Luận văn Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang

Tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang: LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khu vực nông thôn Việt Nam chiếm gần 80% dân số cả nước, trong xu thế hội nhập kinh tế, khu vực nông thôn đã đạt được những kết quả tương đối khả quan như: đã giải quyết được cơ bản nhu cầu lương thực, thực phẩm, thu nhập của dân cư ở khu vực nông thôn tăng lên, đời sống văn hoá xã hội được cải thiện đáng kể. Đặc biệt là đối với các địa phương đã hình thành và phát triển các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp với các làng nghề, làng nghề truyền thống và làng nghề mới, cung cấp nhiều sản phẩm cho xã hội. Hiện nay, nước ta có khoảng gần 2000 làng nghề thủ công thuộc 11 nhóm ngành nghề chính như: sơn mài, gốm sứ, thêu ren, mây tre đan, cói, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá ... Cùng với sự phát triển làng nghề truyền thống của cả nước, làng nghề của tỉnh An Giang cũng được chính quyền địa phương quan tâm, tạo điều kiện để phát triển, mở rộng quy...

pdf99 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1847 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khu vực nông thôn Việt Nam chiếm gần 80% dân số cả nước, trong xu thế hội nhập kinh tế, khu vực nông thôn đã đạt được những kết quả tương đối khả quan như: đã giải quyết được cơ bản nhu cầu lương thực, thực phẩm, thu nhập của dân cư ở khu vực nông thôn tăng lên, đời sống văn hoá xã hội được cải thiện đáng kể. Đặc biệt là đối với các địa phương đã hình thành và phát triển các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp với các làng nghề, làng nghề truyền thống và làng nghề mới, cung cấp nhiều sản phẩm cho xã hội. Hiện nay, nước ta có khoảng gần 2000 làng nghề thủ công thuộc 11 nhóm ngành nghề chính như: sơn mài, gốm sứ, thêu ren, mây tre đan, cói, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá ... Cùng với sự phát triển làng nghề truyền thống của cả nước, làng nghề của tỉnh An Giang cũng được chính quyền địa phương quan tâm, tạo điều kiện để phát triển, mở rộng quy mô và đa dạng ngành nghề. Nhiều làng nghề như se nhang, lưỡi câu, bánh tráng, sản xuất bánh phồng, bó chổi bông cỏ, chầm nón, HTX rèn, mộc chạm trổ mỹ nghệ, mộc dân dụng, đóng xuồng ghe, HTX dệt Châu Giang, HTX dệt Văn Giáo, tơ lụa Tân Châu, sản xuất gạch ngói, sản xuất rập chuột, … được khôi phục và phát triển; đồng thời, nhiều làng nghề mới được xuất hiện và phát triển mạnh như đan thảm lục bình, sản xuất lò đất, thêu rua, chế biến mắm, khô cá sặc bổi, khô cá tra phồng, sản xuất than đá, sản xuất võng vải, sản xuất cân treo, sản xuất đường thốt nốt, sản xuất quạt thốt nốt, tranh thốt nốt, ốc mỹ nghệ, đá thủ công mỹ nghệ, dệt chiếu, đan giỏ … Thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn làng nghề được mở rộng quy mô, đã sử dụng máy móc, công nghệ thay thế cho lao động thủ công. Hiện nay, làng nghề cần được sắp xếp, quy hoạch thành những cụm làng nghề liên kết nhau để có thể tiếp nhận đầu tư nước ngoài, đầu tư công nghệ hiện đại nâng cao năng suất lao động, bảo vệ môi trường tự nhiên, xây dựng môi trường xã hội văn minh, hiện đại. Có như vậy làng nghề mới có thể tăng trưởng theo hướng bền vững và phát triển làng nghề gắn với du lịch. Để giải quyết vấn đề đó, tôi chọn đề tài:"Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang" làm luận văn Thạc sĩ - chuyên ngành: Quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Có thể nêu một số công trình chủ yếu như sau: - Luận án Tiến sĩ về “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng ven thủ đô Hà Nội” của tác giả Mai Thế Hởn. - “Khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng - thực trạng và giải pháp” của Thạc sĩ Vũ Thị Hà năm 2002. Tác giả đã nghiên cứu thực trạng làng nghề truyền thống ở nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng và đưa ra giải pháp về quy hoạch, kế hoạch khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, đưa ra giải pháp về đào tạo lao động, cán bộ quản lý, thị trường tiêu thụ, đổi mới công nghệ, chính sách của nhà nước để phát triển làng nghề truyền thống. - “Tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam” của Thạc sĩ Trần Văn Hiến năm 2006. Tác giả đã nghiên cứu thực trạng công tác tín dụng ngân hàng nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam đối với sự phát triển làng nghề của tỉnh; đồng thời tác giả đã ra dự báo sự phát triển của làng nghề, của tín dụng ngân hàng nông nghiệp đến năm 2010, đưa ra cơ chế, chính sách cho vay để khuyến khích làng nghề phát triển. - “Giải pháp xây dựng làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh theo hướng phát triển bền vững” của Thạc sĩ Nguyễn Hữu Loan năm 2007. Tác giả đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp tổ chức quản lý, xây dựng làng nghề theo hướng bền vững trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. - Bên cạnh đó, còn một số đề tài, luận án tiến sĩ đề cập tới các vấn đề gần với đề tài này như: “Phát triển tiểu thủ công nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở đô thị Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Hữu Lực hay “Một số vấn đề cơ bản về sự phát triển tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn Hà Bắc” của Nguyễn Ty, … Các công trình này chủ yếu đề cập đến vấn đề phát triển tiểu thủ công nghiệp là chính, còn vấn đề khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống mới dừng lại ở mức định hướng cơ bản tầm vĩ mô và một số chủ trương lớn mà chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống, đưa ra các giải pháp khả thi cho việc đẩy mạnh phát triển làng nghề truyền thống. - Ngoài ra, còn một số luận văn lý luận chính trị cao cấp về “Phát triển làng nghề truyền thống trong nền kinh tế thị trường hiện nay trên địa bàn huyện Đức Thọ - Hà Tĩnh” của Thạc sĩ Nguyễn Quốc Hải năm 2006 và “Nghề truyền thống trên địa bàn Hà Nội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” của Nguyễn Trọng Tuấn cũng đều đề cập đến thực trạng làng nghề truyền thống của các địa phương khác nhau; đồng thời cũng đưa ra những giải pháp về quy hoạch kế hoạch phát triển nghề truyền thống và đặt vấn đề thị trường tiêu thụ, đổi mới công nghệ, chính sách, đào tạo nguồn lao động để làng nghề được phát triển trong điều kiện Việt Nam thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Nhìn chung các công trình nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của các làng nghề, làng nghề truyền thống và đưa ra những giải pháp phát triển cũng chính là giải quyết vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân theo đúng tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp phát triển các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - Hệ thống hoá có bổ sung một số lý luận cơ bản về phát triển làng nghề truyền thống trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay. - Phân tích, đánh giá đúng thực trạng phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang. - Nêu lên quan điểm và đề xuất các giải pháp phát triển các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu là làng nghề truyền thống và các nhân tố tác động tới sự phát triển làng nghề truyền thống hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Do vấn đề rộng lớn và phức tạp trong khuôn khổ luận văn Thạc sĩ kinh tế, chúng tôi tập trung phân tích, khảo sát một số làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang và giới hạn phân tích hai nhân tố chủ yếu là: Tác động của quản lý nhà nước tới sự phát triển làng nghề truyền thống và nhân tố từ bản thân các làng nghề. Thời gian nghiên cứu đánh giá thực trạng từ năm 2001 cho đến nay và đề xuất giải pháp đến năm 2010 và một số giải pháp dài hạn đến năm 2020. Số liệu phỏng vấn trực tiếp các đối tượng được thực hiện trong năm 2008. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu khoa học của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận của luận văn Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; kế thừa có hệ thống và chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các tài liệu khoa học, kinh tế, chính trị có nội dung liên quan hoặc đề cập đến vấn đề nghiên cứu của luận văn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phân tích, tổng hợp, diễn giải, khảo sát, thống kê, so sánh, phương pháp kết hợp logic với lịch sử, lý luận với thực tế. 6. Đóng góp mới khoa học của luận văn Luận văn phân tích và làm rõ thực trạng các làng nghề truyền thống trên nhiều khía cạnh, khái quát quá trình hình thành và phát triển, đánh giá kết quả những hạn chế tồn tại và nguyên nhân, đề xuất các quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển bền vững các làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh An Giang. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu ở các ngành, các cơ quan nghiên cứu hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn của tỉnh An Giang. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM 1.1.1. Quan niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống ở nông thôn Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng như hiện nay đều cho thấy, làng xã Việt Nam có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất, cũng như đời sống dân cư ở nông thôn. Qua thử thách của những biến động thăng trầm, những lệ làng phép nước và phong tục tập quán ở nông thôn vẫn được duy trì, phát triển đến ngày nay. Làng xã Việt Nam được phát triển rất lâu đời, nó thường được gắn chặt với nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng, phần lớn người dân đều làm nông nghiệp, cùng với sự phát triển, xuất hiện những bộ phận dân cư sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau, hình thành thêm một số tổ chức theo nghề nghiệp tạo thành các làng nghề, phường nghề, xã nghề gắn liền với địa danh của địa phương, từ đó các nghề được lan truyền và phát triển thành làng nghề. Bên cạnh những người chuyên làm nghề, thì đa phần vừa sản xuất nông nghiệp, vừa làm nghề (nghề phụ). Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng hoá, các nghề mang tính chất chuyên môn sâu hơn và thường được giới hạn trong quy mô nhỏ (làng, xã) dần dần tách khỏi nông nghiệp để chuyển sang nghề thủ công. Càng về sau xu thế người lao động tách khỏi đồng ruộng, chuyển sang làm nghề thủ công và sống bằng nghề đó ngày càng nhiều. Như vậy, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền thống và các sản phẩm mang nặng dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá, văn minh dân tộc. Quá trình phát triển của làng nghề là quá trình phát triển tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Thông qua lệ làng mà làng nghề định ra những quy ước như: không truyền nghề cho người khác làng, không truyền nghề cho con gái, hoặc uống rượu ăn thề không để lộ bí quyết nghề nghiệp … trải qua một thời gian dài của lịch sử, lúc thịnh, lúc suy, có những nghề được lưu giữ, có những nghề bị mai một hoặc mất hẳn và có những nghề mới ra đời, trong đó có những nghề đạt tới trình độ công nghệ tinh xảo với kỹ thuật điêu luyện và phân công lao động khá cao. Trong những năm đổi mới, làng nghề có nhiều cơ hội phát triển mạnh mẽ, đồng thời cũng là lĩnh vực được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Cho đến nay, đã có nhiều quan niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống khác nhau, có thể nêu một số quan niệm được tổng hợp từ các nguồn tài liệu: [3], [21], [25],[29],[49]. - Trước hết là quan niệm về làng nghề Quan niệm thứ nhất: làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng đều hoạt động cho nghề ấy và lấy đó làm nghề sống chủ yếu. Nhưng với quan niệm như vậy thì làng nghề đó hiện nay không còn nhiều. Quan niệm thứ hai: làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công, ở đây không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công nhiều khi cũng là người làm nghề nông. Nhưng do yêu cầu chuyên môn hoá cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng thủ công truyền thống ngay tại làng nghề hay phố nghề ở nơi khác. Quan niệm về làng nghề như vậy là chưa đủ, điều đó nói lên rằng không phải bất cứ làng nào có vài ba lò rèn hay vài ba gia đình làm nghề mộc, nghề dệt … đều là làng nghề. Để xác định đó có phải là làng nghề hay không, cần xem xét tỷ trọng lao động hay số hộ làm nghề so với toàn bộ lao động và hộ ở làng hay tỷ trọng thu nhập từ ngành nghề so với tổng thu nhập của làng. Quan niệm thứ ba: làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên tâm làm nghề truyền thống lâu đời, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, theo kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề. Song ở đây chưa phản ánh đầy đủ tính chất của làng nghề; nó là một thực thể sản xuất kinh doanh tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử là một đơn vị kinh tế TTCN có tác dụng to lớn đối với đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội một cách tích cực. Từ cách tiếp cận trên cho thấy quan niệm về làng nghề liên quan đến các nghề thủ công cụ thể. Tên gọi của làng nghề gắn liền với tên gọi của các nghề thủ công như nghề gốm sứ, đúc đồng, khảm trai, kim hoàn, dệt vải, dệt tơ lụa, … Trước đây, quan niệm làng nghề chỉ bao hàm các nghề thủ công nghiệp, ngày nay, khi mà trên thế giới khu vực dịch vụ đóng vai trò quan trọng và trở thành lĩnh vực chiếm ưu thế về mặt tỷ trọng, thì các nghề dịch vụ trong nông thôn cũng xếp vào các làng nghề. Như vậy, trong làng nghề sẽ có loại làng một nghề và làng nhiều nghề, tuỳ theo số lượng ngành nghề thủ công và dịch vụ có ưu thế trong làng. Làng một nghề là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại, hoặc có một nghề chiếm ưu thế tuyệt đối, các nghề khác chỉ có ở một vài hộ không đáng kể. Làng nhiều nghề là làng xuất hiện và tồn tại nhiều nghề có tỷ trọng các nghề chiếm ưu thế gần như tương đương nhau. Trong nông thôn Việt Nam trước đây loại làng một nghề xuất hiện và tồn tại chủ yếu, loại làng nhiều nghề gần đây mới xuất hiện và có xu hướng phát triển mạnh. Từ các quan niệm trên đây, có thể khái quát về làng nghề như sau: làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một làng (thôn) có một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng. - Thứ hai là quan niệm về làng nghề truyền thống Quan niệm thứ nhất: LNTT là một cộng đồng dân cư, được cư trú giới hạn trong một địa bàn tại các vùng nông thôn tách rời khỏi sản xuất nông nghiệp, cùng làm một hoặc nhiều nghề thủ công có truyền thống lâu đời để sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm bán ra thị trường để thu lợi. Quan niệm này mới thể hiện được yếu tố truyền thống lâu đời của làng nghề, còn những làng nghề mới, nhưng tuân thủ yếu tố truyền thống của vùng hay của khu vực chưa được đề cập đến. Quan niệm thứ hai: LNTT là những làng nghề làm thủ công có truyền thống lâu năm, thường là qua nhiều thế hệ. Quan niệm này cũng chưa đầy đủ. Bởi vì khi nói đến LNTT ta không thể chú ý tới các mặt đơn lẻ, mà chú trọng đến nhiều mặt trong cả không gian và thời gian, nghĩa là quan tâm đến tính hệ thống, toàn diện của làng nghề đó, trong đó yếu tố quyết định là nghệ nhân, sản phẩm, kỹ thuật sản xuất và thủ pháp nghệ thuật. Quan niệm thứ ba: LNTT là những làng có tuyệt đại dân số làm nghề cổ truyền. Nó được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác kiểu cha truyền con nối, hoặc ít nhất cũng tồn tại hàng chục năm. Trong làng sản xuất mang tính tập trung, có nhiều nghệ nhân tài ba và một nhóm người có tay nghề giỏi làm hạt nhân để phát triển nghề. Đồng thời, sản phẩm làm ra mang tính tiêu biểu độc đáo, tinh xảo, nổi tiếng và đậm nét văn hoá dân tộc. Thu nhập từ nghề chiếm tỷ trọng 60% trở lên trong tổng thu nhập của gia đình và giá trị sản lượng của nghề chiếm trên 50% giá trị của địa phương (thôn, làng). Quan niệm về LNTT còn có nhiều cách hiểu khác nhau do cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau, để làm rõ về LNTT cần có những tiêu chí sau: - Số hộ và số lao động làm nghề truyền thống ở làng nghề đạt từ 50% trở lên so với tổng số hộ và lao động của làng. - Giá trị SX và thu nhập từ ngành nghề truyền thống ở làng đạt trên 50% tổng giá trị SX và thu nhập của làng trong một năm. - Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ mang đậm nét yếu tố văn hoá và bản sắc dân tộc Việt Nam. - Sản xuất có quy trình công nghệ nhất định, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Từ cách tiếp cận và nghiên cứu trên có thể định nghĩa: LNTT là những thôn, làng có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu chiếm phần chủ yếu trong năm. Cùng với thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền, tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất, có quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ và đã trở thành hàng hoá trên thị trường. 1.1.2. Đặc điểm của làng nghề truyền thống Việt Nam Làng nghề truyền thống Việt Nam có năm đặc điểm chính sau đây: - Hoạt động làng nghề truyền thống gắn liền với làng quê và sản xuất nông nghiệp Xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng của xã hội, các nghề thủ công truyền thống dần dần xuất hiện với tư cách là nghề phụ, việc phụ trong các gia đình nông dân và nhanh chóng phát triển ở nhiều làng quê. Thời gian người lao động ở làng quê dành cho hoạt động sản xuất nông nghiệp (do ruộng đất bình quân thấp, đặc điểm mùa vụ của cây trồng), năng suất lao động nông nghiệp thấp đã không đảm bảo thu nhập đủ sống cho người nông dân. Vì vậy, nhu cầu tạo việc làm để có thêm thu nhập ngoài sản xuất nông nghiệp trở thành cấp thiết. Đồng thời, do tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp đã tạo ra một sự dư thừa lao động trong một thời gian nhất định; trong khi đó, ngay trên thị trường địa phương có nhu cầu về sản phẩm tiểu thủ công nghiệp để phục vụ cho tiêu dùng, sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, nguồn nguyên liệu phục vụ cho các nghề thủ công lại tương đối dồi dào … tất cả những điều đó đã thúc đẩy các hoạt động tiểu thủ công nghiệp, ban đầu phục vụ nhu cầu của gia đình mang tính tự sản tự tiêu, sau phát triển thành hoạt động có quy mô nhiều gia đình cùng tham gia và như vậy LNTT hình thành và phát triển. - Có truyền thống lâu đời Đặc trưng của LNTT Việt Nam là có truyền thống lâu đời. Theo các tư liệu lịch sử, thời Phùng Nguyên khoảng năm 3000 trước công nguyên, người Việt cổ đã phát minh và sáng chế ra hầu hết các kỹ thuật chế tác một số công cụ như đồ đá, đồ gốm, … thời Đông Sơn từ năm 3000 đến năm 258 trước công nguyên, người Việt đã phát minh ra công thức luyện đồng thau, đồng thanh và đúc được trống đồng Đông Sơn, sản phẩm chứng minh cho nghề truyền thống thời bấy giờ. Sau đó đến thời kỳ Bắc thuộc, thời kỳ Pháp thuộc các LNTT dần dần định hình và cũng có nhiều biến động. Sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954), giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (1975) tới nay, LNTT nước ta chịu nhiều biến động về công nghệ, thị trường, chiến tranh, cơ chế chính sách và có nhiều bước thăng trầm nhất định, có lúc phát triển mạnh mẽ về sản lượng, quy mô, đa dạng hoá các ngành nghề, nhưng có thời kỳ bị tác động mạnh mẽ bởi các yếu tố và bị mai một. Song vào thập niên 80, đầu thập niên 90, do nhiều nguyên nhân khác nhau sản xuất tiểu thủ công nghiệp nói chung, sản xuất ở các LNTT nói riêng giảm sút nghiêm trọng, thậm chí một số LNTT bị tan rã. Tới những năm gần đây, LNTT cả nước đang được khôi phục và từng bước phát triển. Như vậy, hầu hết các làng nghề, LNTT và các làng nghề mới hoặc các làng nghề mới được phục hồi, tính truyền thống thể hiện rất rõ. - Có bản sắc văn hoá của Việt Nam Một đặc điểm khác hết sức quan trọng của LNTT là hàng hoá của làng, đặc biệt là hàng thủ công mỹ nghệ mang bản sắc truyền thống, có tính khác biệt, tính riêng, mang phong cách của mỗi nghệ nhân và nét văn hoá đặc trưng địa phương, tồn tại trong sự giao lưu với cộng đồng. Hàng chạm trổ trên từng chất liệu khác nhau (gỗ, đá, sừng, xương, …), hàng sơn (sơn quang, sơn thếp vàng bạc, sơn mài), hàng thêu, dệt (tơ lụa, chiếu, thảm), hàng mây tre đan, kim hoàn, đồ chơi, … ở mỗi LNTT đều có bản sắc riêng, từng nghệ nhân cũng có những nét riêng. Những nét riêng đó được thử thách qua thời gian, qua giao lưu trao đổi được chọn lọc, được thừa nhận để tồn tại và phát triển, cùng với sự bổ sung lẫn nhau, trở thành những kiểu mẫu hoàn thiện, đặc sắc cho những sản phẩm cùng loại được sản xuất, chế tác tiếp sau thể hiện bản sắc độc đáo Việt Nam. Chính tính khác biệt mang dấu ấn văn hoá mang lại khả năng cạnh tranh cho sản phẩm LNTT trong quá trình phát triển thị trường ra thế giới. - Lao động chủ yếu là thủ công Trước đây, khi kỹ thuật công nghệ còn thô sơ, lạc hậu thì hầu hết các công đoạn trong quy trình sản xuất đều do lao động thủ công đảm nhận. Đặc trưng cơ bản của người thợ thủ công là tự định đoạt lấy mọi công việc kể cả cung ứng nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Công việc có thể tiến hành độc lập hay cùng với một số người trong gia đình, dòng họ hoặc một số người học việc. Công việc này đã thể hiện một tay nghề nhất định, một tài khéo léo riêng biệt, độc đáo, kết hợp với đầu óc sáng tạo và nghệ thuật thông qua lao động bằng tay hoặc bằng máy móc công cụ cơ khí, nửa cơ khí. Ngày nay, nhiều LNTT đã biết sử dụng máy móc cơ khí và động lực trong sản xuất. Tuy nhiên, dấu ấn lao động thủ công vẫn được giữ gìn và chính tính chất thủ công mang lại đặc thù cho các sản phẩm LNTT. - Làng nghề truyền thống luôn gắn với tên làng (thương hiệu) và có khả năng tồn tại, phát triển lâu dài Mỗi LNTT thường gắn liền với địa danh của làng đó để đặt tên cho LNTT của mình như làng tranh Đông Hồ, làng gốm Bát Tràng, làng điêu khắc đá Ngũ Hành Sơn, làng mộc Kim Bồng, đúc đồng Phước Kiều, đan mây Chương Mỹ, tơ lụa Tân Châu, … đây chính là đặc điểm tiêu biểu để phân biệt được sản phẩm riêng có của mỗi LNTT. Sản phẩm của LNTT không chỉ đòi hỏi lao động khéo léo của người thợ mà còn đòi hỏi sự tích luỹ kinh nghiệm qua nhiều thế hệ và những kinh nghiệm này trải qua thời gian đã trở thành bí quyết nghề nghiệp và uy tín thương hiệu. LNTT đã tồn tại lâu dài từ đời này sang đời khác là nhờ vào đặc tính này của LNTT. Trong thời đại hiện nay, đây chính là thương hiệu, chỉ dẫn địa lý của LNTT. Việc bảo vệ thương hiệu, chỉ dẫn địa lý có ý nghĩa rất lớn để giữ gìn danh tiếng, thị phần cho LNTT, từ đó tạo điều kiện phát triển LNTT bền vững. 1.1.3. Vai trò của làng nghề truyền thống trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn Phát triển nghề và LNTT có vai trò chủ yếu sau: - Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đa dạng hoá kinh tế nông thôn Quá trình phát triển các LNTT đã có vai trò tích cực góp phần tăng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất có thu nhập còn rất thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Như vậy, khi ngành nghề thủ công hình thành và phát triển thì kinh tế nông thôn không chỉ có ngành nông nghiệp thuần nhất mà bên cạnh là các ngành thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ cùng tồn tại phát triển. Nếu xem xét trên góc độ của sự phân công lao động thì các LNTT đã có tác động tích cực tới sản xuất nông nghiệp. Chúng không chỉ cung cấp tư liệu sản xuất cho hoạt động sản xuất nông nghiệp mà còn có tác động chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp. Khi các ngành nghề chế biến phát triển, yêu cầu nguyên liệu từ nông nghiệp nhiều hơn, đa dạng hơn và chất lượng cao hơn. Do đó, trong nông nghiệp hình thành những bộ phận nông nghiệp chuyên canh hoá, tạo ra năng suất lao động cao và nhiều sản phẩm hàng hoá [50]. Đồng thời, người nông dân trước yêu cầu tăng lên của sản xuất sẽ tự thấy nên đầu tư vào lĩnh vực nào là có lợi nhất. Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã được thực hiện dưới tác động của sản xuất và nhu cầu thị trường. - Giải quyết việc làm ở nông thôn, tăng thu nhập cho người lao động, giúp chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ Yêu cầu phát triển toàn diện kinh tế - xã hội ở nông thôn, tạo việc làm nâng cao đời sống cho dân cư ở nông thôn là vấn đề quan trọng hiện nay ở nước ta. Do diện tích đất bị thu hẹp do quá trình đô thị hoá, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở khu vực nông thôn còn chiếm tỷ lệ cao (hiện nay chiếm khoảng 30 - 35% lao động nông thôn) nên vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trở nên hết sức cấp bách, đòi hỏi sự hỗ trợ về nhiều mặt và đồng bộ của các ngành nghề và lĩnh vực. Theo kết quả điều tra, bình quân mỗi cơ sở chuyên làm nghề ở các làng nghề tạo việc làm ổn định cho 27 lao động thường xuyên và 8-10 lao động thời vụ, mỗi hộ chuyên làm nghề tạo việc làm cho 4-6 lao động thường xuyên và 2-5 lao động thời vụ. Đặc biệt, nghề dệt may, thêu ren mỗi cơ sở có thể thu hút khoảng 30-50 lao động, cá biệt có những cơ sở hàng trăm lao động; nhiều LNTT thu hút trên 60% lao động tham gia vào các hoạt động sản xuất [32]. - Cung cấp một khối lượng hàng hóa cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế Khôi phục và phát triển LNTT ở nông thôn sẽ tạo điều kiện cho việc huy động một cách tối đa mọi nguồn lực sẵn có ở khu vực nông thôn như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực cơ sở vật chất kỹ thuật, tiềm năng vốn, các nguyên liệu sẵn có ở địa phương … phục vụ vào sản xuất. Do đó, sản xuất được đẩy mạnh và tạo ra ngày càng nhiều hàng hoá có chất lượng cao, đa dạng phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống. Mặt khác, sản xuất trong các LNTT thường tương đối năng động và gắn chặt chẽ với nhu cầu thị trường, vì vậy mà sản xuất của LNTT mang tính chuyên môn hoá và đa dạng hoá cao hơn so với sản xuất nông nghiệp. Điều này dẫn đến tỷ trọng sản phẩm hàng hoá ở các LNTT thường cao hơn rất nhiều so với các làng thuần nông và khối lượng sản xuất hàng hoá sản xuất ra cũng lớn hơn nhiều. Sản phẩm của LNTT có giá trị kinh tế và xuất khẩu, nên việc phát triển LNTT góp phần cùng sản xuất nông nghiệp làm tăng trưởng kinh tế ở nông thôn. Người có trí tuệ, có vốn thì làm chủ hoặc thợ cả, người không có vốn, trình độ thì làm những công việc giản đơn, phục vụ hoặc dịch vụ. Cho nên phát triển LNTT là thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo trong nông thôn. - Tận dụng nguồn lực, phát huy thế mạnh nội lực của địa phương Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng của sự phát triển. Nguồn lực của LNTT bao gồm những nghệ nhân, những người thợ thủ công và những chủ cơ sở sản xuất kinh doanh. Khả năng cạnh tranh, sức sống của không ít sản phẩm LNTT như: tơ lụa, dệt thổ cẩm, rèn, sản xuất gạch ngói, mộc dân dụng, đóng xuồng ghe chủ yếu dựa vào tài hoa, kinh nghiệm, tay nghề của người lao động. Mỗi LNTT thường có những thợ cả, nghệ nhân bậc thầy, họ giữ vai trò quan trọng trong việc giữ nghề, truyền nghề. Tuy nhiên, số lượng những người giỏi nghề ngày một ít đi. Trong khi đó kinh nghiệm nghề nghiệp được coi là bí mật, chỉ được truyền cho con cháu trong gia đình, dòng họ [9]. Điều này cản trở không nhỏ đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Bên cạnh đó, các nghề thủ công cho phép khai thác triệt để hơn các nguồn lực của địa phương, cụ thể là nguồn lao động, tiền vốn. LNTT có thể làm được điều này vì nó có quy mô nhỏ và vừa dễ dàng thay đổi, chuyển hướng kinh doanh phù hợp hơn. Một khi LNTT ở nông thôn phát triển mạnh, nó sẽ tạo ra một đội ngũ lao động có tay nghề cao và lớp nghệ nhân mới. Thông qua lực lượng này để tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến áp dụng vào sản xuất, làm cho sản phẩm có chất lượng cao, giá thành giảm, khả năng cạnh tranh trên thị trường lớn. Như vậy, các nghề thủ công phát triển mạnh nó càng có điều kiện để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Hơn nữa, khi cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường và hiện đại, chính là tạo điều kiện cho đội ngũ lao động thích ứng với tác phong công nghiệp, nâng cao tính tổ chức, tính kỷ luật. Đồng thời, trình độ văn hoá của người lao động ngày một nâng cao, lại là cơ sở thuận lợi cho việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào lĩnh vực sản xuất và hoạt động dịch vụ trong LNTT. Bởi vậy, phát triển LNTT trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tuỳ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi và việc truyền nghề cho những lao động trẻ tuổi. - Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống góp phần bảo tồn giá trị văn hoá dân tộc của địa phương Khai thác được tiềm năng cũng như phát huy được lợi thế so sánh, lợi thế nhờ quy mô ở từng vùng, từng địa phương góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và CNH, HĐH nông thôn nói riêng. Như vậy, LNTT không chỉ là nơi sản xuất ra hàng hoá mà còn chứa đựng những tiềm ẩn giá trị văn hoá tinh thần, truyền thống văn hoá của dân tộc được lưu truyền bao đời nay. Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc phát triển LNTT còn là cơ sở để tổ chức du lịch làng nghề thu lợi nhuận cao, có khả năng thu hút đông đảo du khách tìm hiểu, chiêm ngưỡng những nét văn hoá, những sản phẩm truyền thống của dân tộc. 1.1.4. Sự cần thiết phải phát triển làng nghề truyền thống trong nền kinh tế thị trường Trong giai đoạn nền kinh tế kế hoạch, tập trung bao cấp do cơ chế quản lý, các hộ gia đình, các làng nghề không được tự do kinh doanh, sản xuất mà phải gia nhập các HTX tiểu thủ công nghiệp. Vì thế, LNTT không được phát triển và có phần mai một, hệ thống HTX tiểu thủ công nghiệp hoạt động kém hiệu quả và bắt đầu tan rã dần vào thời kỳ bắt đầu đổi mới nền kinh tế. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, cá nhân, hộ gia đình được tự do đầu tư và sản xuất kinh doanh những sản phẩm mà pháp luật không cấm; được bình đẳng trước pháp luật. Nhiều LNTT được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, trở thành một xu hướng phát triển tất yếu là do: - Thứ nhất, môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi, cơ chế quản lý của Nhà nước thay đổi đã cho phép mọi cá nhân, hộ gia đình tự do đầu tư sản xuất kinh doanh, các thành phần kinh tế được bình đẳng trước pháp luật; Do đó, các DNTN, Công ty TNHH, CTCP được ra đời và phát triển. Hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện đã cởi trói cho cá nhân và doanh nghiệp, mở đường cho sản xuất phát triển dẫn đến LNTT ở nông thôn cũng được phát triển. Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng như đường giao thông, cầu cống, điện nước, bưu chính viễn thông, trường học, trạm y tế … tạo điều kiện thuận lợi trong giao lưu trao đổi hàng hoá, mở rộng các loại thị trường hàng hoá, lao động, tài chính … - Thứ hai, phát triển LNTT gắn với lợi ích, đời sống thiết thực của nông dân. Xuất phát từ lợi ích cá nhân, hộ gia đình vì mục tiêu lợi nhuận mà bản thân LNTT tự nó phát triển. Mặt khác, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước đã quan tâm nhiều đến sự phát triển nông nghiệp, nông thôn trong đó có LNTT nhằm mục tiêu nhanh chóng nâng cao đời sống của nông dân, giảm nhanh khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị. Những chủ trương, đường lối, chính sách đó là động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển, đa dạng hoá sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm của LNTT. Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, tiến bộ KHCN, máy móc hiện đại được đưa vào sử dụng trong sản xuất nông nghiệp, sản xuất ngành nghề góp phần giải phóng sức lao động, nâng cao trình độ sản xuất và năng suất lao động; Từ đó, tạo ra một bộ phận lao động, một bộ phận thời gian dư thừa trong nông nghiệp, đòi hỏi phải giải quyết công ăn việc làm cho bộ phận dư thừa đó. Phát triển sản xuất kinh doanh các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn sẽ giải quyết việc làm cho lượng lao động dư thừa và thời gian nhàn rỗi của nông dân, góp phần nâng cao đời sống của nông dân. Sự phát triển của LNTT chính là sự phát triển tiểu thủ công nghiệp, là cơ sở cho sự phát triển công nghiệp nông thôn, hình thành các khu đô thị góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, từng bước chuyển nền kinh tế nông nghiệp nước ta sang nền kinh tế chủ yếu là công nghiệp. - Thứ ba, gắn liền với việc giữ gìn thương hiệu sản phẩm, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bởi vì: Lịch sử phát triển kinh tế cũng như lịch sử của nền văn hoá Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử phát triển làng nghề, “Mỗi một làng nghề là một địa chỉ văn hoá nó phản ánh nét văn hoá độc đáo của từng địa phương, từng vùng”. LNTT thể hiện những nét văn hoá độc đáo qua từng sản phẩm, qua các lễ hội và phong tục tập quán ứng xử làng nghề. Bởi LNTT với những sản phẩm làm bằng tay, chất liệu, hoa văn Việt Nam là biểu tượng cho di sản văn hoá Việt Nam, những chất liệu, kiểu dáng và từng chi tiết khéo léo tinh xảo trên các sản phẩm thủ công chính là nơi chuyển tải các sắc thái văn hoá địa phương và góp phần làm nên bản sắc văn hoá dân tộc. LNTT là nơi tổ chức các lễ hội thường niên để tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn các vị tổ nghề, nhắc nhở thế hệ sau lòng tôn kính, tự hào với những giá trị nghề nghiệp mà cha ông ta để lại và khuyến khích sự truyền nghề kế tục. Chẳng hạn, tơ lụa Tân Châu, dệt thổ cẩm Châu Phong (huyện Tân Châu, tỉnh An Giang), tranh Đông Hồ; Lễ hội ở Bát Tràng thường diễn ra từ 14 đến 22 tháng 02 âm lịch hàng năm việc tế tự ở đình, rước lễ trên sông và quanh làng … Các cuộc thi văn, thơ và đặc biệt là tay nghề, thử tài là sinh hoạt văn hoá rất sôi động và thể hiện giá trị văn hoá truyền thống, là dấu ấn văn hoá dân gian. Những sản phẩm của các LNTT sản xuất ra mang tính nghệ thuật cao, mang đặc tính riêng của từng LNTT và những sản phẩm có “hàm lượng” văn hoá đậm đặc, chính những sản phẩm đó đã vượt qua giá trị văn hoá đơn thuần trở thành những sản phẩm văn hoá mang truyền thống dân tộc. 1.2. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG 1.2.1. Tác động của quản lý nhà nước tới phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống - Định hướng và khuyến khích phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống. Trong quá trình CNH, HĐH nông thôn làng nghề luôn giữ một vị trí quan trọng, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đề cập nhiều qua các kỳ đại hội. Nghị quyết Đại hội VIII của ĐCSVN đã xác định: “Phát triển các ngành nghề, LNTT và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu …” [4, tr.45]. Đại hội IX của ĐCSVN tiếp tục nhấn mạnh: “Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ nông thôn, hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường xuất khẩu …” [5, tr.172]. Để cụ thể hoá quan điểm của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và luật pháp có liên quan đến phát triển làng nghề, LNTT như Luật Đất đai, Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư … các chính sách tín dụng, chính sách đầu tư, đặc biệt là quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24 tháng 11 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn đã tạo động lực cho LNTT phát triển. Qua đó, cho thấy Đảng, Nhà nước đánh giá cao vai trò của làng nghề và coi trọng việc phát triển LNTT ở nông thôn. Nội dung cụ thể sau: + Nhà nước cho phép chuyển một phần diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp để phát triển ngành nghề nông thôn. + Lập quy hoạch, kế hoạch phát triển các vùng nguyên liệu nông, lâm, thuỷ sản để đảm bảo nguồn nguyên liệu tại chỗ, ổn định cho ngành nghề nông thôn phát triển. + Cơ sở ngành nghề nông thôn được vay vốn của các tổ chức tín dụng dưới hình thức bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội theo quy định tại Điều 26 của Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. + Cơ sở ngành nghề nông thôn được giảm 50% trở lên về chi phí thuê diện tích tham gia hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm trong nước. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và tài trợ một phần chi phí cho các cơ sở ngành nghề nông thôn và nghệ nhân được tham quan, học tập, tham gia hội chợ triển lãm, giới thiệu sản phẩm và tìm hiểu thị trường ở nước ngoài. + Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường tổ chức, chỉ đạo và dành nguồn kinh phí cần thiết trong kế hoạch hằng năm cho việc nghiên cứu, đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã, sử dụng các nguồn nguyên liệu trong nước; hướng dẫn việc áp dụng các loại công nghệ phù hợp để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành, đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao giá trị sản phẩm làng nghề; nghiên cứu và chuyển giao công nghệ xử lý chất thải, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường trong ngành nghề nông thôn. + Ưu tiên đào tạo và sử dụng lao động đối với những hộ gia đình mà Nhà nước thu hồi đất để phát triển ngành nghề, lao động là người địa phương. Khuyến khích các nghệ nhân, HTX, tổ chức, hiệp hội mở các lớp truyền nghề, dạy nghề cho lao động. Nghị định số 134 của Chính phủ ngày 09 tháng 6 năm 2004 về “Khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn” (được gọi là hoạt động Khuyến công), bao gồm những nội dung cụ thể sau: + Hướng dẫn, hỗ trợ tổ chức, cá nhân khởi sự doanh nghiệp lập dự án đầu tư phát triển công nghiệp nông thôn, tìm kiếm mặt bằng sản xuất, tuyển dụng, đào tạo lao động, huy động vốn, xin ưu đãi đầu tư và các thủ tục hành chính khác theo đúng quy định của pháp luật, phù hợp với quy hoạch phát triển công nghiệp theo vùng, lãnh thổ và địa phương. + Hướng dẫn, tư vấn cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới và ứng dụng tiến bộ KHCN, nâng cao năng lực sản xuất, quản lý chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường. + Tổ chức đào tạo nghề, truyền nghề và phát triển nghề. + Hỗ trợ cung cấp thông tin, tiếp thị, tìm kiếm thị trường, đối tác kinh doanh và tổ chức triển lãm, hội chợ và giới thiệu sản phẩm. + Tổ chức các hoạt động trao đổi kinh nghiệm, tham quan, khảo sát; hỗ trợ tạo điều kiện để các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn liên doanh, liên kết hợp tác kinh tế, tham gia các hiệp hội ngành nghề. + Xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và thực hiện dịch vụ tư vấn KHCN để hỗ trợ tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất công nghiệp nông thôn. Thông tư số 03 của Bộ Công nghiệp ngày 23 tháng 6 năm 2005 về “Hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định 134/NĐ-CP của Chính phủ về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn”. Nội dung tóm tắt của hoạt động Khuyến công được thực hiện dưới các hình thức sau: + Tổ chức các lớp, khoá đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, truyền nghề. + Tổ chức các điểm tư vấn hoặc tiến hành tư vấn trực tiếp tại cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn. + Trực tiếp hỗ trợ cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn lập dự án khởi sự doanh nghiệp, đầu tư mở rộng sản xuất sản phẩm mới, đổi mới và ứng dụng tiến bộ KHCN, nâng cao năng lực sản xuất, quản lý chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường. + Hỗ trợ việc chuyển giao công nghệ có kèm theo đào tạo cho cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn. + Xây dựng mô hình trình diễn và tổ chức trình diễn kỹ thuật để phổ biến công nghệ mới, sản xuất sản phẩm mới và nhân rộng các mô hình tốt đã có. + Tổ chức, hỗ trợ cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn tham gia hội chợ, triển lãm, tham quan, khảo sát, học tập trao đổi kinh nghiệm, liên doanh liên kết, hợp tác kinh tế và tham gia các hiệp hội ngành nghề. + Hỗ trợ cung cấp thông tin, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm đối tác kinh doanh. + Các hình thức Khuyến công khác phù hợp với các hoạt động quy định tại Điều 3 Nghị định 134/2004/NĐ-CP. Nghị định số 66 của Chính phủ ngày 07 tháng 7 năm 2006 về “Phát triển ngành nghề nông thôn”, bao gồm những nội dung sau: + Nhà nước xây dựng quy hoạch tổng thể và định hướng phát triển ngành nghề nông thôn dài hạn của cả nước và từng vùng kinh tế gắn liền với việc thực hiện CNH, HĐH nông thôn. + Chương trình bảo tồn, phát triển làng nghề gắn với phát triển du lịch. + Xây dựng cụm tiểu thủ công nghiệp, làng nghề tập trung. + Hỗ trợ xử lý môi trường, tiếp cận tín dụng. + Thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu. + Khuyến khích ứng dụng KHCN. + Hỗ trợ kinh phí đào tạo nhân lực phục vụ ngành nghề. - Cơ chế chính sách của Nhà nước Sự phát triển LNTT một cách tự phát, không có tổ chức, quản lý của Nhà nước thì gây ô nhiễm, tàn phá môi trường, gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường. Không có sự quản lý của Nhà nước, LNTT tự do cạnh tranh, chẳng những không phát triển mà còn kìm hãm sự phát triển, không nâng cao được năng lực cạnh tranh của LNTT với thị trường trong và ngoài nước. Nhà nước không tổ chức, không quản lý phát triển của LNTT sẽ không thu được thuế, không có điều kiện để phát triển cơ sở hạ tầng. Cơ chế chính sách phù hợp với thực tế sẽ thúc đẩy LNTT phát triển và ngược lại cơ chế chính sách đi ngược lại với lợi ích nhân dân sẽ kìm hãm sự phát triển của LNTT. Cơ chế là chủ trương, định hướng của Đảng, gắn liền với ý chí chủ quan của con người. Chủ trương, định hướng được xác định trên cơ sở căn cứ khoa học và thực tiễn mới tạo ra cơ chế khách quan, phù hợp quy luật và tác động tích cực đến LNTT và ngược lại. Chính sách là cụ thể hoá của cơ chế nhằm hướng dẫn hoạt động của LNTT đi đúng hướng, đúng quỹ đạo. - Xây dựng kết cấu hạ tầng Là một vấn đề hết sức quan trọng, không chỉ quan trọng đối với LNTT mà còn quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp nông thôn, đối với đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông được mở rộng, thông tin liên lạc, điện, nước, cầu cống, trường, trạm … được đầu tư xây dựng đầy đủ, hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm của LNTT. Yếu tố này có tác động mạnh mẽ tới yếu tố tâm lý sản xuất nhỏ của người sản xuất, tới việc phát triển LNTT. - Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển làng nghề, LNTT Quy hoạch, kế hoạch xây dựng các khu, cụm công nghiệp có cơ sở khoa học trong tổng thể nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững, lâu dài. Trên cơ sở quy hoạch đó mà có kế hoạch thực hiện từng giai đoạn, từng thời kỳ nhằm đảm bảo những chuẩn mực đã đặt ra. Có quy hoạch, LNTT mới đủ điều kiện để phát triển, có điều kiện mở rộng quy mô, áp dụng được công nghệ hiện đại vào sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh; các chính sách hỗ trợ vay vốn ưu đãi hoặc đền bù đất đai của Nhà nước phù hợp với thực tế và lợi ích của nhân dân thì việc xây dựng và phát triển LNTT được thực hiện nhanh chóng. Mặt khác, có quy hoạch Nhà nước mới kiểm tra, kiểm soát được sự phát triển cũng như khắc phục được tình trạng sản xuất nhỏ, tự phát của các LNTT, từ đó có chính sách điều chỉnh phù hợp. - Tổ chức gắn kết các ngành du lịch, văn hoá với các làng nghề truyền thống Là một trong những xu hướng được quan tâm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tiềm năng du lịch ở các LNTT hiện nay là rất lớn; Mỗi LNTT gắn với một vùng văn hoá, hệ thống di tích và truyền thống riêng, với cung cách sáng tạo sản phẩm riêng. Việc du khảo các LNTT là để thấy rõ bản sắc cũng như đặc trưng kinh tế, văn hoá của mỗi vùng. Vì vậy, một số LNTT đã phát triển hình thức này, coi đây là một trong những cách thức nhằm giới thiệu, quảng cáo làng nghề và sản phẩm truyền thống, qua đó tạo lập thị trường tiêu thụ sản phẩm. Dệt thổ cẩm Châu Phong, tơ lụa Tân Châu, đan đát, mộc chạm trổ mỹ nghệ, mộc dân dụng, đóng xuồng ghe, sản xuất gạch ngói, rập chuột, lưỡi câu, khô cá sặc bổi … đã thực sự thu hút khách tham quan, du lịch, tìm hiểu sản phẩm truyền thống, quy trình và phương pháp sản xuất, tìm hiểu thị trường và ký kết hợp đồng kinh tế. Có thể nói rằng, phát triển tiềm năng du lịch ở các LNTT là một xu hướng rất cần được quan tâm. - Tạo điều kiện về đầu vào, đầu ra cho sản phẩm Đây là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất của các LNTT. Trong những giai đoạn trước đây, nguồn nguyên vật liệu được coi là một trong những điều kiện tạo nên sự hình thành và phát triển của các LNTT bởi việc hỗ trợ tích cực của các phương tiện giao thông và phương tiện kỹ thuật. Tuy nhiên, vấn đề khối lượng, chất lượng, số lượng, chủng loại và khoảng cách của các nguồn nguyên vật liệu này vẫn có những ảnh hưởng nhất định tới chất lượng và giá thành sản phẩm. Cho đến nay nguồn nguyên liệu cung cấp cho một số LNTT vẫn phong phú, đặc biệt là nguyên liệu cho các nghề chế biến lương thực, thực phẩm. Nhưng đối với nhiều nghề khác thì nguồn nguyên liệu lại là một khó khăn gây nhiều cản trở tới sản xuất do nguồn nguyên vật liệu đang bị cạn dần đi không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. 1.2.2. Phát huy các nhân tố của bản thân các làng nghề - Nhân tố truyền thống của từng hộ gia đình LNTT thường gắn với những kinh nghiệm truyền thống, cha truyền con nối, do đó đã xuất hiện nhiều nghệ nhân tài hoa. Tính truyền thống của làng nghề tạo nên uy tín lan truyền qua bao thế hệ trong phạm vi rộng lớn, do đó nó tự phát hình thành thị trường cung ứng vật tư, lao động, tiền vốn và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây là yếu tố tác động cản trở việc di chuyển LNTT đến một địa điểm mới, một khu mới tách biệt dân cư để xây dựng mô hình cụm công nghiệp làng nghề. Ngày nay, một số địa phương đã hình thành nhiều làng nghề mới, nhưng làng nghề này nằm xung quanh LNTT đóng vai trò là vệ tinh, là nơi sản xuất gia công cho LNTT, vấn đề tiêu thụ của làng nghề này rất khó khăn. Sản xuất LNTT có nguồn gốc từ nghề tiểu thủ công nghiệp được tách ra từ sản xuất nông nghiệp. Lúc đầu người nông dân chỉ tận dụng thời gian lao động nhàn rỗi trong lao động sản xuất nông nghiệp để sản xuất sản phẩm phục vụ cuộc sống và lao động sản xuất của họ. Vì thế, sản xuất LNTT mang tính chất sản xuất nhỏ, manh mún tự phát với kỹ thuật thô sơ, lạc hậu. Tính chất này đã ăn sâu trong tâm trí người nông dân và trở thành yếu tố tâm lý. Yếu tố này tác động cản trở đến việc xây dựng LNTT với quy mô, máy móc hiện đại và tập trung theo hướng phát triển bền vững. Yếu tố tâm lý sản xuất nhỏ biểu hiện ở chỗ họ không muốn và không có vốn đầu tư xây dựng và sản xuất, không dám vay vốn để mở rộng quy mô; không muốn rời bỏ lối sống tự do cá nhân, tự phát để vào cụm công nghiệp LNTT, chịu sự kiểm soát của chính quyền, chịu đóng thuế Nhà nước, … Cơ sở vật chất của các LNTT đều do cá nhân, hộ gia đình đầu tư xây dựng một cách tự phát tuỳ theo khả năng sản xuất, lao động và tiền vốn của từng hộ gia đình. Từ việc mua máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, cung ứng nguyên vật liệu đến việc tổ chức tiêu thụ cũng đều do người nông dân tự phát xây dựng, không theo quy hoạch, không tính đến tác hại của những người xung quanh, chỉ miễn sao có lợi cho gia đình của họ. Như vậy, tính cộng đồng trong các LNTT thường không có, nếu có là tính gia đình, dòng họ. Khi xây dựng cụm công nghiệp LNTT theo hướng phát triển bền vững tức là có quy hoạch, có kế hoạch của chính quyền, của pháp luật; người nông dân phải rời bỏ, tháo dỡ cơ sở vật chất cũ của mình để xây dựng mới theo quy hoạch của Nhà nước. Điều đó gặp trở ngại lớn ở chỗ người dân phải bỏ cũ, xây mới sẽ không có đủ vốn để làm. Mặt khác, trước đây gia đình tận dụng đất đai, lao động của mình và không phải đóng thuế Nhà nước, nay phải thuê đất, thuê lao động và phải đóng thuế sản xuất kinh doanh. Đây là một một yếu tố tác động cản trở việc xây dựng và phát triển LNTT theo hướng phát triển bền vững. - Bảo vệ môi trường để phát triển bền vững Phát triển LNTT gắn với mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, ổn định lâu dài. Trong nền kinh tế thị trường, bản thân LNTT tự nó phát triển nhờ cơ chế chính sách của Nhà nước và tác động của cơ chế thị trường. Mặt khác, vì mục tiêu lợi ích của mình, các cá nhân, hộ gia đình đã đầu tư vốn, máy móc, thiết bị, lao động … để mở rộng quy mô sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã, đa dạng hoá loại hình sản xuất nhằm tạo ra nhiều sản phẩm, giành thắng lợi trong cạnh tranh. Trong giai đoạn thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tạo cho LNTT có những điều kiện phát triển mạnh như cơ sở hạ tầng, KHCN, thị trường cung ứng vật tư và thị trường tiêu thụ sản phẩm được mở rộng. Đặc biệt, hiện nay Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) đã tạo điều kiện hơn nữa cho sự phát triển của LNTT, nhất là điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và ứng dụng công nghệ vào sản xuất. Trong điều kiện đó LNTT phải có năng lực cạnh tranh mới có thể phát triển được nhưng cạnh tranh phải gắn với vấn đề môi trường và xã hội. Sở dĩ như vậy, vì quá trình tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá đang có xu hướng xoá dần đi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan thông thường và thay vào đó là hàng rào quy định về môi trường và sức khoẻ. Các ngân hàng nước ngoài sẽ đầu tư vào Việt Nam 100% vốn và có xu hướng ràng buộc các khoản vay với những chứng chỉ về môi trường. Như vậy, để duy trì tăng trưởng cao và ổn định của LNTT không chỉ đơn thuần là kinh tế mà còn những vấn đề môi trường và xã hội. Phát triển LNTT gắn với mục tiêu thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc. Việc tăng trưởng kinh tế của các LNTT đóng góp to lớn vào gia tăng thu nhập bình quân đầu người. Thu nhập tăng làm tăng nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và đời sống, dịch vụ phát triển. Việc sử dụng máy móc thiết bị vào sản xuất của các LNTT góp phần giải quyết việc làm cho bộ phận lớn lao động nông thôn, thực hiện được việc xoá đói giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế LNTT đã góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn từng bước hình thành các khu đô thị LNTT. Điều đó dẫn đến vấn đề quan hệ kinh tế - xã hội trong LNTT có những thay đổi theo cơ chế thị trường, theo sự phát triển LNTT như quan hệ giữa chủ và người làm thuê, giữa người mua, kẻ bán … điều đó tác động ảnh hưởng tới sự thay đổi văn hoá truyền thống, phong tục tập quán của LNTT. Cho nên để duy trì sự phát triển của LNTT yêu cầu sự phát triển phải gắn liền với sự thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và duy trì, bảo tồn và phát triển văn hoá truyền thống, phong tục tập quán của LNTT. Phát triển LNTT gắn với mục tiêu sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả và bảo vệ tài nguyên môi trường. Sản xuất trong LNTT luôn là quá trình gồm hai mặt. Một mặt, đó là quá trình khai thác, chế biến các nguồn tài nguyên thiên nhiên để sản xuất ra sản phẩm. Mặt khác, đó là quá trình phát thải, sự phát thải nảy sinh từ bản thân quá trình sản xuất của LNTT và sự tiêu dùng các sản phẩm công nghiệp của người dân. Việc phát triển sản xuất LNTT đòi hỏi phải cung ứng nhiều nguyên vật liệu, nhiều sản phẩm công nghiệp. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp của LNTT phần lớn sử dụng lao động thủ công và công nghệ thô sơ, kỹ thuật lạc hậu, mang tính sản xuất nhỏ, do đó gây tốn kém, lãng phí nhiều nguyên vật liệu. Điều đó dẫn đến phải khai thác tài nguyên thiên nhiên nhiều hơn, gây cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, việc tái tạo tài nguyên thiên nhiên không kịp với khai thác, đã gây tác động to lớn đến môi trường tự nhiên và môi trường sống của con người. Mặt khác, chính lao động thủ công với công nghệ thô sơ, lạc hậu đã tạo ra lượng phát thải rất lớn, nhưng thiếu các biện pháp thích hợp để xử lý chất thải là nguyên nhân trực tiếp gây ra ô nhiễm môi trường sống. Sự phát triển của LNTT dẫn tới sự đô thị hoá, thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, nhu cầu tiêu dùng của đời sống dân cư ở nông thôn ngày càng gia tăng, song cùng vấn đề này là ý thức, nếp sống của người dân trong LNTT bị thay đổi theo nền kinh tế thị trường, dẫn đến phát thải, gây ô nhiễm môi trường sống ngày càng gia tăng. Vì vậy, để phát triển bền vững LNTT cần phải gắn với việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên tiết kiệm có hiệu quả, phải gắn với việc xử lý chất thải và quản lý môi trường chặt chẽ. Muốn vậy, đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương phải có quy hoạch, khai thác tài nguyên, phải quy hoạch xây dựng LNTT thành những cụm công nghiệp LNTT, gắn với việc sử dụng máy móc hiện đại, xử lý chất thải hợp lý nhằm bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường sống. Quản lý và kiểm soát môi trường LNTT phải do chính các hộ gia đình, các doanh nghiệp thực hiện, không ai có thể làm thay và làm tốt hơn họ. Vì vậy, mọi người dân phải nhận thức được và có năng lực tự điều chỉnh và kiểm soát môi trường. Điều đó, đòi hỏi các cấp chính quyền địa phương phải tăng cường giáo dục cho người dân nông thôn nhận thức được ý thức trách nhiệm trước cộng đồng; Đồng thời, phải tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát môi trường. 1.3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG 1.3.1. Phát triển các làng nghề truyền thống ở một số nước - Nhật Bản Ở Nhật Bản, tuy CNH diễn ra nhanh và phát triển mạnh, song làng nghề vẫn tồn tại, các nghề thủ công vẫn được mở mang. Họ không những chỉ duy trì và phát triển các ngành nghề cổ truyền mà còn mở ra một số nghề mới. Đồng thời, Nhật Bản cũng rất chú trọng đến việc hình thành các xí nghiệp vừa và nhỏ ở thị trấn, thị tứ ở nông thôn để làm vệ tinh cho những xí nghiệp lớn ở đô thị. Ngành nghề TTCN của Nhật Bản bao gồm: chế biến lương thực, thực phẩm, nghề đan lát, nghề dệt chiếu, nghề thủ công mỹ nghệ, nghề dệt lụa, nghề rèn nông cụ … Đầu thế kỷ thứ XX, Nhật Bản hiện còn 867 nghề thủ công cổ truyền hoạt động. Năm 1992 đã có 2.640 lượt người của 62 nước trong đó có Trung Quốc, Malaysia, Anh, Pháp tới thăm LNTT của Nhật. Trong các ngành nghề nổi lên có nghề rèn là nghề thủ công cổ truyền phát triển ở nhiều làng nghề và thị trấn của Nhật. Thị trấn Takeo tỉnh GiFu là một trong những địa phương có nhiều nghề cổ truyền từ 700 đến 800 năm, đến nay vẫn tiếp tục hoạt động, hiện nay cả thị trấn có khoảng 200 hộ gia đình với 1.000 lao động là thợ thủ công chuyên nghiệp, hằng năm sản xuất ra 9 - 10 triệu nông cụ các loại, với chất lượng cao, mẫu mã đẹp. Điều đáng chú ý là công nghệ chế tạo nông cụ của Nhật từ thủ công dần dần được HĐH với các máy gia công tiến bộ và kỹ thuật tiên tiến. Thị trấn Takeo có trung tâm nghiên cứu mẫu mã và chất lượng công cụ với đầy đủ thiết bị đo lường hiện đại theo tiêu chuẩn quốc gia. Mặc dù, hiện nay Nhật Bản đã trang bị đầy đủ máy móc nông nghiệp và đạt trình độ cơ giới hoá các khâu canh tác dưới 95%, nhưng nghề sản xuất nông cụ cũng không giảm sút nhiều. Nông cụ của Nhật Bản với chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, không chỉ tiêu thụ ở trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Vào những năm 1970 ở tỉnh Oita (miền Tây Nam Nhật Bản) đã có phong trào “Mỗi thôn làng một sản phẩm” nhằm phát triển ngành nghề cổ truyền trong nông thôn, do đích thân ông Tỉnh trưởng phát động và tổ chức. Kết quả cho thấy, ngay những năm đầu tiên họ đã sản xuất được 143 loại sản phẩm, thu được 1,2 tỷ USD trong đó 378 triệu USD thu được từ bán rượu đặc sản Sakê của địa phương, 114 triệu USD thu từ bán các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Phong trào phát triển ngành nghề cổ truyền “Mỗi thôn làng một sản phẩm” đã nhanh chóng lan rộng ra khắp nước Nhật. Đi đôi với việc phát triển ngành nghề cổ truyền Nhật Bản còn nghiên cứu các chủ trương chính sách, ban hành các luật lệ, thành lập các viện nghiên cứu, viện kỹ thuật và thành lập nhiều văn phòng cố vấn khác. Nhờ đó, các hoạt động phi nông nghiệp được phát triển mạnh mẽ; thu nhập ngoài nông nghiệp chiếm 85% tổng thu nhập của hộ. Năm 1993 nghề thủ công và làng nghề đã đạt giá trị sản lượng tới 8,1 tỷ USD. - Hàn Quốc Sau chiến tranh kết thúc Chính phủ Hàn Quốc đã chú trọng đến công nghiệp nông thôn, trong đó có ngành nghề thủ công và LNTT. Đây là một chiến lược quan trọng để phát triển nông thôn. Các mặt hàng được tập trung sản xuất là: hàng thủ công mỹ nghệ, hàng TTCN phục vụ du lịch và xuất khẩu, đồng thời tập trung chế biến lương thực, thực phẩm theo công nghệ cổ truyền. Chương trình phát triển ngành nghề ngoài nông nghiệp ở nông thôn tạo thêm việc làm cho nông dân bắt đầu từ 1967; Chương trình này tập trung vào các nghề sử dụng lao động thủ công, công nghệ đơn giản và nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương, sản xuất quy mô nhỏ, khoảng 10 hộ gia đình liên kết với nhau thành tổ hợp tác được ngân hàng cung cấp vốn tín dụng với lãi suất thấp để mua nguyên liệu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Phát triển ngành nghề thủ công truyền thống cũng được triển khai rộng khắp từ những năm 1970 đến 1980, đã xuất hiện 908 xưởng thủ công dân tộc chiếm 2,9% các xí nghiệp vừa và nhỏ, thu hút 23.000 lao động, hoạt động theo hình thức sản xuất tại gia là chính. Đây là loại hình nông thôn với 79,4% dựa vào các hộ gia đình riêng biệt, sử dụng nguyên vật liệu địa phương và bí quyết truyền thống. Để phát triển công nghiệp thủ công truyền thống Chính phủ đã thành lập 95 hãng thương mại về những mặt hàng này. Tương lai của các nghề thủ công truyền thống còn đầy hứa hẹn do nhu cầu về tiêu thụ sản phẩm dân gian bắt đầu tăng. Qua đây có thể đánh giá được hiệu quả lao động của chương trình làng nghề thủ công truyền thống là rất thiết thực [48]. - Trung Quốc Nghề thủ công ở Trung Quốc có từ lâu đời và nổi tiếng như đồ gốm, dệt vải, dệt tơ lụa, luyện kim, nghề làm giấy … Sang đầu thế kỷ XX Trung Quốc có khoảng 10 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp, không chuyên nghiệp làm việc trong các hộ gia đình, trong phường nghề và làng nghề. Đến năm 1954 số người làm nghề TTCN được tổ chức vào HTX. Sau này phát triển thành xí nghiệp Hương Trấn và cho đến nay vẫn còn tồn tại ở một số địa phương. Xí nghiệp Hương Trấn là tên gọi chung của các xí nghiệp công, thương nghiệp, xây dựng … hoạt động ở khu vực nông thôn. Nó bắt đầu xuất hiện vào năm 1978 khi Trung Quốc thực hiện chính sách mở cửa. Xí nghiệp Hương Trấn phát triển mạnh mẽ đã góp phần đáng kể vào việc thay đổi bộ mặt nông thôn. Những năm 80 các xí nghiệp cá thể và làng nghề phát triển nhanh, đóng góp tích cực trong việc tạo ra 68% giá trị sản lượng công nghiệp nông thôn và trong số 32% sản lượng công nghiệp nông thôn do các xí nghiệp cá thể tạo ra có phần đóng góp đáng kể từ làng nghề. Trong các hàng thủ công xuất khẩu, hàng thảm có vị trí đáng kể (chiếm 75% số lượng thảm ở thị trường Nhật) [21]. - Ấn Độ Ở nông thôn Ấn Độ trong thời kỳ CNH, nhiều cơ sở công nghiệp mới, sản xuất công cụ cải tiến, công nghiệp cơ khí chế tạo và công nghiệp chế biến đã được phát triển. Đồng thời, Chính phủ còn khuyến khích ngành công nghiệp cổ truyền và TTCN cùng phát triển. Các mạng lưới cơ sở cơ khí chế tạo công cụ cổ truyền rải rác ở nông thôn với trên 10.000 hộ gia đình quy mô vừa và nhỏ, được trang bị thêm những công cụ sản xuất mới, nữa cơ khí và cơ khí như lò bể cải tiến, máy gia công kim loại … nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Những cơ sở này đã sản xuất hàng triệu công cụ nông nghiệp thủ công và nửa cơ khí, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng về công cụ sản xuất của nông dân. Ấn Độ là nước có nền văn minh, văn hoá dân tộc lâu đời được thể hiện rất rõ trên các sản phẩm thủ công truyền thống, đồng thời cũng là nơi có nhiều ngành nghề và LNTT. Bên cạnh nghề nông, hàng triệu người dân sinh sống bằng các nghề TTCN với doanh thu hàng năm gần 1.000 tỷ Rupi. Có những ngành nghề làm ra hàng tiêu dùng thủ công mỹ nghệ cao cấp như kim hoàn vàng, bạc, ngọc ngà, đồ mỹ nghệ … trong số 0,03% sản lượng kim cương của thế giới mà Ấn Độ khai thác được do 75 vạn thợ chế tác kim cương lớn nhất trên thế giới. Trên thực tế, kim cương của Ấn Độ không nhiều nhưng họ đã nhập kim cương thô của Nga về chế tác để cạnh tranh với Ixraen và Hà Lan. Viện thủ công mỹ nghệ của Ấn Độ là cơ quan nghiên cứu kinh tế kỹ thuật phục vụ yêu cầu phát triển ngành nghề cổ truyền. Trong thời gian qua, ngoài việc nghiên cứu kỹ thuật, công nghệ mẫu mã, mặt hàng còn tổ chức 165 cuộc triển lãm, hàng thủ công mỹ nghệ ở trong và nước ngoài để giới thiệu các mặt hàng đặc sắc của Ấn Độ, nghiên cứu và tìm thị trường xuất khẩu ra nước ngoài [8]. - Thái Lan Ở Thái Lan có nhiều ngành nghề TTCN và làng nghề. Các ngành nghề thủ công truyền thống như chế tác vàng, bạc, đá quý, đồ trang sức được duy trì và phát triển tạo ra nhiều hàng hoá xuất khẩu đứng vào hàng thứ hai trên thế giới. Do kết hợp tay nghề của người nghệ nhân tài hoa với công nghệ kỹ thuật tiên tiến, do đó sản phẩm làm ra đạt chất lượng cao, cạnh tranh được trên thị trường. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mỹ nghệ vàng bạc, đá quý năm 1990 đạt gần 2 tỷ USD. Nghề gốm sứ cổ truyền của Thái Lan trước đây chỉ SX để đáp ứng tiêu dùng trong nước. Nhưng gần đây ngành này đã phát triển theo hướng CNH, HĐH và trở thành mặt hàng xuất khẩu thu ngoại tệ đứng thứ hai sau gạo. Năm 1989 nghề gốm Thái Lan đã xuất khẩu được 300 triệu bath. Hiện nay, sản phẩm gốm được thị trường Mỹ và Châu Âu ưa chuộng. Vùng gốm truyền thống ở Chiêng Mai đang được xây dựng thành trung tâm gốm quốc gia với 3 mặt hàng: gốm truyền thống, gốm công nghiệp, gốm mới được SX trong 21 xí nghiệp chính và 72 xí nghiệp lân cận. Cho đến nay 95% hàng xuất khẩu của Thái Lan là đồ dùng trang trí nội thất và quà lưu niệm. Để nâng cao chất lương sản phẩm, Thái Lan đã tích cực xúc tiến chương trình nâng cao tay nghề cho công nhân của 93 xí nghiệp gốm Chiêng Mai và Lam Pang. Bên cạnh đó, nghề kim hoàn chế tác ngọc, đồ gỗ vẫn tiếp tục phát triển, tạo việc làm, tăng thu nhập cho dân cư ở nông thôn [7]. - Indonesia Chương trình phát triển ngành nghề TTCN được Chính phủ Indonesia hết sức quan tâm bằng việc đề ra kế hoạch 5 năm. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất: xây dựng các xưởng và trung tâm để bán sản phẩm TTCN. Kế hoạch 5 năm lần thứ hai: thực hiện các dự án hướng dẫn và phát triển công nghiệp nhỏ nhằm giáo dục đào tạo, mở mang các hoạt động SX TTCN của những doanh nghiệp nhỏ. Kế hoạch 5 năm lần thứ ba: Chính phủ đứng ra tổ chức một số cơ quan để quản lý, chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ cung cấp vật tư thiết bị, tiêu thụ sản phẩm. Chính phủ Indonesia đã đứng ra tổ chức một số trung tâm trợ giúp công nghiệp nhỏ, đề ra các chính sách khuyến khích hỗ trợ công nghiệp nhỏ phát triển; trong đó chú ý đến chính sách khuyến khích về thuế và ưu tiên công nghiệp nhỏ chế biến nông sản xuất khẩu. “Hội đồng thủ công nghiệp quốc gia” được Nhà nước tổ chức và chỉ đạo nhằm thúc đẩy ngành nghề TTCN phát triển như: tổ chức thiết kế mẫu mã, hội chợ triển lãm ở nông thôn … Sự nỗ lực của Chính phủ trong việc phát triển ngành nghề TTCN ở nông thôn đã đem lại hiệu quả thiết thực. Ở đảo Java, số liệu điều tra 10 làng nghề thủ công cho thấy 44% lao động nông thôn có tham gia ít hoặc nhiều vào hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp (19% làm ở các cơ sở SX TTCN và 16% làm ở các dịch vụ nông thôn). Thu nhập của nông dân ở đây từ nguồn ngoài nông nghiệp trong những năm gần đây tăng từ 12% lên 23% tổng thu nhập [13]. - Philippin Ngay từ đầu Chính phủ Philippin đã quan tâm đến CNH nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở phát triển ngành nghề TTCN và công nghiệp nông thôn. Từ 1978 - 1982 Chính phủ đã đề ra chương trình và dự án phát triển công nghiệp nông thôn, mà trước hết tập trung vào ngành nghề TTCN SX hàng tiêu dùng đơn giản, chế biến thực phẩm và chế biến công cụ cho nông nghiệp. Chương trình của Chính phủ chủ yếu tập trung giúp TTCN về tài chính, công nghệ và tiếp thị. Cụ thể là miễn thuế cho các xí nghiệp có quy mô dưới 20 lao động và ưu tiên vốn tín dụng với lãi suất thấp cho xí nghiệp nhỏ để hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật công nghệ và thông tin thị trường giá cả. Các ngành nghề chế biến nông sản thực phẩm được chú ý hơn cả để tập trung vào xuất khẩu. Chẳng hạn, nghề chế biến NATA - nước dừa tinh khiết là món ăn lâu đời của người dân. Cả nước có khoảng 300 hộ gia đình chế biến NATA cung cấp cho công ty thực phẩm Inter food để xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm cổ truyền này năm 1993 là 14 triệu USD trong đó 85% xuất khẩu sang Nhật Bản [13]. 1.3.2. Những kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền thống của các nước trên Từ thực tiễn phát triển LNTT của các nước trên, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau: - Một là, phát triển làng nghề truyền thống gắn với quá trình công nghiệp hoá nông thôn Trong quá trình CNH, đô thị hoá, thương mại hoá ở các nước đã có lúc làm cho nét độc đáo, tinh xảo của làng nghề bị phai nhạt lu mờ. Nhưng với cách nhìn nhận mới, các nước đã chú trọng và coi làng nghề là bộ phận của quá trình CNH nông thôn. Do vậy, khi tiến hành CNH họ thường kết hợp thủ công với kỹ thuật cơ khí hiện đại tuỳ điều kiện cơ sở vật chất của mỗi nước mà áp dụng công nghệ cổ truyền hay công nghệ hiện đại. Đồng thời, tổ chức các cơ sở SX gần vùng nguyên liệu và đặt tại làng xã có nghề truyền thống để tiện cho việc phát triển SX, giao lưu hàng hoá. - Hai là, chú trọng đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực ở nông thôn Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực ở nông thôn có vai trò quan trọng, đối với sự nghiệp phát triển của LNTT. Vì thế, các nước đều chú ý đầu tư giáo dục và đào tạo tay nghề cho người lao động để họ tiếp thu được kỹ thuật tiên tiến. Bởi vì, việc hình thành một đội ngũ lao động có tay nghề cao là rất quan trọng. Nếu thiếu yếu tố này thì việc tiếp thu KHCN sẽ không thành công như mong đợi. Nhìn chung, các nước đều triệt để sử dụng những phương pháp huấn luyện tay nghề cho người lao động như: bồi dưỡng tại chỗ, bồi dưỡng tập trung, ngắn hạn … theo phương châm thiếu gì huấn luyện nấy. Xúc tiến thành lập các trung tâm, các viện nghiên cứu để đào tạo một cách có hệ thống mà các cơ sở sản xuất hoặc địa phương có nhu cầu. Để bồi dưỡng và đào tạo tay nghề cho người lao động các nước cũng rất chú ý đến kinh nghiệm thực tiễn, tức là mời những nhà kinh doanh, những nhà quản lý có kinh nghiệm để báo cáo một số chuyên đề tập huấn, hoặc mang sản phẩm đi triển lãm, trao đổi … tiến hành hoạt động công nghiệp cộng đồng (gia đình, làng xóm, phường hội) để phổ biến kỹ thuật. - Ba là, đề cao vai trò của Nhà nước trong việc giúp đỡ, hỗ trợ về tài chính cho làng nghề truyền thống phát triển sản xuất kinh doanh Trong quá trình SX kinh doanh của LNTT, từ vài thập kỷ gần đây các Nhà nước rất quan tâm và có nhiều chủ trương chính sách đề cập đến vấn đề phát triển ngành nghề thủ công truyền thống. Trong đó, chủ trương hỗ trợ về tài chính, tín dụng đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của LNTT. Sự hỗ trợ tài chính, vốn của Nhà nước được thông qua các dự án cấp vốn, bù lãi suất cho ngân hàng hoặc bù giá đầu ra cho người SX. Thông qua sự hỗ trợ giúp đỡ này mà các làng nghề lựa chọn kỹ thuật gắn với lựa chọn hướng SX. Nhà nước tạo điều kiện cho ngành nghề thủ công truyền thống đổi mới công nghệ mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. - Bốn là, Nhà nước có chính sách thuế và thị trường phù hợp để thúc đẩy làng nghề truyền thống phát triển Đi đôi với việc hỗ trợ tài chính, tín dụng là chính sách thuế và thị trường của Nhà nước để khuyến khích LNTT, ngành nghề truyền thống phát triển. Bởi vì chính sách thuế được coi như phương tiện để kích thích sự phát triển của LNTT và đóng vai trò thúc đẩy sự tiến bộ của XH; còn thị trường là điều kiện tốt nhất cho sự tồn tại của mỗi xí nghiệp trong mỗi làng nghề. Thị trường không chỉ là nơi mua bán vật tư, nguyên liệu và sản phẩm của LNTT mà còn có cả những ý kiến cố vấn kỹ thuật, các dịch vụ với nhiều thông tin quý giá. - Năm là, khuyến khích sự kết hợp giữa đại công nghiệp với tiểu thủ công nghiệp và trung tâm công nghiệp với làng nghề truyền thống Sự kết hợp giữa đại công nghiệp với TTCN và trung tâm công nghiệp với LNTT là thể hiện sự phân công hợp tác lao động thông qua sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau, nhất là các vấn đề lựa chọn kỹ thuật, lựa chọn hướng sản xuất. Để tạo dựng cho mối quan hệ này, ở hầu hết các nước đều thiết lập chương trình kết hợp giữa các trung tâm công nghiệp với LNTT. Ở Nhật Bản LNTT đóng vai trò làm gia công, vệ tinh của các công ty lớn, khu công nghiệp tập trung và cung cấp những sản phẩm trung gian cho chúng, chương trình này được thực hiện ở Inđônêxia là: các trung tâm công nghiệp có trách nhiệm giúp đỡ LNTT nâng cao năng lực quản lý quy trình công nghệ, marketing, cung cấp tài chính, mua nguyên liệu thô và đứng ra đảm bảo cho LNTT vay vốn ngân hàng còn LNTT có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ, đồng thời làm nhiệm vụ gia công cho trung tâm công nghiệp lớn. Ở Thái Lan các trung tâm công nghiệp đứng ra đấu thầu công việc. Sau đó một phần công việc nhận thầu được đưa về cho LNTT làm gia công số chi tiết của sản phẩm. - Sáu là, mô hình tổ chức sản xuất ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trong các làng nghề với nhiều hình thức khác nhau trong đó phổ biến là hình thức sản xuất hộ gia đình. Hầu hết ở các nước hình thức tổ chức sản xuất trong làng nghề nông thôn rất đa dạng: Hộ gia đình, doanh nghiệp, xí nghiệp vừa và nhỏ … nhưng trong đó hộ gia đình là chủ yếu đóng vai trò làm gia công, vệ tinh cho các công ty lớn, các khu vực công nghiệp tập trung. Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG 2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÀNH LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG 2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội * Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên An Giang có diện tích tự nhiên 3.536 km2, có 11 tuyến địa giới hành chính bao gồm thành phố Long Xuyên, thị xã và 9 huyện, trong đó có 2 huyện miền núi với tổng số 154 phường, xã, thị trấn. Năm 2006, dân số toàn tỉnh là 2.210.271 người, mật độ dân số trung bình là 625 người/km2. Gồm các dân tộc Kinh, Hoa, Chăm, Khmer; Trong đó người kinh chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là dân tộc Khmer chiếm 3,8% dân số tỉnh sống chủ yếu ở vùng núi 2 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn; dân tộc Chăm có tỷ lệ thấp chỉ vào khoảng 0,6% dân số tỉnh sống chủ yếu ở 2 huyện Tân Châu, Phú Tân và một số ít ở huyện Châu Thành. Phía Tây Bắc giáp Campuchia dài 104 km (theo Hiệp ước hoạch định biên giới Việt Nam - Campuchia ký ngày 27/12/1985), Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang 69,789 km, Nam giáp tỉnh Cần Thơ 44,734 km, Đông giáp tỉnh Đồng Tháp 107,628 km. An Giang là tỉnh đầu nguồn, tiếp nhận cùng lúc 2 nhánh sông Tiền và sông Hậu. Hàng năm đón nhận nước lũ về khoảng 4 tháng và hình thành mùa nước nổi, dòng phù sa bồi đắp tự nhiên giúp cho sự phát triển ngành trồng trọt cây hàng năm, nhưng cũng để lại nhiều hậu quả do lũ lụt gây ra. An Giang vừa có đồng bằng phù sa, vừa có đồi núi; trong đó, có núi Sam - chùa Bà Chúa Xứ, vùng thất sơn với Thiên Cấm sơn (ngọn cao nhất 710 mét), Thuỷ Đài sơn, Anh Vũ sơn … An Giang nằm ở cửa ngõ Tây Nam trong lưu vực sông Mêkông, trên tuyến đường bộ và đường thuỷ quốc tế quan trọng nối Campuchia, Lào, Thái Lan với phần Nam bộ Việt Nam và Biển Đông. Tuyến đường này sẽ ngày càng trở nên cần thiết cho phát triển kinh tế của các nước và An Giang sẽ là khâu nối quan trọng trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế Việt Nam với các tỉnh trong và ngoài nước nhất là khu vực Đông Nam Á. Theo quy hoạch chung phát triển của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long sẽ có khoảng 21,7 triệu dân vào năm 2010, lượng vận chuyển qua các cửa khẩu thuộc An Giang sẽ tăng gấp đôi. Với vị trí địa lý trên, An Giang có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế, dịch vụ, du lịch, ngân hàng, thương mại và là một tiền đề cho việc xây dựng kế hoạch phát triển công nghiệp - TTCN của tỉnh trong tương lai. An Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27 độ C. Lượng mưa trung bình năm khoảng 1.130 mm, có năm lên tới 1700 - 1800 mm. Độ ẩm trung bình 80% - 85% và có sự dao động theo chế độ mùa mưa. Khí hậu nói chung cơ bản là thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. + Phần lớn đất đai khá màu mỡ, bao gồm 37 loại đất khác nhau, hình thành 6 nhóm đất chính, trong đó chủ yếu là nhóm đất phù sa trên 151.600 ha (44,5%) và đất phù sa có phèn chiếm 93.800 ha (27,5%), đất bằng phẳng phù hợp với sinh trưởng của nhiều loại cây trồng. Cơ cấu sử dụng đất và mặt nước của tỉnh qua các năm được trình bày tại Bảng 2.1. Bảng 2.1: Hiện trạng đất đai của tỉnh An Giang Đơn vị tính: ha Năm 1995 2002 2003 2004 2005 2006 Loại đất Tổng diện tích tự nhiên 340.623 340.623 340.623 340.623 353.551 353.676 1.Đất nông nghiệp 246.687 260.446 261.575 261.575 281.970 281.416 2. Diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 130 1.461 1.461 1.461 2.334 2360 3. Đất lâm nghiệp 6.390 15.969 12.471 12.471 14.114 14.621 4. Đất chuyên dùng 20.794 26.546 28.959 28.959 37.674 37.844 5. Đất ở 19.530 17.815 15.026 15.026 15.422 15.443 6. Đất chưa sử dụng 47.092 18.386 21.131 21.131 2.036 1.992 Nguồn: [2]. Tuy nhiên, diện tích có khả năng canh tác mở thêm không nhiều (10%) nên tỉnh sẽ tiếp tục đẩy mạnh thâm canh và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng diện tích màu, rau, đậu … trong đó ngô, sắn được chọn ưu tiên phát triển nhanh làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. + Tài nguyên thuỷ sản, An Giang có sông Tiền và sông Hậu chảy qua lãnh thổ của tỉnh tạo ra nguồn lợi kinh tế thuỷ sản không nhỏ. Nuôi trồng thuỷ sản là một nghề truyền thống lâu đời của nhân dân địa phương và một thế mạnh kinh tế của tỉnh. Tỉnh có kế hoạch đầu tư phát triển nguồn tài nguyên thuỷ sản để cung cấp ổn định nguyên liệu cho các nhà máy chế biến. + Tài nguyên khoáng sản và các nguồn nguyên liệu hiện có rất đa dạng và phong phú cung cấp cho các ngành công nghiệp - TTCN, truyền thống: Nguyên liệu cung cấp cho nghề sản xuất thủ công mỹ nghệ: dâu tằm cung cấp cho ngành se tơ tằm, dệt thổ cẩm xuất khẩu (Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, Phú Tân); tre, trúc cung cấp cho nghề làm tre mỹ nghệ (Chợ Mới, Long Xuyên); cây lục bình cung cấp cho nghề sản xuất thảm, đá điêu khắc mỹ nghệ (Tri Tôn, Tịnh Biên, Thoại Sơn). Nguyên liệu cung cấp cho nghề sản xuất mây, tre, đan, gốm sứ, kim khí tập trung ở Long Xuyên, Chợ Mới, Tri Tôn. + An Giang có nhiều danh lam, thắng cảnh nổi tiếng như Miếu Bà Chúa xứ, đền chùa ở Núi Sam, thắng cảnh Núi Cấm, nhiều di tích lịch sử … cùng với hệ thống kênh rạch chằng chịt có thể là những điểm du lịch sinh thái thu hút du khách trong và ngoài nước. Tỉnh có đường giao thông thuận tiện liên kết du lịch thuỷ, bộ với các tỉnh trong khu vực và quốc tế, nhất là các nước ASEAN trên tuyến đường bộ. * Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang - Về tăng trưởng kinh tế Dịch vụ - du lịch được coi là trọng tâm phát triển của An Giang trong các năm tới. SX công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá. Năm 2006, giá trị SX toàn ngành công nghiệp - TTCN An Giang đạt 3.473 tỷ đồng, tăng 17,89% so năm trước, với giá trị tăng thêm 1.489 tỷ đồng, tăng 16,19% so năm 2005. Thông qua chương trình Khuyến