phát triển.  Bên cạnh đó, sự phát  triển của các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo sẽ tác động  dây chuyền tới sự phát triển của cơ sở vật chất phục vụ nó như: ngành cung ứng vật  tư, điện, nước, thương mại, dịch vụ,… Nó cũng thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát  triển như: xây dựng, vận tải, kho bãi, tài chính, tín dụng, bưu chính, viễn thông, khoa  học công nghệ,… Qua đó, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công  nghiệp hóa ­ hiện đại hóa.  1.4.6. Góp phần làm ổn định chính trị xã hội 22  Các doanh nghiệp chế biến lúa gạo phát triển đã thúc đẩy hoạt động sản xuất lúa  phát triển, một khi sản xuất lúa phát triển thì sẽ góp phần vào việc đảm bảo an ninh  lương thực quốc gia, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của người nông dân.  Chính từ những đóng góp rất quan trọng nêu trên, có thể nói các doanh nghiệp  chế biến lúa gạo đã góp phần tích cực vào ổn định chính trị ­ xã hội của đất nước.  1.5. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA  CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO  Có nhiều  yếu  tố ảnh hưởng đến sự phát  triển của các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo, nhưng có thể phân thành hai nhóm yếu tố chủ yếu là: nhóm yếu tố bên ngoài  và nhóm yếu tố bên trong.  1.5.1. Nhóm yếu tố môi trường bên ngoài  1.5.1.1. Môi trường vĩ mô  Bất cứ hoạt động sản xuất nào trong quá trình hoạt động của mình cũng chịu  sự tác động nhất định của môi trường vĩ mô. Đối với các doanh nghiệp chế biến lúa  gạo,  các  yếu  tố môi  trường  vĩ mô  có  ảnh  hưởng  lớn  đến  sự  phát  triển  của  doanh  nghiệp bao gồm các yếu tố cơ bản như sau:  (1) Đường lối, chủ trương phát triển công nghiệp: Chính phủ mỗi nước đều có  đường lối, chủ trương phát  triển công nghiệp riêng phù hợp với bối cảnh kinh tế xã  hội  và môi  trường  của mỗi  nước,  ví dụ  như Singapore  lúc  đầu  họ  phát  triển  công  nghiệp nhẹ, sau đó phát triển các ngành công nghệ kỹ thuật cao; Nhật Bản, Hàn Quốc  ngay từ đầu công nghiệp hóa họ đã đi vào phát triển các ngành công nghiệp nặng, vì  thế họ  đã  có  các ngành  công nghiệp  tầm cỡ quốc  tế  như  sản  xuất  thép,  công nghệ  đóng tàu, công nghệ ô tô, công nghệ điện tử…  Ở Việt Nam, đường lối phát triển công nghiệp được thực hiện và thay đổi qua  nhiều thời kỳ. Ở thời kỳ 1975 đến 1986 thực hiện chính sách ưu tiên phát triển công  nghiệp nặng. Giai đoạn 1986 đến 1990 đã có sự điều chỉnh về đường  lối phát  triển  công nghiệp, ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến là chính. Từ năm 2001 đến nay,  đang thực hiện đường lối công nghiệp hóa ­ hiện đại hóa theo Nghị quyết Đại hội IX  và Đại  hội X,  nhằm xây  dựng nước  ta  trở  thành  nước  công nghiệp  phát  triển  theo 23  hướng hiện đại vào năm 2020  [13];  trong đó, chú  trọng phát  triển công nghiệp chế  biến nông ­ lâm ­ thủy sản, các ngành công nghiệp sử dụng hàm lượng công nghệ cao  như: điện tử, công nghệ phần mềm, công nghệ ô tô,…  (2) Các chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp: Mỗi một quốc gia đều  có chính sách về phát triển kinh tế riêng của mình, trong đó có chính sách liên quan  đến doanh nghiệp. Một số nước trong thời kỳ đầu thực hiện đường lối công nghiệp  hóa, để thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế xã hội, họ đã thành lập nhiều tổng  công ty ở nhiều lĩnh vực, mà các lĩnh vực này có ảnh hưởng đến chính sách phát triển  kinh  tế quốc  gia  như năng  lượng, dầu  khí, viễn  thông,… Một  số quốc  gia  khác  thì  trong thời kỳ đầu, họ ưu tiên cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa để khai  thác tốt các  nguồn nguyên liệu  sẵn có trong nước. Chính sách phát  triển của Việt Nam hiện nay  bên cạnh tập trung phát triển các Tổng công ty, các Tập đoàn kinh tế lớn ở những lĩnh  vực kinh  tế  then chốt như điện, dầu khí, đóng  tàu,… Việt Nam còn chú  trọng phát  triển các doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa nhằm phát huy những  lợi  thế về nguồn  nguyên liệu, lao động ở các địa phương; trong đó, đặc biệt quan tâm đến phát  triển  các doanh nghiệp chế biến nông ­ lâm ­ thủy sản, vì Việt Nam có thế mạnh về nguồn  nguyên liệu phục vụ cho các doanh nghiệp chế biến này.  (3) Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế: Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi  nước có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển của các doanh nghiệp. Với các quốc gia đã  trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì chắc chắn sẽ gặp  nhiều thách thức trong cạnh tranh quốc tế, nhưng đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội  cho các doanh nghiệp vươn ra thị trường thế giới.  (4) Mức độ phát triển cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng là tổng thể các công trình  và là yếu tố rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Cơ sở hạ tầng bao gồm cơ  sở hạ  tầng kỹ  thuật cần  thiết cho quá  trình sản xuất như: nhà xưởng, hệ  thống giao  thông, điện, nước, bưu chính, viễn thông,… và cơ sở hạ tầng xã hội phục vụ đời sống  dân cư như nhà ở, trường học, cơ sở y tế, cơ sở văn hóa, dịch vụ,…  Việt Nam là một nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Do đó, để  phát triển nhanh các ngành kinh tế, cơ sở hạ tầng cần đi trước một bước, cần đầu tư  hoàn chỉnh hệ  thống cơ sở hạ  tầng như: cảng biển, giao  thông  thủy, bộ, cảng hàng 24  không, năng lượng,… Trong thời gian qua, Nhà nước đã hết sức quan tâm đến đầu tư  phát triển cơ sở hạ tầng và bước đầu đã có những cải thiện rất đáng kể.  (5) Tác động của các khu vực kinh tế khác: Các khu vực kinh tế khác trong cơ  cấu kinh  tế có ảnh hưởng quan  trọng đến sự phát  triển của  các ngành công nghiệp,  trong  đó  có  các doanh nghiệp  của ngành  CNCB  lúa  gạo. Nông nghiệp  giữ  vai  trò  quan trọng, là ngành cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho các doanh nghiệp chế biến lúa  gạo. Các ngành khác như tài chính, viễn thông, điện,… có tác động lớn đến hoạt động  của các ngành kinh tế và hỗ trợ cho các ngành này phát triển. Ví dụ như nếu không có  ngành ngân hàng hay điện lực thì tất cả các ngành khác không thể phát triển.  1.5.1.2. Môi trường vi mô  Các yếu tố của môi trường vi mô được thể hiện theo mô hình năm tác lực của  Michael E. Porter dưới đây:  Biểu đồ 1.2: Mô hình năm tác lực của Michael E. Porter (1980) [42]  Nhà  cung cấp  Đối thủ  mới tiềm  năng  Những đối thủ cạnh  tranh trong ngành  Cạnh tranh giữa các  đối thủ hiện hữu  Sản phẩm  thay thế  Khách  hàng 25  Mô hình năm  tác  lực  của Michael E. Porter được  sử dụng để phân  tích môi  trường vi mô của các doanh nghiệp. Riêng các doanh nghiệp  chế biến  lúa gạo  năm  nguồn áp lực thể hiện như sau:  ­ Quyền năng  của nhà cung cấp: Nhà cung cấp thiết bị chính cho các doanh  nghiệp chế biến lúa gạo là các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, còn nhà cung  cấp nguyên liệu chính cho doanh nghiệp  là nông dân,  thương lái, các doanh nghiệp  trong nước, do có nhiều nhà cung cấp nên sự phụ thuộc không cao, vì thế quyền năng  của họ không lớn.  ­ Khách hàng: Khách hàng của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo là các nhà  phân phối trong nước, các công ty trong nước và nước ngoài, thậm chí là Chính phủ  một  số nước như Philippine,  Indonesia,… Do  có  nhiều  khách  hàng  trong  và ngoài  nước nên áp lực từ khách hàng đối với doanh nghiệp cũng không quá lớn.  ­ Đối  thủ hiện  tại: Đối  thủ hiện  tại  là các doanh nghiệp của các  tỉnh  lân cận  trong vùng và các doanh nghiệp của các nước như: Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ,  Pakistan, nhưng chủ yếu vẫn là Thái Lan.  ­ Đối thủ tiềm năng: Đối thủ tiềm năng của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo  là  các  doanh  nghiệp  có  thể  gia  nhập  ngành  hàng  lúa  gạo  ở  các  tỉnh  trong  vùng  ĐBSCL, trong đó đáng chú ý là các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp. Đối với  các doanh nghiệp nước ngoài đối thủ tiềm năng là các doanh nghiệp của Indonesia.  ­ Sản phẩm thay thế: Không có nhiều sản phẩm thay thế chính, vì  lúa gạo là  lương thực chính của nhiều quốc gia nên ít có sản phẩm nào thay thế được lúa gạo  trong tương lai.  1.5.2. Nhóm yếu tố bên trong  Nhóm yếu tố bên trong bao gồm các yếu tố sau:  1.5.2.1. Cơ cấu sản phẩm chủ lực  Sản  phẩm chủ lực có vai trò quan trọng là thế mạnh của mỗi đơn vị để cạnh  tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa. Việc xác định cơ cấu sản phẩm chủ lực tối ưu sẽ là  cơ sở giúp cho doanh nghiệp phát triển bền vững cũng như đạt được các mục tiêu đã  đề ra. 26  Sản phẩm chủ lực của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo là các loại gạo trắng  5%, 15%, 20%, 25% tấm và các loại gạo thơm chất lượng cao.  1.5.2.2. Trình độ phát triển về công nghệ  Trình  độ  công nghệ  cao  sẽ  làm  tăng  sức  cạnh  tranh  cho  sản phẩm  của mỗi  doanh nghiệp. Vì thế, yếu tố công nghệ có tác động lớn đến sự phát triển của doanh  nghiệp, song cần phải đánh giá mối quan hệ của việc đầu tư công nghệ mới với giá  thành sản phẩm và hiệu quả kinh tế do công nghệ mới mang lại. Từ cơ sở đó, doanh  nghiệp sẽ xây dựng các chiến lược và lộ trình phát triển công nghệ phù hợp.  Theo khuyến cáo của Liên hợp quốc, các nước đang phát  triển nên lựa chọn  công nghệ thích hợp. Công nghệ thích hợp được hiểu không phải công nghệ đắt tiền  nhất, nhưng phải  là công nghệ  tiên  tiến,  có khả năng  tạo  ra  sản  phẩm có  thể  cạnh  tranh  trên  thị  trường  dự  tính.  Công  nghệ  thích  hợp  được  du  nhập  bằng hoạt  động  “chuyển giao công nghệ”. Công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam theo quy định  của Nghị định số 11/2005/NĐ­CP ngày 02/02/2005 của Chính phủ phải là:  ­ Công nghệ tạo ra sản phẩm mới và cần thiết tại Việt Nam hoặc để sản xuất  hàng xuất khẩu.  ­ Công nghệ nâng cao  tính năng kỹ  thuật,  chất  lượng sản phẩm vào việc  sản  xuất.  ­ Công nghệ nhằm tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, khai  thác và sử dụng có  hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.  ­ Nghiêm cấm việc chuyển giao công nghệ có ảnh hưởng xấu đến môi trường  sinh thái, an toàn lao động.  Đối với trình độ công nghệ của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo hiện nay là  khá hiện đại, các công nghệ này đã được tự động hóa hoàn toàn từ công đoạn đầu đến  công đoạn cuối của quá trình chế biến và chất lượng của sản phẩm sau khi chế biến  đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Vì vậy, ngày nay các doanh nghiệp có rất nhiều  lựa chọn về công nghệ cho doanh nghiệp mình.  1.5.2.3. Khả năng cung ứng nguyên liệu 27  Nguyên liệu được coi  là yếu tố “đầu vào” quan trọng cho quá trình sản xuất.  Việt Nam đi vào quá trình công nghiệp hóa  ­ hiện đại hóa từ điểm xuất phát  là một  nước nông nghiệp với 75%  lao động nông nghiệp,  80% dân  số ở nông  thôn. Nông  nghiệp Việt Nam là cơ sở, chỗ dựa cung cấp nguồn nguyên liệu dồi dào cho phát triển  công nghiệp chế biến. Trong những năm qua Việt Nam luôn là nước đứng thứ hai về  xuất khẩu gạo trên thế giới, đây chính là một trong những minh chứng thể hiện tiềm  năng nguyên  liệu nông nghiệp hỗ  trợ cho phát  triển  công nghiệp  chế biến của Việt  Nam là rất lớn.  1.5.2.4. Tổ chức sản xuất và quy mô sản xuất  (1)  Tổ  chức  sản  xuất:  Tổ  chức  sản  xuất  là  hệ  thống  các  giải  pháp nhằm  sử  dụng tối ưu các nguồn lực của doanh nghiệp như tài lực (vốn,…), vật lực (máy móc  thiết  bị,  nguyên  vật  liệu,…),  nhân  lực  (người  quản  lý,  công  nhân  trực  tiếp  sản  xuất,…)  nhằm  đảm  bảo  sự  hài  hòa  trong  thực  hiện  các  chức  năng  nghiệp  vụ  của  doanh nghiệp.  Tổ chức sản xuất bao gồm các giải pháp sản xuất ra sản phẩm theo số lượng,  chủng loại theo kế hoạch, bảo đảm tiến hành sản xuất một các nhịp nhàng. Tổ chức  sản xuất còn bao gồm mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp như điều hành các phân  xưởng, tổ chức lao động, công tác cung ứng vật tư kỹ thuật,…  Hình thức tổ chức sản xuất phổ biến và hiệu quả hiện nay là tổ chức sản xuất  theo  dây  chuyền. Hình  thức  tổ  chức  sản  xuất  này  đáp  ứng  khả  năng  sản  xuất  sản  phẩm một các đều đặn, nhịp nhàng, đúng thời hạn và hạ giá thành sản phẩm.  Hiện  nay,  các  doanh  nghiệp  chế  biến  lúa  gạo  đã  áp  dụng  phổ  biến  phương  pháp tổ chức sản xuất dây chuyền nói trên.  (2) Quy mô  sản xuất: Quy mô  sản  xuất  thể hiện năng  lực  của doanh nghiệp  trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Quy mô sản xuất có vai  trò quan  trọng  trong  phát  triển  thị  phần,  tăng  năng  lực  cạnh  tranh  đối  với  doanh  nghiệp.  Cho  nên,  khi  hoạch định quy mô sản xuất cần phân tích kỹ về thị trường đầu ra, thị trường nguyên  liệu, nguồn nhân  lực,… có như vậy doanh nghiệp mới có quy mô sản xuất hợp  lý.  Đối với  lĩnh vực chế biến  lúa gạo, quy mô sản xuất của phần  lớn các doanh 28  nghiệp  hiện  nay  là  khá  nhỏ,  do  đó  năng  lực  cạnh  tranh  của  các doanh nghiệp  còn  thấp. Đây chính là những thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp trong quá trình  hội nhập kinh tế quốc tế.  1.5.2.5. Tổ chức quản lý  Đây là yếu tố quan trọng tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh và  phát  triển  của doanh nghiệp. Vì  vậy, mỗi  doanh nghiệp  phải  có  cơ  cấu  bộ máy  tổ  chức hợp lý, đủ năng lực điều hành, cán bộ quản lý cần được cập nhật các kiến thức  quản lý lẫn các kiến thức về chuyên môn, kiến thức trong kinh doanh, kiến thức về  hội nhập kinh tế quốc tế và các doanh nghiệp phải xây dựng quy chế quản lý thích  hợp cho doanh nghiệp. Làm được như vậy, hiệu quả quản lý sẽ cao,  tiết kiệm được  chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.  1.5.2.6. Nguồn nhân lực  Nguồn nhân  lực  của  các  doanh nghiệp  chế biến  lúa  gạo  bao  gồm hai  thành  phần cơ bản, đó là: nhân lực quản lý thực hiện các hoạt động không trực tiếp sản xuất  và nhân lực trực tiếp sản xuất làm ra sản phẩm cụ thể của doanh nghiệp.  Nhân lực quản lý đòi hỏi có kỹ năng quản lý, có khả năng thực hiện các chức  năng quản lý nhất định như: giám đốc điều hành chung, giám đốc kinh doanh, giám  đốc tài chính, giám đốc marketing,…  Nhân  lực  trực  tiếp  sản  xuất  là  người  đứng máy,  tác  động  trực  tiếp  lên  đối  tượng lao động bằng công cụ lao động để làm ra sản phẩm cụ thể.  Nguồn nhân lực có vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp nói chung  và  doanh  nghiệp  chế  biến  lúa  gạo  nói  riêng,  cho  nên  Nhà  nước  cùng  các  doanh  nghiệp cần có chiến lược ngắn hạn và dài hạn trong công tác đào tạo nguồn nhân lực  nhằm đảm bảo cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nâng  cao khả năng cạnh tranh và đạt hiệu quả kinh tế ngày càng cao hơn.  1.5.2.7. Nguồn Vốn  Bất kỳ doanh nghiệp nào khi bắt đầu thành lập đều cần đến vốn. Đối với các  doanh nghiệp chế biến lúa gạo có hai  thành phần vốn cơ bản là vốn cố định và vốn  lưu động. 29  Vốn cố định bao gồm các thành phần như: chi phí chuẩn bị đầu tư, mua máy  móc, thiết bị, dụng cụ, xây dựng nhà xưởng và chi phí đào tạo lao động ban đầu,…  Vốn lưu động gồm có các thành phần như: chi phí mua nguyên vật liệu, lương,  bảo hiểm xã hội, điện, nước, nhiên liệu, vốn bằng tiền mặt,...  Việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sản  xuất  kinh  doanh  của  doanh nghiệp. Vì  vậy,  muốn  tồn  tại  và  phát  triển  các  doanh  nghiệp chế biến lúa gạo phải nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn và có các biện  pháp  thích hợp để  tạo nguồn vốn như:  liên doanh,  liên kết,  cổ phần,  vay  tín dụng,  thuê tài chính,...  1.6.  CÁC  CÔNG  CỤ  ĐỂ  XÂY  DỰNG  VÀ  LỰA  CHỌN GIẢI  PHÁP  PHÁT  TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA  GẠO CỦA TP. CẦN THƠ ĐẾN NĂM 2020  Để xây dựng và lựa chọn các giải pháp, luận án sử dụng các công cụ sau:  Một là, ma trận các yếu tố bên trong để phân tích và đánh giá một cách khách  quan về nội bộ các doanh nghiệp thông qua hội  thảo và khảo sát ý kiến các chuyên  gia là lãnh đạo của các doanh nghiệp, các nhà quản lý.  Hai là, ma trận các yếu tố bên ngoài để phân tích một cách khách quan về các  yếu tố bên ngoài ở gốc độ vĩ mô và vi mô thông qua hội thảo và khảo sát ý kiến các  chuyên gia là lãnh đạo của các doanh nghiệp, các nhà quản lý.  Ba là, ma trận hình ảnh các đối thủ cạnh tranh chính để đánh giá các đối thủ  cạnh tranh chính của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ.  Bốn  là, ma  trận SWOT của Albert  S Humphrey. Trên  cơ sở phân  tích,  tổng  hợp các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ từ ma trận các yếu tố bên trong, bên  ngoài và ma  trận hình  ảnh  các đối  thủ  cạnh  tranh  chính,  sử  dụng  công  cụ ma  trận  SWOT để đề xuất các giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế  biến lúa gạo của TP. Cần Thơ đến năm 2020.  Năm là, ma trận hoạch định chiến lược có thể định lượng QSPM. Trên cơ sở  các giải pháp được đề xuất  từ ma trận SWOT,  luận án  lựa chọn các giải pháp bằng  việc sử dụng ma trận hoạch định chiến lược có thể định lượng QSPM. 30  Thông qua các giải pháp được lựa chọn từ ma trận hoạch định chiến lược có  thể định lượng QSPM, luận án sử dụng phương pháp khảo sát chuyên gia và phương  pháp thống kê mô tả để xác định thứ tự mức độ quan trọng của các giải pháp.  1.7.  KINH  NGHIỆM  PHÁT  TRIỂN  SẢN  XUẤT  KINH  DOANH  CỦA  CÁC  DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG  NƯỚC VÀ TRÊN THẾ GIỚI  1.7.1. Kinh  nghiệm  phát  triển  sản  xuất  kinh  doanh  của  các  doanh nghiệp  chế  biến lúa gạo ở một số địa phương trong nước  1.7.1.1. Kinh nghiệm của Công ty lương thực Tiền Giang (Tigifood)  Từ trước đến nay, tập quán sản xuất của các hộ nông dân vẫn là sản xuất nhỏ,  nông dân chỉ quan  tâm đến năng suất  lúa mà chưa quan  tâm nhiều đến chất  lượng.  Đặc biệt, trong khâu xử lý sau thu hoạch còn nhiều hạn chế, vẫn chưa đầu tư sản xuất  tập trung theo vùng và theo từng loại giống lúa chất lượng cao, lúa đặc sản. Đó là một  trong những nguyên nhân  làm  cho gạo  của Việt Nam  thua kém gạo Thái Lan. Tuy  nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có được giải pháp tốt để khắc phục những  hạn chế đó.  Để giải quyết bài toán này, Công ty Lương thực Tiền Giang (Tigifood) đã xây  dựng một lực lượng có kinh nghiệm nhận biết, chế biến, phân loại gạo,... Đồng thời,  công ty cũng hình thành mạng lưới thu mua và tiêu thụ lúa gạo trong nông dân thông  qua  các  phương  thức  như: mua  lúa  gạo  trực  tiếp  của  nông  dân  thông  qua  các  xí  nghiệp, các kho của Tigifood tại  các vùng  trọng điểm của  tỉnh  và các  tỉnh lân cận.  Qua đó, Tigifood sẽ báo niêm yết giá mua từng thời điểm để người dân có thể tham  khảo và quyết định việc bán lúa của mình. Bên cạnh đó, công ty thành lập các tổ thu  mua lưu động trực tiếp mua lúa tại ruộng của nông dân trong thời gian thu hoạch rộ  để đưa về kho phơi, sấy. Xây dựng những vệ tinh là các doanh nghiệp tư nhân, hợp  tác xã có chức năng xay xát  lúa gạo trong tỉnh đã có quan hệ cung ứng lúa gạo cho  Tigifood  từ  nhiều  năm  trước  đứng  ra  thu mua  lúa  trong  nông  dân  rồi  bán  lại  cho  Tigifood. 31  Các giải pháp thu mua lúa gạo của công ty Tigifood đã tạo điều kiện cho nông  dân an tâm gắn bó với ruộng đồng và là “cầu nối” đồng hành giữa người sản xuất với  doanh nghiệp. Hàng năm, Tigifood  thu mua khoảng 250.000  ­ 300.000  tấn gạo các  loại. Nhờ mạng lưới  tổ chức hợp lý, vừa chủ động nguồn kinh doanh, vừa đảm bảo  tồn trữ gối đầu, Tigifood đã đưa ra một lượng lớn gạo để bán lẻ cho người tiêu dùng  trong và ngoài tỉnh, qua đó góp phần cùng với cả nước bình ổn được giá gạo khi có  hiện tượng sốt “ảo”.  Có thể nói, năm 2010 là năm thắng lợi của Công ty lương thực Tiền Giang, đó  là tiếp tục kinh doanh có hiệu quả, bảo toàn được vốn, ổn định thu nhập của người lao  động, đời sống cán bộ công nhân viên không ngừng được nâng lên, tạo đà cho sự tiếp  tục phát triển của công ty trong các năm tiếp theo.  Một số chỉ tiêu thực hiện được trong năm 2010 của công ty như sau: sản lượng  gạo mua vào 206.687 tấn (đạt 114,83 % kế hoạch), sản lượng gạo bán ra 245.004 tấn  (đạt  106,52%  kế  hoạch),  sản  lượng  gạo  xuất  khẩu  150.661  tấn  (đạt  107,62%  kế  hoạch), kim ngạch xuất khẩu 68.286.226 USD (đạt 115,31% kế hoạch).  Công ty luôn phát huy tối đa những lợi thế về kinh nghiệm, cơ sở vật chất, về  xuất khẩu gạo thơm, gạo cao cấp, bám sát  thông tin thị trường, điều hành linh  hoạt  công tác mua vào, bán ra. Bên cạnh đó, công ty rất chú trọng công tác phát triển đào  tạo nguồn nhân lực, quan tâm bồi dưỡng lực lượng trẻ, lực lượng trực tiếp sản xuất,  và có chính sách tuyển dụng thu hút nhân tài vào làm việc tại công ty nhằm đảm bảo  yêu cầu phát triển bền vững của công ty [10].  1.7.1.2. Kinh nghiệm của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giang (Angimex)  Công ty Angimex luôn nằm trong Top 10 doanh nghiệp xuất gạo lớn nhất Việt  Nam. Angimex hiện có năng lực sản xuất 350.000 tấn gạo/năm với hệ thống các nhà  máy  chế  biến  lương  thực  được phân bố  tại  các  vùng  nguyên  liệu  trọng  điểm,  giao  thông thuận lợi, sức chứa kho trên 70.000 tấn và hệ thống sấy, xay xát, lau bóng gạo,  máy tách màu hiện đại. Mỗi năm Công ty xuất khẩu từ 230.000 ­ 300.000 tấn gạo các  loại  sang  các  thị  trường  như:  Singapore,  Malaysia,  Philippines,  Indonesia,  Africa,  Iran, Iraq, Cuba, Hongkong, Campuchia,… 32  Công ty đã hình thành mạng lưới thu mua và tiêu thụ lúa gạo trong nông dân  qua  các  phương  thức  như: mua  lúa  gạo  trực  tiếp  của  nông  dân  thông  qua  các  xí  nghiệp, các kho của công ty tại các vùng trồng lúa lớn của tỉnh và các tỉnh lân cận.  Bên cạnh đó, công ty cũng đã  thành lập các tổ thu mua lúa lưu động,  trực tiếp mua  lúa  tại  ruộng  của  nông  dân  trong  thời  gian  thu  hoạch  rộ  để  đưa  về  kho  phơi,  sấy.  Công  ty  còn  thực hiện  bao  tiêu  sản phẩm  lúa gạo  với  các  hợp  tác  xã  nông nghiệp  thông qua việc ký kết hợp đồng với các hợp tác xã.  Để nâng cao chất lượng lúa gạo sau chế biến, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu  An Giang (Angimex) đã đầu tư xây dựng khu liên hợp chế biến lúa gạo. Khu liên hợp  thực hiện chức năng như: sấy lúa, xay xát, chế biến,  tồn trữ lúa gạo thông qua việc  mua lúa tươi khi thu hoạch, giúp giảm chi phí, gia tăng thu nhập cho nông dân trồng  lúa.  Khu liên hợp có hệ thống kho dự trữ, sức chứa gần 30.000 tấn lúa, hệ thống  sấy lúa đạt năng suất 600 tấn lúa/ngày, cùng với dây chuyền xay xát có công suất 20  tấn/giờ, và  lau bóng gạo đạt công suất 20  tấn/giờ. Việc xây dựng khu  liên hợp chế  biến lúa gạo đã góp phần làm giảm thất thoát trong khâu thu hoạch lúa, đồng thời tạo  nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định để phát triển thị trường xuất khẩu gạo chất lượng  cao và thị trường gạo nội địa, tiến tới phát triển các sản phẩm tiềm năng tích hợp từ  hạt  lúa.  