Tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Láng Hạ: Trang 1
Luận văn
Giải pháp mở rộng hoạt
động tín dụng ngắn hạn tại
NHNo&PTNT Việt Nam
Chi nhánh Láng Hạ
Trang 2
LỜI NÓI ĐẦU
Vốn là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong việc đảm
bảo tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả. Không chỉ có nhu cầu
vốn trung và dài hạn để đổi mới công nghệ, nhà xưởng, máy móc, các doanh
nghiệp luôn có nhu cầu vay vốn ngắn hạn để bổ xung cho nhu cầu thiếu hụt vốn
tạm thời khi gặp khó khăn trong việc thanh toán với khách hàng, trả lương cho
công nhân, mở rộng sản xuất trong mùa vụ… Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế
nước ta chưa phát triển, các doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ - dễ gặp
phải khó khăn về vốn ngắn hạn mà không có khả năng giải quyết - do đó nhu cầu
vay vốn ngắn hạn, đặc biệt là nguồn vay từ ngân hàng là rất cao.
Chính vì sự quan trọng của tín dụng ngắn hạn đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp như vậy, đồng thời với chủ trương của Đảng và
...
87 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1212 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Láng Hạ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1
Luận văn
Giải pháp mở rộng hoạt
động tín dụng ngắn hạn tại
NHNo&PTNT Việt Nam
Chi nhánh Láng Hạ
Trang 2
LỜI NÓI ĐẦU
Vốn là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong việc đảm
bảo tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả. Không chỉ có nhu cầu
vốn trung và dài hạn để đổi mới công nghệ, nhà xưởng, máy móc, các doanh
nghiệp luôn có nhu cầu vay vốn ngắn hạn để bổ xung cho nhu cầu thiếu hụt vốn
tạm thời khi gặp khó khăn trong việc thanh toán với khách hàng, trả lương cho
công nhân, mở rộng sản xuất trong mùa vụ… Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế
nước ta chưa phát triển, các doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ - dễ gặp
phải khó khăn về vốn ngắn hạn mà không có khả năng giải quyết - do đó nhu cầu
vay vốn ngắn hạn, đặc biệt là nguồn vay từ ngân hàng là rất cao.
Chính vì sự quan trọng của tín dụng ngắn hạn đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp như vậy, đồng thời với chủ trương của Đảng và
Nhà nước ta hiện nay, nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp có quy mô nhỏ mở rộng sản
xuất, kích thích tính năng động sáng tạo của chúng, các NHTM đặc biệt là các
ngân hàng trên địa bàn Hà Nội đã có những biện pháp mở rộng hoạt động tín dụng
ngắn hạn nhằm giúp các doanh nghiệp này.
Là một chi nhánh còn khá non trẻ nhưng NHNo&PTNT Láng Hạ đã đạt
được khá nhiều thành tích đáng ghi nhận. Tuy nhiên vấn đề đặt ra cho Chi nhánh
trước tình hình hiện nay là tỷ trọng cho vay ngắn hạn tại Chi nhánh rất nhỏ và có
xu hướng giảm. Trong khi đó, địa bàn Hà Nội là nơi đông dân cư và tập trung
nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ với nhu cầu vốn ngắn hạn cao. Do đó, bức xúc
hiện nay của Chi nhánh là làm thế nào để mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn,
từng bước giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, từ đó góp phần phát triển kinh
tế, xã hội.
Nắm bắt được yêu cầu cấp thiết trên, sau thời gian thực tập tại phòng Tín
dụng NHNo&PTNT Chi nhánh Láng Hạ, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề
tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHNo&PTNT Việt
Nam Chi nhánh Láng Hạ”.
Theo đó, luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận cấu gồm 3 phần chính:
Trang 3
Chương I: TÍN DỤNG NGẮN HẠN VÀ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG NGẮN HẠN TẠI CÁC NHTM.
Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI
NHNo&PTNT VIỆT NAM CHI NHÁNH LÁNG HẠ.
Chương III: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN
HẠN TẠI CHI NHÁNH LÁNG HẠ.
Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành cảm ơn thầy Hoàng Xuân
Quế và các anh chị cán bộ phòng Tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh
Láng Hạ đã tận tình quan tâm chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và
làm luận văn.
Hà Nội, 6 - 2003
Trang 4
CHƯƠNG I
TÍN DỤNG NGẮN HẠN VÀ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN
HẠN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Một số vấn đề cơ bản về ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại.
Cùng với sự phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá ngân hàng thương
mại đã ra đời và trở thành một thứ dầu bôi trơn cho cỗ máy kinh tế hoạt động một
cách nhịp nhàng thông suốt. Ngân hàng thương mại đã hình thành và tồn tại như
một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hàng hoá. Sản xuất lưu
thông hàng hoá càng phát triển nhu cầu giao lưu giữa các vùng càng tăng, tuy
nhiên do sự khác biệt giữa các vùng về tiền tệ cũng như sự khác biệt về địa lý làm
nhu cầu đổi tiền cũng như gửi tiền và thanh toán hộ của các thương gia xuất hiện.
Và cũng chính nhờ hoạt động nhận tiền gửi và thanh toán hộ mà những người giữ
tiền đã nắm trong tay một khối lượng tiền lớn từ đó họ dễ dàng thực hiện hoạt
động cho vay do tính vô danh của tiền tệ. Ngân hàng thương mại đã ra đời từ đó
cùng với những nghiệp vụ cơ bản của nó, đến nay trải qua bao thăng trầm của nền
kinh tế hoạt động của Ngân hàng thương mại đã mở rộng không chỉ quy mô, chất
lượng mà số lượng, loại hình các dịch vụ cũng ngày càng mở rộng đáp ứng nhu
cầu của khách hàng. Từ đó Ngân hàng thương mại đã trở thành một bộ phận không
thể thiếu của nền kinh tế, hoạt động của Ngân hàng thương mại ảnh hưởng mạnh
mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế.
Trải qua thời gian tương đối dài với những biến động của nền kinh tế, rất
nhiều khái niệm về Ngân hàng thương mại đã được hình thành. Ta thấy rằng Ngân
hàng thương mại được xem xét ở rất nhiều khía cạnh khác như:
ở Việt Nam theo sắc lệnh 018CT/LDGCQL/SL ngày 20/10/1969 của chính
quyền Sài Gòn cũ cho rằng: Ngân hàng thương mại là mọi xí nghiệp công hay tư
lập, kể cả những chi nhánh hay phân cục ngân hàng ngoại quốc mà hoạt động
thường xuyên là thi hành cho chính mình nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu, tài chính
với tiền ký thác của tư nhân hay chi nhánh hay chi nhánh công quyền.
Trang 5
Hay một cách tiếp cận Ngân hàng thương mại dựa trên những dịch vụ mà
ngân hàng mang lại như Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính tiền
tệ cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là nghiệp vụ
tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh tế nào trong nền kinh tế.
Theo pháp lệnh ngân hàng 23/5/1990 của Hội đồng Nhà nước xác định:
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu thường
xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền
đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Như vậy nhìn chung từ khái niệm ta có thể thấy rằng Ngân hàng thương mại
có các đặc trưng :
+ Là tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn
trả.
+ Được phép nhận ký thác để cho vay, chiết khấu và thực hiện các nghiệp
vụ tài chính khác.
Như vậy ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh
nghiệp đặc biệt hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng với với mục đích thu
lợi nhuận.
Do sự bùng nổ về thông tin và công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng
ngày càng được hiện đại hoá. Do đó để có thể cạnh tranh và hợp tác, hoạt động
ngân hàng không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng, một quốc gia mà hoà nhập
trong toàn cầu. Điều đó tạo ra một cơ hội mới cho các ngân hàng trong việc phát
triển sản phẩm mở rộng thị trường nhưng cũng tạo ra rất nhiều thách thức cho các
ngân hàng trong sự cạnh tranh.
Không những vậy, căn cứ vào tính chất sở hữu và hình thức góp vốn có rất
nhiều loại Ngân hàng thương mại như Ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân
hàng cổ phần, liên doanh, ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam… góp phần đa dạng
hoá các loại hình ngân hàng tại Việt Nam. Từ đó thúc đẩy sự tự do cạnh tranh một
Trang 6
cách lành mạnh, giúp các ngân hàng từng bước tự phát triển, đổi mới, mở rộng
hoạt động kinh doanh.
1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một đơn vị kinh doanh tiền tệ do đó các hoạt động
nghiệp vụ của ngân hàng đều hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được
mục tiêu này Ngân hàng thương mại trong quá trình phát triển đã không ngừng đổi
mới, không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ sẵn có mà còn thường
xuyên nghiên cứu nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới phục vụ nhu cầu của
người dân. Tuy nhiên, một Ngân hàng thương mại luôn luôn tiến hành 3 nghiệp vụ
cơ bản :
Huy động vốn
Đối với hoạt động huy động vốn, đây là hoạt động “đầu vào” của ngân
hàng, ngân hàng phần lớn dựa vào việc huy động tiền vốn nhàn rỗi tạm thời trong
nền kinh tế.
Thông thường ngân hàng có các loại tiền gửi là tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm.
Để thực hiện được hoạt động huy động vốn, ngân hàng cần có một lượng
vốn nhất định là vốn tự có. Lượng vốn này chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn sử
dụng song nó rất quan trọng đối với hoạt động ngân hàng. Đây là cơ sở thu hút tiền
gửi của khách hàng, là nguồn để trang trải rủi ro khi gặp phải trong kinh doanh và
là chỉ tiêu để Ngân hàng Trung ương quản lý Ngân hàng thương mại.
Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động sử dụng vốn ở đây bao gồm: hoạt động cho vay, hoạt động ngân
quỹ, hoạt động đầu tư chứng khoán.
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất quyết định sự thành bại của
ngân hàng bởi đây là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng. Chính vì vậy
đây cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Để tránh rủi ro tín dụng xảy ra, việc
quản lý tiền vay được tiến hành một cách rất chặt chẽ, đặc biệt với món vay lớn,
Trang 7
thời hạn cho vay dài. Từ đó ngân hàng phải phân chia tín dụng ra nhiều hình thức
khác nhau nhằm mục đích dễ quản lý.
Hoạt động ngân quỹ nhằm bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên của
ngân hàng cho khách hàng. Đây là tài sản không sinh lời hoặc sinh lời thấp nhưng
tính lỏng cao và được coi như tiền mặt. Do đó ngân hàng phải duy trì tài sản này ở
mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo tính thanh khoản vừa đảm bảo khả năng sinh
lời.
Ngoài ra ngân hàng còn sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng khoán
trên thị trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo khả năng thanh toán cho
ngân hàng.
Hoạt động trung gian
Hoạt động trung gian là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng một loạt
các dịch vụ liên quan như chuyển tiền, thanh toán hộ khách hàng thông qua các
hình thức ghi chép trên tài khoản của khách hàng, phát hành séc, uỷ nhiệm thu, uỷ
nhiệm chi, thư tín dụng, môi giới mua bán chứng khoán, quản lý hộ tài sản, tư vấn
cho doanh nghiệp…
Ngày nay trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, hoạt động ngân hàng chịu
sự cạnh tranh gay gắt từ mọi hướng, chính vì vậy các ngân hàng tiến tới hoạt động
đa năng trên nhiều lĩnh vực, cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau. Vì vậy các dịch vụ
cung cấp cho khách hàng cũng ngày càng tăng thêm như: kinh doanh ngoại hối,
bảo lãnh, tư vấn, kinh doanh chứng khoán, dịch vụ rút tiền tự động, bảo đảm an
toàn vật có giá, nghiệp vụ thuê mua,…Tất cả các nghiệp vụ đều có quan hệ chặt
chẽ hỗ trợ nhau một mặt thoả mãn nhu cầu của khách hàng một mặt mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng.
2. Tín dụng ngân hàng.
2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một phạm trù kinh tế tồn tại qua các hình thức xã hội
khác nhau. Tín dụng là nghiệp vụ chính cơ bản nhất của các NHTM chính vì vậy
Trang 8
những về tín dụng đã được các nhà kinh tế tìm hiểu từ rất lâu. Tuỳ theo các cách
tiếp cận khác nhau mà người ta đưa ra những khái niệm khác nhau về tín dụng.
Theo cách hiểu thông thường, tín dụng là mối quan hệ giao dịch giữa hai
chủ thể dựa trên nguyên tắc tin tưởng nhau. Trong đó một bên chuyển giao tiền
hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận
tiền hay tài sản cam kết hoàn trả theo thời gian thoả thuận. Hay nói một cách
khác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức hiện
vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử dụng, sau đó hoàn trả tại một thời
điểm nhất định trong tương lai với một lượng giá trị lớn hơn.
Theo luật NHNN, tín dụng được định nghĩa như sau: “Cấu thành một
nghiệp vụ tín dụng là bất cứ động tác nào qua đó người đưa hay người hứa đưa
vốn cho người khác dùng, hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này như đảm bảo,
bảo chứng hay bảo lãnh có thu tiền”.
2.2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng.
Như vậy, dù cách này hay cách khác, quan điểm về tín dụng đều thể hiện các
nội dung sau:
- Người cho vay sẽ chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định.
Lượng giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật như hàng hoá, máy
móc, thiết bị, bất động sản.
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một khoảng thời gian nhất
định sau khi hết hạn theo thoả thuận phải hoàn trả cho người cho vay.
- Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách
khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức.
Như vậy ở đây - tiền không được bỏ ra để thanh toán hay để bán mà là để cho
vay, tiền chỉ được nhượng đi với điều kiện là nó sẽ quay lại điểm xuất phát sau
một thời gian nhất định - đó là đặc trưng thuộc về bản chất của ngành ngân hàng.
Ngoài ra sự hoàn trả không chỉ phải bảo tồn về mặt giá trị mà còn cần có phần tăng
thêm dưới hình thái lợi tức. Lợi tức về tín dụng là thu nhập người cho vay nhận
được từ khoản cho vay, nó là giá cả của hàng hoá cho vay.
Trang 9
2.3. Phân loại tín dụng.
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản nhất và cũng mang lại lợi
nhuận chủ yếu cũng như rủi ro cho các ngân hàng. Chính vì vậy, các nhà ngân
hàng luôn phải tìm ra các tiêu thức phân loại tín dụng để có thể dễ dàng quản lý,
kiểm tra từ đó phòng tránh rủi ro tín dụng. Dựa vào các tiêu thức khác nhau ta có
thể phân loại tín dụng như sau:
Căn cứ vào thời gian của khoản vay:
Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận về thời hạn cho vay theo hai
loại: tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: Đây là hình thức tín dụng thường có thời hạn dưới một
năm và mục đích thường để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn tạm thời như phục vụ cho
thanh toán tiền, hàng hoá, tài trợ vốn lưu động hay thanh toán ngoại thương.
