Tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở Hà Nội: LUẬN VĂN:
Giải pháp phát triển du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn ở Hà Nội
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội hiện đại, du lịch trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời
sống văn hóa - xã hội. Du lịch được xem là một trong những ngành kinh tế quan trọng
hàng đầu vì những lợi ích to lớn về kinh tế - xã hội mà nó đem lại. Nhiều quốc gia trong đó
có Việt Nam đã coi phát triển du lịch là một chiến lược quan trọng để phát triển đất nước và
hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Là một ngành kinh tế quan trọng của Hà Nội, du lịch đã có bước phát triển mạnh
và đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều mặt: hệ thống khách sạn nhà hàng có quy mô
dẫn đầu cả nước, vận chuyển khách du lịch tăng nhanh về số lượng, đổi mới về chất lượng,
kết cấu hạ tầng phục vụ du lịch đã phát triển mạnh, đặc biệt là giao thông vận tải, bưu
chính viễn thông, điện nước. Nhờ đó, lượng khách du lịch trong nước và quốc tế trên địa
bàn Thủ đô tăng lên rõ rệt cả về số ...
101 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1301 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp phát triển du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn ở Hà Nội
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội hiện đại, du lịch trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời
sống văn hóa - xã hội. Du lịch được xem là một trong những ngành kinh tế quan trọng
hàng đầu vì những lợi ích to lớn về kinh tế - xã hội mà nó đem lại. Nhiều quốc gia trong đó
có Việt Nam đã coi phát triển du lịch là một chiến lược quan trọng để phát triển đất nước và
hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Là một ngành kinh tế quan trọng của Hà Nội, du lịch đã có bước phát triển mạnh
và đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều mặt: hệ thống khách sạn nhà hàng có quy mô
dẫn đầu cả nước, vận chuyển khách du lịch tăng nhanh về số lượng, đổi mới về chất lượng,
kết cấu hạ tầng phục vụ du lịch đã phát triển mạnh, đặc biệt là giao thông vận tải, bưu
chính viễn thông, điện nước. Nhờ đó, lượng khách du lịch trong nước và quốc tế trên địa
bàn Thủ đô tăng lên rõ rệt cả về số lượng và tỷ trọng. Hàng năm, ngành du lịch Thủ đô đã
góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm nâng cao đời sống của
nhân dân.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, sự phát triển của du lịch Hà Nội trong thời
gian qua chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của Thủ đô, của đất nước. Đến nay, nhiều
tiềm năng chưa được khai thác tốt để phát triển ngành kinh tế quan trọng này. Vì vậy, tỷ
trọng doanh thu của du lịch so với các ngành kinh tế khác của Hà Nội còn thấp. Du lịch
chưa trở thành một ngành mũi nhọn như Đại hội Đảng bộ thành phố đã nhiều lần đặt ra.
Để du lịch Hà Nội đóng góp nhiều hơn nữa vào sự nghiệp kinh tế - xã hội, trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, Đại hội Đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ thành phố Hà Nội đã
chỉ rõ: "Tiếp tục đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất, đa dạng hóa các loại hình, nâng cao
chất lượng các sản phẩm du lịch, phấn đấu doanh thu của ngành du lịch hàng năm tăng từ
16 - 18%; đưa du lịch trở thành ngành kinh tế trọng điểm của Thủ đô".
Trong điều kiện hiện nay, với xu thế hội nhập kinh tề quốc tế, giao lưu kinh tế -
văn hóa tăng mạnh, nhu cầu về du lịch tăng nhanh. Do vậy, vấn đề bức xúc đặt ra yêu cầu
phát triển mạnh ngành du lịch. Để du lịch Thủ đô trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, cần
tìm những biện pháp phù hợp nhằm huy động nguồn lực, phát triển hạ tầng du lịch hiện đại.
Vì vậy, việc tìm các giải pháp phát triển du lịch là vấn đề bức xúc, đồng thời là vấn đề có ý
nghĩa cơ bản lâu dài đối với kinh tế Thủ đô. Đó là cũng là lý do chủ yếu của việc lựa chọn
đề tài nghiên cứu: "Giải pháp phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở Hà
Nội".
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do du lịch có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nên đã có rất nhiều ngành, địa
phương và cá nhân quan tâm nghiên cứu. Hiện đã có một số công trình nghiên cứu trong
lĩnh vực này, trong đó có một số công trình tiêu biểu liên quan đến đề tài luận văn như sau:
Những giải pháp chủ yếu phát triển du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũ
nhọn, của TS. Trần Hữu Nam - nguyên Giám đốc Công ty Khách sạn Du lịch Thắng Lợi.
Một số giải pháp chủ yếu đưa du lịch Hà Nội trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
trong tình hình mới, của TS. Nguyễn Quang Lân - nguyên Giám đốc Sở Du lịch Hà Nội.
Mở rộng thị phần lữ hành của Công ty Thương mại Dịch vụ Du lịch Tân Định -
thực trạng và giải pháp, của tác giả Nguyễn Việt Hưng, luận văn thạc sĩ, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
Tuy đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về du lịch Hà Nội, song nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện và dưới góc độ quản lý kinh tế sau khi nước ta chính
thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì gần như
chưa có công trình nào. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải tăng cường nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn để đề xuất những giải pháp
chủ yếu nhằm phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Thủ đô.
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn đặt ra là:
- Làm rõ cơ sở lý luận về du lịch và phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn.
- Đánh giá thực trạng ngành du lịch Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch Thủ đô trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn trên địa bàn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu là phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, trong
đó bao gồm cả phát triển cơ sở hạ tầng du lịch và dịch vụ du lịch.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu tập trung làm rõ ngành du lịch như một bộ
phận kinh tế trên địa bàn Thủ đô. Việc phân tích thực trạng ngành du lịch chủ yếu từ năm
1995 đến nay, các giải pháp định hướng, đổi mới cho giai đoạn 2007 - 2012.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin; trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài dựa trên các phương pháp chuyên ngành như: phương
pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp toán học, phương pháp thống kê, phương pháp xã hội
học. Trong đó, một số phương pháp cụ thể được chú trọng vận dụng trong quá trình nghiên
cứu luận văn gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, mô hình hóa...
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Luận văn đã có một số đóng góp về mặt khoa học như sau:
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về du lịch và phát triển du
lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng du lịch trên địa bàn Hà Nội và chỉ rõ những hạn chế,
trở ngại và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp phù hợp và khả thi để thúc đẩy du lịch Thủ đô thành ngành
kinh tế mũi nhọn.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 105 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận về du lịch và phát triển du lịch
thành ngành kinh tế mũi nhọn trong điều kiện hiện nay
1.1. Tổng quan về du lịch và phát triển du lịch
1.1.1. Du lịch và các yếu tố cấu thành của hoạt động du lịch
Du lịch có từ xa xưa, gắn với ước mơ của con người, vì đặc tính cơ bản của con
người là vừa thích quen, vừa thích lạ, vừa muốn đi tìm hiểu cái quen, cái lạ để thưởng thức
cảnh đẹp thiên nhiên, con người của các nền văn hóa khác nhau mà quê hương mình chưa
có hoặc không có, qua đó mà tăng thêm tri thức, tình cảm, sức khỏe.
Đồng thời với sự phát triển của văn minh nhân loại, du lịch ngày càng trở thành
một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống.
Thoạt đầu, con người quan niệm rất đơn giản về du lịch. Họ cho rằng du lịch là đi
chơi, đi dã ngoại. Du lịch trong tiếng Anh là tour, có nghĩa là chuyến tham quan ngắn
vòng quanh thành phố. Trong tiếng Pháp, "tour" là danh từ có nghĩa là vòng (chuyển
động).
Trong tiếng Việt, "du lịch" là từ ghép: "du" là đi chơi, đi dạo và "lịch" là lịch lãm,
từng trải, hiểu biết. Du lịch là biểu thị việc đi chơi của khách, nhằm tăng thêm hiểu biết,
tích lũy kiến thức.
Trên thế giới, trước thế kỷ XIX, du lịch chỉ là hiện tượng đơn lẻ của một số ít
người thuộc tầng lớp giàu có và người ta coi du lịch như một hiện tượng nhân văn, làm
phong phú thêm nhận thức của con người. Sau đại chiến thế giới lần thứ II, khi dòng người
đi du lịch ngày càng tăng thì việc giải quyết những nhu cầu về nơi ăn, chốn ở, phương tiện
vận chuyển, vui chơi giải trí v.v..., cho du khách đã trở thành cơ hội kinh doanh cho các
doanh nghiệp. Lúc này, du lịch không chỉ là hiện tượng nhân văn mà còn là một hoạt động
kinh tế. Vì vậy, người ta cho rằng: du lịch là toàn bộ những hoạt động và công việc phối
hợp, kết hợp nhằm thỏa mãn những yêu cầu của khách du lịch. Giáo sư Edmod Picasa
(người Bỉ) cho rằng: "Du lịch là tập hợp các tổ chức và các chức năng của nó, không chỉ
về phương diện khách vãng lai mà cái chính là phương diện về giá trị mà khách du lịch
mang lại".
Khi du lịch càng phát triển, các hoạt động kinh doanh du lịch càng gắn bó và phối
hợp với nhau tạo thành một hệ thống rộng lớn và chặt chẽ. Lúc này, du lịch được coi là một
ngành chuyển các nguồn nhân lực, vốn, nguyên liệu, vật liệu thành những sản phẩm dịch vụ
đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
Hai nhà kinh tế Thụy Sĩ là Claude Kaspa và S.A.Gallen (1971) đã viết: "Du lịch là
tổng hợp những mối quan hệ và những hoạt động tạo ra do sự di chuyển và dừng lại của
những người mà vị trí của nơi dừng không phải là nơi cư trú và cũng không phải là nơi
hành nghề của chính họ" [44].
Như vậy, các tác giả trên đã đưa ra định nghĩa du lịch theo nghĩa rộng. Theo đó,
du lịch không chỉ liên quan đến khách du lịch, mà còn đề cập đến các hoạt động sản xuất,
kinh doanh của các cơ sở và cá nhân phục vụ cho các nhu cầu của khách du lịch tại nơi mà
khách đi qua và ở lại. Các hoạt động này bao gồm: ăn, ở, vận chuyển, vui chơi giải trí,
hướng dẫn tham quan v.v...
Luật Du lịch được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua (ngày 14 tháng 6
năm 2005) đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: "Du lịch là các hoạt động có liên quan
đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu
cầu thăm quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định" [29].
Như vậy, du lịch có hai nghĩa: Thứ nhất, du lịch là cuộc hành trình và lưu trú tạm
thời của con người ở một nơi khác (cách xa nơi ở thường xuyên của họ), để nghỉ dưỡng,
chữa bệnh, thỏa mãn các nhu câu về văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, trao đổi công việc. Thứ
hai, du lịch được hiểu là tập hợp các hoạt động kinh doanh nhằm hỗ trợ, giúp đỡ, thực hiện
tốt mọi nhu cầu của khách du lịch. Nói cách khác, du lịch là tập hợp các hoạt động giữa
cung du lịch và cầu du lịch tạo nên ngành du lịch.
Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du
lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch. Trong đó,
chủ thể quan trọng của hoạt động du lịch là khách du lịch. Đó là người đi du lịch hoặc kết
hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.
Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách
du lịch trong chuyến đi du lịch.
Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn
uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu
cơ bản của khách du lịch gồm: nhu cầu lưu trú, ăn uống; nhu cầu vận chuyển đi lại; nhu
cầu giải trí, cảm thụ cái đẹp; nhu cầu mua sắm và các nhu cầu khác. Để thỏa mãn được các
nhu cầu đó, ngành du lịch tổ chức cung cấp các dịch vụ du lịch cơ bản và thường được gọi
tắt là cung du lịch. Các dịch vụ cơ bản về du lịch như Hình 1.1 dưới đây.
Hình 1.1. Các loại hình dịch vụ du lịch
Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của
ngành du lịch thế giới, các nhà khoa học nghiên cứu về du lịch không ngừng đi sâu và đã
đưa ra rất nhiều các quan điểm có tính chất gợi mở. Các học giả người Mỹ như Mathieson
và Wall cho rằng:
Các loại hình
dịch vụ
mua sắm
------------------
- Hàng lưu
niệm
- Quà tặng
- Đồ thể
thao
- Hàng hoá
khác
lưu trú,
ăn uống
------------------
- Lưu trú:
hotel,
motel,
bungalow,
làng du
lịch,
camping…
giảI trí
-----------------
- Tham
quan, vãn
cảnh
- Thăm bảo
tàng
- Thể thao
- Lễ hội
vận chuyển
------------------
- Đường bộ
- Đường
sắt
- Đường
thủy
- Đường
không
Du lịch là ngành có hàng loạt mối liên quan lẫn nhau để phục vụ khách
du lịch trong và ngoài nước. Du lịch liên quan đến du khách, hình thức lữ hành,
cung cấp ăn, ở, thiết bị và các vật dụng khác, nó cấu thành một khái niệm tổng
hợp không ngừng biến đổi theo thời gian và hoàn cảnh, một khái niệm đang
hình thành và đang thống nhất [7].
Một học giả Mêhicô trong cuốn "Ngành du lịch là một giao lưu của loài người" cho
rằng: "Ngành du lịch có thể được xem là tổng hợp các mối quan hệ được hình thành nên nhằm
cung cấp dịch vụ và các tiện lợi khác cho khách du lịch".
Các khái niệm và định nghĩa về ngành du lịch trên đây tuy không thật giống nhau
nhưng đều có hai điểm tương đồng. Thứ nhất, ngành du lịch là một ngành kinh tế có tính
tổng hợp do hàng loạt ngành liên quan hợp thành; Thứ hai, nhiệm vụ của ngành du lịch là
cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho khách du lịch. Điều 1 Pháp lệnh Du lịch đã chỉ rõ:
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung sâu
sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao; phát triển du lịch nhằm
đáp ứng nhu cầu thăm quan giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và du khách
quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội đất
nước [40].
Dựa vào cách xác định trên có thể hiểu du lịch là ngành kinh tế có tính tổng hợp,
lấy khách du lịch làm đối tượng, cung cấp sản phẩm, dịch vụ du lịch cần thiết cho khách
du lịch.
Cách hiểu này đã một phần lý giải tại sao đối với nhiều quốc gia, trong bảng phân
ngành của nền kinh tế quốc dân đã xếp du lịch là ngành dịch vụ. Hoạt động kinh doanh du
lịch chủ yếu là các dịch vụ, nhằm trợ giúp cho con người trong quá trình đi thăm quan, du
lịch như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ hướng dẫn, dịch vụ làm các thủ tục hải quan liên
quan đến quá trình du lịch, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, dịch vụ vui chơi giải trí... Có
thể minh họa qua Bảng 1.1 dưới đây:
Bảng 1.1: Sản phẩm của một số tổ chức kinh doanh du lịch
Cơ sở cung cấp Sản phẩm
Hãng hàng không Dịch vụ vận chuyển hàng không
Tàu biển Dịch vụ vận chuyển đường biển
Tàu thủy Dịch vụ vận chuyển đường thủy
Đường sắt Dịch vụ vận chuyển đường sắt
Đường bộ Dịch vụ vận chuyển bằng ô tô, mô tô
Lữ hành Dịch vụ thiết kế chương trình du lịch, dịch vụ điều
hành du lịch, hướng dẫn du lịch
Khách sạn Dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống và giải trí
Nhà hàng Chế biến và phục vụ các món ăn, đồ uống.
