Tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam thành tập đoàn tài chính: LUẬN VĂN:
Giải pháp phát triển Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam thành tập
đoàn tài chính
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Có thể nói, hình thành và phát triển các Tập đoàn Tài chính - Ngân hàng là xu
hướng phát triển rất mạnh từ nhiều thập kỷ qua trên thế giới. Trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế, Việt Nam không thể tách rời xu thế chung đó.
Tại Việt Nam, từ khi hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp, hoạt động kinh doanh
tiền tệ, tín dụng đã được chuyển sang các Tổ chức Tín dụng (TCTD) theo hướng chuyên
môn hóa, đa dạng hóa. Nhờ đó, các TCTD trưởng thành khá nhanh chóng, nhất là các
Ngân hàng Thương mại (NHTM) Nhà nước và NHTM cổ phần. Phần lớn các NHTM đã
chú trọng tăng vốn, đổi mới trang thiết bị, nâng cao năng lực quản trị điều hành và chất
lượng nguồn nhân lực nhằm mở rộng qui mô và loại hình dịch vụ, từng bước tăng cường
năng lực cạnh tranh. Nhờ đó, thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam đã và đang ngày càng
mở cửa sâu, rộng với khu vực...
89 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1220 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam thành tập đoàn tài chính, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp phát triển Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam thành tập
đoàn tài chính
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Có thể nói, hình thành và phát triển các Tập đoàn Tài chính - Ngân hàng là xu
hướng phát triển rất mạnh từ nhiều thập kỷ qua trên thế giới. Trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế, Việt Nam không thể tách rời xu thế chung đó.
Tại Việt Nam, từ khi hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp, hoạt động kinh doanh
tiền tệ, tín dụng đã được chuyển sang các Tổ chức Tín dụng (TCTD) theo hướng chuyên
môn hóa, đa dạng hóa. Nhờ đó, các TCTD trưởng thành khá nhanh chóng, nhất là các
Ngân hàng Thương mại (NHTM) Nhà nước và NHTM cổ phần. Phần lớn các NHTM đã
chú trọng tăng vốn, đổi mới trang thiết bị, nâng cao năng lực quản trị điều hành và chất
lượng nguồn nhân lực nhằm mở rộng qui mô và loại hình dịch vụ, từng bước tăng cường
năng lực cạnh tranh. Nhờ đó, thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam đã và đang ngày càng
mở cửa sâu, rộng với khu vực và quốc tế theo các cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO).
Tuy nhiên, so với các NHTM nước ngoài, hệ thống NHTM Việt Nam còn yếu kém
về nhiều mặt như nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh, công nghệ, kỹ thuật, chất
lượng và loại hình dịch vụ, cũng như khả năng chống đỡ rủi ro. Điều này đòi hỏi mỗi
NHTM phải có định hướng và giải pháp thích hợp để phát triển, nâng cao năng lực cạnh
tranh, làm chủ được thị trường tài chính trong nước và vươn ra thị trường nước
ngoài.Trong đó, việc hình thành những ngân hàng lớn, hoạt động đa năng, có khả năng
thích ứng trước những thay đổi nhanh chóng trong thế giới hiện đại đã và đang trở thành
một nhu cầu bức xúc và một xu thế tất yếu.
Là một người đang công tác trong lĩnh vực tài chính, với mong muốn NHTM Việt
Nam nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) nói riêng ngày càng
phát triển và lớn mạnh thành những tập đoàn tài chính-ngân hàng có tầm cỡ quốc tế hòa
mình vào dòng chảy của thế giới, tôi mạnh dạn nghiên cứu và thực hiện luận văn với đề
tài: “Giải pháp phát triển Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thành tập đoàn
tài chính”.
2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu tổng quan những lý luận cơ bản về tập đoàn tài chính-ngân hàng
và tham khảo kinh nghiệm một số mô hình tập đoàn tài chính-ngân hàng trên thế giới.
Phân tích thực trạng hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Đánh
giá những cơ hội và thách thức của BIDV sau khi trở thành tập đoàn tài chính-ngân hàng
và đưa ra các giải pháp góp phần hình thành tập đoàn tài chính-ngân hàng của BIDV. Các
giải pháp đề xuất được cân nhắc và trình bày mang tính định hướng ở tầm quản lý vĩ mô
và vi mô.
3. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thực trạng hoạt động của BIDV và những kinh nghiệm của một số tập
đoàn tài chính-ngân hàng thế giới từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp vận dụng vào tình
hình thực tế của BIDV.
Phương pháp nghiên cứu được vận dụng trong đề tài bao gồm phương pháp hệ
thống so sánh, phân tích, khái quát cụ thể, thu thập và xử lý số liệu từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trong đề tài.
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Luận văn dựa trên thực trạng tình hình hoạt động của BIDV. Từ đó đi sâu vào phân
tích những cơ hội và thách thức và đưa ra các giải pháp để BIDV hình dung được hướng
phát triển thành một tập đoàn tài chính-ngân hàng trong thời gian ngắn nhất.
Do thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn hẹp, học viên không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý Thầy, Cô
để học viên điều chỉnh, hoàn thiện luận văn và mở rộng kiến thức của mình trong công tác
nghiên cứu sau này.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
1.1 Khái niệm về tập đoàn Tài chính - ngân hàng
1.1.1 Khái niệm Tập đoàn kinh tế
Để đi đến khái niệm về Tập đoàn tài chính – ngân hàng, trên góc độ kinh tế Tập
đoàn tài chính – ngân hàng là một tập đoàn kinh tế. Do vậy, trước hết luận văn nghiên cứu
về khái niệm tập đoàn kinh tế (TĐKT).
Trên thế giới, khái niệm TĐKT đã xuất hiện rất sớm cùng với quá trình tích tụ và
tập trung tư bản từ nửa cuối thế kỷ XIX khi nền sản xuất hàng hóa thế giới phát triển mạnh
mẽ nhờ sự tác động trực tiếp của cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu và Bắc
Mỹ. Để tồn tại, cạnh tranh và phát triển trong bối cảnh này, nhiều công ty, doanh nghiệp
đã tự nguyện liên minh, liên kết lại với nhau để cùng khai thác, phân chia thị trường và tận
dụng những tiềm năng riêng của từng công ty. Ngược lại cũng có những công ty bị chèn
ép, thôn tính, mua lại. Quá trình này đã hình thành các liên minh, các tập đoàn được gọi là
“cartel”, “Association”, “Conglomerate”, “Group”… Nói chung là có nhiều cách gọi khác
nhau nhưng khi dịch ra tiếng Việt thông thường ta vẫn gọi chúng là tập đoàn với ý nghĩa
chủ đạo là các liên minh, liên kết nhóm cùng thỏa thuận tuân thủ một số nguyên tắc điều
chỉnh chung như phối hợp chiến lược, góp vốn, cung ứng sản phẩm, phân chia chiếm lĩnh
thị trường; thống nhất phương thức, nguyên tắc kiểm soát nội bộ… Trong một tập đoàn
thường có một công ty đóng vai trò trung tâm, nó có thể là một công ty mẹ theo đúng
nghĩa (nắm giữ vốn tại các công ty con, công ty liên kết) hoặc một công ty “thương hiệu”
trung tâm có khả năng chi phối, hỗ trợ các công ty trong cùng tập đoàn trong quá trình
cạnh tranh và phát triển.
Các loại hình TĐKT phổ biến trên thế giới hiện nay là tập đoàn công nghiệp, tập
đoàn thương mại dịch vụ, tập đoàn tài chính- ngân hàng, tập đoàn tài chính công
nghiệp…v.v. Mặc dù có nhiều loại hình khác nhau nhưng nhìn chung các tập đoàn kinh tế
là một cấu trúc có tính lỏng về tổ chức và pháp lý nhưng có quan hệ chặt chẽ về chiến lược
thị trường, chiến lược phát triển, về thương hiệu và luân chuyển vốn. Tập đoàn có thể được
hình thành thông qua hoạt động thôn tính, sát nhập, hợp nhất, mua lại hoặc qua hoạt động
liên minh, liên kết một cách tự nguyện. Chỉ các công ty trong tập đoàn có tư cách pháp
nhân độc lập chứ Tập đoàn không có tư cách pháp nhân riêng. Nhìn chung các nước không
có luật về tập đoàn kinh tế (ngoại trừ trường hợp tập đoàn tài chính-ngân hàng); việc hình
thành các TĐKT là tự nguyện, không phải do một mệnh lệnh hành chính của Nhà nước
công bố để thành lập. Sự ra đời của các TĐKT là quá trình phát triển tự nhiên do đòi hỏi
của thực tiễn cạnh tranh, quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và nhu cầu thị trường.
Sự hình thành của tập đoàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện miễn là hoạt động và tổ chức
của mô hình này không trái với các nguyên tắc ứng xử chung của pháp luật và mang lại lợi
ích cho tập đoàn nói riêng và cho xã hội nói chung.
1.1.2 Khái niệm Tập đoàn tài chính – ngân hàng
Tập đoàn Tài chính – ngân hàng là loại hình tập đoàn kinh tế có cơ cấu tổ chức và
hoạt động mang tính chuyên sâu, đặc thù. Tập đoàn tài chính - ngân hàng là một thực thể
kinh tế gồm một số doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng và các
hoạt động khác có liên quan đến hoạt động tài chính - ngân hàng; mỗi thành viên tập đoàn
là những pháp nhân độc lập, trong đó có một doanh nghiệp làm nồng cốt. Giữa các doanh
nghiệp đó có mối liên kết nhất định để cùng nhau thực hiện một liên kết kinh tế có quy mô
lớn nhằm đạt được hiệu quả hoạt động tối đa.
Như thế, tập đoàn tài chính - ngân hàng, về mặt pháp lý, là một liên hợp pháp nhân;
Tổ chức tập đoàn gồm nhiều tầng lớp, với nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Điều này
có nghĩa là không cưỡng ép và không thể cứ “gom” các doanh nghiệp lại là có thể thành
lập tập đoàn kinh tế. Các thành viên trong tập đoàn tài chính - ngân hàng phải tạo điều kiện
hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, cạnh tranh lành mạnh, cùng nhau chia sẻ nguồn lực nhằm giảm
các chi phí trong hoạt động, tăng cường sức mạnh và tận dụng tổng lực của tập đoàn để
ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong lĩnh vực hoạt động tài chính-tiền tệ đầy bất trắc.
Mục tiêu của việc hình thành tập đoàn Tài chính – ngân hàng là mở rộng quy mô
hoạt động và đổi mới công nghệ, giảm chi phí để có thể tồn tại trong cạnh tranh, từ đó đem
lại lợi nhuận tối đa cho tập đoàn.
1.2 Cơ cấu tổ chức và mô hình cơ bản của tập đoàn tài chính - ngân hàng
1.2.1 Cơ cấu tổ chức tập đoàn tài chính - ngân hàng
Cơ cấu tổ chức của tập đoàn tài chính - ngân hàng sẽ bao gồm: Công ty mẹ đóng vai
trò hạt nhân và các công ty con. Công ty mẹ có thực lực kinh tế mạnh, khống chế và điều
chỉnh vốn, tài sản, cơ cấu tổ chức, quản lý, nhân sự… ở công ty con. Mỗi công ty con được
phép thành lập công ty khác hoặc tham gia góp vốn, tài sản của mình vào công ty mới sau
khi được phép của công ty mẹ. Nguyên tắc cơ bản mỗi thành viên tập đoàn vẫn là những
pháp nhân độc lập với mục đích tạo ra lợi nhuận, mối quan hệ lẫn nhau mang nặng nội
dung là quan hệ tài chính.
1.2.2 Mô hình cơ bản của tập đoàn tài chính - ngân hàng
Theo mức độ chuyên môn hóa
Các tập đoàn Tài chính – ngân hàng trên thế giới được phân thành 2 nhóm chính:
Nhóm tập đoàn chuyên ngành hẹp và nhóm tập đoàn đa ngành, kinh doanh tổng hợp. Các
tập đoàn Tài chính – ngân hàng chuyên ngành hẹp có mức độ chuyên môn hóa sâu, gồm
các công ty con hoạt động trong cùng lĩnh vực dịch vụ tài chính và liên kết chặt chẽ với
nhau nhằm khai thác thế mạnh trong kinh doanh dịch vụ Tài chính – Ngân hàng.
Đặc điểm của tập đoàn Tài chính – ngân hàng là lấy ngân hàng cỡ lớn làm hạt nhân
của tập đoàn để liên kết và khống chế các doanh nghiệp xung quanh bằng mối quan hệ
nắm giữ cổ phần, cho vay vốn và sắp xếp nhân sự.
Mô hình phổ biến nhất của tập đoàn Tài chính – ngân hàng là tổ chức theo kiểu
công ty mẹ– công ty con. Trong đó, công ty mẹ và công ty con đều có tư cách pháp nhân
độc lập, có tài sản và bộ máy quản lý riêng. Giao dịch giữa ngân hàng mẹ và các công ty
con hay giữa các công ty con trong cùng một tập đoàn là giao dịch bên ngoài, giao dịch thị
trường.
Đặc điểm của mô hình này là ngân hàng mẹ (holding company) sở hữu toàn bộ
hoặc một tỷ lệ nhất định vốn cổ phần trong các công ty con, đề ra chiến lược và định
hướng phát triển tổng thể của tập đoàn, đồng thời phân bổ nguồn lực của tập đoàn thông
qua các hoạt động tài chính như phát hành, mua bán chứng khoán, cơ cấu lại tài sản của
các công ty con. Ngoài ra, ngân hàng mẹ còn sử dụng vốn của mình để đầu tư, góp vốn cổ
phần, liên doanh, liên kết để hình thành các công ty con hoặc công ty liên kết.
Các công ty con là những pháp nhân độc lập, hoạt động tự chủ và tự chịu trách
nhiệm. Hình thức pháp lý của công ty con khá đa dạng, có thể là công ty cổ phần do ngân
hàng mẹ nắm giữ cổ phần chi phối; công ty TNHH 2 thành viên trở lên, trong đó ngân
hàng mẹ giữ tỷ lệ vốn góp chi phối; công ty liên doanh với nước ngoài do ngân hàng mẹ
nắm giữ tỷ lệ vốn góp chi phối; công ty TNHH một thành viên do ngân hàng mẹ là chủ sở
hữu.
Theo tính chất và phạm vi hoạt động
Tập đoàn tài chính - ngân hàng kinh doanh theo mô hình công ty mẹ – công ty con
có hai loại: Mô hình công ty mẹ nắm vốn thuần túy và mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn
vừa trực tiếp kinh doanh. Trên thực tế, không có sự tách bạch rõ ràng, nhiều tập đoàn kinh
doanh theo mô hình công ty mẹ – công ty con là hỗn hợp của hai loại hình trên. Tập đoàn
Tài chính – ngân hàng theo mô hình công ty mẹ – công ty con cũng hoạt động theo mô
hình hỗn hợp, trong đó ngân hàng mẹ vừa nắm vốn vừa trực tiếp kinh doanh một số công
ty con, đồng thời chỉ nắm vốn thuần túy một số công ty con khác.
Ngoài hoạt động kinh doanh ngân hàng, tập đoàn Tài chính – ngân hàng còn cung
cấp dịch vụ tài chính phi ngân hàng (do các công ty con thực hiện), những dịch vụ này liên
quan chặt chẽ với hoạt động ngân hàng và mang lại lợi ích chung cho tập đoàn.
