Tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng công thương khu vực Đống Đa: LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng tại Ngân hàng Công thương
khu vực Đống Đa
Lời nói đầu
Những năm qua, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển đầu tư cơ chế kế hoạch
hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết và quản lý của Nhà nước, việc chuyển
đổi cơ chế mang tính tất yếu cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia như Việt Nam.
ở Việt Nam trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước thực hiện nhất quán kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN và theo luật
pháp của Nhà nước. Từ đó nền kinh tế thị trướng phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề
cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại ngân hàng như: Ngân hàng Nhà nước, Ngân
hàng thương mại quốc doanh bao gồm: Ngân hàng công thương, Ngân hàng đầu tư và
phát triển của các ngân hàng liên doanh, Ngân hàng cổ phần ... cho nên cần tăng cường
quản lý, hướng dẫn hoạt động của các Ngân hàng, tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh
tế.
Hoạt động Ngân ...
56 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1202 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng công thương khu vực Đống Đa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng tại Ngân hàng Công thương
khu vực Đống Đa
Lời nói đầu
Những năm qua, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển đầu tư cơ chế kế hoạch
hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết và quản lý của Nhà nước, việc chuyển
đổi cơ chế mang tính tất yếu cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia như Việt Nam.
ở Việt Nam trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước thực hiện nhất quán kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN và theo luật
pháp của Nhà nước. Từ đó nền kinh tế thị trướng phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề
cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại ngân hàng như: Ngân hàng Nhà nước, Ngân
hàng thương mại quốc doanh bao gồm: Ngân hàng công thương, Ngân hàng đầu tư và
phát triển của các ngân hàng liên doanh, Ngân hàng cổ phần ... cho nên cần tăng cường
quản lý, hướng dẫn hoạt động của các Ngân hàng, tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh
tế.
Hoạt động Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành sự vận
động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế của đất nước,
hệ thống ngân hàng cũng có những bước chuyển mình cho phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh kinh tế mới. Cụ thể là từ hệ thống Ngân hàng ba cấp chuyển thành hệ thống Ngân
hàng hai cấp, từ sau khi có hai pháp lệnh Ngân hàng (5/1990) tách bạch chức năng: Ngân
hàng Nhà nước có chức năng quản lý Nhà nước đối với hệ thống Ngân hàng, chức năng
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng thuộc về Ngân hàng Thương mại và tổ chức tín
dụng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi cấp tín dụng, cung ứng và dịch vụ
thanh toán.
Sau hơn 10 năm đổi mới Ngân hàng đã đưa lại nhiều thành quả. Đóng góp tích cực
vào thành tựu chung đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, chấm dứt
việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt cho Ngân sách. Đặc biệt là Việt Nam đã thành
công trong việc đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả. Hoạt động Ngân hàng đã góp phần tích
cực trong việc huy động vốn trong và ngoài nước đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế với
mức độ cao. Tuy nhiên hiện nay lĩnh vực Ngân hàng đã bộc lộ những yếu kém mà dư
luận xã hội đang quan tâm về những tiềm ẩn và nguy cơ không lành mạnh. Đặc biệt là
chất lượng tín dụng chưa cao đang đòi hỏi tìm kiếm những giải pháp tháo gỡ có hiệu
quả.
Qua thời gian học tại trường và thời gian thực tế tại Ngân hàng Công thương khu
vực Đống Đa, cùng với việc nhận thức sự cần thiết phải nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng Ngân hàng trong giai đoạn hiện nay, với sự chỉ dẫn và chỉ bảo tận tình của giáo
viên hướng dẫn và cán bộ hướng dẫn thực tập Ngân hàng Công thương Đống Đa. Từ
thực tiễn trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa. làm khoá luận tốt nghiệp của
mình.
Đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Công thương
khu vực Đống Đa. là một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp. Song trong quá trình tìm hiểu
thực tế tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa tôi đã đi vào nghiên cứu một số
vấn đề sau đây:
Kết cấu chuyên đề gồm ba chương:
Chương I: Ngân hàng thương mại và chất lượng của ngần hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh và chất lượng tín dụng tại ngân hàng
công thương đống đa.
Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng
công thương đống đa.
Chương I
ngân hàng thương mại và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
I/ Những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại:
1- Khái quát về Ngân hàng Thương mại:
Ngân hàng Thương mại trước hết là một doanh nghiệp,vì Ngân hàng thương mại
hoạt giống như các doanh nghiệp khác: có vốn riêng, mua vào, bán ra,có chi phí và thu
nhập, có nghĩa vụ nộp thuế cho Ngân hàng Nhà nước, có thể lãi hoặc lỗ, có thể giầu nên
hoặc phá sản.
Ngân hàng Thương mại kinh doanh dịch vụ tiền tệ, không trực tiếp sản xuất ra của
cải vật chất như các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhưng tạo điều
kiện thuận lợi cho qúa trình sản xuất , lưu thông và phân phối sản phẩm xã hội bằng cách
cung ứng vốn tín dụng, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mở rộng kinh
doanh góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
Nói tóm lại Ngân hàng Thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền gửi đó để cho vay đầu tư thực hiện nghiệp vụ triết khấu và làm các phương
tiện thanh toán.
Ngân hàng Thương mại có hoạt động gần gũi nhất với nhân dân về nền kinh tế
càng phát triển cao, hoạt động của Ngân hàng Thương mại càng đi sâu vào đời sống kinh
tế của đất nước.
Hoạt động của Ngân hàng Thương mại mang tính cạnh tranh cao độ. Trong nền
kinh tế thị trường, cạnh tranh là quy luật hoạt động tự nhiên, không lệ thuộc vào nhuận
thực hoặc chọn lựa chủ quan của con người. Mục tiêu của kinh doanh, là tối đa hoá lợi
nhuận, an toàn trong kinh doanh không ngừng gia tăng doanh thu. Nên cạnh tranh không
ngừng xảy ra nên thị trường đây chính là chìa khoá của mỗi doanh nghiệp để đạt được
tham vọng trong thương trường và cạnh trạnh là điểu không tránh khỏi. Ngân hàng
Thương mại ra đời trên cơ sở sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển và nền kinh tế
ngày càng cần đến hoạt động của Ngân hàng Thương mại với các chức năng , vai trò của
mình nhất là chức năng trung gian tín dụng.Ngân hàng Thương mại đã trở thành bộ phận
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Thương mại hoạt động
một cách có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực sự là một
công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng hoạt động tín dụng Ngân hàng
Thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông . Tiền tệ là
kết của quá trình phát sinh lâu dài của sản xuất hàng hoá. Nó ra đời nhằm đáp ứng yêu
cầu của việc mở rộng giao lưu kinh tế, mở rộng thị trường làm cho kinh tế hàng hoá phát
triển của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong quá trình đó đã phát triển yêu
cầu vay mượn vốn lẫn nhau giữa các thương gia nhằm đáp ứng cho sản xuất và lưu thông
hàng hoá. Vốn được chuyển từ người thừa vốn sang người thiếu vốn và phải có một Ngân
hàng đứng ra làm trung gian để cho người thừa vốn và người thiếu vốn gặp nhau. Thông
qua hoạt động tín dụng là chiếc“cầu nối” đưa họ đến với nhau, dần dần thiết lập nên mối
quan hệ mật thiết với nhau đó là quan hệ vay mượn. Ngân hàng Thương mại là một
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ hoạt động trên cơ sở “đi vay” để “cho vay”. Đây là hình
thức sơ khai của tín dụng. Chính trên cơ sở của sự phát triển đó Ngân hàng cũng đồng
thời xuất hiện, trong cuốn Tư Bản (Tập III, phần II) Các Mác đã viết “Một mặt Ngân
hàng là sự tập trung tư bản tiền tệ của những người có tiền cho vay, mặt khách nó là sự
tập trung của những người đi vay”.
Như vậy, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng từ buổi sơ khai bắt đầu từ hoạt
động tín dụng và cho đến nay vẫn bằng con đường đó.
Trong qúa trình hoạt động của Ngân hàng Thương mại đáp ứng nhu cầu của thị
trường dẫn tới sự phân chia và hình thành nên hệ thống Ngân hàng hai cấp: Ngân hàng
Trung ương làm nhiệm vụ quản lý vĩ mô hoạt động Ngân hàng và các Ngân hàng
Thương mại làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ - tín dụng. Như vậy hoạt động của Ngân
hàng Thương mại rất đa dạng phong phú và có phạm vi rộng lớn ở quy mô, tính toàn cầu,
tính hiện đại trong công nghệ Ngân hàng.
2. Nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
Nghiệp vụ Ngân hàng nói chung bao gồm tất cả những việc Ngân hàng thường
làm trong khuôn khổ nghề nghiệp của họ. Các nghiệp vụ Ngân hàng Thương mại có quan
hệ chặt chẽ hỗ trợ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động, tạo thành một chỉnh thể thống
nhất.
Các nghiệp vụ cơ bản, chủ yếu của Ngân hàng Thương mại bao gồm:
- Nghiệp vụ huy động vốn.
- Nghiệp vụ sử dụng vốn.
- Một số nghiệp vụ khác.
2.1. Nghiệp vụ huy động vốn: Đây là nghiệp vụ chủ yếu để tạo nên nguồn vốn kinh
doanh của Ngân hàng, Ngân hàng có thể huy động vốn bằng một trong hai cách sau:
Nhận tiền gửi: Đây là nghiệp vụ mang tính truyền thống, đây là nghiệp vụ nhận
tiền gửi một cách thụ động, nó phụ thuộc vào ý muốn của người có tiền gửi vào Ngân
hàng.
- Phát hành các phiếu nợ: Có thể ngắn hạn và có thể là dài hạn, đây là hình thức
huy động vốn chủ động tức là Ngân hàng có kế hoạch ấn định được thời gian và số lượng
cần phát hành. Để thực hiện được nghiệp vụ này, Ngân hàng sử dụng công cụ chính lãi
suất.
Vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại chủ yếu là vốn đi vay và vốn tự tạo,
vốn tự chỉ có thể chiếm một phần nhỏ trong tổng số vốn tín dụng.
Vốn đi vay của Ngân hàng Thương mai bao gồm: Tiền vay trên thị trường, tiền
gửi, tiền vay trên thị trường tiền tệ, tiền vay trên thị trường trái phiếu, tiền vay chiết khấu
của Ngân hàng Trung ương tất cả gộp lại thành nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng
Thương mại.
Trong quá trình sử dụng các nguồn vốn tiền gửi và vay trên thị trường, công nghệ
Ngân hàng đã tạo ra một nguồn vốn mới gọi là tự tạo để có thêm bổ sung chho nhu cầu
tín dụng và đầu tư cho các ngành kinh tế, cung ứng thêm phương tiện thanh toán cho các
doanh nghiệp, việc tổ chức kinh tế để mở rộng sản xuất kinh doanh trong cả nước.
2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn: Đây là nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng Thương mại, nó
thể hiện ở nhiều Ngân hàng, dư nợ chiếm trên 70% tổng tài sản có. Đây là nghiệp vụ sinh
lời cao nhất mang lại nguồn thu nhập lớn nhất cho Ngân hàng. Song đây cũng là nghiệp
vụ mang lại rủi ro nhiều nhất cho Ngân hàng.
Khi thực hiện nghiệp vụ này, Ngân hàng quan tâm nhiều hơn đến lợi nhuận có tính
thanh khoản của các hợp đồng cho vay chỉ ở vào vị trí thứ yếu vì Ngân hàng không thể
đòi nợ trước hạn nếu quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với khách hàng vẫn diễn ra bình
thường.
Ngoài ra Ngân hàng còn đầu tư vào mua công trái, trái phiếu, tín phiếu kho bạc
giấy tờ có giá do Kho bạc Nhà nước đại diện cho Chính phủ phát hành và các giấy tời có
giá có khả năng thanh toán cao và trách nhiệm cao của các Công ty lớn.
Bất cứ chứng khoán nào cũng có thể đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng nếu Ngân
hàng chủ yếu quan tâm đến việc nâng cao thanh khoản thì đầu tư vào các tín phiếu do
Kho bạc phát hành.
Mặt khác Ngân hàng đầu tư vào các chứng khoán nhằm phân tán.
2.3. Một số nghiệp vụ khác: Ngân hàng thực hiện kinh doanh và làm dịch vụ hưởng hoa
hồng theo sự uỷ thác của khách hàng, các nghiệp vụ này bao gồm:
- Nghiệp vụ thu hộ, chi hộ.
- Nghiệp vụ uỷ thác.
- Mua hộ bán hộ.
- Môi giới và kinh doanh chứng khoán.
Hoạt động của Ngân hàng Thương mại tập trung chủ yếu vào nhận tiền gửi và cho
vay. Đó là hai mặt hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu tạm
thời thiếu hụt về vốn của các doanh nghiệp,các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân trong quá
trình sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng hàng ngày.
Xét trên góc độ khác, khi hoạt động tín dụng ngày càng được mở rộng và phát
triển một cách đa dạng , phong phú, với sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế, quan hệ
tín dụng hàng ngày càng mở rộng về đối tượng và quy mô thì hoạt động của tín dung của
Ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn, phức tạp.
Để các Ngân hàng Thương mại có tồn tại và phát triển đứng vững trong điều kiện
cạnh tranh gay gắt của thị trường và để phục vụ nền kinh tế ngày một tốt hơn, đòi hỏi các
Ngân hàng phải thực hiện có hiệu quả các hoạt động tín tụng hay nói cách khác là phải
nâng cao chất lượng tín dụng.
3. Vai trò của Ngân hàng Thương mại:
- Ngân hàng thương mại giúp doanh nghiệp có vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Góp phần phân bố hợp lý các nguồn lực giữa các vùng trong quốc gia, tạo điều
kiện phát triển kinh tế.
- Ngân hàng Thương mại tạo môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Trung ương.
- Ngân hàng Thương mại là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa các
quốc gia.
II. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại:
1. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại:
Quan niệm về chất lượng tín dụng không chỉ giới hạn trong lĩnh vực hoạt động
ngân hàng trực tiếp mà nó còn được thể hiện qua hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của
khách hàng vay, nói rộng hơn nó được thể hiện qua sự tăng trưởng và phát triển của các
ngành cũng như của toàn bộ nền kinh tế. Chỉ có trên cơ sở hiệu quả sử dụng vốn tín dụng
của khách hàng thì chất lượng tín dụng ngân hàng mới được đảm bảo. Điều này được thể
hiện rõ nét ở một số khía cạnh sau đây:
a - Chất lượngtín dụng nhìn từ phía khách hàng vay vốn:
Một khoản tín dụng được đánh giá có chất lượng đối với người vay khi khoản tín
dụng đó bù đắp một cách kịp thời, đầy đủ nhu cầu thiếu hụt về vốn của khách hàng vay.
Nó đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra nhịp nhàng, làm tăng sản
lượng hàng hoá sản xuất ra, tăng vòng quay vốn và do đó tăng hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
b - Nhìn từ lợi ích xã hội:
Dưới giác độ này, tín dụng được coi là có chất lượng khi nó hỗ trợ và làm tăng
hiệu quả hoạt động của từng doanh nghiệp đơn lẻ, tạo điều kiện để những doanh nghiệp
này thực hiện tốt nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước giải quyết được việc làm cho người
lao động, tạo nên tốc độ phát triển chung của nền kinh tế. Đồng thời, chất lượng tín dụng
được đảm bảo cũng sẽ góp phần tích cực vào việc thực thi chính sách tiền tệ của Nhà
nước.