Cơ sở giải trí Dịch vụ phục vụ giải trí
Cơ sở thăm quan Dịch vụ phục vụ thăm quan
Các cơ sở bán hàng hóa Dịch vụ bán hàng
Các cơ sở bưu điện Dịch vụ bưu chính viễn thông
Các ngân hàng Dịch vụ chuyển hoặc đổi tiền
Các công ty bảo hiểm Dịch vụ bảo hiểm
Các cơ sở y tế Dịch vụ y tế
Các cơ sở Dịch vụ
Các hôi trợ Dịch vụ
Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam.
Cách hiểu này cũng có ý nghĩa quan trọng trong quản lý vĩ mô về du lịch của mỗi
quốc gia khi định hướng phát triển dịch vụ du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ
cấu nền kinh tế quốc dân.
Cấu trúc ngành du lịch hiện nay bao gồm:
- Kinh doanh lữ hành nội địa và quốc tế.
- Kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch.
- Kinh doanh dịch vụ ăn uống.
- Kinh doanh các dịch vụ bổ sung.
- Kinh doanh vận chuyển khách du lịch.
1.1.2. Vai trò của du lịch đối với phát triển kinh tế - xã hội
1.1.2.1. Vai trò về mặt kinh tế
Ngành du lịch được các nước trên thế giới coi là ngành công nghiệp không khói, là
"con gà đẻ trứng vàng", tức là ngành thu hồi vốn nhanh, tạo nhiều công ăn việc làm, bán hàng
tiếp thị xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ, ngoại giao và các quan hệ khác. Ngành công
nghiệp du lịch được các nước trên thế giới thừa nhận là một ngành kinh doanh có lợi
nhuận và phát triển với nhịp tăng trưởng cao, là nguồn đóng góp chủ yếu cho kinh tế - xã
hội. Theo tính toán của Hội đồng Du lịch lữ hành thế giới (WTTC), thu nhập của du lịch
bao gồm cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa năm 2005 là 6,2 nghìn tỷ USD, tăng 5,4% so với
năm trước, chiếm 3,8% GDP của thế giới. Nếu tính cả những đóng góp trực tiếp và gián
tiếp thì ngành du lịch chiếm 10,6% GDP toàn thế giới. Hàng năm, ngành này tạo ra 74,2
triệu việc làm, chiếm 2,8% lao động trên toàn cầu [41].
Giá trị của du lịch còn biểu hiện ở chỗ nó là ngành thu ngoại tệ, là ngành xuất
khẩu tại chỗ. ở rất nhiều quốc gia, du lịch là dịch vụ xuất khẩu chủ yếu và trở thành động
lực chủ yếu để phát triển kinh tế. Theo Hiệp hội Du lịch châu á - Thái Bình Dương
(PATA), hàng năm khách du lịch đem lại thu nhập cho khu vực châu á - Thái Bình Dương
khoảng 35 tỷ USD. Trong 3 năm tới, toàn bộ khu vực này sẽ thu được khoảng 110 tỷ USD
từ hoạt động du lịch, trong đó Trung Quốc dự kiến đạt 36 tỷ USD, Thái Lan 13 tỷ USD,
Malaysia 11 tỷ USD và Hàn Quốc khoảng 7 tỷ USD.
ở Mỹ, hoạt động du lịch được coi là động lực kinh tế xuất khẩu. Hàng năm, có trên
46 triệu lượt khách đến nước này, chiếm 6% thị phần khách du lịch thế giới và mang lại
hơn 75 tỷ USD hàng năm [41].
Thực tiễn cho thấy, khách du lịch tiêu thụ một khối lượng lớn nông sản thực phẩm
dưới dạng các món ăn, đồ uống, mua sắm hàng hóa, sản phẩm thủ công mỹ nghệ... Nhờ
vậy, các địa phương hoặc quốc gia thông qua hoạt động du lịch thu được ngoại tệ tại chỗ
với hiệu quả cao. Xuất khẩu hàng hóa theo đường du lịch có lợi hơn nhiều so với con
đường ngoại thương. Trước hết, một phần lớn đối tượng mua bán hàng hóa và dịch vụ là
lưu trú, ăn uống, vận chuyển, dịch vụ bổ sung, do vậy xuất khẩu qua con đường du lịch là
xuất đa dạng dịch vụ, đó là điều mà ngoại thương không làm được. Ngoài ra, đối tượng
xuất khẩu của du lịch quốc tế còn là hàng ăn, uống, rau quả, hàng lưu niệm v.v.... là những
mặt hàng rất khó xuất khẩu theo con đường ngoại thương, đồng thời tiết kiệm được các chi
phí về lưu kho, bảo quản, bao bì, đóng gói, vận chuyển, hao hụt do xuất khẩu.
Hiệu quả kinh tế cao của du lịch còn thể hiện ở thu nhập. Theo tính toán của các
chuyên gia kinh tế, mỗi USD doanh thu từ du lịch sẽ tạo ra từ 2-3 USD thu nhập gia tăng tùy
thuộc vào khối lượng hàng hóa và dịch vụ được các nhà kinh doanh trong nước cung cấp.
Với sự gia tăng thu nhập ngoại tệ, du lịch đã góp phần đáng kể làm cân bằng cán cân thanh
toán của mỗi quốc gia.
Hoạt động du lịch tác động mạnh đến cơ cấu cán cân thu, chi của vùng du lịch, của
một đất nước. Đối với du lịch quốc tế, việc mang ngoại tệ đến đổi và chi tiêu ở khu vực du
lịch làm tăng tổng số tiền trong cán cân thu chi của vùng và của đất nước. Có thể thấy,
nguồn thu nhập ngoại tệ từ khách du lịch quốc tế của nhiều nước ngày càng tăng. Chẳng
hạn, Mỹ luôn là nước đứng đầu thế giới về thu nhập từ du lịch quốc tế. Năm 1990, ngành
du lịch nước này mang lại nguồn thu là 43 tỷ USD, thì đến năm 1996 đã lên tới 64,4 tỷ
USD, đến năm 2002 là 80,7 tỷ USD. Tiếp đến là Tây Ban Nha, năm 1996 thu được 28,4 tỷ
USD, thì năm 2002 con số này lên đến 38,7 tỷ USD. Pháp năm 1996 thu được 28,2 tỷ
USD, năm 2002 thu được 33,5 tỷ USD [43].
Đối với du lịch nội địa, việc tiêu tiền của dân cư ở vùng du lịch mặc dù chỉ gây
biến động trong cơ cấu cán cân thu chi của nhân dân theo vùng, không làm thay đổi tổng
số như tác động của du lịch quốc tế. Song sự phát triển của du lịch nội địa lại sử dụng được
triệt để công suất của các cơ sở vật chất kỹ thuật, đảm bảo cho đời sống của nhân dân địa
phương được sử dụng các dịch vụ của cơ sở kinh doanh du lịch, huy động được tiền nhàn
rỗi của nhân dân, đồng thời cũng là một trong những hình thức tái sản xuất sức lao động
của con người, lại vừa là biện pháp để nâng cao kiến thức, giáo dục chính trị tư tưởng cho
nhân dân lao động, càng làm tăng thêm tình yêu quê hương đất nước.
1.1.2.2. Về mặt xã hội
Trong thời đại hiện nay, việc làm cho người lao động là vấn đề bức xúc nhất của
các quốc gia. Du lịch phát triển tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần đáng
kể giảm tỷ lệ thất nghiệp, thu hút một số lượng lao động rất lớn, nâng cao mức sống của
người dân. Đối với nhiều người, du lịch được nhìn nhận như một nghề kinh doanh béo bở,
dễ làm. Vì vậy, xu hướng chuyển đổi hay chuyển hướng sang kinh doanh du lịch là một
động cơ tốt để mọi người trau dồi, bổ sung các kiến thức cần thiết như ngoại ngữ, giao
tiếp, văn hóa, lịch sử v.v...
Theo tính toán của các chuyên gia du lịch, cứ một việc làm trực tiếp trong ngành
du lịch sẽ tạo ra từ 1,3 - 3,3 việc làm của ngành khác. Theo cách tính toán này, lao động
trực tiếp, lao động gián tiếp phục vụ cho ngành du lịch chiếm khoảng 10,7% tổng số lao
động của toàn thế giới. ở Việt Nam năm 2006 có khoảng 70 vạn lao động du lịch (lao động
làm việc trực tiếp và lao động gián tiếp) và hàng năm du lịch cần có thêm 25.000 lao động
mới và cần phải bồi dưỡng, đào tạo lại số lượng lao động tương đương [27, tr. 19]. Phát
triển du lịch góp phần ngăn cản luồng di dân tự do từ nông thôn lên thành phố vì du lịch đã
tạo điều kiện để người nông dân kiếm được việc làm ngay trên quê hương của mình bằng
các nghề chăn nuôi, trồng trọt, làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống phục vụ
khách du lịch.
Phát triển du lịch góp phần nâng cao dân trí, làm phong phú thêm nhận thức, đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đồng thời góp phần mở rộng và củng cố mối quan hệ
hợp tác, ngoại giao, giao lưu kinh tế, văn hóa khoa học, kỹ thuật, tạo mối quan hệ thân
thiện, hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, giữa các quốc gia. Phát triển du lịch sẽ góp phần
xóa đói giảm nghèo, sẽ làm thay đổi diện mạo của một vùng, của một quốc gia ngày càng
văn minh hơn, tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên, hậu quả đầu tiên về mặt xã hội khi phát triển du lịch có thể làm phát
sinh và gia tăng các tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, ma túy. Thậm chí ở một số nước còn
tổ chức nhiều nhà chứa phục vụ khách, nguy hiểm hơn, giờ đây còn xuất hiện ngày càng
gia tăng tình dục trẻ em. Nhiều khách sạn núp dưới chiêu bài dancing, karaoke, cắt tóc thư
giãn, để tổ chức mại dâm.
1.1.2.3. Về mặt văn hóa
Mỗi dân tộc trên thế giới có một nền văn hóa truyền thống riêng, được hun đúc từ
bao đời. Du lịch là một trong những điều kiện quan trọng để các dân tộc giao lưu văn hóa
với nhau. Những yếu tố văn minh trong nền văn hóa nhân loại càng phát triển càng kích
thích phát triển những nét độc đáo của văn hóa dân tộc. Văn hóa dân tộc phát triển góp
phần làm phong phú, đa dạng thêm nền văn hóa nhân loại, nâng cao trí thức của con người.
Khi đi du lịch, khách du lịch luôn muốn được thâm nhập vào các hoạt động văn hóa của
địa phương và con người địa phương.
Đối với các quốc gia, du lịch có vai trò làm tăng cường sự hiểu biết, tình hữu nghị
giữa các dân tộc, là sứ giả của hòa bình và hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc.
Đối với một quốc gia, du lịch là điều kiện để mọi người hiểu nhau hơn, tăng thêm
tình đoàn kết cộng đồng, điều này rất dễ nhận thấy ở lứa tuổi thanh niên, ở những cơ quan
xí nghiệp có chế độ làm việc ít tập trung hay làm việc căng thẳng theo dây chuyền v.v...
Những chuyến tham quan du lịch tại các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, có tác
dụng giáo dục tinh thần yêu nước, khơi dậy lòng tự hào dân tộc. Khi tiếp xúc trực tiếp với
các di tích lịch sử, các công trình văn hóa của dân tộc, được sự giải thích cặn kẽ của hướng
dẫn viên, du khách sẽ thực sự cảm nhận được giá trị to lớn của của các di tích, các công
trình văn hóa (có thể không có quy mô đồ sộ trước mắt) mà thường ngày không để ý tới.
Cũng chính nhờ có du lịch mà cuộc sống cộng đồng trở nên sôi động hơn, các nền văn hóa
có điều kiện hòa nhập với nhau, làm cho đời sống văn hóa tinh thần của con người trở nên
phong phú hơn.
Du lịch sẽ là động lực trực tiếp và gián tiếp nhằm chấn hưng, bảo tồn, bảo tàng,
phát triển những tài sản văn hóa quốc gia, sẽ khôi phục và phát triển các di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể, các loại hình nghệ thuật truyền thống, các nghề thủ công mỹ nghệ...
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, nhờ du lịch phát triển mà một số công trình kiến trúc như
đền đài, miếu, chùa, cung điện được cứu khỏi sự sụp đổ. Những loại hình nghệ thuật
truyền thống như tuồng, chèo, ca Huế, múa cung đình có nguy cơ bị mai một, lãng quên
nhờ có du lịch nay đã được khôi phục và phát triển.
Nhưng sự phát triển du lịch cũng đã kéo theo cả những nền văn hóa của các nước
khác thông qua khách du lịch trong đó có cả những văn hóa, lối sống trái với thuần phong
mỹ tục, làm xói mòn hoặc mất đi bản sắc văn hóa địa phương, dân tộc.
1.1.2.4. Về môi trường
Phát triển du lịch có tác dụng thúc đẩy cải tạo môi trường, làm cho cảnh quan, môi
trường sinh thái xanh, sạch, đẹp hơn. Mặt khác, phát triển du lịch là động lực thúc đẩy xây
dựng các cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu rừng
quốc gia, các sân chim... Là điều kiện tốt để bảo vệ các loài động, thực vật quí hiếm, bảo
vệ môi trường.
Bên cạnh những mặt tích cực, phát triển du lịch có nguy cơ làm hủy hoại, phá vỡ
hệ sinh thái môi trường, làm ô nhiễm nguồn nước, tàn phá các danh lam thắng cảnh, làm
cạn kiệt dần nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Du lịch là ngành hoạt động đòi hỏi môi trường và khoảng không rất lớn, là yếu tố
nội tại của ngành du lịch. Văn hóa và môi trường là nguyên liệu thô của ngành công
nghiệp du lịch. Vấn đề đặt ra cho người lãnh đạo, người quản lý, người kinh doanh là phải
có chiến lược phát triển du lịch đúng đắn để phát huy mạnh mẽ những thế mạnh và hạn chế
đến mức tối đa những mặt tiêu cực do phát triển du lịch đem lại. Đồng thời, đây cũng là
trách nhiệm mỗi người dân, là trách nhiệm chung của toàn xã hội.
1.1.3. Các nhân tố tác động đến phát triển ngành du lịch thành ngành kinh tế
mũi nhọn
1.1.3.1. Các nguồn lực về du lịch
Các nguồn lực du lịch là những tác nhân rất quan trọng tác động mạnh đến phát
triển du lịch. Có nhiều nguồn lực du lịch, dưới đây là một số nguồn lực du lịch chủ yếu.
Một là, nguồn lực thiên nhiên. Nguồn lực này bao gồm vị trí địa lý, tài nguyên
thiên nhiên, khí hậu, rừng, núi, bờ biển, vịnh, hang động, sông, thác nước, suối, môi trường
sinh thái... Cụ thể đó là sự thuận lợi do vị trí địa lý mang lại như thông thương với các nước
dễ dàng, có đường biển, đường bộ, đường hàng không là trung tâm của những vùng kinh tế
phát triển năng động trên thế giới. Đây là một nhân tố cơ bản để phát triển du lịch. Quốc
gia nào có nhiều tài nguyên tự nhiên thì quốc gia đó có tiềm năng lớn để thu hút được
nhiều khách du lịch đến tham quan.
Hai là, nguồn lực nhân văn bao gồm bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa, thể
hiện bằng hệ thống các di tích lịch sử, di tích văn hóa, phong tục tập quán, lễ hội, các món
ăn uống dân tộc, các loại hình nghệ thuật, các lối sống, nếp sống của các tộc người mang
bản sắc độc đáo còn lưu giữ được đến ngày nay. Những nguồn lực ấy được phân loại theo
chiều thời gian lịch sử từ cổ đại, trung đại, cận đại, hiện đại. Chẳng hạn, nền văn minh Ai
Cập cổ đại với Kim tự tháp nổi tiếng; nền văn hóa Hy Lạp cổ đại với nhiều thành tựu đặc
sắc về văn hóa nghệ thuật, toán học, vật lý, hóa học v.v..., có vai trò rất quan trọng đối với
phát triển du lịch.
