Tài liệu Luận văn Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay các tổng công ty nhà nước tại sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG…………………
Luận văn
Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty
Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam
98
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
2
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Mở rộng cho vay, tăng dư nợ lành mạnh và nâng cao thu nhập ngân
hàng luôn là một trong những mục tiêu dài hạn của một ngân hàng thương
mại (NHTM). Để thực hiện điều đó, các ngân hàng đã sử dụng nhiều biện
pháp, nhằm vào nhiều nhóm khách hàng. Sự ra đời và phát triển của các Tổng
Công ty Nhà nước theo các Quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 07/4/1994 ở
nước ta cũng đã được các NHTM tập trung khai thác nhằm vào mục tiêu trên.
Là những doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn, hoạt động theo mô hình mới,
các Tổng Công ty Nhà nước có những lợi thế căn bản với tư cách là khách
hàng của một ngân hàng. Mở rộng cho vay các Tổng Công ty Nhà nước
không chỉ có ý nghĩa với việc kinh doanh của ngân hàng, nó còn giúp các
Tổng...
109 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1127 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay các tổng công ty nhà nước tại sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG…………………
Luận văn
Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty
Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam
98
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
2
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Mở rộng cho vay, tăng dư nợ lành mạnh và nâng cao thu nhập ngân
hàng luôn là một trong những mục tiêu dài hạn của một ngân hàng thương
mại (NHTM). Để thực hiện điều đó, các ngân hàng đã sử dụng nhiều biện
pháp, nhằm vào nhiều nhóm khách hàng. Sự ra đời và phát triển của các Tổng
Công ty Nhà nước theo các Quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 07/4/1994 ở
nước ta cũng đã được các NHTM tập trung khai thác nhằm vào mục tiêu trên.
Là những doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn, hoạt động theo mô hình mới,
các Tổng Công ty Nhà nước có những lợi thế căn bản với tư cách là khách
hàng của một ngân hàng. Mở rộng cho vay các Tổng Công ty Nhà nước
không chỉ có ý nghĩa với việc kinh doanh của ngân hàng, nó còn giúp các
Tổng Công ty mau chóng ổn định, phát triển sản xuất - kinh doanh, góp phần
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế chung. Tuy vậy, điều này hoàn toàn
không đơn giản, bởi ngân hàng phải kết hợp giữa mở rộng với nâng cao hiệu
quả cho vay trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Hơn nữa, các
Tổng Công ty Nhà nước được thành lập hướng tới mô hình tập đoàn kinh tế ở
nước ta trong những điều kiện riêng và có những đặc điểm riêng, do đó để mở
rộng cho vay các Tổng Công ty cần phải có những giải pháp phù hợp.
Qua thời gian thực tập tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt
Nam, thực hiện kết hợp lý thuyết với thực tiễn, em chọn đề tài “Giải pháp
nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước tại Sở giao
dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam” làm đề tài Khoá luận Tốt
nghiệp của mình.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU KHÓA LUẬN.
Khoá luận đi từ những nội dung mang tính lý luận trong hoạt động cho
vay đối với các Tổng Công ty Nhà nước của một NHTM, tới các vấn đề thực
tiễn trong hoạt động này đối với Sở giao dịch I từ đó đưa ra những giải pháp,
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
3
kiến nghị cụ thể nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với các Tổng Công ty
Nhà nước tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước
tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào những vấn đề liên quan tới hoạt
động cho vay của ngân hàng đối với các Tổng Công ty Nhà nước, những vấn
đề trong việc thực hiện cơ chế chính sách đối với hoạt động cho vay các Tổng
Công ty Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam,
thời gian từ năm 1999 đến 2001 và 6 tháng đầu năm 2002.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sự,
phương pháp hệ thống, so sánh - thống kê, phân tích kinh tế để nghiên cứu
các vấn đề đã nêu ra.
V. KẾT CẤU KHÓA LUẬN.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm ba chương:
Chương I: Tổng quan về hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
và nhu cầu vay vốn của các Tổng Công ty Nhà nước ở Việt
Nam.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước tại
Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Chương III: Giải pháp nhằm mở rộng cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước
tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
4
CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VỚI CÁC TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC
I - HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Khái niệm và đặc trưng hoạt động cho vay của các NHTM:
1. 1. Khái niệm:
Theo nghĩa thông thường, cho vay là việc chuyển giao một số tiền hay
tài sản nhất định cho người khác sử dụng với điều kiện có hoàn trả lại. Khái
niệm phổ biến này được dùng rộng rãi trong đời sống thường ngày, từ những
món tiền hay tài sản có giá trị lớn cho tới những món tiền lớn hay đồ vật có
giá trị nhỏ. Với khái niệm này, hoạt động cho vay hay quan hệ vay mượn nói
chung có 2 đặc điểm chính là:
- Thứ nhất, trong quan hệ ấy, chỉ có sự chuyển giao quyền sử dụng (tiền,
tài sản) mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu các tài sản hay số tiền đó.
- Thứ hai, người cho vay được hoàn trả lại sau một thời gian nhất định
theo sự thoả thuận giữa hai bên: người cho vay và người đi vay.
Người cho vay có nhận được một khoản lãi nào hay không cũng phụ
thuộc vào sự thoả thuận này, và trong đời sống thường ngày không phải bao
giờ người cho vay cũng lấy lãi.
Còn đối với các NHTM hay là các tổ chức tín dụng nói chung thì cho
vay là một nội dung nghiệp vụ. Đó là việc NHTM giao cho khách hàng một
khoản tiền nhất định trong một thời gian nhất định với điều kiện là họ phải
hoàn trả lại cùng với một khoản tiền vượt trội đóng vai trò là tiền lãi. Với một
khoản vay mượn thông thường, người cho vay có thể không đòi hỏi một
khoản lãi nào, điều này có thể xuất phát từ những mối quan hệ cá nhân, hoặc
người cho vay không phải là người kinh doanh tiền... Song đối với các
NHTM, bao giờ họ cũng phải thu lãi, ít nhất là phải đủ để trả lãi cho người
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
5
gửi tiền vào ngân hàng, bởi vì họ cũng là những người kinh doanh vì mục tiêu
lợi nhuận.
Ở Việt Nam, theo Quy chế cho vay ban hành kèm Quyết định
324/1998/ QĐ - NHNN1, thì Cho vay là một hình thức cung cấp tín dụng,
theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng
vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có
hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Với tư cách là người cho vay, ngân hàng đáp ứng vốn cho các đơn vị,
tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu cần được bổ sung vốn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, hoạt động cho vay của NHTM
đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản
xuất xã hội. Quá trình tái sản xuất xã hội thường xuyên xuất hiện hiện tượng
tạm thời thừa vốn ở các tổ chức cá nhân này, trong khi các tổ chức cá nhân
khác lại thiếu vốn và có nhu cầu về vốn. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh
do có sự chênh lệch về thời gian, số lượng giữa các khoản thu nhập và chi tiêu
ở tất cả các tổ chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến
hành liên tục. Tín dụng thương mại đã không giải quyết được vấn đề này, chỉ
có ngân hàng là tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết
mâu thuẫn này thông qua hoạt động cho vay của mình.
Ta cũng cần phân biệt giữa cho vay và cấp tín dụng: một ngân hàng có
thể cấp cho khách hàng các khoản tín dụng bằng các nghiệp vụ cho vay, cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng, tín dụng chứng từ... Cho vay chỉ là một
hình thức cấp tín dụng, song nó lại là một hình thức chủ yếu và quan trọng
nhất của các NHTM.
1.2. Đặc trưng:
Hoạt động cho vay của các NHTM có các đặc trưng sau:
- NHTM chuyển giao quyền sử dụng cho người đi vay một khoản tiền nhất
định.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
6
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời, trong một thời gian nhất định,
sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho
NHTM.
- Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói
cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức còn gọi là tiền lãi.
Tóm lại, hoạt động cho vay của NHTM mang những đặc trưng cụ thể
là: Tính thời hạn, tính hoàn trả và lòng tin người vay sẽ sử dụng vốn có hiệu
quả và hoàn trả đúng thời hạn cả vốn lẫn lãi.
2. Nội dung chủ yếu trong quy trình cho vay của các NHTM:
2.1. Tìm kiếm và thẩm định:
Các ngân hàng có thể có được yêu cầu vay vốn do khách hàng đưa tới
hoặc ngân hàng chủ động tìm đến với các khách hàng có nhu cầu vay vốn để
đề nghị phục vụ. Khi đã có yêu cầu xin vay vốn, điều đầu tiên cán bộ tín dụng
(CBTD) phải làm là hướng dẫn khách hàng về thủ tục và điều kiện được xin
vay vốn. Nếu khách hàng đã nhất trí với các điều kiện và thủ tục ấy thì CBTD
hướng dẫn họ lập hồ sơ vay vốn để ngân hàng chính thức nghiên cứu, thẩm
định. Mục đích của thẩm định tín dụng là xác định khả năng và ý muốn của
người vay trong việc hoàn trả tiền vay phù hợp với các điều khoản của hợp
đồng tín dụng, nói cách khác là ước lượng rủi ro không hoàn trả. Từ đó đưa ra
quyết định cho vay hay không, và nếu cho vay thì cho vay bao nhiêu? Với kỳ
hạn, lãi suất và phương thức cho vay nào?… Khi tiến hành thẩm định, ngân
hàng phải trả lời cho hai loại câu hỏi lớn là phải thẩm định cái gì (thẩm định
các yếu tố nào) và các nguồn thông tin lấy từ đâu. Chúng ta sẽ đi vào xem xét
cách trả lời với mỗi loại câu hỏi trên.
Trả lời câu hỏi thẩm định cái gì ? Các ngân hàng lại thường chia ra
thành thẩm định các yếu tố về bản thân khách hàng và thẩm định về phương
án, dự án xin vay vốn.
a/ Các yếu tố về bản thân khách hàng:
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
7
Năng lực vay nợ: Các ngân hàng quan tâm trước tiên đến năng lực pháp
lý và năng lực hành vi dân sự của khách hàng. Là khách hàng, cá nhân họ
phải là những công dân đến tuổi trưởng thành (theo luật Việt Nam là 18 tuổi
trở lên), nếu không họ phải được cha mẹ hay người giám hộ bảo lãnh và cùng
ký vào đơn xin vay tiền. Đối với các tổ chức kinh tế (TCKT), ngân hàng xét
xem nó có đủ tư cách pháp nhân không, các giấy tờ xác minh tư cách ấy, tính
độc lập và tự chịu trách nhiệm trong việc đưa ra các quyết định của các TCKT
đó như thế nào? Ai là người có thẩm quyền đại diện cho công ty trong quan
hệ vay mượn? Đây là những yếu tố mà bắt buộc ngân hàng phải xem xét.
Uy tín của khách hàng: Uy tín ở đây không chỉ trong quan hệ của khách
hàng với ngân hàng, mà còn trong các quan hệ tín dụng cũng như kinh tế với
các ngân hàng và đối tác khác. Lịch sử các mối quan hệ này của khách hàng
trong đó có việc thực hiện các hợp đồng tín dụng thường rất có giá trị khi
đánh giá uy tín của họ. Tuy nhiên không phải lúc nào ngân hàng cũng nắm
được rõ ràng các yếu tố này mà còn phải phán đoán sự sẵn lòng trả nợ cũng
như sự cố gắng thực hiện hợp đồng tín dụng.
Năng lực tài chính của khách hàng: Ở đây, các NHTM sẽ xác định vốn
kinh doanh của doanh nghiệp xin vay, và họ sẽ không bao giờ cấp một món
vay nào cho doanh nghiệp nếu không được đảm bảo bằng vốn kinh doanh.
Vốn kinh doanh là một trong những tiêu chuẩn đo lường sức mạnh tài chính
của khách hàng, và cũng là một yếu tố quyết định tới khối lượng tín dụng mà
ngân hàng sẵn lòng cung cấp. Các ngân hàng còn phải xem xét khả năng độc
lập, tự chủ tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán và hoàn trả nợ của
người vay. Điều này được thực hiện thông qua phân tích các chỉ tiêu đặc
trưng tài chính của doanh nghiệp như tỷ lệ thanh toán nhanh, tỷ lệ thanh toán
hiện hành, vốn lưu động thực tế chủ sở hữu, vòng quay vốn lưu động, hệ số
tài trợ trong tổng tài sản… Bên cạnh đó, năng lực tài chính của doanh nghiệp,
trong đó có yếu tố lợi nhuận, chịu tác động của nhiều yếu tố nội tại của doanh
nghiệp ấy, đó là khả năng quản lý, khả năng kỹ thuật - công nghệ, sức cạnh
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
8
tranh. Đây cũng là những đối tượng trong thẩm định của ngân hàng, và tất
nhiên họ sẽ đánh giá cao các doanh nghiệp có hệ thống quản lý có hiệu lực,
cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh tốt trên thị trường.
Thẩm định tài sản thế chấp, cầm cố (nếu có): Về nguyên tắc, những tài
sản đem cầm cố, thế chấp phải thuộc quyền sở hữu của người vay, và người
vay phải chứng minh được điều đó trước ngân hàng bằng những tài liệu hợp
pháp. Không chỉ như vậy, CBTD còn phải thẩm định giá trị những tài sản ấy
một cách chính xác theo giá cả thị trường hiện tại và giá trị thanh lý (thường
thấp hơn nhiều giá cả thị trường hiện tại) trong trường hợp người vay không
trả nợ hoặc có sự biến động về giá cả của những tài sản đó.
Bên cạnh đó, các điều kiện kinh tế tuy không phải là yếu tố thuộc về
bản thân khách hàng nhưng nó lại tác động tới khả năng trả nợ, tới phương án,
dự án sử dụng vốn vay của khách hàng với vai trò là môi trường hoạt động
của cả các doanh nghiệp và ngân hàng. CBTD sẽ phải liên tục tổng hợp và
phân tích các thông tin về nhịp độ tăng trưởng kinh tế của đất nước, như tỷ lệ
lạm phát, thất nghiệp, lãi suất chiết khấu của NHTW, cân đối ngân sách, cân
đối thanh toán và tỷ giá hối đoái và phân tích được các thông tin về lĩnh vực
hoạt động của khách hàng.
b/ Về thẩm đinh phương án, dự án xin vay:
Trước hết, ngân hàng phải xem xem phương án sử dụng vốn vay có phù
hợp với kế hoạch SXKD, với điều kiện thị trường hay không; các điều kiện để
thực hiện thành công phương án, các định mức kinh tế - kỹ thuật, các số liệu
về thu nhập và chi phí cũng như lợi nhuận dự kiến có hợp lý không? Điều này
xuất phát từ mối quan hệ tay ba ngân hàng - doanh nghiệp - thị trường.
Đối với những yêu cầu xin vay vốn ngắn hạn bổ sung cho vốn lưu
động, nguồn trả nợ trực tiếp nhất là doanh thu tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ hình
thành từ nguồn vốn vay. Ngân hàng thường thiết lập mối tương quan giữa
khoản tiền xin vay với doanh thu theo kế hoạch và doanh thu thực hiện của
phương án SXKD. Tại thời điểm xem xét, doanh thu thực hiện chưa xuất
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
9
hiện, nhưng ngân hàng lại phải dự đoán được do nó phụ thuộc trực tiếp vào
tiêu thụ, tức là nhu cầu thị trường và sức cạnh tranh của sản phẩm. Kết hợp
với các yếu tố đã phân tích về bản thân khách hàng, ngân hàng sẽ rút ra kết
luận về số tiền có thể chấp nhận cho vay trong tổng doanh thu đó. Một vấn đề
có tính nguyên tắc là chỉ những phương án với hiệu quả được tính trong
khoảng thời gian một chu kỳ sản xuất hoặc năm dương lịch mới là đối tượng
của cho vay vốn lưu động.