Một số cấu trúc tổ chức tập đoàn tài chính – ngân hàng trên thế giới
Hiện nay trên thế giới, tập đoàn tài chính – ngân hàng được xây dựng theo ba cấu
trúc tổ chức chủ yếu sau đây:
- Mô hình ngân hàng đa năng (universal banking)
Đây là mô hình tập đoàn phổ biến nhất ở Châu Âu. Các cổ đông của ngân hàng trực
tiếp quản lý mọi hoạt động kinh doanh ngân hàng, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh
bảo hiểm, không có sự phân biệt về quản lý vốn giữa các lĩnh vực. Điều này gây ra khó
khăn trong việc xác định rủi ro của mỗi lĩnh vực, bên cạnh đó rủi ro của lĩnh vực này có
thể kéo theo rủi ro của cả những lĩnh vực khác. Ở Châu Âu, ngân hàng có thể chiếm lĩnh
cả kinh doanh chứng khoán, nhưng không một nước công nghiệp chính nào cho phép một
công ty đơn lẻ thực hiện cả 3 hoạt động kinh doanh: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán.
Sơ đồ 1.1: Ngân hàng đa năng
- Mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn vừa kinh doanh ngân hàng (parent –
subsidiary relationship).
Các cổ đông
Ngân hàng
Kinh doanh
ngân hàng
Kinh doanh
bảo hiểm
Kinh doanh
chứng khoán
Trong mô hình này, các công ty tài chính khác là công ty con của ngân hàng. Các
cổ đông của ngân hàng quản lý trực tiếp ngân hàng nhưng không quản lý trực tiếp các
công ty bảo hiểm hay công ty chứng khoán. Còn các lãnh đạo các ngân hàng quản lý trực
tiếp hoạt động của công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm. Đối với mô hình này, vốn
của ngân hàng, công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm được quản lý một cách độc lập
nhưng rủi ro của các lĩnh vực vẫn có thể gây ra rủi ro dây chuyền.
Sơ đồ 1.2: Mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn vừa trực tiếp kinh doanh ngân hàng
- Mô hình công ty mẹ nắm vốn thuần túy (holding company)
Trong mô hình này một công ty mẹ đứng trên chịu trách nhiệm quản lý các công ty
con trên từng lĩnh vực. Các cổ đông của công ty mẹ không trực tiếp quản lý những hoạt
động của các công ty con. Với ưu thế rủi ro của lĩnh vực này không ảnh hưởng đến lĩnh
vực khác, mô hình này đặc biệt phổ biến ở những tập đoàn tài chính quốc tế, ở Mỹ và cũng
đã được cho phép ở Nhật Bản.
Sơ đồ 1.3: Mô hình công ty mẹ nắm vốn thuần tuý
1.3 Các đặc trưng của tập đoàn tài chính - ngân hàng
Ngoài ra, để nhận dạng một tập đoàn, cần thông qua những đặc trưng chung của tập
đoàn và đặc trưng riêng của các công ty con hay công ty thành viên trong tập đoàn.
1.3.1 Đặc trưng chung của tập đoàn
Tập đoàn là một cấu trúc có tính lỏng về tổ chức nhưng có quan hệ rất chặt chẽ về
chiến lược thị trường và chiến lược luân chuyển vốn. Đa số các tập đoàn không có tư cách
pháp nhân, không có “trụ sở chính”, không có “cơ quan hành chính” thường trực chung
của tập đoàn, tuy nhiên cũng có các tập đoàn có tư cách pháp nhân là do được hình thành
theo quyết định của chính phủ. Nhưng đã là tập đoàn thì nhất thiết phải có một số thiết chế
Các cổ đông
Ngân hàng
Công ty
chứng khoá
Công ty
bảo hiểm
Các cổ đông
Công ty mẹ
Ngân hàng Công ty
chứng khoán
Công ty
bảo hiểm
quản trị chung của tập đoàn như hội đồng chiến lược, ủy ban kiểm toán, ủy ban bầu cử, hội
đồng quản trị. Các thành viên trong những hội đồng hay ủy ban nêu trên hoạt động theo
tôn chỉ và mục đích chung đã được các bên thống nhất từ trước và đa số theo cơ chế kiêm
nhiệm. Trong đó, chủ tịch tập đoàn thường là người có ảnh hưởng và uy tín lớn nhất thuộc
công ty xuất phát hay công ty chính của tập đoàn. Thông thường, chủ tịch và các thành
viên trong hội đồng và ủy ban hưởng lương chính từ các công ty con hay công ty thành
viên và được hưởng một khoản phụ cấp trách nhiệm do các công ty con hay công ty thành
viên đóng góp lên tập đoàn theo quy định chung. Do vậy, khái niệm tập đoàn thường kèm
theo “công ty xuất phát” hay “công ty gốc”, “công ty đứng đầu”, “công ty sáng lập”,v.v.
.Vị thế của công ty này trước hết biểu hiện ở biểu tượng (logo) của tập đoàn và ở khả năng
chi phối hướng phát triển của các công ty con hay công ty thành viên trong tập đoàn.
Lợi ích chung của các công ty trong tập đoàn là được hành động theo chiến lược
chung, theo “bản đồ” phân bố thị trường hay các quan hệ gắn bó về vốn, thương hiệu, văn
hóa, ngoại giao, ... Cơ chế điều hành chung của các tập đoàn chủ yếu dựa trên quan hệ về
lợi ích kinh tế minh bạch và uy tín cũng như các cam kết trong quy chế chung của tập đoàn
mà không dựa trên mệnh lệnh hành chính. Các pháp nhân trong tập đoàn có chung quyền
được bảo vệ để có thể tránh khỏi những nguy cơ bị thôn tính hay chèn ép trên thị trường từ
những công ty ngoài tập đoàn.
1.3.2 Đặc trưng riêng của các công ty trong tập đoàn
Đặc trưng quan trọng nhất là mỗi công ty trong tập đoàn phải là một pháp nhân độc
lập: Các công ty thành viên hoặc công ty con có sở hữu tài sản riêng, có trụ sở riêng, thị
trường riêng, thậm chí ngành nghề riêng. Chính vì vậy, giữa các công ty trong tập đoàn có
sự khác nhau về mức thu nhập, tình trạng rủi ro và quy mô tài chính. Nhìn chung, các tập
đoàn kinh doanh được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện thông qua đàm phán để mua,
bán, liên doanh, sáp nhập, cam kết, v.v. Trong đó, một công ty khởi xướng và đóng vai trò
sáng lập ra tập đoàn (thông qua hình thức tập trung tư bản từ nhiều công ty thành viên),
hoặc từ một công ty lớn tách ra thành nhiều công ty con độc lập (thông qua hình thức tích
tụ tư bản, trong đó công ty mẹ vẫn đóng vai trò chi phối). Như vậy, việc hình thành một
tập đoàn kinh doanh không phải do “mệnh lệnh” hành chính của nhà nước mà do quyết
định của nhà doanh nghiệp, được dư luận xã hội, thị trường và nhà nước thừa nhận. Nói
đúng hơn, sự hình thành các tập đoàn là xuất phát từ nhu cầu của thị trường và vấn đề sống
còn của doanh nghiệp theo nguyên tắc tự nguyện.
1.4 Các phương thức hình thành tập đoàn tài chính - ngân hàng
Tùy theo những yếu tố như môi trường pháp lý, yếu tố lịch sử khác nhau, mục tiêu,
quan điểm,… mà hình thành theo nhiều phương thức khác nhau, có thể như các phương
thức:
- Công ty mẹ mua công ty khác để biến thành công ty con của mình.
- Thành lập mới một số công ty con.
- Sáp nhập công ty khác vào công ty mẹ hoặc công ty con.
1.5 Điều kiện hình thành tập đoàn Tài chính – ngân hàng
1.5.1 Môi trường pháp lý
Thứ nhất, tập đoàn tài chính – ngân hàng là một hình thức tổ chức quy mô lớn,
hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng như kinh doanh tiền tệ, tín dụng,
chứng khoán, bảo hiểm... Bên cạnh đó, các tập đoàn tài chính – ngân hàng có thể tham gia
vào các hoạt động sản xuất kinh doanh khác của nền kinh tế. Do vậy, có thể khẳng định
rằng các tập đoàn tài chính – ngân hàng có ảnh hưởng hết sức to lớn đối với nền kinh tế,
đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ theo khuôn khổ pháp lý quy định.
Thứ hai, quá trình hình thành và phát triển các tập đoàn tài chính – ngân hàng có
thể được thực hiện bằng nhiều con đường: thông qua hoạt động sáp nhập, thâu tóm doanh
nghiệp, đầu tư thành lập mới doanh nghiệp… Do vậy cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ
thống luật pháp điều chỉnh các quá trình sáp nhập, thâu tóm doanh nghiệp...
Thứ ba, trong tập đoàn có quan hệ sở hữu của công ty mẹ với các công ty con,
cháu; hoặc giữa các công ty con và cháu sở hữu lẫn nhau. Do vậy, hệ thống luật pháp điều
chỉnh các quan hệ này cũng cần được xây dựng và hoàn thiện theo sự phát triển của nền
kinh tế - xã hội.
1.5.2 Mức độ phát triển của thị trường tài chính
Một trong những nguyên nhân chính hình thành và phát triển các tập đoàn tài chính
– ngân hàng là do sự cạnh tranh trong nền kinh tế nói chung, trên thị trường tài chính nói
riêng. Thị trường tài chính càng phát triển, cạnh tranh trên thị trường càng tăng lên, càng
cần thiết hình thành mối liên kết chặt chẽ hơn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm
chi phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Vì thế, một số tổ chức tài chính, ngân hàng đã
liên kết để hình thành tập đoàn tài chính - ngân hàng nhằm tận dụng những lợi thế của
nhau, nâng cao năng lực cạnh tranh và kinh doanh so với các đối thủ khác. Do vậy, khi thị
trường tài chính quốc gia phát triển đến một trình độ nhất định sẽ dẫn đến sự ra đời và phát
triển của các tập đoàn tài chính – ngân hàng trong nước.
Hơn nữa, trong môi trường hội nhập, các tổ chức tài chính, ngân hàng trong nước
không chỉ cạnh tranh lẫn nhau mà còn phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính, ngân hàng
nước ngoài. Nói cách khác, trong môi trường hội nhập, mức độ cạnh tranh trên thị trường
tài chính càng trở nên khốc liệt làm cho nhu cầu hình thành các tập đoàn tài chính – ngân
hàng càng tăng lên. Một mặt các tổ chức tài chính, ngân hàng trong nước liên kết với nhau
để hình thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng nội địa, cạnh tranh với các tập đoàn tài
chính – ngân hàng nước ngoài. Mặt khác, còn có sự liên kết giữa các tổ chức tài chính,
ngân hàng nước ngoài để hình thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng toàn cầu.
1.5.3 Qui mô hoạt động và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng
Một trong những con đường dẫn đến sự hình thành và phát triển các tập đoàn tài
chính – ngân hàng là thông qua việc một tổ chức tài chính/ngân hàng tiến hành các hoạt
động sáp nhập, thâu tóm các công ty bảo hiểm/ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty
đầu tư… Đồng thời, trong quá trình hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng, tổ chức tài
chính ban đầu sẽ phát triển trở thành công ty mẹ của tập đoàn hoặc trở thành công ty mẹ
đầu tư vốn của tập đoàn. Do vậy, tổ chức tài chính này cần phải có tiềm lực lớn, đặc biệt là
tiềm lực tài chính, quy mô hoạt động và năng lực cạnh tranh.
Tiềm lực của tổ chức tài chính/ngân hàng này cần đủ mạnh để có thể thực hiện các
hoạt động thâu tóm, góp vốn vào các công ty thành viên. Tổ chức này dùng tiền vốn để
mua lại vốn góp của các công ty khác, hoặc cùng góp vốn để hình thành một tổ chức mới
kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán hoặc công ty đầu tư.
Tổ chức tài chính ban đầu muốn hấp dẫn và thu hút các công ty chứng khoán, công
ty bảo hiểm, công ty đầu tư trở thành thành viên của tập đoàn cần có quy mô hoạt động
lớn, có chi nhánh rộng để liên kết và hỗ trợ hoạt động của các công ty chứng khoán, công
ty bảo hiểm, công ty đầu tư. Các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty đầu tư
tận dụng cơ sở kinh doanh của tổ chức này để kinh doanh sản phẩm bảo hiểm, chứng
khoán. Khi đó, các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty đầu tư sẽ tận dụng
năng lực cạnh tranh của tổ chức này để nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty thành
viên.
1.5.4 Các điều kiện khác
Tập đoàn tài chính – ngân hàng là một tổ hợp của nhiều công ty thành viên, trong
đó thường dựa vào một NHTM hoặc một công ty bảo hiểm làm nòng cốt, do vậy, công ty
mẹ cần có nguồn nhân lực và công nghệ cao. Để đảm bảo quản lý và điều hành hoạt động
của toàn bộ tập đoàn, công ty mẹ cần có bộ phận nhân lực chịu trách nhiệm xây dựng và
thực hiện các chiến lược kinh doanh chung của cả tập đoàn. Bên cạnh đó, công ty mẹ cần
xây dựng đội ngũ nhân lực tham gia vào hoạt động quản lý, điều hành tại các công ty thành
viên, nhất là các thành viên chủ chốt trong tập đoàn. Các công ty thành viên là các pháp
nhân độc lập, công ty mẹ tham gia vào với tư cách là chủ đầu tư. Đối với các công ty thành
viên chủ chốt, công ty mẹ cần có đội ngũ nhân lực trực tiếp tham gia vào HĐQT và Ban
giám đốc của các công ty thành viên để trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh
của các thành viên này. Các vị trí lãnh đạo chủ chốt của các công ty thành viên đều thuộc
quyền quản lý của công ty mẹ, do vậy công ty mẹ phải xây dựng đội ngũ nhân lực đủ trình
độ để có thể điều hành hoạt động của các công ty thành viên.
Các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty đầu tư sẽ tận dụng cơ sở vật
chất, kỹ thuật, trong đó có nguồn công nghệ của công ty mẹ để giảm chi phí đầu tư công
nghệ, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Do vậy, công ty mẹ cần có công nghệ có thể đáp ứng
yêu cầu kinh doanh đa dạng các loại dịch vụ ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và đầu tư
cho bản thân công ty mẹ và các công ty thành viên, đồng thời, đảm bảo tính thống nhất về
công nghệ để liên kết hoạt động của các công ty thành viên vào một hệ thống.
1.6 Kinh nghiệm tổ chức hoạt động của một số tập đoàn tài chính – ngân hàng
lớn trên thế giới
1.6.1 Tập đoàn Citigroup
Citigroup là tập đoàn tài chính hàng đầu nước Mỹ và hiện cũng là ngân hàng lớn
nhất thế giới tính tới 1/8/2006. Tổng tài sản của Citigroup năm 2005 là 1.494 tỷ USD so
với 167 tỷ USD năm 1995. Tập đoàn Citigroup là sự hợp nhất của hai tổ chức riêng lẻ là:
Citicorp và Travelers Insurance. Citicorp là một tập đoàn ngân hàng đa quốc gia, hoạt
động ở gần 100 quốc gia. Travelers là một tổ chức hợp nhất bởi nhiều công ty khác nhau,
từ tín dụng thương mại đến hỗ trợ tiêu dùng, môi giới và đến bảo hiểm.
1.6.1.1 Lịch sử hình thành
Tập đoàn Citigroup ra đời gắn liền với quá trình hình thành Tập đoàn Citicorp.