Ba là, dân cư và lao động là một nguồn lực để phát triển du lịch thành ngành kinh
tế mũi nhọn, bao gồm hai yếu tố chính là người làm ra sản phẩm du lịch và người tiêu thụ
sản phẩm du lịch.
Thời gian nhàn rỗi và mức sống, thu nhập của người dân là điều kiện quan trọng
nhất tạo nên khối lượng khách du lịch. Điều kiện này phụ thuộc vào chế độ làm việc, vào
sức sản xuất, phát triển sản xuất cũng như thu nhập của người dân mỗi quốc gia. Các
chuyên gia du lịch cho rằng, ở các nước kinh tế phát triển, khi thu nhập của người dân tăng
1%, thì chi phí cho du lịch tăng 1,5%. Dân cư và lao động là nguồn cung cấp lao động cho
các hoạt động dịch vụ du lịch. Thực tế cho thấy việc phục vụ một khách du lịch có thể tạo
ra việc làm cho 3-5 lao động. Với một tỷ lệ đó, rõ ràng một nước muốn phát triển du lịch,
phải có thị trường sức lao động tương ứng.
Trình độ văn hóa của người dân cũng góp phần vào phát triển du lịch. Con người
thân thiện, hiền hòa, mến khách, ứng xử văn minh lịch sự, tạo nhiều thiện cảm cho du
khách, khiến họ truyền bá những điều tốt đẹp về đất nước, con người của điểm đến cho
những người thân quen, có thể tạo thành làn sóng du lịch mới.
Phần lớn những người khách tham gia vào hành trình du lịch, đều là người có trình
độ văn hóa, nhất là những người đi du lịch nước ngoài. Người có trình độ văn hóa càng
cao, thì nhu cầu đòi hỏi đi du lịch càng lớn, đòi hỏi chất lượng dịch vụ càng phải hoàn
thiện và đa dạng.
Bốn là, cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị hạ tầng. Đây là một nguồn lực, một điều
kiện không thể thiếu để phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Cơ sở vật chất kỹ
thuật và kết cấu hạ tầng tốt, đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch, ngược
lại sẽ gây khó khăn cho phát triển du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng bao
gồm:
- Cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị hạ tầng phục vụ ăn uống, lưu trú: là cơ sở vật
chất kỹ thuật nhằm đảm bảo nơi ăn, chốn ở cho khách du lịch. Đây là hai dịch vụ đặc trưng
nhất của hoạt động kinh doanh du lịch, chúng đáp ứng nhu cầu bản năng của con người (ăn
và ngủ), khi họ sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Dịch vụ lưu trú và dịch vụ ăn
uống chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành của các sản phẩm du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của dịch vụ ăn uống: bao gồm toàn bộ các phương tiện vật
chất, tham gia vào việc sản xuất và cung ứng các dịch vụ hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu ăn
uống và giải trí của du khách. Chúng bao gồm tất cả các phòng ăn, phòng trà, nhà kho, nhà
bếp, các trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho việc chế biến và các trang thiết bị, dụng cụ phục
vụ cho khách ăn.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của dịch vụ lưu trú: bao gồm tất cả các phòng ngủ, các tài
sản, trang thiết bị tiện nghi phục vụ khách ngủ qua đêm. Các loại hình cơ sở lưu trú gồm:
hotel, motel, làng du lịch, camping (lều trại), bungalow, biệt thự, nhà trọ.
- Mạng lưới bán hàng: là một thành phần trong cơ cấu cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch về mua sắm, bằng việc bán các hàng hóa đặc
trưng của địa phương mình, của đất nước mình, hàng thực phẩm và các loại hàng hóa
khác. Cơ sở vật chất kỹ thuật này gồm hai phần: một phần thuộc các trung tâm dịch vụ du
lịch, phục vụ khách du lịch là chủ yếu. Phần khác thuộc mạng lưới thương nghiệp địa
phương, với nhiệm vụ phục vụ nhân dân địa phương, đồng thời cũng đóng vai trò quan
trọng đối với phục vụ khách du lịch, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nơi đó.
- Cơ sở thể thao: là một bộ phận của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, có tác dụng
tạo điều kiện thuận lợi cho kỳ nghỉ của du khách, làm cho nó trở nên tích cực hơn. Các cơ
sở thể thao bao gồm cả các công trình thể thao, các phòng thể thao hay các trung tâm thể
thao với nhiều loại khác nhau, các thiết bị chuyên dùng cho mỗi loại thể thao như: bể bơi,
xe đạp nước, sân quần vợt sân bóng đá, sân golf, trường đua ngựa… Ngày nay, công trình
thể thao là một bộ phận không thể tách rời cơ sở vật chất kỹ thuật của các trung tâm du
lịch. Chúng làm phong phú và đa dạng các loại hình hoạt động du lịch, làm tăng sự hấp
dẫn, kéo dài thời thời gian lưu trú của khách, làm tăng hiệu quả sử dụng khách sạn,
camping.
- Cơ sở y tế: nhằm mục đích phục vụ du lịch chữa bệnh và cung cấp dịch vụ bổ sung
tại các điểm du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật ở đây bao gồm: các trung tâm chữa bệnh (bằng
nước khoáng, ánh nắng mặt trời, tắm bùn, các món ăn kiêng), các phòng y tế với các trang
thiết bị như: sauna - massage, thẩm mỹ.
- Các công trình phục vụ văn hóa thông tin: bao gồm các trung tâm văn hóa thông
tin, phòng chiếu phim, câu lạc bộ, phòng triển lãm. Hoạt động văn hóa thông tin có thể
được tổ chức thông qua các buổi dạ hội hữu nghị, dạ hội hóa trang, đêm ca nhạc, tuần lễ
biển, tổ chức các buổi gặp gỡ trao đổi giữa những người khách du lịch có cùng nghề, buổi
chiếu phim, xem kịch, tham quan viện bảo tàng…
- Cơ sở phục vụ các dịch vụ bổ sung khác: bao gồm trạm xăng dầu, thiết bị cấp
cứu (ở biển hoặc núi), xưởng sửa chữa dụng cụ thể thao, phòng rửa tráng phim ảnh, hiệu
cắt tóc, hiệu sửa đồng hồ, hiệu giặt là, bưu điện, dịch vụ Internet, phòng sao chụp.
- Mạng lưới và phương tiện giao thông vận tải: bao gồm đường bộ, đường hàng
không, đường sắt. Mạng lưới giao thông phát triển tạo điều kiện cho việc đi lại của khách
một cách dễ dàng. Đồng thời tạo điều kiện khai thác tối đa tiềm năng du lịch của một
vùng, một địa phương, một đất nước.
- Mạng lưới thông tin liên lạc: đảm nhận việc vận chuyển các tin tức một cách
nhanh chóng và kịp thời, góp phần đắc lực vào thực hiện giao lưu giữa các vùng, các khu
vực, các nước.
1.1.3.2. Các nhân tố về kinh tế, chính trị, pháp luật
Một là, tiềm lực kinh tế. Đó là sự phát triển kinh tế của một nước, từ công nghiệp,
nông nghiệp, xuất - nhập khẩu, giao thông vận tải, tài chính-ngân hàng… Kéo theo nó là sự
gia tăng các doanh nhân, những nhà đầu tư, những nhà tiếp thị đến với nước mình. Chính
nguồn khách này sẽ tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ của ngành du lịch như dịch vụ lưu trú,
dịch vụ ăn uống, dịch vụ vận chuyển, dịch vụ tham quan v.v... Một đất nước trong một
năm tổ chức được nhiều Hội chợ quốc tế về thương mại, công nghiệp, thì đồng thời cũng
là nguồn cung ứng khách du lịch. Một bến cảng mà mật độ, khối lượng giao, nhận hàng
hóa với khách hàng quốc tế lớn, thì ở đó số lượng khách lên bờ sẽ nhiều, và như vậy sẽ tạo
điều kiện cho kinh doanh khách sạn, nhà hàng.
Hai là, sự ổn định chính trị. Các nước có nền kinh tế phát triển, chính trị trong
nước ổn định, có đường lối hòa nhập cộng đồng, làm bạn với tất cả mọi người thì nhu cầu
đi du lịch của người dân đến các nước khác cũng như thu hút người dân của các nước khác
đến du lịch ngày càng tăng. Nền kinh tế có nhiều biến động, chính trị bất ổn, đồng tiền lạm
phát người dân đi du lịch giảm, người dân của các nước khác đến du lịch cũng giảm.
Ba là, có đường lối, chính sách phát triển du lịch đúng đắn. Đây là yếu tố rất quan
trọng để phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Bởi lẽ đường lối, chính sách phát
triển du lịch xác định rõ vị trí của ngành du lịch trong tổng thể các ngành kinh tế xã hội và
có định hướng, biện pháp đúng đắn để phát triển ngành này. Tổ chức Du lịch thế giới
(WTO), trong một báo cáo của mình năm 1987 đã nhận xét:
Kinh tế du lịch ở một số nước phát triển mạnh, đây không phải là một
sự ngẫu nhiên, đột xuất mà do một số nước, chính phủ các nước đã quan tâm,
đặt du lịch theo hướng phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn. Do đó, ngành du
lịch phát triển rất năng động trong việc kế hoạch hóa đầu tư thành ngành du
lịch quốc gia liên kết chặt chẽ với nền thương mại du lịch của các nước trên thế
giới.
1.1.3.3. Tiềm năng và nhu cầu của khách du lịch
Khả năng về thu nhập: Du lịch là nhu cầu thứ yếu. Khi các nhu cầu thiết yếu như
ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh đã đầy đủ thì con người mới nghĩ đến nhu cầu đi tham
quan, giải trí tức là du lịch chỉ phát triển khi nhu cầu thiết yếu được thỏa mãn. Thường ở
những nước có thu nhập bình quân đầu người cao thì nhu cầu về du lịch sẽ cao hơn ở các
nước có thu nhập thấp.
Về thời gian nhàn rỗi: Các nền kinh tế khác nhau, thời gian nhàn rỗi của mỗi
người dân cũng khác nhau và họ dành quỹ thời gian đi du lịch cũng khác nhau nhưng quỹ
thời gian dành cho đi du lịch của mỗi người phụ thuộc rất lớn vào quỹ thời gian nhàn rỗi.
1.2. Tiêu chí và vai trò của việc phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi
nhọn ở Hà Nội
Có thể hiểu ngành kinh tế mũi nhọn là một trong những ngành kinh tế quan trọng
bậc nhất trong chiến lược phát triển kinh tế quốc dân, của một đất nước, trong một giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Đó là những ngành kinh tế có tiềm năng tăng trưởng
cao, có thị trường rộng, tạo được nguồn tích lũy lớn và thúc đẩy các ngành kinh tế khác
phát triển theo với việc phát triển yếu tố con người.
1.2.1. Tiêu chí lựa chọn ngành kinh tế mũi nhọn
Xác định ngành mũi nhọn là quá trình phân tích, đánh giá những thuận lợi của
những ngành trong điều kiện hiện tại và triển vọng trong trung hạn cũng như dài hạn, xem
xét vai trò hiện nay và tương lai của ngành đó trong toàn bộ quá trình phát triển kinh tế,
trên cơ sở đó chọn ra những ngành có cơ hội tốt nhất để phát triển trong tương lai và đề ra
các chính sách đảm bảo những nguồn lực khan hiếm và nguồn lực lao động của đất nước.
Về nguyên tắc, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hiệu quả luôn luôn là tiêu
chuẩn cơ bản nhất để lựa chọn ngành mũi nhọn. Việc xa rời nguyên tắc này, đồng nghĩa
với việc phủ nhận trên thực tế vai trò điều tiết của cơ chế thị trường, đặc biệt là vai trò
phân bổ các nguồn lực. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần hiểu khái niệm hiệu quả thế nào
cho phù hợp. Tương quan giữa hiệu quả kinh tế thuần túy và hiệu quả kinh tế - xã hội
trong đó là như thế nào? Có ba điểm đáng lưu ý:
Thứ nhất, hiệu quả phải được xét trên quan điểm dài hạn và được coi là tiêu chuẩn
chủ đạo, điều đó cũng không có nghĩa là bỏ qua những lợi ích ngắn hạn. Song, khi theo
đuổi mục tiêu tăng trưởng cao, lâu bền như là mục tiêu hàng đầu, thì việc ưu tiên bất cứ
ngành nào trong giai đoạn đầu trước hết cũng phải nhằm mục đích tạo dựng cơ sở tăng
trưởng vững chắc cho toàn bộ nền kinh tế ở giai đoạn sau, hướng tới việc nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc tế và trình độ khoa học- công nghệ của đất nước.
Thứ hai, để đảm bảo sự phát triển bền vững theo một mô hình tăng trưởng và phát
triển kinh tế, xã hội bền vững, rõ ràng không chỉ quan tâm đến hiệu quả kinh tế thuần túy
(được đo bằng lợi nhuận hay hiệu suất vốn đầu tư). Các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh
tế - xã hội như: mức độ tạo công ăn việc làm, phân phối lợi ích do tăng trưởng kinh tế
mang lại cho các tầng lớp dân cư khác nhau đặc biệt là cho nông dân, cũng cần được tính
tới như những tiêu thức chủ yếu. Trên quan điểm dài hạn, không hề có sự đối lập hay loại
trừ lẫn nhau giữa các tiêu chuẩn loại này với nhau. Kinh nghiệm của các nước có nền kinh
tế tăng trưởng cao ở châu á cho thấy, hai yếu tố này về cơ bản là có tác động cùng chiều,
thúc đẩy lẫn nhau. ở cấp độ cao hơn, còn có thể nói rằng hiệu quả kinh tế, lợi ích tăng
trưởng kinh tế chỉ có thể đạt mức tối đa khi nó gắn liền với sự đảm bảo một hiệu quả kinh
tế - xã hội cao.
Thứ ba, những ngành được lựa chọn ưu tiên phát triển, cần phải là ngành có hệ số tác
động cao đến sự phát triển trong tương lai đối với nhiều nhiều ngành khác. Nói cách khác
đi, một mức tăng trưởng cao của ngành được ưu tiên sẽ phải kéo theo sự tăng trưởng của
nhiều ngành có liên quan không nằm trong diện ưu tiên. Phạm vi các ngành chịu sự tác động
bị "lôi kéo tăng trưởng" và mức độ tác động đến tốc độ tăng trưởng của ngành "bị kéo" này từ
sự phát triển của một ngành nào đó tạo nên hiệu quả phát triển toàn bộ của nó. Đây được coi là
tiêu chuẩn chung, bắt buộc để lựa chọn ngành mũi nhọn.
Xuất phát từ vấn đề này, câu hỏi cụ thể hơn cần được trả lời là: những tiêu thức
chính, để xác định ngành mũi nhọn là gì? Đó là ngành mà:
- Đóng góp cao vào GDP, là ngành tạo ra đòn bẩy thúc đẩy các ngành khác, ngành
có khả năng tích lũy cao.
- Có tác động thúc đẩy các ngành khác, tạo đà cho tăng trưởng chung, tạo sự
chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực.
- Có điều kiện sử dụng nguyên liệu trong nước.
- Tận dụng được lao động hiện có, thúc đẩy lao động kỹ thuật.
- Có thị trường rộng lớn ở trong nước và nước ngoài.