Tín dụng trung, dài hạn:
Tín dụng trung hạn: Đây là hình thức tín dụng có thời hạn từ một đến năm
năm. Các khoản vay thường với mục đích để đầu tư, cải tiến máy móc, trang thiết
bị, đầu tư vào một ngành kinh doanh mới.Tuy nhiên các máy móc trang thiết bị
này cần có thời hạn khấu hao không quá dài, hay dự án kinh doanh cần có kế
hoạch thu hồi vốn sớm, để có thể kịp thời trả vốn cho ngân hàng.
Tín dụng dài hạn: Đây là các khoản tín dụng được cấp có thời hạn từ 6o tháng
trở lên và cũng thường được sử dụng với mục đích xây nhà xưởng, đầu tư dây
chuyền sản xuất lớn, những dự án có thời hạn thu hồi vốn dài. Tuy nhiên thời gian
cho vay không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy
phép thành lập đơn vị, pháp nhân và không quá 15 năm đỗi với các dự án đầu tư
phục vụ đời sống.
Căn cứ theo hình thức bảo đảm:
Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản: trong trường hợp này ngân hàng cấp
tín dụng cho khách hàng mà không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh
mà dựa vào uy tín của khách hàng. Những khách hàng được cấp tín dụng loại này
Trang 10
thường là những khách hàng quen, đã có uy tín với ngân hàng về việc trả đúng và
đầy đủ các khoản nợ của mình từ trước tới nay.
Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng
dựa trên cơ sở có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh. Tài sản dùng để thế chấp
cầm cố có thể là nhà xưởng, xe cộ, các khoản phải thu, các trang thiết bị hay các
tài sản hình thành từ vốn vay, vật có giá hay giấy tờ có giá. Ngoài ra, để đảm bảo
cho khoản vay có thể được thực hiện bằng sự bảo lãnh của bên thứ ba được ngân
hàng chấp nhận.
Căn cứ vào mục đích sử dụng:
Cho vay sản xuất kinh doanh: các khoản vay này thường được sử dụng để tài
trợ vốn lưu động của doanh nghiệp hay tài trợ cho việc xây dựng nhà xưởng, mua
sắm máy móc, thiết bị, mua nguyên vật liệu
Cho vay tiêu dùng: chủ yếu phục vụ cho nhu cầu mua sắm tiêu dùng của các
hộ gia đình và cá nhân như mua nhà cửa, xe máy, ô tô và các phương tiện cần thiết
khác.
Căn cứ vào phương thức cho vay:
Cho vay theo hạn mức tín dụng: theo hình thức này ngân hàng và khách hàng
thoả thuận và ký kết một hợp đồng hạn mức tín dụng duy trì theo thời hạn nhất
định hoặc theo chu kì sản xuất kinh doanh.
Cho vay từng lần: đây là hình thức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng thoả
thuận và ký kết hợp đồng riêng với mỗi khoản vay khi khách hàng có nhu cầu. Mỗi
lần khách hàng có nhu cầu vay vốn thì việc ký kết hợp đồng sẽ được thực hiện lại
từ đầu.
Cho vay từng dự án đầu tư: tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực
hiện các dự án đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư
phục vụ đời sống.
Cho vay hợp vốn: đối với những khoản vay lớn, một ngân hàng không đủ khả
năng hay không được phép cho vay đòi hỏi một nhóm các TCTD cùng cho vay.
Trang 11
Trong đó có một tổ chức tín dụng đứng ra làm đầu mối dàn xếp, phối hợp các
TCTD khác để cho vay.
Cho vay trả góp: khi vay vốn ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận
số lãi vốn vay phải trả cộng với nợ gốc được chia ra để trả nợ thành nhiều kỳ trong
hợp đồng vay.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: ngân hàng cam kết bảo đảm cho
khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tuy nhiên nhiều
trường hợp khách hàng cần một lượng vốn lớn hơn, do đó ngân hàng và khách
hàng thường thoả thuận một hạn mức tín dụng dự phòng lớn hơn. Đồng thời khách
hàng và ngân hàng thường phải quy định về thời hạn hiệu lực và mức phí trả cho
hạn mức tín dụng dự phòng.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: ngân hàng
chấp thuận cho khách hàng đựơc sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín
dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hay
điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng.
Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà TCTD thoả thuận bằng
văn bản pháp luật chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản
thanh toán của khách hàng.
Căn cứ vào phương thức trả nợ:
Trả nợ một lần: khách hàng và ngân hàng thoả thuận sẽ trả cả lãi và gốc một
lần duy nhất.
Trả nợ làm nhiều lần: ngân hàng tính toán chia khoản nợ ra thành nhiều kỳ để
khách hàng có thể dễ dàng trả nợ.
Ngoài ra ngân hàng còn sử dụng nhiều phương thức để phân loại khác như dựa
vào hình thái tiền tệ hay dựa vào đối tượng vay... từ đó để ngân hàng có thể dễ
dàng trong việc quản lý tránh nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng.
Trang 12
2.4. Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng.
Điều hoà vốn, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh quá
trình tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế. Ngân hàng là chiếc cầu nối giữa
những người có vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế với những người cần vốn
để mở rộng kinh doanh, tiêu dùng…. Trên cơ sở huy động nguồn vốn trong dân cư
hay đi vay các tổ chức kinh tế khác ngân hàng tiến hành cho vay với các cá nhân,
tổ chức kinh tế đang cần vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất kinh doanh nếu thiếu vốn. Nhờ
nguồn vốn mà ngân hàng cho vay doanh nghiệp không những đảm bảo quá trình
sản xuất mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ hiện đại để
hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Từ đó
các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá đẩy nhanh quá trình tái
sản xuất mở rộng. Như vậy, tín dụng ngân hàng đã biến các phương tiện hoạt động
có hiệu quả, thu hút nhanh chóng các vật tư lao động, những tiềm năng sẵn có khác
vào sản xuất.
Tín dụng ngân hàng giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tín dụng ngân
hàng là một trong những công cụ hữu hiệu để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Nếu muốn khuyến khích ngành nghề hay thành phần kinh tế nào phát triển,
ngân hàng sẽ thực hiện ưu đãi tín dụng với ngành nghề hay khu vực đó. Từ đó
ngân hàng sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp đó dễ dàng tiếp cận được vốn vay
ngân hàng, trở thành đòn bẩy để giúp ngành nghề đó phát triển.
Để thực hiện được việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục đích đã định, các
nhà ngân hàng cần phải nghiên cứu và thực thi chính sách tín dụng phù hợp để có
thể tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều này đang là một vấn
đề hết sức quan trọng ở nước ta, trong tình trạng cơ cấu kinh tế hiện nay còn nhiều
bất hợp lý. Đặc biệt trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,chuyển từ nền kinh
tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta cần phải có những
biện pháp để thúc đẩy sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp, dịch vụ, thương
mại, du lịch…bởi ở nước ta tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm quá lớn trong khi tỷ
trọng các ngành khác còn quá thấp so với các nước trên thế giới. Để làm được điều
Trang 13
này chính sách tín dụng đóng một vai trò hết sức quan trọng, chú trọng vào công
tác tín dụng như vậy sẽ là một biện pháp để thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Kích thích tính năng động linh hoạt cuả các doanh nghiệp. Trong thời đại
ngày nay, khi thông tin và công nghệ thông tin thay đổi liên tục và phát triển một
cách rất nhanh chóng, các doanh nghiệp luôn luôn đứng trước yêu cầu cần phải
thay đổi cho phù hợp nhu cầu của thời đại. Để thực hiện được điều này đòi hỏi các
doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi máy móc, kỹ thuật thay nâng cấp nhà
xưởng, đổi mới sản phẩm…và ngân hàng chính là nơi cung cấp vốn trung và dài
hạn tốt nhất cho các doanh nghiệp. Qua đó, ngân hàng sẽ mang đến cho doanh
nghiệp cơ hội để đổi mới kích thích tính năng động của doanh nghiệp. Không chỉ
vậy, tín dụng ngân hàng còn thường xuyên bổ xung vốn lưu động cho doanh
nghiệp trong quá trình hoạt động giúp doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội đầu
tư.
Tín dụng ngân hàng giúp tăng nhanh vòng quay của vốn, giảm lượng tiền
mặt trong lưu thông. Qua đó tín dụng ngân hàng giúp Nhà nước tăng cường quản
lý vĩ mô nền kinh tế. Thông qua tín dụng, ngân hàng huy động được một lượng lớn
tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, thực hiện cho vay, đầu tư vào sản xuất kinh doanh
mà không cần phát hành thêm tiền mặt. Qua đó, ngân hàng còn thực hiện được
nhiệm vụ điều hoà vốn giữa các vùng các ngành, các thành phần kinh tế qua đó
việc quản lý, lưu thông tiền tệ sẽ được thực hiện tốt hơn. Hoạt động tín dụng càng
mở rộng thì càng hạn chế phương thức thanh tóan dùng tiền mặt do ngân hàng sử
dụng phương thức chuyển khoản, L/C ... từ đó giảm chi phí lưu thông tiền mặt
trong nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở
rộng quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Trong xu thế hội nhập quốc tế, mối quan hệ
giữa các nước trên thế giới và trong khu vực được mở rộng và phát triển đa dạng
cả về chiều rộng và chiều sâu. Đây là một trong những nhân tố quan trọng tạo điều
kiện đặc biệt cho các nước đang phát triển trên thế giới trong đó có nước ta. Thực
hiện chủ trương mở rộng hợp tác kinh tế, tăng cường các quan hệ đối ngoại do đó
Trang 14
đầu tư vốn tín dụng thúc đẩy xuất khấu hàng hoá là mối quan tâm của các ngân
hàng trong tình hình hiện nay. Ngân hàng với tư cách là tổ chức kinh doanh tiền tệ,
thông qua hoạt động cho vay sẽ trở thành nền tảng, là người cung cấp vốn cho các
nhà đầu tư kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Từ đó ngân hàng sẽ trở thành đòn
bẩy thúc đẩy quá trình mở rộng và giao lưu kinh tế quốc tế, là phương tiện nối liền
nền kinh tế các nước.
Qua đó ta thấy, tín dụng ngân hàng có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với
nền kinh tế, là phương tiện, công cụ Nhà nước không chỉ có thể sử dụng để quản
lý, kiểm soát mà còn sử dụng để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, thực hiện các
chủ trương của Nhà nước.
3. Tín dụng ngắn hạn.
3.1. Khái niệm tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng ngắn hạn là một hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại được
phân theo thời gian của khoản vay. Đó là những khoản vay có thời hạn ngắn- dưới
1 năm do đó khoản vay này thường được dùng để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn tạm
thời như phục vụ cho thanh toán hàng hoá, tài trợ, bổ xung vốn lưu động hay thanh
toán ngoại thương và phục vụ nhu cầu sinh hoạt.
3.2. Đặc điểm.
- Do nguồn vốn tín dụng ngắn hạn dùng để cung cấp vốn cho chi tiêu, mua
nguyên vật liệu, trả lương, bổ xung vốn lưu động nên số vốn vay thường nhỏ,
nguồn vốn được quay vòng nhiều. Trong khi đó đối tượng sử dụng vốn từ nguồn
trung và dài hạn thường là những tài sản cố định có thời gian sử dung lâu dài vì
vậy thời gian sử dụng vốn lâu, nguồn vốn không được quay vòng nhiều.
- Thời hạn thu hồi vốn nhanh: do vốn tín dụng ngắn hạn thường được sử
dụng để bù đắp những thiếu hụt trong ngắn hạn, để đảm bảo cân bằng ngân quỹ,
giúp doanh nghiệp đối phó với những chênh lệch thu chi trong ngắn hạn... Thông
thường những thiếu hụt này chỉ mang tính tạm thời hay mang tính mùa vụ, sau đó
khoản thiếu hụt này sẽ được bù đắp hoặc sẽ sớm thu lại dưới hình thái tiền tệ vì
vậy thời gian thu hồi vốn sẽ nhanh.
Trang 15
- Rủi ro do tín dụng ngắn hạn mang lại thông thường không cao. Do khoản
vay chỉ cung cấp trong thời gian ngắn vì vậy ít chịu ảnh hưởng của sự biến động
không thể lường trước của nền kinh tế như các khoản tín dụng trung và dài hạn.
Ngoài ra, các khoản vay được cung cấp cho các đơn vị sản xuất kinh doanh theo
hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá, dựa trên tài sản bảo đảm, bảo lãnh... đồng
thời khoản vay thường đựơc tiến hành khi có nhu cầu cấp thiết về vốn ngắn hạn và
chắc chắn sẽ có khoản thu bù đắp trong tương lai vì vậy rủi ro mang đến thường
thấp.
- Lãi suất thấp: lãi suất cho vay được hiểu là khoản chi phí người đi vay trả
cho nhu cầu sử dụng tiền tạm thời của ngươì khác. Chính vì rủi ro mang lại của
khoản vay thường không cao do đó lãi suất người đi vay phải trả thông thường nhỏ
hơn lãi suất khoản vay tín dụng trung và dài hạn tương ứng.
- Hình thức tín dụng phong phú: Để đáp ứng nhu cầu hết sức đa dạng của
khách hàng, để góp phần phân tán rủi ro, đồng thời để tăng cường sức cạnh tranh
trên thị trường tín dụng, các ngân hàng thương mại không ngừng phát triển các
hình thức cho vay trong nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của mình. Điều đó đã làm
cho các hình thức tín dụng ngắn hạn rất phong phú như: nghiệp vụ ứng trước,
nghiệp vụ thấu chi, nghiệp vụ chiết khấu...
- Là loại hình kinh doanh chủ yếu tại các ngân hàng thương mại. Xuất phát từ
đặc trưng của ngân hàng thương mại: là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, mà trong
đó chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn, nên để đảm bảo khả năng thanh khoản của mình,
các ngân hàng thương mại đã cho vay chủ yếu là ngắn hạn.
3.3. Các hình thức tín dụng ngắn hạn
3.3.1. Chiết khấu thương phiếu
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại,
trong đó ngân hàng trao cho người có trái phiếu một số tiền bằng giá trị đáo hạn
của trái phiếu trừ đi một số tiền lãi, hoa hồng và một số chi phí khác. Tiền lãi tính
từ ngày chiết khấu tới ngày đáo hạn trái phiếu.
Trang 16
Chứng từ chiết khấu có một số đặc trưng là: chứng từ có giá ; được thanh
toán số tiền đúng bằng mệnh giá chứng từ chiết khấu; thời hạn thanh toán là thời
hạn ngắn ( 90 đến 180 ngày).
Trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng đưa cho khách hàng của mình một số
tiền để sử dụng ngay và chỉ thu số tiền đó về khi trái phiếu đáo hạn. Về nguyên tắc,
ngân hàng có thể nhận chiết khấu tất cả các trái phiếu nhưng thông thường ngân
hàng thích nhất là hối phiếu.
Khi khách hàng có nhu cầu chiết khấu, khách hàng phải nộp cho ngân hàng
các loại giấy tờ sau:
- Đơn xin chiết khấu
- Bảng kê thương phiếu kèm theo các thương phiếu xin chiết khấu.
Sau khi nhận được các hồ sơ, ngân hàng tiến hành thẩm định các mặt sau:
- Tính hợp pháp, hợp lệ của các thương phiếu
- Xem xét mối quan hệ thương mại của các chủ thể liên quan đến thương
phiếu.
- Nghiên cứu khả năng trả nợ của các chủ thể có liên quan, đặc biệt là người
thụ lệnh (người phải thanh toán thương phiếu) và người thụ hưởng (người xin chiết
khấu).
Ngân hàng chỉ chấp nhận chiết khấu những thương phiếu đủ điều kiện sau:
- Còn thời hạn thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
- Phải hợp lệ về mặt hình thức và nội dung
- Đối với hối phiếu thì phải có chữ ký chấp nhận của người thụ tạo
- Khách hàng phải chuyển nhượng quyền sở hữu cho ngân hàng dưới hình
thức ký hậu.
Sau khi thẩm định, ngân hàng loại trừ những thương phiếu không đủ điều
kiện chiết khấu hay còn nghi ngờ khả năng thanh toán, rồi tính số tiền ngân hàng
trả cho khách hàng theo các thương phiếu nhận chiết khấu.
Trang 17
Đến thời hạn thanh toán thương phiếu, ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ ở người
chịu trách nhiệm thanh toán thương phiếu. Nếu người này không thanh toán, ngân
hàng có thể chọn một trong hai cách xử lý sau:
- Ngân hàng có thể trích tài khoản tiền gửi thanh toán của người xin chiết
khấu để thu hồi, sau đó trả lại thương phiếu để họ tự đòi nợ.
- Ngân hàng tiến hành thủ tục để truy đòi số nợ: theo luật định, ngân hàng
có quyền chỉ định một trong số những người tham gia ký chuyển nhượng thương
phiếu để trả nợ cho ngân hàng. Trong trường hợp này, ngân hàng thường chỉ định
người nào có đủ khả năng tài chính nhất.
Ưu điểm và nhược điểm của nghiệp vụ chiết khấu:
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng có khá nhiều ưu điểm, đó là:
- Chiết khấu là nghiệp vụ ít rủi ro, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng là khá
chắc chắn.
- Đây là hình thức tín dụng khá đơn giản, ít phiền phức với ngân hàng.
- Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng vì thời hạn chiết khấu
ngắn và ngân hàng thương mại có thể khá dễ dàng xin tái chiết khấu thương phiếu
ở Ngân hàng Nhà nước.
- Tiền cấp cho khách hàng khi chiết khấu thường được chuyển vào tài khoản
tiền gửi của khách hàng, bởi vậy nó lại tạo nguồn vốn cho ngân hàng.
- Tất cả những ai kí tên vào thương phiếu đều có trách nhiệm thanh toán và
trong thực tế không một doanh nghiệp nào từ chối thanh toán do đó đây là hình
thức cho vay ít rủi ro nhất.
Tuy vậy, trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng thương mại vẫn có thể gặp
phải rủi ro do ba nguyên nhân cơ bản sau:
- Ngân hàng nhận chiết khấu những thương phiếu giả mạo.
- Giấy nhận nợ luân chuyển theo dây chuyền trong đó có một khâu hỏng
dẫn đến khó khăn trong thanh toán.
Trang 18
- Công ty mẹ phát hành cho Công ty ty con nhưng Công ty mẹ phá sản.
3.3.2. Nghiệp vụ tín dụng ngân quỹ
Tín dụng ngân quỹ là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn mà trong đó ngân hàng
cho khách hàng vay để đảm bảo sự cân đối ngân quỹ hàng ngày của khách hàng và
được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là ứng trước trên tài khoản hoặc thấu
chi.
3.3.2.1. Ứng trước trên tài khoản
Ứng trước trên tài khoản là loại tín dụng mà ngân hàng cho khách hàng vay
tiền bằng cách mở và ứng cho họ một số tiền trên tài khoản của khách hàng tại
ngân hàng. Từ tài khoản đó, khách hàng có thể ký phiếu lĩnh tiền tới mức tín dụng
mà ngân hàng cấp cho mình.
Nếu căn cứ vào tính chất đảm bảo thì tín dụng ứng trước bao gồm: ứng trước
có đảm bảo và ứng trước không đảm bảo.
- Ứng trước có bảo đảm: khi nào khách hàng thực sự vay tiền thi phải thế
chấp hay cầm cố một tài sản hay một giá trị làm đảm bảo nhất định cho khoản tiền
vay đồng thời khách hàng phải ký một lệnh phiếu trao cho ngân hàng giữ cam kết
hoàn trả số tiền đã vay vào thời điểm nhất định.
- Trong trường hợp không có tài sản bảo đảm, hay tài sản bảo đảm kém giá
trị khách hàng có thể nhờ một người có tài sản bảo lãnh số nợ đó bằng một tờ cam
kết. Người bảo lãnh do khách hàng chọn nhưng phải được sự chấp nhận của ngân
hàng.
Nếu căn cứ vào các thức sử dụng tiền vay thì tín dụng ứng trước có hai cách
sử dụng tiền vay:
- Sau khi đã ký kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng tiến hành cho vay theo
mức cho vay đã thoả thuận, ngân hàng chuyển toàn bộ số tiền cho vay vào tài
khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp để doanh nghiệp tuỳ ý sử dụng theo
nhu cầu. Đây là cách cho vay mà các ngân hàng thường áp dụng.
Trang 19
- Khách hàng được sử dụng dần số tiền vay trên tài khoản vay (tài khoản
ứng trước). Việc sử dụng bằng cách phát hành séc để chi trả mang số hiệu tài
khoản ứng trước. Khi tờ séc do khách hàng phát hành quay trở về ngân hàng thì
ngân hàng trích tài khoản vay để chi trả.
Khách hàng có thể sử dụng tiền vay một hoặc nhiều lần. Nếu khách hàng phát
hành séc để chi trả (mang số hiệu tài khoản vay) vượt mức cho vay đã thoả thuận
thì ngân hàng áp dụng các biện pháp chế tài do phát hành séc không có tiền bảo
chứng.
Đây là một trong hai hình thức tín dụng ứng trước mà các ngân hàng thương
mại có thể áp dụng song không phổ biến.
Ưu, nhược điểm của loại tín dụng ứng trước
Ưu điểm:
- Đối với ngân hàng: vốn ngân hàng cho vay thường không phải rút ngay
một lúc vì nhu cầu vốn của khách hàng phát sinh dần dần và nếu khách hàng dùng
tiền ứng trước đó vào việc thanh toán cho khách hàng khác có tài khoản tại ngân
hàng ấy thì nguồn vốn của ngân hàng không bị hao hụt. Mặt khác, với cách cho
vay này thì ngân hàng được hưởng một khoản lãi tính trên toàn bộ số tiền ứng
trước trong suốt thời gian cho vay dù khách hàng có sử dụng hết hay không hết số
tiền đó.
- Đối với khách hàng: được sử dụng vốn một cách chủ động. Có thể đáp ứng
tính thời vụ về vốn của họ.
Nhược điểm:
- Đối với ngân hàng: loại cho vay này có rất nhiều rủi ro do ngân hàng khó
kiểm soát việc sử dụng tiền vay của khách hàng.
- Đối với khách hàng thì phải chịu toàn bộ lãi tính trên số tiền cho vay trong
thời gian đã thoả thuận (dù thực tế họ không sử dụng hết).
Trang 20
3.3.2.2. Thấu chi.
Thấu chi là loại tín dụng mà qua đó ngân hàng cho phép khách hàng được sử
dụng vượt quá số tiền mà họ đã ký thác ở ngân hàng trên tài khoản vãng lai với
một số lượng và thời hạn nhất định. Xuất phát từ việc nếu doanh nghiệp có số dư
trên tài khoản tiền gửi mới được quyền chi tiêu, nhưng do một lý do nào đó mà số
dư trên tài khoản tiền gửi không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Trường hợp đó ngân
hàng có thể xem xét chấp nhận để khách hàng được quyền chi tiêu một số tiền
vượt quá số hiện có trên tài khoản. Mục đích của ngân hàng chỉ để giúp khách
hàng giải quyết khó khăn tạm thời về tài chính.
Tài khoản vãng lai là tài khoản có tính chất đặc biệt, trong đó khách hàng và
ngân hàng cam kết trả nợ lẫn nhau bằng phương pháp bù trừ. Với những tài khoản
tiền gửi khác, khách hàng chỉ được phép sử dụng trong giới hạn số dư có của tài
khoản đó, nếu sử dụng quá số tiền trên là vi phạm vì phát hành séc không có hay
thiếu tiền bảo chứng. Song đối với tài khoản vãng lai, giữa ngân hàng và khách
hàng có thể thoả thuận cho phép tài khoản dư có hoặc dư nợ, số dư nợ được hai
bên thoả thuận đến một giới hạn tối đa nào đó (hạn mức dư nợ), quá hạn mức này
thì các tờ séc của khách hàng bị coi như thiếu hay không có bảo chứng.
Như vậy, nếu tài khoản dư có thì số dư đó thể hiện tiền gửi của khách hàng ở
ngân hàng và thông thường ngân hàng phải trả cho khách hàng lãi tiền gửi. Nếu tài
khoản dư nợ thì số nợ đó thể hiện tiền ngân hàng cho vay và khách hàng phải trả
lãi tiền vay cho ngân hàng.
Điều kiện đi vay của khách hàng:
- Đơn vị có tình hình tài chính tốt.
- Nhu cầu chi tiêu đó thực sự là bức bách và không quá lớn như nhu cầu trả
lương cho cán bộ công nhân viên.
- Khách hàng cần chứng minh được là sẽ có nguồn thu để trả
Qua phần trình bày trên, ta thấy tín dụng thấu chi có các đặc điểm sau:
- Giữa ngân hàng và khách hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng để khách
hàng được sử dụng số dư nợ trên tài khoản vãng lai trong một thời hạn nhất định.
Trang 21
- Khách hàng sử dụng vốn bằng cách phát hành séc mang số hiệu tài khoản
vãng lai hoặc bằng các công cụ thanh toán khác.
- Doanh số cho vay có thể lớn hơn hạn mức nếu trong quá trình sử dụng tiền
trên tài khoản khách hàng có tiền nộp vào bên có.
- Hạn mức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận với nhau
chưa phải là tiền ngân hàng cho vay mà chỉ khi nào khách hàng sử dụng (có xuất
hiện dư nợ của tài khoản vãng lai) mới được coi là ngân hàng cho vay và được tính
tiền lãi trên số dư nợ đó.
- Vượt chi tài khoản là kỹ thuật cho vay mà số dư nợ thường xuyên biến
động vì thế khó thực hiện được đảm bảo tín dụng bằng hình thức bảo đảm đối vật.
Ưu nhược điểm của loại tín dụng vượt chi tài khoản
Đối với khách hàng loại tín dụng vượt chi là khoản tạo cho khách hàng những
thuận lợi đáng kể nhờ vào sự chủ động, linh hoạt khi sử dụng. Việc cho phép vượt
chi trên tài khoản vãng lai giúp cho việc cân đối ngân quỹ mà tránh phải đi xin vay
nhiều lần với thủ tục phức tạp trong một kỳ, khi mà ngay sau đó lại có những
khoản thu được chuyển vào tài khoản để giảm bớt việc phải trả lãi cho ngân hàng.
Do tính chủ động và linh hoạt như vậy mà tín dụng vượt chi tài khoản đáp
ứng được yêu cầu của những doanh nghiệp mong muốn quản lý vốn có hiệu quả,
do đó hầu hết các doanh nghiệp có yêu cầu sử dụng hình thức tín dụng này nhằm
điều hoà thường xuyên ngân quỹ của họ.
Với hình thức tín dụng này, ngân hàng luôn luôn phải dự trữ vốn để sẵn sàng
đáp ứng nhu cầu của khách hàng khi họ còn hạn mức tín dụng, nhưng trên thực tế
họ có thể không sử dụng hoặc không sử dụng hết hạn mức tín dụng đó. Trong khi
ấy, ngân hàng không được tính lãi trên toàn bộ số tiền và thời hạn cho vay đã thoả
thuận (để giải quyết mâu thuẫn này các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải
trả một khoản phí cam kết theo một tỷ lệ nhất định tính trên hạn mức tín dụng,
không kể đến việc hạn mức tín dụng đó được sử dụng như thế nào).
Mặt khác, tiền ngân hàng cho vay không nhằm mục đích cụ thể nào theo chỉ
định của ngân hàng mà thường do khách hàng tuỳ ý sử dụng. Các đảm bảo nếu có
Trang 22
chỉ là yếu tố phụ, ngân hàng khó có thể kiểm soát được việc sử dụng tiền vay. Vì
vậy, sự rủi ro của ngân hàng có thể nhiều hơn các nghiệp vụ tín dụng khác. Từ
những nhược điểm trên mà ngân hàng thường áp dụng hình thức tín dụng này đối
với những khách hàng quen thuộc, có tín nhiệm và ngân hàng có ý muốn giúp đỡ
mà thôi.
3.4. Nhu cầu tín dụng ngắn hạn.
Trong giai đoạn quá độ hiện nay, hơn 90% số doanh nghiệp kinh doanh trên
nước ta là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, lượng vốn tự có của doanh
nghiệp không cao do đó doanh nghiệp rất dễ mắc phải những khó khăn dưới đây
dẫn đến nhu cầu vay các khoản ngắn hạn.
- Trong chu kỳ tiền mặt của doanh nghiệp, ban đầu tiền mặt được sử dụng
để mua nguyên liệu dự trữ, bán thành phẩm hoặc thành phẩm; hàng hoá được sản
xuất hoặc dự trữ để bán sau đó được bán ra (thường là bán chịu) ; cuối cùng là thu
tiền mặt về. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể tránh khỏi có sự lệch pha giữa thời
hạn thanh toán tiền hàng của khách hàng và thời gian mua nguyên vật liệu để tiếp
tục đầu tư mở rộng sản xuất. Chính vì vậy, doanh nghiệp thường phải vay vốn
ngân hàng để đáp ứng sự thiếu hụt tiền mặt tạm thời này. Do đó khoản vay cũng
thường đựơc đảm bảo bằng khoản sẽ thu hay hàng tồn kho.