Đối với các dự án xin vay vốn trung, dài hạn thì việc thẩm định sẽ phức
tạp hơn, bởi các khoản cho vay này chứa đựng nhiều rủi ro hơn. Các ngân
hàng thường thẩm định dự án từ nhiều phương diện: kỹ thuật, thị trường và tài
chính của dự án, từ đó khẳng định tính khả thi kinh tế - kỹ thuật của dự án,
xác định được thời điểm thực hiện dự án, lịch trình giải ngân, trả nợ được trù
tính trong dự án, từ đó mà quyết định cho vay hay từ chối. Trước tiên, ngân
hàng thẩm định về thị trường sản phẩm, dịch vụ và sản phẩm dịch vụ sẽ cung
cấp như đối với cho vay ngắn hạn. Thẩm định kỹ thuật dự án cũng quan hệ
chặt chẽ tới phương diện thị trường của dự án. Ở đây, ngân hàng quan tâm tới
qui mô của dự án, xem có phù hợp vói khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng
cung cấp nguyên vật liệu và năng lực quản lý của doanh nghiệp không? Tiếp
đó ngân hàng xem xét tới công nghệ và trang thiết bị, đây cũng là căn cứ xác
định chu kỳ sống của sản phẩm, một yếu tố có ý nghĩa khi xem xét đầu tư.
Việc thẩm định kỹ thuật có thể được thực hiện bởi các bộ phận chuyên trách
hoặc do CBTD tự phụ trách. Tuy nhiên có nhiều trường hợp do trình độ
chuyên môn hoá của CBTD còn thấp hoặc tính phức tạp của dự án ngân hàng
phải thuê các chuyên gia tư vấn.
Về phương diện tài chính, ngân hàng có thể sử dụng các phương pháp
khác nhau, sử dụng các loại chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án như
giá trị hiện tại (NPV), tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), thời gian hoàn vốn, tỷ
suất lợi ích trên chi phí (B/C)… Khi thẩm định dự án đầu tư để cho vay trung,
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
10
dài hạn, ngân hàng thường vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp trong đó
coi mỗi chỉ tiêu là một con số thể hiện một mặt của dự án.
Trả lời câu hỏi các nguồn thông tin lấy từ đâu? Ngân hàng có thể
thu thập thông tin từ các nguồn:
+ Thông qua phỏng vấn trực tiếp người xin vay, CBTD có thể đánh giá
được phần nào năng lực, tư cách đạo đức của khách hàng, cũng như để giải
thích những điều chưa rõ trong hồ sơ tín dụng.
+ Nguồn thứ hai là hệ thống sổ sách của ngân hàng để biết thêm về uy
tín của khách hàng trong việc hoàn trả các món vay, số dư trên các tài khoản,
tình hình thanh toán công nợ...
+ Các nguồn thông tin bên ngoài, như ngân hàng thuê các Công ty
chuyên nghiệp điều tra thu thập thông tin về khách hàng, hay nhờ các ngân
hàng bạn hay bạn hàng của khách hàng để xác định uy tín của anh ta. Một số
nước còn có hệ thống thông tin tín dụng chung do ngân hàng Trung ương hay
hiệp hội các ngân hàng điều hành (CIC ở Việt Nam là một ví dụ về hình thức
này).
+ Thông qua các chuyến viếng thăm khách hàng, CBTD có thể thu thập
những thông tin rất khách quan về tình hình hoạt động của họ.
+ Những thông tin do khách hàng cung cấp từ các hồ sơ vay vốn và sổ
sách kế toán. Đây là nguồn thông tin chính thức mà khách hàng phải trình lên
ngân hàng khi xin vay.
Ở một ngân hàng thường có sự phân cấp uỷ quyền trong việc quyết
định cho vay. Điều này càng thấy rõ ở mức phán quyết mà chi nhánh của
NHTM (ở ngân hàng có chi nhánh) có thể quyết định cho vay. Nhiều khi một
hội đồng gồm nhiều thành viên được thành lập để thẩm định và quyết định
cho vay đối với các dự án lớn, có tính phức tạp cao.
2.2. Giải ngân, quản lý món vay và thu nợ:
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
11
Mục đích của khâu này là phát tiền vay đúng tiến độ, đúng đối tượng,
kiểm soát và quản lý chặt chẽ món vay để đảm bảo khách hàng sử dụng vốn
vay đúng mục đích, thực hiện được kế hoạch trả nợ, đồng thời có thể phát
hiện sớm nhất những khó khăn phát sinh để có biện pháp xử lý nhằm hạn chế
tới mức thấp nhất rủi ro đối với ngân hàng. Các công việc cụ thể là:
Khi phát tiền vay, CBTD tuân thủ nguyên tắc phải có vật tư, tài sản
tương đương là đối tượng ghi trong hợp đồng tín dụng kết hợp với các
phương thức thanh toán, ngân hàng có thể thanh toán trực tiếp với người cung
cấp của khách hàng mà không qua trung gian.
Sau khi phát tiền vay, CBTD vẫn thường xuyên quản lý kiểm tra việc
sử dụng vốn vay của khách hàng. Ngoài việc liên tục theo dõi sự vận động
của vốn, ngân hàng còn chú ý cả tới tình hình kinh doanh chung của khách
hàng và tình hình thị trường giá cả... Phát hiện sớm nhất những dấu hiệu của
khoản cho vay có vấn đề, ngân hàng có thể có biện pháp thích hợp. Ngân
hàng có thể thu hồi khoản vay trước hạn, nếu khách hàng sử dụng vốn sai
mục đích. Ngân hàng cũng có thể yêu cầu thêm tài sản thế chấp, cầm cố khi
giá trị thị trường của các tài sản này giảm ngoài dự kiến... Đối với những khó
khăn mang tính khách quan, ngân hàng sẽ cùng khách hàng giải quyết, giúp
doanh nghiệp thu hồi các hoá đơn chậm trả, thanh toán hàng tồn kho hay giảm
bớt dự trữ quá mức; sắp xếp, cấu trúc lại các khoản vay bằng định lại kỳ hạn
nợ hay rút bớt mức chi trả định kỳ trong một thời gian... Để việc thu nợ diễn
ra thuận lợi, CBTD có các biện pháp nhắc nhở, đôn đốc; định kỳ tổng kết
việc thực hiện kế hoạch trả nợ của khách hàng.
2.3. Thanh lý hợp đồng tín dụng và lưu giữ hồ sơ khách hàng:
Sau khi thu nợ đầy đủ hoặc giải quyết các tồn tại về khoản vay, ngân
hàng và khách hàng tiến hành thanh lý hợp đồng tín dụng. Ngân hàng tổng
kết, đánh giá toàn bộ quá trình cho vay, rút ra kinh nghiệm, bài học cần thiết,
đồng thời đưa ra các yêu cầu mới. Ngân hàng tiến hành lưu trữ hồ sơ khách
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
12
hàng dù họ còn quan hệ với ngân hàng nữa hay không. Nhiều NHTM ở các
nước tiên tiến có hẳn bộ phận chuyên trách, và công việc này được thực hiện
bằng nhiều phương tiện hiện đại như máy tính, các phần mềm quản lý khách
hàng. Ở nước ta, công việc này do mỗi CBTD đảm nhận, đưa vào phòng quản
lý khách hàng; các lưu trữ vẫn chủ yếu dưới dạng hồ sơ giấy tờ.
3. Mở rộng hoạt động cho vay của NHTM:
Khối lượng cho vay biểu hiện ở hai mặt:
- Mặt tuyệt đối biểu hiện ở số dư tuyệt đối của khoản mục trong nghiệp
vụ tài sản có ngân hàng và một phần dịch vụ ngoại bảng cân đối kế toán.
- Mặt tương đối biểu hiện ở tỷ trọng số dư của các khoản mục trên trong
tổng số các khoản mục cho vay và đầu tư trong và ngoài bảng cân đối kế toán.
Mở rộng hoạt động cho vay có 2 hình thức biểu hiện:
- Mở rộng tuyệt đối là tăng số dư của các khoản mục này trong và ngoài
bảng tổng kết tài sản so với kỳ trước, tăng doanh số cho vay lớn hơn tăng
doanh số thu nợ.
- Hình thức mở rộng tương đối hoạt động cho vay là tăng tỷ trọng số dư
cho vay trong tổng số dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng. Việc tăng tỷ
trọng cho vay làm thay đổi cơ cấu hoạt động kinh doanh ngân hàng theo
hướng tăng hoạt động cho vay.
II - TỔNG CÔNG TY VÀ NHU CẦU VAY VỐN CỦA CÁC TỔNG CÔNG
TY NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM.
1. Khái niệm, hoàn cảnh ra đời của Tổng Công ty Nhà nước ở nước
ta:
1.1. Khái niệm Tổng Công ty Nhà nước:
Tổng Công ty Nhà nước là doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) có quy mô
lớn bao gồm các đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh
tế, tài chính, công nghệ thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động
trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế kỹ thuật chính do Nhà nước
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
13
thành lập nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hóa và
hợp tác sản xuất để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao, nâng cao khả năng và
hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng Công ty đáp
ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Tổng Công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình quy định tại Quyết
định số 91/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ gọi tắt là Tổng
Công ty 91. Tổng Công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình quy định tại
Quyết định số 90/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ gọi tắt là
Tổng công ty 90.
Các đơn vi được lựa chọn theo Quyết định 91 là một số Tổng Công ty,
Công ty lớn có mối liên hệ theo ngành và vùng lãnh thổ không phân biệt
doanh nghiệp do Trung ương hay do địa phương quản lý có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, bảo đảm những yêu cầu cần thiết cho thị trường
trong nước và có triển vọng mở rộng quan hệ kinh doanh ra nước ngoài, phải
có 7 doanh nghiệp thành viên trở lên và có vốn pháp định ít nhất là 1.000 tỷ
đồng.
Các Tổng Công ty được thành lập theo Quyết định 90 là các Liên hiệp
Xí nghiệp, Tổng Công ty có ít nhất 5 đơn vị thành viên quan hệ với nhau về
công nghệ, tài chính, chương trình đầu tư phát triển, dịch vụ về cung ứng, vận
chuyển, tiêu thụ, thông tin, đào tạo. Toàn Tổng Công ty có vốn pháp định trên
500 tỷ đồng, trong những ngành đặc thù thì vốn pháp định có thể thấp hơn
nhưng không được ít hơn 100 tỷ đồng.
1.2. Hoàn cảnh ra đời của Tổng Công ty ở nước ta:
Trong nền kinh tế thị trường, dưới sự chi phối của các quy luật kinh tế
khách quan như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật tích tụ và tập
trung sản xuất... diễn ra một xu hướng cơ bản là sự tập trung sản xuất kinh
doanh để hình thành các tập đoàn kinh doanh dưới nhiều hình thức và mức độ
khác nhau.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
14
Hiện nay, các tập đoàn kinh doanh có vai trò chi phối nhiều nền kinh tế
trên thế giới như các cheabol ở Hàn Quốc, các tập đoàn kinh doanh của Mỹ,
Nhật. Các Công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia cũng là những dạng tập đoàn
kinh doanh. Ngay ở các nước láng giềng với Việt Nam ta, nhiều tập đoàn kinh
doanh đã hình thành và phát triển, đóng vai trò lớn trong nền kinh tế quốc dân
(Thái Lan, Malaysia). Trong tình trạng nền kinh tế thế giới có nhiều biến
động mạnh vừa qua, xu hướng sáp nhập, hợp nhất các Công ty đã diễn ra càng
phổ biến và mạnh mẽ.
Ở Việt Nam, từ những năm 1960 ở miền Bắc đã hình thành và phát
triển các liên hiệp xí nghiệp và Tổng Công ty trong hệ thống các DNNN, và
đặc biệt bùng nổ vào cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 trên phạm vi toàn quốc.
Cho đến năm 1991, đã tồn tại khoảng 150 Tổng Công ty và liên hiệp xí
nghiệp được tổ chức hoạt động theo cơ chế tập trung bao cấp kèm theo một số
chức năng quản lý Nhà nước. Sự lẫn lộn giữa chức năng quản lý Nhà nước và
chức năng hoạt động kinh doanh đã biến các mô hình này thành một cấp hành
chính trung gian, khiến quá trình tích tụ và tập trung hoá không được thực
hiện tốt. Tất nhiên các mô hình này đã có những đóng góp lớn trong thời kỳ
chiến tranh, nhưng sau này, nhất là khi nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị
trường, các Tổng Công ty và liên hiệp xí nghiệp theo mô hình ấy ngày càng tỏ
ra không phù hợp, khó có thể trụ vững trong nền kinh tế thị trường. Quyết
định 217 và Nghị định 388 ra đời đã tăng cường tính độc lập, tự chủ trong
kinh doanh của các DNNN, mang lại nhiều tác dụng tích cực, đồng thời làm
giảm vai trò của các liên hiệp xí nghiệp và Tổng Công ty như trên. Tuy nhiên
sau một thời gian hoạt động. Hệ thống DNNN lại bộc lộ những nhược điểm
lớn. Đó là: sản xuất còn manh mún, phân tán, chồng chéo và trùng lặp về các
chức năng kinh doanh; khả năng tái đầu tư qua tích tụ rất hạn chế do quy mô
nhỏ; kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, hiệu quả sản xuất thấp. Hậu quả là khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp này thấp, đặc biệt là trong cạnh tranh quốc
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
15
tế; mặt khác, nhiều DNNN cạnh tranh bừa bãi, gây tổn hại cho nền kinh tế nội
địa hạn chế vai trò chủ đạo của hệ thống kinh tế quốc doanh.
Để khắc phục các nhược điểm trên, ngày 07/3/1994, Thủ tướng Chính
phủ đã ra các quyết định 90/TTg và 91/TTg về sắp xếp lại các DNNN, đồng
thời cho phép thành lập các Tổng Công ty Nhà nước. Mục đích của việc này
là: Tạo ra điều kiện để thúc đẩy tích tụ, tập trung và tái đầu tư; nâng cao khả
năng cạnh tranh của hệ thống DNNN trên thị trường trong và ngoài nước;
thực hiện chủ trương xoá bỏ dần chế độ bộ chủ quản và cấp hành chính chủ
quản, sự phân biệt giữa các doanh nghiệp Trung ương và địa phương. Việc
thành lập các Tổng Công ty Nhà nước là một bộ phận của quá trình đổi mới,
tổ chức và sắp xếp lại các DNNN, hình thành các tập đoàn kinh doanh mạnh
của Nhà nước.