Bên cạnh đó, khi sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, nhu cầu của xã hội và
của từng thành viên sẽ được đáp ứng một cách tốt hơn.
c - Từ phía ngân hàng:
Với ngân hàng, chất lượng tín dụng được xác định thông qua các chỉ tiêu cơ bản
sau đây:
- Phục vụ tốt sự phát triển của các ngành, các địa phương theo định hướng của
Nhà nước qua từng thời kỳ.
- Các khoản tín dụng được thực hiện đúng mục đích, đúng đối tượng, có hàng hoá,
vật tư tương đương làm đảm bảo.
- Các khoản tín dụng được thu hồi đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi góp phần tăng
nhanh vòng quay sử dụng vốn của ngân hàng, giảm thiểu các khoản nợ quá hạn, nợ khó
đòi, trên cơ sở đó, tăng doanh lợi cho hoạt động của các ngân hàng thương mại.
2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại:
Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư tín dụng, góp phần điều hoà nguồn vốn
trong xã hội từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Giúp cho Ngân hàng có một nguồn vốn nhất
định và giải quyết quan hệ cung cầu về vốn. Đồng thời làm tăng tốc độ luân chuyển hàng hoá
và tiền vốn. Chính vì vậy, chất lượng tín dụng tạo điều kiện cho Ngân hàng làm tốt chức năng
trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân.
Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế.
Nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền mặt tronglưu
thông. Thông qua cho vay bằng chuyển khoản các Ngân hàng có khả năng mở rộng tiền ghi sổ
bấp nhiều lần so với số tiền thực có. Vì vậy tín dụng còn là nguyên nhân của lạm phát. Đảm
bảo chất lượng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho các Ngân hàng cung cấp đủ các phương tiện thanh
toán cho nền kinh tế.
Tín dụng là công cụ để thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát
triển kinh tế. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội,
đầu tư đúng hướng để khai thác khả năng tiền tàmg về tài nguyên, lao độg, tiền vốn, đảm bạ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển cân đối giữa các ngành nghề, các vùng trong cả nước
theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá đât nước.
2.1. Đối với Ngân hàng:
Chất lượng tín dụng góp phần lành mạnh hoá quan hệ tín dụng, các thủ tục về tín
dụng được đơn giản hoá, thuận tiện nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc sẽ tạo điều kiện để
mở rộng quan hệ tín dụng, từ đó đi đến hạn chế và xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi, góp phân
lành mạnh hoá quan hệ tín dụng.
Chất lượng tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp, Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì
hoạt động phải sinh lời. Bởi vậy cũng như tất cả các doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh khác, muốn tồn tại và phát triển thì Ngân hàng phải giải quyết được các mâu
thuẫn trong quá trình kinh doanh: mâu thuẫnvề giá cả, mức cung cầu của vốn...
Bởi vì chất lượng tín dụng cho phép Ngân hàng có những khách hàng trung thành,
khách hàng có quan hệ thường xuyên và gắn bó lâu dài với Ngân hàng vì đối với Ngân
hàng tạo lập củng cố và phát triển được ngày càng nhiều khách hàng truyền thống. Ngân
hàng phải thiết lập được nhiều khách hàng trung thành, các khách hàng trung thành này
sẽ không bỏ Ngân hàng mà ra đi với các Ngân hàng khác vì thế Ngân hàng phải quan tâm
đến lợi ích, nhu cầu của họ.
2.2. Đối với khách hàng:
Chất lượng tín dụng tạo lòng tin đối với khách hàng, trong điều kiện nền kinh tế
mở cửa khách hàng có thể lựa chọn Ngân hàng này làm đối tác cho mình. Vì tiền họ gửi
vào Ngân hàng là đồng tiền quay vòng và sinh lời. Nếu là một Ngân hàng uy tín trên thị
trường thì Ngân hàng đó gặp rất nhiều thuận lời và giao dịch với những khách hàng lớn
thậm chí có cả khách hàng nước ngoài. Để tạo uy tín hay lòng tin nào đó củanhg thì ko
khó nhưng Ngân hàng phải làm sao tạo được tin tưởng khi khách hàng đến giao dịch với
Ngân hàng, khi khách hàng đến giao dịch mà Ngân hàng đó để lại ấn tượng sâu sắc như
thái độ giao tiếp niềm nở, phục vụ chu đáo nhiệt tình thì khách hàng đó sẽ tuyên truyền
cho Ngân hàng. Đây là điều thuận lợi nhất cho Ngân hàng. Điều này có nghĩa là khách
hàng chỉ đến với Ngân hàng mà tạo điều kiện giúp đỡ họ thực hiện có hiệ quả hoạt động
thông qua quan hệ tín dụng, dịch vụ so với Ngân hàng khác. Và điều này cũng có tác
dụng tích cực trở lại đối với Ngân hàng trong việc tăng thêm số lượng khách hàng, thu
hút nguồn vốn và mở rộng tín dụng dịch vụ.
Chất lượng tín dụng góp phần phát triển sản xuất, kinh doanh và lành mạnh tình
hình tài chính của khách hàng, chất lượng tín dụng được đảm bảo cũng có nghĩa là Ngân
hàng phát triển tốt nhờ vậy Ngân hàng có điều kiện cung cấp vốn tín dụng đáp ứng yêu
cầu sản xuất kinh doanh của khách hàng. Mặt khác để đảm bảo chất lượng tín dụng thì
Ngân hàng tiến hành việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động vốn tín dụng của khách hàng,
qua đó cùng với khách hàng uốn nắn và chấn chỉnh những sai sót trong hoạt động tài
chính của họ.
Việc kiểm tra, kiểm soát sử dụng vốn tín dụng của khách hàng là việc cần thiết vì
nếu như khách hàng xin vay vốn của Ngân hàng mà Ngân hàng không biết khả năng
thanh toán của họ trong những năm tới hay tài chính của họ làm ăn sa sút hay khách hàng
xin vay vốn không đúng mục đích vì họ xin vay vốn vào mục đích sản xuất kinh doanh
nhưng họ lại sử dụng vào mục đích khác. Nếu Ngân hàng không biết được mà vẫn cho vay đó
là sai lầm. Cho nên để tránh sai lầm thì Ngân hàng phải tiến hành kiểm tra, khiểm soát việc sử
dụng vốn tín dụng của khách hàng để tránh gây khó khăn cho cả hai bên. Qua phân tích ta thấy
được việc củng cố và tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng là sự cần thiết khách hàng vì sự
tồn tại và phát triển lâu dài của Ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
3. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
3.1- Chỉ tiêu định tính
Chính sách tín dụng: Bao gồm các chủ trương, đường lối đảm bảo cho hoạt
động tín dụng đi đúng mục tiêu của ngân hàng đồng thời tuân thủ tốt qui định của Chính
phủ, NHNN, nó có liên qua đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, thay đổi cơ cấu tín
dụng trong từng thời kỳ và có ý nghĩa quyết định sự thành bại của một ngân hàng. Bất cứ
một ngân hàng nào muốn có được chất lượng tín dụng cao đều phải có chính sách tín
dụng phù hợp với điều kiện của ngân hàng, phải căn cứ vào đòi hỏi của thị trường.
* Công tác huy động vốn: Huy động vốn đối với ngân hàng được coi như hoạt
động cung cấp đầu vào cho sản xuất để tạo ra sản phẩm đầu ra ở các doanh nghiệp. Nếu
nguồn vốn không được huy động đầy đủ về số lượng và phù hợp về thời hạn cũng như
loại tiền thì ngân hàng khó có thể đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của khách hàng một
cách nhanh chóng và đầy đủ. Do vậy, chất lượng tín dụng khó có thể được nâng cao,
thậm chí còn trở nên kém hơn.
* Công tác tổ chức của ngân hàng: Một ngân hàng có cơ cấu tổ chức khoa học sẽ
đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cán bộ nhân viên trong cùng
một phòng, giữa các phòng ban với nhau và cao hơn là giữa các ngân hàng trong cùng hệ
thống, từ đó nắm bắt và triển khai tốt việc đáp ứng nhu cầu khách hàng, nâng cao được
chất lượng hoạt động tín dụng và đảm bảo được tính thống nhất và hiệu quả trong quá
trình hoạt động.
* Trình độ đội ngũ cán bộ, nhân viên tín dụng: Đây có thể coi là một trong những
yếu tố quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của không chỉ hoạt động
tín dụng mà cả sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Hoạt động kinh tế đối ngoại càng
phức tạp, công nghệ ngân hàng càng hiện đại thì đòi hỏi trình độ, năng lực của cán bộ
ngân hàng phải được nâng cao. Với một đội ngũ cán bộ nhân viên có nghiệp vụ giỏi, có
đạo đức và năng lực trong sáng tạo - quản lí sẽ giúp ngân hàng hạn chế được những rủi
ro, nắm bắt được những cơ hội tốt để cho vay và tất yếu sẽ dẫn đến nâng cao chất lượng
tín dụng của ngân hàng .
* Qui trình tín dụng: Đây là những trình tự, những giai đoạn, những bước, công
việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay bắt đầu từ việc xem
xét đơn xin vay của khách hàng đến khi thu nợ nhằm bảo đảm an toàn vốn tín dụng . Chất
lượng tín dụng phụ thuộc vào việc lập ra một qui trình tín dụng đảm bảo tính khoa học
vừa nhanh chóng, thuận tiện, vừa đảm bảo thực hiện đầy đủ nghiêm túc các bước của qui
trình. Qui trình tín dụng thường gồm ba bước chính:
Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay: Giai đoạn này chất lượng
tín dụng phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định khách hàng và việc chấp hành các qui
định về điều kiện và thủ tục cho vay của ngân hàng.
Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi dự báo rủi ro: việc
thiết lập hệ thống kiểm tra hữu hiệu, áp dụng có hiệu quả các hình thức kiểm tra sẽ góp
phần không nhỏ nâng cao chất lượng tín dụng.
Thu nợ và thanh lí: Sự linh hoạt của cán bộ tín dụng của ngân hàng trong khâu
thu nợ sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro và hạn chế nợ qua hạn, bảo toàn vốn và nâng
cao chất lượng tín dụng.
* Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng là hết sức cần thiết, nó là cơ sở để xem
xét quyết định cho vay và theo dõi, quản lí khoản cho vay. Thông tin tín dụng có thể thu
được từ nhiều nguồn khác nhau như: hồ sơ vay vốn của khách hàng, nguồn số liệu thống
kê của Tổng cục thống kê, số liệu của Bộ Tài Chính, các nghành liên quan về tình hình
của các đơn vị, doanh nghiệp hay điều tra trực tiếp tại các cơ sở... Chất lượng tín dụng
chỉ có thể được nâng cao khi ngân hàng có những nguồn thông tin đầy đủ, chính xác, kịp
thời để dự đoán và đề ra các biện pháp ngăn ngừa phòng chống rủi ro.
* Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc
chấp hành những qui chế, thể lệ, chính sách và mức độ kịp thời phát hiện sai sót cũng
như những nguyên nhân dẫn đến sai sót lệch lạc trong quá trình thực hiện các khoản tín
dụng.
* Trang thiết bị phục vụ hoạt động tín dụng: Trang thiết bị tuy không là yếu tố cơ
bản nhưng nó góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân
hàng. Nó là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức, quản lí, kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Đặc biệt với sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin hiện nay các trang thiết bị tin
học đã giúp cho ngân hàng có được thông tin về các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thị
trường trong tương lai...
* Các hoạt động bổ trợ cho hoạt động tín dụng: Các hoạt động bổ trợ như: Kinh
doanh ngoại tệ, Thanh toán hộ, Thu hộ,... có ảnh hưởng đến nguồn vốn, cũng như sự an
toàn của ngân hàng (Một ngân hàng sẽ ở trong vùng an toàn nếu có 40% - 45% doanh thu
là từ hoạt động dịch vụ). Như vậy sẽ có tác động lớn đến chất lượng tín dụng và uy tín
của ngân hàng.
3.2 - Chỉ tiêu định lượng
* Tổng nguồn vốn huy động: Chỉ tiêu này cho biết khả năng thu hút và cung
ứng vốn của Ngân hàng cho khách hàng. Ngoài ra, nó còn cho thấy uy tín và qui mô của
Ngân hàng trên thị trường. Nguồn vốn huy động lớn thường gắn với những ngân hàng có
uy tín cao.
* Tổng dư nợ tín dụng: chỉ tiêu này cho biết Ngân hàng cho vay được nhiều hay ít.
Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, cho các tổ chức tín dụng hay khách hàng vay nhiều cho
thấy Ngân hàng đã tạo được uy tín với các bạn hàng, cung cấp nhiều hình thức dịch vụ đa
dạng, phong phú, tham gia nhiều nghiệp vụ thanh toán.
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn vay =
Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích đánh giá khả năng cho vay của ngân hàng cũng
như so sánh giữa các ngân hàng với nhau trong việc sử dụng vốn vay. Hiệu suất sử dụng
vốn vay cao chưa hẳn đã tốt bởi nó còn phụ thuộc vào cơ cấu nguồn vốn. Chẳng hạn,
trong cơ cấu nguồn vốn tỉ trọng vốn vay thương mại lớn thì cho vay nhiều chưa hẳn là
đưa đến chất lưọng tín dụng cao, vì lãi suất với các khoản vốn vay thương mại thường
lớn trong khi ngân hàng khó có thể cho vay với lãi suất quá cao hơn do phải cạnh tranh
lãi suất để thu hút khách hàng.
Doanh số cho vay trong kì
* Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ trong kì
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng tổ chức, quản lí vốn tín dụng, đồng thời thể hiện
chất lượng tín dụng của ngân hàng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn tín dụng và
đáp ứng nhu cầu khách hàng. Để có thể đánh giá chính xác chất lượng tín dụng, các tiêu
chuẩn tính toán cần phải đồng nhất trong việc áp dụng đối với từng loại cho vay cụ thể.
* Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ : Nợ quá hạn là những khoản nợ đã đến hạn
thanh toán nhưng khách hàng chưa trả được. Ngân hàng có chỉ tiêu nợ quá hạn trên tổng
dư nợ càng thấp khả năng gặp rủi ro càng thấp chất lượng tín dụng càng cao. Chỉ tiêu này
lại chia ra hai chỉ tiêu cụ thể hơn:
Nợ quá hạn từ 6-12 tháng
Tỉ lệ nợ quá hạn khê đọng =
Tổng dư nợ
Đây là một trong những chỉ tiêu định lượng quan trọng nhất phản ánh chất lượng tín
dụng của khoản tín dụng. Nếu tỉ lệ này càng cao mà ngân hàng không có biện pháp xử lí
kịp thời thì khả năng tổn thất của ngân hàng càng lớn.