- Doanh nghiệp có khó khăn tạm thời về tài chính: doanh nghiệp cần tiền để
thanh toán nhưng lại không có chứng từ để phản ánh mối quan hệ mua bán chịu đó
trong khi đó số dư trên tài khoản của họ không đủ chi tiêu khi đó doanh nghiệp rất
cần các khoản vay ngắn hạn để giải quýêt những khó khăn này. Trường hợp này
xảy ra khi đến kỳ trả lương cho nhân viên, phải trả nợ thiếu của khách hàng, thông
thường các khoản này không quá lớn và ngân hàng có thể xem xét cho khách hàng
chi vượt.
- Doanh nghiệp có một lượng tài sản dự tính sẽ chuyển thành tiền mặt trong
tương lai gần, lượng tài sản này gây trở ngại làm ứ đọng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp, trường hợp này doanh nghiệp muốn sử dụng lượng tài sản này để xin vay
giải quyết khó khăn về vốn do lượng tài sản này gây ra.
Trang 23
- Vào mùa kinh doanh sản phẩm của mình doanh nghiệp cần mở rộng quy
mô, gia tăng hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn đầu tư mở rộng. Khi
nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường được dự đoán tăng cao
nhưng doanh nghiệp hiện thời thiếu vốn để mở rộng…
3.5. Vai trò của tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng ngắn hạn đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều rộng, thúc đẩy mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những vai trò quan trọng
nhất của tín dụng ngắn hạn. Thông qua việc cung cấp vốn tín dụng để mua nguyên
vật liệu phục vụ sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tín
dụng ngắn hạn góp phần giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Nước ta đang trên
đà CNH- HĐH, tuy nhiên do đặc điểm nước ta nền kinh tế vẫn đang trong giai
đoạn quá độ vì vậy sản xuất nhỏ vẫn là chủ yếu- các doanh nghiệp vừa và nhỏ
chiếm trên 90% tổng số các doanh nghiệp. Đặc điểm chủ yếu của loại hình doanh
nghiệp này lại là sản xuất nhỏ, nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ, hoạt động kinh doanh
lại gắn với địa phương và theo mùa vụ. Chính vì vậy, nhu cầu vay vốn ngắn hạn
của các doanh nghiệp này là khá lớn và thường xuyên. Đảm bảo cung cấp vốn tín
dụng ngắn hạn cho các doanh nghiệp chính là giúp các doanh nghiệp này mở rộng
sản xuất từ đó có thêm nguồn vốn đầu tư vào kinh doanh dần dần trở thành các
doanh nghiệp với quy mô lớn, góp phần đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước.
Kích thích tính năng động, linh hoạt, tăng khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp: Tín dụng ngắn hạn là nguồn cung cấp vốn kịp thời cho các nhà kinh
doanh trong trường hợp họ gặp khó khăn về vốn tạm thời như: muốn mở rộng sản
xuất vào mùa vụ, cần trả tiền cho khách để giữ uy tín, trả lương cho công nhân... từ
đó giúp doanh nghiệp có thể đối phó với những khó khăn về vốn, giữ cân bằng thu
chi, điều hoà vốn. Ngoài ra vốn tín dụng ngắn hạn chỉ cung cấp trong một thời gian
ngắn do đó đòi hỏi doanh nghiệp cần đẩy nhanh tiến độ sản xuất kinh doanh – kích
thích tính năng động của các doanh nghiệp.
Giúp tăng nhanh vòng quay của vốn: do tín dụng ngắn hạn là khoản tín dụng
cung cấp trong thời gian ngắn vì vậy doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp
Trang 24
nhanh chóng thu hồi vốn để trả nợ ngân hàng qua đó thúc đẩy gia tăng vòng quay
vốn.
4. Mở rộng hoạt động tín dụng.
4.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng.
Những năm 70 khi hầu hết các NHTM trên thế giới đều chịu sự quản lý hết
sức chặt chẽ của chính phủ thông qua việc ấn định lãi suất tiền gửi, hạn chế mở chi
nhánh, giới hạn mức cho vay tối đa, giới hạn phạm vi hoạt động… Các ngân hàng
không phải đối phó với những thay đổi đột xuất trên thị trường, nên yên tâm hoạt
động không cần quan tâm đến nhu cầu của khách hàng. Chính phủ khống chế sao
cho “chiếc bánh thị trường” luôn đủ no cho các NHTM. Do đó các ngân hàng hoạt
động theo nguyên tắc yên tâm bán cái mình có. Tuy nhiên, sau thời kỳ trên, nhằm
tạo sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách
mới…tất cả đã tạo nên không khí cạnh tranh sôi nổi, buộc các ngân hàng phải quan
tâm tới thị trường, khách hàng nếu muốn mở rộng tín dụng, muốn tồn tại.
Ngoài những yếu tố mang tính khách quan tác động đến quy mô và cơ cấu
khoản vay như vị trí địa lý của ngân hàng, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của
đất nước, quy mô, cơ cấu ngân hàng… thì những vấn đề bên trong ngân hàng như
chính sách khách hàng, dịch vụ ngân hàng cung cấp, công tác thông tin tuyên
truyền, mở rộng mạng lưới… là những nhân tố đóng vai trò rất quan trọng trong
việc mở rộng hoạt động tín dụng. Mục tiêu cuối cùng của các chính sách đó chính
là nhằm thoả mãn một cách tối đa nhu cầu của khách hàng, qua đó thu hút khách
hàng quan hệ tín dụng với ngân hàng. Đó cũng chính là mục tiêu của hoạt động
Marketing.
Chính vì vậy, để thực hiện tốt chính sách khách hàng, công tác mở rộng
mạng lưới, thông tin tuyên truyền thì ngân hàng cần nhất phải chú trọng công tác
Marketing ngân hàng - đó là công cụ hữu hiệu nhất để nâng cao sức mạnh cạnh
tranh, để chiến thắng đối thủ cạnh tranh, mở rộng các đối tượng và quy mô vay
vốn của khách hàng.
Trang 25
4.2. Nội dung của Marketing tín dụng.
Nội dung của Marketing tín dụng tập trung vào 4 vấn đề chính: Chính sách
về sản phẩm, chính sách về giá cả, chính sách về phân phối và chính sách tuyên
truyền quảng cáo.
4.2.1. Chính sách về sản phẩm tín dụng
Cụ thể là nghiên cứu các hình thức tín dụng, mỗi hình thức cho vay là một
sản phẩm cụ thể. Nội dung của chính sách này phải giải quyết được câu hỏi: Khả
năng thích ứng của các hình thức tín dụng hiện tại đối với nhu cầu thị trường ở
mức nào? Định hướng cải tiến đổi mới hình thức tín dụng cũ và phát triển ra đời
các hình thức tín dụng mới. Ngân hàng cần tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng với chất
lượng cao để khách hàng lựa chọn.
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngoài hai thuộc tính như những hàng hoá, dịch
vụ thông thường, nó còn mang những nét đặc thù riêng biệt bởi lẽ ngân hàng
không chỉ hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận mà còn nhiệm vụ quan trọng
khác là ổn định sức mua đồng tiền, kiềm chế, kiểm soát lạm phát tạo đà tăng
trưởng kinh tế. Sản phẩm của ngân hàng thường đơn điệu- bao gồm những nghiệp
vụ cơ bản- và có tính xã hội hoá và tính công cộng cao do tất cả các ngân hàng đều
kinh doanh những sản phẩm này. Tuy nhiên hoạt động của ngân hàng lại phải chịu
sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, phải hoạt động trong hành lang hẹp của pháp luật.
Cho nên, ngân hàng phải có chính sách sản phẩm tốt và phù hợp bằng những biện
pháp như:
- Hoàn thiện và củng cố chất lượng sản phẩm dịch vụ hiện có
- Phát triển sản phẩm mới, cần đưa ra thị trường những sản phẩm thay thế
khi thấy đủ điều kiện và ở thời điểm thích hợp, chọn cách đưa sản phẩm mới vào
thị trường hợp lý.
- Thường xuyên đánh giá, phân tích sản phẩm dịch vụ để tìm kiếm lợi ích
riêng có của sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
- Luôn gắn biểu tượng, hình ảnh tốt của ngân hàng mình trong các sản phẩm
dịch vụ chung ứng cho khách hàng.
Trang 26
Việc phát triển hình ảnh của sản phẩm doanh nghiệp ngân hàng ngày càng
trở nên quan trọng. Đi đôi với nó là sự phát triển và duy trì nhóm sản phẩm doanh
nghiệp thích hợp trên cơ sở tập hợp những yêu cầu của khách hàng; nhóm sản
phẩm dịch vụ đó cần được theo dõi để hoàn thiện và đưa ra sản phẩm dịch vụ mới.
Quá trình phát triển sản phẩm dịch vụ trong lĩnh vực ngân hàng có xu hướng tập
trung vào việc hoàn thiện những sản phẩm dịch vụ hiện tại và phát triển sản phẩm
dịch vụ mới.
4.2.2. Chính sách về giá cả (lãi suất cho vay)
Giá của sản phẩm dịch vụ ngân hàng là số tiền mà khách hàng hay ngân
hàng phải trả để được quyền sử dụng một khoản tiền trong thời gian nhất định
hoặc sử dụng các sản phẩm dịch vụ do ngân hàng cung cấp. Với các sản phẩm là
các khoản tín dụng ngân hàng cung cấp ở đây thì giá cả chính là lãi suất cho vay.
Chính sách giá cả cần hướng tới những mục tiêu:
- Thu hút khách hàng mới và phải tăng sức cạnh tranh cho ngân hàng.
- Tăng doanh số hoạt động là mục tiêu quan trọng của chiến lược giá.
- Chiến lược giá phải nhằm vào việc tăng cường mối quan hệ giữa ngân
hàng và khách hàng.
Định giá là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động và kết quả hoạt động
của cả ngân hàng và khách hàng, đến thu nhập và mối quan hệ giữa khách hàng và
ngân hàng. Việc định giá sản phẩm dịch vụ ngân hàng hết sức phức tạp vì nó bị chi
phối bởi nhiều nhân tố. Vì vậy, khi xây dựng chính sách giá, các ngân hàng thường
phải dựa trên những căn cứ sau:
- Chi phí là các nguồn lực mà ngân hàng phải bỏ ra để duy trì sự hoạt động
và cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Chi phí gồm hai loại cơ bản là chi
phí cố định và chi phí biến đổi. Giá của sản phẩm dịch vụ ngân hàng tối thiểu phải
bù đắp đủ các chi phí phát sinh. Cách thức tổ chức cung ứng sản phẩm dịch vụ,
chất lượng dịch vụ, trình độ kỹ thuật, chuyên môn của đội ngũ cán bộ nhân viên
khác nhau sẽ dẫn đến chi phí khác nhau và cũng tạo nên sự khác biệt về giá giữa
các ngân hàng. Thực tế, các ngân hàng thường gặp khó khăn trong việc xác định
Trang 27
chính xác cơ cấu chi phí đối với từng sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Vì vậy, việc
định giá sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng thường hướng tới việc xác định tổng
chi phí, tổng thu nhập hơn là xác định chi phí cho từng loại sản phẩm dịch vụ.
- Rủi ro thực chất là các khoản chi phí tiềm ẩn. Khi rủi ro phát sinh, nó sẽ
trở thành các khoản chi phí thực mà ngân hàng phải bù đắp trong quá trình hoạt
động. Do vậy, định giá cho các sản phẩm dịch vụ ngân hàng phải tính đến yếu tố
rủi ro. Đối với các sản phẩm có rủi ro cao hơn, ngân hàng thường phải định một
mức giá cao hơn và ngược lại.
- Đặc điểm cầu của khách hàng. Các nhóm khách hàng khác nhau đặc điểm
đường cầu khác nhau và có phản ứng khác nhau với những thay đổi của giá (có
nhóm nhạy cảm nhưng có nhóm không nhạy cảm với giá). Do đó, để tối ưu hoá lợi
nhuận, ngân hàng thường định giá căn cứ và sự phản ứng của khách hàng đối với
giá. Đối với nhóm ít nhạy cảm, ngân hàng có thể áp dụng mức cao hơn và ngược
lại.
- Giá của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Ngân hàng phải tính tới yếu
tố này khi xác định giá sản phẩm dịch vụ, vì giá là nhân tố ảnh hưởng lớn tới năng
lực cạnh tranh của ngân hàng. Nếu một ngân hàng định giá cao trong khi chất
lượng sản phẩm dịch vụ không có gì vượt trội, sức hấp dẫn của sản phẩm dịch vụ
lại thấp chắc chắn sẽ có nhiều khách hàng chuyển sang sử dụng sản phẩm dịch vụ
của các ngân hàng khác có giá kích thích hơn.
4.2.3. Chính sách phân phối.
Đây là chính sách bán hàng của ngân hàng. Nội dung chủ yếu là bán hàng
cho ai và bán hàng như thế nào? Đối với ngân hàng, việc lựa chọn để bán hàng cho
ai cực kỳ quan trọng vì ngân hàng chỉ bán “quyền sử dụng vốn” chứ không bán
“quyền sở hữu vốn”. Do đó, nguyên tắc bán hàng là “chọn mặt gửi vàng”. Bán như
thế nào là nghiên cứu tập hợp toàn bộ những phương tiện và phương pháp đưa vốn
tín dụng đến khc theo các mục tiêu đã chọn.
Nhờ có chính sách phân phối mà sản phẩm dịch vụ của ngân hàng được
thực hiện nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Chính sách phân phối
Trang 28
đóng vai trò tích cực trong việc nắm bắt nhu cầu của khách hàng để ngân hàng chủ
động trong việc cải tiến hoàn thiện sản phẩm dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi trong
việc cung cấp sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cho khách hàng.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng mang nét đặc thù rất lớn do vậy trong quá
trình phân phối cũng cần có một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đội ngũ nhân sự
năng động, tinh nhuệ:
- Nhà cửa đồ sộ, chắc chắn tạo uy tín với khách hàng, thu hút khc nhiều hơn
bởi độ tin cậy vào tài sản.
- Đội ngũ nhân sự năng động, nhiệt tình, kỹ thuật nghiệp vụ cao có thiện
cảm với khách hàng, mức phán quyết về khối lượng dịch vụ cung ứng cho mỗi loại
nhân viên ngân hàng là cần thiết, tạo niềm tin cho khách hàng.