Sau những năm đầu hoạt động, các Tổng Công ty đã phát huy nhiều tác
dụng tích cực: Tập hợp được sức mạnh toàn Tổng Công ty trong tham gia đấu
thầu, bảo lãnh vay vốn tín dụng thực hiện chiến lược đầu tư phát triển và đổi
mới công nghệ (rõ nhất là các TCT 91), xây dựng và mở rộng thị trường,
giảm thiểu sự cạnh tranh hỗn loạn giữa các DNNN với nhau trên thị trường
trong nước, bình ổn giá cả. Nhưng việc thành lập Tổng Công ty mang tính
chủ quan lại bộc lộ một số nhược điểm một loạt Tổng Công ty được thành lập
trên cơ sở gom các doanh nghiệp cùng chức năng lại thành một Tổng Công ty,
vốn giao cho Tổng Công ty là tổng vốn các thành viên nắm giữ, dẫn tới tình
trạng Tổng Công ty chỉ nắm vai trò quản lý hành chính; tình trạng độc quyền
trong kinh doanh tăng lên đặc biệt đối với các Tổng Công ty 91; quan hệ giữa
Tổng Công ty - đơn vị thành viên còn nhiều trục trặc.
2. Địa vị pháp lý và tổ chức một Tổng Công ty:
2.1. Địa vị pháp lý:
Các Tổng Công ty ra đời trực tiếp từ các quyết định 90/TTg, 91/TTg
ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài việc chịu chi phối bởi các
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
16
văn bản pháp quy như đối với các DNNN, các Tổng Công ty còn có các văn
bản quy định, hướng dẫn như Nghị định 39/CP ngày 27/6/1995 ban hành điều
lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của Tổng Công ty Nhà nước; Quyết định 838
tài chính/QĐ/TCDN ngày 28/8/1996 ban hành quy chế tài chính mẫu Tổng
Công ty Nhà nước; Quy chế Công ty tài chính trong Tổng Công ty Nhà nước
Chỉ thị 135/TTg ngày 4/3/1997 về xây dựng Quy chế hoạt động của Hội đồng
quản trị và Ban kiểm soát trong Tổng Công ty và một số văn bản khác. Với
một Tổng Công ty cụ thể thì địa vị và tổ chức của Tổng Công ty được quy
định cụ thể ở Điều lệ và quy chế tài chính của nó.
Tổng Công ty Nhà nước là những DNNN có tư cách pháp nhân Việt
Nam do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập (đối với các Tổng Công ty
quan trọng - Tổng Công ty 91); do Bộ trưởng Bộ quản lý ngành kinh tế kỹ
thuật hoặc tương đương, UBND tỉnh hoặc tương đương thành lập (TCT 90)
theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ. Tổng Công ty có vốn và tài sản độc
lập và tự chịu trách nhiệm với các khoản nợ trong phạm vi số vốn do Tổng
Công ty quản lý. Tổng Công ty có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Theo quy định hiện hành, mối quan hệ giữa Tổng Công ty với các cơ
quan (Thủ tướng Chính phủ, Bộ tài chính, các bộ và UBND thành lập ... ) là
rất phức tạp, nhiều quy định còn thiếu cụ thể. Điều này khiến nhiều cơ quan
Nhà nước can thiệp vào hoạt động của các Tổng Công ty hay gây ảnh hưởng
trong việc ra các quyết định.
2.2. Về tổ chức:
Tổng Công ty được quản lý bởi Hội đồng quản trị và điều hành bởi
Tổng giám đốc (TGĐ). Hội đồng quản trị có 5 hoặc 7 thành viên do thủ
trưởng cơ quan ra quyết định thành lập Tổng Công ty bổ nhiệm, miễn nhiệm
theo nhiệm kỳ 5 năm. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm về sự phát triển của
Tổng Công ty theo nhiệm vụ Nhà nước giao; có quyền nhận vốn do Nhà nước
giao cho Tổng Công ty; xem xét phê duyệt phương án do Tổng Giám đốc đề
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
17
nghị về giao vốn cho các đơn vị thành viên và phương án điều hoà vốn và các
nguồn lực giữa các thành viên đó. Hội đồng Quản trị thành lập Ban kiểm soát
thực hiện kiểm tra, giám sát Tổng Giám đốc, bộ máy giúp việc và các thành
viên Tổng Công ty. Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của Tổng Công ty và
chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước người bổ nhiệm mình và pháp
luật về điều hành hoạt động của Tổng Công ty. Tổng Giám đốc cùng Chủ tịch
Hội đồng quản trị ký nhận vốn và các nguồn lực khác của Nhà nước để quản lý
sử dụng theo mục tiêu nhiệm vụ Nhà nước giao cho Tổng Công ty; giao hoặc
điều hoà vốn giữa các thành viên Tổng Công ty theo phương án đã được Hội
đồng quản trị phê duyệt; điều hành Tổng Công ty theo các nghị quyết, quyết
định của Hội đồng quản trị.
Tổng Công ty gồm các đơn vị thành viên là những DNNN hạch toán
độc lập, hạch toán phụ thuộc hay đơn vị hành chính sự nghiệp. Các thành viên
hạch toán độc lập có quyền tự chủ kinh doanh, chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và cam kết của mình trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý, sử dụng.
Các doanh nghiệp này có tư cách pháp nhân hạn chế, bởi nó chịu sự ràng
buộc về nghĩa vụ và quyền lợi với Tổng Công ty theo quy định tại Điều lệ
Tổng Công ty và của đơn vị.
Các thành viên hạch toán phụ thuộc không có tư cách pháp nhân. Nó có
quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của TCT, Tổng Công ty chịu trách
nhiệm cuối cùng về nghĩa vụ tài chính phát sinh do sự cam kết của các đơn vị
này. Các thành viên là đơn vị hành chính sự nghiệp hoạt động theo nguyên tắc
lấy thu bù chi, được TCT hỗ trợ nếu thiếu hụt ngân sách hoạt động.
Về mặt sản xuất kinh doanh, các thành viên phụ thuộc chịu sự chỉ đạo
trực tiếp từ Tổng Công ty. Đối với thành viên độc lập, thực hiện kế hoạch của
mình trên cơ sở bảo đảm các mục tiêu, chỉ tiêu, các cân đối lớn, các định mức
kinh tế kỹ thuật chủ yếu phù hợp với kế hoạch chung của toàn Tổng Công ty,
đồng thời mở rộng kinh doanh để khai thác tối ưu có nguồn lực mình có, đáp
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
18
ứng nhu cầu thị trường. Tổng Công ty lựa chọn thị trường thống nhất và phân
công giữa các đơn vị thành viên.
3. Tình hình hoạt động của các Tổng Công ty Nhà nước từ khi thành
lập đến nay:
Đến nay trên toàn quốc có 17 Tổng Công ty 91 thành lập và hoạt động
theo Quyết định 91/TTG, 74 Tổng Công ty 90 theo Quyết định 90/TTg ngày
07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ, với 1750 đơn vị thành viên hạch toán
độc lập đã, chiếm 24% tổng số các doanh nghiệp Nhà nước, nhưng chiếm
66% về vốn, 60% về lao động và đóng góp vào ngân sách Nhà nước tới 69%,
tạo ra 50% tổng doanh thu và hơn 83% lợi nhuận của toàn hệ thống DNNN.
Trong những năm qua, các TCT Nhà nước đã từng bước khẳng định
được vai trò của mình; các cơ chế chính sách dần được hoàn thiện, mô hình
hoạt động rõ nét hơn, xuất hiện một số hình mẫu sơ khai các công ty mẹ - con
trong các TCT. Nhiều TCT thực hiện tốt việc đấu thầu các công trình qui mô
lớn, phức tạp, cả trong nước và quốc tế; bảo lãnh vay vốn, hỗ trợ cho các
doanh nghiệp thành viên gặp khó khăn theo cơ chế tín dụng nội bộ… Đặc biệt
là các TCT 91, chiếm 9,2% số doanh nghiệp Nhà nước nhưng chiếm tới
54,9% về vốn, 64,2% lãi trước thuế và 54,9% nộp ngân sách.
Tuy nhiên, nhiều TCT cũng bộc lộ những yếu kém và tồn tại về tổ
chức, phân cấp hoạt động, cơ chế và quan hệ tài chính vv... làm chậm quá
trình tích tụ vốn, giảm tốc độ tăng trưởng và sức cạnh tranh. Đối với một số
TCT như Than, Dệt - may, Thép, Bưu chính Viễn thông, bộ máy quản lý hành
chính còn nặng nề, số lao động dư thừa lớn. Đa số các TCT có chỉ tiêu kinh tế
tăng về giá trị tuyệt đối nhưng mức tăng đang giảm qua các năm.
Về chiến lược đầu tư phát triển và đổi mới công nghệ, hầu hết các TCT
đã chủ động xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển của TCT đến năm
2010, trong đó sản xuất công nghiệp, đầu tư, xây dựng, giao thông vận tải,
bưu chính viễn thông và các ngành quan trọng khác theo hướng phát huy nội
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
19
lực, phát triển các nguồn nguyên liệu trong nước, tăng năng lực sản xuất các
sản phẩm thay thế nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu. Các chiến lược này là cơ
sở để tiếp tục sắp xếp lại các TCT, bước đầu hạn chế tình trạng đầu tư tràn
lan, manh mún kém hiệu quả trước đây.
Về thị trường và xuất nhập khẩu, tổng kim ngạch của các TCT tăng
hàng năm. Trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của thị trường, căn cứ định hướng
phát triển của ngành, nhiều TCT đã chủ động thực hiện kế hoạch kinh doanh,
mở rộng thị phần, tiến tới chiếm lĩnh thị trường bằng các sản phẩm chủ lực.
Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 1999 đạt 11,5 tỷ USD, năm 2000
đạt 14,4 tỷ USD, 2001 đạt trên 15 tỷ USD, đến hết tháng 9/2002 đạt 11.907 tỷ
USD có phần đóng góp quan trọng của các TCT Nhà nước. Tính đến hết
tháng 9/2002, giá trị xuất khẩu của Tổng Công ty Dầu khí đạt 2.027 triệu
USD, Tổng Công ty Dệt may đạt 732 triệu USD, Tổng Công ty Cà phê đạt
250 triệu USD…
4. Vốn và nhu cầu vốn của các Tổng Công ty Nhà nước:
4.1. Các nguồn vốn của một doanh nghiệp:
Để tiến hành hoạt động SXKD, trước tiên mỗi doanh nghiệp cần có
vốn: Vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng SXKD. Vốn SXKD
được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Song căn cứ vào nội dung kinh tế
có thể chia thành hai nguồn cơ bản, đó là: nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn
vốn vay.
a/ Nguồn vốn chủ sở hữu:
Nguồn vốn chủ sở hữu biểu hiện quyền sở hữu của người chủ về các
tài sản hiện có của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thể có nhiều hoặc một
chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu được tạo từ các nguồn sau:
- Vốn góp do các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng để thành lập hoặc
mở rộng kinh doanh. Ví dụ đối với DNNN nguồn vốn chủ sở hữu do Nhà
nước cấp phát nên được gọi là vốn Nhà nước.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
20
- Lãi chưa phân phối: đây là kết quả của toàn bộ hoạt động SXKD. Số
lãi này trong khi chưa phân phối được sử dụng cho kinh doanh và coi như vốn
chủ sở hữu.
- Vốn chủ sở hữu khác: Là số vốn chủ sở hữu có nguồn gốc từ lợi
nhuận để lại (các quỹ xí nghiệp, các khoản dự trữ theo điều lệ, theo luật
định…) hoặc các loại vốn khác (xây dựng cơ bản, chênh lệch đánh giá lại tài
sản, chênh lệch tỷ giá chưa xử lý, vốn kinh phí cấp phát…)
b/ Nguồn vốn vay:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hầu như không một doanh
nghiệp nào chỉ SXKD bằng nguồn vốn tự có mà đều phải hoạt động bằng
nhiều nguồn vốn trong đó nguồn vốn vay chiếm tỷ lệ đáng kể, khoảng 70-
90%. Nguồn vốn vay được thực hiện dưới các phương thức chủ yếu sau:
- Tín dụng Ngân hàng. Bao gồm tín dụng ứng trước, tín dụng hạn mức,
chiết khấu thương phiếu, bao thanh toán, tín dụng thuê mua, tín dụng bằng
chữ ký (tín dụng chấp nhận, tín dụng bảo lãnh, tín dụng chứng từ).
- Phát hành trái phiếu.
- Tín dụng Thương mại – là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh
nghiệp, được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa.
4.2. Nhu cầu vốn của các Tổng Công ty Nhà nước:
Các Tổng Công ty đều có quy mô lớn xét trên cả phương diện về vốn
doanh thu, lao động và số doanh nghiệp thành viên tham gia. Vào năm 1997,
sau 3 năm hoạt động, vốn Nhà nước tại các Tổng Công ty Nhà nước mới chỉ
là 73.831 tỷ đồng chiếm 71,9% vốn Nhà nước tại toàn bộ doanh nghiệp nhà
nước (trong đó TCT 91 chiếm 54,5% và TCT 90 chiếm 16,1%) và cho tới
ngày 30/6/2002 theo số liệu kiểm kê tài sản Nhà nước trên toàn quốc vừa
công bố, các Tổng Công ty đã nắm giữ 70% trong 165.000 tỷ đồng vốn Nhà
nước đã được đầu tư cho các doanh nghiệp. Điều này nói lên sự quan tâm của
nhà nước tới việc phát triển các Tổng Công ty. Tuy nhiên, do các TCT đều
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
21
giữ vị trí trọng yếu trong mỗi ngành và trong toàn bộ ngành kinh tế nên nguồn
vốn Nhà nước không thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu mở rộng SXKD của các
TCT. Ví dụ như sản lượng thép của Tổng Công ty Thép Việt Nam chiếm
99,6% sản lượng thép của cả nước, sản lượng xi măng của Tổng Công ty Xi
măng chiếm 97,9%, sản lượng điện của Tổng Công ty Điện lực chiếm 94%,
sản lượng than của Tổng Công ty Than chiếm 97%...
Các TCT Nhà nước đã đề ra các chiến lược đầu tư, phát triển và đổi
mới công nghệ, thực hiện những dự án nhằm mục đích tăng nhanh về vốn và
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từng bước thực hiện chính sách thị trường.
Một thực tế đặt ra là nhu cầu vốn của các Tổng Công ty là rất lớn. Tình trạng
thiếu vốn hiện nay đang là một lực cản hàng đầu ảnh hưởng đến sự phát triển
của các TCT Nhà nước. Nguồn vốn tự có của các Tổng Công ty hầu như chưa
thể đáp ứng được nhu cầu hoạt động nội bộ, chưa nói tới việc đầu tư phát triển
lâu dài. Nguồn vốn tự có của TCT than mỗi năm chỉ đáp ứng được 30% nhu
cầu vốn thực tế. Còn TCT dầu khí thì tổng lượng vốn cần mỗi năm gấp 2 lần
nguồn vốn tự có. Nguồn vốn đầu tư của nhà nước mỗi năm là rất lớn nhưng
so với việc phát triển và mở rộng các Tổng Công ty thì mới chỉ đáp ứng được
phần nào nhu cầu vốn. Các TCT cũng đã tiến hành vay bạn hàng và ngân
hàng nước ngoài. Đây đều là những nguồn vốn vay có tính ổn định không cao
do nguồn vốn vay từ bạn hàng không dồi dào, vay từ các ngân hàng nước
ngoài đòi hỏi quy trình thẩm định khắt khe.