Ngoài  ra,  khu  liên  hợp  còn  thực  hiện  nhiệm  vụ  hợp  tác  giữa  đơn  vị  kinh  doanh và nông dân. Công  ty Angimex  sẽ  cung ứng giống, phân bón,  thuốc bảo  vệ  thực vật, hướng dẫn kỹ thuật canh tác và bao tiêu sản phẩm cho nông dân [9].  1.7.2. Kinh  nghiệm  phát  triển  sản  xuất  kinh  doanh  của  các  doanh nghiệp  chế  biến lúa gạo ở một số địa phương trên thế giới  1.7.2.1. Kinh nghiệm phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế  biến lúa gạo ở các tỉnh vùng Đông Bắc Thái Lan  Thái Lan là một trong những nước sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo lớn của  thế giới. Nghiên cứu kinh nghiệm của các doanh nghiệp Thái Lan giúp ích rất nhiều  cho việc phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo thành  phố Cần Thơ trong thời gian tới. 33  (1) Hoạt động sản xuất, chế biến: Thái Lan là nước xuất khẩu gạo đứng đầu  thế giới, hàng năm các doanh nghiệp Thái Lan xuất khẩu khoảng từ 8  ­ 10 triệu tấn  gạo, đạt kim ngạch khoảng 6 tỷ USD. Các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo của Thái  Lan thời gian qua phát triển rất mạnh và họ đã hình thành được những doanh nghiệp  sản xuất kinh doanh  lúa gạo  với quy mô  lớn  và phần  lớn những doanh nghiệp này  nằm ở các tỉnh thuộc vùng Đông Bắc.  Ưu điểm của gạo Thái Lan là chất lượng cao, mẫu mã, bao bì rất đẹp và trên  bao  bì  có  ghi đầy  đủ  các  thông  tin  về  sản  phẩm như: hạn  sử  dụng,  loại  gạo,  hàm  lượng dinh dưỡng,... Các doanh nghiệp cùng với Chính phủ nước này đã kiểm soát rất  tốt vấn đề giống gieo trồng của nông dân, nông dân Thái Lan chủ yếu trồng các giống  lúa cao sản có chất lượng rất cao và phần lớn họ chỉ trồng một vụ lúa trong năm. Việc  quy  hoạch  vùng  nguyên  liệu  được  các  doanh  nghiệp  thực  hiện  rất  chặt  chẽ;  trong  khâu thu hoạch được cơ giới hóa hoàn toàn từ công đoạn cắt, gom, tuốt, làm khô đến  bảo quản. Trong lĩnh vực chế biến, các doanh nghiệp chế biến lúa gạo ở vùng Đông  Bắc Thái Lan có máy móc, thiết bị khá hiện đại và đồng thời họ tổ chức rất nghiêm  ngặt quy trình chế biến lúa gạo.  Để nâng cao chất  lượng gạo sau khi chế biến, hầu hết các doanh nghiệp của  các địa phương này đều có xây dựng vùng nguyên liệu thông qua ký kết hợp đồng  bao tiêu sản phẩm với nông dân và các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Các doanh  nghiệp sẽ ứng vốn trước, cung cấp giống và hỗ trợ về kỹ thuật canh tác lúa cho nông  dân và các hợp tác xã này. Chất lượng lúa được các doanh nghiệp này kiểm định và  phân loại ngay  tại đồng  ruộng,  từ đó  làm cho chất  lượng  lúa  trước khi chế biến rất  cao. Chính vì vậy, chất lượng gạo của Thái Lan được khách hàng ưa chuộng, tin cậy  và có khả năng cạnh tranh rất cao.  Nhằm giúp cho ngành sản xuất  lúa phát  triển, bên cạnh sự đầu  tư của Chính  phủ, các doanh nghiệp đã dành nguồn kinh phí rất lớn đầu tư cho nghiên cứu và triển  khai các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất lúa đến nông dân để nâng cao năng suất, chất  lượng  lúa  gạo. Từ khi Viện  lúa quốc  tế  (IRRI)  được  thành  lập  vào năm 1960,  các 34  doanh nghiệp  luôn  hợp  tác  chặt  chẽ  với  cơ  quan này  trong  nghiên  cứu  lai  tạo  các  giống lúa mới cho năng suất, chất  lượng cao và phù hợp với điều kiện khí hậu,  thổ  nhưỡng.  Để  triển  khai  các  ứng  dụng  tiến  bộ  kỹ  thuật  đến  với  nông  dân,  các  doanh  nghiệp  đã  phối  hợp  chặt  chẽ  với  Cục  triển  khai  nông nghiệp  Thái  Lan  nhằm  giúp  nông dân sản xuất  lúa  trong các  vấn đề như: giúp nông dân cải  tiến  thực  trạng sản  xuất và hiện đại hóa nông nghiệp; giúp nông dân những khó khăn về kỹ thuật trong  sản xuất lúa.  (2)  Sự  hỗ  trợ  của Chính  phủ  đối  với  các doanh  nghiệp:  Để  hỗ  trợ  cho  các  doanh nghiệp chế biến lúa gạo phát triển nhanh và bền vững, Chính phủ Thái Lan đã  thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ như: đẩy mạnh sản xuất lúa, đầu tư cơ sở hạ tầng,  khuyến khích xuất khẩu, hỗ trợ về tài chính,…  ­ Hỗ trợ tài chính, tín dụng: Chính phủ Thái Lan can thiệp có hệ thống vào thị  trường  vốn  thông  qua  đòn  bẩy  lãi  suất  tín  dụng,  hướng  luồng  vốn  chảy  vào  các  ngành,  lĩnh  vực  cần ưu  tiên đầu  tư. Lĩnh  vực  chế biến  lúa  gạo  là một  trong những  hướng mà Chính phủ Thái Lan quan tâm đầu tư. Chính phủ nước này còn thông qua  chính sách ưu tiên phát  triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để phát  triển CNCB lúa gạo  hướng  về  xuất  khẩu.  Thực  hiện  các  ưu  đãi  về  tài  chính  bằng  cách  "tài  trợ  ngầm"  thông qua tín dụng, tức là duy trì lãi suất tín dụng thấp hơn lãi suất thị trường chứng  khoán. Đây là cách kiềm chế nhẹ, nó không chỉ giữ cho lãi suất ổn định mà còn đảm  bảo "thực dương” với lãi suất tiền gửi.  ­ Khuyến khích về thuế: Đi liền với những trợ giúp về tài chính là việc sử dụng  đòn bẩy  thuế để  khuyến khích  các  doanh nghiệp  chế biến  kinh doanh  lúa gạo  phát  triển. Chính phủ Thái Lan đã giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị và các phụ kiện  từ 40% xuống còn 5%.  ­ Thúc đẩy xuất khẩu: Để sản phẩm lúa gạo tiếp vận với thị trường thế giới và  phát triển lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và lao động; Chính phủ nước này đã đưa  ra những chính sách khuyến khích và thúc đẩy xuất khẩu lúa gạo. 35  Từ năm 1952, Thái Lan đã có cơ quan xúc tiến xuất khẩu, nay là Cục xúc tiến  xuất  khẩu  Thái  Lan  (Department  of  Industrial  Promotion  ­  DEP),  trực  thuộc  Bộ  Thương mại. DEP hiện có 57 văn phòng ở cả  trong và ngoài nước. Trong  lĩnh vực  xúc tiến xuất khẩu gạo, DEP có nhiệm vụ: cung cấp thông tin về thị trường thế giới,  cơ hội buôn bán và các quy định trong xuất khẩu lúa gạo,...  ­ Đẩy mạnh phát  triển  khoa học  công nghệ, đào  tạo nguồn nhân  lực: Ngày  nay, Thái Lan thực hiện chính sách phát triển các ngành CNCB không phải trực tiếp  đi vào các phát minh và cũng không phải thực hiện lần lượt các giai đoạn phát triển  công nghệ từ trình độ thấp lên trình độ cao mà chủ yếu là bằng con đường học hỏi  thông qua mô phỏng, tiếp thu kinh nghiệm, lựa chọn kỹ thuật công nghệ cần thiết để  phát triển.  Hướng phát triển công nghệ ở Thái Lan tập trung vào chuyển dịch cơ cấu kinh  tế cho phù hợp với lợi thế vốn có của đất nước để tham gia vào phân công lao động  và hợp tác quốc tế. Hiện nay, Thái Lan ưu tiên cho phát triển CNCB lương thực, thực  phẩm để chuyển dịch cơ cấu kinh tế.  Đi  liền với chính sách  chuyển dịch cơ cấu kinh  tế  là chính sách “đi  tắt khoa  học ­ công nghệ”. Nó được kết hợp chặt chẽ giữa nhập khẩu công nghệ hiện đại của  thế giới với việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, cán bộ  quản  lý và nâng cao tay nghề cho người  lao động trong nước. Cứ một cán bộ khoa  học kỹ  thuật  ở Thái Lan hàng năm  sử dụng bình quân 18.000 USD khoảng chi  tài  chính của Chính phủ.  ­ Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng: Để phát triển nhanh các ngành công nghiệp,  Chính phủ Thái Lan đã đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng như: giao thông, hệ thống  cảng,  kho bãi, điện, nước,  khu  công nghiệp,… và  hiện nay  cơ  sở  hạ  tầng  của Thái  Lan phát triển khá hoàn chỉnh.  