Citicorp là một trong những tập đoàn hàng đầu của Mỹ có trụ sở chính tại New York với
công ty mẹ là Citibank. Vào những năm đầu của thế kỷ 19, ngân hàng đã mở những chi
nhánh đầu tiên ở nước ngoài (tại London năm 1902 và tại Buenos Aires năm 1914), sau đó
chuyển hướng mạnh sang hoạt động ngân hàng bán lẻ (phục vụ khách hàng cá nhân) và trở
thành NHTM đầu tiên cho cá nhân người tiêu dùng vay tiền. Trong suốt những năm 1920-
1940, các hoạt động quốc tế của ngân hàng phát triển rất nhanh (mở tới 100 văn phòng đại
diện và chi nhánh tại nước ngoài). Năm 1955, ngân hàng sáp nhập với First National (New
York) để trở thành một tổ hợp lớn với tên gọi First National City Bank. Năm 1961, ngân
hàng đã có sáng kiến sử dụng chứng chỉ tiền gửi (CDs), trả lãi suất cao hơn cho những
khoản tiền gửi có kỳ hạn. Năm 1968, ngân hàng cải tổ để trở thành một công ty mẹ và hình
thành một tập đoàn ngân hàng lấy tên là First National City Corp (năm 1974 đổi tên thành
CitiCorp) với hoạt động trọng tâm vẫn là các dịch vụ tài chính và ngân hàng bán lẻ. Cuối
năm 1968, Citibank đã thế chỗ Chase Manhatta trở thành ngân hàng lớn nhất ở New York
với tài sản trị giá 19,4 tỷ đô la. Vào những năm 1970, Citibank trở thành nhà phát hành
chính thẻ tín dụng Master và VISA và đã mua được Carte Blanche vào năm 1978, Diners
Club vào năm 1981. Năm 1977, Citibank là ngân hàng đầu tiên giới thiệu sản phẩm Máy
rút tiền tự động (ATMs) với quy mô hơn 500 máy trong nội thành New York và cuối năm
1980 vượt qua Bank America để trở thành ngân hàng lớn nhất Mỹ. Trong những năm 80,
Citibank đã mua được cả một số tổ chức tài chính ở San Francisco, Chicago, Miami và
Washington DC và đến năm 1998, thực hiện sáp nhập với hãng Travellers Group - một
công ty kinh doanh thẻ nổi tiếng - để trở thành Tập đoàn ngân hàng – tài chính hàng đầu
thế giới, chính là Tập đoàn Citigroup ngày nay.
1.6.1.2 Mô hình hoạt động và cơ cấu tổ chức
Citigroup Inc. là một công ty mẹ cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng toàn cầu
với các hoạt động dịch vụ rộng khắp cho người tiêu dùng và các công ty.
Citigroup có hơn 200 triệu tài khoản khách hàng và kinh doanh trên hơn 100 quốc
gia. Citigroup là một công ty mẹ kinh doanh lĩnh vực ngân hàng, được ra đời theo Luật
Công ty, kinh doanh lĩnh vực ngân hàng năm 1956 và chịu sự giám sát của Ban Thống đốc
Hệ thống Dự trữ Liên bang (FRB). Một số các chi nhánh của công ty chịu sự giám sát của
các chính quyền bang tương ứng. Tính đến thời điểm cuối năm 2006, công ty có khoảng
140.000 nhân viên chính thức và 8.000 nhân viên bán thời gian ở nước Mỹ và khoảng
159.000 nhân viên chính thức ở nước ngoài.
Tháng 5/2001, Tập đoàn tài chính Citigroup của Mỹ đã mua Tập đoàn ngân hàng
lớn nhất Mêhicô Banacci với giá khổng lồ là 12,5 tỷ USD. Đây là cuộc mua bán lớn nhất
trong lịch sử tại thị trường các nước mới nổi như Mêhicô. Việc sáp nhập Ngân hàng
Banamex thuộc Tập đoàn Banamex (của Banacci - Mêhicô vào Ngân hàng Citibank của
Mỹ tại Mêhicô không chỉ là giải pháp mở rộng phạm vi kinh doanh của Tập đoàn
Citigroup mà còn củng cố vị thế trên thị trường tài chính của chính “ngân hàng bị bán” là
Banamex sau khi bị mất thế cạnh tranh. Mặt khác, cuộc sáp nhập này theo tính toán của
Chủ tịch Tập đoàn Citigroup - ông Sandy Weill thì hàng năm Tập đoàn sẽ giảm được ít
nhất 200 triệu USD cho chi phí chuyển giao công nghệ và nhất là chi phí huy động vốn
thấp hơn.
Sơ đồ 1.4: Khái quát mô hình hoạt động của CitiGroup
Citigroup có 3 nhóm hoạt động kinh doanh chính: nhóm NHTM, nhóm quản lý tài
sản và đầu tư, nhóm các hoạt động ngân hàng đầu tư, trong đó, nhóm tiêu dùng toàn cầu
thường chiếm tỷ trọng chi phối. Nếu phân theo khu vực hoạt động kinh doanh của tập đoàn
thì hoạt động ở Mỹ, tức là nơi có Trụ sở chính, chiếm tỷ trọng chủ yếu và lớn nhất.
Cơ cấu tổ chức của tập đoàn Citigroup (xem phụ lục )
1.6.1.3 Mô hình quản trị
Citigroup là tập đoàn có mô hình quản trị tiêu biểu của các công ty đại chúng, tức là
cơ cấu điều hành gồm một HĐQT duy nhất của toàn tập đoàn và các uỷ ban độc lập.
HĐQT có nhiệm vụ quản trị một cách hiệu quả, đem lại lợi ích cho các cổ đông và
hài hoà lợi ích giữa khách hàng, người lao động, nhà cung cấp và địa điểm ở các khu vực
có chi nhánh của tập đoàn. HĐQT được toàn quyền thực hiện hoạt động mà họ tin là có thể
đem lại lợi ích cho công ty. HĐQT gồm từ 13 tới 19 thành viên, trong đó, ít nhất hai phần
ba số thành viên trong HĐQT là thành viên độc lập. Các thành viên của HĐQT phải trải
qua quá trình lựa chọn gồm 3 bước. Các ứng viên của HĐQT được lựa chọn bởi Uỷ ban
quản trị và bổ nhiệm. Sau đó đưa lên cho HĐQT duyệt tính phù hợp với các tiêu chuẩn của
Hội đồng quản trị. Và cuối cùng các thành viên đó được bầu trong số các ứng viên tại cuộc
gập hàng năm của các cổ đông trong nhiệm kỳ 1 năm. Đồng thời Uỷ ban quản trị bổ nhiệm
một người trong số các thành viên của HĐQT làm Chủ tịch HĐQT. Ngoài ra, HĐQT còn
có thể có một Chủ tịch danh dự, người này được tham dự các buổi họp HĐQT nhưng
không có quyền bỏ phiếu.
CitiGroup
(Trụ sở chính)
Gobal Consumer Group
(Nhóm ngân hàng thương
mại và tiêu dùng)
Gobal Wealth Management
Group
(Nhóm kinh doanh ngân hàng
đầu tư và quản lý tài sản)
Coperate and Investment
Banking
(Nhóm ngân hàng đầu tư)
Bên cạnh HĐQT, trong cơ cấu quản trị tập đoàn của CityGroup, các uỷ ban độc lập
cũng đóng một vai trò rất lớn. Các uỷ ban chính gồm có Ban điều hành (Excutive
commitee), Ban kiểm toán và quản trị rủi ro, Ban Quản trị và bổ nhiệm (Nomination and
Governance Commitee), Ban Truyền thông đại chúng (Public Affairs Commitee), Ban
Nhân sự và hưu trí (The Personnel and compensation commitee) v.v… Ngoại trừ Ban điều
hành, các thành viên của các uỷ ban còn lại phải thoả mãn luật quản trị của Sở giao dịch
chứng khoán NewYork (NYSE) về số thành viên độc lập. Hàng năm, các uỷ ban này thực
hiện chức năng giám sát và trợ giúp của mình đối với HĐQT của tập đoàn như Uỷ ban
Nhân sự và hưu trí có nhiệm vụ giám sát kết quả hoạt động của Giám đốc điều hành và
Chủ tịch HĐQT và có các báo cáo hàng năm lên hội đồng quản trị; hay Uỷ ban Quản trị và
bổ nhiệm có chức năng tuyển chọn và giới thiệu ứng cử viên vào HĐQT....
1.6.1.4 Cơ chế tài chính
Công ty Citigroup Inc và Công ty quản lý quỹ Citigroup Funding Inc sẽ cung cấp
các khoản tài trợ vốn dưới dạng nợ hay vốn đầu tư cho các công ty con kinh doanh trong 3
lĩnh vực chủ yếu: môi giới chứng khoán (Citigroup Global Markets Holdings Inc), các hoạt
động ngân hàng, và các hoạt động phi ngân hàng.
Citigroup Inc và Citigroup Funding Inc sẽ thu hút các dòng tiền từ bên ngoài vào
thông qua tiếp cận với thị trường vốn. Với Citigroup Inc., nguồn tài trợ thu hút từ bên
ngoài bao gồm: các khoản nợ phải thanh toán trước, các khoản nợ phụ, cổ phiếu ưu đãi, cổ
phiếu ưu đãi đặc biệt và cổ phiếu thường. Có thể thấy rằng, các hoạt động kinh doanh ngân
hàng không chỉ được sự hỗ trợ vốn trong nội bộ tập đoàn mà còn có thể nhận được sự hỗ
trợ vốn từ bên ngoài được cung cấp qua các kênh: các tài khoản khách hàng, các chứng
khoán nợ, các khoản vay FHLB, và các khoản vay ngân hàng khác. Nguồn vốn cho các
hoạt động phi ngân hàng cũng bao gồm các khoản hỗ trợ từ bên trong tập đoàn và hỗ trợ từ
bên ngoài thông qua việc chứng khoán hóa các khoản nợ. Đối với CitiGroup Global
Markets Holdings Inc., nguồn vốn cho hoạt động mua bán và môi giới chứng khoán của
công ty này một phần cũng từ sự hỗ trợ vốn trong nội bộ tập đoàn, phần còn lại sẽ được
huy động từ bên ngoài qua kênh thị trường chứng khoán. Là một chi nhánh kinh doanh
môi giới Mỹ hàng đầu của Citigroup, Công ty Citigroup Global Markets (CGMI) đăng ký
kinh doanh như là một nhà kinh doanh môi giới trên 50 bang, khu vực Colombia, Puerto
Rico, Đài Loan và Guam. CGMI cũng là một nhà kinh doanh trái phiều kho bạc Mỹ hàng
đầu và là một thành viên của các sở giao dịch tương lai Mỹ. CGMI chịu sự điều tiết của
nhiều luật, bao gồm các yêu cầu về vốn tối thiểu được đặt ra bởi các tổ chức như: SEC,
CFTC, Hiệp hội giao dịch tương lai quốc gia (NFA), Hiệp hội kinh doanh chứng khoán
quốc gia (NASD), NYSE và các tổ chức tự điều tiết mà trong đó, CGMI là một thành viên
và các nhà quản lý chứng khoán của 50 bang, khu vực Columbia, Puerto Rico và Guam.
Đối với từng lĩnh vực hoạt động chuyên biệt, cơ chế tài chính của Tập đoàn
Citigroup còn có những quy định khá cụ thể và chi tiết.
- Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng: Sự tham gia cổ phần của Citibank và
các ngân hàng khác đã đưa Citigroup trở thành một công ty mẹ kinh doanh chủ yếu trong
lĩnh vực ngân hàng, hoạt động theo Luật. Công ty mẹ kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng
thường được giới hạn kinh doanh trong phạm vi lĩnh vực ngân hàng, quản lý hoặc kiểm
soát các ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan. Do tất cả các công ty con đều được
đảm bảo an toàn vốn và được quản lý tốt theo các điều luật ngân hàng Mỹ, được đánh giá
ở mức độ đạt yêu cầu trở lên về tài trợ vốn cho cộng đồng theo quy định tại Điều luật Tái
đầu tư cộng đồng (CRA) được quốc hội Mỹ thông qua năm 1977, nên Citigroup được công
nhận là một công ty mẹ. Theo đó, công ty mẹ được phép tham gia vào hoạt động tài chính
trên phạm vi rộng lớn hơn ở Mỹ và ở nước ngoài. Những hoạt động này bao gồm: bảo lãnh
phát hành và kinh doanh chứng khoán; môi giới và bảo lãnh bảo hiểm; đầu tư ngắn hạn
vào các công ty phi tài chính trong trường hợp công ty không quản lý được các hoạt động
thường ngày của công ty phi tài chính hoặc trong trường hợp công ty phi tài chính không
có liên kết thị trường theo chiều ngang với công ty con (là các ngân hàng trực thuộc ngân
hàng mẹ).
Cơ quan điều tiết, giám sát: là một ngân hàng mẹ, Citigroup được điều tiết và giám
sát bởi Ngân hàng Dự trữ Liên Bang (FRB). Các ngân hàng con được công nhận trên phạm
vi quốc gia (chẳng hạn như Citibank) thì chịu sự điều tiết và giám sát bởi Cơ quan giám sát
tiền tệ (OCC); các Hiệp hội tiết kiệm liên bang chịu sự quản lý của Cơ quan Giám sát tiết
kiệm; các tổ chức nhận tiền gửi ở các bang chịu sự quản lý của Công ty bảo hiểm tiền gửi
liên bang (FDIC). Các chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài của Citibank chịu sự điều tiết và
giám sát của FRB và OCC.
Chi trả cổ tức: Các ngân hàng mẹ của Tập đoàn Citigroup và các ngân hàng con bị
giới hạn bởi khả năng chi trả cổ tức. Ngoài những giới hạn nhất định về cổ tức mà các
ngân hàng con có thể trả cho các ngân hàng mẹ của chúng, các nhà điều tiết liên bang có
thể cấm một cổ tức trong trường hợp nó có khả năng là một khoản chi trả ngân hàng không
lành mạnh hoặc không an toàn. Chính sách của FRB là: các ngân hàng mẹ trả cổ tức đối
với cổ phiếu phổ thông đối với phần thu nhập vượt ra ngoài thu nhập của năm trước, và chỉ
trong trường hợp việc giữ lại thu nhập tiềm năng nhất quán với điều kiện tài chính và nhu
cầu dự kiến trong tương lai của tổ chức này. Hơn nữa, công ty mẹ không nên duy trì các
mức lợi tức làm suy giảm khả năng trở thành nguồn sức mạnh cho các chi nhánh ngân
hàng của công ty.
1.6.2 Tập đoàn HSBC Holding
1.6.2.1 Lịch sử hình thành
HSBC Holdings là một Tập đoàn tài chính ngân hàng hàng đầu của Anh. HSBC có
trụ sở chính tại Anh và có phạm vi hoạt động rộng lớn trên 5 khu vực là Châu Âu, Hồng
Kông, các nước thuộc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, bao gồm cả khu vực Trung
Đông và Châu Phi; Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Các công ty thành viên chính của HSBC
Holdings là: HSBC Bank plc, HSBC North America Holdings Inc.; HSBC Finance
(Netherlands); HSBC Investment Bank Holdings plc; HSBC Insurance Holdings Limited;
HSBC Latin America Holdings (Anh) Limited và Grupo Financiero HSBC, S.A de C.V.
Dưới các công ty con là các công ty cháu. Các công ty con hay cháu có thể sở hữu hoàn
toàn theo tỷ lệ vốn liên kết.
Sau 8 năm thành lập, HSBC Holdings hiện nay là một trong những tập đoàn cung
cấp các dịch vụ tài chính – ngân hàng hàng đầu thế giới với tổng tài sản là 1.276.778 triệu
USD với vốn chủ sở hữu là 67.259 triệu USD, chiếm 72% GDP. Tập đoàn này cũng sở
hữu 9.500 văn phòng, 260.000 nhân viên tại 76 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Với một hệ thống mạng lưới quốc tế được kết nối với nhau bằng hệ thống công
nghệ hiện đại, khả năng lớn mạnh của thương mại điện tử, HSBC cung cấp một hệ thống
dịch vụ tài chính cho bốn nhóm khách hàng chính: (i) ngân hàng bán lẻ phục vụ khách
hàng cá nhân đại trà; (ii) NHTM phục vụ khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; (iii)
Ngân hàng phục vụ các tập đoàn kinh tế lớn và đầu tư kinh doanh trên thị trường tài chính;
(iv) Ngân hàng phục vụ các khách hàng giàu có.
