Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn

Tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn: LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, mở cửa và ngày càng hội nhập đầy đủ hơn là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này trong điều kiện hầu hết các nguồn lực trở nên khan hiếm thì bắt buộc các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực quản lý và sử dụng các yếu tố đầu vào tiết kiệm, hiệu quả. Chỉ trên cơ sở SXKD với hiệu quả cao, doanh nghiệp mới có thể đứng vững. Đối với các NHTM, tín dụng là một hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn nhất. Để đạt được các mục tiêu đặt ra, trong chiến lược kinh doanh của mình, đòi hỏi mỗi ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một cơ cấu tổ chức và chính sách tín dụng hợp lý, hiệu quả. Vì vậy, vấn đề hiệu quả hoạt động tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu, việc nâng cao hi...

pdf108 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1122 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, mở cửa và ngày càng hội nhập đầy đủ hơn là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này trong điều kiện hầu hết các nguồn lực trở nên khan hiếm thì bắt buộc các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực quản lý và sử dụng các yếu tố đầu vào tiết kiệm, hiệu quả. Chỉ trên cơ sở SXKD với hiệu quả cao, doanh nghiệp mới có thể đứng vững. Đối với các NHTM, tín dụng là một hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn nhất. Để đạt được các mục tiêu đặt ra, trong chiến lược kinh doanh của mình, đòi hỏi mỗi ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một cơ cấu tổ chức và chính sách tín dụng hợp lý, hiệu quả. Vì vậy, vấn đề hiệu quả hoạt động tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu, việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng là yêu cầu bức xúc đặt ra, đồng thời là mục tiêu hướng tới trong hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung. Nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất lương thực, thực phẩm cho con người và cung cấp nguyên liệu cho các ngành nghề khác nên có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Việt Nam là nước có gần 80% dân số sống ở nông thôn, thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp nên NNNT càng có vai trò quan trọng. Bộ mặt NNNT Việt Nam trong những năm qua có những bước chuyển biến đáng kể, nhiều hộ gia đình ở nông thôn đã thoát nghèo và trở nên giàu có, cơ cấu kinh tế NNNT có những thay đổi theo hướng sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, trên thực tế NNNT hiện đang tồn tại những hạn chế đó là: thiếu vốn, đầu tư thấp, sản xuất chậm phát triển, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Vì thế, nhu cầu vốn đầu tư trong lĩnh vực NNNT rất lớn, cần thiết phải tăng cường đầu tư vốn cho NNNT, hơn nữa, vốn đầu tư đó phải được khai thác và sử dụng một cách hiệu quả mới giải quyết được hạn chế này. Trong các kênh vốn đầu tư cho NNNT, kênh TDNH được xem là kênh quan trọng nhất. Vì vậy, hiệu quả của hoạt động TDNH sẽ là một trong những cơ sở quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình CNH, HĐH, nhất là quá trình CNH, HĐH NNNT theo tinh thần của Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ năm, khóa IX về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010. Quảng Nam là tỉnh thuần nông, nhu cầu vốn đầu tư trong lĩnh vực NNNT rất lớn nhưng nông thôn Quảng Nam còn khá nghèo. Là ngân hàng hoạt động trên địa bàn NNNT, xác định thị trường NNNT là thị trường mục tiêu, NHNo&PTNT Quảng Nam từ khi thành lập năm 1997 đến nay đã đạt được nhiều kết quả khả quan trong hoạt động tín dụng như: số hộ giao dịch với ngân hàng ngày càng nhiều, dư nợ qua các năm liên tục tăng, tỷ lệ nợ xấu và nợ khó đòi do nhiều nguyên nhân (trong đó có thiên tai bất khả kháng) giảm. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều vấn đề tồn tại, vướng mắc làm giảm hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng cũng như cản trở việc tiếp cận vốn ngân hàng của người dân để phát triển NNNT. Do vậy, việc nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với lĩnh vực NNNT tại NHNo&PTNT Quảng Nam là cấp thiết và luôn có ý nghĩa thực tiễn. Đó cũng chính là lý do cơ bản của việc lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng được xác lập và phát triển. Vì vậy, đã có những công trình nghiên cứu về lĩnh vực hoạt động có liên quan đến TDNH, về hiệu quả của TDNH và TDNH đối với lĩnh vực NNNT. Trong số đó có một số công trình tiêu biểu như: - “Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng thúc đẩy phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh ở thủ đô Hà Nội” (1997), luận văn thạc sĩ kinh tế của Lê Anh Hào, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. - “Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” (1999), luận văn thạc sĩ kinh tế của Võ Văn Lâm, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. - “Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh Nghệ An” (2003), luận án tiến sĩ kinh tế của Hà Huy Hùng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. - “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”(2005), luận văn thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Thiện Quân, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. - “Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, TS. Võ Văn Lâm, Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 5 (54)/2002 Phân viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Các công trình này đã làm rõ một số lý luận chung về TDNH, về hiệu quả của TDNH đối với phát triển NNNT, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sự phát triển lĩnh vực công nghiệp ngoài quốc doanh. Đến nay, trên địa bàn Quảng Nam chưa có công trình nào nghiên cứu về nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng NHNo&PTNT đối với lĩnh vực NNNT. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu + Mục đích nghiên cứu: tìm và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực NNNT tại NHNo&PTNT Quảng Nam. + Nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra gồm: - Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề lý luận về hiệu quả của TDNH và đặc thù của hoạt động TDNH đối với lĩnh vực NNNT. - Phân tích, đánh giá thực trạng về hoạt động tín dụng và hiệu quả hoạt động tín dụng đối với lĩnh vực NNNT của NHNo&PTNT Quảng Nam trong thời gian qua. Qua đó, chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với lĩnh vực NNNT và những nguyên nhân chủ yếu. - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với lĩnh vực NNNT của NHNo&PTNT Quảng Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hiệu quả hoạt động TDNH đối với lĩnh vực NNNT. Về phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu tại NHNo&PTNT ở địa bàn Quảng Nam. Thời gian khảo sát từ 2001 đến 2005. 5. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài trên, luận văn sử dụng các phương pháp như: - Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; - Phương pháp thống kê; phân tích và tổng hợp; - Phương pháp khảo sát thực tế, mô hình hoá, so sánh và đối chiếu,… 6. Những đóng góp của đề tài Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam trong việc đề ra các giải pháp mang tính khả thi cao đối với hoạt động tín dụng phục vụ NNNT trên địa bàn Quảng Nam. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn chia làm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 tín dụng ngân hàng và hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn 1.1. Tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp nông thôn 1.1.1. Đặc điểm về kinh tế, xã hội nông nghiệp nông thôn ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng 1.1.1.1. Khái quát về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Theo quan điểm hiện tại, nền kinh tế của một quốc gia, vùng lãnh thổ được phân chia thành 3 khu vực: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất có từ lâu đời nhất trên thế giới. Hoạt động SXNN nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của con người như ăn, uống... Khi xã hội càng phát triển, SXNN không chỉ dừng lại đáp ứng nhu cầu thiết yếu mà nó còn là nơi cung cấp nguyên liệu cho các ngành khác. Vì vậy, nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất cơ bản của nền kinh tế quốc dân nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực phẩm cho người dân, nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp và xuất khẩu, ngành nông nghiệp bao gồm 3 lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Nếu nông nghiệp là một ngành, một lĩnh vực cụ thể được phân chia dựa theo ý nghĩa kinh tế của sản xuất vật chất thì nông thôn là một khu vực địa lý có giới hạn về mặt không gian và thời gian. Khi nói đến nông thôn, chúng ta thường liên tưởng đến đô thị, việc phân chia nông thôn và đô thị được dựa theo các tiêu chí về trình độ phát triển như: mật độ dân số đông, cơ sở hạ tầng phát triển, mức sống dân cư cao... Các tiêu chí này tuỳ theo trình độ phát triển của mỗi quốc gia và trong mỗi thời kỳ nhất định. Cũng có các tiêu chí khác đưa ra để phân biệt nông thôn và đô thị là dựa vào tính chất và cơ cấu hoạt động sản xuất vật chất của vùng lãnh thổ đó, trong đó nông thôn là khu vực có hoạt động SXNN là chủ yếu. Tiêu chí này đúng nhưng chưa đủ vì cơ cấu kinh tế của khu vực nông thôn cũng có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ khi nền kinh tế phát triển. Tóm lại, khái niệm nông thôn cần phải dựa trên cơ sở kết hợp nhiều tiêu chí trên đây và có thể hiểu: Nông thôn là một vùng lãnh thổ, một khu vực có ranh giới địa lý trong đó dân cư sinh sống chủ yếu là nông dân - những người có hoạt động nghề nghiệp là nông nghiệp - hay các cư dân không phải là nông dân nhưng có quan hệ nghề nghiệp mật thiết với nông nghiệp. Nông thôn cũng là nơi có mật độ dân cư, cơ sở hạ tầng, trình độ sản xuất hàng hoá thấp hơn đô thị theo tiêu chí so sánh của quốc gia đó [1, tr. 4]. Như vậy, lĩnh vực NNNT là một địa bàn mà ở đó hoạt động SXNN được coi là bao trùm. Tuy nhiên, với sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, lĩnh vực NNNT không còn là khu vực hoạt động SXNN thuần tuý mà còn có cả hoạt động công nghiệp và dịch vụ, khi nền kinh tế càng phát triển thì tỷ trọng của hoạt động SXNN thuần tuý sẽ giảm đi nhưng con số tuyệt đối không ngừng tăng lên. 1.1.1.2. Vai trò của nông nghiệp nông thôn trong việc phát triển kinh tế, xã hội Trong những thập niên 40 và 50 của thế kỷ XX, phần lớn các nhà kinh tế không đánh giá cao vai trò của NNNT trong việc tăng trưởng và phát triển kinh tế nên các chính sách phát triển kinh tế thời gian này ít quan tâm đến NNNT. Trong quá trình phát triển, một số nước chỉ chú trọng vào phát triển đô thị, khu công nghiệp hiện đại mà không chú ý đến việc phát triển NNNT. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốc gia, tạo ra sự mất cân đối giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa sản xuất và tiêu dùng. Năm 1961, trong cuốn sách “ Vai trò của nông nghiệp trong phát triển" của Johnston và Mellor giới thiệu 5 đóng góp quan trọng của lĩnh vực nông nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế [34, tr.12]. Đó là: - Nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực và các nguyên liệu đầu vào cho các ngành khác của nền kinh tế. - Lĩnh vực nông nghiệp là nguồn thu ngoại tệ quan trọng ở các quốc gia có lợi thế so sánh sản xuất một số mặt hàng nông sản xuất khẩu. - NNNT là thị trường quan trọng cho các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế và là nguồn cung cấp lao động cho khu vực công nghiệp. - Nông nghiệp tạo ra một lượng vốn thặng dư để đầu tư cho quá trình CNH. Kể từ thập niên 60, khi cuộc “cách mạng xanh” mở ra khả năng thực tế cân đối an ninh lương thực thế giới và một số nước dựa vào việc phát triển nông nghiệp để CNH đất nước. Từ đó, nông nghiệp mới được nhìn nhận đóng vai trò tích cực trong phát triển kinh tế và cần thiết phải đầu tư. Việt Nam đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, phát triển NNNT có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế đất nước bởi: - NNNT là nơi sản xuất lương thực, thực phẩm cho nhu cầu cơ bản của nhân dân, cung cấp nông sản, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu. Trong nhiều năm, nông nghiệp tạo ra khoảng 40% thu nhập quốc dân và trên 40% giá trị xuất khẩu, góp phần tạo nguồn tích luỹ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước [36, tr.10]. - NNNT là nơi cung cấp nguồn nhân lực dự trữ dồi dào cho công nghiệp, chiếm trên 70% lao động xã hội. Trong quá trình CNH, HĐH, lao động nông nghiệp chuyển dần sang làm công nghiệp, dịch vụ. Vì vậy, phát triển NNNT sẽ góp phần giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. - Khu vực NNNT là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự phát triển kinh tế, nhất là giai đoạn đầu CNH. Nguồn vốn từ nông nghiệp được tạo ra từ tiết kiệm của nông dân hay ngoại tệ thu được do xuất khẩu nông sản được đầu tư vào hoạt động phi nông nghiệp. - Với gần 76% dân số cả nước, nông nghiệp và nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn của công nghiệp. Phát triển NNNT cho phép nâng cao thu nhập cho dân cư nông nghiệp, từ đó làm tăng sức mua từ khu vực nông thôn và làm cho công nghiệp phát triển. Nhận thức được vị trí, vai trò của NNNT nước ta trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương đổi mới, phát triển NNNT. Quá trình đổi mới bắt đầu từ năm 1981, sau chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán cây lúa đến nhóm và người lao động, nhất là sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khoá VI (4/1988) về đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp, thực hiện khoán ruộng đất đến hộ nông dân. Với nhiều chủ trương, chính sách mới được ban hành, NNNT Việt Nam có những bước phát triển đột biến, tốc độ tăng trưởng trong nông nghiệp bình quân từ 1986 - 2002 là 5% năm [7, tr. 4]. 