Nợ quá hạn từ 12 tháng trở lên
Nợ quá hạn khó đòi =
Tổng dư nợ
Nếu tỉ lệ này cao có nghĩa là ngân hàng không những phải chịu rủi ro tín dụng cao,
chất lượng tín dụng kém mà còn có nguy cơ mất khả năng thanh toán bởi việc đòi nợ các
khoản vay này là rất khó khăn. Một khoản tín dụng có chất lượng cao thì tỷ lệ nợ quá hạn
khó đòi phải thấp.
Khe hở lãi suất = Tài sản nhạy cảm với lãi suất - Nguồn nhạy cảm với lãi suất
Nếu giá trị tuyệt đối của chỉ tiêu này lớn thì sự biến lãi suất trên thị trường sẽ tạo ra
những thu nhập và chi phí ngoài dự kiến, gọi chung là rủi ro lãi suất. Đây cũng là nhân tố làm
cho nhiều ngân hàng phải quan tâm, nếu khe hở lãi suất lớn thì có thể cho thu nhập cao, nhưng
bên cạnh đó là rủi ro lớn theo đúng qui luật kinh tế.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng:
Chất lượng hoạt động tín dụng có ý nghĩa rất lớn với sự tồn tại và phát triển của một
Ngân hàng. ý nghĩa của hoạt động tín dụng xuất phát từ định nghĩa Ngân hàng thương mại là
một trung gian tài chính. Ngân hàng thương mại một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong
xã hội, mặt khác nó dùng chính số tiền đã huy động được đối với các thành phần kinh tế trong
xã hội, khi chúng có nhu cầu bổ xung vốn. Như vậy cùng với ý nghĩa kinh tế trong hoạt động
tín dụng, việc quản lý tín dụng một bộ phận quản lý Ngân hàng nói cung luôn luôn là một vấn
đề thực tiễn và bức xúc đối với mỗi Ngân hàng. Để quản lý chất lượng tín dụng đồng bộ phải
hiểu rõ sự tác động của các nhân tố ta càng chủ động trong hoạt động. Có thể chia các nhân tố
làm hai loại: Nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Tuỳ vào điều kiện cụ thể của từng nước
và của từng Ngân hàng mà hai loại nhân tố này có ảnh hưởng khác nhau.
4.1. Nhân tố khách quan:
Một nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín
dụng. Ngân hàng có thể huy động được nhiều nguồn vốn để mở rộng hoạt động cho vay
phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế. Môi trường kinh tế có ảnh hưởng đến sức mạnh
của người đi vay và thiệt hại hay thành công đối vơí người cho vay. Sự hưng thịnh hay
suy thoái của chu kỳ kinh doanh cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận của người vay. Trong
giai đoạn kinh tế hưng thịnh người vay hoạt động tốt do lợi nhuận thu được cao.
Trong hoạt động kinh doanh lạm phát có ảnh hưởng bất lợi đến giá cả nguyên vật
liệu... làm cho các cá nhân và doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính dẫn đến nhu cầu
tín dụng tăng còn thiểu phát cũng có ảnh hưởng bất lợi đến công việc kinh doanh: Chỉ số
tăng giá thấp hơn so với lãi suất cho vay làm cho các doanh nghiệp cầm chừng trong vay
vốn phát triển sản xuất điều đó dẫn tới tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm, hoạt động Ngân
hàng kém, nền kinh tế trì trệ, các doanh nghiệp không có cơ hội để hoạt động sản xuất
kinh doanh thu lợi nhuận. Các Ngân hàng sẽ chịu thiệt hại lớn do đồng tiền mất giá, chất
lượng tín dụng bị giảm sút.
Việc xác định mức lãi xuất cho vay cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, vì
lợi tức của Ngân hàng thu được từ hoạt động tín dụng bị giới hạn bởi lợi nhuận bình quân
của các đơn vị sử dụng vốn vay của doanh nghiệp thì các doanh nghiệp sẽ không có khả
năng trả nợ Ngân hàng. Vì vậy chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng.
Ngoài ra chất lượng của tín dụng còn bị ảnh hưởng của các nhân tổ rủi ro như
thiên tai, bão lụt các nguyên nhân bất khả kháng có thể bị lừa đảo... Các thảm hoạ thiên
tai bão lụt, hoả hoạn có thể là nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, các biến động kinh tế xã hội chính trị sẽ dẫn đến môi trường xã hội,
môi trường kinh tế bất ổn định sẽ tạo điều kiện nảy sinh rủi ro.
Khách hàng nhiều lần trì hoãn trong việc bố trí cho cán bộ tín dụng đi kiểm tra
tình hình thực tế của doanh nghiệp. Nếu là cán bộ tín dụng đi kiểm tra thì các nhà tín
dụng phải kiểm tra thực tế của doanh nghiệp là đúng nhưng đến định kỳ cán bộ tín dụng
kiểm tra thường xuyên có mặt tại doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
bình thường họ sẽ đón tiếp đúng nội quy và đúng thủ tục còn nếu doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh không bình thường thì họ sẽ trì hoãn và không đưa các số liệu thông tin của
doanh nghiệp và cho Ngân hàng biết.Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ giữa Ngân
hàng và khách hàng là quan hệ bạn hàng bình đẳng trước pháp luật song mối quan hệ này
phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Một khi có sự chậm trễ trong việc dàn
xếp các cuộc viếng thăm doanh nghiệp,thì đó là doanh nghiệp có dấu hiệu cho biết tình
hình sản xuất doanh nghiệp.
Mặt khác, trong kinh doanh các yếu tố pháp lý tác động đến hoạt động kinh doanh
gồm hệ thống luật, hệ thống các biện pháp đảm cho pháp luật được thhi và sự chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh và các ngành có
liên quan. Pháp luật là bộ phận không thể thiếu được của bất kỳ nền kinh tế nào, không
có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp thì mọi hoạt động trong nền kinh tế sẽ gặp
khó khăn.Các yếu tố này có quan hệ đan xen và tác động hoạt động kinh doanh một các
tổng hợp chứ không riêng rẽ, hay nói một cách khác chúng mang tính đồng bộ cao.
Với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định có một hệ thống luật pháp tương
ứng. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các yếu tố pháp lý rõ ràng và chặt chẽ, đảm bảo cho
hoạt động kinh doanh đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng đi theo một quỹ
đạo nhất định nhằm hạn chế rủi ro.Vì vậy pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với
hoạt động Ngân hàng nói chung và chất lượng hoạt động tín dụng nói riêng.
4.2.Các nhân tố chủ quan:
Bao gồm các nhân tố thuộc về phía Ngân hàng như các yếu tố: Chính sách tín
dụng, công tác tổ chức, chất lượng cán bộ, quy trình nghiệp vụ, kiểm soát. Nếu chính
sách tín dụng phù hợp sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lợi của
hoạt động tín dụng phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật và đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước.Vì thế phải có chính sách cho vay rõ ràng để xác định phương hướng sử
dụng vốn được hình thành tù cổ đông và người được ký thác.Trong những năm gần đây,
càng ngày càng có nhiều Ngân hàng đưa ra chính sách cho vay. Mặc dù các chính sách
cho vay trên văn bản, phục vụ một số mục đích nhất định, điều quan trọng là chúng ta
đem lại cho nhân viên tín dụng sự hướng dẫn cần thiết.Vì chất lượng tín dụng tuỳ thuộc
vào việc xây dựng chính sách tín dụng của Ngân hàng có đứng đắn hay không.
Về công tác tổ chức của Ngân hàng:
Cần được sắp xếp một cách khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các
nguyên tắc tín dụng, quản lý được cơ cấu tài sản có, tài sản nợ của Ngân hàng, đây là cơ
sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa
các phòng ban, có sự đoàn kết thống nhất chỉ đạo từ trên xuống dưới, tạo điều kiện cho việc
quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng.
Về chất lượng cán bộ:
Trong một Ngân hàng muốn biết chất lượng cán bộ tốt (mặt tích cực) thì việc
trước tiên là người cán bộ phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn giỏi xem xét các thủ
tục để tiến hành giải quyết cho vay theo đúng luật mà Ngân hàng quy định các bước đó
là: Xét duyệt hồ sơ, quyết định đầu tư, kiểm tra việc sử dụng vốn, thu nợ, hoạch định chủ
trương, chính sách đến việc thẩm định dự án.Nói chung mọi đúng, sai, thành công hay
thất bại của các dự án tín dụng ngoài nguyên nhân khách quan còn có nguyên nhân chủ
quan đó là con người với tư cách pháp nhân hay chủ thể cho vay trong quan hệ tín dụng
vì trong Ngân hàng phải thường xuyên giao dịch thanh toán với khách hàng. Chính vì vậy
cán bộ tín dụng phải làm vừa lòng, thoả mãn yêu cầu của khách hàng để khách hàng luôn
sẵn sàng quan hệ tín dụng với Ngân hàng và họ là khách hàng truyền thống. Trong Ngân
hàng qua thực tiễn cho thấy Ngân hàng có chất lượng cán bộ mọi mặt đều tốt có rất
nhiều các doanh nghiệp đến quan hệ tín dụng với Ngân hàng đó là mặt điển hình của
Ngân hàng.Chất lượng cán bộ là đội ngũ nhân viên trong Ngân hàng càng làm tốt thì
Ngân hàng càng có nhiều thuận lợi để phát triển Ngân hàng. Muốn vậy Ngân hàng cần tổ
chức thực hiện tốt quy trình tuyển dụng từ khi phát sinh đến khi kết thúc. Tăng cường
công tác kiểm tra, kiểm soát vì kiêm tra kiểm soát là nghiệp vụ rất quan trọng để đảm bảo
chất lượng tín dụng. Kiểm tra kiểm soát là giải pháp mạnh mẽ có ý nghĩa quyết định đối
với việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm của tổ chức tín dụng làm cho tổ chức
này hoạt động lành mạnh có hiệu quả.
Để việc kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả, bảo vệ được tài sản cũng như uy tín của Ngân
hàng thì cần phải bố trí cán bộ kiểm tra giỏi nghiệp vụ, chuyên môn hiểu pháp luật, trung
thực để kịp thời phát hiện và ngăn chặn kịp thời những vi phạm có thể xảy ra, nhằm nâng
cao chât lượng tín dụng.
5. Quản lý chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại.
5.1 - Quản lí nguồn huy động và đi vay của ngân hàng thương mại
Các khoản nợ là tài nguyên chính của ngân hàng. Chất lượng và số lượng của nó
ảnh hưởng đáng kể tới chất lượng số lượng các khoản cho vay và đầu tư. Mục tiêu quản
lý các khoản nợ không nằm ngoài mục tiêu quản lý chung của ngân hàng đó là an toàn và
sinh lời.
5.1.1 - Quản lí qui mô và cơ cấu
Quản lí qui mô và cơ cấu là nhằm đưa ra và thực hiện các biện pháp để ra tăng qui
mô, thay đổi cơ cấu của nguồn một cách có hiệu quả nhât.
Gia tăng các khoản tiền gửi và đi vay là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt
động của Ngân hàng, là điều kiện để Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao
tính thanh khoản và tính ổn định, của nguồn vốn. Cơ cấu nguồn ảnh hưởng tới cơ cấu tài
sản và quyết định chi phí của Ngân hàng. Quản lý quy mô và cơ cấu gồm những nội
dung sau:
- Thống kê đầy đủ, kịp thời các thay đổi về các loại nguồn, tốc độ quay vòng cuẩ
mỗi nguồn.
- Phân tích kỹ lưỡng của các nhân tố gắn liền với thay đổi đó (các nhân tổ ảnh
hưởng và bị ảnh hưởng).
- Lập kế hoạch nguồ cho từng giai đoạn phù hợp với vật yêu cầu sử dụng.
- Công tác thống kê nguồn sẽ cho các nhà quản lí nghiên cứu mối liên hệ giữa số
lượng, cấu trúc nguồn với các nhân tố ảnh hưởng cũng như thấy được đặc tính của thị
trường nguồn Ngân hàng.
- Trong điều kiện cụ thể, các nguồn vốn của Ngân hàng có thể có tốc độ và qui mô
thay đổi khác nhau. Các Ngân hàng lớn có quy mô nguồn lớn và tốc độ tăng trưởng
nguồn có thể không cao như các Ngân hàng nhỏ. Những Ngân hàng ở trung tâm tiền tệ có
cơ cấu nguồn khác với Ngân hàng ở xa.
- Những nhân tổ ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi quy mô và kết cáu của nguồn
tiền thường xuyên thay đổi và cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Đây là cơ sở Ngân
hàng đưa ra các quyết định phù hợp để thay thay đổi quy mô và kết cấu nguồn tiền. Vào
gần dịp tết, quy mô có tiền gửi tiết kiệm có thể giảm xuống tương đối; hoặc nếu Ngân
hàng phục vụ chủ yếu các doanh nghiệp xây lắp, tiền gửi của họ tăng hay giảm phụ
thuộc nhiều vào mùa xây dựng .Từ đó, nhà quản lý Ngân hàng cần phân chia các loại
khách hàng gắn với quy mô và tốc độ gia tăng của mỗi nguồn.
Các khách hàng hoặc nhóm khách hàng có tiền gửi lớn cần được đặc biệt chú ý,
các nhóm khách hàng truyền thống, các nhóm khách hàng nhạy cảm với những thay đổi
về công nghệ, lãi suất và chất lượng dịch vụ kèm theo càn phải được nghiên cứu cụ thể.
Nhà quản lí cũng cần xem xét thị phần nguồn tiền của các Ngân hàng khác trên địa bàn
và khả năng cạnh tranh của họ.
- Kế hoạch nguồn cần được xây dựng cho từng giai đoạn bao gồm kế hoạch gia
tăng quy mô của mỗi nguòn, nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư hoặc chi trả cho các
doanh nghiệp và dân chúng, khả năng thay đổi cơ cấu nguồn, hoặc tìm kiếm nguồn mới.
Kế hoạch nguồn được đặt trong kế hoạch sử dụng và lợi nhuận kỳ vong, bao gồm kế
hoạch về lãi suất, mở chi nhánh hoặc điểm huy động, loại nguồn tiếp thị...
5.1.2. Quản lý lãi suất chi trả.
Quản lí lãi suất của các khoản nợ là xác định các loại cơ cấu lãi suất traar cho các
nguồn tiền khác nhau nhằm đảm bảo duy trì quy mô và kế cấu nguồn phù hợp với yêu
cầu sinh lợi của Ngân hàng.
Quản lí lãi suất của các khoản nợ là một bộ phận trong quản lí chi phí của Ngân
hàng. Lãi suất chi trả càng cao càng có thể huy động và vay mượn được càng lớn, từ đó
mở rộng cho vay và đầu tư. Tuy nhiên, lãi suất càng cào làm gia tăng chi phí của Ngân
hàng và nếu doanh thu không tăng kịp chi phí, lợi nhuận củ Ngân hàng sẽ giảm tương
ứng. Vì vậy, quản lý lãi suất của nguồn vốn có liên quan chặt chẽ với quản lý lãi suất cho
vay và đầu tư của Ngân hàng.
Quản lý lãi suất gồm có:
- Nghiên cứu các nhân tổ ảnh hưởng tới lãi suất huy động:
- Đa dạng hoá lãi suất.