Các tiêu chí trên có quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau (chế định lẫn nhau), tất
cả chúng đều hướng tới mục tiêu dài hạn của nền kinh tế: tăng trưởng nhanh với hiệu quả
sử dụng vốn cao, tăng nguồn thu nhập ngoại tệ (được coi là nguồn lực quan trọng nhất hiện
nay), tạo nhiều công ăn việc làm, theo định hướng tăng trưởng đã được lựa chọn (định hướng
tăng trưởng xuất khẩu).
Trong nền kinh tế mở, các ngành kinh tế mũi nhọn đều phải đặt vào cạnh tranh
quốc tế hay khu vực, đều phải tự mình có sức cạnh tranh để tồn tại. Điều này đòi hỏi tất cả
các ngành kinh tế mũi nhọn phải có biện pháp nhằm thay thế nhập khẩu, cũng như phải có
công nghệ thích ứng với các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực.
Ngành kinh tế mũi nhọn thường là những ngành "mặt trời mọc". Đó là những ngành
tiên tiến về kỹ thuật sản xuất, có hàm lượng trí tuệ cao, đang từng bước có những đóng góp
lợi nhuận lớn, giữ vai trò quan trọng cho quốc gia trong tương lai.
1.2.2. Vai trò của ngành kinh tế mũi nhọn
Như đã đề cập ở trên, sự lựa chọn các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
quốc gia đã giúp các nước cần thiết phải chỉ ra ngành kinh tế mũi nhọn. Nhưng khi đã xác
định và tạo điều kiện cho ngành kinh tế mũi nhọn phát triển, thì ngành kinh tế mũi nhọn lại
có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quốc gia đó trên các mặt sau:
Thứ nhất, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia. Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa
các ngành và làm thay đổi mối tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đó. Nếu
cơ cấu kinh tế hướng vào mục đích cần đạt được của nền kinh tế thì đầu tư chính là
phương tiện để đảm bảo cho cơ cấu đó được hình thành hợp lý theo mục đích hướng tới
của nó. Tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành khác nhau, sẽ mang lại những hiệu quả khác
nhau, ảnh hưởng trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành và ảnh hưởng chung đến toàn bộ
nền kinh tế. Lý thuyết phát triển ngành không cân đối hay cực tăng trưởng cho rằng, đầu tư
phải được phân bổ cho một số lượng hạn chế cực phát triển để tạo ra khả năng lôi kéo đối
với các ngành khác. Trên thực tế, không thể và không nhất thiết phải đảm bảo tăng trưởng
bền vững bằng cách duy trì cơ cấu cân đối của liên ngành và liên vùng.
Việc tăng trưởng và phát triển với một cơ cấu kinh tế không cân đối sẽ hạn chế sự
kích thích đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất. Những dự án đầu tư vào một số lĩnh vực thì
áp lực đầu tư xuất hiện do cầu lớn hơn cung, đầu tư được lôi kéo theo cấp số nhân. Tuy
nhiên, trong mỗi giai đoạn của thời kỳ công nghiệp hóa, vai trò cực tăng trưởng của các
ngành trong nền kinh tế là không giống nhau. Cần tập trung những nguồn lực khan hiếm
cho một số lĩnh vực trong những giai đoạn nhất định. Đồng thời, ở các nước đang phát
triển rất thiếu vốn, công nghệ, lao động có kỹ thuật và thị trường nên không đủ điều kiện
để cùng một lúc phát triển đồng bộ tất cả các ngành hiện đại. Phát triển cơ cấu kinh tế
không cân đối, lựa chọn cực tăng trưởng là bắt buộc và phù hợp trong điều kiện đó.
Sự thành công của các nước công nghiệp Đông á đã thừa nhận sự hợp lý của lý
thuyết này, với mô hình phát triển mở cửa, hướng ngoại và càng trở nên quan trọng đối với
quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành khi mỗi quốc gia đang phát triển thực hiện những cuộc
bứt phá thông qua việc lựa chọn và phát triển ngành trọng điểm, ngành mũi nhọn.
Thứ hai, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của ngành, địa phương.
Trong thể thống nhất của cơ cấu kinh tế quốc dân, sự phát triển của ngành kinh tế này là
nhân tố thúc đẩy ngành kinh tế khác cùng phát triển. Tuy cùng nằm trong một cơ cấu kinh
tế chung, một số ngành kinh tế có những lợi thế riêng, trong quá trình phát triển trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn và khi đó nó tác động đến sự phát triển của nhiều ngành kinh tế
khác.
Thứ ba, giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn vốn tích lũy cao cho quốc gia.
Các nước NICs và các nước trong vùng Đông Nam á đã khôn ngoan biết rằng vốn liếng có
giá trị nhất của họ chính là nguồn lao động nên đã tìm cách khai thác triệt để lợi thế này và
nghiên cứu chỗ trống "thị trường ngách" trong nhu cầu của thị trường quốc tế, quyết định sử
dụng lao động để sản xuất các sản phẩm nhỏ cần ít vốn đầu tư, nhưng khả năng tiêu thụ trên
thị trường thế giới lại rất lớn. Họ nắm bắt được nhu cầu thị trường, nên chỉ tập trung sản xuất
"cái nhỏ" lại xuất khẩu được khối lượng hàng hóa lớn. Các quốc gia, lãnh thổ này đã biến
những ngành công nghiệp đã "xế chiều" của các nước đã phát triển thành "rạng rỡ bình minh"
cho quá trình công nghiệp hóa của mình. Họ không tham cái lớn khi còn ở ngoài "tầm tay".
Nhờ có sự lựa chọn ngành kinh tế có lợi thế làm mũi nhọn, các nước NICs và các nước trong
khu vực Đông Nam á không những phát triển được thành ngành kinh tế hướng xuất khẩu mà
còn nhanh chóng vào được thị trường quốc tế, giảm được tỷ lệ thất nghiệp.
Thứ tư, góp phần vào phát triển văn hóa - xã hội của quốc gia. Kinh tế cũng như
văn hóa muốn phát triển, cần phải có sự giao lưu giữa các vùng trong nước, giữa các dân
tộc trong khu vực và trên thế giới. Đối với một quốc gia, ngoài đời sống kinh tế còn có đời
sống văn hóa. Các mặt đó lại gắn bó với nhau tạo thành một chỉnh thể trong hoạt động đời
sống của con người. Do vậy, việc mở rộng thị trường, phát triển giao thông giữa các vùng
trong nước, hoạt động kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia…, chẳng những là điều kiện
quan trọng để phát triển ngành kinh tế mũi nhọn mà còn tác động không nhỏ đến việc phát
triển văn hóa của một quốc gia. Nhất là khi nền kinh tế mũi nhọn đã thể hiện đầy đủ các ưu
thế như tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nguồn tích lũy lớn, đời sống của nhân dân được cải
thiện thì tác động của nó tới sự phát triển văn hóa của một dân tộc còn lớn hơn nhiều, điều
kiện giữ gìn môi trường xã hội và nền văn hóa dân tộc trở nên vững chắc.
Thứ năm, tạo cơ sở ổn định của một quốc gia. Trong một nước, kinh tế và chính trị
thường gắn bó chặt chẽ với nhau, kinh tế đóng vai trò cơ sở còn chính trị là sự biểu hiện
tập trung của kinh tế. Do vậy, việc ổn định cơ bản và lâu dài về chính trị của một quốc gia
suy cho cùng là do cơ sở kinh tế quyết định. Trong cơ sở kinh tế đó thì vai trò tích cực
nhất, hiệu quả kinh tế to lớn nhất do các ngành kinh tế mang lại.
1.2.3. Tiêu chuẩn để đánh giá du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn
Ngành du lịch chỉ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, khi phải được quốc gia đó lựa
chọn làm chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia và có đủ các điều kiện cần thiết
khác như: nguồn lực tự nhiên, nguồn lực nhân văn, nguồn lực cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch, cơ sở hạ tầng, các cơ hội, nguồn lực bên ngoài… Để xác định ngành du lịch có phải là
ngành mũi nhọn của một quốc gia, một địa phương cần làm rõ một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, phân tích sự đóng góp của ngành du lịch vào GDP. Trên giác độ kinh
tế, người ta xếp du lịch là ngành dịch vụ rất được coi trọng ở các nước công nghiệp phát
triển và đã đóng góp một tỷ trọng rất lớn vào GDP của quốc gia. Chẳng hạn như: ở các
nước (ASEAN) du lịch chiếm tỷ lệ trong GDP như sau: Philipines 8-10%; Malaysia 12%;
Thái Lan 16% và Singapore 20%. Ngoài ra, cần tính cả những thu nhập khác của xã hội và
các ngành dịch vụ khác do hoạt động du lịch mang lại. Có rất nhiều ngành tạo nguồn thu từ
du lịch, theo cách tiếp cận từ phía khách du lịch có thể nêu ra một số nhóm ngành sau:
- Từ tài nguyên du lịch: Đó là các phí và lệ phí khác phải trả khi vào nước ta du
lịch (phí thị thực, phí sân bay, phí bến cảng, lệ phí vào thăm quan các di tích, các danh lam
thắng cảnh,…).
- Từ các ngành dịch vụ vận chuyển: (hàng không, đường sắt, đường biển, đường bộ),
hàng hóa bán cho khách, các dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm,… Phục vụ khách du lịch.
- Từ các dịch vụ cơ bản phục vụ khách du lịch: (dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống,
dịch vụ vui chơi giải trí, dịch vụ thể thao, dịch vụ đưa đón, dịch vụ hướng dẫn tham
quan,…).
Thứ hai, mức độ tác động của ngành du lịch đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của nền kinh tế. Phát triển du lịch tạo ra một thị trường tiêu thụ rộng lớn cho cả công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, không chỉ là thị trường tiêu thụ nội địa mà cả thị trường
xuất khẩu tại chỗ. Đây chính là động lực và chất xúc tác để chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, phải tính toán được những chỉ tiêu về định lượng, sự
đóng góp của hoạt động du lịch đối với từng khu vực và đối với từng ngành cụ thể.
Thứ ba, khả năng tạo ra việc làm của ngành du lịch, giải quyết các vấn đề kinh tế -
xã hội của quốc gia. Theo quy luật chung, đối với mỗi quốc gia khi thực hiện công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thì lực lượng lao động ở khu vực I và khu vực
II sẽ giảm rất nhanh, khu vực III là khu vực dịch vụ sẽ đóng một vai trò quan trọng
trong việc thu hút lực lượng lao động của xã hội.
Hoạt động du lịch thu hút nhiều lao động trong xã hội, kể cả trực tiếp phục vụ và
gián tiếp phục vụ, vì nó phải sử dụng con người để phục vụ con người chứ không thể cơ
giới hóa hay tự động hóa trong quá trình phục vụ được. Theo tính toán của các nhà kinh tế,
năm 1995 ngành du lịch của thế giới đã sử dụng 118 triệu lao động trực tiếp, 295 lao động
gián tiếp để phục vụ 563,5 triệu lượt khách du lịch quốc tế. Vì vậy, để tính chỉ tiêu này,
chúng ta hoàn toàn có thể tính toán được thông qua các khách du lịch hàng năm của của
các quốc gia.
Thứ tư, ảnh hưởng của ngành du lịch tới sự phát triển kinh tế của các vùng khó
khăn và thực hiện xóa đói giảm nghèo. Do những điều kiện khách quan, chủ quan về phát
triển du lịch, đồng thời kéo theo nhu cầu thị hiếu của con người về nhu cầu du lịch, các nước
đã tập trung phát triển du lịch ở những vùng hoặc địa phương có khó khăn nhằm phát triển
kinh tế của những vùng này, từng bước khắc phục sự chênh lệch giữa các vùng miền, thực
hiện tạo công ăn việc làm cho cộng đồng dân cư, xóa đói giảm nghèo… Điều này được thể
hiện qua kinh nghiệm của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Ví dụ: Đảo Bali của
Inđônêsia, Phu Két của Thái Lan, Lavegas của Mỹ… Từ những vùng nghèo nàn, lạc hậu
đã trở thành những khu du lịch nổi tiếng không những chỉ ở trong khu vực mà cả quốc tế,
hàng năm đã thu hút hàng triệu lượt khách du lịch quốc tế đến du lịch, tạo việc làm có thu
nhập cao cho người dân.
Thứ năm, khả năng đóng góp của ngành du lịch vào việc phục hồi và phát huy bản
sắc dân tộc. Nói đến du lịch là phải nói đến sự độc đáo, đặc sắc và hấp dẫn mang đậm nét
bản sắc văn hóa dân tộc với mục tiêu không những nhằm thu hút khách mà còn giới thiệu
truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc với bạn bè trên thế giới, và giáo dục lòng tự hào
dân tộc, tinh thần yêu nước. Điều này phải được thể hiện cụ thể trong mọi hoạt động du
lịch, từ việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị, phong cách phục vụ
đến các hoạt động trực tiếp phục vụ khác như hướng dẫn tham quan, vui chơi giải trí, bán
hàng lưu niệm…
Thứ sáu, tác động của ngành du lịch tới việc tạo ra các cơ hội và điều kiện thuận lợi để
các ngành khác của nền kinh tế hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Thông qua các
hoạt động du lịch, các ngành không chỉ tiêu thụ được sản phẩm của mình mà còn quảng bá
tuyên truyền ra quốc tế thông qua các hội nghị, hội chợ, triển lãm hoặc thông qua các quan
hệ đối tác với khách du lịch.
1.3. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế về phát triển du lịch thành ngành
kinh tế mũi nhọn và bài học rút ra
1.3.1. Một số kinh nghiệm quốc tế
Kinh nghiệm ở một số nước sử dụng rất nhiều hình thức phục vụ khách, với nhiều
hình thức độc đáo, nên đã thu hút được lượng khách trong nước và quốc tế đến ngày càng
đông. Như ở Thái Lan có các cửa hàng miễn thuế, bán các sản phẩm truyền thống giá rẻ,
chất lượng cao, các mặt hàng xa xỉ phẩm của các nước nổi tiếng, các loại quần áo hợp thời
trang nhằm thu hút khách du lịch, tư tưởng chỉ đạo dịch vụ của Thái Lan là: luôn luôn tìm
cách thỏa mãn một cách tối đa nhu cầu của khách cả về vật chất lẫn tinh thần, tâm lý; khẩu
hiệu phục vụ khách là "gây ấn tượng tốt cho khách ngay từ bước chân đầu tiên và làm cho
khách hài lòng đến bước chân cuối cùng".
ở Trung Quốc ngành du lịch đã đưa ra những sản phẩm du lịch độc đáo, đa dạng
nhằm thu hút khách du lịch, được xây dựng hàng năm theo các chủ đề: năm 1995 là "Năm
du lịch phong tục các dân tộc", năm 199l là "Năm du lịch nghỉ mát", năm 1997 là "Năm du
lịch đón Hồng Kông trở về với đất nước Trung Quốc ".
1.3.2. Một số kinh nghiệm trong nước
Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh, các hoạt động du lịch mang tính phổ biến
trong vài thập niên trở lại đây. Tạo nên thành thị mới sôi động có sức thu hút, lôi cuốn
ngày càng nhiều du khách trong nước và quốc tế, nhất là du khách quốc tế. Mới đầu các
điểm du lịch của các thành phố chủ yếu phục vụ người dân địa phương, cùng với sự phát
triển của du lịch thì các điểm này phát triển nhờ khách du lịch đến tham quan thành phố.
Đồng thời thành phố không chỉ là điểm đến của khách du lịch mà còn là điểm xuất phát
cho các chuyến du lịch đi các vùng và các nước khác. Đó chính là "cổng vào" để hình
thành chương trình du lịch của du khách quốc tế và trong nước. Chính vì vậy đã tập trung
làm tốt một số mặt sau đây:
- Tạo ra các "cổng vào" thuận tiện, dễ dàng, nhanh chóng cho du khách vào tham
quan, mua sắm.