1.1.1.3. Đặc điểm về kinh tế, xã hội nông nghiệp nông thôn ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng Kinh tế khu vực NNNT chủ yếu dựa vào SXNN và một bộ phận phi nông nghiệp. Bộ phận nông dân sản xuất nhỏ chiếm đa số trong dân cư ở nông thôn nhưng sản lượng lại chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm của khu vực nông thôn. Phần lớn sản lượng này phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình, ít được mang ra trao đổi trên thị trường. Một bộ phận khác trong kinh tế nông thôn sản xuất có tính hàng hoá, sản phẩm làm ra chủ yếu phục vụ cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Các doanh nghiệp thương mại cung cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra của SXNN cũng là một bộ phận quan trọng của kinh tế khu vực NNNT. Nó góp phần phát triển các ngành nghề truyền thống ở nông thôn và tạo ra các ngành nghề mới. Những đặc điểm kinh tế, xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất và hình thức của hoạt động TDNH thể hiện như sau: - Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào chu kỳ sinh học và điều kiện tự nhiên. SXNN là một trong những ngành sản xuất vật chất quan trọng và cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Khác với các ngành sản xuất khác, nông nghiệp là ngành sản xuất sinh học, phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên, hay nói cách khác, hoạt động SXNN là sự kết hợp của hai quá trình tái sản xuất tự nhiên của sinh vật (cây trồng, vật nuôi) và tái sản xuất kinh tế với sự tham gia trực tiếp của con người. Tuy nhiên, do trình độ dân trí còn thấp, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật chưa đủ mạnh để chế ngự thiên tai nên kết quả của SXNN thường không chắc chắn như công nghiệp và dịch vụ. Đây là lý do giải thích tại sao lãi suất cho vay ở khu vực NNNT thường cao hơn so với khu vực thành thị, lãi suất cho vay ngành nông nghiệp thường cao hơn so với các ngành nghề khác, đồng thời cũng là lĩnh vực mà hoạt động TDNH cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. - Đầu ra của sản phẩm nông nghiệp khá khó khăn. Việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thường khó khăn, giá cả lại thiếu ổn định. Điều này gây khó khăn cho người sản xuất. Để phát triển kinh tế NNNT, cần phải có nhiều hình thức tín dụng nhằm giúp đỡ nông dân nâng cao năng suất, hạn chế rủi ro. Vì vậy, bên cạnh TDNH, cần có tín dụng ưu đãi của Nhà nước. - Nguy cơ rủi ro trong SXNN khá cao nhưng tỷ suất sinh lợi lại khá thấp. Do đối tượng của SXNN là cây trồng, vật nuôi, là cơ thể sống, hoạt động SXNN chịu sự chi phối rất lớn của các qui luật sinh học và quy luật tự nhiên nên rủi ro trong hoạt động SXNN rất lớn. Hơn nữa, năng suất lao động nông nghiệp ở nước ta còn thấp, lợi nhuận trong ngành nông nghiệp chưa cao. Do vậy, lãi suất cao sẽ dẫn đến người sản xuất không dám vay vốn ngân hàng, còn nếu lãi suất thấp, ngân hàng sẽ gặp khó khăn. Vì vậy, lãi suất trong cho vay NNNT cần phải xác định linh hoạt. - Tính mùa vụ trong SXNN cao. Hoạt động SXNN có sự không trùng lắp hoàn toàn giữa thời gian sản xuất và thời gian lao động, thể hiện ở chỗ, sức lao động, tư liệu sản xuất được sử dụng không đồng đều trong thời gian sản xuất, đồng thời giữa chi phí sản xuất ở mỗi khâu và thu nhập ở mỗi khâu ấy cũng không có sự ăn khớp nhau. Vì vậy, tính thời vụ trong SXNN là điều không tránh khỏi. Do vậy, cần phải có phương thức nhằm khai thác được lượng vốn thừa và đáp ứng nhu cầu vốn vay hợp lý của người vay trong SXNN. - Sản xuất nông nghiệp tính đa dạng, phân tán và nhỏ lẻ. Địa bàn SXNN rộng, phân tán, sản phẩm đa dạng, tính chuyên môn hoá thấp và diễn ra theo hình thức xen canh, mùa vụ, dễ gặp nhiều tình huống bất ngờ xảy ra. Hơn nữa, phần lớn món vay nhỏ, số lượng khách hàng đi vay nhiều. Vì vậy, việc thẩm định, giải ngân và theo dõi nợ vay cũng như thu hồi nợ cần phải khác với các lĩnh vực cho vay công nghiệp, dịch vụ, hay nói cách khác, cần phải có hình thức và phương thức cho vay linh hoạt. 1.1.2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp nông thôn * Về khách hàng vay vốn: Khu vực NNNT rất rộng lớn với số lượng dân số khá đông, thường chiếm tỷ lệ khoảng trên dưới 80%. Với số lượng lao động lớn như vậy nhưng thu nhập của khu vực này lại thuộc mức thấp nhất trong xã hội nên nhu cầu tín dụng của khu vực này thường rất lớn và chủ yếu đáp ứng cho hai mục đích tiêu dùng và phát triển sản xuất. Tuy nhiên, số khách hàng ở khu vực NNNT phân bố khá phân tán, mật độ thưa thớt, hơn nữa, đa phần khách hàng lại có trình độ học vấn không cao và đang quen với nếp sinh hoạt khép kín, làm ăn nhỏ lẻ. Nhiều người trong số họ có tâm lý không muốn tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là tín dụng do e ngại rằng ngân hàng cũng không khác gì những người cho vay nặng lãi. Một số khác lại suy nghĩ TDNH như là một hình thức trợ cấp, cho không của Chính phủ. Chính vì vậy, ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận, triển khai các hình thức, sản phẩm tín dụng của mình. Do đó, muốn thành công ở thị trường này, các ngân hàng cần phải giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến mạng lưới chi nhánh, đội ngũ nhân viên, cũng như các vấn đề về thủ tục vay vốn, phương thức cho vay nhằm đáp ứng được nhu cầu vay vốn, giảm chi phí và tăng hiệu quả của hoạt động tín dụng. * Về đối tượng cho vay và quy mô vốn vay: Các khoản tín dụng thuộc khu vực NNNT khá phân tán và nhỏ lẻ. Đối tượng khách hàng chủ yếu của ngân hàng ở khu vực NNNT là nông dân. Đối tượng của tín dụng NNNT bao gồm các chi phí sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, chi phí tiêu thụ sản phẩm, chi phí mua sắm máy móc nông, ngư nghiệp, chi phí đầu tư, cải tạo đất, đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn,... Với kiểu sản xuất nhỏ lẻ như hiện nay thì nhu cầu vay vốn để đáp ứng các đối tượng này của mỗi món vay cũng không lớn, chủ yếu là để chăn nuôi và trồng trọt trên một diện tích nhỏ, đồng thời người dân chỉ có khả năng tích luỹ những khoản tiết kiệm nhỏ để gửi ngân hàng. Với đặc điểm số lượng khách hàng đông như đã đề cập ở trên nhưng các món vay và các món tiền gửi lại rất nhỏ nên chi phí nghiệp vụ của ngân hàng ở khu vực nông thôn thường cao hơn so với ở đô thị. Chi phí tín dụng cao nhưng tỷ suất lợi nhuận bình quân của khu vực này luôn thấp hơn khu vực công nghiệp và dịch vụ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của người vay lẫn hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải có biện pháp để giải quyết tốt bài toán hiệu quả của người SXNN và hiệu quả hoạt động kinh doanh của chính bản thân ngân hàng. * Về thời hạn cho vay: Đối tượng cho vay của NNNT là chi phí cấu thành nên cây trồng, vật nuôi, đó là các chi phí sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, chi phí tiêu thụ sản phẩm, chi phí mua sắm máy móc nông, ngư nghiệp, chi phí đầu tư, cải tạo đất, đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn,... Tuy nhiên, đối tượng nuôi trồng lại phụ thuộc vào chu kỳ sinh trưởng và phát triển của nó. Vì vậy, nhu cầu vay trả của khách hàng thường có tính thời vụ cao, tính chất thời vụ này thường gắn với chu kỳ sinh trưởng của đối tượng nuôi trồng. Điều đó đòi hỏi ngân hàng phải có biện pháp để giải quyết tốt các vấn đề về nguồn vốn, về thời hạn cho vay, hình thức và phương thức cho vay nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng trên địa bàn NNNT. * Về rủi ro cho vay: SXNN chịu sự chi phối của nhiều yếu tố bất khả kháng như mùa vụ, thiên tai, dịch bệnh. Mặc dù khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ đã giúp bà con nông dân rất nhiều nhằm dự báo và phòng tránh những biến cố bất lợi phát sinh nhưng rủi ro trong SXNN vẫn rất cao và thường diễn ra trên diện rộng. Cùng với tâm lý và trình độ còn nhiều hạn chế của bà con nông dân, TDNH trong khu vực NNNT được đánh giá là có mức rủi ro cao. Nguy cơ về rủi ro trong cho vay NNNT xuất phát từ những nguyên nhân sau: - Rủi ro về biến động giá trong quá trình tiêu thụ: do đặc điểm về thị trường tiêu thụ hàng nông sản hiện nay làm cho người nông dân luôn ở vị thế bất lợi. Thu nhập của họ có thể nói là phụ thuộc khá lớn vào thị trường (nhà chế biến). Điều này được thể hiện rõ nét trên thực tế, tình trạng được mùa, mất giá xảy ra khá phổ biến. - Rủi ro trong quá trình nuôi trồng: ngoài sự chi phối của giá cả đầu ra, thu nhập của nông dân còn chịu ảnh hưởng bởi năng suất nuôi trồng. Tuy nhiên, năng suất nuôi trồng ngoài sự tác động bởi kiến thức, kinh nghiệm, kỹ thuật còn chịu chi phối rất lớn bởi điều kiện tự nhiên như sự thay đổi khí hậu, thời tiết, thiên tai,... Vì vậy, người nông dân không hoàn toàn kiểm soát được kết quả của quá trình sản xuất. Với các đặc điểm này, đòi hỏi trong chính sách cho vay đối với NNNT, các ngân hàng cần phải có các biện pháp phòng ngừa, xử lý rủi ro linh hoạt nhằm đáp ứng được yêu cầu vừa mở rộng cho vay, vừa giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. * Về lãi suất cho vay: Năng suất lao động nông nghiệp ở nước ta còn thấp, lợi nhuận của ngành nông nghiệp thấp, tính rủi ro cao, nếu lãi suất cao sẽ dẫn đến người sản xuất không dám vay vốn ngân hàng, còn nếu lãi suất thấp, ngân hàng sẽ gặp khó khăn. Vì vậy, ngân hàng cần phải có chính sách lãi suất linh hoạt vừa thu hút khách hàng vay vốn, vừa đảm bảo hiệu quả cho chính bản thân ngân hàng. * Về phương thức cho vay: Địa bàn SXNN rộng, phân tán, sản phẩm đa dạng, tính chuyên môn hoá thấp và diễn ra theo hình thức xen canh, mùa vụ, dễ gặp nhiều tình huống xảy ra ngoài ý muốn. Hơn nữa, phần lớn món vay nhỏ, số lượng khách hàng đi vay nhiều. Vì vậy, ngân hàng cần phải có biện pháp thẩm định, giải ngân, theo dõi nợ vay và thu hồi nợ linh hoạt nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho khách hàng đồng thời giảm được chi phí cho vay và hạn chế được rủi ro xảy ra. * Về các quy định pháp lý: NNNT là khu vực được ưu tiên đầu tư của hầu hết các quốc gia. Do đó, hoạt động tín dụng đối với lĩnh vực này ngoài việc phải chịu sự chi phối của hệ thống các văn bản pháp quy trong lĩnh vực tín dụng còn phải hướng theo các chủ trương, chính sách phát triển NNNT của quốc gia trong mỗi thời kỳ. Hiện nay, các quy định pháp lý trong cho vay NNNT ở nước ta còn phức tạp và phiền hà tỏ ra không phù hợp với đặc thù về trình độ dân trí ở khu vực nông thôn. Điều này gây khó khăn cho CBTD trong việc tuyên truyền, giải thích cho bà con nông dân. Nếu thực hiện đúng quy định thì bà con không hiểu và không chấp nhận, nếu thực hiện khác đi thì vi phạm các nguyên tắc tín dụng và quy định của pháp luật. Tóm lại, khách hàng vay vốn ở khu vực NNNT đa phần là hộ nông dân với quy mô sản xuất nhỏ, đối tượng của tín dụng NNNT là các chi phí cho con, cây giống,… Đây là đối tượng đầu tư chứa đựng nhiều rủi ro (cả khách quan lẫn chủ quan) đồng thời chi phí nghiệp vụ cho vay cũng khá lớn. Vì vậy, muốn đáp ứng yêu cầu về vốn của người dân đồng thời đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh của chính bản thân ngân hàng, các ngân hàng cần phải nghiên cứu kỹ các đặc thù về NNNT ở mỗi vùng để xác định đối tượng cho vay, phương thức cho vay, lãi suất vay cũng như các điều kiện khác cho phù hợp. 1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp nông thôn 1.1.3.1. Tổng quan về tín dụng và tín dụng ngân hàng Tín dụng (Credit) xuất phát từ chữ la tinh là Credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau [11 tr.19]. Có một số quan niệm như sau: - Theo Mác: Tín dụng là sự chuyển nhượng lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu lại được lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Ông cho rằng: Tiền chẳng qua chỉ rời tay người sở hữu trong một thời gian và chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt động. Cho nên tiền không phải được bỏ ra để thanh toán cũng không tự đem bán đi, nó chỉ đem cho vay, tiền chỉ đem nhượng lại với điều kiện là nó sẽ quay về điểm xuất phát với một kỳ hạn nhất định. - Cũng có thể hiểu: “Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời hạn nhất định” [19, tr.190]. - Hay: Tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử dụng với một thời gian nhất định và khi đến hạn người sử dụng phải thanh toán cho người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn, phần lớn hơn đó gọi là lợi tức [12, tr.333]. Như vậy, về hình thức, tín dụng là một sự vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay. Về nội dung kinh tế, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị có thể biểu hiện bằng tiền hoặc bằng hiện vật từ chủ thể này sang chủ thể khác với điều kiện phải hoàn trả theo những thỏa thuận trước. Nội dung thỏa thuận đó là thời hạn trả, tiền lãi trả, cách thức trả. Hình thức tín dụng đầu tiên trong lịch sử loài người là tín dụng nặng lãi. Tín dụng nặng lãi được hình thành ở thời kỳ nô lệ, phát triển mạnh ở thời kỳ phong kiến và tồn tại cho đến ngày nay. Đặc trưng cơ bản nhất của tín dụng nặng lãi là lãi suất rất cao. Điều kiện tồn tại của tín dụng nặng lãi là nền sản xuất kém phát triển, tiến bộ kỹ thuật chưa có, hoạt động sản xuất chủ yếu là nông nghiệp, lệ thuộc tự nhiên, khả năng cung ứng vốn cho xã hội rất thấp, hơn nữa, nhu cầu vay mượn cao, chủ yếu để tiêu dùng. Khi sản xuất phát triển, để đáp ứng yêu cầu về vốn của nền kinh tế, nhiều hình thức tín dụng ra đời như tín dụng thương mại, TDNH,... Trong đó, TDNH là loại hình tín dụng phổ biến nhất. TDNH là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. TDNH có các đặc trưng sau: - Tài sản giao dịch trong quan hệ TDNH bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). - Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Tức là TDNH dựa trên mức độ tín nhiệm về khách hàng. - Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, tức là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. - Trong quan hệ TDNH, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động TDNH rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý có hiệu quả TDNH cần phải tiến hành phân loại tín dụng. Các tiêu thức thường được sử dụng để phân loại như: theo thời hạn (tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn), theo mục đích sử dụng vốn (tín dụng SXKD, tín dụng tiêu dùng), theo xuất xứ tín dụng (tín dụng gián tiếp, tín dụng trực tiếp). Các loại hình tín dụng trong NNNT Việt Nam: Hiện nay ở nông thôn nước ta còn tồn tại rất nhiều hình thức tín dụng khác nhau. + Tín dụng không chính thức: là các hình thức tín dụng ngầm không được pháp luật thừa nhận, thường là hình thức tín dụng nặng lãi. Hình thức tín dụng này ra đời từ rất lâu nhưng đến nay vẫn tồn tại và cũng khá phổ biến ở khu vực nông thôn, nhất là các các quốc gia kém phát triển như Việt Nam. Mặc dù hình thức này có những ưu điểm nhất định nhưng hạn chế lớn của nó là lãi suất quá cao nên đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất, hơn nữa, do không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ nên hình thức tín dụng này làm nảy sinh rất nhiều vấn đề bức xúc về mặt xã hội. + Tín dụng chính thức: là hình thức tín dụng được pháp luật thừa nhận bao gồm các chủ thể tham gia là các NHTM, các quỹ tín dụng nhân dân và các tổ chức tài chính trung gian khác. Hiện nay, thị trường tín dụng nông thôn nước ta đã có nhiều chủ thể tham gia, ngoài các NHTM và quỹ tín dụng nhân dân tham gia cung ứng tín dụng thương mại còn có Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội cung ứng tín dụng chính sách của Nhà nước nhằm phát triển NNNT. Tín dụng chính sách đối với NNNT nhằm thực hiện các chương trình kinh tế xã hội, xoá đói, giảm nghèo, giải quyết công ăn việc làm, phủ xanh đất trống đồi trọc. Sự ra đời của Ngân hàng Chính sách xã hội tạo điều kiện cho các đối tượng chính sách ở nông thôn tiếp cận tốt hơn loại hình tín dụng này đồng thời cũng tạo điều kiện cho đồng vốn đầu tư của Nhà nước phát huy hiệu quả hơn. Đây chính là cơ hội thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả tín dụng của các NHTM hoạt động trên địa bàn NNNT, đặc biệt là đối với NHNo&PTNT Việt Nam, là ngân hàng cung ứng vốn lớn nhất và đang chiếm lĩnh thị trường NNNT. Với mạng lưới rộng khắp, NHNo&PTNT Việt Nam là cầu nối giữa sản xuất và lưu thông hàng hoá, tạo ra động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, tích tụ tập trung vốn, làm tiền đề cho CNH, HĐH NNNT một cách nhanh chóng và có hiệu quả. 1.1.3.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nông nghiệp nông thôn Trong nền kinh tế, thường xuyên có một số người thừa vốn cần đầu tư và một số người thiếu vốn muốn đi vay. Song những người này khó có thể trực tiếp gặp nhau để cho nhau vay, hoặc có thể gặp nhau thì chi phí rất cao và không kịp thời, nên TDNH đóng vai trò là cầu nối trung gian giữa người có vốn và người cần vốn và giải quyết thỏa đáng nhu cầu thừa thiếu này, nghĩa là TDNH thu hút tập trung mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, tăng tốc độ chu chuyển vốn cho xã hội, góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững. Thông qua TDNH, Nhà nước có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ. Mặt khác, TDNH còn thúc đẩy các tổ chức, cá nhân tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh, giúp cho họ khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế trong hoạt động kinh doanh, đồng thời, TDNH tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, là cầu nối cho việc giao lưu kinh tế và là phương tiện để thắt chặt mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới. Đối với lĩnh vực NNNT, vai trò của TDNH càng quan trọng, góp phần rất lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội NNNT, thể hiện: - Thứ nhất: TDNH là động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Trong nông nghiệp, nhất là ở vùng trung du, đồi núi, các hộ nông dân sản xuất theo phương thức tự cấp, tự túc. Muốn tiến lên sản xuất hàng hoá, cần phải có một sự chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất với trình độ công nghệ tiên tiến, có hiệu quả. Để làm được điều này, đòi hỏi phải có vốn và đặc biệt là sự tài trợ của hệ thống ngân hàng. Nói cách khác, nhờ vào TDNH mà SXNN và cơ sở hạ tầng nông thôn mới phát triển một cách thuận lợi. Bởi vì nguồn vốn này được cung ứng đầy đủ, kịp thời và nhanh chóng nhất. Mặt khác, sử dụng vốn vay ngân hàng có tác dụng thúc đẩy nông dân nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bởi tính chất của nguồn vốn này là hoàn trả đầy đủ và đúng hạn. - Thứ hai: TDNH góp phần thúc đẩy việc thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế NNNT. Thông qua định hướng đầu tư tín dụng, với các chính sách nhất định, TDNH có tác dụng rất to lớn đến việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với chính sách và định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. Thực trạng kinh tế NNNT nước ta trong giai đoạn đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là một minh chứng rất rõ nét. Với một chính sách tín dụng hợp lý kết hợp với các chính sách tài chính tiền tệ khác, trong một thời gian ngắn, kinh tế NNNT nước ta đã có những chuyển biến mạnh mẽ, từ chỗ phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm trở thành nước xuất khẩu lương thực, các sản phẩm nông nghiệp đóng góp rất lớn vào tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của nước ta. - Thứ ba: TDNH góp phần giảm nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn. Hoạt động cho vay nặng lãi tồn tại từ lâu và hiện vẫn đang tồn tại khá phổ biến ở khu vực nông thôn, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa. Theo khảo sát của ADB năm 1997 thì có khoảng 75% khối lượng tín dụng ở khu vực nông thôn do các định chế tài chính không chính thức, trong đó cho vay nặng lãi chiếm tỷ trọng đáng kể. Tín dụng nặng lãi gây ra nhiều tác hại cho người dân và làm cho SXNN kém phát triển. Việc phát triển hoạt động TDNH ở nông thôn sẽ góp phần rất lớn vào việc xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi ở khu vực này. - Thứ tư: TDNH góp phần xoá đói giảm nghèo ở khu vực NNNT. Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế chưa phát triển, thu nhập của người dân còn rất thấp, nhất là nông dân nên tỷ lệ nghèo đói còn khá cao. Theo đánh giá của chương trình phát triển liên hiệp quốc (UNDP) thì “mặc dầu quá trình đổi mới đã giảm bớt nghèo khổ kể từ năm 1986 nhưng tình trạng này vẫn còn phổ biến ở Việt Nam và cho đến nay vẫn là thử thách cấp bách nhất trong quá trình tiến kịp các nước khác” [34, tr.36]. Cũng theo UNDP, hơn 90% dân nghèo ở nông thôn, nhất là ở khu vực miền Trung, Tây nguyên. Vì vậy, xoá đói, giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta, trong đó, TDNH đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng sẽ chuyển tải vốn đến những hộ nghèo thiếu vốn sản xuất mua sắm tư liệu lao động, giúp họ duy trì và mở rộng sản xuất để thoát nghèo. Thực tế đã cho thấy, nhờ vay vốn ngân hàng mà nhiều hộ gia đình thoát nghèo và trở nên khá giả và giàu có. - Thứ năm: TDNH góp phần vào việc thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước. Thông qua kênh tín dụng NNNT, Nhà nước thực hiện được các chính sách tiền tệ nhằm phát triển kinh tế đất nước như: khi nền kinh tế có lạm phát, ngân hàng tích cực huy động vốn trong dân đồng thời giảm cho vay, ngược lại, khi nền kinh tế giảm phát, cần kích cầu thì ngân hàng giảm huy động và tăng cường cho vay để kích thích đầu tư và tiêu dùng của người dân. - Thứ sáu: TDNH góp phần tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở nông thôn. Thông qua việc đầu tư tín dụng cho NNNT theo các hình thức như cho vay qua tổ tương hỗ, tổ tín chấp của các Hội đoàn thể, các chính sách chủ trương của Đảng và Nhà nước được tuyên truyền đến mọi người dân, cả ở những vùng sâu, vùng xa. Tóm lại, TDNH có vai trò quan trọng đối với NNNT nhất là đối với Việt Nam, nó giúp cho SXNN tạo ra nhiều hàng hoá để cung cấp cho sản xuất công nghiệp, cho xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu lương thực thực phẩm cho toàn xã hội và tạo điều kiện cho kinh tế NNNT phát triển, cơ sở hạ tầng NNNT ngày càng hiện đại. Từ đó, tạo điều kiện tiền đề cho sự nghiệp CNH, HĐH nước ta được hoàn thành một cách cơ bản vào năm 2020. Song điều nầy phụ thuộc nhiều vào hiệu quả TDNH, cả người huy động vốn lẫn người sử dụng vốn vay. 1.2. Hiệu quả tín dụng ngân hàng 1.2.1. Quan niệm về hiệu quả tín dụng ngân hàng Bất cứ hoạt động nào cũng đòi hỏi tiêu tốn những chi phí và mang lại những kết quả nhất định. Theo từ điển Tiếng Việt thì: Hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại. Vì vậy, có thể khẳng định rằng: Mối quan hệ giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra chính là căn cứ cơ bản để đo lường hiệu quả và được xác định theo công thức sau: Kết quả đạt được H = x 100 Chi phí bỏ ra Hoạt động chỉ mang lại hiệu quả khi và chỉ khi chỉ tiêu này lớn hơn 1, chỉ tiêu này càng lớn hơn 1 bao nhiêu, hoạt động càng có hiệu quả cao bấy nhiêu. Ngược lại, khi chỉ tiêu này nhỏ hơn hay bằng 1, hoạt động xem như không đem lại hiệu quả. Đây là quan niệm chung nhất về hiệu quả. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào chủ thể và mục tiêu đặt ra mà kết quả đạt được có thể là lợi ích kinh tế hoặc lợi ích xã hội hoặc là cả lợi ích kinh tế lẫn lợi ích xã hội. Vì vậy, chúng ta thường có hai phạm trù về hiệu quả đó là; phạm trù hiệu quả kinh tế và phạm trù hiệu quả xã hội. Đối với các NHTM, hoạt động tín dụng hiện vẫn là hoạt động mang lại phần lớn thu nhập cho các ngân hàng, vì vậy, hiệu quả tín dụng là vấn đề hết sức quan trọng và luôn là mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng. Nhưng để nhìn nhận một cách chi tiết, sâu sắc về hiệu quả tín dụng thì không phải là vấn đề đơn giản. Trong thực tế, đôi lúc chúng ta chưa hiểu đúng ý nghĩa cụm từ "hiệu quả tín dụng". Từ đó dẫn đến cách nhìn nhận sai lệch trong đánh giá và quản lý tín dụng. Do vậy, cần phải có cái nhìn đúng đắn về hiệu quả TDNH. Nếu nhìn từ phương diện chủ thể tham gia, một quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng thì đơn giản chỉ là quan hệ giữa người cho vay và người đi vay. Người đi vay có nghĩa vụ hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn. Người cho vay có trách nhiệm giải ngân đúng quy trình. Như vậy, giữa hai chủ thể đã hoàn thành trách nhiệm với nhau. Nhưng xét một cách tổng thể, quan hệ tín dụng không chỉ có vậy mà nó còn đặt trong mối quan hệ với các mặt khác nhau của xã hội. Chính vì vậy, khi đề cập đến phạm trù hiệu quả TDNH, chúng ta phải xuất phát từ bản chất của nó, đó là: vốn cho vay của ngân hàng được khách hàng sử dụng vào quá trình SXKD, dịch vụ một cách hiệu quả nhằm tạo ra một lượng tiền lớn hơn để hoàn trả cho ngân hàng. Qua quá trình chu chuyển tiền tệ này, ngân hàng sẽ thu lại được vốn đã cho vay và tiền lãi, khách hàng thì sử dụng vốn đi vay của ngân hàng để đáp ứng yêu cầu về vốn cho hoạt động kinh doanh của mình một cách có hiệu quả. Như vậy, có thể hiểu, hiệu quả TDNH vừa thể hiện lợi ích mang lại đối với ngân hàng (hiệu quả kinh tế) vừa thể hiện lợi ích mang lại đối với xã hội (hiệu quả xã hội) trong mối quan hệ với đồng vốn ngân hàng đã đầu tư. Như vậy, khi đánh giá hiệu quả TDNH cần phải đánh giá trên hai góc độ, đó là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội như việc làm, thu nhập của người lao động, ổn định chính trị,... Thứ nhất, vốn đầu tư của ngân hàng đã làm gì để góp phần thực hiện các chỉ tiêu kinh tế, xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Thứ hai, vốn đầu tư của ngân hàng đã mang lại cho ngân hàng những lợi ích kinh tế nào. Giữa hai phạm trù hiệu quả này có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau và không thể tách rời nhau, quá chú trọng hiệu quả xã hội, coi nhẹ hiệu quả kinh tế sẽ dẫn đến tình trạng đầu tư tín dụng mang tính chất phục vụ, không mang tính chất kinh doanh, từ đó, dẫn đến đầu tư tín dụng sẽ tràn lan, nguyên tắc hoàn trả tín dụng sẽ bị vi phạm. Vì vậy, hiệu quả của đồng vốn tín dụng thấp, thậm chí gây ra những hậu quả xấu. Ngược lại, nếu quá nhấn mạnh hiệu quả kinh tế, coi nhẹ hiệu quả xã hội, tức là các ngân hàng chỉ đầu tư vào những nơi mang lợi nhuận cao thì đó cũng là nhận thức phiến diện bởi lợi ích của các NHTM không thể tách rời lợi ích chung của nền kinh tế, nếu nền kinh tế trì trệ, kém phát triển sẽ làm giảm khả năng huy động vốn và nhu cầu đầu tư. Hơn nữa, nếu các ngân hàng chỉ chạy theo lợi ích kinh tế thuần tuý thì sẽ dẫn đến mạo hiểm do rủi ro cao nên hiệu quả tín dụng đối với NHTM sẽ bấp bênh, không ổn định. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng Với quan niệm về hiệu quả tín dụng như đã đề cập trên đây, việc đánh giá hiệu quả tín dụng cần phải dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu nhằm phản ánh khái quát được thực trạng của khoản tín dụng. Các chỉ tiêu này biểu hiện qua hai nhóm định tính và định lượng như sau: * Nhóm chỉ tiêu định tính: Nhóm chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả TDNH được thể hiện qua khả năng thu hồi vốn đã cho vay trong thời hạn quy định của hợp đồng tín dụng đối với NHTM, khả năng SXKD của khách hàng vay vốn và tác động của việc sử dụng vốn đến sự phát triển kinh tế xã hội trong vùng. Do vậy, về mặt định tính, hiệu quả TDNH thể hiện qua việc cho vay phải tuân thủ đúng các quy định, chế độ, thể lệ tín dụng, các nguyên tắc căn bản của tín dụng, đó là: - Khách hàng phải cam kết hoàn trả lãi và gốc theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. - Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn tín dụng theo mục đích đã thoả thuận với ngân hàng. - Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án hoặc dự án kinh doanh có hiệu quả. Những nguyên tắc này đã trải qua các thời kỳ khác nhau và được đúc kết thành chuẩn mực. Các nguyên tắc này hình thành như một quy luật phát triển nội tại của tín dụng, không thể vi phạm và tách rời trong quan hệ tín dụng và tạo nên sự vững chắc trong quan hệ tín dụng. Vì vậy, một trong các nguyên tắc bị coi nhẹ hoặc nhấn mạnh sẽ phá vỡ sự vững chắc đó, làm mất đi vai trò của tín dụng và trở thành vật cản kìm hãm hoặc đẩy lùi sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, hiệu quả tín dụng phải bắt nguồn từ việc tuân thủ các nguyên tắc tín dụng, thái độ chấp hành sẽ chi phối đến hoạt động khác. Việc thẩm định, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay nhằm phát hiện vấn đề nảy sinh trong quan hệ tín dụng và các điều kiện kèm theo cũng xuất phát từ việc tôn trọng các nguyên tắc đó. Cũng thông qua cách thức, thái độ tổ chức đảm bảo cho việc thực hiện các nguyên tắc này của ngân hàng và khách hàng, ta có thể có những đánh giá bước đầu về hiệu quả tín dụng. Hiệu quả tín dụng thể hiện kết quả thực hiện trọn vẹn ba nguyên tắc tín dụng, được phản ánh bởi hiệu quả kinh doanh của từng tổ chức kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội qua từng thời kỳ. * Nhóm chỉ tiêu định lượng: Sử dụng hệ thống chỉ tiêu này để xác định được kết quả cụ thể là hoạt động đó có mang lại hiệu quả hay không. Các chỉ tiêu định lượng thường được sử dụng như sau: * Đối với ngân hàng: Kết quả mang lại cho các NHTM từ hoạt động tín dụng có thể định lượng được là số tiền ngân hàng huy động được trong kỳ, số tiền cho vay (doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ), nợ quá hạn, nợ khó đòi hay số lãi cho vay thu được, lợi nhuận mang lại từ hoạt động tín dụng,… Chi phí bỏ ra của các NHTM để thực hiện hoạt động tín dụng có thể định lượng được là chi phí trả lãi vay, tiền lương cho nhân viên, số tiền cho vay (dư nợ),… Vì vậy, để đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đứng trên góc độ ngân hàng, có thể dùng hệ thống các chỉ tiêu sau: Một là, các chỉ tiêu phản ánh năng suất lao động trong hoạt động tín dụng: Các chỉ tiêu này phản ảnh mức vốn huy động hay cho vay bình quân trên một lao động của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn, sẽ góp phần giảm chi phí, tăng thu nhập và nâng cao hiệu quả hoạt động TDNH. - Năng suất huy động vốn: Vốn huy động Vốn huy động bình quân lao động = Số lao động - Năng suất cho vay: Tổng dư nợ Dư nợ bình quân lao động = Số lao động Hai là, các chỉ tiêu phản ánh hiệu suất sử dụng vốn trong hoạt động tín dụng. - Hiệu quả sử dụng vốn: chỉ tiêu cho biết hiệu quả sử dụng của đồng vốn huy động được, dùng để đánh giá khả năng cho vay của ngân hàng so với nguồn vốn huy động. Chỉ tiêu này càng tiến về 1, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng càng cao. Hệ số sử dụng vốn = Dư nợ Vốn huy động - Lãi suất huy động bình quân: chỉ tiêu này phản ánh chi phí mà NHTM bỏ ra để huy động được 100 đồng vốn. Lãi suất huy động vốn bình quân càng thấp sẽ giúp cho ngân hàng giảm thiểu chi phí trả lãi vay. Lãi suất huy động bình quân = Chi phí trả lãi x 100 Vốn huy động - Lãi suất cho vay bình quân: chỉ tiêu này phản ánh thu lãi mà NHTM đạt được từ 100 đồng vốn cho vay. Lãi suất cho vay bình quân càng cao sẽ giúp cho ngân hàng gia tăng thu nhập từ lãi vay. Lãi suất cho vay bình quân = Thu lãi cho vay x 100 Tổng dư nợ - Chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân (H1): chỉ tiêu này phản ánh chênh lệch giữa thu lãi và chi lãi mà NHTM đạt được từ 100 đồng vốn cho vay như thế nào. Chỉ tiêu này càng lớn cho thấy khả năng ngân hàng có cơ hội để bù đắp các chi phí khác để đạt lợi nhuận cao. H1 = Lãi suất cho vay bình quân - Lãi suất huy động bình quân Ba là, các chỉ tiêu phản ánh mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng: - Tỷ lệ nợ xấu: là tỷ lệ giữa dư nợ xấu so với tổng dư nợ của NHTM ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, quý, năm. Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu x 100 Tổng dư nợ Chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro hiện tại của ngân hàng như thế nào. Xét về mặt bản chất, tín dụng là sự hoàn trả, do đó tính an toàn (khả năng hoàn trả của người vay) là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành hiệu quả tín dụng. Khi một khoản vay không được hoàn trả đúng hạn như cam kết thì nó đã vi phạm nguyên tắc tín dụng với ngân hàng và khoản nợ sẽ được chuyển sang nợ quá hạn với mức lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả hoạt động TDNH càng cao và ngược lại. Trên thực tế, hoạt động tín dụng của ngân hàng không thể tránh khỏi rủi ro nên các NHTM thường chấp nhận một tỷ lệ nợ xấu nhất định (dưới 5%) được coi là giới hạn an toàn. - Tỷ lệ nợ khó đòi: Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu chưa phải là căn cứ tin cậy để đánh giá mức độ rủi ro mà NHTM phải đối mặt. Chẳng hạn có những hợp đồng vay vốn do những nguyên nhân nào đó không thực hiện việc trả nợ kịp thời (đúng theo hợp đồng), nhưng ngân hàng vẫn có thể thu hồi đầy đủ số nợ này. Do vậy, để đánh giá chính xác hơn về mức độ rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt, người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi. Tỷ lệ nợ khó đòi là tỷ lệ phần trăm giữa dư nợ khó đòi với tổng dư nợ của NHTM ở một thời điểm nhất định. Tỷ lệ nợ khó đòi = Nợ khó đòi x 100 Tổng dư nợ Bốn là, các chỉ tiêu phản ánh mức độ sinh lợi trong hoạt độngtín dụng: - Hệ số thu nhập trên chi phí của hoạt động tín dụng (H2): chỉ tiêu này so sánh thu nhập đạt được của hoạt động tín dụng với chi phí bỏ ra. H2 = Thu nhập của hoạt động tín dụng x 100 Chi phí cho hoạt động tín dụng Chỉ tiêu này lớn hơn 1, phản ánh hoạt động tín dụng có hiệu quả và ngược lại, hoạt động tín dụng của ngân hàng không có hiệu quả. Đây là chỉ tiêu được xem là quan trọng nhất phản ảnh mức độ hiệu quả của hoạt động TDNH cao hay thấp và là chỉ tiêu phản ảnh hiệu quả tổng hợp của các chỉ tiêu trên, đồng thời cũng là chỉ tiêu cơ sở để đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả kế tiếp. - Doanh lợi hoạt động tín dụng: chỉ tiêu doanh lợi hoạt động tín dụng cho biết khi ngân hàng đầu tư 100 đồng vốn tín dụng thì thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận tín dụng. Doanh lợi hoạt động tín dụng = Lợi nhuận x 100 Dư nợ tín dụng - Mức sinh lời một lao động: Chỉ tiêu này cho biết khả năng tạo ra lợi nhuận bình quân trên một lao động tại ngân hàng. Mức sinh lời một lao động = Lợi nhuận tín dụng Số lao động Các chỉ tiêu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhóm chỉ tiêu thứ tư là chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh kết quả mọi nỗ lực của ngân hàng trong thời kỳ nhất định. Nhóm chỉ tiêu này chịu ảnh hưởng rất lớn của ba nhóm chỉ tiêu trên, do vậy, có thể xem ba nhóm chỉ tiêu trên là nguyên nhân và nhóm chỉ tiêu thứ tư là kết quả. Cụ thể như: Năng suất lao động tăng, hiệu quả sử dụng vốn tăng, mức độ rủi ro thấp tất yếu sẽ làm tăng khả năng sinh lợi của hoạt động tín dụng và ngược lại, năng suất lao động thấp, hiệu quả sử dụng vốn kém, mức độ rủi ro cao tất yếu sẽ làm giảm khả năng sinh lợi của hoạt động tín dụng. Vì vậy, trong quá trình đánh giá hiệu quả TDNH đứng trên góc độ ngân hàng, cần phải đánh giá, làm rõ ba nhóm chỉ tiêu đầu hơn là nhóm chỉ tiêu thứ tư. * Đối với khách hàng: Khách hàng là người trực tiếp quản lý sử dụng số vốn của ngân hàng. Hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng biểu hiện qua những lợi ích mà họ thu được từ những phương án kinh doanh, cụ thể được phản ánh rõ qua chỉ tiêu doanh thu tăng từ dự án, lợi nhuận tăng từ dự án... Đó là sự thể hiện rõ nét về mặt con số. Hơn nữa, hiệu quả tín dụng còn thể hiện về mặt giá trị mà người đi vay có được. Đối với cá nhân, họ có thể cải thiện đời sống, nâng cao mức thu nhập. Đối với doanh nghiệp, họ có thể đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường, củng cố uy tín, thương hiệu doanh nghiệp. Thông qua xem xét hai nhóm chỉ tiêu định tính và định lượng, hiệu quả tín dụng đ- ược thể hiện tương đối toàn diện, giúp các nhà phân tích nắm bắt được thực trạng các khoản cho vay để đề xuất phương án thực hiện. Đối với nhóm chỉ tiêu định tính có thể thực hiện được hay không tuỳ thuộc vào ý thức chấp hành thể lệ tín dụng, tuân thủ quy trình kỹ thuật cho vay của ngân hàng để có thể đảm bảo được hiệu quả tín dụng. Đối với nhóm chỉ tiêu định lượng, mặc dù có thể đạt được mức chuẩn theo quy định nhưng chưa hẳn đủ đảm bảo hiệu quả tín dụng mà cần phải đảm bảo tính chính xác, trung thực trong thông tin của các chỉ số định lượng. Tất cả các chỉ tiêu phản ánh các mặt khác nhau của quan hệ tín dụng nên không quá coi trọng một chỉ tiêu nào. Để tăng hiệu quả tín dụng, rất cần có sự cố gắng tham gia từ cả hai phía trong quan hệ tín dụng là ngân hàng và khách hàng. 