Lãi suất huy động gắn liền với mỗi loại sản phẩm của Ngân hàng vf với mỗi loại
Ngân hàng. Lãi suất huy động thay đổi thường xuyên dưới ảnh hưởng của nhiều nhân tố
như :
- Khả năng tiết kiệm và gia tăng tiết kiệm của quốc gia:
- Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp. Nhà nước và hộ gia đình:
- Tỷ lệ làm phát.
- Tỷ lệ sinh lời của các hoạt động đầu tư khác.
- Trình độ phát triển của thị trường tài chính:
- Khả năng sinh lời của Ngân hàng.
- Độ an toàn của các Ngân hàng.
5.1.3.Quản lí kỳ hạn.
Quản lí kỳ hạn xác định kỳ hạn của nguòn phù hợp với yêu cầu về kỳ hạn của sử
dụng, đồng thời tạo sự ổn định của nguồn.
Nội dung quản lí kỳ hạn:
- Xác định kỳ hạn danh nghĩa của nguồn vốn và các nhân tố ảnh hưởng.
- Xác định kỳ hạn thực của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng.
- Xem xét khả năng chuyển hoá kỳ hạn của nguồn.
5.1.4. Phân tích thanh khoản của nguồn vốn.
Đối với nhiều Ngân hàng phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn đang trở
thành trọng tâm quản lí nguồn vốn. Tính thanh khoản của nguồn vốn được đo bằng khả
năng tìm kiếm nguồn vốn mới với chi phí và thời gian nhỏ nhất. Nhiều ngân hàng lớn, do
thực hiện chuyển hoá kỳ hạn của nguồn (nguồn với kỳ hạn ngắn được chuyển sang đầu tư
hoặc cho vay với kỳ hạn dài hơn) và duy trì tỷ lệ dự trữ thấp rất quan tâm tới khả năng
tìm kiếm nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản đặc biệt là các nguồn trong ngắn
hạn.
Tính thanh khoản của nguồn tuỳ thuộc rất lớn vào thị trường nợ của mỗi Ngân
hàng và chính sách tiền tệ đang được vận hành. Nhìn chung các Ngân hàng lớn có nhiều
chi nhánh và gần các trung tâm tiền tệ có nhiều khả năng tìm kiêms các nguồn nhanh
chóng hơn là các Ngân hàng nhỏ ít chi nhánh và ở xa. Hơn nữa và sự phát triển của các
công cụ nợ sẽ cho phép các Ngân hàng có nhiều cơ hội tiếp xúc với các nguồn. Do vậy,
tại các nước mà thị trường nợ kém phát triển, tính thanh khoản của nguồn vốn của các
Ngân hàng cũng bị giảm thấp.
Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn bắt đầu từ việc phân tích thị trường
nguồn vốn của mỗi Ngân hàng để thấy đặc điểm của mỗi nguồn (như quy mô, tốc độ tăng
trưởng, vòng quay, lãi suất và sự biến đổi của lãi suất, tỷ trọng thị trường của Ngân hàng
so với các tổ chức tín dụng khác...). Ngân hàng cần tập trung phân tích nguồn vay mượn
từ Ngân hàng Nhà nước và từ các tổ chức tín dụng khác. Các nguồn này tuy ngắn hạn
song có thể có được trong thời gian ngắn, nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong hạn.
Các nguồn mà ngân hàng có ưu thế cũng cần được xem xét.
5. 2. Quản lí tài khoản.
Quản lý tài sản là hoạt đọng của Ngân hàng thương mại với nội dung chuyển hoá
nguồn vốn tiền gửi, tiền vay vốn của chủ thành các loại tài sản như ngân quỹ, tín dụng,
chứng khoán tài sản khác một phương thức thích hợp nhằm thoả mãn các mục tiêu mà
Ngân hàng đặt ra.
5.2.1. Quản lý ngân quỹ.
Ngân quỹ của Ngân hàng là những tài sản có tính thanh khoản cao nhất (được sử
dụng để thanh toán tức thời) được thiết lập nhằm duy trì khả năng chi trả và các yêu cầu
khác của Ngân hàng thương mại
Thư nhất, mỗi Ngân hàng đều cần duy trì dự trữ bắt buộc (dự trữ pháp định) theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước. Dự trữ bắt buộc được tính dựa trên nguồn huy động
trong kỳ tính và tỷ lệ dự trữ bắt buộc cụ thể. Dự trữ bắt buộc được tồn tại trong Ngân
hàng dưới hình thức ngân quỹ của Ngân hàng, có nghĩa là ngân quỹ trong kỳ của Ngân
hàng phải đảm bảo thoả mãn số lượng dự trữ bắt buộc mà một ngân hàng phải duy trì
trong kỳ đó.
Mức dự trữ
bắt buộc trong kỳ
=
Tỷ lệ dự trữ
bắt buộc
x
Số dư binh quân của các nguồn
phải dự trữ bắt buộc trong kỳ
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường do Quốc hội quy định, Ngân hàng Trung ương (Ngân
hàng Nhà nước) có thể thay đổi tỷ lệ này trong các thời kì khác nhau đối với các nguồn
khác nhau, hoặc có thể được phân biệt theo quy mô theo loại tiền, theo vùng.
Các nguồn là đối tượng phải dự trữ bắt buộc cũng có thể bị thay đổi tuỳ theo chính
sách của Ngân hàng Nhà nước, thông thường đó là các nguồn tiền gửi. Các nguồn tiền
gửi ngắn hạn thường phải tính dự trữ bắt buộc với tỷ lệ cao so với các nguồn khác.
Hình thức biểu hiện của dự trữ bắt buộc cũng khác nhau tại nước khác nhau, tuỳ
theo khả năng kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Tại Việt Nam, dự trữ bắt buộc thể
hiện ở khoản mục “Tiền gửi của Ngân hàng thương mại tại Ngân hàng Nhà nước”.
Ví dụ các nguồn tiền gửi phải dự trữ bắt buộc bình quân tháng 1 là 200 tỷ và tỷ lệ
dự trữ bắt buộc là 5% thì mức dự trữ bắt buộc phải có trong tháng 2: 200 x 5% = 10tỷ
Vào 3 ngày đầu tháng 3, Ngân hàng Nhà nước sẽ tính số dư bình quân tiền gửi của
Ngân hàng thương mại tại Ngân hàng Nhà nước trong các tháng 2, giả sử là 12 tỷ. Vậy
trong tháng 2, Ngân hàng thương mại dư thừa dự trữ 12 - 10 = 2tỷ
Giả sử số là 9 tỷ thì Ngân hàng đã thiếu dự trữ bắt buộc 10 - 9 = 1 tỷ.
Thứ hai, Ngân hàng phải duy trì khả năng chi trả bằng cách duy trì ngân quỹ với
tỷ lệ thích hợp với nhu cầu thanh toán của khách. Đối với Ngân hàng đáp ứng nhu cầu
thanh khoản chủ yếu bằng các tài sản thanh khoản thì ngân quỹ ngoài đảm bảo dự trữ bắt
buộc còn phải đáp ứng yêu cầu chi trả. Tính toán nhu cầu chi trả dựa vào các nguồn tiền
gửi ngắn hạn với các tỷ lệ chi trả dự tính và nhu cầu cho vay mà Ngân hàng đã cam kết,
khả năng huy động của các nguồn tiền rẻ để chi trả...
Như vậy, ngân quỹ của Ngân hàng ngoài mục tiêu thực hiện chi trả thường xuyên
còn phải đảm bảo yêu cầu quy định của pháp luật về dự trữ bắt buộc. Ngân quỹ Ngân
hàng sinh lời rất thấp, vì vậy, giữ Ngân quỹ nhiều là không kinh tế.Quản lí ngân quỹ về
thực chất và tính toán số ngân quỹ tối thiểu cần giữ trong các thời kỳ khác nhau, đồng
thời cân đối giữ các bộ phận của ngân quỹ (tiền mặt, tiền gửi...)một cách phù hợp với nhu
cầu sử dụng của khách hàng (phần này được nghiên cứu kĩ hơn trong chương trình quản
lí thanh khoản).
5.2.2.Quản lý chứng khoán.
Chứng khoán có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức. Tuy nhiên Ngân hàng
quan tâm tới chứng khoán trên 2 giác độ chính: An toàn và sonh lợi chứng khoán. Vì vậy,
Ngân hàng phân loại chứng khoán thành hai nhóm chính: Các chứng khoán thanh khoản
song sinh lợi thấp và các chứng khoán kém thanh khoản hơn song sinh lợi lại cao. Loại
thứ nhất được nắm giữ chủ yếu để đáp ứng nhu cầu chi trả, loại thứ hai chủ yếu đáp ứng
yêu cầu sinh lợin. Loại thứ nhất trong chứng khoán của các Chính phủ, các tổ chức tài
chính hàng đầu trong nước và quốc tế và có thời gian dến lúc đào hạn ngắn. Loại thứ hai
là của Chính phủ, các tổ chức tài chính và các công th có thời gian đáo hạn tương đối dài.
Công tác quản lý chứng khoán đòi hỏi phải thướng xuyên xếp hạng chứng khoán
tuỳ theo tính an toàn và thời gian còn lại của chungns. Ví dụ chứng khoán côg ty có thời
hạn 5 năm, song đã nắm giữ được 4 năm 8 tháng, tình hình tài chính ủa công ty trả nợ tốt,
thì có thể xếp vào chứng khoán thanh khoản. Chứng khoán 12 tháng song công ty phát
hành đang lâm vào tình trạng khó khăn bất thường, ít khả năng cữu vãn thì cũng xếp vào
chứng khoán kém thanh khoản. Nhiều Ngân hàng phân chia nhỏ thang bậc của chứng
khoán theo cách xếp loại của các tổ chức tư vấn tài chính quốc tế (theo chất lượng quốc
gia, ngành, công ty phát hành chứng khoán). Các chứng khoán cũng có thể được xếp loại
theo mục đích nắm giữ chủ yếu, như chứng khoán nắm giữ nhằm mục đích kiểm soát
công ty phát hành nắm giữ chỉ nhằm mục đích thu lợi tức, nắm giữ nhằm mục đích thanh
khoản (bán để có thể chi trả), nhằm mục đích đầu cơ (kỳ vọng giá lên cao, bán để hưởng
chênh lệch giá)... Ngân hàng có thể tổ chức phòng quản lý chứng khoán hoặc phòng ngân
quỹ sẽ quản lý các chứng khoán thanh khoản còn phòng chứng khoán ( hoặc công ty
chứng khoán) sẽ quản lý chứng khoán đầu tư.
Để xếp loại chứng khoán, Ngân hàng phải thướng xuyên theo dõi, phân tích và
đánh giá tình hình tài chính của các công ty phát hành chứng khoán, sự biến động tỷ giá,
lãi suất thị trường, giá bất động sản tình hình chính trị.. của mỗi quốc gia, khu vực và
toàn cầu.
Ngân hàng thường xuyên xét một số chỉ tiêu liên quan đến danh mục chứng khoán
như rủi ro và thu thập chứng từ chứng khoán, xu hướng vận động của giá chứng khoán và
nhân tổ ảnh hưởng, tỷ lệ chứng khoán thanh khoản trên ngân quỹ hoặc tiền gửi... các tỷ
lệ này phản ánh chiến lược quản lý chứng khoán của Ngân hàng.
Quản lý chứng khoán được thực hiện trên nguyên tắc quản lý danh mục đàu tư.
Các chứng khoán thường xuyên được phân tích với giá thị trường và cuối cùng là nguyên
tắc đa dạng hoá “ không bỏ trừng vào một giỏ”.
5.2.3.Quả lý tín dụng.
Ngân hàng cấp tín dụng nhằm mục tiêu thu lời, như vậy mục tiêu an toàn và sinh
lợi vẫn là mục tiêu chính trong quản lí tín dụng.
5.3.3.1. Hoạt động tín dụng mang lại thu nhập lớn nhất trong Ngân hàng.
Thu dự tính từ hoạt động tín dụng (là một bộ phận của thu lãi) phụ thuộc vào quy
mô, thời gian và lãi suất và cả ba yếu tố này có mỗi liên hệ khàng khu.
Thư nhất, Ngân hàng, sử dụng mới nỗ lực của mình của tăng quy mô tín dụng
như mở rộng mạng lưới đa dạng hoá các loại hình tín dụng, phát triển công nghệ mới
nhằm gia tăng tiên ích cho khách giảm lãi suất hoặc cung cấp các điều kiện ưu đãi các
biện pháp này nhằm làm giảm rủi ro cho ngân hàng. Mối quan hệ này cho phép Ngân
hàng phân biệt lãi suất và các điều kiện tài trợ khác với các khách hàng lớn, quan trọng
và liên kết với các tổ chức tín dụng khác trên thị trường.
5.3.3.2. Rủi ro từ hoạt động tín dụng là rất lớn.
Tổn thất nếu xảy ra làm giảm thu nhập dự tính và có thể gây thua lỗ hoặc phá sản
cho Ngân hàng. Do vậy, an toàn tín dụng là nội dung chính trong quản lý rủi ro của mọi
Ngân hàng thương mại. Có hai mối quan hệ giữa rủi ro và sinh lợi trong hoạt động tín
dụng. Trước khi tài trợ, mối quan hệ có thể lệ là:Rủi ro càng cao, sinh lợi kỳ vọng càng
lớn: cho vay trung và dài hạn, cho vay tiêu dùng... rủi ro cao hơn thì lãi suất danh nghĩa
sẽ cao hơn so với lãi suất cho vay ngắn hạn, hoặc cho vay đối với doanh nghiệp... Tuy
nhiên sau khi tài trợ quan hệ đó lại là tồn thất càng cao thì sin lợi của ngân quỹ Ngân
hàng có thể theo đuổi chiến lược tài trợ rủi ro cao hoặc thấp trong ngắn hạn, song đều
phải xác lập mối liên hệ rủi ro và sinh lời nhằm đảm bảo gia tăng thu nhập cho chủ sở
hữu trong dài hạn.
Ngân hàng thường phân loại rủi ro tính dụng dựa trên thông kê kinh nghiệm và
phân tích các điều kiện thị trường. Phân loại này cho phép nhà quản lý xác định các tỷ lệ
rủi ro liên quan tới từng nhóm khách hàng, các nguyên nhân rây ra rủi ro và môi trường
rủi ro nảy sinh rủi ro. Phân loại cũng giúp nhà quản lý xác định các phép đo rủi ro tín
dụng một cách hợp lý và ngưỡng rui ro mà Ngân hàng có thể chấp nhận.
Nghiên cứu và tìm các giải pháp để hạn chế rủi ro phát sinh, giải quyết và bù đắp
tổn thất đã xảy ra là một trong những nội dung chính của quản lý tín dụng xây dựng quy
trình phân tích tín dung và phổ biến rộng rãi quy trình đó cho mọi khách hàng sẽ góp
phần làm cho khách hàng hiểu yêu cầu và nội dung công việc của Ngân hàng khi tài trợ.
Thiết lập các quỹ và các hợp đồng tài chính nhằm bù đắp tổn thất xảy ra ràng buộc pháp
lí giữa các Ngân hàng với khách hàng ( tài sản thế chấp...) giữa Ngân hàng với cán bộ tín
dụng... (khoán thu nhập gắn với chất lượng tín dụng...)là biện pháp mà nhiều Ngân hàng
đang hướng tới trong môi trường rủi ro đang ngày càng gia tăng.