- Xây dựng các cơ sở lưu trú theo quy hoạch, phù hợp với đối tượng khách đến
thành phố.
- Quy hoạch, nâng cấp các điểm tham quan du lịch, các điểm vui chơi giải trí trong
thành phố và các điểm phụ cận phục vụ khách.
- Xây dựng các trung tâm thương mại, trung tâm hội chợ triển lãm và trung tâm
hội nghị phục vụ du khách.
- Đa dạng hóa các cơ sở kinh doanh du lịch lữ hành.
- Xây dựng các cơ chế, chính sách hợp lý tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các
nhà đầu tư trong nước và quốc tế.
1.3.3. Một số bài học rút ra trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước
về việc phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
Một là, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các chính sách giải pháp để
thúc đẩy ngành du lịch phát triển.
Chiến lược phát triển ngành du lịch phù hợp với chiến lược phát triển nền kinh tế
đất nước, phát triển du lịch đồng bộ, kiện toàn mối quan hệ giữa ngành du lịch với các
ngành khác có liên quan.
Chiến lược tiếp thị, quảng cáo năng động đáp ứng được thị hiếu của khách du lịch.
Chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch đồng thời tích cực tuyên truyền
giáo dục mọi người dân hiểu rõ tầm quan trọng của du lịch. Đã đem lại kết quả đáng kể mang
lại nguồn thu ngoại tệ hàng năm khoảng 3-4 tỷ USD.
Chiến lược sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm du lịch, chú trọng phát triển sản
phẩm du lịch đến với mọi tầng lớp nhân dân, có môi trường du lịch an toàn thân thiện.
Có nền kinh tế và chế độ chính trị ổn định.
Hai là, mạnh dạn đầu tư cơ sở vật chất nhằm phát triển du lịch.
Để phát triển kinh tế, trước hết phải xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đặc biệt là
công nghệ thông tin, ở nhiều nước công nghiệp phát triển công nghệ thông tin du lịch đang
được ứng dụng phổ biến như ở nước Mỹ là 37%, ở Pháp là 35,1%... Đây là tiền đề cho
ngành du lịch phát triển.
Ngoài cơ sở hạ tầng chung như mọi ngành kinh tế khác, ngành du lịch còn có cơ
sở vật chất kỹ thuật đặc thù như khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí… Du lịch càng
phát triển thì cơ sở vật chất - kỹ thuật càng được nâng cao và tính đồng bộ của nó ngày
càng tăng.
Ba là, tạo ra những sản phẩm đa dạng, độc đáo, hấp dẫn lôi cuốn sự chú ý của
khách.
Tạo ra những sản phẩm du lịch có chất lượng cao, hấp dẫn mạnh tới khách trong
và ngoài nước phải được coi là công việc quan trọng bậc nhất cho hoạt động kinh doanh du
lịch của mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Sự hấp dẫn của những sản phẩm du lịch phụ thuộc
vào chính những thứ mà quốc gia và địa phương mình đã và đang có, đồng thời không tách
khỏi sự cố gắng sáng tạo của mỗi nhân viên trong ngành và sự phối hợp của các đơn vị có
liên quan. Sản phẩm của ngành du lịch chủ yếu là những dịch vụ, nhưng không phải là
những dịch vụ độc lập, riêng biệt mà là một "chuỗi dịch vụ", vừa kết hợp với nhau vừa đan
xen với nhau, vừa lặp đi lặp lại nhiều lần. Chất lượng của chuỗi dịch vụ này sẽ quyết định
thỏa mãn nhu cầu của khách cả về vật chất và tinh thần. Hơn nữa, nhiều dịch vụ lại được
thực hiện bởi nhiều doanh nghiệp kinh doanh nhiều ngành nghề khác nhau. Vì thế sản
phẩm du lịch, chất lượng, uy tín của toàn ngành là sự phấn đấu trong từng công đoạn, từng
doanh nghiệp và của sự phối hợp liên ngành, cuối cùng phải được du khách chấp nhận.
Nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch sẽ trở thành một vấn đề chiến lược trong hoạt động
kinh doanh du lịch. Kinh nghiệm ở một số nước sử dụng rất nhiều hình thức phục vụ
khách, với nhiều hình thức độc đáo, nên đã thu hút được nhiều khách trong nước và quốc
tế đến ngày càng đông.
Xã hội càng văn minh, kinh tế càng phát triển thì nhu cầu của du khách càng
phong phú đa dạng. Do vậy việc tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn khách du lịch là
một tất yếu khách quan, nhằm phát triển du lịch ở nhiều quốc gia hiện nay.
Bốn là, tăng cường tuyên truyền, quảng bá về du lịch.
Mục đích của tuyên truyền quảng bá trong kinh doanh du lịch là nhằm cung cấp
thông tin cho khách du lịch, làm cho họ nhận thức đúng và đầy đủ hơn các sản phẩm du
lịch, đồng thời thuyết phục họ mua sản phẩm.
Tuyên truyền, quảng bá phải nhằm vào thị trường khách cụ thể để đạt được mục
đích ở thị trường đó. Như vậy, dựa vào thị trường mục tiêu để xác lập mục tiêu cổ động.
Cần lựa chọn biện pháp xúc tiến là một trong năm hình thức sau: tuyên truyền, quảng cáo,
khuyến mại, chào hàng và xúc tiến bán hàng trực tiếp. Trên cơ sở đó xác định được thời
gian tiến hành.
Tuyên truyền, quảng bá đòi hỏi một chi phí lớn, nhưng rất cần thiết trong hoạt
động kinh doanh du lịch, hiệu quả của nó rất lớn, khó lượng hóa hết. Theo Tổ chức Du lịch
thế giới (WTO), ngân sách về tuyên truyền quảng bá của các nước hàng năm đều tăng. Có
nhiều nước đã dành một khoản ngân sách rất lớn chi cho hoạt động này như Canada 27
triệu USD, Hồng Kông 15 triệu USD, Sinhgapore 13 triệu USD… Theo các nhà kinh tế,
nếu bỏ ra 1 USD cho việc tuyên truyền, quảng cáo du lịch thì sẽ thu về khoảng 500 USD. ở
vùng châu á - Thái Bình Dương, nếu bỏ ra 1 USD cho tuyên truyền, quảng bá du lịch thì
chỉ thu được 150 USD, nhưng ở châu Âu lại lên đến 635 USD.
Năm là, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho du lịch.
Do đối tượng phục vụ của du lịch là con người, bao gồm cả người trong nước và
khách du lịch nên đòi hỏi trình độ của cán bộ, nhân viên du lịch phải cao. Do vậy, việc đào
tạo, bồi dưỡng, giáo dục cho đội ngũ nhân viên có ý nghĩa quan trọng nên nhiều nước phát
triển du lịch đều rất chú ý vấn đề này. Ví dụ: ở Inđônêsia có 60 viện đào tạo nhân viên
chuyên ngành du lịch. Năm 1993, tại khu du lịch nổi tiếng Bali (Inđônêsia), Hiệp hội Du
lịch châu á - Thái Bình Dương (PATA) và WTO đã mở hội nghị về chiến lược giáo dục, đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực cho du lịch, hoàn thiện kỹ năng phục vụ các dịch vụ trong
ngành công nghiệp không khói này.
Cũng tại hội nghị này, đã nhấn mạnh cần nhận thức đúng đắn và tiến hành tốt việc
giáo dục, đào tạo cho đội ngũ nhân viên có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ đạt tiêu
chuẩn quốc tế, đảm đương tốt mọi khâu công việc của ngành, vừa kết hợp được truyền
thống khu vực, vừa thực hiện việc hiện đại hóa du lịch, đồng thời với việc giáo dục toàn
dân.
Tóm lại, mọi người làm việc trong ngành du lịch phải được đào tạo, huấn luyện một
cách chính quy, ngày càng được nâng cao trình độ bằng nhiều phương thức như: vừa học vừa
làm, tập huấn nâng cao mời giáo viên của các trường đại học chuyên ngành hoặc các trường
nghiệp vụ du lịch hay đào tạo từ xa… Việc nâng cao hiểu biết du lịch cho toàn dân là vô cùng
quan trọng.
Sáu là, phát triển du lịch đi đôi với việc bảo vệ tài nguyên môi trường.
Việc phát triển du lịch hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề không thể xem nhẹ: gây
tổn hại môi trường, tài nguyên sinh thái ở nhiều vùng, các công trình văn hóa lịch sử, các
tệ nạn xã hội. Tình trạng rác thải, tắc nghẽn giao thông, cũng là một hiện tượng phổ biến.
Phân tích theo cặp phạm trù "nhân quả" giữa du lịch và môi trường, thì du lịch là nguyên
nhân gây ô nhiễm môi trường và đến lượt du lịch phải chịu hậu quả của môi trường ô
nhiễm tác động, hạn chế đến khả năng phát triển của ngành Du lịch. Môi trường du lịch có
thể hiểu cả môi trường sinh thái và môi trường xã hội như: Chương trình xanh, sạch, đẹp,
văn minh, giữ gìn an ninh trật tự trong hoạt động du lịch (cướp giật, ăn xin, ép khách mua
hàng, tệ nạn xã hội) để điểm đến được an toàn, hấp dẫn, thân thiện đối với khách du lịch.
Chương 2
Thực trạng ngành du lịch Hà Nội thời gian qua
và những vấn đề đặt ra
2.1. Điều kiện và tiềm năng phát triển du lịch của Hà Nội
Hà Nội là một trung tâm du lịch lớn của Việt Nam. Với những tiềm năng về tự
nhiên, văn hóa, kinh tế và xã hội, Hà Nội có đầy đủ điều kiện tốt để phát triển du lịch và
đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Hà Nội tọa lạc ở vị trí trung tâm của châu thổ sông Hồng, được thiên nhiên ưu đãi
dành cho nhiều thuận lợi, từ thế đất của Hà Nội và các vùng phụ cận phần lớn là đồng
bằng với độ cao trung bình là 10m, thấp dần từ Tây Bắc đến Đông Nam theo dòng chảy
của sông Hồng, nằm giữa hai vùng đồi núi tách biệt, tạo nên những nét độc đáo, thuận lợi
cho hoạt động du lịch.
Vùng đồi núi của Hà Nội có thể tổ chức nhiều loại hình du lịch như leo núi, săn
bắn, du lịch mạo hiểm, nghỉ dưỡng chữa bệnh, nghỉ cuối tuần và chỉ cách trung tâm Thủ
đô khoảng 50 km, đến hệ sinh thái phong phú như rừng quốc gia Ba Vì.
Hà Nội có khí hậu thích hợp với hoạt động du lịch, với bốn mùa rõ rệt. Khách du
lịch châu Âu, châu Mỹ rất thích đến Hà Nội trong thời gian từ tháng 11 năm trước đến tháng 4
năm sau. Đặc biệt với mùa thu gắn liền với hoa sữa, với hương cốm đã làm rung động biết
bao tâm hồn thi sĩ. Hà Nội còn có thể được gọi là thành phố "xanh" với trên 200 ngàn cây
xanh bao gồm 46 loại cây khác nhau như: xà cừ, bàng, sấu, phượng, sữa... Trải khắp phố
phường, khác với thủ đô của các nước châu Âu, Hà Nội cây cối xanh tốt 4 mùa.
Nói đến Hà Nội không thể không nói đến vẻ đẹp của những sông hồ. Con sông
Hồng như vắt ngang thành phố, hai bên bờ sông có biết bao di tích mà du khách có thể
nghé thăm nếu đi du lịch bằng đường sông. Hà Nội có hơn 3.600 ha hồ, ao, đầm, tiêu biểu
là hồ Tây có diện tích 500 ha với nhiều huyền thoại và vùng đất quanh hồ với diện tích 800
ha; có nhiều di tích lịch sử, văn hóa, có nhiều đền, chùa nổi tiếng gắn với thời kỳ dựng
nước và giữ nước của dân tộc như: đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc, chùa Kim Liên, phủ
Tây Hồ, chùa Sách; Có nhiều làng nghề nổi tiếng như làng Yên Phụ với nghề nuôi cá cảnh,
làm giấy mầu, vàng mã, làng Nghi Tàm với nghề trồng cây cảnh, cây thế, làng Tây Hồ với
nghề trồng quất, xe chỉ màu, làng Quảng Bá với nghề trồng hoa, trồng quất, làng Nhật Tân
với nghề trồng đào. Hồ Hoàn Kiếm gắn với huyền thoại thiêng liêng, là trung tâm đã trở
thành quen thuộc với người dân Thủ đô từ xa xưa với đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc, đền Bà
Kiệu, Tháp Bút và các di tích quanh hồ... Có khả năng tổ chức thành trung tâm dịch vụ du
lịch có tầm cỡ khu vực Đông Nam á.
2.1.2. Cơ sở vật chất - kỹ thuật hạ tầng
So với các nơi khác trong cả nước, Hà Nội có cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ
tầng phục vụ du lịch khá phát triển nhưng so với thủ đô các nước trong khu vực và trên thế
giới thì vẫn còn ở trình độ thấp.
2.1.2.1. Giao thông vận tải
Hệ thống giao thông của Hà Nội khá đa dạng và tương đối phát triển cả về đường
bộ, đường hàng không, đường thủy, đường sắt.
Về hệ thống đường bộ: Hà Nội là nơi hội tụ của các trục giao thông lớn của châu
thổ sông Hồng và của cả nước, là nơi hội tụ của 6 tuyến đường sắt trong nước và quốc tế, 8
tuyến đường bộ, cách cảng Hải Phòng hơn 100 km, cảng Cái Lân 180 km. Trong những
năm gần đây, hệ thống đường bộ ở Hà Nội đã được nâng cấp, cải tạo nhiều, nhờ chủ
trương phát triển đô thị và sự hỗ trợ phát triển của các quốc gia khác, hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật hạ tầng nói chung, hệ thống đường sá nói riêng đã được nâng cấp một bước
rất quan trọng. Thành phố đã tập trung xây dựng và mở rộng các tuyến đường vành đai 1,
vành đai 2, vành đai 3 và các tuyến đường xuyên tâm, đang hình thành tuyến đường vành
đai 4. Các nút giao thông quan trọng của thành phố như: Ngã Tư Sở, Ngã Tư Vọng, Cầu
Giấy đã được đưa vào sử dụng. Các tuyến đường quốc lộ 1, 2, 3, 4 và 5 đã và đang giai
đoạn hoàn thiện hiện đại, giúp cho việc rút ngắn khoảng cách đến các điểm du lịch trong
toàn quốc. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng củng cố và phát triển hệ thống giao
thông đường bộ nhưng do kinh phí dành cho việc cải tạo, nâng cấp và phát triển hệ thống
đường bộ còn hạn chế. Bên cạnh đó, do tốc độ đô thị hóa nhanh, nên hệ thống đường nội
thị bị quá tải, số lượng xe máy trong nội thành tăng cao, gây ùn tắc giao thông, ô nhiễm
môi trường do khí thải từ các phương tiện tham gia giao thông. Hệ thống giao thông đường
bộ vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển về nhu cầu giao thông của xã hội.
Về đường hàng không: Hà Nội có cảng hàng không quốc tế Nội Bài thuộc huyện
Sóc Sơn, cách trung tâm thành phố chừng 35 km. Các đường bay trong nước và quốc tế
ngày càng được mở rộng với tần suất các chuyến bay ngày càng tăng, tạo thuận lợi thu hút
khách trong nước và quốc tế đến Hà Nội. Các máy bay được trang bị mới, cơ sở vật chất
kỹ thuật được cải thiện, đội bay cùng đội ngũ phục vụ được đào tạo cơ bản đã góp phần
nâng cao chất lượng phục vụ. Cùng với sân bay Nội Bài còn có sân bay nội địa Gia Lâm
cách trung tâm Hà Nội chừng 8 km, vốn là sân bay chính của Hà Nội từ những năm 70 của
thế kỷ XX. Bây giờ, nơi đây là nhà ga sân bay trực thăng sẵn sàng phục vụ du khách
những tour du lịch hấp dẫn.