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng ngân hàng Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng đặt trong môi trường đầy những yếu tố biến động. Nó bị tác động bởi nhiều yếu tố theo chiều hướng khác nhau, có thể thuộc về bản thân ngân hàng hoặc xuất phát từ phía khách hàng. Do vậy, các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động TDNH được chia thành hai nhóm: bên trong và bên ngoài. 1.2.3.1. Nhóm nhân tố bên trong * Chính sách tín dụng của NHTM: Chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của một NHTM. Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố như hạn mức cho vay đối với một khách hàng, kỳ hạn của khoản tín dụng, lãi suất cho vay, mức lệ phí, các hình thức cho vay được thực hiện, tài sản làm đảm bảo nợ, khả năng thanh toán nợ của khách hàng, hướng giải quyết tín dụng khi phát sinh quá hạn, các khoản vay có vấn đề...Tất cả các yếu tố đó tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới việc mở rộng hay hạn chế tín dụng của ngân hàng. Một ngân hàng với chính sách tín dụng đúng đắn, hợp lý, linh hoạt, đáp ứng được tối đa nhu cầu của khách hàng về vốn thì ngân hàng đó sẽ thành công trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng tín dụng, đảm bảo khả năng sinh lợi dựa trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật… Vì vậy, hiệu quả của các khoản tín dụng sẽ được nâng cao. Ngược lại, nếu như các yếu tố của chính sách tín dụng đều cứng nhắc, không hợp lý, không đáp ứng được nhu cầu tín dụng đa dạng của khách hàng thì chính sách tín dụng của ngân hàng đó là bất hợp lý và điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến công tác mở rộng tín dụng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM. Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh gay gắt xảy ra giữa các ngân hàng trong việc thu hút khách hàng, thì một chính sách tín dụng đúng đắn, linh hoạt là hết sức quan trọng. Nếu ngân hàng đưa ra được một chính sách tín dụng cụ thể thiết thực, dễ thực hiện phù hợp với tất cả các đối tượng khách hàng của ngân hàng thì ngân hàng đó càng gặt hái được nhiều thành công, và ngược lại. * Công tác tổ chức quản lý, kiểm soát hoạt động của ngân hàng: Công tác tổ chức quản lý được tiến hành chặt chẽ, khoa học; các phòng ban chức năng có mối quan hệ chặt chẽ hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động trên cơ sở tôn trọng những nguyên tắc tín dụng tạo điều kiện đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, đồng thời giúp ngân hàng theo dõi, giám sát các khoản cho vay, từ đó làm cho hoạt động tín dụng diễn ra một cách lành mạnh, có hiệu quả, giảm thiểu rủi ro tín dụng. Ngược lại sẽ tạo khe hở cho CBTD câu kết với khách hàng gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng. Thực tế cho thấy, danh mục cho vay của các ngân hàng bị phá sản đều có vấn đề. Việc tỷ lệ nợ quá hạn tăng cao sẽ làm tăng chi phí, giảm thu nhập, chi phí tổn thất tín dụng cùng các chi phí hoạt động khác tăng đã đẩy ngân hàng vào tình trạng thua lỗ. Vấn đề nợ quá hạn bắt nguồn từ nhiều yếu tố khác nhau như hệ thống quản lý chất lượng tín dụng của các ngân hàng phá sản không hợp lý, thẩm định thiếu trung thực, khách quan, họ dường như quá bạo dạn trong cho vay, cho vay vượt qua khả năng sử dụng vốn của khách hàng hay quyết định cho vay không được xây dựng trên nền tảng hiệu quả kinh tế mà phụ thuộc chủ yếu vào tài sản thế chấp hoặc đã quá lạm dụng hình thức cho vay thế chấp… Vì vậy, công tác tổ chức kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ giúp cho ngân hàng nắm rõ được thông tin về những khoản vay, tránh tình trạng khách hàng sử dụng sai mục đích. Đây là biện pháp giúp cho lãnh đạo ngân hàng có được thông tin về tình trạng kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang được xúc tiến, phù hợp với chính sách và mục tiêu đã đề ra. Có thể nói: Hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc khá lớn vào việc phát hiện kịp thời nguyên nhân các sai sót phát sinh trong quá trình thực hiện cấp tín dụng. * Chất lượng nhân sự của ngân hàng: Con người ở đâu bao giờ cũng là yếu tố quyết định sự thành bại của công việc. Đối với ngành ngân hàng thì điều này càng có ý nghĩa hơn vì trong hoạt động của ngân hàng thì tiền là thứ nguyên liệu chính, nguyên liệu đặc biệt không thể thay thế được, đối tượng và tư liệu lao động là tiền. Sự thành công trong hoạt động tín dụng phụ thuộc vào năng lực, phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm của đội ngũ nhân viên ngân hàng, họ là người quản lý toàn bộ số vốn từ khi cho vay đến khi kết thúc hợp đồng, họ cần phải nắm được tình hình tư cách pháp nhân, tình hình tài chính của khách hàng, hiệu quả của dự án đầu tư,… Vì vậy, đội ngũ nhân viên phải có năng lực, ngoài ra, họ cần phải có đạo đức tốt, trong sáng, có tư cách, trách nhiệm, nhiệt tình làm việc... từ đó sẽ tránh được việc nhân viên ngân hàng câu kết, thông đồng với khách hàng để lừa đảo, gây thiệt hại cho chủ ngân hàng. Dưới con mắt khách hàng thì nhân viên ngân hàng, cơ sở vật chất trang thiết bị, công nghệ chính là hình ảnh của ngân hàng. Một ngân hàng với đội ngũ cán bộ công nhân viên với trình độ chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp sẽ tạo nên niềm tin to lớn trong khách hàng, làm cho khách hàng và ngân hàng ngày càng trở nên hiểu biết, gắn bó, đồng hành cùng nhau hạn chế và giảm thiểu rủi ro trong quan hệ tín dụng. * Thông tin tín dụng: Trong nền kinh tế thị trường ai nắm bắt được nhiều thông tin chính xác, kịp thời hơn sẽ chiến thắng. Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín dụng, nhờ có thông tin tín dụng, người quản lý mới có thể có quyết định hợp lý. Hoạt động TDNH việc cho vay vốn chủ yếu dựa vào niềm tin, lòng tin có chính xác hay không phụ thuộc vào chất lượng thông tin có được. Để chất lượng tín dụng ngày càng cao, hiệu quả lớn, ngân hàng phải nắm bắt được chính xác thông tin về khách hàng vay vốn như: tư cách, uy tín, năng lực quản lý, năng lực kinh doanh, quan hệ xã hội, khả năng tài chính, kết quả kinh doanh trong quá khứ, công nợ, nhu cầu vốn hợp lý, hiệu quả SXKD, khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp hay các thông tin như: tình hình kinh tế xã hội, thông tin về xu hướng phát triển và khả năng cạnh tranh của ngành nghề. Nguồn thông tin mà ngân hàng có được có thể thu thập từ khách hàng, từ quần chúng, từ Hội đoàn thể, từ các cơ quan chuyên cung cấp thông tin trong và ngoài nước và các kênh thông tin khác. Yêu cầu thông tin thu thập được phải chính xác, kịp thời, đầy đủ. Do đó, ngân hàng cần phải có thông tin từ nhiều nguồn thông tin khác nhau. Thực tế ở Việt Nam chúng ta rất khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin một cách chính xác, kịp thời. Đã có nhiều khoản tín dụng bị rủi ro do thiếu thông tin như: một khách hàng sử dụng cùng một tài sản thế chấp, thậm chí một dự án, để vay vốn nhiều ngân hàng, khách hàng sử dụng giấy tờ giả, phương án SXKD giả để xin vay, khách hàng đảo nợ, thành lập công ty con để lấy danh nghĩa lừa vay vốn của ngân hàng và cuối cùng không trả được nợ, ngân hàng rơi vào cảnh khốn đốn do mất khả năng thanh khoản. Điều đó làm mất lòng tin ở những khách hàng làm ăn có hiệu quả khác và rất có thể ngân hàng sẽ bị mất khách hàng. 1.2.3.2. Nhóm nhân tố bên ngoài * Môi trường kinh tế - xã hội: Nền kinh tế bao gồm tổng thể nhiều hoạt động kinh tế có liên quan ràng buộc biện chứng lẫn nhau. Bất kỳ một sự biến động của hoạt động kinh tế nào cũng đều dẫn đến sự biến động trong hoạt động kinh tế của các lĩnh vực còn lại. Hoạt động của NHTM có thể được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Chính vì vậy sự ổn định hay bất ổn, sự tăng trưởng nhanh hay chậm của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ đến hoạt động của các ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng của ngân hàng. Môi trường kinh tế lành mạnh, các chủ thể kinh tế sẽ hoạt động có hiệu quả, do đó làm tăng nhu cầu tín dụng về quy mô đồng thời, hiệu quả tín dụng cũng được nâng cao. Ngược lại, nếu môi trường kinh tế có những biến động khó lường hay trong tình trạng khó khăn, các kế hoạch khó có thể xác định được một cách chính xác thì các chủ thể kinh tế sẽ có xu hướng co cụm trong hoạt động của mình hay rút khỏi nền kinh tế do lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính. Những điều này làm cho quy mô tín dụng giảm xuống đồng thời hiệu quả của các khoản tín dụng kém đi. Môi trường chính trị xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng trong ngân hàng. Các nhân tố xã hội như: niềm tin tưởng lẫn nhau, tình hình trật tự an ninh, trình độ dân trí, môi trường chính trị... ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ tín dụng đối với ngân hàng. Tình hình an ninh chính trị ổn định giúp các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD, do đó không gây khó khăn cho việc trả nợ đối với ngân hàng; nhu cầu tín dụng tăng lên, TDNH có cơ hội phát triển. Ngược lại nơi nào đó mà an ninh trật tự không đảm bảo, an toàn xã hội kém, có nhiều trộm cắp và các tệ nạn xã hội khác sẽ gây ra tâm lý không yên tâm cho các nhà đầu tư và họ sẽ không đầu tư vào nơi như vậy. Do đó, nhu cầu vay vốn sẽ hạn chế, ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng của ngân hàng. * Môi trường pháp lý: Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về hoạt động SXKD của mình như lựa chọn lĩnh vực, ngành nghề, phương thức tiến hành hoạt động SXKD nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng vậy, phải tuân theo những quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật. Nếu những quy định của luật pháp không đồng bộ không rõ ràng, không ổn định, có nhiều kẽ hở thì rất khó khăn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng trong việc giải quyết các tranh chấp xảy ra. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của TDNH. * Môi trường tự nhiên: Những nguyên nhân bất khả kháng như: thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh hoặc những thay đổi thuộc tầm vĩ mô vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay sẽ tác động đến người vay, làm họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay, tạo thuận lợi hay khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, dự đoán hoặc khắc phục và vượt qua những khó khăn, vẫn duy trì được khả năng trả nợ cho ngân hàng đầy đủ gốc, lãi và đúng hạn. Tuy nhiên, khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là rất nặng nề, khả năng trả nợ của họ sẽ bị suy giảm, các khoản tín dụng của ngân hàng rất nhiều nguy cơ không được trả do hoạt động kinh doanh của họ gặp nhiều khó khăn. Tóm lại: tín dụng là hoạt động mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng nhưng cũng là hoạt động được tiến hành trong môi trường đầy rủi ro, có nhiều yếu tố tác động tới hiệu quả tín dụng. Vì vậy, khi thực hiện quan hệ tín dụng với khách hàng, đòi hỏi ngân hàng phải nghiên cứu, thẩm định kỹ khách hàng để nắm bắt được mục đích sử dụng của vốn vay và cách thức sử dụng như thế nào? Đó chính là cơ sở để ngân hàng thu hồi được vốn vay và cũng chính là cơ sở đảm bảo nâng cao hiệu quả TDNH, cả về hiệu quả kinh tế đối với ngân hàng và hiệu quả xã hội của khoản tín dung được cấp ra. Có như vậy, hiệu quả TDNH mới bền vững, chắc chắn. 1.3. Hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn - Kinh nghiệm từ các tỉnh 1.3.1.Hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Đối với bất kỳ NHTM nào, hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào đều quan tâm đến lợi ích mình nhận được so với chi phí mà mình bỏ ra. Hoạt động TDNH đối với lĩnh vực NNNT không nằm ngoài mục đích đó. Vì thế, hiệu quả về mặt kinh tế của hoạt động tín dụng đối với bản thân ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực này cũng được đánh giá dựa trên cơ sở các