công, các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh đã giải ngân cho 1.568 dự án công nghiệp - TTCN và 1.014 hộ SX TTCN vay 4.654 tỷ đồng để đổi mới thiết bị công nghệ, đầu tư mở rộng SX, đạt 186,17% kế hoạch năm (2.500 tỷ đồng) và bằng 194,78% so năm 2005. Hoạt động Khuyến công tỉnh An Giang năm 2007 hướng về phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khôi phục và phát triển các làng nghề, kinh tế hợp tác với các nội dung vốn tín dụng đầu tư phát triển SX công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 3.500 tỷ đồng, đào tạo tập huấn dạy nghề, đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ … Từ đầu năm 2007 đến nay, hoạt động Khuyến công tiếp tục có nhiều chuyển biến, các ngân hàng thương mại đã giải ngân gần 310 dự án và hộ SX với số tiền 673 tỷ đồng (tăng trên 16% so cùng kỳ), trong đó có 6 dự án vay trung hạn với số tiền trên 4 tỷ đồng (bằng 13%). Trong quý I/2007, UBND tỉnh đã công nhận thêm 4 làng nghề gồm dệt Văn Giáo (Tịnh Biên), lưỡi câu, bánh tráng Mỹ Khánh, se nhang Bình Đức (TP Long Xuyên) nâng tổng số làng nghề trên địa bàn tỉnh được công nhận. Tỉnh An Giang có 18 làng nghề truyền thống, hoạt động Khuyến công năm 2007 đẩy mạnh tư vấn hỗ trợ cho các doanh nghiệp cho các làng nghề chọn lựa trang thiết bị và công nghệ phù hợp với yêu cầu SX và thị trường; hướng dẫn thực hiện các qui định của Nhà nước về tiêu chuẩn, qui phạm, định mức kinh tế kỹ thuật, chất lượng sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện cho các cơ sở, doanh nghiệp, hộ SX ở các làng nghề TTCN liên kết và hỗ trợ nhau trong SX, hình thành các mô hình công ty cổ phần, hợp tác xã, tổ hợp tác, nhằm phát huy sức mạnh nguồn lực, về nhân lực, tài chính kỹ thuật, công nghệ thị trường … tạo nền tảng vững chắc cho hội nhập kinh tế quốc tế: In tờ bướm, giới thiệu hàng sản phẩm thủ công mỹ nghệ và hàng đặc sản các làng nghề; phối hợp với các ngành liên quan hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ sở SX ở các làng nghề tham gia các hội chợ triển lãm, trưng bày giới thiệu sản phẩm, tham quan khảo sát thị trường để tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật SX kinh doanh … - Về văn hoá - xã hội + Tình hình lao động và phân bố lao động trong các ngành kinh tế quốc dân do địa phương quản lý. Bảng 2.2: Cân đối lao động xã hội có đến 01/7 hàng năm Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 A. Nguồn lao động (1b+2) 1.372.04 1.400.11 1.431.36 1.462.55 1.502.17 0 4 9 0 8 1. Số người trong độ tuổi lao động 1.259.12 5 1.287.74 9 1.318.93 0 1.350.11 5 1.387.27 5 1a. Mất sức lao động 15.501 16.286 17.080 17.873 18.663 1b. Có khả năng lao động 1.243.62 4 1.271.46 3 1.301.85 0 1.332.24 2 1.368.61 2 2. Số người ngoài tuổi lao động thực tế có tham gia lao động 128.416 128.651 129.519 130.308 133.566 B. Phân phối nguồn lao động (1+2+3+4+5) 1.372.04 0 1.400.11 4 1.431.36 9 1.462.55 0 1.502.17 8 1. Số người đang làm việc trong các ngành kinh tế 1.026.60 7 1.051.19 5 1.070.85 0 1.108.54 2 1.148.04 2 2. Số người trong độ tuổi lao động đang đi học 71.936 73.989 81.974 81.050 83.672 3. Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động làm nội trợ 199.615 201.924 204.431 206.938 202.241 4. Số người trong độ tuổi có khả năng lao động không việc làm 6.436 5.454 4.491 3.527 3.897 5. Số người trong độ tuổi có khả năng lao động có nhu cầu việc làm 67.446 67.552 69.623 62.493 64.326 Nguồn: [2]. Nhìn chung, lực lượng lao động rất dồi dào nhưng chất lượng lao động rất thấp. Năm 2006, tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 12%, có trên 151 ngàn lao động cần có việc làm, chiếm trên 10% tổng số lao động của tỉnh. + Cơ sở hạ tầng của tỉnh đã được đầu tư đúng mức, nhất là giao thông nông thôn đã được chú ý xây dựng. Đến 31/12/2006, đã có 150 trên tổng 154 xã, phường của tỉnh có đường ôtô đến các trung tâm xã, phường chiếm tỷ lệ 97,4%. Bảng 2.3: Thực trạng đường ôtô đến các trung tâm phường, xã tại thời điểm 31/12/2006 Chỉ tiêu Phân theo huyện, thị Tổng số phường, xã toàn tỉnh Số phường, xã đã có Số phường, xã chưa có Thành phố Long Xuyên 13 13 - Thị xã Châu Đốc 7 7 - Huyện An Phú 14 14 - Huyện Tân Châu 11 11 - Huyện Phú Tân 19 19 - Huyện Châu Phú 13 13 - Huyện Tịnh Biên 14 14 - Huyện Tri Tôn 15 15 - Huyện Châu Thành 13 9 4 Huyện Chợ Mới 18 18 - Huyện Thoại Sơn 17 17 - 154 150 4 Nguồn: [2]. Một số tuyến đường chính được Trung ương và Tỉnh nâng cấp như quốc lộ 1, quốc lộ 91 từ Long Xuyên tới cửa khẩu quốc tế huyện Tịnh Biên, Tân Châu, An Phú, … đã tạo điều kiện tốt cho giao thông của tỉnh, đặc biệt là các huyện miền núi cải thiện đời sống, đẩy mạnh giao lưu sản xuất và tiếp thu khoa học kỹ thuật với các huyện, thị khác trong tỉnh. + Tính đến nay, điện lưới quốc gia đã đến toàn bộ 154/154 phường, xã, thị trấn trong tỉnh. Mức tiêu thụ điện bình quân đầu người hàng năm khoảng 500 kwh và 98% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia. Hiện nay 100% số xã, phường, thị trấn có hệ thống thông tin liên lạc. + An Giang đã hoàn thành nhiệm vụ xoá mù chữ và phổ cập tiểu học, phổ cập trung học cơ sở ở các xã, thị trấn trong toàn tỉnh. Ngoài ra, tỉnh còn có 1 trường Đại học và 3 trường Trung học chuyên nghiệp, trong đó có 1 trường Trung học Dạy nghề do Sở Lao động thương binh - xã hội và một trường Trung học Kinh tế kỹ thuật thuộc Sở Giáo dục và đào tạo. + Toàn tỉnh hiện có 53 hệ thống cấp nước sạch với tổng công suất 55.840 m3/ngày đêm, trong đó có 11 hệ thống trung tâm các huyện, thị có công suất từ 1.000 đến 20.000 m3/ngày đêm và 42 hệ thống cấp nước không lắng lọc của các tư nhân ở các khóm, ấp. Đã có 80% hộ dân được cung cấp nước sạch phục vụ nhu cầu sinh hoạt, SX công nghiệp - TTCN, dịch vụ nông thôn. + Công tác xoá đói giảm nghèo của tỉnh được thực hiện đồng bộ thông qua các dự án trực tiếp tác động đến người dân. Mỗi năm tỷ lệ hộ nghèo giảm trên 1%, năm 2006 hộ nghèo còn 12,5% với 53.700 hộ và dự kiến đến năm 2010 đạt chỉ tiêu Nghị quyết của Tỉnh uỷ đề ra là 5% (theo tiêu chí mới). 2.1.2. Đặc điểm hình thành và phát triển các làng nghề truyền thống của tỉnh An Giang Đến năm 2007, An Giang có 29 làng nghề trong đó có 18 làng nghề được công nhận LNTT rất đa dạng. Qua khảo sát có thể nêu một số LNTT tiêu biểu sau: - Làng nghề truyền thống tơ lụa Tân Châu Tân Châu là huyện cù lao nằm giữa sông Tiền và một phần sông Hậu có ưu thế về địa lý tự nhiên cho phép Tân Châu phát triển một nền kinh tế đa dạng, cả về sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và thương mại dịch vụ. Nói đến Tân Châu là người ta nghĩ ngay đến lụa Cẩm tự, Lãnh mỹ A. “Tân Châu quê lụa” được người ta gán ghép cho địa danh là rất đúng, bởi vì từ thế kỷ 19 vùng đất Tân Châu gắn liền với cây dâu, con tằm và nghề dệt lụa cũng rất phát triển. Không ai biết Tân Châu đã hình thành ngành nghề dệt lụa từ năm nào, nhưng vào những năm 1920 làng Long Hưng (nay là ấp Long Hưng) lúc đó dân cư còn thưa thớt nhưng hầu hết đều sống bằng nghề tơ lụa, hộ thì trồng dâu nuôi tằm, hộ thì ươm tơ dệt lụa, nhuộm, … và thu nhập chính của người dân lúc đó là từ tơ lụa. Cho đến năm 1940, Tân Châu đã trở thành trung tâm tơ lụa lớn nhất Nam bộ lúc bấy giờ với những lò ươm tơ, dệt lụa và đã hình thành “con đường tơ lụa” đầy huyền thoại ngày trước. Nhưng con đường phát triển của lụa Tân Châu không phải lúc nào cũng thuận lợi; đến những năm 1993, hàng tơ lụa Tân Châu mất dần thị trường do sự cạnh tranh của hàng dệt từ sợi tơ tổng hợp nhập ngoại tràn vào có giá rẻ hơn, đa dạng về màu sắc, mẫu mã; nhiều hộ gia đình bỏ nghề truyền thống chuyển sang dệt nylon, se tơ. Hiện nay trên địa bàn làng nghề tơ lụa Tân Châu có tổng số là 304 hộ, trong đó có 162 hộ có người tham gia làng nghề. Sản phẩm chính của làng nghề là tơ se, Lãnh mỹ A, … thị trường trong và ngoài nước như Campuchia, Lào, Thái Lan, các nước EU, … - Làng nghề truyền thống dệt thổ cẩm Châu Phong LNTT dệt thổ cẩm Châu Phong ở ấp Phũm Soài xã Châu Phong, huyện Tân Châu không biết có từ bao giờ, tuy nhiên tại nơi đây có một khu nghĩa địa cổ khắc niên đại 1700, có lẽ người Chăm đã hình thành từ thời gian đó và cũng từ đó bắt đầu hình thành nghề dệt thổ cẩm cho đến tận bây giờ; Tộc người Chăm thường sống thành cụm ven sông, đàn ông thì làm nghề đánh bắt thuỷ sản, còn phụ nữ Chăm do tập tục cấm cung nên thường làm nghề dệt. Trước năm 1975, hàng dệt thổ cẩm của người Chăm có mặt ở hầu hết các nước Đông Nam Á như: Campuchia, Lào, Thái Lan, Indonesia, Malaysia và kể cả nước Ấn Độ; đến năm 1984, do quy luật cạnh tranh và thị hiếu của người tiêu dùng nghề dệt thổ cẩm Chăm bị chựng lại. Hiện nay LNTT dệt thổ cẩm Châu Phong với 296 hộ thì có 161 hộ tham gia làng nghề. Sản phẩm gồm: khăn choàng tắm, sà rông, vải thổ cẩm, khăn và các hàng lưu niệm như túi xách, móc khoá, … - Làng nghề truyền thống rập chuột An Châu Làng nghề sản xuất rập chuột An Châu, huyện Châu Thành hình thành vào khoảng năm 1957, lúc đó thì nghề rập chuột chưa được thịnh hành mạnh nên các hộ sản xuất đa phần phục vụ cho gia đình và bà con xung quanh sử dụng. Phần lớn các người phát minh ra nghề rập chuột đã mất và truyền nghề lại cho con cháu. Tính đến nay làng nghề được hình thành cũng trải qua ba thế hệ từ cha truyền nghề cho con, con truyền cho cháu; thế hệ sau nắm vững cách làm và tự tách riêng mở cơ sở và tự tiêu thụ sản phẩm chủ yếu ở các tỉnh miền Tây, miền Trung và Campuchia; làng nghề phát triển mạnh nhất vào năm 1992 và cho đến nay. Hiện nay LNTT rập chuột An Châu với 667 hộ thì có 300 hộ tham gia làng nghề giải quyết việc làm cho 1.065 lao động của địa phương. - Làng nghề truyền thống mộc dân dụng Long Điền A LNTT mộc dân dụng Long Điền A, huyện Chợ Mới hình thành vào khoảng năm 1892 do làn sóng di cư từ miền Bắc vào sinh sống ở các tỉnh miền Tây nam bộ. Theo truyền miệng của những người làm nghề mộc thì họ truyền nghề lại cho con cháu mình và cả những người sống tại địa phương có nhu cầu học nghề. Nghề mộc dân dụng lúc đầu chủ yếu là cất nhà, đóng đồ gia dụng phục vụ trong gia đình (những đồ này đều có chạm trổ) với tinh thần cần cù, chịu khó, ham học hỏi, làng nghề ngày càng phát triển. Từ năm 1990 nền kinh tế địa phương phát triển ổn định do nhu cầu sử dụng đồ mộc tăng cao nhất là các mặt hàng cao cấp phục vụ cho trang trí nội thất. Hiện nay LNTT mộc dân dụng Long Điền A với 2.249 hộ trong đó có 1.369 hộ tham gia làng nghề. Sản phẩm chủ yếu là các loại tủ, bàn, ghế, giường, nhà cửa, … Ngoài các LNTT nêu trên, các LNTT ở nông thôn tỉnh An Giang đều có từ rất lâu, phát triển rất đa dạng, phong phú và có đặc điểm hình thành, phát triển được khái quát như sau: Thứ nhất, LNTT của tỉnh An Giang đa dạng về quy mô, về cơ cấu ngành nghề và gắn chặt với sản xuất nông nghiệp. LNTT của An Giang được ra đời và phát triển từ sản xuất nông nghiệp nông thôn và phục vụ cho nông nghiệp nông thôn. Do nhu cầu việc làm và thu nhập mà ban đầu người nông dân đã làm nghề thủ công và coi đó là nghề phụ làm thêm bên cạnh nghề làm ruộng vào những lúc thời gian nhàn rỗi hoặc sử dụng lao động nhàn rỗi. Lúc đầu nghề thủ công chủ yếu là sản xuất và sửa chữa những sản phẩm phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống như nghề se tơ, dệt lụa, dệt thổ cẩm, thêu tranh, nghề rèn, đan đát, chằm nón, bó chổi bông cỏ, se nhang, nghề sản xuất lưỡi câu, rập chuột, bánh tráng, bánh phồng, khô các loại, chế biến mắm các loại, nghề mộc dân dụng, đóng xuồng ghe, ... về sau do nhu cầu phải trao đổi hàng hoá và do lực lượng sản xuất phát triển, nghề thủ công phát triển, một bộ phận dân cư trong làng đã tách khỏi sản xuất nông nghiệp và làm nghề tiểu thủ công nghiệp những sản phẩm của họ vẫn phục vụ nông nghiệp và đời sống của người dân trong làng và những làng xung quanh. Mặt khác, mặc dù chuyên làm nghề tiểu thủ công nghiệp nhưng vẫn giữ đất nông nghiệp để sản xuất thóc gạo đảm bảo cuộc sống của họ. Trong những năm đổi mới, nhờ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước mà ngành nghề thủ công phát triển mạnh mẽ, đa dạng hoá quy mô, loại hình sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, phong phú về mẫu mã đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của con người. Sản lượng các ngành nghề tăng lên nhanh chóng, làm thay đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nông thôn, nhưng sản xuất TTCN vẫn gắn chặt với sản xuất nông nghiệp vì trong một chừng mực nào đó người thợ thủ công nghiệp vẫn là người dân sản xuất nông nghiệp. Thứ hai, sản xuất trong các LNTT tỉnh An Giang chủ yếu bằng phương pháp thủ công, công nghệ thô sơ, lạc hậu như nghề tơ lụa Tân Châu, dệt thổ cẩm (Châu Phong, Văn Giáo), rèn Phú