Dự phòng là biện pháp nhiều Ngân hàng áp dụng để ước lượng giá trị các khoản
cho vay có khả năng thu hôì. Dự phòng có thể được coi nnhư tài sản đối ứng khi Ngân
hàng cho vay.
Dư nợ ròng = Dư nợ - Dự phòng tín dụng
Dự phòng tín dụng làm giảm vốn của chủ. Ngân hàng phải tính toán sao cho thu nhập
ròng sau thuế và trích lập dự phòng tổn thất đủ để tăng vốn của chủ sau khi lập dự phòng tổn
thất.
Các khoản nợ, nếu được xác định là nợ quá hạn, lãi tích luỹ trên tài khoán thu lãi (lãi
dự tính) phải bị loại bỏ thu lãi cho đến khi khoản thu lãi được thực hiện. Do vậy, tỷ lệ sinh
lời từ hoạt động tín dụng thường nhỏ hơn lãi suất cho vay.
chương II
Thực trạng hoạt động kinh doanh và chất lượng tín dụng tại ngân hàng công
thương đống đa
I. Vài nét về Ngân hàng công thương khu vực đống đa:
1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Công thương khu vực Đống
Đa.
Ngân hàng Công thương Việt Nam là một trong bốn Ngân hàng Thương mại quốc
doanh, hoạt động trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp,với đăng ký kinh doanh là :
Hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ có liên quan đến hoạt động tài
chính, tiền tệ Ngân hàng.
Trước năm 1998 Ngân hàng Công thương Đống Đa là Ngân hàng Nhà nước quận
Đống Đa trực thuộc Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội từ tháng7/1998 được đổi
thành Ngân hàng Công thương quận Đống Đa.Từ năm 1993 Ngân hàng Công thương
Đống Đa được đổi thành Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa trực thuộc
Ngân hàng Công thương Việt Nam .
Chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng Công thương Đống Đa là huy động tiền nhàn rỗi
trong dân cư của các tổ chức kinh tế , thực hiện cho vay đối với các đối tượng thuộc mọi thành
phần kinh tế, ngoài ra Ngân hàng còn đáp ứng các dịch vụ như thanh toán họ qua Ngân hàng, kinh
doanh ngoại hối, dịch vụ tư vấn, bảo lãnh trong nước và nước ngoài.
Ngân hàng Công thương Đống Đa là một chi nhánh của Ngân hàng Công thương Việt
Nam, có quan hệ đại lý với hơn 450 Ngân hàng và 40 nước và khu vực. Là thành viên của hệ
thống tài chính viễn thông liên Ngân hàng toàn cầu (SWIFT) nên Ngân hàng Công thương Đống
Đa có khả năng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu và dịch vụ quốc tế một cách nhanh chóng, thuận tiện,
hiệu quả nhất với các phương tiện, công nghệ hiện đại nhất.Trong suốt quá trình hoạt động Ngân
hàng Công thương Đống Đa luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao và an toàn.
Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa nằm trên một quận lớn của Thủ đô, giữa các
trung tâm kinh tế - văn hoá của cả nước nên có rất nhiều thuận lợi cả về nhiều mặt song cũng
không tránh khỏi sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng quốc doanh khác, các Ngân hàng cổ
phần và các chi nhánh nước ngoài tại Việt Nam cùng đóng trên địa bàn quận.Tuy vậy trong
những năm gần đây, Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa đã chú trọng và tìm mọi biện
pháp nhằm thu hút và lôi kéo khách hàng là các doanh nghiệp Nhà nước về mở tài khoản tiền gửi
và giao dịch với Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Quận Đống Đa là một quận có địa bàn rộng với tổng số 26 phường và dân và dân số
khoảng 30 vạn ngươì, là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp chủ chốt của Trung ương và địa
phương. Bên cạnh đó, còn có nhiều công ty TNHH, các tổ chức sản xuất, các hợp tác xã tiểu thủ
công nghiệp và các hệ thống công thương. Trên khu vực quận cũng có nhiều điểm thương mại lớn
nên khách hàng của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa rất phong phú, đa dạng. Với địa
bàn rộng lớn, khách hàng đa dạng Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa có lợi thế rất lớn
trong việc quan hệ giao dịch thường xuyên với khách hàng.
Qua 10 năm đổi mới và trưởng thành, từ chỗ mới chập chững bước vào làm quen với cơ
chế thị trường trong khi những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn
đeo bám gây nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh, đến nay Ngân hàng Công thương khu vực
Đống Đa đã từng bước vương lên khẳng định chỗ đứng vững chắc của mình, ngày càng nâng cao
hiệu quả hoạt động, đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển kinh tế của Thủ đô.
Đạt được kết quả như vậy ngoài sự giúp chỉ bảo sát sao của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Banh
Lãnh đạo Ngân hàng Công thương Việt Nam, của chính quyền địa phương và các cơ quan, ban
ngành có liên quan thì công tác chủ yếu là sự cố gắng lớn laop của tập thể cán bộ công nhân viên
Ngân hàng Công thươg khu vực Đống Đa, một mặt phát huy những lợi thế sẵn có, mặt khác tìm
mọi cách vượt qua những khó khăn trở ngại để tạo nên thế chủ động, hội nhập với thị trường,
đứng vững trong cạnh tranh. Những nỗ lực đó đã được đền đáp bằng phần thưởng cao quý năm
1995 được Chủ tịch nước thưởng Huân chương Lao động hạng Ba và Huân chương Lao động
hạng Hai được chủ tịch nước tặng năm 1998. Vinh dự to lớn này là sự cổ vũ động viên và ghi nhận
và động viên của Đảng và Nhà nước về kết quả kinh doanh của Ngân hàng Công thương khu vực
Đống Đa trong sự nghiệp đổi mới hoạt động Ngân hàng , góp phần tích cự vào công vuộc đổi mới
đất nước.Tuy nhiên không tự bằng lòng với kết quả đạt được, Ngân hàng Công thương khu vực
Đống Đa sẽ tiếp tục phát huy phấn đấu cao hơn nữa chất lượng hoạt động kinh doanh, góp phần
xây dựng , phát triển kinh tế Thủ đô nói riêng và đất nước nói chung với mục tiêu: ”Kinh tế phát
triển, an toàn vốn thực hiện đúng pháp luật”.
2. Mô hình, cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa:
Mục tiêu phát triển kinh doanh dịch vụ tiền tệ của Ngân hàng là “phát triển an toàn và hiệu
quả”.
Ngân hàng có một đội ngũ lãnh đạo có trình độ chuyên môn cao, có năng lực và nhiệt tình
công tác, ý thức được tầm quan trọng của trìh độ cán bộ đối với sự phát triển của Ngân hàng, Ban
Giám đốc Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa đã chú trọng đến công tác đào tạo cán bộ.
Ngân hàng đã có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo và công nhân viên giầu chuyên môn và nhiệt tình
công tác.
Với những thành tích trong kinh doanh dịch vụ tiền tệ Ngân hàng, năm 1995 Ngân hàng
Công thương khu vực Đống Đa đã vinh dự được Chủ tịch nước trao tặng Huân chương Lao động
hạng Ba, năm 1998 lại một lần nữa được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Hai
và nâng cấ là doanh nghiệp loại I, quy mô và phạm vi hoạt động bao gồm:
1. Trụ sở chính.
2. Phòng giao dịch tại phương Cát Linh và Phường Kim Liên.
Hệ thống nhận tiền gửi của khách hàng và 14 quỹ tiết kiệm tại 14 phường.
Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Công thương khu vực Đông Đa hiện nay có 228 cán bộ
công nhân viên nhiệm vụ với 10 phòng ban nghiệp vụ.
Ban giám đốc gồm: 01 Giám đốc, 02 Phó giám đốc.
Các phòng nghiệp vụ gồm có:
1. Phòng kinh doanh đối nội.
2. Phòng kinh doanh đối ngoại.
3. Phòng kế toàn tài chính.
4. Phòng tiền tệ kho quỹ.
5. Phòng thông tin điện toán.
6. Phòng nguồn vốn.
7. Phòng giao dịch cát linh.
8. Phòng giao dịch Kim Liên.
9. Phòng kiểm soát.
10. Phòng tổ chức - hành chính.
Mô hình tổ chức nhân sự:
Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa
ban lãnh đạo
P. Kinh doanh
p. Kho quỹ
P. Kinh tế đối ngoại P. Nguồn
vốn
P. Kế toán P. Tổ
Quỹ TK
số 29
Quỹ TK
số 30
Quỹ TK Quỹ TK
Quỹ TK
số 43
Quỹ TK
số 46
3.Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong thời gian gần đây:
Ngân hàng Công thương Đống Đa là một Ngân hàng có danh số hoạt động lớn
trong hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Công thương Đống Đa không ngừng phát triển cả về quy mô và chất lượng, đã tạo cho
Ngân hàng một vị trí vững chắc trên thị trường kinh doanh tiền tệ đối với khách hàng
trong cả nước.
Nhìn lại kết quả 10 năm thành lập và đổi mới cho thấy Ngân hàng Công thương
khu vực Đống Đa đã gặt hái nhiều thành quả đáng khích lệ từ công tác đào tạo cán bộ đến
kết quả hoạt động kinh doanh.
Tính đến31/12/2001 tổng nguồn vốn huy động (bao gồm cả VNĐ và ngoại tệ) đạt
1.847 tỷ đồng, tăng so với 31/12/2000 là 329 tỷ đồng, tốc độ tăng 21,7% so với kế hoạch
tăng 7,3%.Trong đó:
- Tiền gửi VNĐ đạt1.379 tỷ đồng bằng 113,7% so với cuối năm 2000 tăng 167 tỷ
đồng chiếm tỷ trọng 75% tổng nguồn vốn.
- Tiền gửi ngoại tệ (quy đổi) đạt 468 tỷ đồng bằng 152,6% so với cuối năm 2000
chiếm tỷ trọng 25% tổng nguồn vốn, tăng 161 tỷ đồng.
- Tiền gửi doanh nghiệp đạt 649 tỷ đồng, bằng 163,8% so với cuối năm 2000 tăng
221 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 35% tổng nguồn vốn.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư đạt1.198 tỷ đồng, bằng 103% so với cuối năm
2000, tăng 45 tỷ đồng , chiếm tỷ trong 65% tổng nguồn vốn. Nhìn vào số liệu Ngân hàng
Công thương khu vực Đống Đa đã đạt được kết quả trên là do:
+ Mạng lưới huy động tiền gửi của dân cư được mở rộng, có 14 quỹ tiết kiệm trên
địa bàn dân cư, có nhiều quỹ tiết kiệm đạt số dư từ trên 100 tỷ đến 150 tỷ mặc dù lưu
lượng khách hàng rất đông nhưng các quỹ tiết kiệm vẫn đảm bảo thu, chi kịp thời, chính
xác.
+ Tổ chức thu lưu động ở những đơn vị có tiền mặt lớn như thường xuyên có một
tổ thu tiền mặt tại Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu, tổ chức thu nhận tiền mặt vào ngày nghỉ
thứ bẩy cho các đơn vị có nguồn tiền mặt lớn, tạo được tâm lý yên tâm và tin tưởng gửi
tiền vào Ngân hàng đáp ứng nhu cầu mở tài khoản của khách hàng được giải quyết nhanh
chóng, kịp thời.
Năm 2001, nguồn vốn của chi nhanh không ngừng tăng trưởng,đáng kể là tiền gửi
của một số doanh nghiệp mới mở tài khoản có hoạt động lớn. Tiền gửidn tăng 13% so với
năm trước, chiếm tỷ trong 35% tổng nguồn vốn (năm2000 tỷ lệ này là 22,7%).Do vậy đã
có sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn có lợi thế cho hoạt động kinh doanh.
Trong khi đó tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm dân cư năm 2000 là7,5% nămnay chỉ có
6,5% (giảm10%). Nguồn vốn và sử dụng vốn tăng lên đáng kể, nhưng nguồn vốn mới chỉ
sửng dụng hết 54,2% số vốn, trừ tỷ lệký quỹ còn lại chuyển về Ngân hàng Công thương
Việt Nam để điều hoà trong hệ thống, nhưng do lãi suất điều hoà vốn thấp, mặt khác tiền
gửi tiết kiệm phần lớn là tiền gửi có kỳ hạn lãi suất cao nên bất lợi trong kinh doanh tiền
tệ cho chi nhánh, nhất là trong điều kiện cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Để đảm bảo hiệu quả kinh doanh gắn liền với an toàn vốn, Ngân hàng Công
thương khu vực Đống Đa hết sức quan tâm đến công tác thanh tra, kiêm tra nội bộ.Với
tinh thần kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những tồn tại và thiếu sót cũ, ngăn chặn phát
sinh những sai sót mới, nâng cao chất lượng công tác trong mọi nghiệp vụ Ngân hàng nhất
là công tác tín dụng, chi tiêu nội bộ và bảo quản kho quỹ
Trong công tác tín dụng dễ phát sinh rủi ro do môi trường pháp lý chưa đồng bộ,
môi trường kinh tế không ổn định, tính chất khách hàng phức tạp nhất là cho vay đối với
lĩnh vực kinh tế quốc doanh. Do vậy Ngân hàng hết sức quan tâm và thận trọng đối với
mảng nghiệp vụ này, từ khâu tiếp nhận chọn lọc khách hàng đến khâu thẩm định phương
án sản xuất kinh doanh của người vay. Để thực hiện chặt chẽ chế độ thể lệ tín dụng và
quy trình nghiệp vụ, trên cơ sở hạn chế tẩu thoát vốn tín dụng. Ngoài ra Ngân hàng
thường xuyên phối hợp và nhận được sự giúp đỡ hỗ trợ của Công an,Viện kiểm soát
quận, thành phố và chính quyền địa phương cũng là yếu tố hết sức quan trọng để bảo toàn
vốn tín dụng, chống kẻ lừa đảo.
Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa không chịu bó tay với bất kỳ khó khăn
nào, bằng ý chí vươn lên từ nội lực của gần 300 cán bộ công nhân viên chức, có sự chỉ
đạo chặt chẽ của Ngân hàng công thương Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà
Nội từng bước Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa lập lại thế chủ động, hoà nhập
với cơ chế thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, đứng vững và ngày càng phát triển
ổn định trong kinh doanh dịch vụ tiền tệ - Ngân hàng góp phần trong công cuộc Công
nghiệp hoá - hiện đại hoá Thủ đô.
Chi nhánh kịp thời đào tạo lại kiến thức kinh doanh dịch vụ tiền tệ Ngân hàng trong
tình hình mới, gắn với đổi mới công nghệ từng bước hiện đại hoá Ngân hàng.Với tư tưởng chỉ
đạo “Bằng trí tuệ” và tâm đức của nghề kinh doanh dịch vụ tiền tệ để thực hiện mục tiêu kinh
doanh mà chi nhánh đề ra từ nhiều năm là : “Phát triển,an toàn và hiệu qủ” với phương châm
tiếp tục đổi mới, nâng cao trách nhiệm, phục vụ tốt khách hàng”.
Kết quả hoạt động kinh doanh :
Biểu 1: Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công Thương khu vực Đống Đa.
Đơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
Tổng thu nhập
- Lãi tiền gửi.