1.6.2.2 Cơ cấu quản trị điều hành
- Hội đồng quản trị:
HĐQT của HSBC lựa chọn quy chế hoạt động cho toàn tập đoàn, từ các điều khoản,
thông lệ kết hợp vè quản trị điều hành; các điều khoản về niêm yết chứng khoán, quản lý
tài chính, giao dịch. Các công ty thành viên có thể tự quyết định các hoạt động kinh doanh
của công ty mình nhưng phải tuân thủ các quy định chung. Hằng năm, tập đoàn thành lập
một ủy ban kiểm tra việc thực hiện quy chế hoạt động của từng thành viên tập đoàn.
HĐQT của HSBC Holdings hiện có 21 thành viên. Đứng đầu là Chủ tịch tập đoàn.
Dưới Chủ tịch có 02 Phó Chủ tịch (01 Phó Chủ tịch là Giám đốc cấp cao nhưng không
tham gia quản trị điều hành và 1 Phó Chủ tịch là Giám đốc cấp cao nhưng không tham gia
quản trị điều hành đại diện cho đơn vị liên kết với HSBC Holdings). Trong HĐQT còn có
01 Giám đốc điều hành chung, 01 Giám đốc tài chính và quản lý rủi ro, 01 cố vấn và các
thành viên khác là các giám đốc không tham gia điều hành và các giám đốc không tham
gia điều hành đại diện cho đơn vị liên kết với HSBC Holdings.
HĐQT điều hành toàn bộ hoạt động của tập đoàn thông qua 5 ủy ban chính là: ủy
ban điều hành Tập đoàn; ủy ban kiểm toán; ủy ban quản trị nguồn nhân lực; ủy ban bầu cử
và ủy ban trách nhiệm xã hội. Mỗi ủy ban có 1 Chủ tịch ủy ban, các Giám đốc điều hành
và các Giám đốc quản trị. Riêng ủy ban trách nhiệm xã hội còn có những thành viên được
bầu nhưng không phải là các giám đốc.
Sơ đồ 1.5: Cơ cấu tổ chức của HSBC
- Ủy ban điều hành: là ủy ban điều hành chung, chịu sự quản lý trực tiếp của Hội
đồng quản trị.
- Ủy ban kiểm toán: chịu trách nhiệm về quản lý tài chính cao cấp, kiểm toán nội bộ,
các quyết định pháp lý, tuân thủ về kế toán và kiểm toán độc lập, để đảm bảo các
báo cáo tài chính, phạm vi, bản chất của việc rà soát kiểm toán cũng như hiệu quả
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Chủ tịch
Phó Chủ tịch Phó Chủ tịch
Giám đốc
điều hành
chung
Giám đốc tài
chính và quản
lý rủi ro
Các giám đốc
không tham
gia điều hành
Uỷ ban điều
hành Tập đoàn
Uỷ ban
kiểm toán
Uỷ ban Quản trị
nguồn nhân lực
Uỷ ban
Bầu cử
Ủy ban Trách
nhiệm Xã hội
của các hệ thống tuân thủ và quản lý nội bộ tập đoàn. Tất cả các thành viên của ủy
ban này là các giám đốc độc lập không tham gia điều hành các công ty con hay
công ty liên kết.
- Ủy ban quản trị nguồn nhân lực: Chịu trách nhiệm về các vấn đề nhân lực, đặc biệt
là các quy định, tiêu chuẩn tuyển dụng, lương, thưởng, trợ cấp hưu trí, phát triển
nhân lực tiềm năng và các chiến lược, kế hoạch về nhân sự cho toàn tập đoàn.
- Ủy ban bầu cử: chịu trách nhiệm các quá trình bổ nhiệm thành viên Hội đồng quản
trị, xem xét, đánh giá các ứng viên, đề ra các tiêu chuẩn về quyền hạn và trách
nhiệm cần thiết cho từng vị trí trong Hội đồng quản trị, thông qua các cuộc họp cổ
đông hàng năm.
- Ủy ban trách nhiệm xã hội: Chịu trách nhiệm xem xét tổng thể về trách nhiệm xã
hội của tập đoàn cũng như các chính sách phát triển bền vững liên quan đến các vấn
đề về môi trường, xã hội và đạo đức đồng thời cố vấn cho Hội đồng quản trị, các ủy
ban khác về các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội.
- Kiểm soát nội bộ tập đoàn:
Các giám đốc chịu trách nhiệm về kiểm soát nội bộ tập đoàn cũng như rà soát về
hiệu quả của vấn đề này. Quy trình kiểm soát được thiết kế nhằm chống tham nhũng, lạm
dụng chức vụ tham ô tài sản của tập đoàn, duy trì sự đúng đắn của các báo cáo tài chính,
tính trung thực của các thông tin tài chính được sử dụng trong kinh doanh hay thông báo ra
công chúng.
Các quy trình kiểm soát chính được thiết kế nhằm tăng cường hiệu quả kiểm soát
trong nội bộ tập đoàn phù hợp với các hướng dẫn về kiểm soát nội bộ dành cho các giám
đốc trong quy chế kết hợp do Hội đồng báo cáo tài chính ban hành.
Các quy trình kiểm soát nội bộ chính của HSBC bao gồm: quy trình quản lý hoạt
động của các công ty thành viên bằng cách đưa ra các tiêu chuẩn về chức năng, hoạt động,
báo cáo tài chính, quản lý chế độ báo cáo, loại hình kinh doanh, đại điểm kinh doanh của
mỗi thành viên; quy trình xác định, kiểm soát và báo cáo các rủi ro chính như rủi ro tín
dụng, thay đổi giá thị trường của các công cụ tài chính, khả năng thanh khoản, các lỗi tác
nghiệp, các hành vi vi phạm luật, các hành vi lạm quyền, quy trình xác định rủi ro phát
sinh từ sự thay đổi thông lệ thị trường hay hành vi của khách hàng; quy trình lập kế hoạch
chiến lược cho các nhóm khách hàng, các nhóm sản phẩm toàn cầu, áp dụng cho các thành
viên tập đoàn hàng năm…
1.6.3 Tập đoàn tài chính Shinhan
1.6.3.1 Cơ cấu tổ chức của Shinhan Group
Đặc trưng nổi bật nhất trong mô hình tổ chức của Shinhan Financial Group chính là
mức độ ảnh hưởng lớn của công ty mẹ tới các công ty con. Shinhan Financial Group có tư
cách pháp nhân và các công ty con của chúng cũng có tư cách pháp nhân, hoạt động độc
lập nhưng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi công ty mẹ. Bởi lẽ, trong số 11 công ty con trực
thuộc Shinhan Financial Group thì có tới 7 công ty con mà Shinhan Financial Group nắm
giữ 100% cổ phần. Và điều đáng nói hơn nữa là tất cả các công ty con mà dưới nó có các
công ty thành viên thì đều là các công ty mà Shinhan Financial Group nắm giữ 100% cổ
phần (hay nói cách khác, các công ty cháu đều thuộc các công ty con mà Shinhan
Financial Group nắm giữ 100% cổ phần).
Một đặc điểm nữa cho thấy mức độ ảnh hưởng của công ty mẹ tới các công ty con
về mặt tổ chức đó chính là sự hiện diện của các lãnh đạo của tập đoàn trong các công ty
con. Chẳng hạn, ông In Ho Lee là Tổng Giám đốc điều hành của công ty mẹ cũng đồng
thời là thành viên HĐQT của 2 ngân hàng chủ chốt trong tập đoàn là Shinhan Bank và
Chohung Bank; ông Young Hwi Choi là thành viên HĐQT của công ty mẹ kiêm luôn vị trí
Phó Giám đốc Shinhan Bank. Nói cách khác, các vị trí chủ chốt tại các công ty con quan
trọng đều có sự tham gia của các thành viên lãnh đạo của công ty mẹ. Đây chính là đặc
điểm quan trọng để duy trì mức độ ảnh hưởng và quyền quản trị của công ty mẹ tại các
công ty con.
1.6.3.2 Cơ chế hoạt động
* Sứ mệnh hoạt động của Shinhan Group
* Mục tiêu hoạt động
Trở thành nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng lớn nhất, cung cấp dịch vụ chứng khoán
lớn thứ hai và cung cấp thẻ tín dụng lớn thứ 3 trên thị trường, từng bước đưa cả tập đoàn
vào hàng 5 tập đoàn lớn nhất thị trường Hàn Quốc vào năm 2008. Cụ thể là:
Loại dịch vụ Năm 2003 Năm 2008
Đánh giá chung Giá trị vốn hoá thị trường Top 9 Top 5
Hoạt động NH Dịch vụ ngân hàng Top 2 Top 1
Hoạt động phi NH
Dịch vụ chứng khoán Top 6 Top 2
Dịch vụ thẻ tín dụng Top 5 Top 3
Dịch vụ ITMC Top 6 Top 3
Các dịch vụ khác … Top 5
* Chiến lược hoạt động
KHÁCH HÀNG
Trung
thành
Thành
công
Thương
hiệu uy tín
Mạng lưới
một cửa
Chăm sóc
tốt nhất
Chia sẻ giá
trị
TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH HÀNG ĐẦU
TẠO LẬP “NGÂN HÀNG MỚI”
MỘT DOANH NGHIỆP DUY NHẤT
NHÀ CUNG CẤP GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH
TỔNG THỂ
- Mở rộng quy mô và phạm vi kinh doanh
Mặc dù Ngân hàng Shinhan được thành lập từ năm 1982 nhưng phải đến năm 2001,
mô hình công ty mẹ mới chính thức được áp dụng. Sau khi hoạt động theo mô hình này,
Shinhan đã tiến hành tiếp quản Công ty Chứng khoán Good Morning và thành lập nên
Công ty Chứng khoán Good Morning
Mở rộng phạm vi
Mở rộng quy mô
(tạo điểm uốn chiến lược)
Đạt tầm cỡ thế giới
Hoạt động theo
mô hình công ty
mẹ
Mở rộng mạng
lưới kinh doanh
Mua CHB
Mua Công ty Chứng
khoán Good Morning
Mua Ngân hàng Jeju
Thiết lập “Ngân hàng mới”
Hình thành “Một Ngân
hàng”
Tăng cường “Tính tổng
thể”
Xây dựng một hệ thống tiên tiến
Một cơ chế quản trị công ty tiên tiến
Một hệ thống quản lý rủi ro hiện đại
Tạo lập văn hoá doanh nghiệp
Đảm bảo cơ sở để cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính trọn gói
Mô hình kinh doanh: Mô hình một cửa
Phân tách giữa sản xuất và phân phối
sản phẩm, đồng thời tạo cơ chế liên
kết và bổ sung giữa 2 bộ phận này
Kiểm soát sản phẩm
Kiểm soát mối
quan hệ
Dự phòng cho các dịch vụ tài chính đa
dạng một cách có hiệu quả: phân tách
giữa sản xuất và phân phối
- Ngân hàng Shinhan
- Công ty Chứng
khoán Good
Morning Shinhan
- Thẻ Shinhan
- Shinhan Capital
- Shinhan BNP
Paribas
Phân phối
1. Đạt được hiệu
quả nhờ mở rộng
quy mô và phạm vi
2. Thoả mãn nhu
cầu khách hàng
thông qua
* Phát huy lợi thế
của ngân hàng
Sản xuất
1. Chuyên môn
hoá và phân đoạn
thị trường (không
bị chồng chéo)
2. Tập trung khả
năng vào các
vùng sản phẩm
Hoạt động của một số công ty con trong tập đoàn
* Shinhan Bank: Ngày 1/4/2006, ngân hàng Shinhan chính thức ra đời trên cơ sở
hợp nhất giữa Shinhan Bank trước kia - ngân hàng đầu tiên tạo ra “chuẩn mực mới trong
ngành ngân hàng” với khá nhiều đột phá và Chohung Bank - ngân hàng vốn đã dẫn đầu
trong ngành ngân hàng Hàn Quốc hơn 1 thế kỷ qua. Sau 3 tháng, Shinhan Bank đã thành
công trong việc mở rộng cả quy mô lẫn phạm vi hoạt động với giá trị tổng tài sản là 172,6
nghìn tỷ won, vốn tự có đạt 8,5 nghìn tỷ won, 994 chi nhánh và khoảng 17 triệu khách
hàng.
Kênh ngân hàng
Kênh online
Kênh
chứng
khoán
Kênh
PB
* Good Morning Shinhan Securities: Được thành lập ngày 1/8/2002 trên cơ sở sáp
nhập giữa Good Morning Securities và Shinhan Securities và hiện nay Good Morning
Shinhan Securities đã trở thành công ty chứng khoán lớn thứ 5 ở Hàn Quốc. Mục tiêu của
Good Morning Shinhan Securities là cung cấp các dịch vụ tài chính trọn gói cho khách
hàng, bao gồm kinh doanh chứng khoán (không chỉ đối với các khách hàng của riêng công
ty mà cho toàn bộ các khách hàng của cả tập đoàn tài chính Shinhan). Đặc biệt, đối với các
khách hàng doanh nghiệp, Good Morning Shinhan Securities sẽ có kế hoạch cung cấp
hàng loạt các loại hình dịch vụ chất lượng cao, từ chào bán lần đầu ra công chúng (IPO),
tài trợ, sáp nhập và mua lại cho tới các dịch vụ tư vấn tài chính khác.
* Shinhan Capital: Thành lập năm 1991 và hiện nay Shinhan Capital là công ty
dịch vụ tài chính chuyên về tín dụng nổi bật nhất trên thị trường Hàn Quốc. Tiền thân là
một công ty cho thuê tài chính nên định hướng chủ đạo của Shinhan Capital là chuyên
doanh trong lĩnh vực cho thuê một số máy móc thiết bị chuyên dùng trong ngành đóng tàu
và in ấn nên đã có được thị phần lớn nhất trong lĩnh vực này ở Hàn Quốc. Tuy nhiên, với
tốc độ phát triển nhanh trong các ngành nghề như hiện nay, Shinhan Capital đã bắt đầu mở
rộng diện kinh doanh của mình sang một số lĩnh vực khác như sản xuất ô tô, đầu tư bất
động sản, tái cơ cấu doanh nghiệp và một số hoạt động đầu tư khác. Trong năm 2004, với
ROE đạt 18%, tốc độ tăng tài sản 15% và tỷ lệ nợ dưới tiêu chuẩn là 2,5%, Shinhan
Capital đã trở thành công ty chuyên doanh về tín dụng hàng đầu ở Hàn Quốc.
* SH&C Life Insurance: Là một công ty liên doanh giữa Tập đoàn tài chính
Shinhan và Cardif A.A của Pháp, SH&C Life Insurance được thành lập năm 2002 và trở
thành công ty đầu tiên ở Hàn Quốc chuyên cung cấp dịch vụ bancasurance. Là thành viên
của Tập đoàn tài chính Shinhan với tổng số vốn điều lệ là 30 tỷ won, SH&C Life
Insurance cung cấp các loại hình sản phẩm mới mang tính chuyên nghiệp hoá và chuyên
biệt hoá.
1.6.4 Tập đoàn tài chính Cathay
Để đáp ứng yêu cầu kinh doanh trong môi trường đa dạng hoá và toàn cầu hoá thị
trường tài chính; nâng cao khả năng cung cấp các dịch vụ tài chính có tính cạnh tranh cao
hơn cho khách hàng; đồng thời phù hợp với sự phát triển của các quy định của quốc gia về
sáp nhập và mua đứt, ngày 31/12/2001 Cathay Financial Holding Company Co., Ltd
(CFH) đã được thành lập với số vốn đăng ký 120 tỷ TWD.