Chính vì thế, các ngân hàng lớn trong nước đã trở thành nơi đáp ứng
nhu cầu vay vốn cho các TCT. Trước hết, nếu nhìn từ phía khách hàng, vốn
vay các ngân hàng này cho phép các TCT nhanh chóng đi vào ổn định sản
xuất kinh doanh, đây là nguồn có khả năng đáp ứng không chỉ nguồn vốn vay
trung dài hạn cho đầu tư tập trung của toàn TCT mà còn giải quyết được
những bức xúc đối với vốn lưu động của các doanh nghiệp thành viên, nhất là
đối với tổng công ty 90. Nhìn từ phía ngân hàng, cho vay các TCT là cho vay
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
22
nhóm khách hàng lớn, thể hiện ở quy mô các món vay. Trong năm 2001, một
số TCT có số vay tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam như sau: Tổng Công
ty xi măng vay 501 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 31% tổng vốn vay các ngân hàng,
Tổng Công ty than vay 485 tỷ đồng, chiếm gần 50% tổng vốn vay các ngân
hàng, Tổng Công ty xây dựng số 1 vay 25 tỷ đồng chiếm 7,5 % tổng vốn vay
ngân hàng, Tổng Công ty xây dựng cầu Thăng Long vay 103 tỷ đồng chiếm
28% tổng vốn vay các ngân hàng. Bước sang 6 tháng đầu năm 2002 1 với mục
tiêu tăng nhanh tỷ trọng cho vay các Tổng Công ty, khối lượng vốn giải ngân
đã chiếm 74% so với năm trước. Điều này phản ánh nhu cầu vốn ngày càng
tăng của TCT và cũng phản ánh mục tiêu và định hướng mở rộng cho vay
các TCT của ngân hàng. Những dự án sau khi được giải ngân đều nhanh
chóng được đưa vào thực hiện, ví dụ như dự án Đuôi hơi Phú Mỹ hay dự án
khí nam Côn Sơn thuộc TCT dầu khí đều đã đi vào hoạt động trong năm
2001. Như vậy nguồn vốn từ ngân hàng trong những năm gần đây đã phát huy
tác dụng to lớn của nó đối với các TCT khi mà việc thiếu vốn đã có lúc tưởng
như bế tắc. Các TCT Nhà nước luôn là những khách hàng tiềm năng của các
NHTM trong hoạt động vay vốn và ngược lại các TCT cũng đã tìm thấy được
nguồn cung cấp vốn ổn định, dồi dào phục vụ cho kế hoạch đầu tư phát triển
và mở rộng SXKD của mình.
III – HOẠT ĐỘNG CHO VAY CÁC TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC CỦA
MỘT NHTM.
1. Các đặc điểm của khách hàng là Tổng Công ty Nhà nước:
Ở đây ta tập trung chỉ ra những đặc điểm có ảnh hưởng tới hoạt động
cho vay các Tổng Công ty của một NHTM.
Thứ nhất, khách hàng ở đây là DNNN có quy mô lớn, số lượng ít, có
nhu cầu vay vốn rất lớn, nhất là cho đầu tư tập trung, bao gồm cả của Tổng
Công ty và các đơn vị thành viên. Với số lượng 91 Tổng Công ty trên toàn
quốc, ngân hàng có thể tìm kiếm quan hệ tương đối dễ dàng.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
23
Thứ hai, nhiều TCT hoạt động sản xuất kinh doanh trên lĩnh vực độc
quyền (chủ yếu là các TCT 91). Yếu tố này kết hợp với tính chất sở hữu Nhà
nước khiến các ngân hàng “an tâm” trong mở rộng cho vay nhóm khách hàng
này. Mặt khác, các Tổng Công ty được thực hiện nhiều dự án đầu tư theo chỉ
định của Chính phủ nên dường như có một sự bảo lãnh chắc chắn từ phía Nhà
nước, tạo một điều kiện thuận lợi căn bản cho ngân hàng.
Thứ ba, theo cơ chế tài chính TCT, ngân hàng có thể cho vay với TCT
hoặc cho vay với doanh nghiệp thành viên dưới hai hình thức có hoặc không
có bảo lãnh của TCT, vì doanh nghiệp thành viên độc lập là những DNNN có
tư cách pháp nhân, có thể vay vốn NHTM quốc doanh không cần thế chấp.
Tuy vậy, việc vay nợ của nó phải trong mức phân cấp của TCT. Tổng Công
ty có nhiều đơn vị thành viên, phân bố trên địa bàn rộng nên gây khó khăn
cho quản lý khi ngân hàng cho vay TCT, rồi TCT lại giao vốn đó cho các
thành viên này. Mặt khác, việc TCT có quyền điều chuyển vốn và tài sản giữa
các thành viên đặt ngân hàng trước một rủi ro lớn khi cho vay các đơn vị
thành viên này.
Thứ tư, các Tổng Công ty nhất là TCT 91 có tiềm lực tài chính mạnh,
có cơ chế hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên, san xẻ rủi ro, bởi vậy nguy cơ
mất khả năng trả nợ của các doanh nghiệp thành viên giảm đi so với các
DNNN độc lập khác. Tuy vậy khả năng tự chủ tài chính của họ bị giảm đi.
Thứ năm, các TCT có nhiều mối quan hệ phức tạp với các cơ quan
Nhà nước (nhất là các TCT 90), tính hành chính trong các mối quan hệ đó vẫn
còn khá đậm, nên khả năng mở rộng cho vay của ngân hàng với các TCT còn
phụ thuộc nhiều vào quan hệ của ngân hàng với các cơ quan Nhà nước trên.
Đây cũng là điểm các ngân hàng cần hết sức lưu ý trong hoạt động thực tiễn
của mình.
2. Xu hướng tác động của mối quan hệ giữa NHTM với TCTNN đến
nền KTQD:
1 : Tài liệu Hội thảo đánh giá quan hệ tí dụng với TCT Nhà nước của NHCT Việt Nam tháng 9/2002
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
24
Ở Việt Nam, thông qua việc cho vay và nhận tiền gửi với số tiền lớn
của Tổng Công ty Nhà nước, lợi ích của các NHTM và các Tổng Công ty Nhà
nước có sự ảnh hưởng, phụ thuộc lẫn nhau do tác động của cơ chế thị trường
“bàn tay vô hình”. Sự liên kết giữa các TCT với ngân hàng trong nước sẽ tạo
ra những tập đoàn kinh doanh thực sự mạnh, đủ sức cạnh tranh và hợp tác đối
với đối tác nước ngoài trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Bên cạnh
đó, cũng có thể dẫn đến độc quyền trong một số lĩnh vực quan trọng như điện
lực, bưu chính viễn thông, dầu khí… Vấn đề đặt ra là các Tổng Công ty Việt
Nam có làm lũng đoạn nền kinh tế hay không? Chúng ta đều biết rằng, hiện
nay các TCT lớn đều thuộc sở hữu Nhà nước, nền kinh tế Nhà nước sẽ phát
triển theo một mục tiêu thống nhất. Tuy nhiên, với xu hướng đa số NHTM đổ
xô vào quan hệ tín dụng với TCT mạnh và sự thay đổi sở hữu khi cổ phần hóa
các TCT cũng có thể dẫn tới độc quyền và lũng đoạn ở một mức độ nhất định.
3. Vai trò hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước của
NHTM:
3.1. Nhìn từ phía khách hàng:
Vốn vay ngân hàng cho phép các TCT Nhà nước nhanh chóng đi vào
ổn định sản xuất kinh doanh khi mới được thành lập. Ngân hàng cũng là
nguồn có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn vay trung, dài hạn cho đầu tư tập
trung của toàn TCT, vốn lưu động của các doanh nghiệp thành viên. Mặt
khác, hoạt động cho vay của ngân hàng đối với TCT góp phần tăng cường
quan hệ nội bộ TCT, tạo sự kết dính giữa TCT và các thành viên và giữa các
thành viên với nhau, nhất là về mặt tài chính. TCT thể hiện được vai trò của
mình trong bảo lãnh vay vốn ngân hàng cho các TCT, hoặc trực tiếp vay vốn
giao cho doanh nghiệp thành viên sử dụng mà trước đây khi ở ngoài TCT các
doanh nghiệp này khó được vay vốn ngân hàng. Vốn vay ngân hàng còn tạo
điều kiện để các TCT hoàn thành các nhiệm vụ Nhà nước giao.
3.2. Nhìn từ phía ngân hàng:
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
25
Cho vay các TCT là cho vay nhóm các khách hàng lớn, thể hiện ở quy
mô các món vay. Các món vay đó thường lớn gấp nhiều lần so với các DNNN
độc lập khác, góp phần tăng nhanh dư nợ, đóng góp lớn vào thu nhập của
ngân hàng. Qua cho vay các TCT hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế - kỹ
thuật nhất định, ngân hàng có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn hoá,
tập trung trong quản lý; đồng thời qua đó các NHTM đã góp phần thực hiện
nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, các Tổng Công ty ở nước ta vẫn chủ yếu kinh doanh trên
một lĩnh vực. Kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực mới chỉ là định hướng phấn
đấu mà trên thực tế chưa thực hiện được là bao. Do đó Tổng Công ty chỉ có
thể san xẻ, trung hoà những rủi ro, khó khăn riêng biệt, không có tính hệ
thống giữa các thành viên. Những rủi ro mang tính hệ thống, những khó khăn
đối với toàn ngành (suy giảm cầu, cạnh tranh...) mà hầu như tất cả các thành
viên đều phải đối mặt đặt ngân hàng chuyên cho vay các lĩnh vực đó trước rủi
ro lớn. Mặt khác, việc tập trung số vốn lớn cho vay một nhóm khách hàng
TCT là ngân hàng đang chấp nhận rủi ro “để nhiều trứng vào một giỏ” theo lý
thuyết cho vay của NHTM. Đây là những điều ngân hàng cần cân nhắc với
các lợi thế khi đầu tư vào các Tổng Công ty.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ vay vốn của Tổng Công ty
Nhà nước và NHTM:
4.1. Về phía doanh nghiệp:
a/ Năng lực thị trường của doanh nghiệp:
Biểu hiện ở các mặt như: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ với chất lượng
sản phẩm như thế nào, có phù hợp với thị hiếu khách hàng không, có đáp ứng
được yêu cầu thị trường không? Vị trí của doanh nghiệp trong nền kinh tế như
thế nào? Đối với thị trường trong nước và quốc tế ra sao? Quá khứ, hiện tại và
tương lai phát triển của doanh nghiệp cũng như ngành kinh tế đó? Hệ thống
mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp như thế nào? Mối quan hệ đối
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
26
với các bạn hàng, đối tác? Năng lực thị trường của doanh nghiệp biểu hiện và
được lượng hóa qua tiêu thức cơ bản là sự phát triển của doanh số tiêu thụ sản
phẩm. Doanh số tiêu thụ biểu hiện khả năng phát triển thị trường của sản
phẩm và nó cho biết khả năng phát triển của doanh nghiệp. Nghiên cứu năng
lực thị trường của doanh nghiệp cho biết khả năng mở rộng đầu tư, định
hướng đầu tư của doanh nghiệp nhằm kiểm tra sự phù hợp của các phương án
đầu tư với các khả năng sản xuất. Năng lực thị trường càng cao, nhu cầu đầu
tư càng lớn, rủi ro thị trường của doanh nghiệp càng nhỏ càng có điều kiện
mở rộng hoạt động vay vốn.
b/ Năng lực sản xuất của doanh nghiệp
Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu hiện giá trị công cụ lao động
mà chủ yếu là tài sản cố định, cụ thể là quá trình sản xuất sản phẩm, công
nghệ sản xuất, các nhu cầu đầu tư trước đây đạt hiệu quả như thế nào? Năng
lực sản xuất cho biết quy mô sản xuất của doanh nghiệp, sự thích ứng của quy
mô ấy với thị trường, cho biết cơ cấu và khả năng làm chủ giá thành sản phẩm
của doanh nghiệp. Phối hợp nghiên cứu giá thành với năng lực sản xuất của
doanh nghiệp cho thấy tính cấp thiết và nhu cầu phải đầu tư mới.
Năng lực thị trường và năng lực sản xuất tạo nên khả năng tìm kiếm lợi
nhuận. Một trong những điều kiện tín dụng đòi hỏi doanh nghiệp phải có tình
hình sản xuất ổn định, kinh doanh có lãi, có năng lực sản xuất và quản lý đáp
ứng một trình độ nhất định theo yêu cầu của thị trường.
c/ Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khối lượng vốn tự có và
tỷ trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng. Điều kiện tín
dụng thường quy định một tỷ lệ cụ thể tối thiểu của vốn tự có trong tổng
nguồn vốn hoạt động hay tỷ lệ vốn tự có tương ứng với khối lượng vốn vay,
tỷ lệ vốn tự có tham gia dự án vay vốn.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh
toán của doanh nghiệp, đó là sự so sánh giữa số tiền có thể thanh toán và các
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
27
khoản nợ phải thanh toán. Việc đáp ứng các yêu cầu thanh toán còn lệ thuộc
khá lớn vào cơ cấu tài sản của doanh nghiệp xếp theo tính lỏng của tài sản.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng điều kiện tín
dụng càng lớn, càng làm cho ngân hàng có điều kiện mở rộng hoạt động cho
vay.
d/ Năng lực quản lý của doanh nghiệp
Doanh nghiệp vay vốn phải có bộ máy có năng lực quản lý phù hợp.
Khi quyết định cho vay với một doanh nghiệp, ngân hàng đã quyết định gắn
bó hoạt động của mình với doanh nghiệp và hi vọng vào sự gắn bó đó trong
tương lai. Vì vậy, việc thẩm định khả năng của bộ máy quản lý doanh nghiệp
nhằm đánh giá được những người quản lý này có khả năng xoay sở trong mọi
tình huống hay không là một điều cần thiết để quyết định cho vay. Sự thành
bại của một doanh nghiệp lệ thuộc chủ yếu vào khả năng thích nghi với môi
trường kinh doanh của bộ máy quản lý. Một bộ máy quản lý tồi thì ngân hàng
không thể bỏ vốn cho vay trung, dài hạn được, do vậy nghiên cứu từng người
cụ thể trong bộ máy quản lý và các mối quan hệ xã hội, quan hệ nội bộ của bộ
máy quản lý là một việc cần làm và làm chu đáo trước khi quyết định có nên
cho vay hay không?
e/ Quyền sở hữu tài sản và khả năng đáp ứng các biện pháp bảo đảm
Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với quyền sở hữu một khối lượng
tài sản nhất định, quyền sở hữu tài sản biểu hiện ở khả năng pháp lý doanh
nghiệp được khai thác, thay đổi cơ cấu, đầu tư mới nói gọn là chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt khối tài sản đó. Giá trị tài sản, chất lượng, cơ cấu tài sản mà
doanh nghiệp sở hữu quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh, nó đo lường
giá trị doanh nghiệp và quyết định khối lượng tín dụng. Quyền sở hữu tài sản
gắn liền với năng lực pháp luật của doanh nghiệp và khả năng sử dụng tài sản
thuộc sở hữu của mình để thực hiện biện pháp đảm bảo tín dụng. Tài sản làm
đảm bảo càng có tính lỏng cao, sự biến động giá trị thấp, chu kỳ sống càng
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
28
dài, giá trị càng cao so với khối lượng vốn vay càng làm cho việc đáp ứng
điều kiện vay vốn của ngân hàng tạo khả năng mở rộng hoạt động cho vay.
f/ Sự đáp ứng của dự án, phương án đối với tiêu chuẩn vay vốn
Phương án, dự án đầu tư phải đáp ứng tiêu chuẩn vay vốn là: Phải
thuyết minh được tính cần thiết, mục đích và kết quả của dự án, phương án,
sự phù hợp của quá trình đầu tư với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, tình
hình quy hoạch; có vốn tự có tham gia vào tổng giá trị đầu tư, có khả năng
hoàn trả vốn, có khả năng hoàn trả nợ ngân hàng cả gốc và lãi từ dự án và từ
các hoạt động kinh doanh khác của doanh nghiệp (chất lượng của phương án,
dự án vay).