Mạng lưới văn phòng giao dịch, chi nhánh trong phân phối cũng rất cần
thiết, một địa điểm phù hợp, thuận tiện cho giao dịch sẽ tiết kiệm và đẩy nhanh
tiêu thụ. Một mạng lưới rộng khắp, phân theo địa danh hành chính đôi lúc gây cản
trở, lãng phí trong giao dịch ngân hàng, ngược lại một mạng lưới phân phối được
nghiên cứu kỹ càng “ở đâu có nhu cầu về sản phẩm, xét thấy hiệu quả” đặt chi
nhánh văn phòng giao dịch, số lượng nhân viên tuỳ thuộc vào khối lượng công
việc, sự phát triển của đơn vị.... là tiết kiệm, hiệu quả. Hoạt động ngân hàng cung
cấp dịch vụ tại nhà thông qua bưu điện, máy vi tính được nối mạng, đội ngũ nhân
sự tận tâm hoà nhã cũng giúp cho ngân hàng phân phối sản phẩm tốt có hiệu quả.
Phong cách phục vụ, thái độ phục vụ, kỹ năng ứng xử với khách hàng, mối quan
hệ gia đình, bạn bè thân thuộc cũng giúp ích cho việc phân phối dịch vụ ngân hàng
tốt hơn.
Hiện nay, có các cách cung cấp sản phẩm, dịch vụ như:
- Các chi nhánh cung cấp tất cả các loại sản phẩm, dịch vụ, đây là cách cung
cấp truyền thống yêu cầu khách hàng phải đến ngân hàng để giao dịch.
- Các chi nhánh cung cấp một số dịch vụ ngân hàng đặc biệt hay chuyên
biệt: Ưu điểm chi phí thấp, chuyên môn cao, chỉ cung cấp các dịch vụ có lợi nhuận
cao do đó nâng cao lợi nhuận của ngân hàng.
Trang 29
- Các chi nhánh tự động hoàn toàn nhờ vào kỹ thuật điện tử: Ưu điểm nhanh
chóng, phí thấp, nhưng đôi lúc mọi người cũng không tin vào máy móc lắm.
- Thiết bị đầu cuối thông minh đảm bảo liên lạc giữa khách hàng và ngân
hàng thông qua máy tính được nối mạng, khai thác để thực hiện các dịch vụ
chuyển tiền, tín dụng thu, nhận từ ngân hàng tất cả các thông tin tư vấn, giải thích.
- Các dịch vụ ngân hàng tại nhà: Thực hiện các giao dịch tại nhà thông qua
hệ thông thông tin liên lạc bằng điện thoại, với sự trợ giúp đắc lực của máy tính
các dịch vụ ngân hàng được xử lý, cung ứng nhanh chóng thoả mãn tối đa nhu cầu
của khách hàng mà họ không phải ra khỏi nhà.
Việc lựa chọn cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng bằng cách nào phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, đó là đặc điểm của thị trường, tính chất của sản phẩm dịch
vụ ngân hàng, đặc điểm của môi trường kinh doanh, mức độ cạnh tranh trên thị
trường, trình độ kĩ thuật công nghệ của ngân hàng, quan điểm của các nhà lãnh đạo
ngân hàng, đặc biệt là nhu cầu và xu hướng phát triển nhu cầu của khách hàng trên
thị trường ngân hàng.
4.2.4. Chính sách tuyên truyền quảng cáo
Các hoạt động truyền thông làm cho công chúng hiểu rõ, đầy đủ hơn về sản
phẩm dịch vụ ngân hàng giúp khách hàng có căn cứ quyết định việc lựa chọn sản
phẩm và dịch vụ ngân hàng. Các hoạt động quan hệ giúp các nhà ngân hàng nắm
được những thông tin phản hồi từ khách hàng cả về mức độ thoả mãn và sự không
hài lòng của chất lượng sản phẩm dịch vụ. Đây sẽ là căn cứ quan trọng để ngân
hàng điều chỉnh sản phẩm, giá, hệ thống phân phối và các hoạt động khác cho phù
hợp với nhu cầu mong muốn của khách hàng.
Trong hoạt động tín dụng, chính sách tuyên truyền quảng cáo nhằm mục
đích giới thiệu các hình thức, thể loại cho vay, cơ chế, chính sách cho vay... Vấn
đề này giúp ngân hàng mở rộng và phát triển các loại dịch vụ cung ứng, tạo mối
quan hệ rộng lớn từng bước mở rộng thị trường, tăng sự thích ứng, tăng hiệu quả
trong kinh doanh.
Như vậy, mục tiêu của chính sách tuyên truyền quảng cáo, nhằm đạt đến:
Trang 30
- Số lượng người biết đến ngân hàng nhiều lên trong thời gian ngắn.
- Số lượng sản phẩm dịch vụ tiêu thụ tăng lên, doanh thu tăng lên.
- Chi phí quản lý điều hành phân bổ cho sản phẩm tiêu thụ giảm xuống, lợi
nhuận tăng lên trên một đơn vị sản phẩm.
Hoạt động tuyên truyền, quảng cáo phải được thực hiện thường xuyên, lựa
chọn cách thức quảng cáo phù hợp:
- Có thể quảng cáo thông qua ưu thế sản phẩm riêng có trên thị trường.
- Quảng cáo gây ấn tượng, cảm giác mạnh, lâu quên...
Trong khi tuyên truyền, quảng cáo cấn lưu ý các vấn đề cơ bản sau:
- Ngôn từ, hình ảnh, biểu tượng khi quảng cáo phải chuẩn xác, thống nhất,
ngắn gọn, gây ấn tượng, dễ hiểu, dễ nhớ.
- Phải phản ánh được tầm nhìn, mục tiêu chiến lược mà ngân hàng muốn đạt
tới hiện tại và tương lai.
- Phải giới thiệu được hình ảnh riêng biệt của ngân hàng khi tuyên truyền,
quảng cáo.
- Những biện pháp cơ bản của ngân hàng để đặt được mục tiêu chiến lược
và tạo được hình ảnh riêng có của mình.
- Phải tạo ra một phản ứng dây chuyền từ cá nhân, nhóm này sang cá nhân,
nhóm khác và cứ như vậy...
Trong khi tuyên truyền về sản phẩm, dịch vụ chúng ta phải tuân thủ đầy đủ
các bước mang tính hệ thống, có như vậy việc tuyên truyền mới có hiệu quả:
- Xác định các mục đích của tuyên truyền hiệu quả.
- Chuẩn bị thông tin tuyên truyền thật chu đáo, chuẩn xác.
- Lựa chọn phương tiện thông tin tuyên truyền hợp lý
- Thực hiện các phương pháp tuyên truyền thích hợp
- Phân tích các kết quả của chiến lược tuyên truyền, quảng cáo.
Trang 31
Tất cả những vấn đề trên cho chúng ta thấy rằng chính sách tuyên truyền
quảng cáo là việc làm cần thiết. Thông qua tuyên truyền quảng cáo chúng ta mau
chóng thâm nhập và mở rộng thị trường, tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí mang lại
lợi ích kinh tế cho mỗi ngân hàng. Thông qua mức bán, số lượng người mua, mức
tăng lên của thị phần mà chúng ta có thể đánh giá chính sách tuyên truyền, quảng
cáo có phù hợp hay không phù hợp....
4.3. Vai trò của Marketing ngân hàng
Với những nội dung hoạt động như trên Marketing ngân hàng có những vai
trò hết sức quan trọng với hoạt động kinh doanh của ngân hàng:
- Trước hết, Marketing là công cụ chiến thắng các đối thủ cạnh tranh. Cơ
chế thị trường là cơ chế cạnh tranh nên làm thế nào để chiến thắng các đối thủ
cạnh tranh luôn là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng. Thông qua công tác
nghiên cứu thị trường, với chính sách mở rộng thị phần, và các chính sách về
khách hàng của mình ngân hàng đã tổ chức thu thập được thông tin, hiểu rõ về thị
trường qua đó hiểu nhu cầu của khách hàng từ đó tạo ra những sản phẩm có khả
năng thoả mãn cao nhất nhu cầu của khách hàng- nâng cao sức cạnh tranh của
ngân hàng. Marketing ra đời gắn liền với cạnh tranh, do đó mục tiêu chiến thắng
đối thủ cạnh tranh luôn được các nhà marketing ngân hàng quan tâm. Do đó trong
quá trình ra quyết định các nhà quản trị marketing luôn phải cân nhắc đến những
phản ứng của khách hàng cũng như đối thủ cạnh tranh.
- Marketing- công cụ hữu hiệu thu hút khách hàng. Kinh doanh trong cơ chế
thị trường thì khách hàng là lực lượng nuôi sống mình, bởi vậy các nhà quản trị
luôn tìm mọi cách để duy trì và phát triển mối quan hệ với khách hàng. Mục tiêu
cuối cùng của Marketing là thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng, chính vì vậy
marketing nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, tìm cách đưa đến khách hàng
những dịch vụ phù hợp nhất, nhanh nhất với giá cả hợp lý nhất; tạo cho khách
hàng cảm giác thoải mái nhất khi tiến hành giao dịch; chỉ dẫn cho khách hàng tiện
ích mới mà khách hàng chưa biết… Do đó marketing là công cụ hữu hiệu nhất thu
hút khách hàng.
Trang 32
- Marketing- công cụ kinh doanh hiện đại của các NHTM trong cơ chế thị
trường. Với những chính sách phù hợp của Chính phủ nhằm tạo một sân chơi bình
đẳng cho các NHTM đã làm thị trường trở lên sôi động hơn, cạnh tranh ngày càng
khốc liệt hơn đòi hỏi các ngân hàng buộc lòng phải quan tâm đến thị trường, đến
khách hàng thông qua việc sử dụng công cụ marketing. Sự thay đổi lớn lao trong
môi trường văn hoá xã hội và công nghệ thông tin đã thúc đẩy các NHTM thừa
nhận và sử dụng marketing như một một cách mạnh mẽ hơn. Các xu hướng tiêu
dùng mới, sự hiểu biết của khách hàng…làm thay đổi nhu cầu sử dụng dịch vụ tài
chính ngân hàng. Do đó các ngân hàng cần một công cụ mới giúp họ đối phó với
thị trường một cách hợp lý hơn, đồng thời đảm bảo có thể chào bán cho khách
hàng những dịch vụ tốt nhất.
- Marketing công cụ kết nối hoạt động của ngân hàng với thị trường. Định
hướng thị trường trở thành một điều kiện tiên quyết trong kinh doanh của các ngân
hàng hiện nay. Thị trường là nơi các ngân hàng có thể tìm kiếm nhu cầu khách
hàng, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, tìm kiếm thông tin… qua đó thỏa mãn một
cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Trang 33
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI NHNo&PTNT CHI
NHÁNH LÁNG HẠ.
1. Lịch sử hình thành và ra đời NH No & PTNT chi nhánh Láng Hạ.
1.1. Sơ lược về NHNo&PTNT Việt Nam
Lịch sử phát triển nền kinh tế Việt Nam trong gần 15 năm đổi mới mở cửa
cũng chính là thực tế sinh động của quá trình hình thành và phát triển NH
No&PTNT Việt Nam. Ra đời từ 26/3/1998 với tên gọi là Ngân hàng phát triển
nông nghiệp theo quyết định số 400/CT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ngày
14/11/1990 và được thành lập lại theo quyết định số 280/QĐ-NH5 ngày
15/10/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Từ đó đến nay, NH No&PTNT
Việt Nam luôn bám sát các nghị quyết của Đại hội Đảng, xây dựng và triển khai
các chương trình chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp thực tiễn. Chính vì
vậy trên con đường đổi mới của Đảng và nhà nước, nền kinh tế nước ta đã chuyển
từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự quản
lý của nhà nước đồng thời NHNo&PTNT Việt Nam cũng có những bước tiến
mạnh bạo và vững chắc từ một ngân hàng mang nặng tính bao cấp trở thành một
ngân hàng lớn mạnh với hệ thống mạng lưới rộng khắp.
Một trong những nguyên nhân khiến ngân hàng có thể vượt qua những bước
thăng trầm để đạt thành tựu như ngày nay là do ban lãnh đạo ngân hàng luôn quan
tâm đến vấn đề thị trường, việc mở rộng thị phần cũng như việc nâng cấp các dịch
vụ đem đến cho khách hàng. Do đó ngân hàng đã có những đóng góp to lớn trong
việc thúc đẩy hoạt động của các công ty, cá nhân sản xuất kinh doanh cũng như sự
lớn mạnh của nền kinh tế.
1.2. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển NHNo&PTNT chi nhánh Láng
Hạ.
Từ chính sách mở rộng mạng lưới của NH No&PTNT Việt Nam đặc biệt ở cả
khu vực đô thị nói riêng và tình hình năm 1997 nói chung khi toàn ngành ngân
hàng quyết tâm thực hiện những hoạt động nhằm chấn chỉnh hoạt động tín dụng,
Trang 34
ngân hàng sau thanh tra nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả kinh doanh của các
ngân hàng thương mại và uy tín của ngành. Ngày 1/8/1996 tại quy định số
334/NHNo-02 của NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh đã chính thức được thành
lập và đi vào hoạt động từ 18/3/1997. Quá trình thành lập và đi vào hoạt động của
chi nhánh bước đầu đã gặp phải rất nhiều khó khăn cũng như thuận lợi riêng, tuy
nhiên chi nhánh trong quá trình hoạt động đã biết tận dụng, khai thác những thuận
lợi, vượt qua khó khăn để khẳng định mình, đạt được những thành công đáng ghi
nhận.
1.3. Nhiệm vụ, chức năng của NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ và các phòng
ban.
Theo quy chế tổ chức và hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam
ban hành theo quy định số 169/QĐ HĐBT-02 (ngày 7/9/2000) của Hội đồng quản
trị NH No&PTNT Việt Nam, chi nhánh Láng Hạ là chi nhánh NHNo&PTNT loại
II.
Căn cứ theo quy định này, nhiệm vụ của chi nhánh Láng Hạ được ghi trong
chương II điều 9 như sau:
Huy động vốn:
- Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kì hạn, tiền gửi
thanh toán của các tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế và nước ngoài
bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kì phiếu ngân hàng và thực hiện
các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNo.
- Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác của Chính phủ, chính quyền
địa phương và các tổ chức kinh tế, cá nhân khác trong và ngoài nước theo quy định
của NHNo Việt Nam.
- Được phép vay vốn các tổ chức tài chính tín dụng trong nước khi Tổng
giám đốc NHNo cho phép.
Cho vay:
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ đối
với các tổ chức kinh tế.
Trang 35
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng Việt Nam đồng đối với cá
nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.
Kinh doanh ngoại hối: huy động vốn, cho vay mua bán ngoại tệ, thanh toán
quốc tế và các dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của
Chính phủ, NH No&PTNT Việt Nam.
Kinh doanh dịch vụ: thu chi tiền mặt, mua bán vàng bạc , máy rút tiền tự
động, dịch vụ thẻ tín dụng, két sắt, nhận cất giữ, chiết khấu các loại giấy tờ có giá,
thẻ thanh toán, nhận uỷ thác cho vay của tổ chức tài chính, tín dụng, tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước, các dịch vụ khác được NHNN và NHNo cho phép.