chỉ tiêu nêu trong mục 1.2. Đối với hiệu quả về mặt xã hội, việc đánh giá hiệu quả hoạt động TDNH đối với lĩnh vực NNNT thường được đánh giá trên cơ sở các chỉ tiêu cụ thể như sau: - Tốc độ phát triển sản xuất hàng hoá và tăng trưởng kinh tế NNNT. - Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế NNNT - Sự phát triển các loại hình kinh tế NNNT - Sự phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất NNNT - Số việc làm được tạo ra cho khu vực NNNT - Tỷ lệ nghèo đói giảm xuống ở NNNT Tuy nhiên, với đặc điểm khách hàng vay vốn ở khu vực NNNT đa phần là hộ nông dân với quy mô sản xuất nhỏ, đối tượng của tín dụng NNNT là các chi phí cho con, cây giống,… nên quy mô của từng món vay nhỏ, phân tán, chi phí cho hoạt động cho vay thường khá lớn, hơn nữa, những đối tượng đầu tư này chứa đựng nguy cơ rủi ro cao (cả khách quan lẫn chủ quan). Do vậy, hiệu quả hoạt động TDNH ở khu vực NNNT của chính bản thân ngân hàng thường thấp và bấp bênh. Để nâng cao hiệu quả hoạt động TDNH đối với lĩnh vực NNNT, các ngân hàng cần phải nghiên cứu kỹ các đặc thù về NNNT ở mỗi vùng để xác định đối tượng cho vay, phương thức cho vay, lãi suất vay cũng như các điều kiện khác cho phù hợp nhằm tối thiểu hóa chi phí và nâng cao nguồn thu nhập cho ngân hàng. Sau đây là một số kinh nghiệm về nâng cao hiệu quả hoạt động TDNH của một số Ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực NNNT. 1.3.2. Kinh nghiệm từ các tỉnh 1.3.2.1. Kinh nghiệm từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nghệ An [11] Để đẩy mạnh hoạt động tín dụng đối với các hộ SXKD trên địa bàn Nghệ An, NHNo&PTNT Nghệ An đã thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể sau: - Lựa chọn cán bộ có phẩm chất, có năng lực chuyển sang làm CBTD để cho vay kinh tế hộ, đảm bảo mỗi xã có ít nhất một CBTD. - Mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh bằng cách củng cố lại các phòng giao dịch, thành lập thêm các bàn huy động tiết kiệm tại cụm dân cư thành lập các ngân hàng cấp 3 liên xã, khu vực đảm bảo bình quân 3-5 xã có một điểm giao dịch. Thực hiện huy động vốn, cho vay, thu nợ tại khu vực phân công. - Thực hiện một số mô hình chuyển tải vốn tín dụng cho các hộ SXKD vay vốn, những hộ có nhu cầu vay lớn thì ngân hàng trực tiếp cho vay, các hộ nhỏ vay lẻ, ít thì thông qua tổ, nhóm tương hỗ, tín chấp. Tìm tòi các hình thức cho vay với kỳ hạn và quy mô khoản vay phù hợp với đặc điểm SXKD của các hộ. - Tăng cường quản lý, kiểm tra giám sát, thực hiện nghiêm túc các văn bản qui định và sự chỉ đạo của ngân hàng cấp trên. - Có cơ chế phối hợp với các tổ chức đoàn thể như Hội phụ nữ, Hội liên hiệp thanh niên, Hội cựu chiến binh để hướng dẫn và trợ giúp về mặt kỹ thuật đối với các hộ nông dân, hộ SXKD. Thông qua các tổ chức đoàn thể này để giám sát việc sử dụng vốn và trợ giúp về tìm kiếm thị trường, tiêu thụ sản phẩm. 1.3.2.2. Kinh nghiệm từ các chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh [14] Để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, các NHNo&PTNT trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện các biện pháp sau: Một là, bám sát các Nghị quyết, chủ trương, đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, bám sát mục tiêu, biện pháp phát triển của ngành, từ đó xác định mục tiêu, kế hoạch, nhiệm vụ phù hợp với từng giai đoạn. Hai là, lãnh đạo các chi nhánh phải có sự chỉ đạo tập trung theo các chương trình, mục tiêu đã đề ra. Có những giải pháp thích hợp tạo nguồn lực và động lực cho hoạt động kinh doanh. Phát hiện và xử lý kịp thời các tình huống xảy ra. Ba là, thường xuyên coi trọng việc xây dựng đoàn kết nội bộ từ lãnh đạo đến cán bộ trên cơ sở thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở. Chăm lo xây dựng đội ngũ nhân lực có đạo đức và kiến thức nghề nghiệp vững vàng. Tăng cường sự lãnh đạo thống nhất giữa cấp uỷ Đảng, chuyên môn và đoàn thể. Phân công công việc phù hợp, gắn trách nhiệm cá nhân với quyền lợi vật chất và tinh thần. Bốn là, tổ chức tốt khâu tiếp thị và phục vụ khách hàng, đáp ứng được nhiều tiện ích, cung cấp được nhiều dịch vụ phù hợp với nhu cầu cuộc sống mới. Năm là, nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ và xử lý triệt để các tồn tại sau kiểm tra. Sáu là, thường xuyên phát động các phong trào thi đua nhằm động viên cán bộ nhân viên, người lao động hoàn thành các nhiệm vụ được giao. 1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam Với kinh nghiệm của NHNo&PTNT ở các tỉnh về hoạt động tín dụng đối với lĩnh vực NNNT, một số bài học kinh nghiệm rút ra cho chi nhánh NHNo&PTNT Quảng Nam như sau: - Thứ nhất: Cần phải xác định đúng phương hướng, mục tiêu và giải pháp phát triển của Ngân hàng. Ngân hàng cần phải bám sát các Nghị quyết, chủ trương, đường lối phát triển kinh tế xã hội ở địa phương và mục tiêu phát triển của ngành để xác định phương hướng, mục tiêu và giải pháp phát triển trong mỗi giai đoạn. - Thứ hai: Chú trọng công tác lãnh đạo và đội ngũ nhân lực. Tăng cường sự lãnh đạo thống nhất giữa cấp uỷ Đảng, chuyên môn và đoàn thể. Coi trọng việc xây dựng đoàn kết nội bộ. Chăm lo xây dựng đội ngũ nhân lực có đạo đức và kiến thức nghề nghiệp vững vàng. Phân công công việc phù hợp, gắn trách nhiệm cá nhân với quyền lợi vật chất và tinh thần. Thường xuyên phát động các phong trào thi đua nhằm động viên cán bộ nhân viên hoàn thành các nhiệm vụ được giao. - Thứ ba: Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát nội bô. Thực hiện nghiêm túc các văn bản qui định và sự chỉ đạo của ngân hàng cấp trên. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ, phát hiện và xử lý kịp thời các tồn tại sau khi kiểm tra. - Thứ tư: Chú trọng công tác phục vụ khách hàng. Tổ chức tốt khâu tiếp thị và phục vụ khách hàng. Mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh bằng cách củng cố lại và thành lập thêm các phòng giao dịch, đồng thời, đẩy mạnh việc thực hiện mô hình chuyển tải vốn tín dụng cho các hộ nông dân thông qua tổ, nhóm, thông qua các chương trình phối hợp. - Thứ năm: Tăng cường công tác kiểm soát việc sử dụng vốn vay của khách hàng. Phối hợp tốt với các tổ chức đoàn thể, các Hội, các trung tâm khuyến nông, lâm, ngư,… để hướng dẫn và trợ giúp cho nông dân về mặt kỹ thuật, giám sát việc sử dụng vốn, trợ giúp tìm kiếm thị trường đầu vào, đầu ra. - Thứ sáu: Chú trọng công tác tuyên truyền, quảng bá, xây dựng thương hiệu. Tổ chức tốt khâu tuyên truyền, quảng bá, xây dựng thương hiệu. Nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng, đáp ứng được nhiều tiện ích, cung cấp được nhiều dịch vụ phù hợp với nhu cầu thực tiễn cuộc sống. Chương 2 Thực trạng hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn của ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn Quảng Nam 2.1 Khái quát về địa bàn tỉnh và ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng Nam 2.1.1. Khái quát về đặc điểm kinh tế, xã hội tỉnh Quảng Nam ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn * Đặc điểm về điều kiện tự nhiên Quảng Nam ở vị trí trung độ của đất nước, là tỉnh ven biển Duyên hải Miền Trung, phía bắc giáp thành phố Đà Nẵng, là trung tâm kinh tế của miền Trung, phía nam giáp tỉnh Quảng Ngãi nằm liền với khu công nghiệp Dung Quất, phía đông giáp biển Đông với 125 km bờ biển, phía tây giáp với tỉnh Kon Tum và nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Diện tích tự nhiên của Quảng Nam là 10.406,83 km2, là tỉnh có cả miền núi, trung du, đồng bằng và biển. Quảng Nam nằm trên tuyến giao thông huyết mạch Bắc - Nam, có đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và cả đường hàng không, có quốc lộ 14B nối từ cảng Đà Nẵng qua các huyện phía bắc của tỉnh đến biên giới Việt Lào và các tỉnh Tây Nguyên, rất thuận lợi cho giao lưu kinh tế, thương mại với các địa phương khác trong cả nước cũng như với nước ngoài. Về tổ chức hành chính, tỉnh gồm 17 huyện, thị xã. GDP bình quân đầu người của tỉnh năm 2005 là 375 USD, thấp so với mức bình quân chung của cả nước. Đặc điểm địa hình Quảng Nam rất phong phú, đa dạng cho phép phát triển nông, lâm, ngư nghiệp toàn diện, phát triển các ngành nghề khác thúc đẩy sự phát triển của kinh tế khu vực NNNT. * Đặc điểm về dân số, lao động, xã hội - Quảng Nam là tỉnh có nguồn lao động dồi dào, dân số của tỉnh đến năm 2005 là 1.465.922 người, là tỉnh có mật độ dân số cao trong cả nước (141người/km2), nhất là vùng đồng bằng, ven biển nên diện tích đất canh tác bình quân trên mỗi hộ gia đình thấp. Toàn tỉnh hiện có 1.018.545 lao động, trong đó lao động ngành nông, lâm, ngư nghiệp là 536.211 người, chiếm 52,6% lao động toàn tỉnh. Lao động chưa có việc làm ở nông thôn hiện là 12.119 người, ngoài ra, còn có lực lượng lao động nông nhàn rất lớn. Trình độ lao động trong khu vực NNNT còn thấp, chủ yếu chưa qua đào tạo chiếm trên 94% [4]. - Quảng Nam là tỉnh có tập quán và kinh nghiệm sản xuất lúa nước, cây lương thực ngắn ngày, SXNN mang nặng tính thuần nông, tự cấp, tự túc với tư duy trì trệ, chậm thay đổi. Chăn nuôi chỉ là nghề phụ nên khả năng hiểu biết của người dân về hoạt động chăn nuôi còn rất ít, việc đưa giống mới hay ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào SXNN chậm thay đổi và rất e ngại rủi ro. Tuy nhiên, bản tính của người dân rất cần cù, chịu khó, ham học hỏi. * Đặc điểm về điều kiện kinh tế - Quảng Nam nằm liền kề Đà Nẵng nên rất thuận lợi về giao thông đường thuỷ, bộ, sắt và hàng không. Hơn nữa, với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, hệ thống giao thông nông thôn ở Quảng Nam trong những năm qua đã thay đổi đáng kể, 99% xã vùng đồng bằng, ven biển có đường ô tô. Mạng lưới điện vùng đồng bằng, ven biển đã được trải rộng đến 100% số xã [4]. Hệ thống thuỷ lợi, tưới tiêu ở vùng đồng bằng tương đối hoàn chỉnh nhưng ở các vùng đầm, hồ, ao nuôi chưa đảm bảo, hệ thống kênh cấp và tiêu nước chưa được quy hoạch, môi trường thường bị ô nhiễm, dịch bệnh phát sinh, năng suất SXNN thấp và bấp bênh. - Các ngành thương mại, công nghiệp phục vụ cho chăn nuôi và trồng trọt chậm phát triển, hệ thống sản xuất cung ứng thức ăn còn ít, chưa ổn định, cơ sở sản xuất giống chưa đảm bảo, chưa được kiểm soát bởi cơ quan chức năng, các cơ sở chế biến còn nhỏ lẻ, chủ yếu là tư nhân địa phương, dịch vụ kỹ thuật hỗ trợ nông nghiệp hầu như chưa phát triển. Hệ thống thông tin về thị trường nông sản còn nhiều hạn chế. Tóm lại, Quảng Nam là tỉnh có tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh CNH-HĐH và NNNT luôn được đánh giá có vai trò, vị trí quan trọng. Khai thác tốt các tiềm năng sẵn có về con người, tài nguyên, NNNT Quảng Nam sẽ đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của tỉnh. Tuy nhiên, do hoạt động SXNN phát triển tự phát, cơ sở hạ tầng ở nông thôn còn thấp kém, địa hình bị chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, mật độ dân số vùng đồng bằng, ven biển khá cao, trình độ và kinh nghiệm SXNN của người dân còn thấp. Vì vậy, hoạt động SXNN đa phần theo mô hình hộ gia đình, kỹ thuật sản xuất khá lạc hậu, hiệu quả SXNN thấp và bấp bênh. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của hoạt động TDNH. 2.1.2. Khái quát về chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam 2.1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam được chính thức thành lập theo quyết định số 515/NHNo-02 ngày 16/12/1996 của Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam trên cơ sở tách ra từ Sở giao dịch III - NHNo&PTNT Việt Nam tại Đà Nẵng, với mô hình tổ chức có 12 chi nhánh huyện, thị và 9 ngân hàng liên xã. Những ngày đầu đi vào hoạt động, chi nhánh đã gặp rất nhiều khó khăn do tình hình của một tỉnh mới được chia tách cũng như sự ảnh hưởng của cơ chế bao cấp, cơ sở vật chất của chi nhánh còn rất thiếu thốn, trong đó có 5 chi nhánh hoạt động thua lỗ. Hầu hết các chi nhánh trực thuộc có nợ quá hạn phát sinh lớn (toàn tỉnh 9% nợ quá hạn), đời sống của cán bộ nhân viên ngân hàng không ổn định, đối tượng khách hàng của ngân hàng chủ yếu là HSX nông nghiệp. Tuy nhiên với nỗ lực và quyết tâm vượt qua khó khăn, thử thách ngân hàng đã có định hướng và giải pháp đúng đắn, dần khắc phục những khó khăn hạn chế ban đầu, từng bước đưa hoạt động kinh doanh của mình đi vào ổn định và phát triển trên nhiều mặt. 2.