Điều kiện vay vốn quyết định khả năng thiết lập quan hệ vay vốn, tiêu
chuẩn vay vốn quyết định quy mô của quan hệ này. Tiêu chuẩn vay vốn càng
cao, khả năng mở rộng càng hạn chế, khả năng thu hút khách hàng càng thấp
nhưng tính an toàn cao, ngược lại tiêu chuẩn tín dụng càng thấp thì có thể mở
rộng được hoạt động tín dụng nhưng mức an toàn thấp. Việc đưa ra tiêu chuẩn
vay vốn gắn chặt với chiến lược cho vay vốn, chính sách khách hàng, cơ chế
cho vay và nó ảnh hưởng rất lớn đến yêu cầu mở rộng hay thu hẹp hoạt động
cho vay.
4.2. Về phía ngân hàng:
a/ Lãi suất:
Việc áp dụng lãi suất khác nhau ở từng dự án là quan trọng nhằm
khuyến khích cả ngân hàng, cả khách hàng vay vốn. Ví dụ: Doanh nghiệp có
tài sản làm đảm bảo tiền vay, trong chi phí vay vốn ngoài lãi suất vay vốn,
doanh nghiệp còn chịu thêm các khoản lệ phí làm thủ tục thế chấp, cầm cố...
Vì vậy, ngân hàng khi cho vay có đảm bảo là làm giảm độ rủi ro nên việc áp
dụng lãi suất thấp hơn cho vay không có đảm bảo là hợp lý.
Khi dự án, phương án của doanh nghiệp có lợi nhuận cao nếu khả năng
rủi ro có thể là cao nhưng chưa vượt giới hạn của mặt bằng rủi ro mà NHTM
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
29
xác định. Lãi suất cao hơn có thể vẫn khuyến khích NHTM cho vay. Việc đưa
ra mặt bằng rủi ro cho các dự án, phương án và việc cho phép áp dụng linh
hoạt lãi suất tuỳ mức độ rủi ro, thời hạn và khối lượng vốn vay là một trong
những điều kiện để mở rộng hoạt động cho vay.
b/ Nguồn vốn cho vay:
Tiền gửi là nguồn vốn chủ yếu để cho vay, mỗi loại tiền gửi, tiền huy
động có đặc điểm riêng về tính chất biến động. Mức độ biến động của các
nguồn huy động quyết định kết cấu tài sản dự trữ, cho vay ngắn hạn, trung,
dài hạn. Vì vậy, việc mở rộng cho vay trước hết phải đảm bảo cân đối với
nguồn vốn tương ứng. Hoạt động về vốn chứa đựng hai loại rủi ro là rủi ro
thanh toán và rủi ro lãi suất, vì vậy trong nguyên tắc quản trị tài chính có
nguyên tắc cân bằng về thời hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn tức là vốn
ngắn hạn dùng để cho vay ngắn hạn, vốn trung dài hạn dùng để cho vay trung
dài hạn. Ngoài nguồn vốn trung, dài hạn ra các ngân hàng còn sử dụng vốn
ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn theo một tỷ lệ quy định.
c/ Vốn chủ sở hữu của ngân hàng:
Đối với một NHTM, việc mở rộng cho vay còn phụ thuộc vào tương
quan giữa vốn tự có ngân hàng với tổng khối lượng vốn huy động và phụ
thuộc mức khống chế vốn vay đối với một khách hàng. Theo Luật các tổ chức
tín dụng quy định tổng dư nợ cho vay một khách hàng không vượt quá 15%
vốn tự có của tổ chức tín dụng đó và giao cho Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước quy định tỷ lệ tối thiểu giữa vốn tự có với tài sản có. Vì vậy, vốn chủ sở
hữu của ngân hàng quyết định khối lượng tín dụng tối đa cho một doanh
nghiệp, quyết định khả năng huy động vốn tối đa của ngân hàng.
Vì vậy, mở rộng nguồn vốn và vốn chủ sở hữu của ngân hàng là tiền đề
để mở rộng hoạt động cho vay.
d/ Năng lực thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan
toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
30
để ra quyết định đầu tư. Năng lực thẩm định tín dụng trước khi cho vay là yếu
tố quyết định đảm bảo chất lượng tín dụng do giảm trừ “Lựa chọn đối
nghịch”. Trong thời gian vừa qua, trình độ thẩm định dự án về phương diện
tài chính tại các NHTM Việt Nam đã được nâng cao nhưng trình độ thẩm
định về phương diện kỹ thuật vẫn còn hạn chế, đặc biệt các dự án lớn, có công
nghệ tiên tiến, phức tạp. Thẩm định kỹ thuật hiện nay chủ yếu dựa vào ý kiến
của khách hàng và sự hiểu biết ít ỏi của cán bộ thẩm định, chưa có bộ phận
chuyên trách. Nếu ngân hàng muốn có những ý kiến hoặc sự tư vấn từ những
cơ quan trung gian chuyên sâu thì cũng chưa có công ty tư vấn đủ trình độ để
cung cấp dịch vụ. Do hạn chế này nên đã ảnh hưởng đến quyết định vay vốn
ngân hàng, nhất là đối với thẩm định các dự án lớn của các TCT .
e/ Năng lực giám sát và xử lý tín dụng
Trong điều kiện tiềm ẩn rủi ro tín dụng vẫn còn lớn, đặc biệt trong tín
dụng đầu tư phát triển, chất lượng công tác thẩm định dự án, phân tích tài
chính doanh nghiệp còn hạn chế thì công tác giám sát tín dụng đóng vai trò rất
quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng tín dụng như ban đầu dự toán. Theo
dõi sát sao và quản lý chặt chẽ việc sử dụng tiền vay là biện pháp quan trọng
ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi. Thêm vào đó, ngân hàng sẽ sử dụng biện
pháp đảm bảo tiền vay để hỗ trợ hạn chế tình trạng xảy ra rủi ro đạo đức trong
quan hệ tín dụng. Cụ thể như việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, theo đó
nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài
sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng vay hoặc
bảo lãnh bằng tài sản bên thứ ba. Đây là hình thức áp dụng các biện pháp
nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các
khoản nợ đã cho khách hàng vay. Khi phát hiện dấu hiệu khó khăn trong việc
trả nợ, ngân hàng phải kịp thời đưa ra các giải pháp tháo gỡ để hai bên cùng
bàn bạc, xử lý nhanh chóng, hạn chế việc kéo dài gây tổn thất cho cả ngân
hàng và khách hàng. Nâng cao năng lực giám sát và xử lý tín dụng chính là
biện pháp nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động cho vay.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
31
4.3. Sự tác động của môi trường kinh tế – xã hội:
a/ Môi trường kinh tế xã hội tác động vào doanh nghiệp:
Môi trường kinh tế xã hội - là tổng hòa các mối quan hệ về kinh tế xã
hội - tác động lên hoạt động của doanh nghiệp. Môi trường kinh tế xã hội có
tác động đến hoạt động đầu tư, khát vọng đầu tư, khả năng đáp ứng điều kiện
tín dụng của doanh nghiệp, tác động vào ngân hàng và tác động vào mối quan
hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp.
Việc mở rộng hoạt động cho vay còn lệ thuộc vào quan hệ giữa chi phí
sử dụng vốn và chi phí tiền lương trong thực hiện sản xuất kinh doanh. Sự gia
tăng trong tiền lương có thể làm cho doanh nghiệp thay thế người lao động
bằng sử dụng máy móc, hoặc sự ra tăng chi phí sử dụng vốn có thể làm cho
doanh nghiệp từ bỏ máy móc tinh vi để chuyển sang nhiều lao động hơn.
Doanh nghiệp tìm thấy ở môi trường kinh tế xã hội các vấn đề sau:
- Khả năng tìm kiếm bạn hàng và đối thủ cạnh tranh, các phương thức
cạnh tranh, khả năng nâng cao sức cạnh tranh.
- Khả năng đáp ứng nhu cầu các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất
kinh doanh. Khả năng tìm kiếm đầu ra của sản xuất kinh doanh và thu hồi
vốn.
- Khả năng tìm kiếm công nghệ mới, thay đổi công nghệ sản xuất.
- Thông tin và thời cơ kinh doanh của doanh nghiệp.
b/ Môi trường kinh tế xã hội tác động vào ngân hàng:
- Thông tin phục vụ cho việc thẩm định tín dụng, trong đó có việc xác
định giá trị doanh nghiệp, tài sản của doanh nghiệp và tài sản là đảm bảo tiền
vay. Khả năng giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Khả năng xử lý tài sản làm đảm bảo cho nợ vay và khả năng thu hồi
vốn, khả năng rủi ro và khả năng thực hiện biện pháp phòng ngừa rủi ro trong
đầu tư tín dụng. Trong tín dụng, môi trường kinh tế xã hội tác động vào khát
vọng đầu tư của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi hay khó khăn cho
doanh nghiệp trong đáp ứng nhu cầu của đầu tư, của vay vốn. Môi trường
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
32
kinh tế xã hội tác động vào tính chất cân xứng của thông tin trong quan hệ tín
dụng, tác động vào tính chất rủi ro của đầu tư.
4.4. Sự tác động của môi trường pháp lý.
- Môi trường pháp lý tác động vào năng lực pháp luật của doanh nghiệp
và của NHTM. Năng lực pháp luật kinh tế của doanh nghiệp là khả năng
hưởng quyền, thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp trong mối quan hệ kinh tế.
Năng lực pháp luật về kinh tế và dân sự của doanh nghiệp được Nhà nước quy
định cho từng chủ thể kinh tế.
- Năng lực pháp luật kinh tế được ghi trong các văn bản pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong kinh doanh, đầu tư như Luật
Doanh nghiệp, điều lệ của doanh nghiệp. Trong quan hệ tín dụng, năng lực
pháp luật thể hiện ở quyền vay vốn, nghĩa vụ trả nợ, quyền thế chấp tài sản…
- Trong thực tế, năng lực pháp luật kinh tế, dân sự chịu tác động của
nhiều yếu tố trong đó đặc biệt chịu tác động của các yếu tố quản lý hành
chính để đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện thực hiện năng lực pháp luật
kinh tế, dân sự. Trên thực tế, đó là hệ thống các thủ tục, giấy tờ và các quy
trình làm việc của quản lý Nhà nước trong việc xác định quyền sở hữu tài sản,
quyền mua bán, quyền được đem tài sản thế chấp, quyền xử lý tài sản để trả
nợ khi vay vốn, các quyền gắn liền với các thủ tục hành chính, giấy tờ pháp
lý. Các thủ tục giấy tờ pháp lý, quy trình làm việc phức tạp, không thuận lợi
sẽ làm ngăn cản việc thực hiện năng lực pháp luật kinh tế, dân sự doanh
nghiệp trên thực tế và điều đó làm giảm khả năng mở rộng hoạt động cho vay.
- Môi trường pháp lý tác động vào quan hệ kinh tế và quan hệ vay vốn
thông qua phương thức xử lý tranh chấp pháp luật. Trong quá trình hoạt động
kinh doanh, việc xảy ra các tranh chấp kinh tế là điều dễ hiểu, cơ chế xử lý
Nhà nước không xác định rõ ràng phạm vi, đối tượng xử lý dễ làm cho việc
áp dụng phương thức xử lý tranh chấp không phù hợp với bản chất của mối
quan hệ pháp luật và làm nhụt ý chí kinh doanh, ý chí đầu tư của doanh
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
33
nghiệp. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, việc môi trường pháp luật xác
định đúng bản chất quan hệ vay vốn trong trường hợp cụ thể là quan hệ dân
sự thông thường, quan hệ kinh tế, quan hệ thương mại, quy định rõ từng
phương thức xử lý trong từng trường hợp cụ thể là những vấn đề có tác động
rất lớn vào việc mở rộng hoạt động cho vay.
4.5. Tính cạnh tranh trong môi trường hoạt động của ngân
hàng:
Đối với hoạt động cho vay, cạnh tranh diễn ra trên hai giác độ, đó là
giữa các ngân hàng với nhau và giữa ngân hàng với các nguồn thay thế đáp
ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Để tăng dư nợ trong điều kiện phải cạnh
tranh với nhiều ngân hàng khác là điều không đơn giản, ngược lại họ rất dễ bị
mất khách hàng do các biện pháp lôi kéo của các đối thủ. Với chính ngân
hàng để mở rộng cho vay, họ phải cung cấp các điều kiện vay vốn hấp dẫn để
không những giữ vững khách hàng hiện có mà còn lôi kéo các khách hàng
mới. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp có thể huy động
vốn từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có thể vay từ ngân hàng, từ phát hành
chứng khoán... Do vậy mà một nước có thị trường chứng khoán phát triển
cao, vai trò đáp ứng vốn của ngân hàng với các khách hàng Công ty giảm đi.
Tóm lại, hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước của Ngân hàng
thương mại với những nội dung cơ bản đã phần nào nói lên được tầm quan
trọng của mình đối với nền kinh tế quốc gia, và qua việc xem xét các nhân tố
ảnh hưởng đến hoạt động cho vay, ta thấy tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội,
điều kiện pháp lý mà các nhân tố này có ảnh hưởng khác nhau đến hoạt động
cho vay các Tổng Công ty Nhà nước. Vấn đề cần thiết là phải nắm vững
những nhân tố ảnh hưởng và vận dụng sáng tạo trong điều kiện hoàn cảnh cụ
thể thì sẽ nâng cao chất lượng và mở rộng được hoạt động cho vay vốn các
Tổng Công ty Nhà nước của Ngân hàng thương mại.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
34
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CÁC TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC TẠI SỞ GIAO DỊCH I –
NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
I - KHÁI QUÁT VỀ SỞ GIAO DỊCH I - NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
VIỆT NAM.
1. Sự ra đời và phát triển của Sở giao dịch (SGD):
1.1. Sự ra đời của Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương:
Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam được thành lập ngày
01/4/1995 theo Quyết định số 83/NHCT - QĐ từ bộ phận kinh doanh tại Hội
sở chính Ngân hàng Công thương vốn được hoạt động theo Quyết định số
93/NHCT - TCCB ngày 24/3/1993. Sở giao dịch là một đơn vị thành viên
hạch toán phụ thuộc của Ngân hàng Công thương, có trụ sở đóng tại số 10 -
Lê Lai - Hà Nội. Sở giao dịch là đại diện uỷ quyền của Ngân hàng Công
thương; có quyền tự chủ kinh doanh theo sự phân cấp của Ngân hàng Công
thương, chịu sự ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ đối với Ngân hàng Công
thương; có con dấu riêng và được mở tài khoản tại NHNN Việt Nam.