Thành công  trong hoạt động  sản  xuất  kinh doanh  của  các  doanh nghiệp  chế  biến lúa gạo ở vùng Đông Bắc Thái Lan ghi nhận những nỗ lực rất lớn của các doanh  nghiệp cùng sự hỗ trợ có hiệu quả từ phía Chính phủ thông qua việc thực hiện nhiều 36  chính sách như: chính sách đầu tư nghiên cứu và triển khai, chính sách đầu tư trong  nông nghiệp, chính sách tài chính,  tín dụng, chính sách thương mại quốc tế,... Hiệu  quả tích cực từ các chính sách này đã đưa nền sản xuất lúa gạo Thái Lan trở nên hiện  đại và dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo trong nhiều thập kỷ qua [28].  1.7.2.2.  Kinh  nghiệm  phát  triển  sản  xuất  kinh  doanh  lúa  gạo  của  Công  ty  Riceland Food bang Arkansas ­ nước Mỹ  (1) Hoạt động sản xuất, chế biến: Mỹ là nước sản xuất và chế biến lúa gạo lớn  thứ ba thế giới. Để khuyến khích người trồng lúa, hàng năm trên cơ sở tính toán của  Bộ nông nghiệp Mỹ, Chính phủ có thể ứng trước 1/3 chi phí trồng lúa cho nông dân  thông qua ngân hàng nông nghiệp hoặc các công ty kinh doanh chế biến lúa gạo. Mặc  dù được ứng trước vốn nhưng đến khi thu hoạch, nông dân được quyền tự do bán lúa  cho người mua nào mà họ thấy có lợi nhất. Khi đó nông dân chỉ phải trả lại vốn ứng  trước với lãi suất ưu đãi từ 2 ­ 3%/năm.  Bang Arkansas nằm ở phía Nam nước Mỹ, đường biên tự nhiên phía Đông ­  sông Mississippi ­ cung cấp nguồn nước ngầm cho sản xuất nông nghiệp của cả bang.  Arkansas đứng đầu nước Mỹ về diện tích và sản  lượng  lúa gạo với gần 9.000 nông  trại trồng lúa của Arkansas hàng năm cung cấp gần 50% sản lượng lúa của Hoa Kỳ.  Diện tích canh  tác bình quân của mỗi nông  trại khoảng 3.000 mẫu Anh. Nông dân  trồng  luân  canh  ngô,  đậu  tương  và  lúa mì.  Sản  xuất  nông  nghiệp  tại  Arkansas  là  ngành thâm dụng vốn, mỗi nông trại thường chỉ có 2 đến 3 nhân công. Trong khi đó  yêu cầu đầu tư vốn vào thiết bị canh tác và hệ thống thủy lợi lại rất lớn. Số tiền đầu tư  bình quân tại mỗi trang trại khoảng 500.000 USD.  Để được hỗ trợ tiếp thị và bán hàng, khoảng 60% nông dân ở Arkansas tham  gia với tư cách thành viên của Công ty Chế biến và Kinh doanh lương thực Riceland  Food. Riceland Food hoạt động theo hình thức một hợp tác xã của nông dân, lệ phí  tham gia thành viên của Riceland Food là 1 đô la Mỹ/năm/nông dân. Riceland Food  cung cấp dịch vụ tiếp thị sản phẩm cho gạo, đậu tương và lúa mì của 9.000 nông dân  thành viên ở các bang Arkansas, Louisiana, Mississippi, Missouri và Texas. Công ty 37  luôn nỗ  lực tôn  trọng quy  tắc  tối đa hóa giá  thu mua  lương  thực cho các nông  trại.  Riceland  Food  bố  trí  một  hệ  thống  kho  bãi  và  điểm  xuất  khẩu  dọc  theo  sông  Mississippi. Mỗi năm, Riceland Food thu nhận, dự trữ, vận chuyển, chế biến và bán  ra khoảng 2,5 triệu tấn lương thực. Sản phẩm gạo của Riceland có chất lượng rất cao.  Riceland Foods đầu tư toàn bộ quá trình sản xuất gạo khép kín từ thóc, gạo lức, gạo  trắng đến gạo đồ. Hiện tại, Riceland Food là công ty chế biến và kinh doanh lúa gạo  lớn nhất thế giới.  Riceland Food  phối hợp chặt chẽ với Trung tâm Nghiên cứu và Khuyến nông  Arkansas trong kiểm tra chất  lượng giống lúa mới, kiểm tra năng suất chế biến của  gạo  được  trồng  thử  nghiệm  từ  những  giống  lúa mới,  nhờ  vậy  giúp  đảm  bảo  chất  lượng các hoạt động nghiên cứu ứng dụng phục vụ khuyến nông cho các khách hàng  là nông dân Arkansas.  Trong mùa thu hoạch, nếu giá lúa trên thị trường xuống thấp, bất lợi cho nông  dân sản xuất lúa thì công ty sẽ cấp cho người trồng lúa số tiền lưu kho số lúa đã thu  hoạch, số tiền này bằng giá chuẩn nhân với sản lượng. Giá chuẩn do Bộ Nông nghiệp  Mỹ quy định bằng chi phí sản xuất lúa của nông dân cộng với lợi nhuận bình quân.  Trong thời gian lúa lưu kho, hàng tuần công ty cung cấp thông tin về thị trường lúa  gạo để nông dân tự quyết định bán lúa ra lúc nào có lợi nhất. Với những biện pháp  trên, công ty Riceland Food đã tạo điều kiện cho người nông dân trồng lúa an tâm sản  xuất và đảm bảo lợi nhuận tối đa cho họ [43].  (2) Sự hỗ trợ của Chính phủ: Để hỗ trợ cho ngành hàng lúa gạo phát triển bền  vững, Chính phủ Mỹ đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ như: đầu tư cho khâu sản  xuất  lúa,  đầu  tư  cơ  sở hạ  tầng  kỹ  thuật,  đầu  tư  cho nghiên  cứu  khoa  học  và  công  nghệ,...  ­  Về  phát  triển  sản  xuất  lúa: Nhằm giúp  cho  ngành  sản  xuất  lúa  phát  triển,  trong thời gian qua Chính phủ Mỹ đã dành nguồn kinh phí rất lớn đầu tư cho nghiên  cứu và triển khai các tiến bộ kỹ thuật  trong sản xuất  lúa đến nông dân để nâng cao  năng suất, chất lượng lúa gạo. 38  ­ Hỗ  trợ  tài  chính,  tín dụng: Ngành  hàng  lúa gạo  là một  trong những ngành  được Chính phủ Mỹ quan tâm trợ giúp. Hàng năm, Chính phủ Mỹ dành khoảng 2 tỷ  USD hỗ trợ cho những doanh nghiệp chế biến lúa gạo để đổi mới công nghệ, tạm trữ  lúa gạo và đầu tư vốn cho người trồng lúa. Bên cạnh đó, Chính phủ Mỹ còn thực hiện  chính sách hỗ  trợ  xuất khẩu  gạo nhằm giúp cho  các doanh nghiệp mở  rộng và giữ  vững  thị  trường xuất  khẩu  của mình  với  khoảng  kinh  phí  dành  cho  hoạt động này  hàng năm khoảng từ 500 ­ 700 triệu USD. Thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của các  doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo ở Mỹ là các nước như EU, Nhật, Trung Đông với  các loại gạo phẩm chất cao.  ­ Đẩy mạnh phát  triển khoa học công nghệ: Công nghệ chế biến  lúa gạo của  nước Mỹ thuộc loại hiện đại nhất của thế giới. Các doanh nghiệp chủ yếu sử các công  nghệ được sản xuất ở trong nước và thực tiễn đã chứng minh các công nghệ sản xuất  ở trong nước hiện đại hơn nhiều so với công nghệ ngoại nhập. Hàng năm, Chính phủ  Mỹ dành nguồn kinh phí rất lớn cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Vì  vậy,  ngành  cơ  khí  nông nghiệp  của Mỹ  rất  phát  triển  và  là một  trong  những nước  đứng đầu thế giới.  ­ Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng: Để phát triển nhanh các ngành công nghiệp,  nước Mỹ đã đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng trong nhiều thập kỷ qua. Hiện nay, cơ  sở hạ tầng về giao thông, hệ thống cảng, sân bay, kho bãi, điện, nước,… của Mỹ vào  loại quy mô và hiện đại nhất thế giới [28].  1.7.2.3.  Kinh  nghiệm  phát  triển  sản  xuất  kinh  doanh  lúa  gạo  của  Công  ty  SunRice bang New South Wales nước Úc  So với doanh nghiệp các nước Việt Nam, Thái Lan và Mỹ; hoạt động sản xuất  kinh doanh của doanh nghiệp chế biến lúa gạo của Úc có nhiều điểm khác biệt. Tuy  nhiên, hiệu quả kinh  tế đem  lại  cho người nông dân  trồng  lúa và doanh nghiệp chế  biến lúa gạo này là rất cao.  (1) Hoạt động sản xuất, chế biến: Úc không phải là nước sản xuất và chế biến  lúa gạo lớn của thế giới, nhưng Úc có nền sản xuất nông nghiệp và ngành chế biến  lúa gạo rất phát triển so với các nước trên thế giới. 39  Vùng trồng lúa chính của Úc là bang New South Wales, trong đó tập trung ở  03 khu vực là Murrumbidgee, Coleambally và thung lũng Murray, đây là những khu  vực  có  địa  hình  bằng  phẳng  và  thuận  lợi  về  nước  tưới  do  có  hai  con  sông  Murrumbidgee và Murray chảy qua. Tiềm năng phát triển trồng lúa của nước Úc rất  lớn vì có đất đai rộng lớn, dân số ít và khả năng cạnh tranh mạnh nhờ năng suất lúa  cao; nhưng diện tích trồng lúa của nước này cũng bị giới hạn bởi yếu tố nước tưới và  biến đổi khí hậu. Tổng diện tích trồng lúa của Úc hàng năm giao động từ 100 ­ 150  ngàn ha với hơn 1.700 hộ nông dân trồng lúa. Tại bang New South Wales, bình quân  một hộ nông dân sở hữu 300 ha, trong đó diện tích đất lúa bình quân hộ là 70 ha; lao  động trực tiếp sản xuất  lúa khoảng 2.000 người và lao động gián tiếp khoảng 8.000  người (thông thường một lao động đảm nhiệm khoảng 70 ha). Diện tích trồng lúa của  Úc không ổn định một mặt do nông dân trồng lúa không được hưởng chính sách trợ  cấp nên diện tích gieo trồng và sản lượng tăng giảm tùy theo diễn biến giá cả trên thị  trường, mặt khác do thiếu nước nước tưới và biến đổi khí hậu gây ra hạn hán liên tiếp  trong những năm gần đây. Sử dụng nước tiết kiệm và hợp lý là một trong những điều  kiện đặt ra đối với nông dân trồng lúa. Theo quy định, hộ nông dân được sản xuất lúa  nếu thỏa mãn 3 điều kiện: có diện tích đất thích hợp cho việc trồng lúa, sử dụng nước  hợp lý và tổng diện tích gieo trồng lúa phải có 70% diện tích được tưới.  