CFH là công ty mẹ trong Tập đoàn tài chính Cathay được tổ chức theo mô hình
công mẹ - công ty con. Các công ty con của CFH bao gồm:
1. Cathay Life Insurance được thành lập từ năm 1962 và đã niêm yết trên Sở giao dịch
chứng khoán Đài Loan năm 1964. Hoạt động kinh doanh chính là bảo hiểm nhân
thọ;
2. Cathay United Bank, tiền thân là Taiwan First Investment & Trust thành lập năm
1961, đã niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Đài Loan và được đổi tên là
Cathay United Bank năm 1998. Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng;
3. Lucky Bank, kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng;
4. Cathay Century Insurance được thành lập năm 1993, kinh doanh bảo hiểm phi nhân
thọ;
5. Cathay Securities được thành lập năm 2004, kinh doanh chứng khoán;
6. Cathay Capital Management được thành lập năm 2004, chuyên đầu tư kinh doanh
vốn;
7. Cathay Pacific Venture Capital;
8. Cathay Venture Capital; và
9. Cathay II Pacific Venture Capital.
Sau khi CFH được thành lập, Tập đoàn Tài chính Cathay được hình thành trên cơ
sở CFH mua cổ phần của các công ty khác và chuyển thành công ty thành viên của Tập
đoàn, đồng thời thành lập một số công ty con mới của Tập đoàn. Cụ thể như sau:
Ngày 31/12/2001, CFH mua toàn bộ cổ phiếu của Cathay Life Insurance Co., Ltd;
Ngày 22/4/2002, CFH mua toàn bộ cổ phiếu của Cathay Century Insurance Co., Ltd
và Cathay United Bank Co., Ltd; Ngày 18/12/2002, CFH mua toàn bộ cổ phiếu của
United World Chinese Commercial Bank Co., Ltd. Tiếp theo đó, ngày 27/10/2003,
United World Chinese Commercial Bank Co., Ltd gặp khó khăn và tiến hành sát
nhập vào Cathay United Bank Co., Ltd;
Ngày 12/5/2004, CFH thành lập Cathay Securities Corporation theo Luật Công ty;
Ngày 31/3/2006, CFH mua 81,35% cổ phần của Lucky Bank Inc theo sự chấp thuận
của Uỷ ban giám sát tài chính;
Ngoài ra CFH còn là chủ sở hữu 100% vốn cổ phần của các công ty con như Cathay
Pacific Venture Capital Co., Ltd, Cathay II Venture Capital Co., Ltd và Cathay
Capital Management Inc.,
Tập đoàn tài chính Cathay hoạt động kinh doanh chính trong lĩnh vực tài chính và
dịch vụ tài chính, bao gồm ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, quản lý vốn...
1.6.4.1 Mô hình tổ chức
Tập đoàn tài chính Cathay được tổ chức theo mô hình công ty mẹ – công ty con,
trong đó công ty mẹ CFH là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân (là công ty cổ phần
đã niêm yết cổ phiếu trên Sở giao dịch chứng khoán Đài Loan) chỉ thực hiện hoạt động
đầu tư tài chính vào các công ty con và các công ty khác. Công ty mẹ CFH không trực tiếp
kinh doanh các sản phẩm dịch vụ của công ty con như bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán.
Tính đến thời điểm cuối năm 2006, cơ cấu sở hữu của công ty mẹ đối với các công
ty con trong Tập đoàn như sau:
1. Cathay Life Insurance: CFH sở hữu 100%
2. Cathay United Bank: CFH sở hữu 100%
3. Lucky Bank: CFH sở hữu 81,35%
4. Cathay Century Insurance: CFH sở hữu 100%
5. Cathay Securities: CFH sở hữu 100%
6. Cathay Capital Management: CFH sở hữu 100%
7. Cathay Pacific Venture Capital: CFH sở hữu 100%
8. Cathay Venture Capital: CFH, Cathay Life, Cathat United Bank và Cathay Century
đồng sở hữu 67%
9. Cathay II Pacific Venture Capital: CFH sở hữu 100%
Sơ đồ 1.6: Cơ cấu tổ chức của tập đoàn Cathay
TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH CATHAY
Công ty
BHNT Cathay
Ngân hàng
Cathay
Công ty Bảo
hiểm Cathay
Công ty Chứng
khoán Cathay
Tập đoàn
Ngân hàng
doanh nghiệp
Tập đoàn
Tín thác
Tập đoàn
Ngân hàng
Sơ đồ 1.7: Cơ cấu tổ chức công ty mẹ của tập đoàn Cathay
ĐẠI HỘI CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Các kiểm soát
viên
PHÓ CHỦ TỊCH
CHỦ TỊCH
Phòng
quản lý
rủi ro
Tổng giám đốc
Ban điều hành
Ban quản lý chiến
lược
Phòng kiểm
toán nội bộ
Phòng kế
hoạch kinh
doanh
Phòng
công nghệ
& thông tin
Phòng
tài chính
Phòng
hành
chính
Ban kế
hoạch
chiến lược
Ban quan
hệ với
nhà đầu
Ban tiếp
thị kết
hợp
Ban kế
hoạch
nguồn
Ban kế
toán
1.6.4.2 Cơ chế hoạt động
Công ty mẹ CFH hoạt động dựa trên các quy định của Luật công ty mẹ đầu tư tài
chính của Trung Quốc, chuyên thực hiện đầu tư tài chính, trong đó bao gồm hoạt động
mua cổ phần của các công ty con. Các công ty con là các công ty cổ phần, thành lập và
hoạt động dựa trên Luật Công ty và luật chuyên ngành. Bản thân một số công ty con cũng
được tổ chức theo mô hình tập đoàn công ty mẹ - công ty con như Cathay Life hoặc
Cathay United Bank. Ngoài ra công ty mẹ CFH và các công ty con có thể cùng đầu tư và
sở hữu vốn cổ phần của một công ty con thông qua việc cùng mua cổ phần của một công
ty con. Chẳng hạn CFH, Cathay Life, Cathay United Bank và Cathay Century đồng sở hữu
67% vốn cổ phần của Cathay Venture Capital Co., Ltd.
Giữa công ty mẹ CFH và công ty con hoạt động động lập tương đối với nhau dựa
trên hệ thống luật pháp. Tuy nhiên công ty mẹ CFH giữ vai trò chủ đạo trong việc xây
dựng và thực hiện chiến lược chung của cả Tập đoàn. CFH có trách nhiệm hoạch định và
thực thi chiến lược phát triển chung của cả tập đoàn, các công ty con trên cơ sở chiến lược
phát triển của tập đoàn xây dựng chiến lược phát triển của doanh nghiệp phù hợp với chiến
lược phát triển của tập đoàn. Các công ty con được phép sử dụng, khai thác uy tín và hình
ảnh của tập đoàn, song đồng thời cũng có trách nhiệm bảo vệ và nâng cao uy tín của cả tập
đoàn.
Bên cạnh đó, công ty mẹ CFH trợ giúp các công ty con đối với việc thực hiện các
kế hoạch tái cơ cấu và liên kết. Về tài chính, CFH xây dựng chính sách chung cho việc
phân phối cổ tức và đưa ra các công cụ nhằm nâng cao hiệu quả phân phối vốn cho các
công ty con để ứng nhu cầu kinh doanh. Ví dụ, trong trường hợp một công ty con của tập
đoàn thiếu vốn và thực hiện phát hành trái phiếu, trước hết số trái phiếu này sẽ được chào
bán cho các công ty mẹ và các công ty con trong tập đoàn với mức lãi suất thấp hơn lãi
suất thị trường hiện tại.
Bên cạnh sự trợ giúp về tài chính, CFH còn trợ giúp các công ty con về kỹ thuật,
như hỗ trợ về dịch vụ, thiết kế sản phẩm, phát triển hệ thống và liên kết các kênh phân
phối sản phẩm, phối kết hợp và giám sát việc thực hiện các công việc này. CFH làm đầu
mối trong việc nâng cấp và kết nối hệ thống thông tin của toàn tập đoàn.
Đặc biệt, tất cả các công ty con trong tập đoàn đều được liên kết chặt chẽ với nhau
thông qua cơ chế “sử dụng chung” cơ sở hạ tầng của nhau để kinh doanh tổng hợp các sản
phẩm tài chính và dịch vụ tài chính. Nói cách khác, giữa các công ty con trong tập đoàn có
sự liên kết để khai thác tối đa lợi thế về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật và khách hàng. Chẳng hạn
như sự liên kết giữa các công ty bảo hiểm và ngân hàng để kinh doanh bancasurance.
Trong cơ cấu nhân sự, các vị trí then chốt trong các công ty con thường do các
thành viên HĐQT của công ty mẹ đảm nhiệm. Chẳng hạn Chủ tịch HĐQT của CFH cũng
đồng thời kiêm Chủ tịch HĐQT của Cathay Life Insurance Co., Ltd; Ông Gregory K.H.
Wang, thành viên HĐQT của CFH đồng thời là Chủ tịch HĐQT của Cathay United Bank
Co., Ltd.
1.6.5 Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm cho Việt nam
Qua nhiên cứu một số tập đoàn tài chính - ngân hàng, có thể rút ra một số nhận xét
và bài học kinh nghiệm cho Việt nam
Một là, Tuỳ theo khuôn khổ pháp lý của từng nước, mô hình tập đoàn có tư cách
pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân.
Hai là, công ty mẹ trong tập đoàn thường là những công ty có năng lực tài chính
mạnh và minh bạch, rõ ràng. Theo mô hình tập đoàn của Mỹ, Anh và Đài Loan, công ty
mẹ bao giờ cũng quản lý công ty đầu tư tài chính để thực hiện các khoản đầu tư hay luân
chuyển vốn trong tập đoàn. Công ty tài chính này hoạt động tương đối độc lập và có quyền
chủ động trong nhiều quyết định đầu tư, kể cả đầu tư ra bên ngoài công ty.
Ba là, đầu tư của nhà nước vào các tập đoàn nói riêng và các doanh nghiệp nói
chung đều được thực hiện thông qua Công ty đầu tư tài chính Nhà nước - hoạt động như
một tập đoàn. Việc tổ chức xây dựng Công ty quản lý đầu tư vốn Nhà nước là một giải
pháp nhằm quản lý có hiệu quả hơn các khoản đầu tư của nhà nước tại các tập đoàn cũng
như các công ty có vốn đầu tư nhà nước khác.
Bốn là, cơ cấu tổ chức của công ty đầu tư vốn nhà nước gồm HĐQT, Ban Giám
đốc, Giám đốc điều hành, Ban Kiểm toán và các phòng ban chuyên môn. Công ty này thực
hiện các khoản đầu tư theo sự chỉ đạo của Chính phủ nhằm các mục tiêu kinh tế - xã hội
của đất nước, đồng thời, cũng thực hiện các khoản đầu tư khác có khả năng sinh lời.
Năm là, trong quan hệ với các công ty con, các thành viên HĐQT của công ty mẹ
có thể nắm giữ vị trí của những quản lý cao cấp tại các công ty con. Đối với những tập
đoàn của nhà nước, Chính phủ chỉ định nhân sự cho các chức vụ lãnh đạo chủ chốt, quan
trọng và có sự phân công trách nhiệm và quyền hạn cụ thể cho người đại diện của nhà
nước tại các tập đoàn như Thủ tướng, Bộ Tài chính và các Bộ chủ quản có liên quan. Một
điểm mà Trung quốc, Đài loan; Ma-lay-xi-a rất giống Việt Nam là vẫn tồn tại bộ chủ quản
các doanh nghiệp nên về điểm này Trung quốc, Ma-lay-xi-a có thể là bài học tốt cho Việt
Nam.
Sáu là, một số nước không khuyến khích các tập đoàn hoạt động trong nhiều lĩnh
vực, đa ngành nghề, đặc biệt là các tập đoàn nhà nước chỉ hoạt động ở một vài lĩnh vực có
liên quan trực tiếp đến nhau. Việc đa dạng hoá ngành nghề cần chú ý đến tính liên quan
của các sản phẩm của tập đoàn, nhìn chung là liên quan đến sản phẩm chính của công ty
mẹ, như Citigroup chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính - ngân hàng…
Bảy là, việc kinh doanh của các tập đoàn cần phải có định hướng rõ ràng. Cần đặt
ra các chỉ tiêu hoạt động đối với từng công ty trong tập đoàn nhằm đánh giá hiệu quả hoạt
động của mỗi công ty. Việc kiểm soát độc quyền của các tập đoàn nên theo hình thức có
thể khuyến khích việc hình thành các tập đoàn khác, cho các công ty đa quốc gia, các
doanh nghiệp cùng cạnh tranh với nhau.
Tám là, việc cổ phần hoá các NHTM Nhà nước, công ty hoá các đơn vị sự nghiệp
nhà nước là nhân tố tác động đến việc hình thành tập đoàn tài chính - ngân hàng. Nhiều tập
đoàn tài chính - ngân hàng ở một số nước có nguồn gốc từ giai đoạn quốc hữu hoá khi
quốc gia đó mới giành được độc lập. Dần dần, các tập đoàn này trở nên lớn mạnh hơn và
đòi hỏi phải có phương thức quản lý, điều hành khoa học hơn, do đó việc chuyển sang hoạt
động theo mô hình tập đoàn dựa trên quan hệ sở hữu vốn dần được đẩy mạnh thông qua
các biện pháp công ty hoá.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Thông qua một số lý luận cơ bản về tập đoàn tài chính- ngân hàng, chúng ta phần
nào đã hiểu rõ về mô hình, phương thức hoạt động, đặc điểm… của một tập đoàn tài
chính- ngân hàng, và sự cần thiết phải hình thành các tập đoàn tài chính- ngân hàng đang
cũng đang là vấn đề nóng bỏng ở nước ta hiện nay, nó góp phần hoàn thiện hệ thống tài
chính - tiền tệ từ đó có những chính sách kinh tế phù hợp ở từng thời điểm phát triển, tạo
động lực thúc đẩy nền kinh tế nước nhà sánh vai với các quốc gia trên thế giới.
Việc đưa ra một số mô hình tập đoàn tài chính- ngân hàng tiêu biểu trên thế giới ở
trên, giúp chúng ta hình dung được mô hình cơ bản thực tế của một tập đoàn tài chính -
ngân hàng như thế nào, để chúng ta có cách tiếp cận phù hợp trong việc xây dựng mô hình
tập đoàn tài chính ở Việt Nam.
Điểm chung của các tập đoàn tài chính- ngân hàng trên là hình thành theo phương
thức sáp nhập các công ty với nhau và từ đó hoạt động kinh doanh theo mô hình công ty
mẹ -công ty con. Các tập đoàn này đều hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính –
ngân hàng như cho vay tiêu dùng, cho vay doanh nghiệp, dịch vụ về ngân hàng, đầu tư tài
chính toàn cầu, tư vấn tài chính, bảo hiểm, môi giới, kinh doanh chứng khoán, quản lý
khách sạn, kinh doanh bất động sản...và hầu hết đều có chi nhánh nước ngoài và văn
phòng đại diện ở các quốc gia trên thế giới. Vì vậy các tập đoàn tài chính này đều có mục
tiêu giống nhau là lợi nhuận và giành được thị phần lớn ở các quốc gia trên thế giới.Tùy
thuộc vào chiến lược kinh doanh khác nhau, mà các tập đoàn tài chính - ngân hàng trên có
cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động và phạm vi hoạt động khác nhau, phụ thuộc vào
tổng giá trị tài sản và tiềm lực của từng tập đoàn.