Ra đời từ bộ phận kinh doanh tại Hội sở chính Ngân hàng Công
thương, song trong thời kỳ 1995 - 1998, Sở giao dịch vẫn chưa thực sự là một
chi nhánh, bởi ngoài việc thực hiện các chức năng kinh doanh, nó còn làm
đầu mối thanh toán cho các chi nhánh Ngân hàng Công thương ở miền Bắc
cũng như một số nhiệm vụ của một hội sở, như việc chỉ đạo và tổ chức hạch
toán tổng hợp phản ánh toàn bộ các chi nhánh trên địa bàn Hà Nội và toàn hệ
thống để ban lãnh đạo ngân hàng Công thương điều hành hoạt động của hệ
thống. Nhưng bắt đầu từ ngày 01/1/1999, đầu mối thanh toán được chuyển về
Hội sở Ngân hàng Công thương. Sở giao dịch bắt đầu từ lúc này hoạt động
như một chi nhánh, song là một chi nhánh đặc biệt, bởi quy mô hoạt động
cũng như vai trò của nó trên địa bàn: Sở giao dịch vẫn làm đầu mối cho các
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
35
chi nhánh phía Bắc trong thanh toán ngoại tệ theo uỷ quyền của Ngân hàng
Công thương.
1.2. Về cơ cấu tổ chức, điều hành và các hoạt động cơ bản của
Sở giao dịch.
Sở giao dịch được điều hành bởi một Ban Giám đốc gồm có Giám đốc
là Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương trực tiếp đảm nhiệm; giúp
việc giám đốc là hai Phó giám đốc. Sở giao dịch gồm có 255 cán bộ nhân viên
làm việc trong 9 phòng ban chuyên trách:
Phòng nguồn vốn và cân đối tổng hợp: với 25 cán bộ trong đó có
một trưởng phòng và hai phó phòng phụ trách hai mảng công việc là nguồn
vốn và cân đối tổng hợp như trên của phòng. Phòng có chức năng làm tham
mưu cho Ban giám đốc Sở giao dịch lập các kế hoạch kinh doanh, đồng thời
trực tiếp thực hiện các hoạt động huy động vốn. Như vậy, phòng thực hiện hai
nhiệm vụ chủ yếu:
+ Cân đối tổng hợp nguồn vốn kinh doanh, lập các báo cáo.
+ Huy động vốn dước các hình thức khác nhau: tiền gửi dân cư, tiền gửi
của các tổ chức kinh tế bằng cả nội và ngoại tê.
Phòng kinh doanh: với 35 cán bộ, trong đó có một trưởng phòng và
hai phó phòng có chức năng tham mưu cho ban lãnh đạo Sở giao dịch về các
hoạt động kinh doanh, đồng thời tiến hành các nghiệp vụ bên tài sản như cho
vay các TCKT và dân cư, bảo lãnh... Đối với các khách hàng là các TCKT,
phòng được chia ra thành các bộ phận phụ trách.
Hai phòng này được tách riêng ra từ phòng kinh doanh trước đây (từ
ngày 01/4/1999).
Phòng kế toán: với 57 cán bộ trong đó có một trưởng phòng và ba
phó phòng, trưởng phòng điều hành công việc của phòng thông qua các phó
phòng. Phòng kế toán có chức năng theo dõi, hạch toán (bằng VNĐ) tất cả
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
36
các hoạt động của Sở giao dịch. Phòng có 5 tổ công tác, mỗi tổ có từ 5 đến 15
cán bộ do một tổ trưởng phụ trách:
Tổ thanh toán viên: tiếp nhận tất cả các chứng từ của khách hàng, xử lý
theo yêu cầu của khách hàng như hạch toán, tính phí dịch vụ lãi... Sau khi
thực hiện xong công việc của mình, các thanh toán viên sẽ giao toàn bộ chứng
từ qua bộ phận kiểm soát để kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ.
Tổ thanh toán liên hàng: có nhiệm vụ biến các chứng từ giấy thành
chứng từ điện tử (nhập vào máy tính) sau đó các chứng từ này sẽ được kiểm
tra phát hiện sai sót trước khi được truyền tới trung tâm thanh toán Ngân hàng
Công thương. Đến 15h30’ hàng ngày, Sở giao dịch cũng như các chi nhánh
khác trong hệ thống Ngân hàng Công thương không được truyền dữ liệu nữa
và tại trung tâm thanh toán, việc đối chiếu cho tất cả 93 chi nhánh sẽ được
thực hiện.
Tổ thanh toán bù trừ: thực hiện thanh toán bù trừ với các chi nhánh
khác cùng hệ thống. Việc thanh toán được thực hiện tại trung tâm thanh toán
bù trừ thuộc NHNN Hà Nội.
Tổ tiết kiệm: đảm nhiệm hơn 50% tiền gửi của khách hàng. Tổ này có
trách nhiệm quản lý số lượng thẻ và tiền lớn. Tổ gồm hai nhóm, nhóm trực
tiếp thu tiền gửi và trả lãi, một nhóm kiểm tra toàn bộ lại quỹ.
Tổ kế toán nội bộ: theo dõi quản lý tất cả các tài sản của đơn vị chi
lương cho nhân viên; hạch toán trích BHXH, nộp thuế; lập cân đối.
Phòng kinh doanh đối ngoại: với 14 cán bộ, trong đó có một trưởng
phòng và hai phó phòng, phòng thực hiện 3 nhiệm vụ chủ yếu:
+ Kinh doanh ngoại tệ: mua - bán các ngoại tệ chủ yếu đáp ứng các nhu
cầu hợp lý của khách hàng theo các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối.
+ Làm các dịch vụ trong thanh toán quốc tế như mở và tiếp nhận L/C,
nhờ thu (đi và đến), thanh toán thẻ (visa card, mastercard).
+ Hạch toán bằng ngoại tệ.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
37
Ngoài ra phòng còn làm chức năng đầu mối thanh toán ngoại tệ (theo
uỷ quyền của NHCT) cho các chi nhánh NHCT phía Bắc.
Phòng ngân quỹ: thực hiện chức năng thu chi tiền mặt, ngân phiếu
thanh toán; bảo quản tiền mặt và các ấn chỉ (như thẻ trắng), các chứng từ có
giá; phân phối các ấn chỉ do các chi nhánh NHCT phía Bắc.
Phòng kiểm soát: thực hiện các nhiệm vụ sau:
+ Kiểm soát lại tất cả các hồ sơ, chứng từ về tiết kiệm, tín dụng, kế toán
và thanh toán quốc tế để đảm bảo tính chính xác đầy đủ tính hợp pháp của
hoạt động ngân hàng.
+ Làm tham mưu cho ban lãnh đạo Sở giao dịch, giúp ban lãnh đạo kịp
thời uốn nắn sai phạm của các phòng ban.
+ Làm đầu mối tiếp các đoàn thanh tra, kiểm tra của NHNN và Ngân
hàng Công thương đến Sở giao dịch.
Phòng điện toán: có nhiệm vụ quản lý chương trình mạng, in các
bảng biểu về thu trả lãi... và các công việc liên quan.
Phòng tổ chức cán bộ và tiền lương: thực hiện chức năng về quản lý
con người, tham mưu cho ban lãnh đạo trong việc đề bạt, phân công cán bộ
phù hợp với năng lực sở trường từng người; quản lý tiền lương, thưởng,
BHXH ...
Phòng hành chính - quản trị: thực hiện các công việc hỗ trợ, tạo
điều kiện cho hoạt động kinh doanh của SGD như công tác an ninh, phục vụ,
y tế...
Ngoài ra, Sở giao dịch còn có một Cửa hàng kinh doanh vàng bạc đồng
thời cũng thực hiện cho vay cầm cố, thu đổi ngoại tệ.
1.3. Các đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới hoạt động của
Sở giao dịch nói chung, hoạt động cho vay nói riêng:
Thủ đô Hà Nội, nơi SGD đóng trụ sở cũng là trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hoá và là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước. Ở đây dân cư có
mức thu nhập, dân trí cao hơn hẳn các vùng lân cận, đồng thời người dân có
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
38
một “lối sống thành thị”, có tác động tích cực tới hoạt động kinh doanh của
SGD. Họ thường xuyên tới các ngân hàng để được phục vụ bằng nhiều loại
dịch vụ, họ hay gửi tiền tiết kiệm, trong đó có phần đáng kể bằng ngoại tệ.
Hoạt động kinh tế diễn ra tương đối sôi nổi tuy chưa mạnh mẽ bằng thành phố
Hồ Chí Minh nhưng đã tạo ra nhu cầu vốn vay ngân hàng tương đối lớn. Tuy
nhiên, SGD không chỉ phục vụ trên địa bàn, mà nó còn vươn ra nhiều địa
phương khác. Nói riêng thì tất cả các TCT 91 và nhiều Tổng Công ty 90 có
trụ sở tại Hà Nội, tạo thuận lợi lớn cho SGD trong quan hệ với các Tổng
Công ty này.
Tuy nhiên, với một địa bàn hẹp, sự có mặt của xấp xỉ 70 ngân hàng và
chi nhánh ngân hàng đã tạo ra một môi trường cạnh tranh lớn đối với SGD.
Mặt khác, gần đây hoạt động sản xuất kinh doanh của các TCKT Hà Nội cũng
như cả nước có phần chững lại, hiệu quả kinh doanh suy giảm gây khó khăn
không ít tới hoạt động của SGD, nhất là hoạt động cho vay.
2. Kết quả hoạt động kinh doanh tín dụng của Sở giao dịch I – Ngân
hàng Công thương Việt Nam những năm qua:
Ý thức được vai trò của mình, trong thời gian qua SGD đã tập trung
vào cải thiện chất lượng các hoạt động nghiệp vụ, phục vụ ngày càng tốt hơn
các nhu cầu của khách hàng với phương châm “ổn định, an toàn, hiệu quả,
phát triển”, góp phần xứng đáng hoàn thành nhiệm vụ chung của toàn hệ
thống NHCT. Tốc độ tăng trưởng hàng năm luôn đạt và vượt mức kế hoạch
(10 - 20%), quy mô huy động và tín dụng không ngừng được mở rộng; các
dịch vụ SGD cung cấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, đồng thời
góp phần khẳng định vị trí của SGD trên địa bàn. Kết quả cụ thể được thể
hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
2.1. Huy động vốn:
Có thể khẳng định đây là mặt mạnh nhất của SGD cả về số tuyệt đối
lẫn số tương đối khi so sánh với các ngân hàng trên địa bàn. Với nhiều hình
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
39
thức huy động, SGD đã triệt để khai thác các nguồn vốn khác nhau từ những
khoản tiết kiệm nhỏ của dân cư cho tới những khoản tiền gửi thanh toán rất
lớn của các TCT. Tỷ trọng nguồn vốn huy động của SGD thường chiếm từ 16
- 20% tổng nguồn huy động của hệ thống NHCT, và từ 25 - 30% tổng nguồn
huy động của các NHTM trên địa bàn. Kết quả huy động vốn thể hiện trên
Bảng 1:
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
40
Bảng 1: Tình hình huy động vốn của Sở giao dịch (1999 – 2001)
Đơn vị: Triệu VNĐ
1999 2000 2001
Chỉ tiêu
Số tiền Tỷ trọng % Số tiền
Tỷ trọng
%
Tăng
giảm % Số tiền
Tỷ trọng
%
Tăng
giảm %
Tổng nguồn vốn huy động
Trong đó: 7.779.000 100 9.262.841 100 19,1 11.587.595 100 25,1
I. Phân loại theo
đối tượng
1. Tiền gửi DN 4.979.311 64,0 6.256.381 67,5 25,6 8.113.431 70,0 29,7
3. Tiền gửi dân cư 2.563.646 33,0 2.976.769 32,1 16,1 3.409.334 29,4 14,5
4. Tiền gửi khác 236.043 3,0 29.691 0,3 -87,4 64.849 0,6 118,4
II. Phân loại theo tiền gửi
a. VNĐ 6.001.264 77,1 6.943.299 75,0 15,7 8.940.561 77,2 28,8
b. Ngoại tệ (quy đổi) 1.777.736 22,9 2.319.542 25,0 30,5 2.646.944 22,8 14,1
III. Phân theo kỳ hạn
1. Không có kỳ hạn 4.165.478 53,5 5.236.811 56,5 25,7 6.902.827 59,6 31,8
2. Có kỳ hạn 3.613.522 46,5 4.026.030 43,5 11,4 4.684.768 40,4 16,4
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh 1999 – 2001 Sở Giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
41
Nguồn vốn huy động của SGD tăng nhanh. Tốc độ tăng trưởng nguồn
vốn huy động năm 2000 đạt 19,1% thì đến năm 2001 đạt tốc độ tăng trưởng
đạt 25%, với tổng số vốn huy động được là 11.588 (về số tuyệt đối là tăng
hơn 250 tỷ đồng so với năm 2000), trong đó nguồn vốn VNĐ có tốc độ tăng
nhanh hơn nguồn vốn ngoại tệ. Lãi suất VNĐ tuy không biến động nhiều
trong năm 2001 nhưng thị trường tiền tệ có những thời điểm rất căng thẳng vì
sự thiếu hụt VNĐ như vào trung tuần tháng 7 và những ngày cuối năm 2001,
do nhu cầu đầu tư tín dụng bằng VNĐ tăng và do một số nguyên nhân có tính
vĩ mô khác. Tuy nhiên, hoạt động huy động vốn bằng VND của SGD vẫn
tăng với tốc độ cao (29% năm 2001), bảo đảm đáp ứng cho nhu cầu đầu tư và
thanh toán cho SGD.
Một điểm nổi bật ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động huy động vốn
bằng USD của SGD trong năm 2001 là cùng một thời điểm nhiều ngân hàng
lớn trong nước đã 11 lần cắt giảm lãi suất đồng USD vốn là đồng tiền chủ yếu
trong hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam. Lãi suất huy động tiết kiệm
bình quân USD thời điểm cuối năm 2001 chỉ còn bằng 27% so với thời điểm
đầu năm. Tỷ trọng nguồn vốn huy động bằng USD tại SGD giảm so với năm
2000, tuy vậy mức độ tăng trưởng huy động USD vẫn đạt được ở mức 14%.
Tới 31/6/2002 vốn USD huy động được quy đổi ra VNĐ là 1.643 tỷ đồng 1.
Trong tổng nguồn huy động, thì tiền gửi của các TCKT luôn là nguồn
lớn nhất, chiếm khoảng từ 60 - 70% góp phần làm giảm lãi suất đầu ra cho
SGD. Hơn nữa, tỷ trọng nguồn này đang có xu hướng tăng dần, lên tới 70%
tính đến ngày 31/12/2001. Nguồn tiền tiết kiệm đứng thứ hai và đang có xu
hướng giảm đi với các loại kỳ hạn 3, 6, 9 và 12 tháng, nguồn này có chi phí
cao hơn tiền gửi các TCKT, song lại ổn định hơn nhiều. Các nguồn vốn trung,
dài hạn hiện nay tại SGD chủ yếu là vốn tài trợ theo uỷ thác đầu tư, hoặc dưới
dạng tiền phát hành kỳ phiếu. Nguồn từ phát hành kỳ phiếu cùng được để đáp
ứng nhu cầu vốn cần thiết tại chỗ. Nguồn huy động lớn, tăng trưởng ổn định
1 : Báo cáo hoạt động kinh doanh Quý I, II/2002 của Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
42
là một điều kiện rất căn bản để SGD có thể kinh doanh chủ động, mở rộng
cho vay tới các thành phần kinh tế, đồng thời điều chuyển một lượng vốn
đáng kể về Hội sở NHCT để điều chuyển lại cho các chi nhánh thiếu vốn như
Sở giao dịch II - Thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm ngày 31/3/1999, Sở
giao dịch đã điều chuyển về Hội sở 3.989 tỷ VNĐ (gồm cả ngoại tệ quy đổi).