Hiện nay, năng suất lúa của Úc luôn đạt mức trên 10 tấn/ha. Sở dĩ nước Úc đạt  năng suất lúa cao nhất thế giới là do nông dân trồng lúa thực hiện các biện pháp kỹ  thuật như luân canh lúa và các loại cây ngũ cốc, cơ giới hóa từ khâu canh tác đến chế  biến, và các cánh đồng lúa hầu như không có sâu bệnh. Bình quân một hộ nông dân  sở hữu 300 ha đất, nông dân chỉ trồng lúa 1 vụ/năm trên một phần ba ruộng đất của  mình theo hệ thống luân canh:  lúa + kiều mạch hoặc đại mạch. Hệ thống luân canh  này là phương pháp canh tác lý tưởng giúp sử dụng ít phân hóa học (chỉ 60 kg đạm  Ure/ha cho lúa, trong khi bình quân ở các nước khác là khoảng 300 kg đạm Ure/ha),  ít thuốc diệt cỏ và bồi dưỡng tốt cho đất đai, nhưng năng suất rất cao. Bên cạnh đó,  ngành trồng lúa của nước Úc cũng ít bị nhiễm các loại sâu bệnh thường thấy ở các  vùng sản xuất lúa nhiệt đới và ôn đới khác trên thế giới, nhờ chương trình kiểm dịch 40  chặt chẽ (rice check), khí hậu tốt, trồng một vụ lúa/năm, hệ thống luân canh hữu hiệu  và chương trình cải thiện giống lúa tiến bộ.  Tiêu dùng gạo nội địa chỉ chiếm 15%, còn lại 85% là xuất khẩu, khối  lượng  gạo  xuất  khẩu  của Úc  chiếm 20  ­ 25%  thương mại  gạo  loại hạt  gạo  cỡ  trung bình  (medium grain)  toàn thế giới. Trong  thập niên 1980, giá  lúa gạo trên  thị  trường  thế  giới xuống thấp gây khó khăn trong việc tiêu thụ lúa gạo của Úc. Để đối phó với tình  hình này, ngành lúa gạo Úc đã phát động các chiến dịch kích cầu để gia tăng tiêu thụ  lúa gạo trên thị trường nội địa, qua đó kích thích công nghiệp chế biến lúa gạo phát  triển. Kể  từ đó đến nay, hạ  tầng chế biến  lúa gạo Úc liên  tục được đầu  tư, đổi mới  theo hướng đồng bộ và hiện đại. Công nghiệp chế biến lúa gạo phát triển đã nâng đỡ  cho ngành lúa gạo Úc phát triển sản phẩm và thị trường ra ngoài biên giới Úc với các  sản phẩm có chất lượng cao,  thâm nhập các thị trường cao cấp và thu về giá trị gia  tăng rất cao.  (2) Tổ chức ngành hàng lúa gạo và vai trò của Chính phủ Úc: Tổ chức ngành  hàng  lúa  gạo Úc khá đơn giản,  gọn nhẹ, nhưng hiệu quả, bao  gồm 3  cơ quan: Hội  đồng giám sát hoạt động thương mại gạo bang New South Wales (gọi  tắt  là RMB ­  Rice Marketing  Board  for  the  State  of  New  South Wales), Hiệp  hội  những  người  trồng  lúa Úc  (gọi  tắt  là RGA ­ Rice Growers’ Association of Australia) và Công  ty  TNHH thương mại SunRice. Ba cơ quan này hoạt động thông qua Ủy ban phối hợp  ngành hàng lúa gạo (Rice Industry Co­ordination Committee).  ­ RMB thành  lập  từ năm 1928 và hoạt động dựa  trên  luật marketing các sản  phẩm chính (the Marketing of Primary Products Act, 1927). Cơ quan này giữ vai trò  quản lý hạ tầng kho bãi ngành hàng lúa gạo Úc, đồng thời thực hiện ba chức năng đối  với riêng bang New South Wales, đó là: khuyến khích phát triển thị trường gạo trong  nước cạnh tranh cao, bảo vệ lợi ích người trồng lúa trong hoạt động kinh doanh xuất  khẩu gạo, đại diện người trồng lúa bang New South Wales.  ­ RGA  thành  lập năm 1930,  là  cơ quan đại diện  tiếng nói  tập  thể của người  trồng lúa, với số lượng hội viên tham gia tự nguyện hiện nay là hơn 1.700 người. Cơ 41  quan này thực hiện ba chức năng như: đề xuất và thực thi các chính sách ngành lúa  gạo nhằm đảm bảo lợi ích cho người trồng lúa; đại diện cho người trồng lúa đối với  chính quyền  bang, Chính  phủ,  các  cơ  quan,  tổ  chức địa  phương,  các nhóm  lợi  ích  khác có liên quan đến ngành hàng lúa gạo; phục vụ các yêu cầu cụ thể của các hội  viên.  ­ SunRice là công ty kinh doanh lúa gạo được thành lập từ năm 1950, ban đầu  dưới dạng tổ chức hợp tác của những người  trồng lúa. Hiện nay, công ty hoạt động  dưới hình thức công ty cổ phần,  trong đó những nông dân trồng lúa đóng vai  trò là  những cổ đông. Sunrice là một trong những thương hiệu chế biến xuất khẩu lớn của  Úc với 500 ngàn tấn của hơn 1.000 sản phẩm từ gạo các loại, xuất khẩu đến 60 quốc  gia  trên  thế  giới.  Hiện  nay,  công  ty  có  3  nhà  máy  chế  biến  đóng  gói  sản  phẩm  ở  Leeton, Deniliquin và Coleambally, chế biến ra 3 dòng sản phẩm chính  là gạo, bột  gạo và các loại bánh chế biến từ gạo; ngoài ra công ty còn có các nhà máy đặt tại một  số quốc gia như Ấn Độ, Jordan, Solomon,...  Mô hình tổ chức ngành hàng lúa gạo nước Úc cho thấy vai trò của Chính phủ  không lớn trong việc đảm bảo lợi ích của nông dân trồng lúa. Việc đề xuất và thực thi  các chính sách  liên quan đến ngành hàng lúa gạo đều xuất phát  từ người  trồng  lúa,  Chính phủ và Chính quyền bang chỉ đóng vai trò là cơ quan giám sát quá trình thực  thi dựa trên các đạo luật có liên quan. Đặc biệt, mô hình công ty SunRice hoạt động  dưới hình  thức công  ty cổ phần  trong đó người  trồng  lúa  là  thành viên đã thúc đẩy  quá trình chuyên môn hóa trong sản xuất lúa gạo của nước Úc. Nông dân trồng lúa ở  Úc trong vai trò là người sản xuất chỉ tập trung canh tác lúa thật tốt để cho năng suất,  sản lượng tối đa; các khâu chế biến, tiêu thụ do công ty đảm nhiệm, song lợi nhuận  cuối cùng được phân phối công bằng cho các thành viên theo tỷ lệ công việc mà họ  đóng góp. Cách thức tổ chức khép kín từ khâu sản xuất đến chế biến và tiêu thụ đã  giúp loại bỏ được các thành phần trung gian, giảm chi phí và giúp ngành hàng lúa gạo  của nước Úc tăng khả năng cạnh tranh so với các quốc gia sản xuất lúa gạo khác trên  thế giới [41]. 42  1.7.3.  Những  bài  học  kinh  nghiệm  được  rút  ra  từ  các  doanh  nghiệp  trong  và  ngoài nước đối với sự phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo của TP. Cần Thơ  Từ thực tiễn phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến lúa  gạo trong nước và trên thế giới, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với sự  phát triển của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của TP. Cần Thơ trong thời gian tới  như sau:  Một  là, doanh nghiệp phải chủ động xây dựng vùng nguyên  liệu  và  thiết  lập  mạng  lưới  thu mua  lúa đến  tận nông dân: Kinh nghiệm  của các doanh nghiệp  trên  cho thấy, để phát triển sản xuất kinh doanh bền vững thì trước tiên doanh nghiệp phải  chủ động xây dựng vùng nguyên liệu  thông qua việc ký kết hợp đồng bao  tiêu  sản  phẩm với các hợp tác xã nông nghiệp và nông dân; hình thành mạng lưới thu mua lúa  gạo đến tận nông dân thông qua các phương thức như: mua lúa gạo trực tiếp của nông  dân thông qua các xí nghiệp, các kho của doanh nghiệp tại các vùng trồng lúa trọng  điểm,  thành  lập các tổ  thu mua  lưu động trực  tiếp mua  lúa  tại  ruộng của nông dân  trong thời gian thu hoạch. Xây dựng những vệ tinh là các doanh nghiệp tư nhân, hợp  tác xã có chức năng xay xát lúa gạo đứng ra thu mua lúa trong nông dân rồi bán lại  cho doanh nghiệp.  Hai  là,  xây dựng quy  trình chế biến  lúa gạo theo mô hình khu  liên hợp: Để  nâng cao chất lượng lúa gạo sau chế biến, các doanh nghiệp cần đầu tư xây dựng khu  liên hợp chế biến lúa gạo. Khu liên hợp thực hiện chức năng như: sấy lúa, xay xát,  chế biến, tồn trữ lúa gạo. Việc xây dựng khu liên hợp chế biến lúa gạo sẽ góp phần  làm giảm thất thoát trong khâu thu hoạch lúa, nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu  và giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc phát  triển thị  trường xuất khẩu cũng  như thị trường gạo nội địa.  