Nhưng nhìn chung việc hình thành các tập đoàn tài chính –ngân hàng đã hình thành
nên mạng lưới liên thông tài chính- tiền tệ giữa các nền kinh tế toàn cầu, đem lại sự thuận
lợi trong hoạt động giao thương, đầu tư giữa các quốc gia với nhau, giúp chính phủ các
nước dự báo được xu hướng biến động tài chính ở các thị trường, từ đó đưa ra các giải
pháp phù hợp, hạn chế được rủi ro để bình ổn thị trường tài chính-tiền tệ ở nước mình, góp
phần thúc đẩy nền kinh tế nước nhà nói riêng và của các quốc gia trên thế giới nói chung.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ
PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1 Tổng quan về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chặng đường xây dựng và trưởng thành 50 năm của Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam luôn gắn liền với từng giai đoạn lịch sử của đất nước, với nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong suốt quá trình đó BIDV luôn hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, góp phần xây dựng CNXH
ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, khôi phục và phát triển
kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất cho nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động kinh doanh của BIDVcó những đổi mới cơ bản từ khi thực sự trở thành
một NHTM hoạt động đa năng theo quyết định số 293/QĐ-NH9 của Ngân hàng Nhà nước
năm 1994. Thành quả trong 15 năm đổi mới của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao; mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động; Tăng trưởng
huy động vốn để mở rộng tín dụng vừa phục vụ nền kinh tế vừa góp phần thực hiện chính
sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát, vừa đa dạng hóa tín dụng vừa không ngừng nâng cao chất
lượng tín dụng, từng bước đổi mới công nghệ… qua đó đã nâng cao chất lượng hoạt động,
khả năng phục vụ và năng lực quản trị điều hành của toàn hệ thống. Qua thời gian đầu hoạt
động với chức năng kinh doanh thương mại, BIDV có bước chuyển đổi quan trọng, nhất là
trong giai đoạn từ 2001 đến nay.
Hơn 50 năm qua, dù đã 3 lần đổi tên gọi và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ kinh
doanh nhưng toàn hệ thống BIDV luôn nỗ lực không ngừng, đoàn kết thống nhất, chủ
động sáng tạo tìm ra những hướng đi mới để tồn tại vững vàng và ngày càng phát triển
hơn, vươn lên trở thành một ngân hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam. Từ năm 2001
đến nay BIDV đã nhận thức và xây dựng những nền tảng cơ bản theo định hướng trở thành
một tập đoàn Tài chính - ngân hàng. Thách thức lớn đang tồn tại hiện nay là cần chuyển
đổi hình thành tập đoàn tài chính và đổi mới hoạt động kinh doanh là yêu cầu bắt buộc để
phát triển bền vững trong bối cảnh hoạt động tài chính tiền tệ đang ngày càng hội nhập sâu
rộng với thế giới.
2.2 Thực trạng tổ chức và hoạt động của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
2.2.1 Cơ cấu tổ chức và nhân sự
Mô hình tổ chức hiện thời của BIDV
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức hiện thời của BIDV
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
KHỐI CÔNG TY
CÔNG TY CHO THUÊ TÀI
CHÍNH (BLC)
CÔNG TY CHO THUÊ TÀI
CHÍNH (BLC II)
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
(BSC)
CÔNG TY QUẢN LÝ NỢ VÀ
KHAI THÁC TÀI SẢN
CÔNG TY BẢO HIỂM (BIDV
(BIC)
KHỐI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN
TRUNG TÂM CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN (BITC)
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO
(BTC)
VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN
MIỀN TRUNG
VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN
MIỀN NAM
VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN TẠI
CAMBODIA
VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN TẠI
MYANMAR
KHỐI NGÂN HÀNG
SỞ GIAO DỊCH CHI NHÁNH
SỞ GIAO DỊCH
III
107 CHI NHÁNH
KHỐI LIÊN DOANH GÓP
VỐN
I I
VỐN CP
NGÂN HÀNG LIÊN DOANH
VID – PUBLIC (MALAYSIA)
NGÂN HÀNG LIÊN DOANH
LÀO VIỆT (LÀO)
NGÂN HÀNG LIÊN DOANH
VIỆT NGA (NGA)
CÔNG TY LIÊN DOANH QUẢN LÝ
ĐẦU TƯ BIDV (SINGAPORE)
CÁC ĐƠN VỊ GÓP VỐN CỔ PHẦN
CỦA BIDV
Về thực chất mô hình tổ chức hiện thời hoạt động kinh của BIDV đang được
tổ chức và vận hành theo mô hình công ty mẹ (BIDV) và các công ty con. Ngoài hệ
thống chi nhánh hoạt động nghiệp vụ ngân hàng thương mại còn có các Công ty
thành viên (công ty cho thuê tài chính, công ty chứng khoán, công ty quản lý nợ và
khai thác tài sản, công ty bảo hiểm); các đơn vị sự nghiệp; các công ty liên doanh,
liên kết với định hướng phát triển theo mô hình tập đoàn tài chính – ngân hàng với
bốn trụ cột (ngân hàng – bảo hiểm – chứng khoán – đầu tư tài chính).
Tại các Sở giao dịch/chi nhánh, mô hình tổ chức gồm có Ban điều hành và
các phòng ban trực tiếp tham gia kinh doanh và phòng hỗ trợ kinh doanh. Nhìn
chung, mô hình tổ chức bộ máy ngân hàng hiện nay đã và đang được tổ chức theo
mô hình bộ máy của một NHTM hiện đại. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban
tại trụ sở chính được quy định rõ ràng hơn trong quy chế hoạt động của ngân hàng.
Tuy nhiên, cho đến nay mô hình vận hành vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, bộ máy còn
cồng kềnh với chức năng của các bộ phận vẫn thiếu rõ ràng, thậm chí chồng chéo.
Mặc dù đã áp dụng chương trình hiện đại hoá, nhưng số lượng lao động ở cả trụ sở
chính và các Sở giao dịch/chi nhánh chưa được tinh giản một cách hợp lý.
Mặc dù hoạt động theo cơ chế của một doanh nghiệp nhà nước, thời gian qua
BIDV đã không ngừng tìm kiếm các giải pháp nhằm hỗ trợ nâng cao đời sống và
thu nhập của người lao động. Tuy nhiên, chính sách lương, thưởng và các chế độ
đãi ngộ của BIDV vẫn chưa thực sự là đòn bẩy khuyến khích người lao động làm
việc và gắn bó với BIDV vì nó chưa theo kịp được các chính sách chế độ đãi ngộ
của hệ thống các NHTM CP, ngân hàng nước ngoài.
Thời gian qua, việc dịch chuyển các nguồn lực lao động có chất lượng cao
trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán nói chung và BIDV nói
riêng diễn ra rất phổ biến. Điều này xuất phát từ hai nguyên nhân chủ yếu:
Thị trường dịch vụ ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, chứng khoán phát triển
với tốc độ cao, yêu cầu về việc mở rộng địa bàn hoạt động, phát triển mạng lưới là
yêu cầu cấp bách trong xu thế mở cửa và hội nhập. Điều này dẫn đến nhu cầu về lao
động đối với những lĩnh vực này tăng cao. Việc tuyển mới nhân sự sẽ không hiệu
quả bằng việc thu hút các nhân sự có chất lượng cao tại các đơn vị bạn.
Đối với bản thân các nhân sự có chất lượng cao luôn nhận được sự quan tâm
và mời chào của các NHTM CP, ngân hàng nước ngoài, tổ chức tài chính khác với
các chính sách, chế độ đãi ngộ vô cùng hấp dẫn. Điều này dẫn đến việc một bộ phận
nhân sự có trình độ, kinh nghiệm chuyển sang làm việc ở nơi khác làm ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
2.2.2 Quản lý vốn và tài sản
Bảng 2.1: Các chỉ tiêu về vốn và tài sản của BIDV qua các năm (2005-
2009)
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009
Vốn điều lệ 3.971 4.077 7.699 8.756 10.499
Vốn chủ sở hữu 3.150 4.428 8.405 9.969 13.977
Tổng tài sản 117.976 158.165 201.382 242.316 292.198
Vốn/ Tổng tài
sản(%)
2,7 2,8 4,17 4,1 4,8
CAR 3,36 5,5 6,7 6,5 7,55
Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán theo IFRS
Vốn
Vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu của BIDV đều tăng với tốc độ khá cao qua
các năm. Đến 31.12.2009, vốn chủ sở hữu của Ngân hàng đạt 13.977 tỷ đồng, tương
đương 779 triệu USD và tăng 40% so với 2008, đưa tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài
sản tăng từ mức 4,1% năm 2008 lên 4,8% 2009 góp phần nâng cao năng lực tài
chính của ngân hàng. Có được kết quả này chủ yếu do vốn điều lệ tăng thêm 1.743
tỷ đồng lên mức 10.499 tỷ đổng , các quỹ của ngân hàng cũng tăng mạnh (1.881 tỷ
đồng). Bên cạnh đó, kết quả lợi nhuận trong năm đạt được ở mức cao cũng đã làm
giảm đáng kể khoản lỗ lũy kế từ những năm trước theo chuẩn mực quốc tế do có sự
khác nhau về chuẩn mực trong việc trích lập dự phòng rủi ro theo chuẩn Việt Nam
và thông lệ quốc tế. Những kết quả trên góp phần đưa hệ số CAR - hệ số an toàn
vốn tối thiểu của Ngân hàng tính theo báo cáo tài chính quốc tế đạt mức 7,55%,
theo báo cáo tài chính chuẩn mực Việt Nam là 9,53% (quy định tối thiểu của
NHNNVN là 8%).
Tài sản
Về tốc độ tăng trưởng tổng tài sản trong 5 năm qua ( giai đoạn 2005 – 2009),
BIDV luôn duy trì ở mức cao. Đến 31/12/2009, tổng tài sản của BIDV đạt 292.198
tỷ đồng tương đương 16,3 tỷ đô la Mỹ. Với quy mô tổng tài sản như trên, BIDV vẫn
giữ vị trí thứ 2 trên thị trường nội địa sau Ngân hàng Nông Nghiệp & Phát triển
nông thôn Việt Nam. Tổng tài sản năm 2009 tăng 20,5% so với năm 2008 và giảm
nhẹ so với tốc độ tăng trưởng bình quân 25% trong giai đoạn 2005 - 2009 do quy
mô tổng tài sản ngày một tăng cao và chịu tác động bất lợi từ môi trường kinh
doanh nhiều biến động trong năm qua.
Do đặc thù của hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng nên quy mô,
chất lượng tài sản Có đóng một vai trò hết sức quan trọng, quyết định sự tồn tại và
phát triển của một NHTM. Tài sản Có của một NHTM bao gồm 4 nhóm: tài sản
ngân quỹ, tài sản cho vay, tài sản đầu tư và tài sản cố định. Chất lượng tài sản Có là
chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh lời,
năng lực quản lý và phần lớn rủi ro trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đều tập
trung ở tài sản Có. Chất lượng tài sản là yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Trong đó chất lượng các khoản cho vay và đầu tư là yếu tố
quyết định đến chất lượng tài sản của một ngân hàng. Nếu tổn thất trong cho vay
lớn sẽ dẫn đến thua lỗ, làm giảm vốn tự có, ảnh hưởng đến khả năng chi trả và biểu
hiện quản lý của ngân hàng yếu kém.
Trong tài sản Có, có thể chia thành 2 nhóm: Nhóm tài sản không sinh lời và
nhóm tài sản có khả năng sinh lời. Trong đó tài sản có sinh lời có vai trò quyết định
hiệu quả kinh doanh của một NHTM và nó thường chiếm từ 80-90% tổng tài sản
của ngân hàng.
Bảng 2.2: Các chỉ tiêu về tài sản
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2008 2009
Cho vay 154.176 198.979
Tổng tài sản 242.361 292.198
Cho vay/Tổng tài sản 64% 68%
Tốc độ tăng trưởng tín dụng 22% 29%
Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán theo IFRS
Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản là hoạt động tín dụng với tỷ trọng
năm 2008 là 64% và năm 2009 là 68%. Đây là hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu
cho ngân hàng.
Cơ cấu dư nợ theo loại hình nghiệp vụ
Bảng 2.3: Cơ cấu dư nợ theo loại hình nghiệp vụ
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2009 2008 Tăng trưởng %
Cho vay thương mại 193.962 150.725 43.237 29
Cho thuê tài chính 2.878 2.501 377 15
Cho vay ODA 8.268 6.009 2.259 38
Cho vay ủy thác đầu tư 539 500 39 8
Cho vay theo chỉ định của Chính
phủ, KHNN
755 1.246 -491 -39
Nợ và cho vay được khoanh và
nợ chờ xử lý
0 1,2 -1,2 -100
Tổng dư nợ trước dự phòng rủi
ro
206.402 160.982 45.420 28
Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán theo IFRS
Tổng dư nợ trước dự phòng rủi ro đạt 206.402 tỷ đồng tăng 28% so với
2008, chủ yếu là tăng từ các khoản cho vay thương mại (chiếm 95% dư nợ tăng
thêm), cho vay chỉ định và kế hoạch nhà nước giảm dần qua các năm (đến cuối
2009 số dư chỉ còn 755 tỷ đồng chiếm chưa đầy 0,4% tổng dư nợ). Đặc biệt số dư
nợ cho vay được khoanh và nợ chờ xử lý đa không còn. Lĩnh vực cho vay đa dạng
trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề từ như cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế biến,
thương nghiệp, dịch vụ, du lịch, nông lâm thủy sản…., cho vay doanh nghiệp quốc
doanh (21%), doanh nghiệp ngoài quốc doanh (TNHH, cổ phần…) chiếm 65%,
doanh nghiệp có vốn nước ngoài (3%), tư nhân và cá thể (10%).
Chất lượng tín dụng
Ngoài việc xem xét tốc độ tăng trưởng các khoản tín dụng và tỷ trọng các
khoản cho vay so với tổng tài sản, việc đánh giá chất lượng tín dụng là không thể
thiếu mà chỉ tiêu quan trọng nhất là tỷ lệ nợ xấu, nợ tồn đọng. Ở Việt Nam, dư nợ
cho vay của các TCTD đã được phân thành 5 nhóm, nợ xấu xuất hiện ở nhóm 3, 4,
5 để thuận tiện cho tính dự phòng rủi ro.
Việc phân loại dư nợ cho vay để xác định nợ quá hạn và mức độ quá hạn là
rất quan trọng trong đánh giá hoạt động của một ngân hàng vì nó phản ánh chất
lượng tài sản Có rất rõ nét. Nó có ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng
trong hiện tại và tương lai. Nếu đặt chỉ tiêu này vào một trật tự thời gian thì có thể
nhận định được khả năng ổn định kinh doanh và môi trường quản lý của bản thân
ngân hàng.
Mặc dù những dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2009 ảnh hưởng
nhiều đến tình hình tài chính của khách hàng cũng như hoạt động kinh doanh ngân
hàng, song chất lượng tín dụng của BIDV đã được cải thiện đáng kể, thể hiện:
Bảng 2.4: Phân loại nợ
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2008 2009
Tuyệt đối % Tuyệt đối %
Nợ đủ tiêu chuẩn 118.837 76,93 159.918 80,93
Nợ cần chú ý 31.452 20,36 32.108 16,25
Nợ dưới tiêu chuẩn 2.883 1,83 3.531 1,79
Nợ nghi ngờ 413 0,27 864 0,44
Nợ không thu hồi được 937 0,61 1.173 0,59
Tổng 154.472 100 197.594 100
Nợ xấu 4.183 2,71 5.568 2,82
Tỷ lệ quỹ DPRR/nợ xấu (%) 199 163
Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán theo IFRS
Tỷ lệ nợ xấu tiếp tục được khống chế ở mức thấp (dưới 3%): năm 2009 tổng
dư nợ tăng thêm hơn 43.000 tỷ đồng ~ 28%, song tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát ở
mức 2,82%, có tăng nhẹ so với 2008 song là mức thấp so với mặt bằng chung trong
bối cảnh kinh tế không thuận lợi, đặc biệt tiếp tục xu hướng giảm so với mức 3,98%
năm 2007.