Mỹ, se nhang Bình Đức, mộc dân dụng, đóng xuồng ghe Mỹ Hiệp, … những nghề này chủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo léo và sức lao động của người nông dân cùng với hệ thống công cụ lao động thủ công, thô sơ, lạc hậu nên năng suất lao động thấp. Ngày nay, tuy có sự phát triển của KHCN, máy móc hiện đại, một số công cụ lao động làm nghề tiểu thủ công nghiệp đã được cơ khí hoá, HĐH nhưng chưa được tự động hoá mà vẫn phải dựa vào sức lao động và đôi bàn tay của người thợ. Một số nghề mới xuất hiện như đan thảm lục bình Chợ Vàm, sản xuất đường thốt nốt (Núi Tô, An Tức, Cô Tô), quạt thốt nốt Óc Eo, chế biến mắm Khánh Hoà, thêu tranh, dệt chiếu Uzu … tuy có sử dụng nhiều máy móc thay cho lao động thủ công nhưng phần lớn là những máy móc cũ, lạc hậu bị các cơ quan thải loại, người dân mua về sửa chữa hoặc cải tiến cho phù hợp, nên trình độ cơ khí hoá vẫn còn thấp. Thứ ba, quy mô sản xuất kinh doanh của LNTT hầu hết là quy mô gia đình, cha truyền con nối, nên quy mô sản xuất bị giới hạn trong phạm vi gia đình huyết thống. Trong mô hình sản xuất này, người chủ gia đình là người thợ cả, có kỹ thuật cao vừa tổ chức sản xuất kinh doanh, vừa quản lý và hạch toán kinh doanh, vừa là người truyền nghề, quản lý kỹ thuật, mọi thành viên còn lại trong gia đình, dòng họ là những người tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, tuỳ theo năng lực trình độ của mỗi người mà được người chủ giao công việc cụ thể. Trong thời kì kế hoạch tập trung, bao cấp, các gia đình làm nghề tiểu thủ công nghiệp phải gia nhập HTX tiểu thủ công nghiệp. Do cơ chế quản lý của giai đoạn này mà LNTT không phát triển và bị mai một, HTX tiểu thủ công nghiệp hoạt động kém hiệu quả, nên đã bị tan rã dần vào đầu thời kì đổi mới. Trong thời kì đổi mới nhờ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cơ chế quản lý thay đổi, LNTT được phát huy mạnh mẽ, khai thác mọi tiềm năng của các hộ gia đình vào sản xuất kinh doanh. Do cơ chế thị trường các gia đình trong LNTT phải cạnh tranh với nhau, nên quy mô sản xuất kinh doanh đã được mở rộng, lao động sản xuất đã được thuê mướn bên ngoài, anh em, con cháu gia đình đóng vai trò quản lý từng khâu, từng mắc xích quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hiện nay, tuy đã xuất hiện nhiều Tổ Hợp tác và HTX nhưng quy mô sản xuất vẫn giới hạn trong phạm vi gia đình hoặc dòng họ. Các Tổ Hợp tác và HTX này đóng vai trò là trung tâm, vệ tinh tìm kiếm thị trường, tiêu thụ lớn về sản phẩm hoặc cung ứng lớn về vật tư cho các hộ gia đình thực hiện dưới hình thức hợp đồng. Thứ tư, phương pháp dạy nghề trong các LNTT là truyền nghề. Xuất phát từ đặc điểm quy mô sản xuất chủ yếu là gia đình, nên việc dạy nghề cho con cháu hoặc người thân là hình thức truyền nghề trực tiếp, tức là hướng dẫn trực tiếp từng thao tác, vừa làm vừa học nhằm giữ bí quyết nhà nghề. Mặt khác, nhiều nghề sản xuất những sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc dân hoá dân tộc như nghề dệt lụa, dệt thổ cẩm, tranh thêu, mộc chạm trổ mỹ nghệ, mộc dân dụng … Do đặc thù nghề nghiệp mà không thể sử dụng máy móc để sản xuất hàng loạt được mà phải dựa vào lao động thủ công, dựa vào bàn tay khéo léo, tinh xảo của người thợ nên việc dạy nghề vẫn phải hướng dẫn trực tiếp từng thao tác, vừa học vừa làm. Ngày nay KHCN hiện đại, xuất hiện nhiều máy móc hiện đại một số công việc, công đoạn của quá trình đã sử dụng máy móc thay thế cho lao động. Chẳng hạn như nghề mộc dân dụng, đóng xuồng ghe đã sử dụng các máy cưa, máy lộng, máy bào máy khoan để thay thế cho các lao động bào, cưa, xẻ, đục,… Hoặc nghề dệt lụa, dệt thổ cẩm đã sử dụng mô tơ thay thế cho chân đạp máy dệt, … nhưng các công việc quyết định đến chất lượng, thẩm mỹ và tính chất độc đáo của sản phẩm vẫn sử dụng lao động thủ công. Vì vậy, trong các LNTT việc dạy nghề cho lao động chủ yếu là truyền nghề. Thứ năm, sản phẩm LNTT mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, tính truyền thống. Mặt khác, do dạy nghề là hình thức truyền nghề, nên giữ được bí quyết, giữ được nét độc đáo của sản phẩm làng nghề mà địa phương khác, làng nghề khác không thể làm được. Vì nét độc đáo, truyền thống đó của sản phẩm, do đó nó chi phối được thị trường tiêu thụ sản phẩm. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng đa dạng, phong phú, nên các LNTT đã nhanh chóng đổi mới sản xuất, đa dạng sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, trong xu thế hội nhập, nhiều sản phẩm LNTT đã xuất khẩu ra thị trường thế giới. Bởi vậy, sản phẩm của LNTT tất yếu phải đa dạng và phong phú phù hợp với nhu cầu trong và ngoài nước. Đồng thời, chất lượng sản phẩm không ngừng nâng cao đảm bảo khả năng cạnh tranh của thị trường. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập, ngành du lịch phát triển, sản phẩm LNTT đã thể hiện những nét văn hoá đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, phong cảnh, thiên nhiên, con người Việt Nam … như dệt thổ cẩm (Chăm, Khmer), lụa Tân Châu, tranh thêu, mộc chạm trổ mỹ nghệ, sản xuất đường thốt nốt … nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch mà còn giới thiệu về văn hoá, con người và đất nước Việt Nam với bạn bè trên thế giới. 2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG HIỆN NAY 2.2.1. Phân tích hiện trạng làng nghề truyền thống 2.2.1.1. Số lượng và quy mô làng nghề truyền thống Năm 2007, An Giang có 29 làng nghề, trong đó có 18 LNTT và 11 làng nghề. Trong số 18 LNTT có 16 LNTT phát triển ổn định và 2 LNTT ở tình trạng tồn tại và phát triển khó khăn. Trong bảng giá trị sản xuất công nghiệp -TTCN trên địa bàn tỉnh An Giang tính theo giá cố định năm 1994 (Bảng 2.4) cho thấy giá trị sản xuất của kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế cá thể, tư nhân có xu hướng tăng nhanh. Nguyên nhân do cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước thuận lợi, tạo điều kiện phát triển LNTT. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, LNTT là điểm đến của du khách trong và ngoài nước, đồng thời sản phẩm LNTT không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn phải đáp ứng cho nhu cầu xuất khẩu. Theo khảo sát gần đây của hiệp hội làng nghề Việt Nam, 22,3% sản phẩm làng nghề nước ta có chất lượng ngang bằng và 16,2% có giá cả cạnh tranh với các nước trong khu vực. Bảng 2.4: Giá trị sản xuất công nghiệp - TTCN An Giang giai đoạn 2001 - 2006 theo giá cố định 1994 phân theo thành phần kinh tế Đơn vị tính: triệu đồng Năm Tổng giá trị SX CN Kinh tế quốc doanh Kinh tế ngoài quốc doanh Khu vực đầu tư nước ngoài Số lượng Tỷ trọng % Số lượng Tỷ trọng % 2000 1.513.300 662.681 43,8 795.632 52,6 55.017 2001 1.705.730 648.704 38,0 1.000.885 58,7 56.141 2002 1.983.497 625.956 31,6 1.347.441 67,9 10.100 2003 2.219.746 700.142 31,5 1.504.823 67,8 14.781 2004 2.575.586 756.171 29,4 1.798.455 69,8 20.960 2005 2.966.259 860.041 29,0 2.083.521 70,2 22.697 2006 3.473.054 920.190 26,5 2.525.806 72,7 27.058 Nguồn: [41]. Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của các LNTT còn yếu, ngoài lý do chất lượng, quy mô sản xuất nhỏ, phân tán còn có nguyên nhân quan trọng là phụ thuộc nhiều vào trung gian. Được biết khoảng 95% sản phẩm LNTT tiêu thụ qua kênh công ty thương mại nhỏ, công ty tư nhân … các hộ kinh doanh gặp khó khăn do cơ sở hạ tầng LNTT kém, khó tiếp cận thông tin thị trường, ứng dụng công nghệ mới, mở rộng quy mô sản xuất, ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế của LNTT, số lượng LNTT, quy mô LNTT cũng được gia tăng. Bên cạnh những LNTT, làng nghề mới ra đời phát triển ngày càng tăng, lực lượng lao động trong nông thôn thu hút vào LNTT ngày càng nhiều góp phần thay đổi cơ cấu lao động nông thôn. Đến nay trong tổng số 154 xã, phường, thị trấn của tỉnh An Giang, có 17 xã có LNTT. 2.2.1.2. Lao động và chất lượng lao động trong các làng nghề truyền thống Nhóm LNTT hoạt động ổn định và phát triển tốt như mộc trạm trổ, mộc dân dụng, sản xuất rập chuột, lưỡi câu, rèn nông cụ … những sản phẩm này phù hợp với nhu cầu thị trường luôn được đầu tư để tăng cường năng lực sản xuất. Nhóm LNTT hoạt động cầm chừng không phát triển được có nguy cơ mai một, mất nghề gồm các LNTT sản xuất tơ lụa, dệt thổ cẩm. Đây là những LNTT sản xuất những sản phẩm không phù hợp với nhu cầu thị trường hoặc không đủ sức cạnh tranh với sản phẩm công nghiệp. Một số LNTT phát triển mạnh có khả năng nhân rộng ra các làng khác: - HTX rèn Phú Mỹ sản xuất ra các loại nông cụ như rèn cuốc, xẻng, dao, lưỡi hái, liềm, cày bừa … tạo ra giá trị trên 1 tỷ đồng thu nhập trên 12 triệu đồng/lao động; sản xuất lưỡi câu Long Xuyên và sản xuất rập chuột Châu Thành tạo ra giá trị trên 34 tỷ đồng, tạo việc làm cho 489 hộ và thu hút 1.767 lao động tại chỗ. - Các xã Long Điền A, Tấn Mỹ, Mỹ Luông, Long Giang huyện Chợ Mới sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ, các loại sản phẩm như giường tủ, bàn, ghế, tranh, tượng, cầu thang; dệt thổ cẩm Tân Châu, Tịnh Biên sản phẩm như tơ se, khăn choàng tắm, thổ cẩm … đã có mặt trên thị trường trong nước và cả thị trường nhiều nước Châu Âu, Châu Á chủ yếu là xuất khẩu phi mậu dịch qua biên giới và thông qua khách du lịch. Giá trị sản xuất trên 40 tỷ đồng trên năm, giải quyết việc làm cho 2.351 hộ thu hút 4.662 lao động. Chỉ riêng xã Long Điền A thì LNTT mộc chạm trổ mỹ nghệ với 2.294 hộ có 1.369 hộ thu hút 2.300 lao động, doanh thu hàng năm đạt 19,250 tỷ đồng thu nhập bình quân 1,3 triệu đồng. Bảng 2.5: Thống kê làng nghề truyền thống và lao động năm 2007 STT Tên huyện, xã có LNTT Tổng số xã có LNTT đã được công nhận Tổng số xã có LNTT chưa được công nhận Tổng số hộ Tổng số lao động 1. Tp. Long Xuyên 3 1 557 1.955 Bình Đức 1 231 744 Mỹ Hoà 1 189 702 Mỹ Khánh 1 60 120 Mỹ Hoà Hưng 1 77 389 2. Huyện Phú Tân 3 4 1.064 2.186 Phú Mỹ 2 520 800 Phú Bình 1 200 400 Chợ Vàm 1 100 400 Phú Thọ 1 58 177 Phú Hiệp 1 139 251 Hoà Lạc 1 46 158 3. Huyện Tân Châu 2 323 492 Châu Phong 1 161 291 Tân Châu 1 162 201 4. Huyện Chợ Mới 8 1 2.736 6.752 Long Điền A 1 1.369 2.300 Long Giang 1 1 113 380 Tấn Mỹ 1 127 278 Mỹ Luông 1 460 1.450 Mỹ Hội Đông 1 146 310 Hội An 1 310 1200 Hoà Bình 1 100 217 Mỹ Hiệp 1 111 627 5. Huyện Tịnh Biên 1 136 147 Văn Giáo 1 136 147 6. Huyện Châu Thành 1 1 447 3.093 An Châu 1 1 447 3.093 7. Châu Phú 2 320 738 Bình Mỹ 1 170 384 Bình Thuỷ 1 150 354 8. Huyện An Phú 2 279 714 Đa Phước 1 232 464 Khánh An 1 47 250 Tổng cộng: 18 11 5.862 16.077 Nguồn: [42]. Qua Bảng số liệu 2.5. tình hình lao động tham gia vào các LNTT cho thấy: - Lực lượng lao động trong các LNTT là tận dụng triệt để lao động nhàn rỗi ở nông thôn, phân công theo hướng chuyên môn hoá từng khâu, từng đoạn của quá trình sản xuất. Hàng loạt các hệ thống dịch vụ được phát triển đồng bộ như thu gom, vận chuyển nguyên vật liệu. Bên cạnh đó, còn có các lực lượng lao động hoạt động trong các khâu bán hàng, dịch vụ, thương mại nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống ngày càng cao của LNTT. - Các LNTT chưa xây dựng được chiến lược về thị trường nhất là thị trường nước ngoài, chưa xây dựng được thương hiệu, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng chưa cao, tính cạnh tranh thấp, nguồn vốn nhỏ nên khả năng đầu tư theo chiều sâu đối với công nghệ còn hạn chế nhiều. Việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước còn gặp khó khăn, thiết bị, công nghệ còn lạc hậu, yếu kém, hầu hết công nghệ trong các LNTT là cổ truyền, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề của người lao động thấp, khả năng, trình độ quản lý của chủ cơ sở, chủ hộ còn hạn chế. Tuy nhiên, qua tiếp xúc một số LNTT cho thấy tay nghề của thợ thủ công và nghệ nhân hoàn toàn có thể làm ra những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã hợp thị hiếu, nhưng người thợ chưa có sự tiếp cận và thiếu thông tin về thị trường, nhất là thị trường nước ngoài. - Hầu hết, các cơ sở sản xuất, hộ gia đình không chú trọng đến đầu tư xử lý chất thải, gây ô nhiễm nghiêm trọng ảnh hưởng tới đời sống dân sinh và môi trường sinh thái. Không ít các cơ sở sản xuất còn vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh, chế độ bảo hiểm người lao động, luật thuế, pháp lệnh kế toán thống kê, … - Một số LNTT phát triển, đời sống người dân trong LNTT được nâng lên, nhưng trình độ dân trí không nâng lên, dịch vụ phát triển ảnh hưởng môi trường xã hội như cờ bạc, tệ nạn xã hội gia tăng, trẻ em không được quan tâm đến học tập, tình trạng thất học cũng gia tăng. 2.2.1.3. Tổ chức sản xuất kinh doanh của các làng nghề truyền t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang.pdf
Tài liệu liên quan