Những tiến bộ nói trên góp phần quan trọng tạo ra những tiền đề cho việc mở rộng
khai thác thị trường khách mới, đặc biệt là thị trường khách mới đến Việt Nam.
Hệ thống đường thủy: Hà Nội có nhiều con sông chảy qua như sông Hồng, sông
Nhuệ, sông Tô Lịch. Từ lâu, Hà Nội là đầu mối giao thông đường thủy quan trọng, từ Hà
Nội (bến Phà Đen) đi Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Việt Trì hoặc từ bến Hàm Tử
Quan đi Phả Lại, đi thăm quan các làng nghề như: gốm sứ Bát Tràng, khu thương mại sầm
uất một thời Phố Hiến... Tuy nhiên, hệ thống cầu cảng, đội tàu vận chuyển khách du lịch,
đội ngũ nhân viên phục vụ, chưa được đầu tư thỏa đáng, xây dựng tour du lịch đường sông
nghèo nàn, nên hình thức vận chuyển khách đường sông không thu hút được du khách
bằng các phương tiện vận chuyển khác.
2.1.2.2. Hệ thống điện, nước
Nguồn điện cung cấp cho Hà Nội là nguồn điện lực quốc gia và luôn luôn được ưu
tiên hơn các tỉnh, thành phố khác. Tuy nhiên, với tốc độ đô thị hóa nhanh, tốc độ tăng dân
số lớn, hệ thống dây tải điện và máy biến thế cũ kỹ, nguồn cung cấp điện không ổn định
(chủ yếu là từ Nhà máy thủy điện Hòa Bình chịu ảnh hưởng rất lớn của nguồn nước tự
nhiên) nên tình trạng cắt điện cục bộ vẫn thường xảy ra hàng năm vào đầu mùa hạ, mùa
khô, làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, sinh hoạt của người dân, đến hoạt động sản
xuất kinh doanh nói chung, đến hoạt động du lịch nói riêng.
Hệ thống cấp nước: khu vực Hà Nội có nhiều con sông chảy qua nên nguồn tài
nguyên nước mặt và nguồn tài nguyên nước ngầm rất phong phú, trữ lượng lớn, các thành
phần hóa lý đạt yêu cầu tiêu chuẩn cho phép, thuận lợi cho việc xây dựng các nhà máy
nước sạch cung cấp cho sản xuất và tiêu dùng trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài.
Tuy vậy, do tốc độ đô thị hóa nhanh và sự gia tăng dân số cao nên mặc dù đã được đầu tư
cải tạo, nâng cấp và xây mới nhiều nhà máy nước và hệ thống ống dẫn, song việc cung cấp
nước sạch vẫn còn nhiều hạn chế. Theo các nhà nghiên cứu thì Hà Nội và các khu vực phụ
cận có đủ khả năng xây dựng các nhà máy cung cấp nước sạch trước mắt cũng như lâu dài.
Hệ thống thoát nước: mặc dù Dự án 1 thoát nước úng lụt vào mùa mưa cho Thành
phố đã hoàn thành và đi vào sử dụng nhưng thoát nước trong mùa mưa vẫn là một vấn đề
hết sức nan giải chưa giải quyết được của Hà Nội, gây tắc nghẽn giao thông, ảnh hưởng tới
sinh hoạt của dân cư ở khu vực ngập úng, trong đó có các nhà hàng, khách sạn và các khu
vực vui chơi giải trí.
Thành phố đã phê duyệt Dự án 2 Thoát nước, góp phần hoàn thiện hệ thống hạ
tầng, phát huy tối đa hiệu quả của giai đoạn 1, giải quyết các vấn đề bức xúc về cải thiện
môi trường, đáp ứng kịp thời các mục tiêu và yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội
của thành phố Hà Nội theo định hướng phát triển bền vững.
2.1.2.3. Hệ thống thông tin liên lạc
Trong những năm gần đây, ngành bưu chính viễn thông Việt Nam đã tích cực chủ
động thực hiện kế hoạch đi tắt đón đầu, hiện đại hóa cơ sở vật chất - kỹ thuật, hòa nhập
vào trình độ của khu vực và thế giới. Ngành Bưu chính đã đạt được trình độ tiên tiến, hiện
đại. Hà Nội là một trong hai thành phố lớn nhất nước được ưu tiên đầu tư trang bị sớm hơn
cả, có thể liên lạc tự động được với hầu hết các nước trên thế giới. Các dịch vụ bưu chính
đáp ứng nhanh và đầy đủ yêu cầu của người dân, của du khách. Tuy nhiên, trong lĩnh vực
này cũng còn nhiều hạn chế như: giá cước phí cao hơn nhiều so với các nước trong khu
vực và trên thế giới, chưa có nhiều cabin công cộng để khách du lịch có thể sử dụng thẻ
một cách thuận tiện.
2.1.3. Tiềm năng và cơ sở hạ tầng du lịch
Trải qua gần một nghìn năm lịch sử, người dân Hà Nội đã tạo dựng lên ở đây
những di sản văn hóa to lớn. Hà Nội cũng là nơi có nhiều di tích lịch sử thiêng liêng của
người Việt Nam.
2.1.3.1. Các di tích
So với các trung tâm du lịch lớn của cả nước như Thừa Thiên - Huế và Thành phố
Hồ Chí Minh, thì Hà Nội có lợi thế hơn nhiều về số lượng và chất lượng di tích. Tuy vậy,
các di tích văn hóa lịch sử ở Hà Nội phân bố không đều trên địa bàn. Trong số các di tích
đã được xếp hạng thì các quận Hoàn Kiếm, Đống Đa, Ba Đình, Thanh Xuân, Hai Bà
Trưng có mật độ cao nhất, trung bình 2-5 di tích/ km2. Trong số 1.880 di tích thì: đình chiếm
tỉ lệ 29,25%, đền chiếm tỷ lệ 14,45%, chùa 31,27%. Cả 3 loại di tích này chiếm 74,93%, các
loại di tích khác chiếm 17,19%, còn di tích cách mạng chỉ có 4,46% và danh thắng chỉ có
3,39% (xem bảng 2.1). Điều đó cho thấy thế mạnh của du lịch Hà Nội cần được bảo vệ, tôn
tạo và đầu tư nâng cấp để khai thác.
Bảng 2.1: Số di tích lịch sử đã xếp hạng của Hà Nội so cả nước
Địa bàn
Số di tích
đã xếp hạng
Tỷ lệ
so với cả nước (%)
Cả nước 2504 100
Hà Nội 509 20,32
Thừa Thiên-Huế 311 12,42
Thành phố Hồ Chí Minh 45 1,79
Các tỉnh và thành phố khác 1639 65,45
Nguồn: Sở Du lịch Hà Nội.
Theo số liệu của Cục Bảo tồn Bảo tàng - Bộ Văn hóa Thông tin, trong số các di
tích đã được xếp hạng ở Hà Nội thì số lượng các di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật
chiếm 95,16%, trong đó di tích kiến trúc chiếm tỷ lệ 45,76% mà phần lớn là đình, chùa,
đền. Từ đó đặt ra cho chúng ta thấy hướng khai thác các di tích ở Hà Nội gắn với việc hình
thành các tour du lịch chủ yếu là nhằm vào các di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ
thuật.
Hà Nội cũng là nơi tập trung nhiều bảo tàng lớn và quan trọng nhất của nước ta,
đó là các Bảo tàng Lịch Sử, Bảo tàng Cách Mạng, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Quân
đội, Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo tàng Phụ nữ, Bảo tàng Dân tộc học... Những bảo tàng này
phản ánh khá tập trung và đầy đủ nhất những chặng đường phát triển của đất nước, của
dân tộc, phản ánh những nét đặc sắc nhất về văn hóa, con người Việt Nam nên đây thường
là điểm xuất phát đầu tiên trong các tour du lịch của các du khách đến thăm quan Hà Nội.
Số lượng di tích đã được xếp hạng của Hà Nội phân chia theo địa giới hành chính
quận, huyện được thể hiện qua bảng 2.2 dưới đây.
Bảng 2.2: Số lượng và mật độ di tích được xếp hạng phân theo quận, huyện
TT Địa bàn Diện tích
Tổng số
di tích
Di tích
đã được
xếp hạng
Mật độ di
tích đã được
xếp hạng
1 Quận Hoàn Kiếm 4,47 169 23 5,14
2 Quận Đống Đa 9,93 98 48 4,83
3 Quận Ba Đình 9,05 100 20 2,20
4 Quận Thanh Xuân 9,13 28 18 1,97
5 Quận Hai Bà Trưng 15,53 105 26 1,92
6 Quận Cầu Giấy 12,10 61 14 1,15
7 Quận Tây Hồ 20,42 90 22 1,07
8 Huyện Từ Liêm 75,01 131 79 1,05
9 Huyện Thanh Trì 97,90 202 99 1,01
10 Huyện Gia Lâm 175,79 295 95 0,54
11 Huyện Đông Anh 184,16 289 71 0,38
12 Huyện Sóc Sơn 313,86 312 16 0,05
Cộng 927,39 1.880 509
Nguồn: Ban Quản lý di tích Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội.
Hà Nội còn có các di tích có giá trị đặc biệt, có khả năng thu hút khách du lịch,
đặc biệt là khách du lịch quốc tế như: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh, Văn Miếu Quốc
Tử Giám, hồ Hoàn Kiếm, hồ Tây và các di tích gắn với hồ Tây, Chùa Một Cột, Thành cổ
Hà Nội, Đền Quán Thánh, di tích thành Cổ Loa, Đền thờ Hai Bà Trưng... Các di tích có
giá trị đặc biệt của Hà Nội như bảng 2.3 dưới đây:
Bảng 2.3: Các di tích có giá trị đặc biệt về du lịch
STT Tên di tích Địa điểm
1 Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh Quận Ba Đình
2 Chùa Một Cột Quận Ba Đình
3 Chùa Trấn Quốc Quận Ba Đình
4 Đền Quán Thánh Quận Ba Đình
5 Thành cổ Hà Nội Quận Ba Đình
6 Đền Voi Phục Quận Ba Đình
7 Hồ Hoàn Kiếm và các di tích quanh hồ Quận Hoàn Kiếm
8 Văn Miếu Quốc Tử Giám Quận Đống Đa
9 Đền Kim Liên Quận Đống Đa
10 Di tích Gò Đống Đa Quận Đống Đa
11 Hồ Tây và các di tích quanh hồ Tây Quận Tây Hồ
12 Đền Hai Bà Trưng Quận Hai Bà Trưng
13 Di tích Thành Cổ Loa Huyện Đông Anh
Nguồn: Ban Quản lý di tích Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội.
2.1.3.2. Các làng nghề
Hà Nội là quê hương của nhiều hội làng, hội vùng, hội của cả nước, là cái nôi của
lễ hội nông nghiệp và lễ hội lịch sử truyền thống. Điều đó có nghĩa là những lễ hội dân
gian ở Hà Nội cũng bao quát những nét cơ bản của lễ hội cả nước. Tuy vậy, Hà Nội cũng
có những lễ hội mang tính đặc trưng riêng như lễ hội An Dương Vương ở Cổ Loa - Đông
Anh (mồng 6 tháng Giêng âm lịch), Hội Gióng ở Phù Đổng - Gia Lâm (mồng 9 tháng 4 âm
lịch), Hội Đền Hai Bà Trưng ở Quận Hai Bà Trưng (mồng 6 tháng 2 âm lịch). Các lễ hội
trên địa bàn Hà Nội thường diễn ra quanh năm, nhưng tập trung nhất vào mùa xuân, đặc
điểm này được coi là một lợi thế.
Hà Nội có nhiều nghề thủ công truyền thống với nghệ thuật tinh xảo, của những
người thợ tài ba, gắn với câu ca dân gian "khéo tay hay nghề, đất lề kẻ chợ", với 36 phố
phường, mỗi phố gắn với một nghề nổi tiếng từ xa xưa như phố Hàng Trống gắn với tranh
dân gian; nghề gốm sứ Bát Tràng; nghề làm giấy gió ở làng Bưởi; nghề thêu ở làng Yên
Thái có nguồn gốc từ Hướng Dương, Quất Động; nghề đúc đồng ở phố Ngũ Xã; khảm trai
có nguồn gốc từ làng Chuốn; sơn quang, sơn mài có nguồn gốc từ làng Bằng; phố Hàng
Bạc với nghề kim hoàn có nguồn gốc từ Định Công, Đồng Sâm. Dân gian có câu: "Lĩnh
hoa Yên Thái, gốm sứ Bát Tràng, thợ vàng Định Công, đúc đồng Ngũ Xã". Hà Nội và
những vùng phụ cận còn là nơi bảo tồn được nhiều nghề thủ công truyền thống khác như:
cấy lúa nước, trồng rau màu, trồng hoa, chăn nuôi gia súc, gia cầm và các nghề thủ công
mỹ nghệ. Có thể nói các huyện ngoại thành không những là nơi cung cấp lương thực thực
phẩm cho nhu cầu của nhân dân trong thành phố mà còn có thể đáp ứng nhu cầu của khách
du lịch về những hàng hoá có chất lượng, thẩm mỹ cao.
2.2. Thực trạng hoạt động du lịch ở Hà Nội
Hoạt động du lịch trên địa bàn Thủ đô được xem xét dưới nhiều giác độ, trong đó
đặc biệt là các dịch vụ du lịch như khách sạn, nhà hàng, lữ hành, dịch vụ bổ sung, dịch vụ
vận chuyển khách, dịch vụ mua sắm…
2.2.1. Thực trạng hệ thống dịch vụ du lịch ở Hà Nội
2.2.1.1. Hệ thống các khách sạn
Theo số liệu thống kê của Sở Du lịch Hà Nội, hệ thống các cơ sở lưu trú trên địa
bàn từ năm 2000 đến cuối năm 2006 như bảng 2.4 dưới đây. Trong đó, số cơ sở lưu trú
tăng từ 311 cơ sở năm 2000 lên 424 cơ sở năm 2006. Số cơ sở được xếp hạng tăng nhanh,
từ 66 cơ sở năm 2000 lên 179 cơ sở năm 2006, trong đó số cơ sở được xếp hạng 5 sao tăng
từ 5 cơ sở lên 8 cơ sở; số liệu tương ứng về số phòng được xếp hạng cũng tăng từ 4.625
phòng lên 8.725 phòng, trong đó số phòng được xếp hạng 5 sao tương ứng là 1.496 phòng
và 2.344 phòng.
Bảng 2.4: Các cơ sở lưu trú trên địa bàn Hà Nội, 2000 - 2006
Nội dung 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
1. Các cơ sở lưu trú trên địa bàn
Tổng số 311 310 351 360 378 427 424
Tổng số phòng 9207 9465 10273 10773 11695 12425 12505
2. Các cơ sở lưu trú đã được phân loại xếp hạng
Tổng số cơ sở lưu trú đã
được xếp hạng
66 75 106 128 163 179 179
Tổng số phòng đã được
xếp hạng:
4625 5196 6303 6746 7716 8722 8722
- Hạng 5 sao: Số cơ sở 5 6 7 7 7 8 8
Số phòng 1496 1756 2062 2062 2062 2344 2344
- Hạng 4 sao: Số cơ sở 3 3 4 5 5 5 6
Số phòng 396 396 599 817 817 840 1071
- Hạng 3 sao: Số cơ sở 19 20 22 22 22 22 19
Số phòng 1456 1581 1700 1542 1553 1956 1674
- Hạng 2 sao: Số cơ sở 29 32 47 55 72 81 82
Số phòng 953 1068 1387 1597 2363 2547 2597
- Hạng 1 sao: Số cơ sở 10 13 24 34 49 53 55
Số phòng 324 385 535 677 836 922 932
- Loại đạt tiêu chuẩn tối
thiểu: Số cơ sở
0 1 2 5 8 10 9
Số phòng 0 10 20 51 85 113 103
Nguồn: Sở Du lịch Hà Nội.