Tỷ lệ nợ tốt (nợ nhóm 1) tăng lên đáng kể từ mức 77% năm 2008 lên 81%
năm 2009, đồng thời tỷ lệ nợ nhóm 2 (nhóm nợ tiềm tàng có nguy cơ phát sinh nợ
xấu cao) giảm được 4% từ mức 20% năm 2008 xuống 16% năm 2009.
Tỷ lệ bù đắp rủi ro (quỹ dự phòng rủi ro/nợ xấu) đảm bảo >1, đạt 163%,
giảm so với mức 199% năm 2008 cho thấy quỹ dự phòng rủi ro tín dụng đảm bảo
bù đắp tổn thất nợ xấu, chất lượng tín dụng được đảm bảo nên tỷ lệ trích lập/nợ xấu
có xu hướng giảm.
Quy mô, cơ cấu và chất lượng tín dụng đã cho thấy ngân hàng đã thực thi tốt
các chính sách tín dụng: kiểm soát chất lượng, đa dạng hóa khách hàng, nâng cao
quản lý rủi ro vừa đảm bảo tăng trưởng song vẫn kiểm soát tốt chất lượng tín dụng.
2.2.3 Năng lực quản lý
Kỹ năng, kinh nghiệm quản trị của nhân lực lãnh đạo được khẳng định dựa
trên trải nghiệm và thực tiễn đổi mới công tác quản trị doanh nghiệp đa dạng, đa
năng trên nhiều lĩnh vực:
Ban lãnh đạo có tâm huyết, bản lĩnh, chủ động và nhạy bén trong chỉ đạo
hoạt động kinh doanh. Hầu hết các thành viên ban lãnh đạo BIDV đã nắm giữ các vị
trí chủ chốt từ cấp cơ sở đến cấp ngành, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực
chuyên môn ngành tài chính – ngân hàng, hiểu rõ đặc điểm kinh tế - xã hội của các
vùng, miền, địa phương trong cả nước, có kinh nghiệm chỉ đạo điều hành hoạt động
theo cơ chế thị trường. Đặc biệt, hầu hết các vị trí trong Ban lãnh đạo đều đã qua
đào tạo nâng cao về trình độ chính trị và kiến thức quản trị kinh doanh theo thông lệ
(MBA) tại các trường Đại học uy tín trong và ngoài nước, đảm bảo đáp ứng yêu cầu
hội nhập.
Thực tế trong những năm qua, Ban lãnh đạo BIDV đã tập trung chỉ đạo hệ
thống thực hiện thành công quá trình cơ cấu lại ngân hàng theo chỉ đạo của Chính
phủ và Ngân hàng Nhà nước và kế hoạch phát triển thể chế theo cam kết với Ngân
hàng Thế giới. Tích cực chủ động triển khai các dự án hợp tác quốc tế theo chỉ đạo
của Chính phủ, thực hiện có hiệu quả các dự án Tài chính Nông thôn do Ngân hàng
Thế giới tài trợ, tăng cường uy tín của Chính phủ Việt Nam với cộng đồng các nhà
tài trợ, đóng góp thiết thực vào công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Đặc biệt, trong những năm trở lại đây thông qua việc triển khai các dự án Hỗ
trợ kỹ thuật do Ngân hàng thế giới tài trợ (TA1,TA2) đổi mới quản trị NHTM hiện
đại, đến nay về cơ bản BIDV đã chủ động hoàn thành cơ cấu tổ chức, phân công
nhiệm vụ và quan hệ phối hợp của HĐQT, Ban điều hành.
Với bề dày hơn 50 năm hoạt động của một NHTMNN hàng đầu, một mặt là
vốn kinh nghiệm quý báu cho tương lai phát triển của BIDV, nhưng mặt khác
những tồn tại của thể chế nhà nước quan liêu bao cấp cũng tạo ra sức ỳ không nhỏ.
BIDV đang gặp khó khăn trong quản lý rủi ro vì chỉ mới thành lập Ban Quản
lý rủi ro và chưa thành lập Ban Quản trị tài sản nợ và tài sản có nên trước mắt
nghiệp vụ quản lý rủi ro vẫn còn nhiều tồn tại chủ yếu ở hai mảng quản trị rủi ro tín
dụng và quản trị rủi ro tác nghiệp.
Đối với quản trị rủi ro tín dụng, mặc dù hiện nay BIDV đã triển khai nhiều
quy trình, quy chế về quản trị rui ro tín dụng như Sổ tay tín dụng, quy chế cho vay
tiêu dùng, cho vay các thành phần kinh tế khác nhưng hiện nay BIDV chưa có một
khuôn khổ chung cho quản lý rủi ro tín dụng. Mặt khác, nhân sự chuyên sâu về
quản trị rủi ro tín dụng, hệ thống thông tin khách hàng, ứng dụng các ứng dụng
công nghệ thông tin vào trong việc lượng hóa các chỉ tiêu rủi ro cũng là thách thức
lớn đối với BIDV. Do đó BIDV hiểu được tầm quan trọng và đang nỗ lực thực hiện
các chương trình đào tạo nhằm nâng cao sự nhận biết rủi ro tín dụng toàn hệ thồng.
Đối với việc quản lý rủi ro thị trường và tác nghiệp, BIDV chưa có mô hình
quản lý rủi ro được áp dụng để xác định mức độ rủi ro và mức độ rủi ro có thể chấp
nhận được đối với ngân hàng, chưa có kế hoạch chính thức về dự phòng rủi ro thanh
khoản cũng như đánh giá rủi ro trong phạm vi toàn ngân hàng hoặc ở cấp các đơn vị
kinh doanh.
Do vậy, việc quản lý rủi ro trong hoạt động của ngân hàng bào gồm rủi ro tín
dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động và rủi ro pháp lý còn
thiếu tính đồng bộ, chặt chẽ chưa tuân thủ đúng chuẩn mực quốc tế về quản lý rủi ro
có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của BIDV. Hạn chế này cũng là hạn chế
phổ biến tại các ngân hàng thương mại. Đây vừa là khó khăn vừa là điểm yếu mà
BIDV cần khắc phục trong tương lai để đảm bảo hoạt động của BIDV được an toàn
và nâng cao khả năng sinh lời.
2.2.4 Khả năng sinh lời
Lợi nhuận là sinh lực cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung
và ngân hàng nói riêng. Khả năng sinh lời là kết quả cụ thể nhất trong kinh doanh.
Có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng, trong đó, 2 chỉ
tiêu quan trọng và được sử dụng phổ biến nhất là:
lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu (ROE), và
lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản (ROA).
Bảng 2.5: Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời
Đơn vị tính:%
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009
ROA 0,11 0,39 0,89 0,8 0,94
ROE 3,7 14,23 25,01 13,38 21,04
Mặc dù chịu sự cạnh tranh gay gắt các năm qua, khả năng sinh lời của ngân
hàng vẫn tăng trưởng tốt. Năm 2008 có phần chững lại nhưng sang năm 2009 các
chỉ tiêu về khả năng sinh lời ROA, ROE đều được cải thiện so với 2008 và đạt theo
mức thông lệ. Cơ cấu thu nhập có sự dịch chuyển theo hướng tích cực: tăng tỷ trọng
thu phi lãi từ mức 27% năm 2008 lên 30% năm 2009, trong đó riêng hoạt động dịch
vụ nâng tỷ trọng đóng góp từ mức 1.001 tỷ ~ 12% năm 2008 lên mức 1.404 tỷ ~
14% năm 2009. Tỷ trọng thu lãi giảm từ 73% xuống còn 70% tại 31/12/2009. Hệ số
CAR theo IFRS là 7,55% tăng mạnh so với 2008.
2.2.5 Công nghệ thông tin
Đầu tư đổi mới công nghệ là vấn đề sống còn trong việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của BIDV. Theo tính toán và kinh nghiệm của ngân hàng nước ngoài,
công nghệ thông tin có thể làm giảm 76% chi phí hoạt động của ngân hàng nhưng
đây là một lĩnh vực đòi hỏi đầu tư rất lớn. Hiện nay, BIDV rất quan tâm tới vấn đề
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng của mình. BIDV đã tập
trung đầu tư trang thiết bị phần cứng, phần mềm, viễn thông và các sản phẩm ứng
dụng công nghệ hiện đại.
Năm 2009 là một năm có nhiều chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt động công
nghệ thông tin (CNTT) của BIDV. Diện mạo CNTT của BIDV đã có nhiều thay
đổi, từng bước xác lập vị thế vững mạnh trong khối các ngân hàng lớn của Việt
Nam cũng như trong khu vực.
Năm 2009, BIDV đã xây dựng chiến lược Công nghệ thông tin (CNTT) giai
đoạn 2009-2015 và tầm nhìn 2020 theo nguyên tắc chiến lược CNTT phù hợp, bao
gồm kế hoạch đề xuất, triển khai, vận hành, khai thác, duy trì các hệ thống CNTT
nhằm phục vụ cho việc đạt được các mục tiêu của chiến lược phát triển hoạt động
kinh doanh của BIDV và phục vụ trực tiếp cho quá trình cổ phần hóa. Kế hoạch
CNTT tiếp tục được xây dựng trên cơ sở cụ thể hoá chiến lược CNTT, căn cứ phân
tích tổng hợp nhu cầu cũng như khả năng đáp ứng cụ thể của từng thời kỳ và tổ
chức triển khai thực hiện ngày càng bài bản, khoa học.
Việc đổi mới, nâng cấp và ứng dụng các công nghệ mới không chỉ giúp ngân
hàng đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các dịch vụ cung cấp, tạo ra nhiều tiện ích
hơn, thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của khách hàng mà còn nâng
cao công tác quản lý và điều hành của bản thân ngân hàng trên cơ sở kiểm tra, giám
sát kịp thời mọi hoạt động, tạo điều kiện cho việc đưa ra các quyết sách đúng đắn và
kịp thời, vừa đảm bảo hiệu quả quản lý, vừa giảm chi phí nhằm đạt tới mục tiêu
tăng năng suất lao động trong ngân hàng.
2.3 Kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân
2.3.1 Kết quả đạt được
Qua việc phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của BIDV (cơ cấu tổ
chức và nhân sự, quản lý vốn, quản lý tài sản, năng lực quản lý, khả năng sinh lời,
công nghệ ngân hàng), có thể thấy rằng, BIDV đã đạt được một số thành tựu sau:
Một là, mô hình tổ chức đang từng bước được chuyển đổi theo nhóm khách
hàng, loại dịch vụ, tăng cường vai trò điều hành, kiểm soát tập trung tại trụ sở
chính, tăng cường năng lực quản trị ở từng cấp lãnh đạo; phân định rõ hơn trách
nhiệm của HĐQT, Ban Giám đốc điều hành, Ban Kiểm soát; phát triển mạng lưới
chi nhánh, tạo điều kiện cung cấp và tiếp cận dịch vụ.
Hai là, xây dựng mô hình hoạt động theo hướng tập đoàn tài chính, đổi mới
phương thức quản lý phù hợp với chuẩn mực quốc tế, xác định rõ mục tiêu, tầm
nhìn, sứ mệnh và chiến lược phát triển của ngân hàng.
Ba là, làm sạch được Bảng cân đối kế toán bằng nhiều biện pháp khác nhau,
tăng vốn tự có để từng bước đảm bảo tỷ lệ an toàn, nâng cao năng lực tài chính,
trích dự phòng rủi ro theo quy định của NHNN, nâng cao chất lượng hoạt động.
Bốn là, nhìn chung, cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin đã có sự phát triển
vượt bậc trong thời gian qua, tạo cơ sở quan trọng cho việc cải tiến quy trình nghiệp
vụ, phát triển các dịch mới, hiện đại, nâng cao tính tiện ích cũng như chất lượng
phục vụ khách hàng.
2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ như vậy, hệ thống các ngân hàng Việt
nam, đặc biệt là các NHTM Nhà nước vẫn còn có một số hạn chế chủ yếu như sau:
Một là, năng lực tài chính còn yếu kém. Mặc dù BIDV đã có những nỗ lực
đáng kể nhưng tiềm lực tài chính còn quá nhỏ bé so với các nước trên thế giới và
trong khu vực. Năng lực tài chính kém, rủi ro trong hoạt động ngân hang ở mức cao
và năng lực cạnh tranh thấp thể hiện: BIDV gặp khó khăn về chỉ tiêu đảm bảo an
toàn vốn tối thiểu. Chất lượng tín dụng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tín dụng vẫn là
hoạt động chủ yếu tạo ra thu nhập cho ngân hàng, các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại
khác như thanh toán qua ngân hàng, môi giới kinh doanh, tư vấn tài chính …chưa
phát triển.
Hai là, về mô hình tổ chức. Vai trò điều hành của Hội sở chính đối với các
công ty trực thuộc còn hạn chế, chưa đạt tới cơ cầu hướng theo các mảng kinh
doanh; các hoạt động chiến lược, công nghệ, nhân sự, thị trường còn mang tính
phân tán, do đó việc chia sẻ nguồn lực không hiệu quả và tốn kém chi phí; các hoạt
động hỗ trợ củavcác đơn vị thuộc khối sự nghiệp đối với khối kinh doanh còn nhiều
bất cập. Cơ cấu tổ chức và bộ máy hoạt động vẫn chưa thực sự được hoàn thiện, còn
cồng kềnh, thủ tục hành chính vẫn khá nặng nề, chi phí quản lý tăng lên, năng suất
lao động giảm.
Ba là, năng lực quản trị, điều hành còn nhiều bất cập, thiếu khả năng điều
hành một NHTM hiện đại. BIDV chưa có những kế hoạch dài hạn cho sự phát triển
của ngân hàng trong xu thế mới, các hình thức cạnh tranh lành mạnh, hiện đại bằng
các dịch vụ ưu đãi để thu hút khách hàng chưa được áp dụng nhiều, ngân hàng chủ
yếu vẫn dùng lãi suất để cạnh tranh. Đối với việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng
hiện đại thì BIDV còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Mạng lưới các chi
nhánh của BIDV phát triển khá nhanh trong thời gian qua, đặc biệt là tại các thành
phố lớn nhưng hiệu quả hoạt động của các chi nhánh này chưa cao, đôi khi còn
chồng chéo.
Bốn là, về cơ chế tài chính. Việc điều động vốn tài sản, đầu tư vốn, rút vốn
giữa ngân hàng và các đơn vị thành viên, đặc biệt là đơn vị thành viên hạch toán
độc lập chưa được quy định rõ ràng, chưa phân định rõ trách nhiệm quản lý đầu tư
của đơn vị nắm vốn (hiện là ngân hàng) dẫn đến hạn chế hiệu quả đầu tư cũng như
hạn chế tính độc lập, tự chủ tài chính của đơn vị thành viên.
Năm là, trình độ công nghệ mặc dù đã được cải thiện, song vẫn chưa thực sự
đáp ứng được yếu cầu của một hệ thống ngân hàng hiện đại. Hơn nữa, công nghệ
được áp dụng trong ngân hàng cũng như giữa các ngân hàng không đồng bộ, gây
khó khăn cho việc liên kết, hợp tác và nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Sáu là, lực lượng cán bộ viên chức của ngân hàng: thiếu các chuyên gia giỏi,
các nhà quản trị một NHTM hiện đại, trình độ của nhân viên tác nghiệp chưa đáp
ứng được yêu cầu của thực tiễn.
2.3.3. Những nguyên nhân cơ bản
Sở dĩ còn những hạn chế trên là do một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, nguyên nhân khách quan.