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ a. Chức năng: Trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận. Tổ chức điều hành kinh doanh, kiểm tra, kiểm toán nội bộ và thực hiện các nhiệm vụ khác được Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam giao. b. Nhiệm vụ * Huy động vốn: - Khai thác và nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác trong nước và nước ngoài bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ. - Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài. - Tiếp nhận các nguồn tài trợ, vốn uỷ thác của Chính phủ, chính quyền địa phương và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước và nước ngoài. * Hoạt động tín dụng - Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn SXKD, dịch vụ, đời sống cho các tổ chức, cá nhân hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. - Cho vay trung, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển SXKD, dịch vụ, đời sống cho các tổ chức, cá nhân hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. * Các hoạt động kinh doanh khác: - Kinh doanh ngoại hối: Huy động vốn và cho vay, mua, bán, ngoại tệ, thanh toán quốc tế, bảo lãnh, chiết khấu, tái chiết khấu bộ chứng từ và các dịch vụ khác về ngoại hối. - Kinh doanh dịch vụ ngân hàng: Thu, phát tiền mặt; chi tiền qua máy rút tiền tự động, dịch vụ nhận bảo quản, cất giữ tài sản và các loại giấy tờ có giá khác, thanh toán, nhận uỷ thác cho vay của các tổ chức tài chính, tín dụng, tổ chức, các nhân trong và ngoài nước, đại lý cho thuê tài chính, kinh doanh nhà hàng, khách sạn và các dịch vụ ngân hàng khác. - Bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh đối ứng và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác cho các tổ chức, cá nhân trong nước theo quy định. * Các nhiệm vụ khác: Thực hiện công tác tổ chức, cán bộ, đào tạo, lao động, tiền lương, thi đua, khen thưởng theo uỷ quyền của NHNo&PTNT Việt Nam. Thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ về việc chấp hành thể lệ, chế độ nghiệp vụ trong phạm vi địa bàn. Tổ chức phổ biến, hướng dẫn và triển khai thực hiện các cơ chế, quy chế nghiệp vụ và văn bản pháp luật của Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và NHNo&PTNT Việt Nam liên quan đến hoạt động của chi nhánh. Nghiên cứu, phân tích kinh tế liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng và đề ra kế hoạch kinh doanh phù hợp với kế hoạch kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương. 2.1.2.3. Cơ cấu tổ chức và mạng lưới chi nhánh NHNo&PTNT Quảng Nam có mạng lưới các chi nhánh vươn đến tất cả các vùng từ thành thị đến nông thôn, khu công nghiệp Điện Nam-Điện Ngọc, khu kinh tế mở Chu Lai, cơ cấu bộ máy tổ chức và mạng lưới chi nhánh của NHNo&PTNT Quảng Nam đến 31/12/2005 như sau: - Ban giám đốc gồm 01 Giám đốc và 03 Phó Giám đốc giúp việc. Tại Hội sở của NHNo&PTNT tỉnh có 9 phòng và 1 tổ chuyên đề. - Trong những năm qua, thực hiện kế hoạch triển khai đề án cơ cấu lại ngân hàng của NHNo&PTNT Việt Nam, đến tháng 12/2005, toàn chi nhánh NHNo&PTNT Quảng Nam có 43 chi nhánh các cấp, trong đó 29 chi nhánh cấp 2, 07 chi nhánh cấp 3 và 07 phòng giao dịch tại 17 huyện thị, khu công nghiệp, khu kinh tế mở và các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Các chi nhánh đều có những bước phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng hoạt động, tạo nên ưu thế cạnh tranh so với các ngân hàng khác hoạt động trên địa bàn. 2.1.2.4. Lực lượng lao động và cơ sở vật chất * Về lực lượng lao động Trong hoạt động tại NHNo&PTNT Quảng Nam thì yếu tố con người được Ban lãnh đạo chi nhánh đặc biệt quan tâm, nhận thức được vai trò nhân tố con người quyết định đến sự thành công trong hoạt động kinh doanh của một tổ chức. Chất lượng nguồn lao động quyết định hiệu quả và việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng. Do vậy, kể từ khi thành lập (1997) chi nhánh đã có những bổ sung đáng kể về lực lượng lao động cũng như chú trọng công tác tuyển dụng, đào tạo để nâng cao chất lượng của đội ngũ (tình hình về đội ngũ lao động của chi nhánh thể hiện biểu số 2.1). Với nhiều sự quan tâm và giải pháp tích cực chú trọng đầu tư cho nguồn nhân lực, đến cuối năm 2005, chi nhánh đã có 255/345 cán bộ đạt trình độ đại học và trên đại học, chiếm tỷ lệ 74%, trong đó có 1 tiến sỹ, 2 thạc sỹ, 35 cán bộ đang theo học cao học, 16 cán bộ có trình độ cử nhân chính trị và 12 cán bộ đang theo học lớp cao cấp chính trị, 25 cán bộ đã tốt nghiệp đại học bằng hai, 29 cán bộ đang theo học đại học bằng hai. Biểu 2.1: Trình độ của đội ngũ cán bộ Đơn vị: người, % Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Số lượn g Tỷ lệ Số lượn g Tỷ lệ Số lượn g Tỷ lệ Số lượn g Tỷ lệ Số lượn g Tỷ lệ 1. Trên đại học 0 0.00 0 0.00 1 0.30 2 0.60 3 0.87 2. Đại học 159 57.19 178 60.96 224 68.29 236 71.30 252 73.04 3. Cao đẳng 94 33.81 91 31.16 82 25.00 74 22.36 71 20.58 4.Chưa qua đào tạo 25 8.99 23 7.88 21 6.40 19 5.74 19 5.51 Tổng cộng 278 100 292 100 328 100 331 100 345 100 Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ- NHNo&PTNT Quảng Nam. * Cơ sở vật chất Quá trình phát triển của hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng luôn gắn liền với quá trình phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ. Cơ sở vật chất và ứng dụng công nghệ tin học vào hoạt động tín dụng là nhân tố hết sức quan trọng tạo điều kiện để tăng năng suất, chất lượng, tăng hiệu quả hoạt động tín dụng, đồng thời, tạo uy tín đối với khách hàng, tạo được lợi thế cạnh tranh so với các ngân hàng khác nên có thể coi là nhân tố chính nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Từ năm 2001 đến nay, toàn tỉnh đã được trang bị thêm và thay thế nhiều thiết bị và máy tính các loại, sữa chữa nâng cấp và xây dựng nhiều trụ sở làm việc, trang thiết bị, phương tiện công tác cho các ngân hàng cơ sở nhằm phục vụ tốt cho hoạt động kinh doanh. Các chương trình nghiệp vụ cho vay, thu nợ, quản lý khách hàng, thông tin phòng nừa rủi ro, tính lãi đều thực hiện trên máy tính, năng suất lao động được tăng lên rõ rệt. Đến năm 2005, ngân hàng đã triển khai chương trình chuyển tiền nhanh Western Union, thanh toán trực tiếp đến các chi nhánh ngân hàng cơ sở, đã đáp ứng được nhu cầu thanh toán chuyển tiền của khách hàng trong tỉnh đến phạm vi toàn thé giới. Cài đặt và đưa vào hoạt động 3 máy ATM tại Hội sở, Hội An và Cửa Đại, Chi nhánh cũng đã triển khai và hoàn thiện chương trình chuyển tiền điện tử mới, triển khai nâng cấp chương trình giao dịch trực tiếp, quản lý phương thức cho vay hạn mức tín dụng. Tóm lại, có thể khẳng định rằng, cơ sở vật chất và đội ngũ nhân sự của chi nhánh đã có những thay đổi đáng kể so với lúc mới thành lập, tạo điều kiện rất lớn để chi nhánh nâng cao năng suất, giảm thiểu rủi ro, giảm chi phí, tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và kinh doanh tín dụng nói riêng, đảm bảo đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh và hội nhập trong thời gian tới. 2.2. Thực trạng hoạt động và hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng Nam 2.2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam 2.2.1.1 Chính sách tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn NHNo&PTNT Quảng Nam xác định: “Nông thôn là thị trường, nông nghiệp là đối tượng cho vay, nông dân là khách hàng chủ yếu”. Vì vậy, mục tiêu của chính sách tín dụng đối với lĩnh vực NNNT của NHNo&PTNT là tiếp tục giữ vững vị trí, thị phần trong vai trò cung cấp tín dụng cho đầu tư phát triển NNNT phù hợp với chính sách, mục tiêu của Đảng, Nhà nước; mở rộng hoạt động, áp dụng công nghệ tin học hiện đại, cung cấp các dịch vụ tiện ích và không ngừng phát triển thương hiệu, nâng cao uy tín trên thị trường, nhanh chóng thích ứng trong quá trình hội nhập kinh tế. Một số nội dung chủ yếu của chính sách tín dụng đối với lĩnh vực NNNT của chi nhánh như sau: - Các yếu tố pháp lý: Tuân thủ các yếu tố pháp lý trong hoạt động tín dụng. Riêng về chính sách đối với hoạt động TDNH trong lĩnh vực NNNT, NHNo&PTNT Việt Nam đã có một số văn bản chỉ đạo như: + Văn bản 3202/NHNo-05, ngày 18/12/2000 về việc hướng dẫn cho vay phát triển giống thủy sản. + Văn bản 704/NHNo-05, ngày 26/03/2001 về việc hướng dẫn cho vay cơ sở hạ tầng nông thôn. + Văn bản 733/NHNo-06, ngày 28/03/2001 về việc hướng dẫn cho vay kinh tế trang trại. + Văn bản 750/NHNo-06, ngày 29/03/2001 về việc hướng dẫn cho vay phát triển ngành nghề nông thôn. + Văn bản 749/NHNo-06, ngày 29/03/2001 về việc hướng dẫn cho vay hộ gia đình, cá nhân thông qua tổ vay vốn. + Văn bản 1111/NHNo-06, ngày 04/05/2001 về việc hướng dẫn cho vay theo hạn mức tín dụng đối với hộ gia đình, cá nhân. + Văn bản 1850/NHNo-TD, ngày 11/06/2002 về việc hướng dẫn cho vay qua tổ vay vốn. Các văn bản trên đều ra đời dựa trên nền tảng của quyết định 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn. Các văn bản này tạo nên cơ sở pháp lý quan trọng giúp chi nhánh đẩy mạnh hoạt động tín dụng đối với lĩnh vực NNNT. - Coi trọng công tác huy động vốn, xác định công tác huy động vốn là nền tảng để mở rộng cho vay, đặc biệt chú trọng đến nguồn vốn huy động từ dân cư, nhất là nguồn vốn trung hạn và dài hạn để tạo thế ổn định. Đồng thời tranh thủ khai thác nguồn vốn uỷ thác đầu tư, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. - Đẩy mạnh việc chuyển hướng đầu tư, ưu tiên bố trí vốn cho các dự án có hiệu quả kinh tế cao theo thứ tự có ưu tiên và chọn lọc khách hàng đó là: hộ SXKD, doanh nghiệp vừa và nhỏ, lấy địa bàn NNNT là địa bàn chính để phục vụ và phát triển kinh doanh. Chú trọng đầu tư theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực hiện đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng cũng như đa dạng các đối tượng khách hàng để nâng cao thu nhập, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng. - Vốn đầu tư của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất của khách hàng, tạo công ăn việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế NNNT, nâng cao thu nhập của người nông dân, góp phần vào sự nghiệp CNH, HĐH NNNT Quảng Nam. Đồng thời, đảm bảo thu hồi gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng có lợi nhuận và phát triển ổn định, bền vững. 2.2.1.2. Thực trạng về hoạt động huy động vốn Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng có thể hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: vốn điều lệ, vốn vay, vốn huy động, vốn tài trợ, lợi nhuận để lại. Song, nguồn vốn huy động có ý nghĩa quan trọng, có tính chất quyết định đến mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Với phương châm “đi vay để cho vay”, chi nhánh NHNo&PTNT Quảng Nam đã có nhiều hình thức huy động đa dạng, linh hoạt như huy động kỳ phiếu với các hình thức trả lãi linh hoạt, huy động tiền gửi tiết kiệm với các kỳ hạn đa dạng, kèm theo nhiều chương trình khuyến mãi, tặng quà, dự thưởng... Nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT Quảng Nam qua các năm không ngừng tăng lên. Năm 2005, nguồn vốn huy động đạt 1.543.514 triệu đồng, tăng về tuyệt đối so với năm 2004 là 234.386 triệu đồng, tương ứng tốc độ tăng trưởng 18,03%; đạt 102,1% kế hoạch NHNo&PTNT Việt Nam giao. (Diễn biến về tình hình huy động vốn của chi nhánh trong thời gian qua được thể hiện biểu 2.2). Biểu 2.2: Tình hình huy động vốn của NHNo&PTNT Quảng Nam Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 * Theo đối tượng khách hàng - Tiền gửi TCKT 795,539 731,368 779,749 725,432 667,631 + Kho bạc 691,125 634,236 676,243 547,691 448.957 - Tiền gửi dân cư 240,287 361,596 454,315 574,778 875,883 * Theo kỳ hạn - Không kỳ hạn 779,908 736,922 780,803 726,029 671,657 - Có kỳ hạn 235,918 356,402 453,261 574,181 871,857 + Dưới 1 năm 77,142 80,442 43,784 105,319 68,893 + Trên 1 năm 158,776 275,600 409,478 468,862 802,964 * Theo loại tiền tệ - VND 1,029,624 1,086,361 1,229,972 1,288,226 1,518,971 - Ngoại tệ quy đổi 6,202 6,603 4,092 11,984 24,543 Tổng cộng 1,035,826 1,092,964 1,234,064 1,300,210 1,543,514 Tốc độ tăng trưởng (%) - 5.52 12.91 5.36 18.03 Nguồn: Báo cáo tổng kết NHNo&PTNT Quảng Nam năm 2001-2005. Về tiền gửi dân cư: Nguồn vốn này của NHNo&PTNT Quảng Nam trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực. Năm 2005 tiền gửi dân cư tăng so với năm 2004 là 301.105 triệu đồng, tương ứng 52,38%, chiếm 56,74% tổng nguồn vốn huy động, trong đó, ngoại tệ quy đổi là 24.543 triệu đồng. Đây là năm mà ngân hàng đạt được tốc độ tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay, làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn hợp lý theo hướng ổn định và là yếu tố quan trọng góp phần hoàn thành kế hoạch nguồn vốn tại địa phương do NHNo&PTNT Việt Nam giao. Về tiền gửi của các tổ chức: Tiền gửi của các tổ chức có xu hướng giảm dần, năm 2005, đạt 667,631 triệu, giảm so với năm 2004 là 57.801 triệu. Trong tiền gửi của các tổ chức, tiền gửi của các tổ chức kinh tế có xu hướng tăng, năm 2005 đạt 218.674 triệu đồng, tăng so với năm 2004 là 40.933 triệu đồng, tương ứng với tốc độ tăng là 23,02%, chiếm 14,16% tổng nguồn. Tiền gửi Kho bạc Nhà nước năm 2005 đạt 448.957 triệu đồng, giảm so với năm 2004 là 98.734 triệu đồng, tương ứng 18,02% và chiếm tỷ trọng 29,08% tổng nguồn vốn. Đồ thị 2.1: Cơ cấu vốn huy động của ngân hàng theo loại kỳ hạn 77 9. 