Từ bảng 2.4 cho thấy quy mô khách sạn của Hà Nội nhìn chung còn nhỏ bé so với
tiềm năng và lượng khách du lịch đến Hà Nội. Mặc dù du lịch Hà Nội đã có nhiều cố gắng
trong việc phát triển các cơ sở lưu trú cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Trong tổng số 179
khách sạn đã được xếp hạng thì có 8 khách sạn 5 sao, chiếm 4,47%; 6 khách sạn 4 sao,
chiếm 3,35%; 19 khách sạn 3 sao, chiếm 10,62%; 82 khách sạn 2 sao, chiếm 45,81%; 55
khách sạn 1 sao, chiếm 30,73% với tổng số phòng là 8.722; 9 khách sạn đạt tiêu chuẩn tối
thiểu, chiếm tỷ lệ 5,03% với tổng số phòng là 103. Từ năm 1999 trở lại đây, hàng năm Hà
Nội luôn luôn có từ 2-3 khách sạn đạt danh hiệu 10 khách sạn hàng đầu Việt Nam, năm 2006
khách sạn Sofitel Metropole - Hà Nội được Hiệp hội Du lịch Hoa Kỳ bình chọn là 100 khách
sạn đẹp nhất thế giới. Chất lượng dịch vụ trong các khách sạn, đặc biệt là các khách sạn từ 4-5
sao, các khách sạn liên doanh với nước ngoài đạt chất lượng tương đương, thậm chí một số
khách sạn còn tốt hơn khách sạn cùng hạng trên thế giới và trong khu vực.
Khách sạn thuộc sở hữu của các bộ, ngành, đoàn thể, khách sạn mini của tư nhân
có quy mô từ 5-15 phòng cũng đã và đang được đầu tư xây dựng mạnh. Nhưng do thiếu sự
quản lý của Nhà nước nên đã dẫn đến tình trạng hàng loạt các nhà nghỉ, nhà khách, khách
sạn mini của các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước ra đời, thiếu quy hoạch
thiếu những dự báo về thị trường khách dẫn đến tình trạng thừa những phòng chất lượng
thấp, thiếu những phòng chất lượng cao từ 3 sao trở nên. Một số khách sạn khác có chất
lượng buồng phòng cao nhưng quy mô lại nhỏ dưới 20 phòng nên không đủ phòng để đón
những đoàn khách lớn trên 40 khách (xu thế hiện nay một đoàn khách du lịch thường trên
40 khách). Sự cạnh tranh gay gắt không đáng có giữa các doanh nghiệp về giá cả. Tuy các
khách sạn này giải quyết được phần nào nhu cầu ăn nghỉ của du khách song cũng gây ra
nhiều vấn đề mà không phải một sớm, một chiều giải quyết được.
Với tốc độ tăng trưởng số lượng khách du lịch (cả khách du lịch trong nước và đặc
biệt là khách du lịch nước ngoài) như hiện nay thì số lượng buồng phòng của khách sạn
không đủ cung cấp nhu cầu của khách, nhất là các buồng phòng có chất lượng cao từ 3 sao
trở lên vào các dịp diễn ra các sự kiện lớn. Theo nhận xét của một số chuyên gia, tình trạng
thiếu phòng trở nên gay gắt: "Từ đầu năm đến nay, công suất sử dụng phòng của các khách
sạn từ 3 sao trở lên tại Hà Nội luôn đạt từ 85-90%, giá phòng cũng tăng lên đáng kể,
khoảng 20-25% so với năm 2006. Tuy giá phòng luôn ở mức cao, song các hãng lữ hành
cũng rất khó khăn trong việc đặt phòng" [27]. Tình trạng khan hiếm phòng gây ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động kinh doanh du lịch.
2.2.1.2. Hệ thống các nhà hàng
Gồm hệ thống các nhà hàng trong khách sạn và hệ thống các nhà hàng chuyên
phục vụ khách ăn uống ngoài khách sạn. Chất lượng dịch vụ ăn uống của các nhà hàng
trong khách sạn thuộc sở hữu nhà nước thường thấp hơn chất lượng dịch vụ ăn uống của
các nhà hàng thuộc sở hữu tư nhân về giá cả, chất lượng. Các nhà hàng ở Hà Nội có số
lượng lớn và phong phú, bên cạnh nhà hàng ăn Âu (có 17 nhà hàng), nhà hàng ăn á (có 22
nhà hàng), nhà hàng ăn đặc sản Việt Nam (có 16 nhà hàng), ngoài ra còn có các nhà hàng
ăn chay (có 03 nhà hàng), nhà hàng Hàn Quốc, nhà hàng Trung Quốc, nhà hàng ấn Độ,
nhà hàng ăn Nga, nhà hàng ăn Pháp v.v.... phục vụ nhu cầu ăn uống của khách du lịch.
Nhà hàng đặc sản của các vùng, các địa phương trong nước xuất hiện ngày càng
nhiều trên địa bàn Hà Nội, đáp ứng được nhu cầu thưởng thức các món ăn địa phương của
người dân Hà Nội và của du khách quốc tế.
Các nhà hàng ăn nhanh đã xuất hiện ngày càng nhiều trên địa bàn Hà Nội như: nhà
hàng KFC ở phố Huỳnh Thúc Kháng, nhà hàng Loteria ở phố Phạm Ngọc Thạch, nhà hàng
Fry Chicken ở phố Tràng Tiền, các nhà hàng này phục vụ đối tượng thanh niên Thủ đô,
khách du lịch nước ngoài, người nước ngoài sống và làm việc tại Hà Nội.
Bên cạnh những việc đã làm được của các nhà hàng như đã nêu ở trên, cũng còn
nhiều nhà hàng chất lượng chưa cao, một phần do cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nghèo nàn
lạc hậu, một phần do nhân viên phục vụ chưa qua trường lớp đào tạo. Thêm vào đó là sự
quản lý lỏng lẻo của các cấp, các ngành có liên quan nhất là duy trì chế độ kiểm tra vệ sinh
an toàn thực phẩm.
Các nhà hàng có quy mô lớn không nhiều nên hầu hết không có khả năng phục vụ
các đoàn khách lớn hoặc nhiều đoàn cùng một lúc, không gian của các nhà hàng thường
chật hẹp, chỗ để xe thiếu. Tất cả những hạn chế này cũng là những thách thức với tất cả
các khách sạn trên địa bàn Hà Nội.
2.2.1.3. Các dịch vụ vui chơi giải trí
Các dịch vụ vui chơi giải trí đã phát triển nhanh chóng, nhằm phục vụ khách du
lịch và người dân Thủ đô, song dịch vụ này vẫn còn mất cân đối nghiêm trọng giữa cung
và cầu. Hà Nội thiếu nhiều khu vui chơi giải trí tổng hợp. Hiện nay có khu công viên nước
Hồ Tây là địa chỉ vui chơi được đánh giá là hấp dẫn nhưng thực tế nơi đây chủ yếu phục vụ
khách vào mùa hè, còn các mùa khác thì chưa có dịch vụ thay thế. Hà Nội hiện nay gần
như chưa có một khu vui chơi giải trí nào đáng kể, đáp ứng được nhu cầu của khách du
lịch.
Các khách sạn lớn, từ 3 sao trở lên đều có dịch vụ vui chơi giải trí nhưng hình thức
còn đơn giản và quy mô nhỏ chủ yếu phục vụ khách trong khách sạn, một số khác có quy
mô, thể loại dịch vụ vui chơi giải trí tương đối lớn và hấp dẫn đối với người Việt Nam
(khách sạn Fortuna, khách sạn DaeWoo…) song giá cả các dịch vụ lại tương đối cao so
với mức thu nhập của người dân Hà Nội. Còn đối với khách du lịch nước ngoài thì họ
không mấy mặn mà vì đất nước họ cũng có và hiện đại hơn nhiều.
Cả thành phố có 9 vũ trường, trong đó có 5 cơ sở chuyên hoạt động kinh doanh vũ
trường (hiện tại một vũ trường lớn nhất của thành phố là New Century đã bị đóng cửa), 4
vũ trường nằm trong hoạt động kinh doanh các dịch vụ bổ sung của các khách sạn, dịch vụ
này rất khó hoạt động và phát triển vì chi phí cho quản lý, chi phí cho các chuyên gia điều
khiển âm thanh, ánh sáng, thuế, rất cao nên đã đẩy giá cả các dịch vụ lên rất cao, do vậy
khách đến vũ trường chủ yếu là thanh niên, người nước ngoài đang sống và làm việc tại Hà
Nội. Nhiều tệ nạn xã hội như: nghiện hút, trộm cắp, mua bán dâm diễn ra tại đây. Bản thân
doanh nghiệp khó lòng kiểm soát được.
Cho đến nay trên địa bàn Hà Nội các công viên cây xanh như: Công viên Thống
Nhất, Công viên Bách Thảo, Vườn thú Thủ Lệ… Đã phục vụ được nhu cầu giải trí của
nhân dân Thủ đô và thu hút được một phần khách du lịch. Một số khu vui chơi giải trí
đang được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng trong thời gian tới như: Dự án khu vui
chơi giải trí Mễ Trì với trị giá trên 200 triệu USD, được xây dựng hiện đại, quy mô lớn
nhất Thủ đô phục vụ khách du lịch các tỉnh phía Bắc, khách du lịch quốc tế; Dự án khu
nghỉ ngơi cuối tuần Sóc Sơn với trị giá 200 tỷ đồng, công trình này bao gồm: các khu nghỉ
dưỡng kết hợp với các công trình vui chơi nhẹ nhàng, gắn liền với cảnh quan thiên nhiên;
Dự án khu dịch vụ du lịch Cổ Loa (Đông Anh) trị giá 300 tỷ đồng. Đây là khu di tích nổi
tiếng có một không hai của cả nước, cho phép khai thác các khía cạnh lịch sử, huyền thoại
thể hiện truyền thống giữ nước, dựng nước của dân tộc Việt Nam; Dự án kè Hồ Tây, song
song với việc xây dựng kè, nhà nước cũng tiến hành đồng thời đầu tư nâng cấp các sản
phẩm du lịch quanh Hồ Tây gồm: các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh, các làng
nghề cổ khu vực quanh Hồ Tây, xây dựng các sản phẩm đặc trưng của Hồ Tây có sức thu
hút khách du lịch trong nước và quốc tế; Dự án xây dựng tuyến du lịch sông Hồng trị giá
50 tỷ đồng.
Nâng cấp các công viên mới xây trong thời gian gần đây như: Công viên nước Hồ
Tây, Công viên Vầng Trăng, Công viên Tuổi Trẻ, Bể bơi 4 mùa, sân tennis thu hút khách
du lịch trong nước và nước ngoài.
Hệ thống các rạp chiếu phim, các nhà hát hầu hết là từ thời Pháp để lại, một số ít
được xây dựng từ thời bao cấp đến nay đã cũ kỹ lạc hậu, một số ít mới được xây dựng
trong mấy năm trở lại đây nhưng chất lượng phim, chất lượng các vở kịch thấp, một số
không phù hợp với người xem đặc biệt là khách du lịch. Chỉ duy nhất có Nhà hát múa rối
nước là hấp dẫn du khách nhất là khách du lịch châu Âu. Rạp chiếu phim Merga Star tại
tầng 5 siêu thị VINCOM City Tower, Trung tâm chiếu phim quốc gia là thu hút được
người nước ngoài đang làm việc tại Hà Nội đến xem.
Thời gian vừa qua, thành phố đã sử dụng không hiệu quả các công trình thể thao
sau SEAGAME gần như bỏ trống. Trong khi đó, nhiều phong trào thể dục thể thao quần
chúng của nhân dân địa phương lại không có chỗ để thi đấu, để luyện tập. Các hình thức
vui chơi giải trí khác mang tính chất quần chúng lại gần như không có.
2.2.1.4. Hoạt động lữ hành
Du lịch Hà Nội cung cấp các sản phẩm du lịch cho du khách một cách đa dạng
như: du lịch lễ hội, du lịch văn hóa, du lịch nghỉ ngơi, du lịch hội nghị công vụ…, tới tất cả
các tỉnh, thành phố và các địa danh du lịch nổi tiếng của Việt Nam cũng như ở nước ngoài.
Sản phẩm du lịch Hà Nội gồm cả những tuyến truyền thống và những tuyến mới như: City
tour, du lịch sông Hồng, du lịch mở, du lịch cuối tuần, du lịch công vụ, diễn ra thường xuyên
trong năm, du lịch lễ hội, du lịch văn hóa, du lịch tín ngưỡng thường diễn ra vào các dịp
đầu năm mới, thu hút được nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Loại hình du lịch
thăm quan, thường chiếm tỷ lệ lớn trong các loại hình du lịch của Hà Nội.
Ngoài những loại hình du lịch chính đã có từ lâu, trong những năm gần đây, Hà
Nội còn phát triển nhiều loại hình du lịch mới và hấp dẫn hơn như: du lịch mua sắm, du
lịch thể thao, du lịch hội nghị, hội thảo. Những loại hình du lịch này đang ngày càng mở
rộng và phát triển do vị thế về kinh tế, chính trị văn hóa của Thủ đô.
Du lịch Hà Nội có 213 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh lữ hành, trong đó có:
33 doanh nghiệp nhà nước, 118 công ty trách nhiệm hữu hạn, 59 công ty cổ phần, 1 công
ty tư nhân, 1 công ty liên doanh [42].
Các điểm và tuyến du lịch ở Hà Nội bao gồm các điểm và tuyến trung tâm, các
điểm và tuyến lân cận.
- Các điểm và tuyến trung tâm du lịch Hà Nội: có các điểm tiêu biểu như Văn
Miếu - Quốc Tử Giám, chùa Quán Sứ, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đền, chùa, phủ
quanh hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, thành Cổ Loa, thành cổ Hà Nội, đền Sóc. Các điểm du lịch
này có mật độ cao, nên có đặc điểm quần tụ trong một bán kính ngắn là điều kiện thuận lợi
để xây dựng các tuyến du lịch ngắn ngày, tăng sức hấp dẫn đối với du khách. Trên địa bàn
Hà Nội có các tuyến đặc trưng:
+ Tuyến du lịch nội thành (citytour);
+ Tuyến du lịch ngoại thành;
+ Tuyến du lịch bằng tàu hỏa;
+ Tuyến du lịch dọc sông Hồng;
- Các điểm du lịch phụ cận Hà Nội bao gồm: phía Tây có đỉnh Vua (cao 1.296 m),
đỉnh núi Tản Viên - Ngọc Hoa, ao Vua, suối Hai, Đồng Mô, các chùa ở Hà Tây. Phía Bắc
có các điểm du lịch như Đền Hùng, khu nghỉ mát Tam Đảo, hồ Đại Lải, chùa Phật Tích,
chùa Dâu, đền Bà Chúa Kho, đền Bát Đế. Phía Nam có các điểm du lịch: Hoa Lư - Tam Cốc
- Bích Động, rừng quốc gia Cúc Phương, chùa Phủ Dầy, chùa Cổ Lễ, đền Đức Thánh Trần.
Phía Đông có các điểm du lịch: Đồ Sơn, đảo Cát Bà, Côn Sơn, Kiếp Bạc, chùa Yên Tử,
vịnh Hạ Long.