Đó chính là sự bất cập trong khung pháp lý về hoạt động ngân hàng cũng
như tính chống chéo và phức tạp trong quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng,
cản trở sự phát triển và mở rộng các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Đó cũng là những
tác động của bất ổn định trong một nền kinh tế chuyển đổi, sự thiếu đồng bộ trong
phát triển các bộ phận của thị trường tài chính làm tăng độ rủi ro, không chỉ đối với
ngân hàng mà cả đối với các khách hàng. Nhận thức của người dân về DVNH còn
thấp cũng gây nên những tác động không nhỏ tới việc phát triển hệ thống ngân
hàng.
Thứ hai, nguyên nhân chủ quan
Đó chính là những hạn chế trong trình độ quản lý của đội ngũ các nhà quản
lý và trình độ chuyên môn của các cán bộ tác nghiệp trong việc phát triển các dịch
vụ mới theo mô hình ngân hàng hiện đại. Đã vậy, cơ chế lương, thưởng chưa
khuyến khích được người lao động tận tâm trong công việc khiến cho tình trạng
chất xám đã khan hiếm lại đang có xu hướng “chảy máu”, nhất là khi có sự tham
gia của các định chế tài chính nước ngoài vào thị trường. Ngoài ra, do cơ chế chính
sách liên quan đến hoạt động tài chính ngân hàng không ổn định, tính tiên liệu thấp
đã gây khó khăn không nhỏ cho các ngân hàng trong quá trình kinh doanh và phòng
ngừa rủi ro.
2.4 Đánh giá các điều kiện hình thành và phát triển Tập đoàn tài chính –
ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
Hình thành và phát triển các tập đoàn tài chính - ngân hàng là xu hướng tất
yếu của hệ thống NHTM nhiều nước trên thế giới. Trong bối cảnh thị trường dịch
vụ tài chính mở cửa ngày càng sâu, rộng khi Việt Nam gia nhập WTO, thì việc hình
thành tập đoàn tài chính - ngân hàng trên cơ sở một số NHTM hiện có là cần thiết.
Tuy nhiên, để một số NHTM phát triển thành tập đoàn tài chính - ngân hàng là cả
một quá trình và đòi hỏi phải hội đủ các điều kiện nhất định. Ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam đã có một số tiền đề nhất định để phát triển thành tập đoàn tài
chính - ngân hàng. Việc đánh giá điều kiện hình thành và phát triển của BIDV thành
tập đoàn tài chính - ngân hàng là cần thiết để hoạch định chính sách hỗ trợ phù hợp
cho quá trình chuyển đổi.
Về lý luận và thực tiễn, để hình thành tập đoàn tài chính ngân hàng phải có
hai nhóm điều kiện: Điều kiện vĩ mô và điều kiện nội tại trong mỗi ngân hàng.
2.4.1. Điều kiện vĩ mô
Thứ nhất, về môi trường pháp lý
Trong những năm qua, hệ thống pháp luật ngân hàng ở Việt Nam đang dần
hoàn thiện. Mốc quan trọng đầu tiên là năm 1990, hai Pháp lệnh ngân hàng đã được
ban hành tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi hệ thống ngân hàng từ một cấp sang
hai cấp. Năm 1997, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển hệ thống ngân hàng theo
cơ chế thị trường, hai Pháp lệnh ngân hàng đã được nâng cấp thành hai Luật Ngân
hàng (Luật NHNN và Luật Các TCTD) có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998. Với sự ra
đời của 2 Luật trên cùng với hàng loạt các Nghị định, Quyết định, Thông tư hướng
dẫn về kinh doanh tiền tệ đã tạo nên một khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh điều
chỉnh cả về tổ chức lẫn hoạt động của các TCTD tại Việt nam. Đáp ứng yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu cải cách, năm 2003 và 2004, Luật NHNN và Luật
Các TCTD đã được bổ sung, sửa đổi nhằm giải quyết những qui định còn thiếu về
DVNH, về nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ, về năng lực quản lý và khuyến
khích sự chủ động về quản lý của các ngân hàng. Những sửa đổi này đã được thực
hiện theo hướng tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng hệ thống ngân hàng hiện đại
phù hợp với chuẩn mực quốc tế; giảm bớt sự can thiệp không cần thiết của các cơ
quan quản lý nhà nước vào hoạt động của ngân hàng; mở rộng và quy định lại loại
hình ngân hàng; tăng cường tính hệ thống, tính thống nhất của hệ thống pháp luật
Việt Nam, đáp ứng yêu cầu từng bước hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Cơ chế tín dụng cũng không ngừng được hoàn thiện theo hướng tạo điều
kiện về mặt pháp lý cho các ngân hàng mở rộng tín dụng có hiệu quả; thông
thoáng, đáp ứng vốn cho phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời, cho phép các ngân
hàng có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quyết định cho vay (điều kiện vay
vốn, lãi suất, mức vay, thời hạn vay, phương thức cho vay), lựa chọn khách hàng và
biện pháp đảm bảo tiền vay trên nguyên tắc thị trường, an toàn và hiệu quả. Các
văn bản pháp lý và cơ chế chính sách về hoạt động thanh toán cũng đã từng bước
được hoàn thiện. Điều này đã tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện tốt công tác
thanh toán, thu hút khách hàng mở tài khoản để sử dụng các phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt qua ngân hàng cũng như sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
Trong tiến trình đổi mới ngân hàng, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế
và hội nhập quốc tế, ngoài công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật ngân hàng, hoạt
động thanh tra - giám sát cũng như các quy định về an toàn trong ngân hàng cũng
được từng bước đổi mới, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Các ngân hàng đã xem
xét việc sử dụng kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập như một công cụ hỗ trợ cho
hoạt động thanh tra nhằm xác nhận và đánh giá tính minh bạch, khách quan của các
thông tin của các tổ chức tín dụng. Hệ thống mạng máy tính của thanh tra ngân
hàng đã được kết nối trong toàn quốc, cung cấp các thông tin cần thiết phục vụ cho
việc quản lý, giám sát từng ngân hàng và cả hệ thống ngân hàng.
Đặc biệt, NHNN đã xây dựng phương pháp giám sát dựa trên cơ sở hệ thống
chỉ tiêu giám sát (CAMEL), thiết lập hệ thống thông tin, báo cáo giám sát từ xa.
Vai trò của hoạt động kiểm toán ngày càng được quan tâm, tăng cường hơn. Trong
ngân hàng, vai trò và nhiệm vụ của Bộ phận kiểm toán nội bộ, Ban kiểm soát nội
bộ đã được ngân hàng xác định rõ và tách biệt với HĐQT và Ban Giám đốc. Các
phương pháp kiểm toán đã dần được cải thiện trên cơ sở áp dụng thông lệ chung và
phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh chóng của thị trường dịch vụ ngân hàng và
yêu cầu của quá trình thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực ngân hàng, khung
pháp lý cho hoạt động ngân hàng đã bộc lộ nhiều bất cập, không đáp ứng được đòi
hỏi của thực tiễn phát triển của dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là các dịch vụ ngân
hàng mới, hiện đại. Hệ thống khung pháp lý điều chỉnh hoạt động DVNH tương đối
phức tạp, nhiều văn bản hướng dẫn, sửa đổi, dẫn đến khó tra cứu, áp dụng; các văn
bản pháp luật còn rườm rà, nặng về thủ tục hành chính, can thiệp hơi sâu vào hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng; mặt khác hệ thống văn bản pháp luật này vẫn
còn thiếu và yếu. Trong khi một số hoạt động được quy định trong Luật vẫn chưa có
hướng dẫn thi hành, thì một số quy định khác của Luật lại không còn phù hợp so
với thực tế.
Thứ hai, mức độ phát triển của thị trường tài chính
Việc thành lập các tập đoàn tài chính - ngân hàng thường bắt nguồn từ việc
mở rộng loại hình kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính của ngân hàng mẹ, từ
chỗ chỉ kinh doanh dịch vụ ngân hàng, mở rộng kinh doanh sang dịch vụ bảo hiểm,
chứng khoán,... Mặt khác, khi thị trường tài chính phát triển, khách hàng đòi hỏi
được cung cấp các dịch vụ tài chính trọn gói với nhiều tiện ích và chất lượng cao.
Vì vậy, sự phát triển của thị trường tài chính sẽ tạo môi trường cho NHTM mở rộng
lĩnh vực kinh doanh, tạo tiền đề mở rộng qui mô hoạt động, hình thành các công ty
con kinh doanh đa lĩnh vực.
Trong thời gian qua, thị trường tài chính Việt Nam đã có tốc độ tăng trưởng
khá (ở cả 3 lĩnh vực: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán), từng bước hội nhập với
khu vực và thế giới, các sản phẩm/dịch vụ ngày càng được đa dạng hoá. Hệ thống
các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính phát triển ngày càng đa dạng, với các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế và có sự tham gia ngày càng
sâu rộng của các chủ thể nước ngoài đã thúc đẩy cạnh tranh mạnh mẽ trong việc
cung cấp dịch vụ tài chính trên thị trường. Sự phát triển của thị trường dịch vụ tài
chính đã bước đầu tạo môi trường cho các NHTM mở rộng qui mô, đa dạng hoá
hoạt động và nâng cao chất lượng. Tuy nhiên, so với thị trường tài chính của một số
nước trong khu vực, thì thị trường tài chính Việt nam còn hạn chế như: hàng hoá
chưa đa dạng, chất lượng dịch vụ thấp, khả năng tiếp cận và sử dụng các sản phẩm
mới còn nhiều hạn chế do chất lượng nguồn lực, khả năng cạnh tranh và thích ứng
với hội nhập quốc tế còn yếu, mức độ ứng dụng công nghệ và trình độ quản lý còn
ở mức thấp; chưa coi trọng cạnh tranh về chất lượng. Chính vì vậy, để tạo môi
trường kinh doanh cho các tập đoàn tài chính - ngân hàng, đòi hỏi một sự phát triển
mạnh mẽ và đồng bộ của thị trường tài chính.
Thứ ba, về cơ chế, chính sách phát triển tập đoàn tài chính - ngân hàng
Hình thành tập đoàn kinh doanh nói chung và tập đoàn tài chính ngân hàng
là một quá trình diễn ra theo qui luật kinh tế khách quan. Mệnh lệnh hành chính
không tạo ra được tập đoàn. Tuy nhiên, Chính phủ có vai trò rất quan trọng trong
việc hoạch định và thực thi chính sách hình thành và phát triển tập đoàn tài chính -
ngân hàng nói riêng trên cơ sở một số NHTM.
Chủ trương hình thành và phát triển các tập đoàn tài chính đã được xác định
nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, cơ chế, chính
sách cụ thể để thực hiện và thúc đẩy việc chuyển đổi các tổ chức tài chính nhà
nước, các NHTM Nhà nước còn thiếu, đặc biệt trong quá trình thực hiện cổ phần
hoá.
2.4.2. Điều kiện bên trong
Thứ nhất, về mô hình tổ chức hoạt động
Hiện nay, mô hình tổ chức của BIDV được tổ chức thành 2 cấp: trụ sở chính
và chi nhánh. Tại hội sở chính, mô hình kết cấu chung bao gồm: HĐQT, Ban giám
đốc điều hành và các khối phòng ban chức năng trực thuộc. Cơ cấu này được phân
biệt chủ yếu ở 2 chức năng cơ bản là chức năng quản trị điều hành và chức năng
quản lý kinh doanh. Nhưng trên thực tế, HĐQT chưa hoạt động đúng với tính chất
là cơ quan quản lý cao nhất của NHTM, chưa tập trung được thông tin về hoạt động
của ngân hàng... Chức năng, quyền hạn của HĐQT chưa được phân định rõ ràng và
thực thi đúng, dẫn đến sự phối kết hợp giữa HĐQT và Ban điều hành không có sự
gắn kết thường xuyên. Do vậy, các hoạt động quản trị ngân hàng chủ yếu và quan
trọng như: Quản trị rủi ro; Quản lý thanh khoản; Quản lý tài sản Nợ - tài sản Có;
kiểm soát và kiểm toán nội bộ... thiếu sự hợp tác và rất phân tán, không được cập
nhật về thông tin... Mô hình quản trị của BIDV còn có khoảng cách rất lớn so với
thông lệ quốc tế và mô hình quản trị của các ngân hàng hiện đại.
Tập đoàn tài chính ngân hàng thực sự phải là tập hợp đa sở hữu. Vì vậy,
trong mô hình tập đoàn tài chính ngân hàng, công ty mẹ - NHTM phải hoạt động
theo mô hình ngân hàng cổ phần. Xét ở điều kiện hiện nay BIDV chưa đáp ứng
được. Để tạo cơ sở cho việc chuyển đổi thành mô hình tập đoàn tài chính, BIDV
cần chuyển sang hoạt động theo mô hình ngân hàng cổ phần.
Đáp ứng điều kiện về mô hình hoạt động thông qua thực hiện cổ phần hoá có
thể coi là vấn đề quyết định và nan giải nhất đối với BIDV trong việc chuyển đổi
sang mô hình tập đoàn.
Thứ hai, về qui mô hoạt động
Về qui mô hoạt động, để chuyển đổi sang tập đoàn tài chính hoạt động theo
mô hình công ty mẹ - con, công ty mẹ - NHTM phải nắm giữ/chi phối một số lượng
công ty con - có tư cách pháp nhân nhất định. Luật pháp một số nước còn qui định
số lượng tối thiểu công ty con của một tập đoàn kinh doanh (ví dụ: Trung Quốc là 5
công ty).
Đối với BIDV đã có công ty con: công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài
chính, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, công ty bảo hiểm... Các công ty con
này đều có tư cách pháp nhân và hoạt động tương đối độc lập với ngân hàng mẹ.
Các công ty con do công ty mẹ nắm giữ 100% vốn, vì vậy rất khó mở rộng qui mô
so với việc hình thành công ty con là công ty cổ phần do công ty mẹ chi phối.
Thứ ba, về tiềm lực tài chính
Tiềm lực tài chính mạnh là điều kiện mang tính nền tảng của một tập đoàn
kinh doanh, đặc biệt điều kiện này càng quan trọng đối với tập đoàn tài chính –
ngân hàng. Tính đến 31.12.2009, vốn điều lệ của Ngân hàng đạt 10.499 tỷ đồng,
tương đương 600 triệu USD. Mặc dù BIDV đã cố gắng tăng vốn điều lệ nhưng vẫn
chưa đáp ứng tiêu chuẩn an toàn về vốn theo thông lệ quốc tế là 8%, đồng thời vốn
tự có của BIDV còn thấp so với các ngân hàng trung bình trong khu vực. Để tạo nền
tảng về tài chính cho việc hình thành tập đoàn, các BIDV cần tăng vốn tự có. Trong
điều kiện hiện nay, cổ phần hoá là phương thức chủ yếu để tăng qui mô tài chính
cho BIDV.
Đánh giá bước đầu có thể thấy việc hình thành và phát triển BIDV thàng tập
đoàn tài chính - ngân hàng đã có một số yếu tố và tiền đề nhất định cả trên bình diện
vĩ mô và nội tại của BIDV. Tuy nhiên, để trở thành tập đoàn tài chính mạnh, BIDV
còn thiếu một số điều kiện về mô hình hoạt động, tiềm lực tài chính, trong khi
những điều kiện này lại phụ thuộc không nhỏ vào chính sách và biện pháp từ phía
chính phủ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Như vậy, chặng đường mà các NHTM Việt Nam nói chung và BIDV nói
riêng còn phải trải qua theo mô hình phát triển thành tập đoàn tài chính – ngân hàng
phía trước còn rất nhiều chông gai. Trên thực tế, việc cho phép các NHTM được sở
hữ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp phát triển Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thành tập đoàn tài chính.pdf