- Lãi tiền vay
- Lãi khác
Tổng chi phí
- Lãi tiền gửi
- Lãi tiềnvay
- Lãi khác
Lợi nhuận
9,85
44,3
49,4
4,8
81,2
15,2
52,0
14
17,3
85,1
39,9
41,7
3,5
66,1
10,0
44,1
12,0
19,0
105,0
42,0
60,1
2,9
83,0
15,0
55,0
13,0
22,0
Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp - Ngân hàng Công thươngkhu vực Đống Đa
Qua bảng trên ta có thể thấy do có hướng đi đúng đắn hợp lý nên kết quả hoạt động
kinh doanh và dịch vụ của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa ngày càng ổn định và
phát triển, do đó trích nộp Ngân sách ngày càng cao, đời sống cán bộ công nhân viên ngày một
cải thiện. Một điều đáng lưu ý là năm 2000 do tách chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh
Xuân ra, các chỉ tiêu khác đều giảm nhưng chỉ tiêu lợi nhuận vẫn tăng mạnh đạt tỷ lệ 22 tỷ so
với năm 2000 điều này chứng tỏ Ngân hàng hoạt động rất chất lượng.
Hơn 10 năm thành lập và đổi mới kể từ đó đên nay Ngân hàng Công thương khu vực
Đống Đa đã không ngừng phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, trở thành một chi nhánh
hiện đại,có hiệu quả cao trong hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam .Để kịp thời hoà
nhập sự nghiệp đổi mới kinh tế, đổi mới hoạt động toàn ngành Ngân hàng, tập thể lãnh đạo và
cán bộ công nhân viên chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa đã không ngừng
quyết tâm phấn đấu, thực hiẹn có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ mà Ngân hàng cấp trên giao
phó.
II. Thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa
1. Tình hình huy động vốn:
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào,vấn đề tạo vốn để đảm bảo hoạt động luôn luôn
chiếm một vị trí quan trọng, đặc biệt là với hoạt động Ngân hàng, nó là tiền đề cho các hoạt
động nghiệp vụ của Ngân hàng, cũng như việc mở rộng quy mô hoạt động. Nếu thu hút được
nguồn vốn đầu tư vào sẽ tạo thuận lợi cho Ngân hàng trong các hoạt động sử dụng vốn tín dụng,
tăng thêm lợi nhuận của Ngân hàng đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng hoạt động của tín
dụng.
Nhận thức được điều này, Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa đã có những
biện pháp, giải pháp và phương thức hợp lý để huy động nguồn vốn từ các thành phần kinh tế,
đảm bảo cho hoạt động của mình như mở rộng các quỹ tiết kiệm, phòng giao dịch trên địa bàn
của mình cũng như trên địa bàn Thủ đô để có thể huy động được vốn, đồng thời đổi mới tác
phong làm việc, thai độ phục vụ của các cán bộ thực hiện chính sách ưu đãi khách hàng cho
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh nền kinh tế mới. Các số liệu sau đây sẽ cho ta thấy được tình
hình huy động vốn của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa qua các năm như sau:
Biểu 2; Tình hình hoạt động vốn tại Ngân hàng
Đơn vị : Tỷ đồng
Hình thức huy động Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
Số tiền Tỷ
trọng
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng
Tổng huy động
1. Tiền gửi tiết kiệm
- Không kỳ hạn.
- Có kỳ hạn
2. Tiền gửi của tổ
chức kinh tế
3. Kỳ phiếu
1.375
970
20
950
350
55
100%
70,5%
1,5%
69,1%
25,5%
4,0%
1.425
1.180
14
1.100
245
4,5
100%
8,28%
0,9%
77,2%
17,2%
0,3%
1.850
1.200
20
1.180
650
9
100%
64,9%
1,1%
63,8%
25,1%
0,5%
Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh - Ngân hàng Công thương khu vực Đống
Đa năm 1999, 2000 và 2001
Tính đến 31/12/2000 tổng vốn huy động đạt 1.425 tỷ đồng tăng so với năm 1999
số tuyệt đối là50 tỷ (tương ứng với tỷ lệ tăng 3,6%).
Đến cuối năm 2001 tổng huy động vốn tăng lên đến 1.850 tỷ đồng tăng so với năm
2000 số tuyệt đối là 425 tỷ (tương đương với tỷ lệ tăng 29,8%). Trong đó, nguồn vốn huy
động được lớn nhất là tiền gửi tiết kiệm năm 2000 đạt 1.180 tỷ đồng tăng 210 tỷ so với
năm 1999,đạt tỷ trọng 82,8% tổng nguồn vốn huy động (năm1999 là 70,5%). Năm 2001
đạt 1.200 tỷ đồng tăng 20 tỷ so với năm 200.Tuy nhiên tổng tiền gửi tiết kiệm có giảm so
với tổng nguồn huy động.
Tiền gửi tiết kiệm huy động chủ yếu là loại có kỳ hạn tăng dần qua các năm:
Năm 1999 huy động được 950 tỷ, chiếm tỷ trọng 69,1%
Năm 2000 huy động được 1.100 tỷ, chiếm tỷ trọng 77,2%
Năm 2001 huy động được 1.180 tỷ, chiếm tỷ trọng 63,8%
Nguồn vốn huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế cũng là trọng tâm huy động vốn
của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa,vì các doanh nghiệp gửi tiền vào Ngân
hàng chủ yếu phục vụ cho nhu cầu thanh toán trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngân
hàng có thể không trả lãi hoặc trả lãi rất thấp cho khoản tiền gửi này. ý thức được điều
này nên Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa hàng năm cố gắng tìm mọi biện pháp
để thu hút nguồn tiền gửi của doanh nghiệp như đưa ra các chính sách lãi suất, lãi suất ưu
đãi và kết quả là nguồn tiền gửi này của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa ngày
một tăng, năm sau cao hơn năm trước, cụ thể lầ :
Năm 1999 đạt350 tỷ chiếm 25,5% trong tổng nguồn huy động.
Năm 2000 có giảm xuống 145 tỷ nhưng vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể 17,2%.
Năm 2001 tăng mạnh lên đến 650 tỷ, chiếm 35,1%.
Đây là nguồn vốn Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa cần phải nỗlực hơn
nữa để có thể thu hút các tổ chức kinh tế,việc đó sẽ làm giảm chi phí đầu vào đối với
Ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng trong đầu ra.
- Nguồn vốn huy động từ kỳ phiếu: Nguồn vốn này được đáp ứng chủ yếu khi cần
có số lượng vốn lớn trong trường hợp cần thiết phải huy động được trong thời gian ngắn.
Ngân hàng Công thương Việt Nam sẽ giao chỉ tiêu xuống các Ngân hàng thương mại cơ
sở để áp dụng các hình thức huy động vốn nhanh nhất.
Kỳ phiếu được các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Công thương
khu vực Đống Đa nói riêng chọn làm hình thức huy động số lượng vốn lớn trong thời
gian ngắn.
Năm 1999 huy động được 55 tỷ, chiếm tỷ trọng 42%
Năm 2000 huy động được 4,5 tỷ, chiếm tỷ trọng 0,3%
Năm 2001 huy động được 9 tỷ, chiếm tỷ trọng 0,5%.
Nhìn chung công tác huy động vốn của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa
từng bước tăng trưởng năm sau cao hơn năm sau cao hơn năm trước, nguồn vốn Ngân
hàng quyết định đến quy mô quyết định đến việc mở rộng hau thu hẹp tín dụng, nguồn
vốn càng dồi dào thì tạo điều kiện đảm bảo khả năng thanh toán từ đó tạo uy tín cho
Ngân hàng trên thị trường, đảm bảo khả năng cạnh tranh, nguồn vốn dồi dào tạo điều
kiện thực thi chính sách tiền tệ, từ đó đảm bảo sử ổn định của tiền tệ, giữ vững giá trị của
đồng tiền.
2. Thực trạng sử dụng vốn tín dụng:
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, cũng như các doanh nghiệp khác, Ngân hàng
Công thương khu vực Đống Đa không tránh khỏi những khó khăn nhất định. Nguyên
nhân cơ bản chuyển sang cơ chế thị trường các doanh nghiệp quốc doanh trong địa bàn
quận - lực lượng khách hàng chủ yếu của chi nhánh gặp nhiều lúng túng. Do tình tài
chính của nhiều doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
của Ngân hàng.Sau khi thực hiện Quyết định số 388/CP của Chính phủ về sắp xếp lại
doanh nghiệp để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp đã và đang có nhiều biện pháp
hữu hiệu như: Đổi mới công nghệ, máy móc và trang thiết bị.Vì vậy muốn đầu tư (bao
gồm cả vốn lưu động và vốn cố định) tăng lên rất lớn cần phải vay vốn từ Ngân hàng đặc
biệt là vốn tín dụng. Để đáp ứng yêu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của khách hàng,
Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa đã áp dụng hàng loạt các hình thức tín dụng
đa dạng và phong phú phù hợp với nhu cầu vay vốn của khách hàng như: Cho vay ngắn
hạn, cho vay trung hạn và dài hạn, đồng tài trợ cho vay hợp vốn đối với những dứan có
quy mô lớn và thời gian hoàn vốn dài. Bảo lãnh mua hàng trả chậm, bảo lãnh tham gia
đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng,vay vốn với bảo lãnh của bên thứ ba.Các chương
trình vay vốn ưu đãi như: Hiệp định vay vốn từ Ngân hàng tái thiết Đức (KFW), Hiệp
định vay vốn từ Công ty hỗ trợ đầu tư phát triển Cộng Hoà Liên Bang Đức (DEG), cho
vay bằng nguồn vốn quỹ phát triển các doanh nghiệp vừ và nhỏ (SMEDF). Nhằm khai
thác triệt để nhu cầu vốn tín dụng của khách hàng, mọi thành phần kinh tế.
Sử dụng vốn là một nghiệp vụ rất quan trọng đối với Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa thường xuyên bám sát mục tiêu phát triển
kinh tế của địa phương, Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa luôn luôn năng động,
đổi mới tập trung vốn đầu tư đối với các đơn vị, tổ chức kinh tế trọng điểm làm ăn có lãi,
phục vụ mục tiêu chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Không
chỉ chủ trương đầu tư cho thành phần kinh tế quốc doanh, Ngân hàng Công thương khu
vực Đống Đa cũng quan tâm đầu tư cho đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh, tuy việc đầu tư
cho thành phần này có tỷ lệ rủi ro cao, ngoài ra Ngân hàng có thực hiện cho vay các đơn
vị xuất nhập khẩu, bảo lãnh.Chúng ta có thể xem xét khái quát kết quả nghiệp vụ tín
dụng ở Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa sau:
Biểu 3: Tình hình cho vay vốn tại Ngân hàng
Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
Sô tiền
Tỷ
trọng
Sô tiền Tỷ trọng Sô tiền
Tỷ
trọng
I/ Cho vay
1. Quốc doanh
2. Ngoài quốc doan
II/ Thu nợ
1. Quốc doanh
2. Ngoài quốc doan
III/ Dư nợ
1. Quốc doanh
2. Ngoài quốc doanh
1.8 5 0
1.400
450
1.565
1.055
510
810
660
150
100%
75,5%
24,3%
100%
67,4%
32,6%
100%
81,5%
18,5%
1.120
1010
110
1.230
1010
130
700
575
130
100%
90,2%
9,8%
100%
89,4%
10,5%
100%
82,1%
18,5%
1.410
1250
160
1.060
1.020
140
950
800
150
100%
88,6%
11,3%
100%
96,2%
13,2%
100%
84,2%
15,8%
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh - Ngân hàng Công thương khu vực Đống
Đa).
Trong chiến lược kinh doanh của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa có xu
hướng đầu tư chú trọng trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.Vì thấy hiệu quả
hoạt động kinh doanh của nó cao hơn thành phần kinh tế quốc doanh đang còn trong tình
trạng “Lãi giả,lỗ thật”.Nhưng sau một vài năm mở cửa các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh không đủ khả năng canh trong điều kiện nền kinh tế thị trường, về phía Ngân hàng thì
việc h oạt động kém hiệu quả của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Do vậy trong 3 năm trở
lại đây Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa chuyển sang phát triển đầu tư cho khối
doanh nghiệp quốc doanh thông qua diễn biến tình hình cho vay và dư nợ của Ngân hàng
nói trên chúng ta thấy:
Năm 1999 tổng dư nợ đạt 810 tỷ đồng, trong đo dư nợ trong thành phần kinh tế
quốc doanh là 660 tỷ đồng chiếm 81,5% tổng dư nợ, trong khi đó dư nợ ngoài quốc
doanh là150 tỷ đồng chiếm 15,8% tổng dư nợ.
Năm 2000 tổng dư nợ đạt 700 tỷ đồng đó dư nợ trong thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh là 575 tỷ đồng chiếm 82,1% tổng dư nợ, trong khi đó dư nợ ngoài quốc
doanh là 150 tỷ đồng chiếm 18,5% tổng dư nợ.
Năm 2001 dư nợ đối vơi thành phần kinh tế quốc doanh tăng mạnh lên đến 800 tỷ
đồng, chiếm tỷ trọng 84,2 tổng dư nợ trong khi đó dư nợ ngoài quốc doanh là 150 tỷ
đồng chiếm 15,8% tổng dư nợ.
Qua phân tích ở trên ta thấy Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa đã thực
hiện được chủ trương và mục tiêu đề ra là tập trung hơn nữa vào đầu tư với thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh, tăng giảm qua các năm , như số liệu trên cho thấy năm 2000
dư nợ giảm hơn năm 1999 là 85 tỷ đồng. Năm 2001 tăn hơn năm 2000 là 22,5 tỷ đồng và
nếu so với năm 1999 thì số dư nợ tăng lên 140 tỷ đồng.
Việc cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy đa dạng và phong
phú nhưng cũng đầy tính phức tạp, cho vay đối với những thành phần này đòi hỏi phải
có tài sản thế chấp làm đảm bảo tiền vay, nhưng các giấy tờ pháp lý cuả tài sản thế chấp
lại không đầy đủ hoặc khi cho vay mà doanh nghiệp gặp sự cố thì việc chuyển hoá tài sản
gặp nhiều khó khăn do các thủ tục pháp lý.
Mở rộng đầu tư cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế là một yêu
cầu cần thiết, song một yêu cầu đặt ra cần quan tâm đúng mức đó là chất lượng và hiệu
quả tín dụng.Chất lượng, hiệu quả đầu tư cho vay của Ngân hàng phải thực sự phục vục
cho nhiệm vụ sản xuất kinh doanh phát triển tăng thêm sản phẩm cho xã hội, giải quyết
được công ăn việc làm cho người lao động Đơn vị, tổ chức kinh tế vay vốn Ngân hàng
làm ăn có lãi,đủ đảm bảo trang trải chi phí,tiền lương
Trả được nợ Ngân hàng cả gốc và lãi đúng hạn và làm đầy đủ trách nhiệm nghĩa
vụ đối với đất nước.
Tuy ngân hàng công thương khu vực Đống Đa đã đạt được những thành công theo
chủ trương đề ra trong công tác huy động vốn và sử dụng vốn, nhưng để đánh giá được
chất lượng tín dụng của Ngân hàng thì chúng ta phải xem xét bằng tỷ trọng nợ quá hạn
thấp hay cao, thể hiện việc cho vay và thu hồi nợ về có phù hợp với thời hạn quy định
hay không. Nói cách khác là phải đảm bảo an toàn vốn trong hoạt động đầu tư cho vạy,
quyết định đến sự tồn tài và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
3. Đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng Công thương khu vực Đống
Đa:
Chất lượng thể hiện chủ yếu qua các năm sau: Tỷ lệ tổng dư nợ so với tổng nguồn
vốn huy động, tỷ lệ quá hạn trên tổng dư nợ.