Ba  là, đẩy mạnh phát  triển theo mô hình “Công ty cổ phần nông nghiệp” để  nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo và góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã  hội: Việc nâng cao chuỗi giá  trị ngành hàng lúa gạo thông qua mô hình công ty cổ  phần giống như mô hình công ty Sunrice của nước Úc có một số ưu điểm như: duy trì 43  và kiểm soát được số lượng và lợi ích của các tác nhân trong chuỗi cung theo hướng  công bằng và minh bạch; giúp các thành phần trong chuỗi có động lực để làm tốt các  công việc của mình, qua đó làm cho cả hệ thống vận hành hiệu quả, giá trị sản phẩm  luôn được gia tăng qua mỗi công đoạn và làm tăng lợi nhuận trên đơn vị sản phẩm  cuối cùng; mô hình công ty cổ phần tập hợp và tổ chức được nông dân sản xuất lúa  gạo  theo nhu  cầu  thị  trường để  thu được  lợi  ích  cao nhất; quyền  lợi  và  lợi  ích của  người sản xuất lúa được đảm bảo; phân công lao động trong chuỗi cung ngành hàng  lúa gạo đạt trình độ hợp lý, khoa học và hiệu quả cao.  Qua kinh nghiệm công ty Sunrice của nước Úc, có thể thấy mô hình “Công ty  cổ phần nông nghiệp” là hình thức tổ chức phù hợp đối với nông dân trồng lúa và các  doanh nghiệp chế biến lúa gạo của Cần Thơ.  Bốn  là,  sự  hỗ  trợ  của  Nhà nước  về  tài  chính,  tín  dụng,  thuế,  thúc  đẩy  xuất  khẩu, khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực là rất quan trọng.  ­ Về tài chính, tín dụng và thuế: Chính phủ các nước đã hướng luồng vốn chảy  vào  các ngành,  lĩnh  vực  cần  ưu  tiên  đầu  tư. Trong đó, ngành hàng  lúa  gạo  là một  trong những lĩnh vực mà Chính phủ các nước Thái Lan, Mỹ quan tâm đầu tư. Đi liền  với những  trợ giúp về  tài  chính  là việc sử dụng đòn bẩy thuế để khuyến khích các  doanh nghiệp chế biến  lúa gạo  phát  triển. Các phương  thức hỗ  trợ thông qua chính  sách  về  thuế bao  gồm: miễn và giảm  thuế  thu nhập,  thuế kinh doanh,  thuế  lợi  tức,  giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị và các phụ kiện,… Ví dụ như: Thái Lan thực  hiện  chính  sách  giảm  thuế  nhập  khẩu máy  móc,  thiết  bị  và  các  phụ  kiện  từ  40%  xuống chỉ còn 5%.  ­ Thực hiện có hiệu quả chính sách thúc đẩy xuất khẩu: Để hỗ trợ các doanh  nghiệp chế biến lúa gạo phát triển các nước đã đưa ra những chính sách khuyến khích  và thúc đẩy xuất khẩu như thực hiện miễn, giảm thuế và cấp vốn với lãi suất thấp để  tăng sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, hỗ trợ về xúc tiến thương mại cho các  doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.  ­  Phát  triển khoa  học  công nghệ  và  đào  tạo nguồn nhân  lực: Ngày nay, các  nước đang phát  triển  và  có  điều  kiện  tương  đồng  giống Việt Nam  đang  thực  hiện 44  chính sách phát triển khoa học công nghệ chủ yếu là bằng con đường học hỏi, tiếp thu  kinh nghiệm và lựa chọn kỹ thuật công nghệ cần thiết để phát  triển. Đi  liền với các  chính sách trên là chính sách “đi tắt khoa học ­ công nghệ”. Nó được kết hợp chặt chẽ  giữa nhập khẩu công nghệ với nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ khoa học công  nghệ, cán bộ quản lý và nâng cao tay nghề cho người lao động. Ví dụ như cứ một cán  bộ khoa học kỹ thuật ở Thái Lan hàng năm sử dụng bình quân 18.000 USD khoảng  chi tài chính của Chính phủ.  Trong quá trình phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo các nước, việc lựa chọn công nghệ thích hợp có vai trò rất quan trọng, không  nhất thiết các công nghệ đó phải là nhập ngoại mà có thể đó là những công nghệ được  sản xuất trong nước, nếu nó đáp ứng được yêu cầu. Hiện nay, các nước rất chú trọng  đến phát triển ngành cơ khí nông nghiệp nhằm làm giảm bớt sức lao động trong nông  nghiệp, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm sau khi chế biến.  ­ Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng: Để phát triển nhanh các ngành công nghiệp,  Chính phủ các nước đã đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng như giao thông, hệ thống  cảng, kho bãi, điện, nước, khu công nghiệp,… và hiện nay cơ sở hạ tầng của các nước  trong khu vực phát triển khá hoàn chỉnh.  Những kinh nghiệm nêu trên là sẽ những bài học quý giá và bổ ích đối với sự  phát  triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo TP. Cần Thơ  trong thời gian tới. 45  CHƯƠNG 2  ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH CÁC DOANH  NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO CỦA THÀNH PHỐ CẦN THƠ  TRONG THỜI GIAN QUA  Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của chương 1, trong chương 2 sẽ đánh giá thực  trạng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo với mục tiêu phân tích,  đánh giá các kết quả đạt được và tìm ra các hạn chế cản trở sự phát triển của doanh  nghiệp. Đồng thời, sẽ phân tích các yếu tố môi trường để tìm ra các cơ hội và nguy cơ  để làm cơ sở cho việc định hướng phát triển các doanh nghiệp chế biến lúa gạo thành  phố Cần Thơ đến năm 2020.  2.1. TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHỐ CẦN THƠ  2.1.1. Điều kiện tự nhiên  2.1.1.1. Vị trí địa lý  Thành phố Cần Thơ được  thành  lập  trên  cơ sở  tách  từ  tỉnh Cần Thơ  cũ  theo  Nghị quyết số 22/2003/QH 11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội  chủ nghĩa Việt Nam (khóa XI) và Nghị định số 05/2004/NĐ­CP ngày 02/01/2004 của  Chính phủ, là một trong năm thành phố trực thuộc Trung ương trong cả nước.  Thành phố Cần Thơ nằm  ở vị  trí  trung  tâm vùng ĐBSCL,  trải dài  trên 55km  dọc bờ Tây sông Hậu, tổng diện tích tự nhiên là 1.389,6 km 2  ­ chiếm 3,49% diện tích  vùng ĐBSCL. Phía Bắc giáp tỉnh An Giang, phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp và tỉnh  Vĩnh Long, phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang và phía Nam giáp tỉnh Hậu Giang.  Với vị  trí  địa  lý  trung  tâm và quá  trình phát  triển  thành đô  thị  lớn nhất vùng  ĐBSCL, thành phố Cần Thơ là cửa ngõ giao lưu chính của vùng Tây Nam sông Hậu  với Tứ giác Long Xuyên, vùng Bắc sông Tiền và vùng trọng điểm kinh tế phía Nam;  là  giao  điểm  của  nhiều  tuyến  giao  thông  thủy,  bộ  quan  trọng  như:  trục  đường  bộ 46  thành phố Hồ Chí Minh ­ thành phố Cần Thơ, từ thành phố Cần Thơ rẽ các nhánh đi  Cà  Mau,  Kiên  Giang  và  Long  Xuyên  ­  Châu  Đốc  hướng  về  Phnôm  Pênh  (Campuchia);  trục  sông Hậu nối  từ Biển Đông đến Phnôm Pênh;  các  tuyến đường  thủy quốc gia cái Sắn, xà No; có cảng biển lớn nhất vùng ĐBSCL và đặc biệt là có  sân bay quốc tế Cần Thơ, là sân bay quốc tế duy nhất của cả vùng.  Thành phố Cần Thơ gồm có 5 quận: Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn,  Thốt Nốt và 4 huyện: Cờ Đỏ, Phong Điền, Thới Lai, Vĩnh Thạnh. Trung tâm  thành  phố Cần Thơ đặt  tại quận Ninh Kiều,  là nơi  tập  trung các cơ quan Trung ương, cơ  quan Đảng, đoàn  thể,  trụ  sở  các  cơ  quan quản  lý  hành  chính Nhà nước,  các cơ  sở  quan trọng về thương mại, dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông, vận tải, giáo dục,  văn hóa ­ thể dục thể thao, an ninh, quốc phòng và khu dân cư đô thị.  Với vị trí địa lý trên, thành phố Cần Thơ có lợi thế trong phát triển công nghiệp  chế biến so với các tỉnh trong vùng ĐBSCL, có lợi thế để hướng tới trung tâm công  nghiệp chế biến lúa gạo của cả vùng [17].  