Bối cảnh thị trường vốn ở Việt Nam hiện nay là: Sự ra đời thị trường
chứng khoán Việt Nam cùng với sự thành lập các công ty chứng khoán, quỹ
đầu tư và các định chế tài chính phi tín dụng như quỹ bảo hiểm, công ty tài
chính trực thuộc các TCT lớn đã làm cho các dòng tiền nhàn rỗi từ dân cư và
doanh nghiệp không còn tập trung chảy vào các NHTM như những năm trước
đây nữa. Do đó, việc giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định nguồn vốn huy
động, đồng thời thu hút được lượng ngoại tệ dồi dào từ các nhà xuất khẩu
trong cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường mua bán ngoại tệ đã minh chứng
cho những nỗ lực của SGD trong thời gian qua.
2.2. Tình hình sử dụng vốn.
Nguồn vốn huy động được ngoài sử dụng để lập quỹ bảo đảm thanh
toán (khoảng 4,5%), điều chuyển về Trung ương (khoảng 75%), SGD tiến
hành cho vay nền kinh tế. Tình hình cho vay được thể hiện ở Bảng 2. Một
điều đáng chú ý là cho vay trung dài hạn từ chỗ chiếm vị trí thứ yếu với
21,5% vào 1997 thì tới cuối năm 1998 chiếm 57% và tiếp tục tăng nhanh, cao
nhất là vào năm 2000 chiếm tới 71,5%. Đây là một con số rất cao so với các
chi nhánh NHCT khác trên địa bàn tuy vào năm 2001 con số này giảm xuống
còn 68,3%. Nói chung diễn biến cho vay như trên là đúng định hướng của
SGD. Vì SGD là một chi nhánh hạch toán phụ thuộc của NHCT, nên vấn đề
thanh toán của nó đặt ra chưa thực sự cấp thiết bằng một NHTM, một mặt với
tỷ lệ cho phép sử dụng 20% nguồn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn
của NHNN, SGD đủ khả năng đáp ứng các nhu cầu vay trung, dài hạn hiện
tại.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
43
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
45
Bảng 2 : Tình hình cho vay của Sở giao dịch (1999 – 2001)
Đơn vị : Triệu VNĐ
1999 2000 2001
Chỉ tiêu Số tiền Tỷ trọng % Số tiền
Tỷ trọng
%
Tăng
giảm % Số tiền
Tỷ trọng
%
Tăng
giảm %
Tổng dư nợ cho vay 1.107.607 100 1.246.561 100 12,5 1.497.004 100 20,1
1. Phân theo thời hạn:
Ngắn hạn 347.966 31,4 355.207 28,5 2,1 475.010 31,7 33,7
Trung, dài hạn 759.641 68,6 891.354 71,5 17,3 1.021.994 68,3 14,7
2. Phân theo TPKT
Quốc doanh 983.323 88,8 1.140.518 91,5 16 1.355.224 90,5 18,8
Ngoài quốc doanh 124.284 11,2 106.043 8,5 -14,7 141.780 9,5 33,7
3. Phân theo ngành SXKD
Công nghiệp 83.065 7,5 69.769 5,6 -16 83.663 5,6 19,9
Xây dựng 3.834 0,3 6.637 0,5 73,1 7.540 0,5 13,6
GTVT - Bưu điện 737.591 66,6 812.634 65,2 10,2 952.076 63,6 17,2
Thương nghiệp vật tư 230.846 20,8 338.586 27,2 46,7 420.741 28,1 24,3
Ngành khác 52.508 4,7 18.698 1,5 -64,4 32.934 2,2 76,1
4. Chất lượng tín dụng
* Dư nợ trong hạn 1.034.643 93,4 1.185.715 95,1 14,6 1.438.867 96,1 21,4
* Dư nợ quá hạn, trong đó 72.964 6,6 60.846 4,9 -16,6 58.137 3,9 -4,5
- Quốc doanh 59.406 5,4 47.637 3,8 -19,8 45.294 3 -4,9
- Ngoài quốc doanh 13.594 1,2 13.209 1,1 -2,8 12.843 0,9 -2,8
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
46
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh 1999 – 2001 Sở Giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
47
Năm 2001, thoát ra khỏi tình trạnh cầu tín dụng quá thấp như năm
trước, quy mô tín dụng của SGD tăng trưởng khả quan, đồng thời được nâng
cao về chất lượng đầu tư. Ngoài các khách hàng truyền thống trong các lĩnh
vực sản xuất, thương nghiệp, dịch vụ, SGD đã mở rộng đối tượng khách hàng
và các loại hình cho vay như cho vay các chương trình phát triển nông thôn,
cho vay tiêu dùng… Do đó tỷ trọng vốn vay của các DNNN có giảm nhẹ từ
91,5% năm 2000 xuống còn 90,5% năm 2001. Điều này cũng giải thích tại
sao tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn năm 2001 giảm so với năm 2000. Nhóm
khách hàng vay vốn lớn nhất của SGD thuộc hai ngành Giao thông vận tải và
Bưu điện, hiện nay chiếm hơn 60% số vốn vay, trong số đó cần phải kể đến
Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông và một số đơn vị thành viên của nó. Tiếp
đến là nhóm khách hàng thuộc ngành thương nghiệp vật tư. Đây là hai nhóm
khách hàng truyền thống và đầy tiềm năng của SGD, có số vốn vay chiếm tỷ
trọng hơn 90% vào năm 2001. Nhìn chung, dư nợ đối với khu vực kinh tế
quốc doanh tăng lên. Điều này đã thể hiện một sự tập trung nhất định, ngày
31/12/2001 chỉ 40% khách hàng là DNNN đã chiếm 90,5% tổng dư nợ. Mặt
khác, trong đối tượng khách hàng này thì hiện nay các Tổng Công ty ngày
càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ.
Về nợ quá hạn:
1108
73
1247
61
1497
58
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
§¬n vÞ (tû VND)
31/12/99 31/12/00 31/12/01
Thêi gian (n¨m)
BiÓu ®å 1: DiÔn biÕn d nî vµ nî qu¸ h¹n tõ 1999-2001
Tæng d nî
Nî qu¸ h¹n
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
48
Một dấu hiệu đáng mừng là trong những năm qua, nợ quá hạn của SGD
giảm mạnh về cả số tuyệt đối lẫn tỷ trọng trên tổng dư nợ. Đặc biệt là năm
2001 nợ quá hạn giảm với tốc độ –16,6%. Tỷ lệ nợ quá hạn năm 1999 là
6,6%, năm 2000 là 4,9% và đến năm 2001 tỷ lệ nợ quá hạn của SGD chỉ còn
3,9%. Thực hiện tiến trình cơ cấu lại nợ, SGD luôn tích cực chủ động trong
công tác khai thác tài sản xiết nợ để giảm bớt tỷ lệ nợ quá hạn. Được sự hỗ
trợ của Chính phủ trong việc ra các văn bản pháp lý tạo điều kiện thuận lợi
cho công tác xử lý nợ, năm 2001 SGD đã thu hồi được số nợ tồn đọng gấp
hơn 4 lần so với năm 2000. Đây là một thực tế đáng ghi nhận về hoạt động tín
dụng của SGD trong năm 2001.
Về hiệu quả của hoạt động cho vay, ta có bảng chỉ tiêu sau:
Bảng 3 - Hiệu quả hoạt động cho vay của Sở giao dịch.
Đơn vị: triệu VNĐ
Chỉ tiêu 1999 2000 2001
1. Tổng doanh số cho vay 1.568.638 1.948.134 2.456.126
2. Tổng doanh số thu nợ 1.360.993 1.809.180 2.217.586
3. Dư nợ bình quân 1.016.256 1.253.561 1.323.924
4. Vòng quay vốn tín dụng 1,3 1,4 1.7
5. Lãi thu từ cho vay 54.085 67.184 95.245
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động cho vay Sở giao dịch
Như vậy ta thấy có xu hướng vòng quay vốn tín dụng tăng lên qua các
năm, tổng doanh số cho vay tăng nhanh. Vòng quay vốn tín dụng tăng do tỷ
trọng cho vay ngắn hạn trong tổng dư nợ của SGD ngày càng tăng. Một cách
tổng quát chúng ta thấy tổng dư nợ cho vay tăng trưởng đều đặn, đạt mức gần
1.497 tỷ đồng vào 31/12/2001, tới 31/6/2002 đã đạt 1.375 tỷ.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
49
Tóm lại, trong thời gian qua SGD đã đạt nhiều thành tích trong hoạt
động kinh doanh, hàng năm thu hút được khối lượng vốn lớn trong nền kinh
tế để SGD cũng như hệ thống Ngân hàng Công thương mở rộng cho vay lại
tới nền kinh tế. Dư nợ tăng trưởng tương đối đều đặn, nhưng quy mô còn
chưa tương xứng với tiềm năng của Sở giao dịch. Sở giao dịch cũng đang quá
trình cơ cấu lại các món vay, trong đó tập trung cho vay các Tổng Công ty.
Những mặt khó khăn, hạn chế đang đặt ra yêu cầu Sở giao dịch tiếp tục hoàn
thiện các hoạt động nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động cho cả khách
hàng và Sở giao dịch.
II - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CÁC TỔNG CÔNG TY NHÀ
NƯỚC TẠI SỞ GIAO DỊCH I – NHCTVN.
1. Phân cấp quản lý tín dụng:
Việc quản lý tín dụng được tiến hành trên cơ sở hạn mức cho vay, lãi
suất cho vay, vòng quay vốn tín dụng, phân loại khách hàng theo tiêu chuẩn
A-B-C để có căn cứ xử lý dư nợ và giải quyết cho vay.
Việc phân cấp quản lý tín dụng trong hệ thống Ngân hàng Công thương
Việt Nam được thực hiện như sau:
Căn cứ vào các điều kiện cụ thể về nguồn vốn, năng lực điều hành, mức
độ an toàn trong kinh doanh của từng thời kỳ, Tổng Giám đốc Ngân hàng
Công thương Việt Nam uỷ quyền cho giám đốc chi nhánh giải quyết cho vay
tuỳ đặc điểm của từng chi nhánh mà mức độ khác nhau.
Tiêu chuẩn phân loại chi nhánh để xác định mức uỷ quyền phụ thuộc
vào 3 yếu tố:
- Năng lực, trình độ quản lý.
- Chất lượng, hiệu quả tín dụng.
- Quy mô hoạt động.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
50
Trường hợp vượt phạm vi của Tổng Giám đốc uỷ quyền, Giám đốc Sở
giao dịch phải trình Tổng Giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Trong nội dung Tổng Giám đốc uỷ quyền cho Giám đốc chi nhánh,
mức phán quyết đối với Tổng Công ty Nhà nước và đơn vị thành viên của
Tổng Công ty Nhà nước cao hơn những loại hình khách hàng khác. Như vậy,
SGD sẽ chủ động, linh hoạt hơn trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với
Tổng Công ty Nhà nước.
2. Chính sách khách hàng của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công
thương Việt Nam đối với Tổng Công ty Nhà nước hiện nay.
Nội dung cơ bản về chính sách khách hàng của Ngân hàng Công
thương Việt Nam nói chung và của Sở giao dịch I nói riêng là:
- Tiêu chuẩn khách hàng chiến lược:
+ Đối tượng khách hàng: Là các Tổng Công ty Nhà nước thành lập theo
QĐ 90, 91, các doanh nghiệp Nhà nước của Bộ và tỉnh, thành phố quản lý;
công ty, xí nghiệp liên doanh giữa doanh nghiệp Nhà nước với nước ngoài
hoặc công ty 100% vốn nước ngoài thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn, kinh
doanh có hiệu quả; các công ty cổ phần có vốn góp của Nhà nước có đủ các
điều kiện: đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn theo cơ chế tín dụng hiện
hành có uy tín với NHCTVN trong quan hệ tín dụng, không có nợ quá hạn
khó đòi, không có treo; thực trạng tài chính vững mạnh, sản xuất kinh doanh
có hiệu quả.
+ Đối tượng ngành hàng cho vay, đầu tư: Công nghiệp khai thác, chế
biến khoáng sản, xuất khẩu, bưu chính viễn thông, xây lắp dân dụng, công
nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng, dầu khí, điện lực, sản xuất, kinh doanh
dịch vụ đô thị ít bị cạnh tranh hoặc ít có tính độc quyền; giao thông vận tải,
hàng không, đường sắt, sản xuất kinh doanh dược phẩm trung ương, các dự
án cho vay, đầu tư theo chỉ đạo của Chính phủ và dự án cho vay có nguồn trả
nợ chắc chắn từ ngân sách.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
51
Như vậy, thực chất của chính sách khách hàng chủ yếu là áp dụng
với Tổng Công ty Nhà nước.
- Các biện pháp để thực hiện chính sách khách hàng có đủ các tiêu chuẩn
trên:
+ Cung cấp sản phẩm: đảm bảo cân đối và chủ động và nguồn vốn
VNĐ, ngoại tệ, có các hình thức tín dụng, đầu tư, dịch vụ thích hợp, đáp ứng
được các nhu cầu khách hàng một cách tối đa và hiệu quả.
+ Chất lượng phục vụ: phục vụ khách hàng với chất lượng cao hơn các
ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, đảm bảo thực hiện tốt dịch vụ gửi tiền, rút
tiền, thanh toán, chuyển tiền trong nước và quốc tế nhanh chóng, thuận lợi, có
uy tín cao hơn các ngân hàng thương mại khác trong địa bàn.
+ Ưu đãi về lãi suất cho vay, tiền gửi, phí dịch vụ:
Lãi suất cho vay mức ưu đãi giảm so với lãi suất bình thường. Lãi suất
tiền gửi: mức ưu đãi tăng so với mức lãi suất bình thường.
Mức phí dịch vụ: áp dụng mức phí ngang với các ngân hàng thương
mại, tổ chức tín dụng cùng địa bàn.
+ Ưu đãi về điều kiện vay vốn:
Ưu đãi điều kiện tối thiểu về vốn tự có tham gia vào dự án vay vốn
trung, dài hạn như sau:
Đối với dự án đầu ưu mới: 25% (mức bình thường là 30%)
Đối với dự án cải tiến kỹ thuật – mở rộng sản xuất: 10
Ưu đãi về kỹ quý đối với các dự án vay vốn trung dài hạn khi mở L/C
at sight nhập máy móc thiết bị mà giá trị L/C bằng 100% vốn vay của Ngân
hàng Công thương Việt Nam đã được duyệt cho vay trung, dài hạn, được
miễn ký quỹ 5% theo quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
+ Ưu đãi đầu tư khác:
NHCTVN áp dụng các hình thức ưu đãi cho vay và đầu tư khác đối với
các doanh nghiệp theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
52
+ Phương thức cho vay: Được áp dụng với phương thức tạo sự chủ
động cho khách hàng.