Cân đối điều hoà vốn kinh doanh nội tệ đối với các chi nhánh
NHNo&PTNTtrực thuộc trên địa bàn.
Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của
NHNo.
Thực hiện đầu tư dưới các hình thức: hùn vốn liên doanh, mua cổ phần và
các hình thức đầu tư khác với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác khi được NHNo
cho phép.
Làm dịch vụ cho Ngân hàng phục vụ người nghèo.
Quản lý nhà khách, nhà nghỉ và đào tạo tay nghề trên địa bàn (Nếu được
Tổng giám đốc NHNo giao).
Thực hiện công tác tổ chức cán bộ, đào tạo, thi đua khen thưởng theo phân
cấp uỷ quyền của NHNo.
1.4. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NH No&PTNT chi nhánh Láng Hạ.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ mà ngân hàng Trung Ương giao phó, theo tiến trình
đi lên của Đảng và nhà nước, qua các thời kỳ đổi mới, hoàn thiện sao cho phù hợp
tình hình mới, đến nay chi nhánh có cơ cấu phòng ban như sau:
Ban giám đốc gồm: 1 giám đốc phụ trách chung.
Ban phó giám đốc gồm: 1PGĐ phụ trách kinh doanh.
1PGĐ phụ trách Thanh toán quốc tế
1PGĐ phụ trách kế toán – ngân quỹ
Cơ cấu phòng ban bao gồm 7 phòng ban với cơ cấu tổ chức theo sơ đồ:
Trang 36
Từ những năm 1997 chi nhánh chỉ với nguồn nhân lực 13 người lần lượt tăng
lên theo các năm theo yêu cầu đổi mới hoàn thiện và mở rộng chi nhánh đến năm
1998 là 25 người, năm 1999 là 35 người đến năm 2000 là 58 người và năm 2001
lên đến 89 người, tính đến 30/6/2002 là 125 người.
2. Thực trạng hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Láng Hạ.
Là một chi nhánh có tuổi đời còn rất trẻ, lại được sinh ra trong một thời kỳ
chuyển biến mạnh của nền kinh tế, do đó trên chặng đường 5 năm chi nhánh đã
gặp không ít những khó khăn cũng như thuận lợi. Tuy nhiên do tập thể cán bộ,
nhân viên ngân hàng đã biết tận dụng lợi thế, vượt qua thử thách để có những bước
Hành chính
quản trị
Tổ chức cán
bộ & đào tạo
Kiểm tra kiểm
toán nội bộ
Giám đốc
Phó GĐ kinh
doanh
Tín dụng Kế hoạch
nguồn vốn
Thanh toán
quốc tế
Kế toán –
ngân quỹ
Phó GĐ
TTQT
Phó GĐ
KT - NQ
Trang 37
đi đúng hướng. Nhờ đó mà trong 5 năm hoạt động thì 2 năm chi nhánh là lá cờ đầu
toàn khu vực thành thị và 1 năm là lá cờ đầu cả nước.
Thông qua bảng số liệu tình hình hoạt động kinh doanh ta thấy
BẢNG TỔNG HỢP TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
( Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002
1. Nguồn vốn 858 1143 2000 2630 3811.8
- Nội tệ 772 986 1714 2276 3299.1
- Ngoại tệ 86 157 286 354 512.7
2. Sử dụng vốn 81 521 661 1030 1500
- Ngắn hạn 61 187 164 197 501.7
- Trung & dài hạn 20 334 497 833 998.3
3. Nợ quá hạn(%) 0.074 0.06 0.024 0 0
4.Lợi nhuận 18 23 47 36.9 48
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002)
Như vậy với những bước đi đúng hướng chi nhánh luôn đạt được những thành
tích cao, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng tín dụng góp phần khuyến khích sản xuất
kinh doanh, tăng đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế.
Đi sâu vào từng hoạt động cụ thể của ngân hàng ta thấy.
2.1. Về hoạt động tín dụng.
2.1.1. Hoạt động huy động vốn.
Để biết được mức độ biến động vốn qua các thời điểm, ta cần xem xét hoạt
động huy động vốn qua các thời điểm qua bảng sau:
TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG CỦA NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG QUA CÁC
THỜI ĐIỂM.
(Đơn vị : tỷ đồng)
Trang 38
Thời điểm
Nguồn huy động
Tăng giảm so với thời điểm trước
Chênh lệch %
31/12/1998 858 +625 268
31/12/1999 1143 +285 33
31/12/2000 2000 +857 75
31/12/2001 2630 +630 28.7
31/12/2002 3811.8 +1181.8 44.9
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, mặc dù tình hình kinh tế rất nhiều biến động
nhưng qua các năm nguồn huy động đêù tăng, so với con số 202 tỷ ban đầu, năm
1997 đến nay đã gấp tới gần 20 lần qua 5 năm hoạt động đầy khó khăn. Qua đó ta
có thể thấy được sức mạnh vững chắc của chi nhánh qua từng thời kỳ hoạt động.
Ta có thể phân tích cụ thể qua bảng biểu sau, về tình hình huy động vốn:
TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN QUA CÁC THỜI ĐIỂM
(Đơn vị : tỷ đồng)
Nguồn vốn 31/12/1998 31/12/1999 31/12/2000 31/12/2001
Số
lượng
% Số
lượng
% Số
lượng
% Số
lượng
%
1Tiền gửi không kỳ hạn 92 10.7 353 31 425 21.1 468.5 17.8
2Tiền gửi có kỳ hạn 766 89.3 790 69 1575 78.8 2161 82.2
Tổng nguồn 858 1143 2000 2630
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2001)
Đến năm 2002 thì số lượng tiền gửi có kỳ hạn lên đến 2850,1 tỷ đồng và tiền
gửi không kỳ hạn lên đến 961,7 tỷ. Đây là thuận lợi cho ngân hàng do tiền gửi
không kỳ hạn chiếm tỷ lệ không nhỏ trong các năm đặc biệt là các năm đầu giúp
Trang 39
chi nhánh có nguồn vốn ổn định để tham gia đầu tư quay vòng vốn. Tuy nhiên tỷ lệ
này đang có xu hướng giảm dần, năm 2002 vừa qua tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn có
tỷ lệ cao hơn các năm (chiếm khoảng 30%) và trong đó tiền gửi thanh toán chiếm
tỷ lệ đáng kể. Ngoài ra số lượng tài khoản thanh toán qua các năm không ngừng
tăng đến nay đã lên đến 1800 tài khoản. Chính cũng vì khả năng huy động vốn một
cách có hiệu quả này mà NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ là chi nhánh tuy mới
thành lập nhưng lại đứng thứ hai trong hệ thống NH No&PTNT trên địa bàn Hà
nội về khả năng huy động vốn (chiếm 36.5% trong tổng nguồn huy động tại Hà
nội).
Đó là kết quả của sự nỗ lực cố gắng của toàn bộ cán bộ ngân hàng đã thực hiện
tốt những nội dung sau:
- Thường xuyên theo dõi chặt chẽ những biến động của thị trường nhằm đưa ra
những điều chỉnh kịp thời, đặc biệt là những thay đổi về lãi suất để cạnh tranh
đồng thời thực hiện việc kinh doanh đúng đắn có hiệu quả.
- Luôn củng cố và tăng cường quan hệ với các khách hàng truyền thống như
các công ty Bảo hiểm, hệ thống kho bạc.. .
- Làm tốt công tác thanh toán với các công ty lớn, các bạn hàng chí cốt như
công ty Xăng dầu Việt Nam, Bưu chính, Điện lực.. .và các doanh nghiệp thuộc
tổng công ty 90, 91.
- Mở rộng mạng lưới hoạt động, từng bước chiếm lĩnh thị trường kinh doanh,
đồng thời luôn chú trọng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
- Đảm bảo công tác thu chi tiền mặt và thanh toán luôn nhanh nhạy đảm bảo an
toàn,c hính xác, đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
2.1.2. Về hoạt động sử dụng vốn.
Để tiến hành được các nghiệp vụ cơ bản ngân hàng phải huy động vốn tuy
nhiên vấn đề sử dụng vốn mới là khâu cuối cùng quyết định hiệu quả hoạt động
kinh doanh của ngân hàng qua đó thúc đẩy hoạt động huy động vốn đạt hiệu quả.
Ta có thể thông qua bảng biểu sau để xem xét tình hình sử dụng vốn của
chi nhánh.
Trang 40
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN QUA CÁC THỜI ĐIỂM.
(Đơn vị : tỷ đồng)
Chỉ tiêu 31/12/98 31/12/99 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002
1. Tổng dư nợ 81 521 661 1030 1500
2. Doanh số cho vay 256 748 741 1174 1543
3.Doanh số thu nợ 231 308 601 804 1073
4. Nợ quá hạn(%) 0.074 0.06 0.024 0 0
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002)
Liên tục qua các năm, dư nợ tăng, tỷ lệ nợ quá hạn thấp dần đến năm 2001
và 2002 thì 100% dư nợ của chi nhánh là nợ lành mạnh, không có nợ quá hạn phát
sinh. Tuy nhiên trên 90% dư nợ là cho vay DNNN, tỷ lệ cho vay doanh nghiệp
ngoài quốc doanh và cho vay tiêu dùng chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng dư nợ. Chi
nhánh đã có biện pháp đẩy mạnh loại hình cho vay này như triển khai cho vay mua
ô tô trả góp (chi nhánh Bà Triệu) và bứơc đầu đã đạt những kết quả khả quan.
Để đạt được kết quả như trên là do cán bộ chi nhánh đã thực hiện tốt các
giải pháp đã đưa ra sau:
- Giữ củng cố tăng cường có hiệu quả quan hệ tín dụng, thanh toán tới các
khách hàng truyền thống trên cơ sở thẩm định và tư vấn đối với các dự án, phương
án kinh doanh khả thi, có phương án thanh toán để tiến tới lựa chọn dự án có hiệu
quả.
- Thường xuyên tiếp cận các dự án lớn thuộc mục tiêu chiến lược của chính
phủ, các ngành để kịp thời phối hợp cùng các đơn vị khách hàng nghiên cứu nhằm
tìm ra giải pháp hữu hiệu phục vụ công tác đầu tư.
- Thường xuyên coi trọng công tác thẩm định và phân loại khách hàng, tiếp cận
các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài để nâng cao khối lượng đầu tư trên cơ
sở đảm bảo an toàn vốn.
- Rút ngắn thời gian giải quyết từng giao dịch cụ thể trên cơ sở thẩm định bảo
đảm đúng chế độ tín dụng nên đã tạo điều kiện chi việc giải ngân nhanh kịp thời
cung cấp vốn cho các đối tượng khách hàng.
Trang 41
* Nghiệp vụ bảo lãnh
Là một trong những nghiệp vụ được chi nhánh quan tâm ngay từ những ngày
đầu thành lập, với phương châm an toàn, hiệu quả chi nhánh đã bảo lãnh và gây
dựng được uy tín cao đối với các khách hàng. Tính đến 31/12/2001 tổng số dư các
loại bảo lãnh đã lên đến 342 tỷ. Cũng chính từ nghiệp vụ này đã hỗ trợ công tác
đầu tư vốn cũng như góp phần hỗ trợ tích cực cho công tác huy động vốn, tăng
trưởng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của khách hàng qua chi nhánh.
Qua đó tạo được một khối lượng đáng kể vốn rẻ và tăng thêm nguồn thu dịch vụ.
2.2. Hoạt động kế toán - thanh toán - ngân quỹ.
2.2.1. Hoạt động kế toán – thanh toán.
Với số lượng thanh toán viên không lớn nhưng công tác thanh toán đặc biệt
cho các cơ quan Bảo hiểm, tổng công ty 90, 91.. .đã được chi nhánh thực hiện một
cách có hiệu quả. Con số khách mở tại khoản liên tục tăng qua các năm, từ năm
1998 với số lượng 587 tài khoản đến năm 2001 là 2400 tài khoản. Sang đến năm
2002 con số tài khoản đã lên đến 3.032 tài khoản với 605 tài khoản doanh nghiệp
còn lại là tài khoản cá nhân.Mặc dù số lượng tài khoản lớn như vậy nhưng công tác
thanh toán và kế toán luôn bảo đảm an toàn và kịp thời chính xác.
Kế toán liên hàng,thanh toán điện tử cũng đạt được những kết quả khả quan
qua các năm. Sang đến năm 2002, tổng doanh số thanh toán đạt 80.000 tỷ bằng
125% so cùng kỳ năm 2001, doanh số thanh toán điện tử đi đạt 12.908 tăng 60%,
doanh số thanh toán điện tử đến đạt 3.069 tỷ tăng 95% so với năm 2001. Trong đó
doanh số thanh toán liên hàng đạt 2.254 tỷ, doanh số thanh toán bù trừ đạt 4.950
tỷ.
2.2.2. Hoạt động ngân quỹ.
Tình hình thu chi tiền mặt, ngân phiếu, ngoại tệ trong những năm qua tăng
trưởng mạnh cả về lượng và về chất, nhờ uy tín trong hoạt động kinh doanh ngày
càng tăng mà tình hình ngày càng khả quan thể hiện qua bảng số liệu
TÌNH HÌNH THU CHI TIỀN MẶT NỘI TỆ QUA CÁC THỜI ĐIỂM
(Đơn vị : tỷ đồng)
Trang 42
Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002
Tiền mặt nội tệ
- Thu 925 857 1526 2701 3131
- Chi 937 844 1272 2486.5 3120
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002)
Tình hình thu chi tiền mặt ngoại tệ cũng tăng cao qua các năm, mặc dù doanh
số thu chi tiền mặt lớn, bình quân tốc độ thu một ngày qua quỹ nghiệp vụ từ 4 -5 tỷ
đồng và thường xuyên phải lĩnh tiền gửi từ NHNN, chi trả cho các công ty Bảo
hiểm và kho bạc. Riêng tiền chi trả cho BHXH các quận trong năm 2002 đạt
736,6 tỷ đồng gấp 3,5 lần năm 2001, tuy nhiên hoàn toàn không xảy ra các trường
hợp sai sót nhầm lẫn... Ngoài ra một kết quả đáng ghi nhận là năm 2002 bộ phận
kiểm ngân đã trả lại cho khách hàng tổng số 478 món với số tiền là 243.689 nghìn
đồng.
2.3. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế (KDNT & TTQT)
Tình hình kinh tế tài chính trong chặng đường 5 năm hoạt động vừa qua có rất
nhiều biến động, đặc biệt trong năm 2002 là năm cải cách về chính sách tiền tệ.
Tháng 6/2002 áp dụng cơ chế lãi suất mới, các Ngân hàng Thương mại tích cực
thực hiện Đề án tái cơ cấu Ngân hàng nhằm nhanh chóng hoà nhập khu vực và thế
giới.. . Xem xét tình hình thu chi ngoại tệ ở bảng dưới ta thấy.