- Các tuyến chính nối các tỉnh lân cận như:
+ Hà Nội - Đồng Mô - Sơn Tây với các cụm điểm du lịch: suối Hai, Ba Vì, ao
Vua, hệ thống chùa của Hà Tây.
+ Hà Nội - Bắc Ninh với các cụm điểm đình, chùa, đền, lễ hội.
+ Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh với các cụm điểm: đảo Cát Bà, Đồ Sơn, Côn
Sơn, Kiếp Bạc, Yên Tử.
+ Hà Nội - Ninh Bình - Thanh Hóa với các cụm điểm du lịch đặc trưng của Ninh
Bình, Thanh Hóa.
Thực tế cho thấy có rất nhiều doanh nghiệp lữ hành phát triển theo hướng kinh
doanh đa dạng, ngoài chức năng lữ hành, đều có xe ô tô riêng để phục vụ khách, số đơn vị
chuyên kinh doanh vận chuyển hay lữ hành chiếm tỷ lệ thấp (20%). Từ khi Luật Doanh
nghiệp ra đời và áp dụng năm 2000, các điều kiện kinh doanh được thông thoáng hơn nên
số lượng các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tăng vọt. Chỉ riêng 2 năm 1999
và 2000 số đơn vị kinh doanh lữ hành nội địa tăng gấp 4 lần, nếu tính từ năm 1996 đến
2000, các doanh nghiệp lữ hành quốc tế chỉ tăng trung bình 9%, thì các doanh nghiệp lữ
hành nội địa tăng trung bình hơn 50%, chi nhánh tăng 30%, doanh nghiệp vận chuyển
khách du lịch tăng 39%. Với chức năng xây dựng các chương trình du lịch, tổ chức đưa
đón hướng dẫn phục vụ khách, hoạt động lữ hành và vận chuyển khách đã đóng góp một
phần đáng kể vào việc tăng số lượng khách và doanh thu du lịch. Cho đến nay đội ngũ
hướng dẫn viên du lịch tại Hà Nội có 1.270 người được cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch
quốc tế, đây là những người được các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành tuyển dụng, có
trình độ ngoại ngữ, có chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo cơ bản. Ngoài ra còn có một
lực lượng khá lớn những hướng dẫn viên không chuyên hoặc chỉ hướng dẫn khách nội địa
đi thăm quan nghỉ mát. Trong kỳ bình chọn 10 đơn vị hàng đầu về lữ hành (Top Ten), liên
tục hai năm 1999 - 2000, Hà Nội có hai đơn vị được trao cúp là Công ty Du lịch Việt Nam
tại Hà Nội và Công ty Du lịch Hà Nội.
2.2.2. Thực trạng về khách du lịch trên địa bàn Hà Nội
2.2.2.1. Thực trạng khách du lịch quốc tế
Theo số liệu thống kê của Sở Du lịch Hà Nội, số lượt khách, ngày khách lưu trú
quốc tế đến Hà Nội như bảng 2.5 dưới đây. Số lượng khách du lịch tăng lên hàng năm từ
500 nghìn lượt lên trên hơn 1 triệu lượt năm 2006.
Bảng 2.5: Số lượng khách du lịch quốc tế đến Hà Nội
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Số lượng khách,
(1000 lượt người)
500 700 931 850 950 1109 1110
Tỷ lệ khách quốc tế đến
Hà Nội/ cả nước (%)
23,5 30,0 35,5 35,0 32,5 32,0 31,0
Nguồn: Sở Du lịch Hà Nội.
Qua bảng 2.5 ta thấy số lượt khách du lịch quốc tế đến Hà Nội ổn định và tăng
trưởng về số lượng đều đặn qua các năm, mỗi năm khoảng gần 200.000 lượt khách, riêng
năm 2003 số lượng khách giảm từ 931.000 lượt khách năm 2002 xuống còn 850.000 lượt
khách; năm 2003 là do ảnh hưởng của dịch cúm gà, một loạt các hợp đồng của các công ty
lữ hành Việt Nam đã ký với các công ty lữ hành nước ngoài bị hủy bỏ như một số các thị
trường khách truyền thống đã quay trở lại, và đặc biệt là các thị trường khách mới được
khai thác. Mặc dù bị ảnh hưởng của dịch cúm gà nhưng số lượng khách du lịch quốc tế đến
Hà Nội vẫn chiếm tỷ trọng 34,99% so với số lượng khách du lịch của cả nước. Nếu xét về
mục đích thì khách đến Hà Nội chủ yếu là để du lịch chiếm tỷ lệ 75,3%, khách đến với
mục đích thương mại và đầu tư chiếm tỷ lệ 15,4% và khách đến với mục đích khác chiếm
tỷ lệ 9,3%. Nếu xét cơ cấu khách về phương diện đi lại thì khách đến Hà Nội bằng đường
hàng không là 48,53%, bằng đường bộ là 51,47%. Khách đến bằng đường bộ tăng là do
các yếu tố: từ cuối năm 1998 khách Trung Quốc vào Hà Nội bằng giấy thông hành rất
nhiều, sự phát triển loại hình du lịch "opentour".
Cùng với sự gia tăng nhanh tổng số lượt khách du lịch quốc tế đến Hà Nội nói
riêng, đến Việt Nam nói chung, thì thời gian lưu trú trung bình của một khách du lịch cũng
tăng một cách ổn định nhưng không nhiều. Số ngày lưu trú trung bình của một khách du
lịch tại Hà Nội dao động bình quân trong khoảng từ 2,5 đến 2,7 ngày, bằng 1/3 số ngày lưu
trú bình quân của cả nước. Nguyên nhân chính là các sản phẩm du lịch của Hà Nội và các
vùng phụ cận ngày một phong phú, đa dạng, chất lượng cao, cơ sở vật chất kỹ thuật hạ
tầng ngày càng được cải thiện.
Theo Sở Du lịch Hà Nội, một khách du lịch quốc tế ở Hà Nội chi tiêu bình quân
một ngày là100 USD, trong đó: dịch vụ ăn uống, dịch vụ vận chuyển chiếm khoảng
29,83%, dịch vụ lưu trú chiếm khoảng 50,17% và dịch vụ bổ sung chiếm khoảng 20%.
Mức chi tiêu bình quân của khách du lịch quốc tế có sự khác nhau giữa các quốc tịch [42].
Cơ cấu khách du lịch quốc tế ở một số nước trong mấy năm qua, cho thấy thị
trường khách lớn, truyền thống được giữ vững và phát triển nhanh hàng năm được thể hiện
qua bảng 2.6:
Bảng 2.6: Cơ cấu khách quốc tế đến Hà Nội, 2002 - 2006
Thị trường
2002 2003 2004 2005 2006
Số
lượng
nghìn
người
Tỷ
trọng
%
Số
lượng
nghìn
người
Tỷ
trọng
%
Số
lượng
nghìn
người
Tỷ
trọng
%
Số
lượng
nghìn
người
Tỷ
trọng
%
Số
lượng
nghìn
người
Tỷ
trọng
%
Tổng số 931,0 100 850,0 100 950,0 100 1109,6 1001110,0 100
Trung Quốc 355,9 38,23 286,4 33,69 246,9 25,99 140,8 16,78 140,6 12,67
Nhật Bản 93,9 10,08 79,6 9,01 83,7 8,81 95,3 9,02 104,6 9,43
Pháp 96,2 10,32 78,5 9,23 68,7 7,23 65,3 8,37 88,0 7,93
Hàn Quốc 18,2 1,96 32,2 3,78 61,7 6,49 43,6 12,3 144,2 13,0
Hoa Kỳ 47,7 5,11 40,8 4,80 53,6 5,64 30,2 5,84 72,6 6,54
úc 40,5 4,35 39,6 4,66 52,9 5,56 46,9 5,35 75,0 6,8
Anh 33,1 3,55 34,9 4,11 36,4 3,83 62,9 4,08 46,6 4,2
Đức 28,5 3,06 29,2 3,43 30,5 3,02 23,8 3,03 44,1 3,97
Đài Loan 20,4 2,18 25,8 3,04 28,7 3,02 23,7 3,03 26,2 2,36
Tây Ban Nha 15,2 1,62 18,1 2,13 17,1 1,80 17,7 1,59 na na
Quốc tịch
khác
181,4 19,48 187,6 22,12 269,7 28,39 333,9 30,08 na na
Nguồn: Sở Du lịch Hà Nội.
2.2.2.2. Thực trạng về khách du lịch nội địa đến địa bàn Hà Nội
Trong 6 năm từ 2000 - 2006, do tình hình chính trị ổn định, nhà nước có nhiều chủ
trương chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích mọi thành phần kinh tế
trong nước, nền kinh tế không ngừng phát triển, đời sống của nhân dân không ngừng được
cải thiện, nâng cao nên khách du lịch trong nước vào Hà Nội tăng lên rõ rệt. Năm 2000 Hà
Nội có 2.099.600 lượt khách du lịch nội địa thì đến năm 2006 đạt mức 4.900.000 lượt
khách du lịch tăng gần gấp hai lần. Khách du lịch nội địa đến Hà Nội phần lớn là khách
tham quan, thăm thân, lễ hội, khách du lịch công vụ cũng chiếm tỷ lệ quan trọng, vì thị
trường khách này ngoài công vụ còn kết hợp tham quan. Nếu năm 2005 có 4.230.365 lượt
khách nội địa thì đến năm 2006 số lượt khách du lịch nội địa tăng lên 4.900.000 lượt khách
tăng 15,8%. Thời gian lưu trú bình quân của một khách là 02 ngày và khoảng 65% số lượt
khách này không sử dụng dịch vụ lưu trú của khách sạn mà nghỉ ở nhà người thân.
Bảng 2.7: Số lượng khách du lịch nội địa đến Hà Nội
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Số khách trong 2.099,6 2.300,0 2.850,0 3.030,0 3.500,0 4.230,4 4.900,0
nước đến Hà
Nội, 1000 lượt
người
Tỷ lệ khách nội
địa đến Hà Nội/
cả nước, %
18,8 19,7 21,9 22,4 24,1 22,4 28
Nguồn: Sở Du lịch Hà Nội.
Lượng khách du lịch nội địa năm 2000 tăng gấp đôi năm 1999 là do năm 2000 Hà
nội có nhiều sự kiện lịch sử, đặc biệt là kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, đã thu hút
một lượng khách lớn đến Hà Nội tham quan các danh lam thắng cảnh, các công trình văn
hóa. Hiện tại thành phố Hà Nội đang tích cực tôn tạo các di tích lịch sử, các công trình văn
hóa, cơ sở hạ tầng kỹ thuật chuẩn bị kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội vào năm
2010. Về chi tiêu của khách du lịch nội địa đến Hà Nội không nhiều, mặc dù trong mấy
năm trở lại đây, thu nhập của người dân ngày càng tăng do đó nhu cầu có khả năng thanh
toán của khách du lịch nội địa cũng tăng lên, xu hướng tiêu dùng các dịch vụ bổ sung tăng
lên. Song hiện nay, một khách nội địa chi tiêu bình quân một ngày khoảng 200.000 đồng,
trong đó 75% dành cho việc lưu trú và ăn uống, đây là nhu cầu tối thiểu.
Nhìn chung, lượng khách du lịch của Hà Nội tăng trưởng ổn định, vững chắc.
Trong đó, lượng khách du lịch quốc tế hàng năm có mức tăng trưởng khá, khách du lịch
nội địa cũng phát triển mạnh.
2.3. Đánh giá chung về hoạt động du lịch ở Hà Nội
2.3.1. Một số kết quả đạt được
Du lịch Hà Nội được sự quan tâm lãnh đạo của Thành ủy, ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội, sự phối hợp của các, các cấp và cố gắng, sự nỗ lực của bản thân đã đạt được
những thành tựu trên nhiều mặt kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. Cụ thể được trình
bày dưới đây.
2.3.1.1. Một số kết quả đạt được về mặt kinh tế
Mặc dù, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực đã làm cho số lượng khách
du lịch đến Hà Nội năm 1997, 1998 chững lại nhưng đến năm 1999, nhất là năm 2000, Du
lịch Hà Nội có sự phát triển khá mạnh nên cả thời kỳ 1996 - 2000 vẫn dự được nhịp độ
tăng trưởng bình quân khá. Tham gia vào nhiều tổ chức du lịch quốc tế trong khu vực và
trên thế giới. đồng thời cũng đã tổ chức được nhiều cuộc giao lưu, hội thảo giữa các hãng
lữ hành quốc tế có nội dung xúc tiến hợp tác cao hơn, mở ra triển vọng mới trong quá trình
hội nhập quốc tế và khu vực của du lịch Hà Nội. Điều đáng nói là vào cuối năm 1999, Ban
Chỉ đạo phát triển du lịch Hà Nội đã được thành lập và cho đến nay đã có hơn 20 thành
viên tham gia. Nhờ đó đã có sự phối hợp, kết hợp có hiệu quả hơn trên cả ba mặt: quản lý,
xúc tiến và tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy du lịch phát triển bền vững. Việc tổ chức thành
công các cuộc liên hoan du lịch hàng năm đã thu hút hàng trăm nghìn người, trong đó có
hàng vạn khách du lịch quốc tế tham gia. Việc tổ chức hàng chục cuộc hội thảo với nội
dung tầm cỡ quốc tế và phát hành hàng trăm ngàn ấn phẩm v.v... Trong thời gian qua, là sự
minh chứng cho sự phối hợp liên ngành, liên kết giữa các địa phương và quốc tế. Điều đó
được thể hiện trong nhiều chỉ tiêu cơ bản như số lượt khách du lịch quốc tế và trong nước,
doanh thu, nguồn thu ngoại tệ, nộp ngân sách nhà nước, cùng với sự gia tăng cơ sở vật chất
kỹ thuật.
Về kết quả kinh doanh dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống và các dịch vụ bổ sung,
theo Sở Du lịch Hà Nội, công suất sử dụng phòng của các khách sạn tại Hà Nội từ 1996 -
2006 cụ thể như sau [31]:
- Năm 1996: số lượng khách du lịch vào Hà Nội tăng nên công suất sử dụng phòng
bình quân của các khách sạn tăng và đạt công suất 65%.
- Năm 1997, 1998: do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và tiền tệ, công
suất phòng chỉ đạt 43 - 45%.
- Năm 1999, 2000 công suất phòng đạt 65%.
- Từ năm 2001 đến 2006: công suất phòng đạt trên 75,2%
Du lịch Hà Nội đã góp phần vào việc thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
theo xu hướng tăng nhanh khu vực dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, đưa du lịch
Thủ đô tăng trưởng khá qua các năm.
Kết quả đạt được trên một số hoạt động du lịch cụ thể như sau:
- Về lữ hành và vận chuyển khách du lịch: Dịch vụ lữ hành và vận chuyển khách
du lịch Hà Nội đã được nâng cao cả về lượng và chất. Tuy vậy, do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực châu á như đã phân tích nên những năm 1996 đến
hết 1998 không đạt được tốc độ tăng trưởng như mong muốn, mãi đến năm 1999 mới được
phục hồi và dạt mức tăng trưởng cao vào năm 2000. Hà Nội là địa phương đứng thứ hai
trong cả nước về lượng khách du lịch quốc tế, song lượng khách quốc tế năm 2006 mới đạt
1.110.000 lượt khách. Tỷ lệ khách quốc tế đến từ các nước trong khu vực đạt thấp. Ngay
như thị trường lớn Trung Quốc, các hãng lữ hành cũng chỉ khai thác được một lượng
khách khiêm tốn đi du lịch đường bộ qua các cửa khẩu b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở Hà Nội.pdf