Biểu4: Kết quả sử dụng vốn tại Ngân hàng
Đơn vị: tỷ đồng
Năm Tổng nguồn vốn huy động Tổng dư nợ Tỷ trọng dư nợ
1999 1.375 810 58,9
2000 1.429 700 48,9
2001 1.859 950 51,1
(Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp - Ngân hàng công thương khu vực Đống
Đa)
Phân tích từ đây ta thấy tỷ lệ này cao phản ánh được hiệu quả sử dụng vốn.
Biểu 5: tình hình nợ quá hạn
Năm Tổng dư nợ Dư nợ quá hạn Tỷ trọng dư nợ
1999
2000
2001
810
700
950
12
20
16
1,5
2,9
1,7
(Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp - Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa).
Từ biểu số liệu trên ta thấy dư nợ quá hạn năm 1999 lại thấp hơn so với năm 2000.
Song nếu xét trên tổng dư nợ thì tỷ lệ này cao hơn rất nhiều. Điều đó chứng tỏ rằng trong
hai năm 1999 và 2000 tốc độ giảm nợ quá hạn của Ngân hàng còn chậm. Sang đến năm
2001 dư nợ quá hạn trong khoảng 16 tỷ đồng nhưng xét trên tỷ lệ tổng dư nợ thì con số
này vẫn ở khoảng thấp 1,7 % dưới mức cho phép (dưới 5%).
Biểu 6: Biểu diễn dư nợ quá hạn các năm.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999 Năm 2000 Nănm 2001
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng
I. Tổng dư nợ 810 100% 700 100% 950 100%
II. Dư nợ quá hạn 12 1,48% 20 2,86% 16 1,68%
1. Quốc doanh 2,5 0,31% 6 0,86% 4 0,42%
2. Ngoài quốc
doanh
9,5 1,17% 14 2% 12 1,26%
(Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp - Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa)
Thông qua biểu diễn biến tình hình nợ quá hạn ta thấy:
- Năm 1999 dư nợ quá hạn 12 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 1,48 % tổng dư nợ.
Năm 2000 dư nợ quá hạn tăng lên 20 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,86% tổng dư nợ.
Năm 2001 dư nợ quá hạn tăng lên 20 tỷ đồng so với năm 2000 chiếm tỷ trọng
1,68% tổng dư nợ.
Trong dư nợ quá hạn thì dư nợ đối với ngoại quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn, công
quốc doanh chiếm tỷ trọng nhỏ, điều này chứng tỏ đầu tư tín dụng Ngân hàng Công
thương khu vực Đống Đa vài năm trở lại đây cho thành phần kinh tế quốc doanh là đúng
đắn. Với tỷ lệ nợ quá hạn tương đối thấp của Ngân hàng Cong thương khu vực Đống Đa
ta có thể thấy rằng chất lượng kinh doanh tín dụng của Ngân hàng là có khả quan, việc
đầu tư cho vay về cơ bản là đúng chính sách, chế độ, thể lệ.
Tuy nhiên nợ quá hạn vẫn còn tồn tại và cần phải tiếp tục bằng mọi biện pháp để
giải quyết, giảm thiểu nợ quá hạn nhất là những khoản nợ quá hạn khó đòi trong tổng số
dư nợ quá hạn. Nợ quá hạn không thể tránh khỏi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng,
đặc biệt là trong kinh doanh tín dụng, song khi có nợ quá hạn xảy ra thì dù lớn hay nhỏ
mỗi mức độ có tính chất khác nhau tác động ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, đến
thu nhập và lợi nhuận của Ngân hàng. Vì vậy ta phải tìm nguyên nhân gây ra nợ quá hạn
của Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa để tìm ra các biện pháp khác nhau tác
động ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh,đến thu nhập và lợi nhuận của Ngân hàng. Vì
vậy ta phải tìm nguyên nhân gây ra nợ quá hạn của Ngân hàng công thương khu vực
đống đa để tìm ra các biện pháp khắc phục.
Biểu7: Phân tích nợ quá hạn theo nguyên nhân:
Đơn vị: tỷ đồng
Nguyên nhân nợ
quá hạn
Năm 1999 Năm 2000 Nănm 2001
Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng
Tổng dư nợ quá
hạn
12,0 100% 20,0 100% 16,0 100%
- Kinh doanh 9,7 80,8% 15,9 79,56% 11,4 71,3%
Cơ chế 1,3 10,8% 2,1 10,5% 1,6 10,0%
- Nguyên nhân
khác
1,0 8,4% 2,0 10,0% 3,0 18,7%
(Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp – Ngân hàng Công thương khu vực Đống
Đa)
Thông qua biểu đồ trên ta thấy rằng nguyên nhân gây tình trạng nợ quá hạn của
Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa là do hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Năm 1999 Nợ quá hạn do kinh doanh là 9,7 tỷ đồng chiếm 80,8% dư nợ quá hạn.
Năm 200 nợ quá hạn do kinh doanh là 15,9 tỷ đồng chiếm 79,5% dư nợ quá hạn.
Năm 2001 nợ quá hạn do kinh doanh là 11,4 tỷ đồng chiếm 71,3% dư nợ quá hạn.
Phân tích nguyên nhân nợ quá hạn của Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa
qua các năm được thể hiện do những nguyên nhân sau:
+ Cơ chế qua các năm có xu hướng giảm thấp hơn về kinh doanh vì: Do chính
sách của Đảng và Nhà nước không được đồng bộ cho nên các doanh nghiệp dự trữ hàng
rất lớn sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm của mình dẫn đến tình trạng
không trả được Ngân hàng.
Trên thị trường có rất nhiều sản phẩm mẫu mã phong phú, nhà kinh doanh phải
biết nhạy bén trong thế cạnh tranh các mặt hàng và phải kịp thời nắm bắt có chế chính
sách của Đảng và Nhà nước để có các biện pháp khắc phục ngay. Nếu không doanh
nghiệp không xuất khẩu được hàng hoá bị ứ đọng và không thu hồi được vốn. Cho nên
doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng mà không có khả năng trả nợ thì đó cũng là một
nguyên nhân gây ra nợ quá hạn cho Ngân hàng. Vốn của Ngân hàng là đồng tiền “ quầy
vòng” nhanh để đáp ứng cho thị trường một khối lượng tiền lớn. Nếu lượng tiền mà ngân
hàng bỏ ra không thu hồi được vốn thì Ngân hàng gặp nhiều rủi ro khi cho vay.
Ví dụ: doanh nghiệp sản xuất mặt hàng xuất khẩu gỗ Pơmu khi doanh nghiệp ký
kết hợp đồng bằng gỗ hay nguyên vật liệu bằng gỗ thị vào thời điểm đó Nhà nước ra
chính sách cấm xuất khẩu mặt hàng này, do vậy dẫn đến tình trạng doanh nghiệp rất lao
đao trong việc tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường. Không phải chỉ doanh nghiệp
mất vốn mà cả Ngân hàng cũng mất vốn do cơ chế chính sách gây ra.
+ Nguyên nhân thứ hai là do kinh doanh làm ăn thua lỗ, không trả nợ, có nhiều
nguyên nhân dẫn đến việc kinh doanh thu lỗ. Các doanh nghiệp khi kinh doanh đều có
thể gặp các rủi ro do những nguyên nhân chủ quan, khách quan đem lại, nhưng khi gặp
các rủi ro do ấy doanh nghiệp không có khả năng thanh toán có Ngân hàng thì sẽ dẫn tới
tình trạng không trả được nợ Ngân hàng đúng hạn.
+ Nguyên nhân thứ ba là do: Hàng ngoại nhập vào nhiều bằng các con đường
trong đó cả hàng nhập khẩu trái phép, khiến hàng hoá của các doanh nghiệp tiêu thu
chậm hoặc không tiêu thụ được do phải cạnh tranh vì thế mà không có doanh thu trả nợ
cho Ngân hàng.
3.1. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
3.1.1. Tồn tại
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, có
sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau đã dẫn đến không ít những doanh nghiệp
đã bộc lộ những yếu kém và lúng túng trong hoạt động kinh doanh, có những doanh
nghiệp bị giải thể phá sản đã sinh ra tình trạng nợ quá hạn đối với Ngân hàng. Điều này
gây nên rủi ro trong kinh doanh tín dụng đố với Ngân hàng. Ngân hàng Công thương khu
vực Đống Đa với số lượng khác hàng đông đảo thuộc mọi thành phần kinh tế và lĩnh vực
kinh doanh khác nhau cũng không tách khỏi rủi ro về tín dụng.
Trong hoạt động kinh doanh tín dụng có những sự việc xẩy ra trong ngân hàng mà
ngân hàng không thể lường trước được và ngoài mong muốn của ngân hàng đã làm thiệt
hại và làm giảm thấp kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Nợ quá hạn nâng cao chất
lượng tín dụng là vấn đề quan tâm số một của hoạt động kinh doanh tiền tệ. Có thể nợ
quá hạn là tồn tại có bản nhất, nếu không nhanh chóng khắc phục sẽ đe dọa trực tiếp đến
sự lành mạnh và an toàn của hệ thống ngân hàng cũng như tình hình gây ra như không trả
nợ và lãi vay ngân hàng lạm phát sinh quá hạn, khó đòi, nợ có khả năng không thu hồi
được làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra còn có
nguyên nhân từ phía Ngân hàng như trong quá trình cho vay chưa kiểm tra, giám sát kỹ
lưỡng tình hình hoạt động của các doanh nghiệp vay hoặc chưa tuân thủ nghiêm ngặt các
quy định về thế chấp, bảo lãnh vốn vay dẫn đến bị doanh nghiệp lợi dụng cho chính sách
lãi suất cho vay cao.
Việc phát sinh nợ quá hạn, về bản chất là đến hạn trả nợ nhưng khách hàng chưa
trả hoặc không trả được nợ. Sau đây chúng ta xem xét tình hình nợ quá hạn của Ngân
hàng Công thương khu vực Đống Đa trong vòng 3 năm trở lại đây:
3.1.2. Hạn chế:
Trên địa bàn quận Đống Đa tập trung nhiều Ngân hàng hoặc các chi nhánh hàng
khác cùng hoạt động. Do yếu tố cạnh tranh của nền kinh tế thị trường để tồn tại, sự cạnh
tranh diễn ra gay gắt, cụ thể việc cạnh tranh khách hàng, cạnh tranh bằng lãi xuất huy
động và giảm lãi suất cho vay để thu hút nhiều khách hàng. Hiện nay Ngân hàng Nhà
nước đang có xu hướng giảm lãi suất tiền ngọai tệ tạo nguồn vốn cho vay.
Trên địa bàn quận Đống Đa khách hàng của chi nhánh chủ yếu là các đơn vị có
nhu cầu nhập khẩu từ nước ngoài thành phẩm chủ yếu tiêu thụ trong nước. Do vậy thu
hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ giao dịch với chi nhánh còn nhiều hạn chế.
3.2. Nguyên nhân về tồn tại và hạn chế:
Nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng bao gồm nguyên nhân chủ quan
và nguyên nhân khách quan:
3.2.1. Nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân được coi là quan trọng nhất là sự bất cấp về trình độ đội ngũ cán bộ
ngân hàng. Hầu hết cán bộ hiện nay đều được đào tạo một cách cơ bản. Trước đây với
nội dung đào tạo phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung hành chính bao cấp, làm
viêc theo kinh nghiệm. Chưa được tiếp xúc với hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị
trường nên khi chuyển hoạt động ngân hàng theo cơ chế cũ thì gặp nhiều khó khăn lúng
túng, khuyết điểm trong chỉ đạo điều hành và xử lý nghiệp vụ. Tuy nhiên trong những
năm gần đây với việc phát triển nhanh chóng của công nghệ ngân hàng và công nghệ
thông tin đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động kinh doanh tiền tệ trong cơ chế thị trường.
Vì vậy muốn đưa đội ngũ cán bộ Ngân hàng vươn lên, đáp ứng những đòi hỏi của. Công
cuộc đổi mới nền kinh tế xã hội nói chung và đổi mới hoạt động ngân hàng nói riêng thì
không còn cách nào khác là phải đào tạo lại một số ít cán bộ tín dụng chưa thích nghi với
điều kiện mới. Trong hoạt động Ngân hàng cụ thể về công tác tín dụng gặp khó khăn là
do cán bộ Ngân hàng chưa thực hiện tốt được công việc của mình và chưa đưa ra được
những quyết định kịp thời chính xác.
Muốn xác định được một doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả hay không thì cán bộ
tín dụng phải có một vốn kiến thức hiểu biết về lĩnh vực chuyên môn mà khách hàng của
mình đang sản xuất kinh doanh.
Một cán bộ tín dụng dù giỏi đến đây cũng không thể có hiểu biết sâu sắc mọi lĩnh
vực kinh doanh của nền kinh tế. Sự gia tăng các khoản nợ khó đòi là một bài học sây sắc
cho sự hiểu biết kém của cán bộ tín dụng đối với hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Công tác thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng chưa đầy đủ, cung cấp thông tin
thiếu chính xác dẫn đến rủi ro không ngừa trước được.
Bộ máy thanh tra kiểm soát việc hiệu quả chưa cao, chưa kịp thời phát hiện những
sai sót trong quy trình nghiệp vụ và trong công tác đầu tư để có biện pháp xử lý kịp thời
dẫn đến thất thoát vốn.
3.2.2. Nguyên nhân khách quan.
Một là: Do môi trường kinh tế vn chưa lành mạnh, trong công cuộc đổi mới nền
kinh tế nước ta đã có mặt tích cực đạt được như tăng trưởng kinh tế tương đối ổn định,
ngăn chặn lạm phát. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những mặt yếu kém như hiệu quả nền kinh
tế còn thấp, sự phân phối giữa các ngành các cấp chưa đồng bộ. Dẫn đến nền kinh tế mất
cân đối cung cầu, làm ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó cơ chế chính sách về xuất nhập khẩu chưa chặt chẽ còn để hàng nhập
lậu dẫn đến tình trạng các mặt hàng trong nước sản xuất ra chậm lưu thông. Hàng trong
nước không cạnh tranh được là vì hàng nhập lậu quá rẻ, mẫu mã phong phú phù hợp với
nhu cầu của người tiêu dùng mà hàng hoá Việt nam sản xuất giá thành cao do máy móc
và công nghệ cũ nên việc cạnh tranh khó khăn, không tiêu thụ được hàng hoá dẫn đến ứ
đọng và không trả được vốn và lãi cho ngân hàng.
Hai là: Trình độ tổ chức hoạt động của các tổ chức kế toán tín dụng với ngân hàng
còn nhiều yếu kém, hiệu quả kinh doanh thấp. Nếu thực hiện đúng quy định của Nhà
nước là doanh nghiệp làm ăn thua lỗ vốn tự có không đảm bảo thì không đầu tư, như thế
sẽ đẩy doanh nghiệp làm ăn thua lỗ mà ngân hàng vẫn cho vay, nếu thấy doanh nghiệp ấy
vẫn có khả năng đứng vững được trong thị trường thì ngân hàng cho vay là đúng đắn.