TÌNH HÌNH THU CHI NGOẠI TỆ
Chỉ tiêu Đơn vị
(triệu)
2000 2001 2002 Tỷ lệ % so với
năm 2001
Doanh số mua USD 147 183 266 145
Doanh số bán USD 146 182 274 151
Thu phí KDNT VNĐ 1.500 1.100 700 64
Doanh số TTQT USD 125 152 241 159
Phí TTQT VNĐ 696 1.024 1.150 112
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động KDNT & TTQT)
Trang 43
Chi nhánh đã đạt được những bước tiến đáng kích lệ về hoạt động KDNT &
TTQT như:
Về thanh toán quốc tế :
- Chi nhánh đã triển khai hoạt động TTQT tại các Chi nhánh Bà Triệu, Chi
nhánh Bách Khoa nâng số đầu mối giao dịch lên 3 đầu mối và số cán bộ tín dụng
từ 6 lên 14 người thanh toán viên tại các Chi nhánh.
- Doanh số TTQT tăng từ 152 triệu năm 2001 lên 241 triệu USD (kể cả các
ngoại tệ khác đã quy đổi) tăng 59% so với năm 2001 và vượt mức kế hoạch 30%,
qua đó tăng thêm uy tín trong hoạt động của chi nhánh.
- Số điện SWIFT chuyển ra nước ngoài trong năm 2002 đạt 1.400 bức (tăng
19% so với năm 2001) tất cả đều được thực hiện một cách an toàn, nhanh chóng và
chính xác tuân thủ đúng quy trình thao tác.
- Qua quá trình thực hiện, thao tác nghiệp vụ trình độ cán bộ cũng được nâng
cao.
Về kinh doanh ngoại tệ:
- Doanh số giao dịch tăng 46% so với năm 2001 và vượt 33% kế hoạch đề ra
trong năm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của khách hàng tạo vị thế thuận lợi cho Chi
nhánh trong cạnh trạnh
- Lãi thu từ hoạt động KDNT giảm chỉ đạt 64% năm 2001 do biến động về tỷ
giá năm 2002 chưa tới 2% thấp hơn rất nhiều so với năm 2001 là 3,8%.
- Theo quy định NH No&PTNT Việt Nam thì các chi nhánh không được
phép mua bán ngoại tệ với các chi nhánh khác trong hệ thống và bán ngoại tệ ra
ngoài hệ thống. Do đó các loại hình giao dịch mua bán như Forward, Swap rất hạn
chế.
2.4. Kết quả kinh doanh.
Từ các năm 1999-2001 Chi nhánh luôn được Thống đốc NHNN Việt Nam, chủ
tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội tặng bằng khen hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ kinh doanh trong năm. Đặc biệt trong năm vừa qua Chi nhánh đã được Thủ
Trang 44
tướng Chính phủ tặng bằng khen đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ các năm 1998-
2000.
Trong suốt quá trình hoạt động Chi nhánh đã luôn nỗ lực phấn đấu vươn lên,
điều đó thể hiện trong bảng dưới.
KẾT QUẢ TÀI CHÍNH
(Đơn vị : tỷ đồng)
Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002
Tổng thu 56.424 100.083 128.036 171.500 210.169
Tổng chi 38.420 77.020 80.725 134.600 160.169
Quỹ thu nhập 18.004 23.018 47.311 36.900 50.000
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002)
Trong tổng thu nội bảng thì thu lãi hoạt động tín dụng thông thường chiếm trên
90%, riêng năm 2002 chiếm đến 94,4%, thu từ dịch vụ chỉ chiếm 4,6% trong tổng
thu. Trong tổng chi nội bảng thì chi cho huy động vốn là chủ yếu (chiếm khoảng
90-91%).
Quỹ lương qua các năm đều có chiều hướng ra tăng riêng năm 2001 do bối
cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng ở mức thấp, thị trường tài chính quốc tế nhiều
biến động phức tạp, đầu tư nước ngoài giảm xút…gây ảnh hưởng nhiều đến tình
hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
2.5. Các công tác khác.
Công tác kiểm toán nội bộ.
Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ tính đến 31/12/2001 có 5 người (năm 2000 là
3 người) đều có trình độ cao và đã qua công tác thực tế nhiều năm trong ngành.
Trong năm 2001 tiến hành kiểm tra được 69.142 chứng từ, phát hiện 140 chứng từ
sai sót chủ yếu là thiếu chữ ký của kế toán, kiểm soát nhật ký quỹ, hoàn toàn
không có sai sót về nghiệp vụ. Ngoài ra các cán bộ của phòng đã tiến hành kiểm
tra công tác TTQT tại chi nhánh và kiểm tra 16/18 đơn vị có quan hệ tín dụng với
152 món vay với số tiền là 463 tỷ đồng.
Trang 45
Công tác tổ chức cán bộ
Công tác đào tạo
Công tác tổ chức cán bộ và đào tạo luôn được chi nhánh chú trọng, số ngày
được đào tạo bình quân cho một cán bộ trong năm là 39.3 ngày qua đó góp phần
nâng cao kiến thức về mọi mặt cho môĩ cán bộ. Trong năm 2002 Chi nhánh đã mở
4 lớp học nghiệp vụ, 2 lớp học ngoại ngữ, tin học với tổng số ngày là 40,7
ngày/người ( do Chi nhánh tự tổ chức).
Công tác thi đua khen thưởng
Trong năm các phong trào thi đua đều được Chi nhánh hưởng ứng tham gia và
đạt được kết quả cao như phong trào thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ, thi đua 2
giỏi, thi đua xây dựng ngân hàng trong sạch vững mạnh…. Hiện chi nhánh đã hoàn
tất hồ sơ đề nghị Hội đồng thi đua tặng giải thưởng sao đỏ cho đồng chí giám đốc.
Công tác tin học và hiện đại hoá ngân hàng.
Tại Chi nhánh công tác đào tạo nâng cao trình độ vi tính, ngoại ngữ, nghiệp vụ
luôn được duy trì thường xuyên, hiện tại Chi nhánh đã triển khai khá đầy đủ kịp
thời các chương trình của Trung tâm Công nghệ thông tin như chương trình giao
dịch trực tiếp thông tin báo cáo; chuyển tiền điện tử; thanh toán liên hàng; cài đặt
chương trình nhập lương cho một số đơn vị có quan hệ thanh toán tin cậy với ngân
hàng... Ngoài ra, Chi nhánh còn thường xuyên trang bị thêm, sửa đổi hệ thống máy
tính góp phần giúp khách hàng có thể rút tiền nhanh chóng và thuận tiện.
Công tác mở rộng mạng lưới hoạt động.
Thực hiện định hướng và mục tiêu chiến lược giai đoạn 2000-2010 của Hội
đồng quản trị và ban tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. Trong quý III năm
2001 Chi nhánh đã có đề án và được Tổng giám đốc phê duyệt cho phép thành lập
phòng giao dịch Bách khoa- là nơi địa bàn đông dân cư phát triển khá thuận tiện.
Đánh giá chung về hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh
Láng Hạ.
Thành công.
Trang 46
Sự thành công của NHNo&PTNT Việt Nam được ghi nhận trong những thành
tích trong các phong trào thi đua của ngành ngân hàng như: năm 1998 và năm
1999 là lá cờ đầu khu vực Đô thị toàn quốc, ngoài ra năm 1999 Chi nhánh tiếp tục
được tặng danh hiệu lá cờ đầu toàn quốc.
Sự thành công của Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ cũng như thành côn0g
của cả hệ thống NH No&PTNT đã khẳng định sự đúng đắn trong chiến lược: củng
cố và giữ vững thị trường nông thôn, tiếp cận nhanh và mở rộng thị trường thành
thị, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đảm bảo kinh doanh đa năng, thúc đẩy phát
triển nền kinh tế.
Vấn đề cần khắc phục.
- Trình độ cán bộ viên chức còn bất cập so với yêu cầu của công tác kinh
doanh về nhiều mặt đặc biệt về ngoại ngữ và tin học.
- Công tác phối kết hợp trong mối quan hệ tác nghiệp giữa các đơn vị trong
Chi nhánh còn chưa đạt kết quả cao.
- Công tác tổng kết hoạt động đúc rút kinh nghiệm thực chất còn được thực
hiện chưa thường xuyên do đó khó đưa ra những biện pháp hiệu quả.
3. Thực trạng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHNo&PTNT chi nhánh
Láng Hạ.
NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ tuy là đơn vị trực thuộc Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nhưng hoạt động cho vay của Chi
nhánh không nhằm vào các hộ sản xuất nông nghiệp hay hợp tác xã mà chủ yếu là
các doanh nghiệp. Để xem xét tình hình tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh ta lần lượt
xem xét.
3.1. Cơ cấu cho vay.
3.1.1 Cơ cấu cho vay theo thời gian.
BẢNG CƠ CẤU CHO VAY
(Đơn vị : tỷ đồng)
Trang 47
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Số tiền Tỷ trọng
(%)
Số tiền Tỷ trọng
(%)
Số tiền Tỷ
trọng
(%)
Dư nợ
Ngắn hạn
Trung dài hạn
DS cho vay
Ngắn hạn
Trung dài hạn
661
164
497
741
538
203
100
24.8
75.2
100
72.6
27.4
1030
197
833
1173
722
451
100
19.1
80.9
100
61.6
38.4
1500
501.7
998.3
1543
614.4
928.6
100
33.4
66.6
100
39.82
60.18
(Nguồn: Phòng tín dụng NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ)
Nhìn vào bảng ta thấy tổng dư nợ qua các năm tăng lên liên tục từ 81 tỷ
đồng năm 1998 lên đến 521 tỷ năm 1999 (gấp 6.43 lần năm 1998). Đến năm 2000
đạt 661 tỷ đồng (gấp 1.27 lần năm 1999), năm 2001 tổng dư nợ lên đến 1030 tỷ
gấp 1.5 lần so với năm 2000. Đến 31/12/2002 con số này lên đến 1500 tỷ đồng và
gấp 18.5 lần so với năm 1998. Điều này chứng tỏ cán bộ chi nhánh đã hết sức nỗ
lực phấn đấu, vượt qua những khó khăn trong thời gian năm năm vừa qua. Ra đời
trong điều kiện phải cạnh tranh với hơn 50 ngân hàng đã có từ trước trên thị trường
với đầy kinh nghiệm và công nghệ hiện đại, đạt được điều này Chi nhánh đã đang
và sẽ liên tục phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, ta thấy dư nợ tín
dụng trung và dài hạn thì chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng tăng qua các năm, so
với năm 1998 khi mới bắt đầu hoạt động kinh doanh tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn
chỉ đạt chưa tới 25% đạt 20 tỷ thì tới năm 2001 đã đạt tới 833 tỷ chiếm trên 80%
dư nợ. Trong khi đó tỷ trọng cho vay ngắn hạn có xu hướng ngày càng giảm, năm
1998 dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng 75.3% đạt 61 tỷ thì đến năm 2001 tỷ trọng dư
nợ ngắn hạn chỉ đạt 197 tỷ đồng chiếm 19.1% tổng dư nợ. Có hiện tượng như trên
Trang 48
là do khách hàng chủ yếu của ngân hàng là các Tổng công ty 90, 91, do đó dư nợ
trung và dài hạn phục vụ đầu tư vào cho doanh nghiệp, thực hiện các chương trình
đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ nhằm tăng năng lực sản xuất là chủ yếu.
Do nằm trên vị trí địa lý thuận lợi- tập trung đông dân cư, nơi tập trung các
doanh nghiệp lớn chính vì vậy Chi nhánh ngày càng củng cố và phát triển tốt mối
quan hệ với các khách hàng lớn truyền thống là các tổng công ty lớn, các công ty
Bảo hiểm, công ty Xăng dầu... Tuy nhiên, do trên địa bàn phần lớn là các doanh
nghiệp có quy mô vừa và nhỏ- nhu cầu vay vốn ngắn hạn để mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh lớn, đồng thời địa bàn Hà nội là nơi đông dân cư, nhu cầu vay
tiêu dùng cũng không phải là nhỏ. Chính vì vậy, năm 2002 Chi nhánh đã có kế
hoạch mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn, vừa kết hợp giữ vững mối quan hệ
truyền thống với các tổng công ty vừa mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng, cho
vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cho vay các doanh nghiệp có quy mô vừa
và nhỏ. Do đó sang năm 2002 tỷ trọng tín dụng ngắn hạn đã đạt 501.7 tỷ đồng
chiếm khoảng 30% tổng dư nợ. Kế hoạch năm 2003 Chi nhánh sẽ đạt có tỷ lệ tín
dụng ngắn hạn đạt 35% tổng dư nợ.
Đối với doanh số cho vay cũng tương tự như số dư nợ: qua các năm đều có
tăng tuy nhiên tỷ trọng cho vay ngắn hạn trong tổng doanh số cho vay có xu hướng
giảm dần qua các năm. Điều này xảy ra là do có sự gia tăng mạnh trong cho vay
trung và dài hạn cho các DNNN, các Tổng Công ty 90, 91. Nếu năm 1998 doanh
số cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng là 95% thì đến năm 2000 chỉ còn trên 70% và
năm 2001 là khoảng 60% và đến năm 2002 sụt xuống còn chưa đến 40% tổng
doanh số cho vay. Trong khi đó tỷ trọng cho vay trung và dài hạn có xu hướng
tăng dần qua các năm, từ 5% năm 1998 đến năm 2002 đã chiếm đến 60% tổng
doanh số cho vay.
Mặc dù vậy ta thấy doanh số cho vay ngắn hạn từ năm 1998 đến 2001 đều
có sự gia tăng đáng kể (từ 193 tỷ lên đến 722 tỷ đồng), chỉ có sự sụt giảm trong
năm 2002 do tình hình tiêu thụ sản phẩm nhìn chung giảm do đó nhu cầu vốn vay
ngắn hạn để mở rộng sản xuất giảm, đồng thời sự cạnh tranh gay gắt với các
TCTD khác cũng làm cho doanh số cho vay ngắn hạn của Chi nhánh giảm.
Trang 49
3.1.2. Cơ cấu cho vay ngắn hạn theo ngành kinh tế.
CƠ CẤU CHO VAY NGẮN HẠN THEO NGÀNH KINH TẾ.