2.1.1.2. Khí hậu, thời tiết  Thành phố Cần Thơ nằm  trong vùng khí hậu chung của vùng ĐBSCL, vùng  khí hậu nhiệt đới cận xích đạo, với các đặc điểm: năng lượng bức xạ dồi dào, nắng  nhiều (trung bình 6,4 giờ/ngày), nhiệt độ cao đều trong năm (khoảng 27 o c), biên độ  dao động giữa ngày và đêm nhỏ; khí hậu chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng  5 đến tháng 11 trùng với gió Tây Nam và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 trùng với  giá mùa Đông Bắc. Thành phố Cần Thơ có khí hậu rất thuận lợi cho việc phát triển  nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ [17].  2.1.1.3. Chế độ thủy văn, nguồn nước  Tổng chiều dài dòng chảy  trên địa bàn  thành phố  là 3.405km so với mật độ  trung bình của sông rạch 1,80 km/km 2 , dòng chảy chính là sông Hậu. Sông Hậu chảy  qua trên 55 km chiều dài địa bàn thành phố, các kênh rạch khác gồm 03 nhóm: các  kênh rạch chuyển nước từ sông Hậu về biển Tây và bán đảo Cà Mau, các kênh song  song với sông Hậu và các sông rạch tự nhiên chịu ảnh hưởng triều cường. Vào mùa lũ 47  (từ tháng 9 đến đầu tháng 11 hàng năm), địa bàn thành phố Cần Thơ chịu ảnh hưởng  của dòng lũ từ sông Hậu và tứ giác Long Xuyên, trong đó có khoảng 87.800 ­ 88.400  ha ngập trung bình 50  ­ 100 cm, những ảnh hưởng của  triều cường vẫn rõ nét. Với  đặc điểm này thành phố Cần Thơ  có  lợi  thế để phát  triển nuôi  trồng, đánh bắt  thủy  sản, vận tải sông, du lịch sông nước và thuận lợi cho việc phát  triển các khu đô thị  sinh thái [17].  2.1.1.4. Tài nguyên  Thành phố Cần Thơ nằm  trong vùng đồng lũ nửa mở, bao gồm 03 dạng địa  mạo: đê tự nhiên ven sông Hậu, đồng lũ nửa mở thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên và  đồng bằng Châu thổ. Cao trình phổ biến từ +0,8 ­ 1,0m và thấp dần từ Đông Bắc sang  Tây Nam. Địa hình được hình thành chủ yếu qua quá trình bồi lắng trầm tích biển và  phù sa của sông Cửu Long, trên bề mặt ở độ sâu 50m có 2 loại trầm tích: Holocene  (phù sa mới) và Pleistocene (phù sa cổ).  Về thổ nhưỡng: Có 02 nhóm đất chính là nhóm đất phù sa chiếm 84% diện tích  tự nhiên và nhóm đất phèn chiếm 16% diện tích tự nhiên.  Về khoáng sản: Tài nguyên khoáng sản nghèo, chỉ bao gồm một số đất sét làm  gạch ngói (khoảng 16,8 triệu m 3 ), cát nền (khoảng 70 triệu m 3 ) và than bùn (khoảng  30.000 ­ 150.000 tấn). Nước ngầm có dung lượng khá dồi dào, chất lượng tốt.  Về sinh vật: Tài nguyên sinh vật phong phú, bao gồm hệ thống sinh vật nuôi  trồng và sinh vật tự nhiên.  Các loại cây trồng khá phong phú, bao gồm lúa nước, các loại cây ăn trái, rau,  màu, với đặc điểm là đất phù sa màu mỡ nên cho năng suất cao và chất lượng tốt. Vật  nuôi chính là trâu, bò, heo, gia cầm,...  Thực vật tại vùng đất phù sa nước ngọt chủ yếu là các loại cỏ, rong tảo,... tại  vùng đất phèn, hệ thực vật chủ yếu là tràm, chà là nước, choại, mớp,... Động vật gồm  các loài chim, gà nước, le le, trích, bò sát,...  Thủy  sinh vật nước ngọt khá phong phú và đa dạng với 173  loài cá, 14  loài  tôm,  98  loài  thực  vật  nổi,  129  loài  động vật  nổi,  43  loài  động vật  đáy. Nguồn  tài 48  nguyên  thủy  sản  trong  thời  gian qua bị  suy  giảm do  ảnh hưởng của  canh  tác nông  nghiệp sử dụng nhiều chất hóa học (phân bón,  thuốc trừ sâu), chất  thải công nghiệp  và sinh hoạt; khai thác vượt quá khả năng tái tạo của tự nhiên. Tuy nhiên, so với các  tỉnh, thành khác trong vùng và cả nước thì môi trường nước của Cần Thơ là rất tốt.  Tóm lại, yếu tố tự nhiên hiện có là điều kiện thuận lợi để thành phố Cần Thơ  phát  triển  các ngành  thương mại, dịch  vụ, nuôi  trồng  thủy  hải  sản,  trồng  trọt,  chăn  nuôi và đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy hải sản [17].  2.1.2. Điều kiện kinh tế ­ xã hội  2.1.2.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế  ­ Tăng trưởng kinh tế: Những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành  phố Cần Thơ luôn giữ được ở mức khá cao, với mức tăng trưởng bình quân hàng năm  đạt xấp xỉ 14%/năm (GDP theo giá so sánh 1994), cao hơn so với mức tăng  trưởng  bình quân của vùng ĐBSCL là 12,26%/năm và cao hơn mức tăng trưởng bình quân  của cả nước đạt xấp xỉ 8%/năm trong giai đoạn 2005 ­ 2009. Tổng sản phẩm trên địa  bàn thành phố (GDP theo giá thực tế) năm 2009 đạt 37.202 tỉ đồng, tăng gấp 2,6 lần  so  với  năm 2005,  bình  quân GDP/người  từ  11,87  triệu  đồng/người/năm năm 2005  tăng lên 31,2 triệu đồng/người/năm năm 2009, cao hơn mức bình quân chung của cả  nước khoảng 20% [7].  ­ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố Cần  Thơ trong thời gian qua chuyển dịch đúng hướng, ngành công nghiệp đã đóng vai trò  quan trọng  trong nền kinh  tế  thành phố. Giai đoạn 2001  ­ 2005, công nghiệp  ­ xây  dựng tăng 17,58%/năm, thương mại ­ dịch vụ tăng 13,44%/năm và nông nghiệp tăng  8,14%/năm.  Giai  đoạn  2005  ­  2009,  công  nghiệp  ­  xây  dựng  tăng  21,33%/năm,  thương mại ­ dịch vụ tăng 29,66%/năm và nông nghiệp tăng 11,26%/năm.  Năm 2006,  đạt  tốc độ  tăng  trưởng khá  cao,  đạt  25,89% (GDP  theo  giá hiện  hành); cơ cấu kinh tế thành phố Cần Thơ tiếp tục chuyển biến theo hướng tích cực, cụ  thể như sau: khu vực I chiếm 17,05%, khu vực II chiếm 38,70% và khu vực III chiếm  44,25%, mặc dù khu vực II tăng khá cao 23,33% so với cùng kỳ năm trước, song vẫn 49  thấp hơn so với khu vực III, tăng 33,36%, thêm vào đó tỷ trọng giá trị khu vực II còn  khá  thấp nên cơ cấu kinh  tế của  thành phố  trong năm 2006 có hướng thiên về  tăng  mạnh khu vực III .  Năm 2007, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao 22,23% (GDP theo giá hiện hành),  cơ cấu kinh tế TP. Cần Thơ tiếp tục chuyển biến theo hướng tích cực, cụ thể như sau:  khu  vực  I chiếm 15,15%,  khu vực  II  chiếm 41,23% và khu vực  III  chiếm 43,62%,  mặc dù khu vực II tăng khá cao 21,2% so với cùng kỳ năm trước, song vẫn thấp hơn  so với khu vực III, tăng 24,78%, thêm vào đó tỷ trọng giá trị khu vực II còn khá thấp  nên cơ cấu kinh tế của thành phố trong năm 2007 có hướng thiên về tăng mạnh khu  vực III .  Năm 2008, trong bối cảnh tình hình thế giới có những biến động phức tạp và  khó lường đã làm ảnh hưởng đến tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế ­ xã  hội  của  cả  nước và  thành phố Cần  Thơ. Tuy  còn  nhiều  khó  khăn  thách  thức,  song  tăng trưởng kinh tế của thành phố vẫn giữ mức tăng khá cao là 27,86% (GDP theo giá  hiện hành),  trong đó: Khu vực  I  tăng 41,26%, khu vực  II  tăng 19% và khu vực  III  tăng  31,58%.  Thu  nhập  bình  quân  đầu  người  theo  giá  hiện  hành  đạt  24,549  triệu  đồng, quy USD đạt 1,444 USD, vượt 7,8% kế hoạch và  tăng 232 USD so với năm  2007.  Năm 2009, tình hình kinh tế thế giới có những bước khởi sắc đã có ảnh hưởng  tích cực đến tình hình phát triển kinh tế của cả nước nói chung và thành phố Cần Thơ  nói riêng. Tuy vẫn còn nhiều khó khăn thách thức, song tăng trưởng kinh tế vẫn giữ  mức  tăng  khá  cao  là  17,73%  (GDP  theo  giá  hiện  hành),  trong  đó: Khu  vực  I  tăng  7,99%; khu vực II tăng 19,96% và khu vực III tăng 19,04%. Thu nhập bình quân đầu  người  theo  giá  hiện  hành đạt  31,2  triệu  đồng,  quy  USD  đạt  1.642  USD,  tăng  198  USD so với năm 2008. Cơ cấu kinh tế của thành phố tiếp tục chuyển dịch theo đúng  định hướng, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp ­ dịch dụ ­ nông nghiệp  công nghệ  cao,  nhưng  còn  chậm  so với  yêu  cầu;  tỷ  trọng  khu vực nông,  lâm, ngư  nghiệp, thủy sản chiếm 14,02% , khu vực công nghiệp ­ xây dựng chiếm 42,49%, khu  vực dịch vụ chiếm 43,49% trong cơ cấu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiai_phap_phat_trien_san_xuat_kinh_doanh_cac_doanh_nghiep_che_bien_lua_gao_cua_thanh_pho_can_tho.pdf
Tài liệu liên quan