3. Hoạt động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước tại Sở giao dịch
trong thời gian qua:
3.1. Kết quả thu được:
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
53
Bảng 5: Số dư cho vay các Tổng Công ty Nhà nước tại Sở giao dịch
Đơn vị: Triệu VNĐ
Chỉ tiêu 1998
1999
2000
2001
Dư nọ Tỷ
trọng
%
Dư nợ Tỷ trọng
%
Tăng
giảm
%
Dư nợ Tỷ
trọng
%
Tăng
giảm
%
Dư nợ Tỷ
trọng
%
Tăng
giảm
%
Các TCT+thành viên 506.209 100 679.873 100 34,3 867.212 100 27,6 1.042.124 100 20,2
Trong đó: - Ngắn hạn 118.351 23,4 128.037 18,8 8,2 87.109 10 -31,97 134.592 12,9 54,5
- TDH 387.858 76,6 557.836 82,2 43,8 780.103 90 39,84 907.532 87,1 16,3
TCT 91+ thành viên 393.338 77,7 558.652 82,2 42 782.564 90,2 40,08 917.521 88 17,2
Trong đó: - Ngắn hạn 6.283 1,6 7.510 1,3 19,5 4.543 0,6 -39,51 11.180 1,2 146,1
- TDH 387.055 98,4 551.142 98,7 42,4 778.021 99,4 41,17 906.341 98,8 16,5
TCT 90 112.871 22,3 121.221 17,8 7,4 84.648 9,8 -30,17 124.603 12 47,2
Trong đó: - Ngắn hạn 112.068 99,3 120.527 99,4 7,5 82.566 97,5 -31,50 123.412 99 49,5
- TDH 803 0,7 694 0,6 -13,57 2.082 2,5 200 1.191 0,1 -42,8
Nguồn: Báo cáo cho vay và bảo lãnh các Tổng Công ty Nhà nước – Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
54
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
55
Các số liệu cụ thể về dư nợ, tỷ trọng các loại cho vay đối với các Tổng
Công ty thể hiện trong Bảng 5. So với thời gian trước khi nhiều Tổng Công ty
mới ra đời và còn đang trong giai đoạn hoàn thiện tổ chức cũng như chế độ
vay vốn ngân hàng của Tổng Công ty, thì 3 năm trở lại đây số dư nợ các TCT
đã tăng đáng kể và dần đi vào ổn định. Trong giai đoạn trước, nhiều Tổng
Công ty được vay vốn ưu đãi tại Ngân hàng Đầu tư phát triển, nhất là cho Đầu
tư xây dựng cơ bản nên SGD không thu hút được nhiều khách hàng là các
TCT. Nhưng hiện nay nguồn vốn ưu đãi này đầu tư qua Ngân hàng Đầu tư
phát triển có xu hướng giảm đi, phần lớn thông qua Cục đầu tư phát triển (Bộ
Tài chính), Ngân hàng Đầu tư phát triển cũng dần phải hoạt động theo hướng
chung của các NHTM. Mặt khác các biện pháp thu hút khách hàng của SGD
đã góp phần mở rộng cho vay các TCT, đưa dư nợ với đối tượng này tăng
nhanh cả về tỷ trọng và số tuyệt đối, từ 680 tỷ chiếm 61,4% (31/12/1999) đến
867 tỷ chiếm 69,6% (31/12/2000) và tới 31/3/2001 là 1.042 tỷ tương đương
70% tổng dư nợ. Theo dự đoán trong thời gian tới tỷ trọng này sẽ vẫn chiếm
tỷ trọng cao. Toàn bộ dư nợ với các Tổng Công ty thuộc về 9 Tổng Công ty là
các TCT 91 gồm Bưu chính - viễn thông, Tổng Công ty than, Tổng Công ty
dệt may, Tổng Công ty hoá chất; các TCT 90 là Liên hiệp đường sắt Việt
Nam, Tổng Công ty cơ khí giao thông vận tải, Tổng Công ty máy nông
nghiệp và động lực, Tổng Công ty muối.
Cùng với quá trình mở rộng cho vay các Tổng Công ty, thì quy mô cho
vay đối với các TCT đặc biệt là TCT 91 ngày càng tăng. Tốc độ tăng dư nợ
TCT trong 2 năm 1999, 2000 đều trên 40%. Đáng chú ý là tỷ trọng dư nợ
TCT 91 năm 2000 lên tới 90,2%. Năm 2001, dư nợ nhóm TCT 91 là 918 tỷ
đồng, chiếm tỷ trọng 88%. Chỉ tính trong 6 tháng đầu năm 2002 đã lên tới
871 tỷ đồng trong khi dư nợ TCT 90 chỉ đạt 150 tỷ. Điều này là do nhu cầu
vốn để đầu tư tập trung của các TCT 91 lớn hơn nhiều so với các TCT 90.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
56
Biểu đồ 2 -Dư nợ đối với các TCT trong tổng dư nợ và dư nợ các DNNN
1108
983
680
1247
1141
867
1497
1355
1042
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
Tû VND
31/12/99 31/12/00 31/12/01
Tæng d nî
D nî víi DNNN
D nî víi TCT (Gåm
c¶ §VTV)
Một nguyên nhân nữa làm cho quy mô cho vay các TCT 91 tăng nhanh
là nhóm này hay được thực hiện các dự án theo chỉ định của Chính phủ, và
việc cho vay với các dự án này rất an toàn. Đồng thời, giữa hai quy mô Tổng
Công ty này, sức mạnh tài chính cũng như hiệu quả kinh doanh của nhóm
TCT 91 cao hơn hẳn. Trong cho vay các TCT 91, dư nợ trung dài hạn chiếm
tỷ trọng lớn, cụ thể là 98,7% (1999), 99,4% (2000), 98,8% (2000). Trong khi
đó, các TCT 90 lại chủ yếu có nhu cầu vay vốn ngắn hạn để bổ sung cho vốn
lưu động của các thành viên với 99% dư nợ TCT 90.
Do vậy cùng với xu hướng tăng quy mô cho vay các TCT 91, dư nợ
trung dài hạn nhìn chung tăng cả về khối lượng cũng như tỷ trọng trong tổng
dư nợ. Các món cho vay lớn nhất với các Tổng Công ty đều thuộc về các TCT
91, và đều là các món cho vay trung dài hạn. Tỷ trọng cho vay trung dài hạn
có xu hướng tăng: 76,6% năm1998, 82,2% năm 1999, 90% năm 2000, năm
2001 tăng 127 tỷ so với năm 2000 nhưng tỷ trọng giảm xuống 87.1%.Và sau
6 tháng đầu năm 2002 dự báo thống kê ước tính năm nay tỷ trọng cho vay
trung dài hạn sẽ tăng 95% đạt mức cao nhất trong 5 năm gân đây.Đây là một
thực tế phán án rõ nét mỗi quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và Tổng Công ty
trong thời gian gần đây.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
57
Các Tổng Công ty là nhóm khách hàng rất có uy tín với Sở giao dịch,
họ vay trả rất sòng phẳng, thậm chí khi kinh doanh vẫn còn gặp thua lỗ (như
Liên hiệp vận tải đường sắt KVI - thuộc liên hiệp đường sắt). Cho tới nay
chưa có nợ quá hạn hay nợ khó đòi phát sinh với đối tượng này. Các khoản
cho vay trung dài hạn hoàn trả dần của các Tổng Công ty có triển vọng tốt,
các món cho vay ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán đều tỏ ra có khả năng thu
hồi cao. Một số TCT có số dư nợ lớn là: Tổng Công ty Bưu chính viễn thông,
Tổng Công ty Than, Tổng Công ty Dệt may, Tổng Công ty Giấy, Tổng Công
ty Hóa chất, Tổng Công ty Thép, Tổng Công ty Xi măng…
Đồng thời, một điều dễ nhận thấy là với số dư rất lớn, các Tổng Công
ty đã đem lại phần lớn thu nhập hoạt động cho vay cho Sở giao dịch. Đây là
những dấu hiệu tốt khuyến khích Sở giao dịch tiếp tục mở rộng cho vay với
nhóm khách hàng này. Tất nhiên việc tập trung cho vay các Tổng Công ty có
thể dần tới các khó khăn, đó là rủi ro “đặt nhiều trứng vào một giỏ”, hoặc về
khả năng thanh khoán. Nhưng Sở giao dịch là một chi nhánh của ngân hàng
Công thương, do vậy những khó khăn trên có thể được hỗ trợ từ Hội sở. Mặt
khác, các Tổng Công ty không chịu áp lực vỡ nợ trực tiếp, bởi đó là những
DNNN.
Như vậy có thể thấy là chỉ trong thời gian ngắn, Sở giao dịch đã nâng
quy mô cho vay các Tổng Công ty nên chiếm tỷ trọng lớn nhất, góp phần vào
quá trình sàng lọc khách hàng, cơ cấu lại các khoản vay để đưa dư nợ vào
vùng an toàn, góp phần nâng cao thu nhập cho Sở giao dịch cũng như thực
hiện các định hướng lớn của Nhà nước. Để đạt được kết quả ấy, Sở giao dịch
đã biết tận dụng các điều kiện khách quan, sự giúp đỡ của Ngân hàng Công
thương, áp dụng một số biện pháp phù hợp. Mục sau đây sẽ đưa ra các hoạt
động trong lĩnh vực cho vay các Tổng Công ty cũng như các biện pháp mà Sở
giao dịch đã áp dụng để đạt được kết quả như trên.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
58
3.2. Các biện pháp Sở giao dịch đã áp dụng nhằm mở rộng hoạt
động cho vay các Tổng Công ty Nhà nước:
Việc xem xét toàn bộ hoạt động cho vay các Tổng Công ty cũng như
những kết quả Sở giao dịch đã đạt được cũng đã phần nào nên được các biện
pháp cụ thể mà Sở giao dịch đã áp dụng để mở rộng cho vay nhóm khách
hàng này và hoàn toàn có thể nói rằng những biện pháp ấy đã góp phần xứng
đáng vào kết quả đạt được, bao gồm:
- Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế nhất là các Tổng
Công ty Nhà nước có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đồng thời
để phát triển kinh doanh đảm bảo an toàn và hiệu quả trong thời qua, Sở giao
dịch I - NHCTVN đã rất chú trọng tăng cường quan hệ tín dụng với Tổng
Công ty Nhà nước. Sở giao dịch đã thực hiện các ưu đãi về lãi suất cho vay
cũng như tiền gửi đối với các khách hàng lớn. Vào đầu năm 2002, Sở giao
dịch đã thực hiện đợt giảm lãi suất cho vay trung dài hạn từ 1,15% tháng còn
1,05%, tăng 10% lãi suất tiền gửi thanh toán của các Tổng Công ty có số dư
lớn, phí dịch vụ ngang với các ngân hàng thương mại cùng địa bàn và những
ưu đãi về điều kiện vay vốn đối với vốn tự có và đặc biệt là ưu đãi về việc
miễn ký quỹ 5% đối với các dự án vay vốn trung dài hạn khi mở L/C nhập
máy móc thiết bị mà giá trị L/C bằng 100% vốn vay của Sở giao dịch đã được
duyệt cho vay. Các ưu đãi trên được cán bộ tín dụng phổ biến công khai cho
khách hàng. Lãi suất vay ngoại tệ trung dài hạn nhiều thời điểm Sở giao dịch
áp dụng thấp hơn lãi suất vay nước ngoài. Bên cạnh các giải pháp ưu đãi lãi
suất nói trên được chủ trương từ Ngân hàng Công thương Việt Nam, Sở giao
dịch đã cải tiến phương pháp kinh doanh, đã tiếp cận, tổ chức họp trao đổi và
ký biên bản hợp tác kinh doanh với các Tổng Công ty Nhà nước nhằm phục
vụ khách hàng tốt hơn, tăng cường quan hệ tín dụng; thực thi chính sách ưu
đãi lãi suất tiền vay, tiền gửi, phí, tỷ lệ ký quỹ, điều kiện vay vốn…
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
59
- Sở giao dịch đã coi trọng chất lượng tín dụng bằng việc nâng cao chất
lượng thẩm định, tăng cường kiểm tra, giám sát vốn vay.
- Sở giao dịch đã tích cực tranh thủ sự ủng hộ của chính quyền sở tại
trong hoạt động cho vay chính UBND thành phố Hà Nội cũng là nơi ký quyết
định thành lập một số TCT 90.
- Duy trì quan hệ truyền thống, chặt chẽ với Hội sở. Sở giao dịch đã
phát huy những lợi thế do lịch sử để lại (mà trước đây, Sở giao dịch chính là
bộ phận kinh doanh trong Hội sở chính ngân hàng Công thương Việt Nam),
luôn duy trì quan hệ chặt chẽ với Trung ương, điều này còn được hỗ trợ bởi vị
trí lớn của Sở giao dịch trong toàn hệ thống và lãnh đạo Sở giao dịch do một
phó Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam trực tiếp đảm nhiệm.
Việc phối hợp với Hội sở khi xét duyệt cho vay trên mức quy định hay phối
hợp với các Chi nhánh khác cùng cho vay các doanh nghiệp thành viên trong
một Tổng Công ty chặt chẽ hơn, nhanh chóng hơn.
- Để đảm bảo đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn cho đầu tư phát
triển và đẩy mạnh sản xuất của các Tổng Công ty Nhà nước và cho nền kinh
tế, Sở giao dịch đã nỗ lực phấn đấu huy động mọi nguồn vốn cả VNĐ và
ngoại tệ, giải ngân kịp thời và đúng tiến độ. Thành tích huy động vốn của Sở
giao dịch trên cũng đã thể hiện rõ hướng này.
- Ngân hàng Công thương Việt Nam đã nâng mức uỷ quyền quyết định
cho vay của Giám đốc chi nhánh đối với các TCT Nhà nước từ 30 tỷ đồng lên
200 tỷ đồng. Từ đó tạo sự chủ động cho Sở giao dịch đáp ứng nhanh, kịp thời
vốn cho các TCT thực hiện các dự án, phương án kinh doanh.
Trong thời gian tới Sở giao dịch cần tiếp tục củng cố các biện pháp
này, đồng thời nghiên cứu, áp dụng một cách đồng bộ các giải pháp nhằm
mở rộng cho vay các Tổng Công ty đi đôi với nâng cao hiệu quả cho vay.
Đây là nội dung cơ bản chúng ta sẽ xem xét ở chương III.
4. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân.
Khóa Luận Tốt Ngiệp Trần Đào Nguyên – Trung 1 K37
60
Bên cạnh những cố gắng của Sở giao dịch trong việc mở rộng hoạt
động cho vay đối với các Tổng Công ty Nhà nước còn có rất nhiều tồn tại,
hạn chế. Tổng số dư nợ ở các TCT Nhà nước tại Sở giao dịch tăng qua các
năm (1999: 680 tỷ, 2000: 867 tỷ, 2001: 1.042 tỷ, 6 tháng đầu năm 2002: 625
tỷ) nhưng tốc độ tăng lại giảm dần (1999 là 34,3%, 2000: 27,6%, 2001:
20,2%).
Các tồn tại chủ yếu là mức độ thâm nhập, phát triển thị trường tín dụng
Tổng Công ty Nhà nước còn hạn chế: Thị phần còn thấp, khối lượng vốn vay
của Sở giao dịch đầu tư cho Tổng Công ty Nhà nước tuy luôn tăng nhưng còn
thấp so với nhu cầu vốn của các Tổng Công ty như đã phân tích ở phần trước.
Trong 3 năm gần đây, số lượng vốn SGD cung cấp mới chỉ đáp ứng được hơn
80% nhu cầu vốn các TCT xin vay vốn tại SGD. Dư nợ tăng trưởng nhưng
còn thiếu cân đối, cho vay trung dài hạn và cho vay ngoại tệ còn hạn chế.
Nhiều Tổng Công ty phải vay vốn nước ngoài hoặc các ngân hàng có tiềm lực
về ngoại tệ như Ngân hàng Ngoại thương.
Nguyên nhân:
a/ Môi trường kinh doanh chưa ổn định
Các chí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty Nhà nước tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam.pdf