90 8 77,142 158.776 73 6. 92 2 80,442 275.600 78 0. 80 3 43,784 409.478 72 6. 02 9 105,319 468.862 67 1. 65 7 68,893 802.964 0% 20% 40% 60% 80% 100% 2001 2002 2003 2004 2005 - Kh«ng kú h¹n - Cã kú h¹n d- í i 1 n¨ m - Cã kú h¹n trªn 1 n¨ m Về cơ cấu vốn huy động theo thời hạn: Tiền gửi không kỳ hạn có xu hướng giảm dần, tiền gửi có kỳ hạn có xu hướng tăng mạnh, nhất là loại kỳ hạn trên 1 năm. Đến năm 2005, tiền gửi không kỳ hạn đạt 671.657 triệu đồng, chiếm 43,51% tổng nguồn vốn huy động, giảm 54.372 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ là 7,48% so với năm 2004. Tiền gửi có kỳ hạn dưới 1 năm là 68.893 triệu đồng, chiếm 4,46% trên tổng nguồn, giảm so với năm 2004 là 36.426 triệu đồng, tỷ lệ giảm là 34,58%. Tiền gửi có kỳ hạn trên 1 năm đạt 802.964 triệu đồng, chiếm 52,02% trên tổng nguồn, tăng 334.102 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 71,26%. Các nguồn vốn từ 24 tháng trở lên thì chưa được khách hàng ưa chuộng (Đồ thị 2.1). Tóm lại, công tác huy động vốn trong những năm gần đây, đặc biệt là nguồn tiền gửi trong dân cư, đã có nhiều thành công rất lớn. Trong đó cơ cấu tiền gửi không kỳ hạn giảm thấp (giảm 34,58%, chiếm 4,46% tổng nguồn); còn tiền gửi có kỳ hạn trên một năm tăng mạnh, tốc độ tăng 71,26%, chiếm tỷ trọng 52,02% tổng nguồn. Kết quả đạt được do NHNo&PTNT Quảng Nam đã rất chú trọng đến công tác huy động nguồn vốn, áp dụng các chính sách huy động có hiệu quả gắn với lãi suất linh hoạt. thường xuyên điều chỉnh lãi suất huy động phù hợp tính chất cạnh tranh trên thị trường. Ngân hàng đã có những chính sách khuyến mại hấp dẫn, công tác tuyên truyền, quảng cáo đạt hiệu quả, cùng với việc tổ chức những đợt huy động tiết kiệm dự thưởng và cơ chế khen thưởng nội bộ tích cực nhằm động viên kịp thời các chi nhánh ngân hàng cơ sở đạt thành tích thi đua huy động vốn trong dân cư. Ngoài ra, kết quả này còn là cả quá trình tổ chức mở rộng mạng lưới hoạt động, phát huy lợi thế so sánh với các NHTM khác tại địa phương, quảng bá và xây dựng thương hiệu. Điều này khẳng định tầm quan trọng, tính ổn định của nguồn tiền gửi của dân cư trong hoạt động ngân hàng hiện tại cũng như trong những năm kế tiếp. Qua đó, giúp ngân hàng có đủ tiềm lực về tài chính để tài trợ cho các dự án, món vay có quy mô lớn. Tuy nhiên, với khả năng huy động như trên, nếu không kể đến tiền gửi tổ chức Kho bạc Nhà nước (Tiền gửi Kho bạc có xu hướng giảm, năm 2005 giảm 18,02% so với năm 2004), vốn huy động của chi nhánh chỉ mới đáp ứng khoảng 75% đến 80% dư nợ cho vay cùng thời điểm và chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của ngân hàng. Đồng thời những nguồn vốn có giá rẻ của ngân hàng có xu hướng giảm mạnh sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chi phí đầu vào, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, trong thời gian tới, chi nhánh cần đẩy mạnh hơn nữa công tác huy động vốn từ dân cư. Trong công tác huy động vốn từ dân cư, chi nhánh thường gặp một số khó khăn đó là: - Kinh tế NNNT Việt Nam nói chung và Quảng Nam nói riêng, vốn tích luỹ từ nội bộ dân cư quá ít. Theo thống kê, số hộ nghèo của tỉnh chiếm gần 10% trong tổng số hộ [4]. - Tâm lý người dân NNNT chưa có thói quen để tiền ở ngân hàng mà thường có suy nghĩ góp nhặt để mua vàng cất trữ dành cho những lúc gặp rủi ro. Vì vậy, để nâng cao khả năng huy động vốn từ dân cư, đáp ứng yêu cầu mở rộng tín dụng đầu tư phát triển NNNT, chi nhánh cần có biện pháp để người dân có thói quen cất giữ tiền của mình ở ngân hàng, khi cần rút ra hay vay của ngân hàng để sử dụng. 2.2.1.3 Thực trạng về hoạt động cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Là một trung gian tài chính, với chủ trương “đi vay để cho vay”, dư nợ cho vay của NHNo&PTNT Quảng Nam tăng đều qua các năm đã đáp ứng nhu cầu vay vốn của mọi thành phần kinh tế và các cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã. Chi nhánh đặc biệt chú trọng cấp tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện cho những khách hàng này có vốn để phát triển SXKD. Khách hàng đến giao dịch với ngân hàng ngày càng đông, uy tín và khả năng cho vay của Ngân hàng ngày càng nâng cao. (Hoạt động cho vay NNNT của chi nhánh trong thời gian qua thể hiện ở biểu 2.3). Qua số liệu thống kê biểu số 2.3 cho thấy, dư nợ cuối năm 2005 đạt 1.354.900 triệu đồng, tăng tuyệt đối so với năm 2004 là 243.361 triệu đồng, với tốc độ tăng là 21,89%, đạt và vượt tốc độ tăng trưởng kế hoạch cấp trên giao 19%. Biểu 2.3: Hoạt động cho vay đối với lĩnh vực NNT của chi nhánh Đơn vị tính: triệu đồng, % Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 * Theo thời hạn cho vay 1. Ngắn hạn 335,41 3 491,39 1 588,580 703,666 874,632 2. Trung, dài hạn 259,03 4 312,52 9 402,305 407,873 507,268 * Theo ngành nghề cho vay 1. Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 320,14 6 320,14 6 435,276 512,341 573,692 2. Thương mại, dịch vụ 100,50 4 203,51 9 230,476 239,572 249,136 3. Công nghiệp, TTCN, XD 145,34 3 174,21 9 202,408 240,251 362,718 4. Cho vay khác 128,43 6 106,03 6 122,725 119,375 169,354 * Theo đối tượng khách hàng vay vốn 1. DNNN 159,27 2 255,07 1 351,738 360,052 187,330 2. DNNQD 13,266 48,330 66,451 85,166 279,933 3. HTX 3,444 2,910 3,819 5,687 8,391 4. HSX 418,46 5 497,60 9 568,877 660,635 879,246 Tổng cộng 594,44 6 803,92 0 990,885 1,111,53 9 1,354,90 0 Tốc độ tăng trưởng dư nợ 35.23 23.26 12.18 21.89 Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng NHNo&PTNT Quảng Nam năm 2001-2005. Về cơ cấu cho vay theo thời hạn Trong cơ cấu dư nợ, dư nợ trung và dài hạn đã được điều chỉnh theo hướng giảm dần và chiếm tỷ lệ phù hợp với kế hoạch cấp trên giao. Tính đến 31/12/2005, dư nợ cho vay trung dài hạn đạt 507.268 triệu đồng, tăng so với năm 2004 là 99.395 triệu đồng, tốc độ tăng là 24,37%, chiếm tỷ trọng 37,44% trong tổng dư nợ, dư nợ ngắn hạn đạt 874.632 triệu đồng, tăng so với năm 2004 là 170.966 triệu đồng, với tốc độ tăng 24,29%, chiếm tỷ trọng 62,56% trong tổng dư nợ. Tuy nhiên, với việc giảm dần tỷ trọng cho vay trung dài hạn ở những năm 2004, 2005 sẽ làm cho thu nhập của ngân hàng sụt giảm, đồng thời cũng với việc huy động các nguồn vốn có kỳ hạn tăng mạnh sẽ tăng chi phí nên hiệu quả hoạt động tín dụng sẽ có nguy cơ giảm mạnh ở những năm này (Đồ thị 2.2). Đồ thị 2.2: Cơ cấu dư nợ tín dụng của ngân hàng theo loại kỳ hạn Việc mở rộng tín dụng là mục tiêu cần thiết, tuy nhiên phải có chọn lọc là chủ trương chung của NHNo&PTNT Việt Nam nhằm cơ cấu lại và nâng cao chất lượng của 33 5. 41 3 259.034 49 1. 39 1 312.529 58 8. 58 0 402.305 70 3. 66 6 407.873 87 4. 63 2 507.268 0% 20% 40% 60% 80% 100% 2001 2002 2003 2004 2005 1. Ng¾n h¹n 2. Trung, dµi h¹n khoản mục cấp tín dụng. Với chủ trương này, các đối tượng đang có nhu cầu vay vốn, nhất là vay vốn trung dài hạn để cải tạo đất, mặt nước nuôi trồng, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi trâu bò,..., hay nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, chợ, cải tạo kênh mương, thuỷ lợi,.., nhằm cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất, đổi mới thiết bị để mở rộng sản xuất hàng hoá quy mô lớn và nâng cao chất lượng nông sản hàng hoá đang gặp nhiều khó khăn. Do vậy, để mở rộng tín dụng trước áp lực phải nâng cao chất lượng, chi nhánh đã có nhiều biện pháp như chủ động tiếp cận khách hàng, chủ động tìm kiếm các phương án khả thi để đầu tư. Về đối tượng khách hàng vay vốn Khách hàng của NHNo&PTNT trên địa bàn bao gồm các doanh nghiệp, HTX hoạt động trong lĩnh vực NNNT và các khách hàng là các hộ sản xuất vay vốn để phát triển SXKD hay tiêu dùng, trong đó số lượng khách hàng đông đảo nhất là kinh tế hộ (Đồ thị 2.3). - Đối với DNNN: đó là các doanh nghiệp cung ứng về phân bón, thuốc trừ sâu, con giống, thức ăn, cung ứng máy nông cụ cho sản xuất hay các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu nông sản hàng hoá. Đến 31/12/2005, dư nợ của nhóm khách hàng này đạt 187.330 triệu chiếm 13,82% trong tổng dư nợ, giảm 48% so với năm 2004. Đây là nhóm khách hàng có số lượng nhỏ và khó gia tăng do sự cạnh tranh giữa các ngân hàng. Trong thời gian qua, do sự biến động bất thường về giá của một số mặt hàng như phân bón, thức ăn gia súc hay nông sản đầu ra làm cho các khách hàng này gặp khó khăn, một số doanh nghiệp phá sản như công ty Đường, công ty phân bón, nhà máy Dứa,...đã gây không ít khó khăn cho việc thu nợ và mở rộng dư nợ của ngân hàng. Ngoài ra, nguyên nhân dẫn đến dư nợ của đối tượng này giảm là nhiều DNNN đã tiến hành xong việc cổ phần hoá và chuyển đổi hình thức (công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ 51% vốn cổ phần hoặc không nắm giữ cổ phần chi phối) nên dư nợ của DNNQD tăng mạnh ở năm 2005. - Đối với DNNQD và HTX: mặc dù dư nợ còn chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn nhưng đây là nhóm khách hàng có triển vọng bởi số lượng các DNNQD ra đời ngày càng nhiều và ngày càng làm ăn có hiệu quả. Các ngân hàng cần có biện pháp đẩy mạnh đầu tư vào nhóm khách hàng này. Dư nợ đối với DNNQD, năm 2005 đạt 279.933 triệu chiếm 20,7% trong tổng dư nợ, tăng hơn 3 lần so với năm 2004. Dư nợ đối với HTX, năm 2005 đạt 8.391 triệu chiếm 0,67% trong tổng dư nợ, tăng 32,2% so với năm 2004. - Đối với HSX: đây là bộ phận khách hàng có món vay nhỏ nhưng có số lượng khá đông đảo và là thị trường mục tiêu của NHNo&PTNT. Đến 31/12/2005, dư nợ cho vay HSX đạt 879.246 triệu, chiếm 64,89% tổng dư nợ, tăng 33% so với 2004. Ngoài nhu cầu vay vốn đầu tư sản xuất, các hộ gia đình, CBCNV còn có nhu cầu vay tiêu dùng và đóng góp không nhỏ vào việc mở rộng dư nợ của ngân hàng (dư nợ chiếm 12%). Tuy nhiên, nhóm khách hàng vay tiêu dùng có nguy cơ bị thu hẹp do sự cạnh tranh và mở rộng hoạt động của các ngân hàng (nhất là Ngân hàng Thương mại cổ phần). Vì vậy, NHNo&PTNT cần có biện pháp để giữ vững thị trường và thu hút khách hàng này. Đồ thị 2.3: Cơ cấu dư nợ của ngân hàng theo đối tượng khách hàng * Về đối tượng và ngành nghề cho vay Chi nhánh NHNo&PTNT Quảng Nam đã tích cực thực hiện việc cho vay trực tiếp đến hộ nông dân theo Nghị định 14/CP của Thủ tướng Chính phủ và tổ chức triển khai tốt Quyết định 67 của Thủ tướng Chính phủ đến các HSX trên diện rộng, đến vùng sâu, vùng xa thông qua các chương trình phối hợp với Hội nông dân, Hội phụ nữ và các đoàn thể khác để chuyển tải vốn đến HSX. Vốn của ngân hàng chủ yếu được đầu tư vào các lĩnh vực sau (Đồ thị 2.4): - Ngành nông-lâm nghiệp, thuỷ sản: Đến 31/12/2005, dư nợ ngành này đạt 573.692 triệu đồng chiếm 42,34%, tăng so với 2004 là 12%, tập trung vào các đối tượng như phân bón, thuốc trừ sâu phục vụ sản xuất lương thực, cao su, cây ăn quả, mua giống, thức ăn gia súc, gia cầm cũng như tập trung vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.Trong đó ngành nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản là ngành có truyền thống và thế mạnh ở các tỉnh ven biển, vốn TDNH tập trung vào các đối tượng như nuôi tôm sú, tôm hùm, nuôi cá mú, 13.266 48.330 66.451 85.166 279.933 159.272 255.071 351.738 360.052 187.330 418.465 497.609 568.877 660.635 879.246 0% 20% 40% 60% 80% 100% 2001 2002 2003 2004 2005 2. DNNQD 1. DNNN 3. HTX 4. HSX nuôi ba ba, ếch, đánh bắt thuỷ sản, câu mực... Việc đầu tư vốn của ngân hàng vào lĩnh vực này tạo điều kiện cho các hộ nuôi trồng mở rộng ao đìa, nâng cao khả năng thâm canh, chuyển hướng sang nuôi công nghiệp, từ đó giải quyết công ăn việc làm, nhiều hộ ngư dân vùng ven biển thoát nghèo và vượt lên khá giả giàu có đồng thời tạo nguồn nguyên liệu rất lớn phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên, vấn đề về quy hoạch diên tích nuôi trồng, vấn đề hậu cần nghề cá như bảo quản, chế biến, tiêu thụ còn rất bấp bênh và hạn chế, bên cạnh còn ảnh hưởng khắc nghiệt của thiên tai. Vì vậy, rủi ro cho va

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn (2).pdf
Tài liệu liên quan