Nhưng ngược lại ngân hàng vẫn cho vay mà doanh nghiệp làm ăn càng thua lỗ thì Ngân
hàng sẽ gặp khó khăn hơn trong việc thu hồi vốn, nợ quá hạn sẽ cao.
Ba là: Hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến Ngân hàng hiện nay tuy đã
được cải tiển nhiều nhưng vẫn chưa thực sự hợp lý và thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ còn
nhiều vướng mắc gây khó khăn cho hoạt động của Ngân hàng vào cho nền kinh tế, cụ thể
là:
Về giấy tờ pháp lý của tài sản thế chấp: hiện nay bất động sản được đưa ra làm tài
sản thế chấp vẫn chưa đáp ứng đù điều kiện cần thiết về giấy tờ chứng nhận quyền sở
hữu và cũng không biết được mỗi loại có mấy bản gốc để đưa v ào thế chấp. Việc này
dẫn đến tình trạng một khách hàng có thể mang giấy tờ đi vay tại nhiều Ngân hàng với
một tài sản thế chấp.
Việc đăng ký thế chấp cầm cố: Chưa có quy định rõ ràng về phạm vi và trách
nhiệm của các cơ quan quản lý trình tự thủ tục đăng ký thế chấp như thế nào.
Ngoài ra, chất lượng tín dụng còn bị ảnh hưởng bới các nguyên nhân khách quan
như: Thiên tai, lũ lụt, hoả hoan thay đỏi cơ chế chính sách tệ nạn xã hội
Chương III.
Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng
công thương khu vực đống đa
I.định hướng hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan, cạnh
tranh là đọ sức, nói một cách khác, cạnh tranh là việc giữ vững thị phần của mình, mở
rộng thị phần của mình sang thị trường tiềm năng và xâm lẫn thị trường của đối thủ cạnh
tranh. Từ đó để tạo môi trường cơ sở giúp các doanh nghiệp tăng cường cơ sở vật chất kỹ
thuật, đổi mới công nghệ phát huy năng lực cạnh tranh theo định hướng công nghiệp hoá
- hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện mục tiêu phương hướng mà ngân hàng công
thương khu vực đống đa là nguồn vốn huy động đến Quí I năm 2003 đạt 1. 950 tỷ đồng.
Tổng dư nợ đạt 1.200 tỷ đồng. Trong đó khối quốc doanh đạt 82%. Dư nợ trung dài hạn
đạt tỷ trọng 45% tỷ lệ nợ quá hạn đạt không quá 3.5% tăng tỷ trọng thu dịch vụ phí 1.5%
so với năm 2002 lợi nhuận hạch toán đạt 22 tỷ đồng. Như vậy hoạt động kinh doanh dịch
vụ tiền tệ của Ngân hàng công thương khu vực Đống đa những năm gần đây và đặc biệt
là năm 2001-2002 luôn đạt hiệu quả cao. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn bám
sát tiến độ thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn để
đẩy mạnh huy động vốn và đầu tư tín dụng, nên đã góp phần thiết kế thực vào việc vào
mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn để đẩy mạnh huy động
vốn và đầu tư tín dụng, góp phần thiết thực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá của thủ đô.
Bước vào năm 2003, Ngân hàng Công thương khu vực Đống đa vẫn tiếp tục tìm
các giải pháp đổi mới các hoạt động nhận tiền bằng VNĐ và ngoại tệ tại trụ sở chính 187
Tây sơn, hai phòng giao dịch tại Cát Linh và Kim Liên cùng 14 quỹ tiết kiệm đặt tại các
phường và đường phố đông dân cư trong quận Đống đa. Dự kiến đưa nguồn vốn huy
động tăng lên 1950 tỷ đồng, tổng dư nợ cho vay tăng 10% so với năm 2002. Thực hiện
phương hướng kinh doanh trên, từ lãnh đạo đến cán bộ công nhân viên phải hợp tác một
lòng, đoàn kết nhất trí, mở rộng cho vay đối với mọi thành phần trên đại bàn, đầu tư vốn
tín dụng với người tiêu dùng về chất lượng. Để mở thị trường đầu tư vốn tín dụng ngắn
hạn, ngân hàng nâng cao tỷ trọng đầu tư chiều sâu tăng hơn năm 2002 trong tổng dư nợ
cho vay nhằm mục đích để bạn hàng của ngân hàng mở rộng, phát triển sản xuất kinh
doanh. Ngân hàng còn mở rộng dịch vụ cho vay đồng tài trợ cho vay đến các dự án có
quy mô lớn. Ngân hàng cũng có phải cải tiến trả tiền lương của cán bộ công nhân viên
các doanh nghiệp đăng ký với ngân hàng chuyển vào tài khoản cá nhân, mở thêm dịch vụ
thu tiền tại các đơn vị cho các Công ty có nguồn thu tiền mặt lớn miễn phí, dịch vụ trả
tiền tự động qua máy ATM đặt tại nơi thuận tiện phục vụ khách hàng nhanh chóng.
II. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng
công thương khu vực đống đa
1. Thực hiện nghiêm các biện pháp phòng ngừa rủi ro, hạn chế nợ quá hạn.
Công việc đầu tiên để thực hiện ngăn ngừa rủi ro là Ngân hàng phải củng cố mạng
lưới thu thập và xử lí thông tin khách hàng để nâng cao được chất lượng của công tác
thẩm định dự án. Ngân hàng cần liên hệ thường xuyên với khách cũng như các cơ quan
quản lí khách hàng (các Bộ, các Tổng công ty..) để có được những thông tin chính xác về
thực trạng kinh doanh hiện tại của khách hàng, khả năng phát triển trong tương lai của họ
lấy đó là một cơ sở quan trọng nhất để ra quyết định cấp tín dụng.
Trong thẩm định dự án phải chú trọng đến năng lực pháp lí của người vay và đặc
biệt là kế hoạch về khả năng sinh lời của dự án, kế hoạch trả nợ trên cơ sở gắn những yếu
tố về chi phí thu nhập của dự án với các yếu tố tương đương trên thị trường và xu hướng
biến động của chúng trong tương lai. Ngoài ra, với những khách hàng mới cũng cần có sự
đảm bảo của cơ quan chủ quản( Tổng công ty, Bộ...) hay sử dụng tài sản cầm cố. Tuy
nhiên, không quá coi trọng vào tài sản thế chấp.
Tiếp đến Ngân hàng phải tiến hành phân định cán bộ tín dụng theo dõi tình hình
sử dụng vốn trong suốt dự án chứ không chỉ chú trọng ở riêng giai đoạn đầu và cuối như
hiện nay.
Về quản lí thu nợ và xử lí nợ quá hạn: Ngân hàng và khách hàng phải xác định
lịch trả nợ phù hợp với lịch thu được lợi nhuận từ hoạt động của khách, tránh gây căng
thẳng về vốn cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần qui định chặt chẽ về việc yêu cầu doanh
nghiệp mở tài khoản tại Ngân hàng để thuận lợi thu nợ.
Ngân hàng cần phát hiện sớm các khoản cho vay có dấu hiệu bị đe doạ thông qua
các dấu hiệu như: Doanh nghiệp chậm chễ trong việc nộp báo cáo tài chính, báo các kết
quả hoạt động kinh doanh; có dấu hiệu trốn tránh sự kiểm tra của Ngân hàng; số dư tiền
mặt giảm; gia tăng bất thường về hàng tồn kho hoặc các khoản nợ thương mại, hoàn trả
nợ và lãi chậm... để chủ động tìm biện pháp xử lí chứ không nên trông chờ vào doanh
nghiệp. Cụ thể :
- Cán bộ Ngân hàng có thể cho lời khuyên hoặc cố vấn cho khách hàng trong tiêu
thụ sản phẩm, thu nợ khách hàng của doanh nghiệp.
- Tăng thêm vốn cho doanh nghiệp thông qua các hình thức như: mở rộng cho vay
tín chấp. Hay là, Ngân hàng có thể cho vay thêm hợp đồng tín dụng với khác trên cơ sở
có người đứng ra bảo lãnh.
- Đề nghị doanh nghiệp huy động vốn từ bên ngoài thông qua các hình thức như
cổ phiếu, trái phiếu.
- Đối với các khoản cho vay mà sau khi phát hiện và thực hiện các biện pháp hỗ
trợ vẫn không có tác dụng dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi khi đó Ngân hàng cần phải
thực hiện các biện pháp về khai thác và thanh lí.
+ Biện pháp khai thác: Ngân hàng có thể gia hạn hợp đồng tín dụng, giảm qui mô
hoàn trả trước mắt hoặc có thể dãn nợ cho các doanh nghiệp. Các hình thức này chỉ nên
áp dụng với các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh, có thu nhập có khả
năng trả nợ; có ý thức trả nợ, trong quá trình vay đã trả được một phần nợ gốc và lãi;
doanh nghiệp phải có tài sản cầm cố thế chấp dễ phát mại.
+ Biện pháp thanh lí tài sản thế chấp: Khi mà mọi sự cứu vãn tình thế trở nên
không còn hiệu quả thì Ngân hàng cần phải sử dụng biện pháp thanh lí nợ. Ngân hàng có
thể áp dụng hình thức gán nợ hay khởi kiện tuỳ theo quan hệ với khách, ý thức mong
muốn trả nợ và nguyên nhân không trả được nợ của khách.
- Gán nợ: Ngân hàng sẽ áp dụng hình thức gán nợ với các khách hnàg không có
khả năng trả nợ và họ uỷ quyền cho Ngân hàng toàn quyền quyết định đối với tài sản thế
chấp. Ngân hàng có thể sử dụng tài sản để cho thuê, làm trụ sở hay bán lại cho người
khác.
- Khởi kiện: Với những khách hàng có hành vi trốn tránh, lừa đảo thì Ngân hàng
sẽ tiến hành khởi kiện ra pháp luật.
Nếu các tài sản thế chấp có đủ hồ sơ hợp pháp, sau khi có quyết định của toà án thì
Ngân hàng nên chuyển qua trung tâm đấu giá hoặc thu hồi sử dụng như với hình thức gán
nợ. Còn nếu các tài sản có đủ hồ sơ pháp lí nhưng lại có thế chấp ở Ngân hàng khác thì
tiến hành phát mại và phân chia theo quyết định của toà án.
Đối với những khoản vay không có thế chấp, bảo đảm thì khả năng gánh chịu rủi
ro của Ngân hàng là khó tránh khỏi.
2.Tăng cường công tác kiểm tra - kiểm soát
Cần tăng cường công tác kiểm tra việc sử dụng vốn vay củakhách hàng, nếu việc
kiểm tra được sát sao sẽ giúp cho người vay sử dụng nguồn vốn đúng mục đích và có
hiệu quả cao hơn. Nếu thiếu kiểm tra đôn đốc thì khi phát hiện đã quá muộn, Kết quả làm
nẩy sinh những khoản nợ khó đòi. ở Ngân hàng công thương khu vực đa mặc dù tỷ lệ nợ
quả hạn tương đối thấp nhưng không vì thế mà sao nhãng công việc này.
Tăng cường kiểm tra kiểm soát trước trong và sau khi cho vay là yêu cầu hết sức
quan trọng nhằm mục đích bào vệ tốt cơ chế tín dụng ngăn ngừa các hoạt động kinh
doanh trái pháp luật, lợi dụng, lừa đảo... kiểm tra, kiểm soát còn chỉ ra những phạm vi
đáng quan tâm trong hoạt động quản lý.
Kiểm tra trước khi cho vay: là giai đoạn từ khi khách hàng xin vay đến khi Ngân
hàng ký xong hợp đồng tín dụng.
Các bộ tín dụng kiểm trả các điều khoản trong hợp đồng tín dụng có được thực
hiện đúng hay không, tình hình chấp hành những vấn đề cơ bản của tín dụng ngân hàng
như: sử dụng vốn có sai mục đích hay không? Vốn vay có giá trị vật tư hàng hoá đảm
bảo hay không?
Ngân hàng tiến hành thẩm định về khách hàng như: Ngân hàng tiến hành kiểm tra
hồ sơ cho vay vốn có hợp lệ không kiểm tra chính xác những số liệu trong hồ sơ, tình
hình tài chính của người vay vốn: vốn tự có, khả năng thanh toán vốn, mức sinh lời của
dự án, kiểm tra khách hàng có phương án sản xuất kinh doanh xem có tính khả thi hay
không.
Kiểm tra sau khi cho vay: ngân hàng kiểm tra khả năng phát huy hiệu quả sử dụng
vốn thông qua tình hình tài chính, tiêu thụ sản phẩm, phân tích kết quả hoạt động tài
chính của khách hàng. Đồng thời kiểm tra nợ Ngân hàng.
Kiểm tra sau khi cho vay là trong suốt việc tra của ngân hàng khi ngân hàng phát
tiền vay đến khi thu hết nợ. Ngân hàng kiểm tra tiến độ thực hiện sản xuất kinh doanh,
tình hình kế hoạch trả nợ của khách hàng. Nếu khách hàng trả nợ chậm cho ngân hàng
thì ngân hàng xem xét khách hàng vì lý do gì mà chưa trả nợ hay ngân hàng xem khách
hàng có thể trả nợ được nữa hay không. Nếu như khách hàng sản xuất kinh doanh vẫn
bình thường thì có nghĩa là khách hàng đó chây ỉ trả nợ thì ngân hàng xử lý. Nếu nguyên
nhân tác động đến khách hàng là do khách quan hay tai nạn, mất khả năng hoạt động kinh
doanh dẫn đến không trả nợ được thì ngân hàng sẽ tiến hành phân tích nguyên nhân xử lý
theo quy định.
Theo định kỳ thì ngân hàng phải phân tích tình hình sản xuất kinh doanh. Hay tình
hình tài chính của doanh nghiệp theo cơ sở đó sự phân loại doanh nghiệp. Ta xét doanh
nghiệp loại tốt, trung bình, loại yếu. Từ đó ngân hàng sẽ áp dụng theo thể lệ cho vay, có
thể cho vay theo hạn mức hoặc cho vay theo từng lần tuỳ từng độ tín nhiệm của doanh
nghiệp.
Việc kiểm tra kiểm soát được tăng cường chắc chắn sẽ phát triển và xử lý kịp thời
những vi phạm trong hợp đồng tín dụng, thực hiện tốt quy chế tín dụng vừa nâng cao
trách nhiệm sử dụng vốn vay của Ngân hàng và giúp doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
có hiệu quả
3. Chiến lược con người, phát huy hiệu quả nguồn nhân lực
Đội ngũ cán bộ ngân hàng và nâng cao chất lượng tín dụng đảm bảo an toàn trong
kinh doanh là hai nhiệm vụ quan trọng, có quan hệ chặt chẽ với nhau.Về chất lượng tín
dụng, hoạt động tín dụng Ngân hàng hiện nay đang đứng trước thực trạng nợ quá cao,
nguy cơ mất vốn lớn có thể đưa đến mất an toàn cả hệ thống và là lĩnh vực chứa đựng rủi
ro co hơn nhiều ngành kinh doanh khác thì yếu tố con người có thể coi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa.pdf