(Đơn vị: tỷ đồng)
Ngành Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Dư nợ Tỷ lệ (%) Dư nợ Tỷ lệ (%) Dư nợ Tỷ lệ (%)
Công nghiệp 5.2 3 5 2.5 45.6 9.1
TM & dịch vụ 160.2 97 193.1 97.5 456.1 90.9
Nông nghiệp 0 0 0 0 0 0
Tổng 165.4 100 198.1 100 501.7 100
(Nguồn Phòng tín dụng NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ)
Qua bảng trên ta thấy: doanh số cho vay đối với ngành nông nghiệp qua các
năm đều bằng 0. Đối với ngành công nghiệp đã có những bước tiến đáng kể trong
năm 2002 vừa qua. Nếu những năm trước số dư nợ đối với ngành công nghiệp chỉ
đạt khoảng 5 tỷ đồng và chỉ tiến hành cho vay đối với một đến hai doanh nghiệp
trong cả năm thì sang năm 2002 dư nợ đối với ngành công nghiệp lên đến 45.6 tỷ
chiếm trên 9% tổng dư nợ. Trong năm 2002 Chi nhánh đã tiến hành cho vay phục
vụ sản xuất công nghiệp cho 6 doanh nghiệp (trong đó 3 doanh nghiệp quốc doanh
và 3 doanh nghiệp ngoài quốc doanh). Riêng đối với ngành thương mại và dịch vụ,
mặc dù tỷ trọng trong tổng dư nợ năm vừa qua có giảm nhưng doanh số cho vay
đối với ngành thương mại và dịch vụ vẫn là chủ yếu trong tổng dư nợ. Qua các
năm dư nợ trong ngành thương mại đều tăng, từ năm 2000 với 160.2 tỷ đến năm
2002 Chi nhánh đã tiến hành cho vay đối với trên 20 doanh nghiệp với số tiền lên
đến trên 450 tỷ đồng chiếm trên 90% tổng dư nợ. Nguyên nhân chủ yếu của tình
trạng này là do Chi nhánh nằm trên địa bàn Hà Nội, vị trí 24 Láng Hạ là nơi hội tụ,
tập trung nhiều Công ty lớn – hoạt động kinh doanh thương mại diễn ra khá sôi
động. Do đó nhu cầu tín dụng phục vụ các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp hay
thuỷ sản đều không có tuy nhiên nhu cầu về các khoản vay phục vụ sản xuất, kinh
doanh nông nghiệp lại rất cao. Hơn nữa do bám sát định hướng phát triển của
NHNo nên Chi nhánh có chiến lược củng cố và phát triển quan hệ với các khách
hàng lớn như các Tổng Công ty 90 – 91, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông,
Trang 50
tổng Công ty Xăng dầu và các Công ty xây dựng công trình, Tổng công ty Gang
thép Thái Nguyên… do đó nhu vầu về các khoản vay phục vụ sản xuất công
nghiệp có xu hướng tăng lên, tuy nhiên nhu cầu vay của các Công ty này chủ yếu
lại là phục vụ nhu cầu trong dài hạn
3.1.3. Cơ cấu cho vay ngắn hạn theo thành phần kinh tế.
CƠ CẤU CHO VAY NGẮN HẠN THEO THÀNH PHẦN KT.
(Đơn vị: tỷ đồng)
Thành phần Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Dư nợ Tỷ lệ
(%)
Dư nợ Tỷ lệ
(%)
Dư nợ Tỷ lệ
(%)
Tổng
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
Cá nhân hộ gia đình
165.4
162.1
3.3
0
100
97.9
2.1
0
198.1
184.45
9.85
3.8
100
93.1
4.97
1.92
501.7
452.2
38.2
11.3
100
90.1
7.6
2.3
(Nguồn: Phòng tín dụng NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ)
Ta có sơ đồ biểu diễn cơ cấu cho vay ngắn hạn theo thành phần kinh tế
tương ứng như sau:
S¬ ®å cho vay ng¾n h¹n theo thµnh phÇn
kinh tÕ
0
100
200
300
400
500
2000 2001 2002
N¨m
T
û
®å
ng
Doanh nghiÖp quèc
doanh
Ngoµi quèc doanh
C¸ nh©n tiªu dïng
Trang 51
Nhìn vào sơ đồ ta thấy Chi nhánh chủ yếu tiến hành hoạt động cho vay đối
với các doanh nghiệp quốc doanh, doanh số cho vay đối với khu vực kinh tế quốc
doanh chiếm tỷ trọng cao (trên 90%) và tăng dần qua các năm. Trong khi đó cho
vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cá nhân tiêu dùng rất thấp. Việc cho
vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cho vay hộ gia đình chiếm tỷ lệ rất
thấp do việc tiếp cận khách hàng của cán bộ tín dụng với các doanh nghiệp và các
hộ gia đình còn hạn chế. Mặt khác, là một Chi nhánh mới thành lập nên việc tạo
lập khách hàng quen và truyền thống không nhiều, lại chủ yếu là các DNNN – nên
Chi nhánh chủ yếu quan tâm nhiều đến những doanh nghiệp này. Sang năm 2002,
do việc nhìn nhận tiềm năng vay vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và
vai trò của cho vay tiêu dùng thay đổi, Chi nhánh đã có biện pháp thúc đẩy hoạt
động này như việc khuyến khích mua xe trả, quan tâm hơn tới các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh do đó doanh số cho vay ngắn hạn các đối tượng này có biểu hiện
tăng với con số vượt hẳn so với các năm trước như thấy trong sơ đồ.
3.2. Tình hình thu nợ.
Tình hình thu nợ và nợ quá hạn ở Chi nhánh được thể hiện qua bảng sau:
TÌNH HÌNH THU NỢ
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Số tiền Tỷ trọng
(%)
Số tiền Tỷ trọng
(%)
Số tiền Tỷ trọng
(%)
DS thu nợ
Ngắn hạn
Trung dài hạn
601
561
40
100
93.3
6.7
804
689
115
100
85.7
14.3
1073
477.3
595.7
100
44.5
55.5
Nợ quá hạn 0,0165 0,025 0 0 0 0
Trang 52
NQH khó đòi 0 0 0 0 0 0
(Nguồn: Phòng tín dụng NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ)
Theo báo cáo từ phòng Tín dụng từ năm 1998 đến năm 2002 ta có: doanh
số thu nợ của Chi nhánh qua các năm đều tăng, từ 178 tỷ đồng năm 1998, đến năm
1999 đã lên đến 280 tỷ (tăng 1.57 lần), đến năm 2000 là 601 tỷ (gấp 2.15 lần năm
1999). Trong những năm đầu hoạt động đầy khó khăn thì những kết quả này là một
con số đáng khích lệ, thể hiện sự nỗ lực cao của cán bộ Chi nhánh. Sang năm 2001
doanh số thu nợ đã lên đến 804 tỷ và năm 2002 là 1073 tỷ – gấp 6.03 lần năm
1998. Tuy nhiên, doanh số thu nợ chủ yếu là thu nợ ngắn hạn, nhất là trong 3 năm
đầu doanh số thu nợ ngắn hạn chiếm trên 90% tổng thu nợ, đặc biệt năm 1998
chiếm gần 99% tổng thu nợ. Điều này xảy ra là do Chi nhánh mới đi vào hoạt động
nên các khoản cho vay trung và dài hạn chưa đến thời hạn thanh toán. Chính vì
vậy, nợ quá hạn qua các năm cũng chủ yếu là từ các khoản cho vay ngắn hạn. Tuy
nhiên Chi nhánh đã có những giải pháp tháo gỡ và định hướng tốt trong lựa chọn
khách hàng nên qua các năm 2001 và 2002 vừa qua nợ quá hạn đều không có.
Ngoài ra hoàn toàn trong 5 năm hoạt động Chi nhánh hoàn toàn không có nợ quá
hạn khó đòi. Điều này chứng tỏ chất lượng tín dụng ở Chi nhánh là rất tốt và Chi
nhánh cũng có những bước đi định hướng đúng đắn về công tác khách hàng.
Mặc dù chủ yếu nợ quá hạn là từ các khoản cho vay ngắn hạn, tuy nhiên, nợ
quá hạn cũng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Nếu năm 1998 là 0.074% tương đương
gần 60 triệu thì sang năm 1999 chỉ có hơn 30 triệu chiếm 0.06% tổng dư nợ. Đến
năm 2000 chỉ còn 16.5 triệu chiếm 0.025% và năm 2001 cũng như năm 2002 thì
hoàn toàn không có nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn trong những năm vừa qua thấp là
do rất nhiều lí do:
- Do dư nợ tín dụng tăng cao và liên tục qua các năm (từ 81 tỷ năm 1998 lên
đến 1500 tỷ đồng năm 2002) điều này làm tỷ lệ nợ quá hạn chiếm tỷ lệ rất thấp
(=nợ quá hạn/ dư nợ).
- Do Chi nhánh mới đi vào hoạt động nên rất ít các khoản cho vay trung và
dài hạn đến hạn trả nợ.
Trang 53
- Do mới đi vào hoạt động nên Chi nhánh được thừa hưởng một số lượng lớn
khách hàng chất lượng tốt của NHNo Việt Nam.
Ngoài ra công tác thu nợ trong những năm hoạt động vừa qua có rất nhiều
tín hiệu khả quan: tổng doanh số thu nợ cao nhưng tỷ lệ nợ quá hạn lại rất nhỏ và
có xu hướng giảm. Đó là biểu hiện đáng mừng cho công tác thu nợ của Chi nhánh.
Tuy nhiên tỷ trọng thu nợ ngắn hạn trong những năm vừa qua so với tổng thu nợ
lại có xu hướng giảm. Cùng với việc giảm doanh số cho vay ngắn hạn, thu nợ ngắn
hạn năm 2002 chỉ chiếm 44.5% tổng thu nợ trong khi đó tỷ trọng thu nợ trung và
dài hạn thì ngày càng tăng, đến năm 2002 đã lên đến 55.5% tổng dư nợ. Vì vậy đòi
hỏi các cán bộ tại Chi nhánh cần có những biện pháp hữu hiệu để mở rộng hoạt
động tín dụng ngắn hạn từ đó không chỉ mang lại lợi nhuận cho Chi nhánh mà còn
đảm bảo khả năng thanh khoản và giảm bớt rủi ro tín dụng cho Chi nhánh.
4. Công tác mở rộng hoạt động tại Chi nhánh.
4.1. Công tác khách hàng
Khách hàng của chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, như:
Tổng công ty Bưu chính viễn thông, Tổng công ty Xăng dầu, Tổng công ty Điện
lực, Công ty FPT... Hiện nay, có 18 doanh nghiệp nhà nước đang có quan hệ tín
dụng với NHNo&PTNT Láng Hạ với số tiền còn dư nợ chiếm 95,48%. Trong khi
đó, có 54 doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần... có quan hệ tín dụng, chiếm 3,61% tổng dư nợ. Đến nay tất cả
các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với Chi nhánh đều làm ăn có hiệu quả, có
khả năng trả nợ, trả lãi đầy đủ và đúng hạn.
Ngoài ra, Chi nhánh còn cho vay tiêu dùng, cầm cố, cho vay đồng tài trợ.
Việc cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cho vay hộ gia đình chiếm tỷ lệ
thấp do việc tiếp cận khách hàng của cán bộ tín dụng với các đơn vị và hộ gia đình
còn nhiều hạn chế. Mặt khác, là chi nhánh mới thành lập nên việc tạo lập khách
hàng quen và truyền thống có rất ít, không đáng kể.
Để mở rộng hoạt động tín dụng, chi nhánh không chỉ quan tâm đến khách
hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài với chi nhánh mà còn tìm nhiều biện pháp
Trang 54
tiếp cận với khách hàng là các doanh nghiệp trên địa bàn thủ đô. Tuy nhiên, thực
trạng các doanh nghiệp hiện nay đã ảnh hưởng phần nào đến hiệu quả hoạt động
tín dụng tại chi nhánh.
- Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp vừa và đặc biệt là các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh có nhu cầu rất lớn về vốn nhưng họ còn thiếu tín nhiệm và
không đủ tài sản cầm cố, thế chấp. Các công ty cổ phần hoá rất khó vay vốn của
các tổ chức tín dụng vì không có tài sản đảm bảo tiền vay. Mặt dù đã hoàn thành
xong thủ tục trước bạ chuyển quyền sở hữu đất tại Chi cục thuế địa phương, nhưng
khi các công ty cổ phần hoá làm hồ sơ đăng bộ tài sản cố định tại Sở địa chính thì
không được chấp nhận (vì họ chưa triển khai làm thủ tục đăng bộ tài sản cố định
của các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá).
- Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và công tác xử lý các
doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài của
thành phố và các Bộ còn chậm và chưa mạnh dạn. Chậm xử lý các mô hình doanh
nghiệp nhà nước không còn phù hợp với thực tiễn.
- Nhiều nguyên nhân khó khăn, vướng mắc từ phía doanh nghiệp ảnh
hưởng đến việc hấp thụ vốn ngân hàng: Do thiếu thông tin hoặc thông tin dự báo
chưa sát... nên việc nghiên cứu dự báo thị trường, và lập dự án ban đầu còn hạn
chế, việc gắn sản phẩm của dự án với thị trường chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu sơ
bộ và chưa có tính thuyết phục cao. Do đó, doanh nghiệp chưa có những hồ sơ dự
án khả thi, đầy đủ theo yêu cầu của ngân hàng. Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong
việc thẩm định và xét duyệt cho vay.
Công tác chăm sóc khách hàng tại chi nhánh rất được coi trọng và luôn
được đặt lên hàng đầu: chi nhánh đã áp dụng một loạt các chính sách nhằm giữ
vững và duy trì khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài. Ngoài ra, chi nhánh
còn thu hút thêm các khách hàng mới giúp tăng trưởng nguồn và dư nợ. Các chính
sách chăm sóc khách hàng tại chi nhánh bao gồm:
- Những khách hàng truyền thống, có nguồn tiền gửi hoặc dự nợ lớn, an
toàn luôn được Chi nhánh đưa ra một số chính sách ưu đãi.
Trang 55
- Chi nhánh thực hiện giao dịch tận nơi với những khách hàng ở xa.
- Thường xuyên có chương trình lấy ý kiến khách hàng nhằm cải tiến
phong cách giao dịch, phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn.
- Các hoạt động giao lưu tìm hiểu các đơn vị bạn cũng được Chi nhánh tổ
chức thường xuyên nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và ngày càng gắn kết
chặt chẽ mối quan hệ khăng khít giữa hai bên.
- Ngoài ra, Chi nhánh không ngừng đưa ra các chính sách tiếp thị và
marketing tới các khách hàng đặc biệt là các tầng lớp dân cư như tờ rơi, quảng cáo
qua hệ thống loa đài, báo chí, truyền thanh nhằm thực hiện chiến lược huy động
vốn, giúp cho dân cư tại các địa bàn hoạt động của Chi nhánh hiểu rõ hơn về ưu
đãi và dịch vụ ngân hàng cung cấp.
Cụ thể hoá các chính sách trên, Chi nhánh đã đưa ra nhiều biện pháp để huy
động vốn và mở rộng phạm vi cho vay.
Đối với khách hàng là các doanh nghiệp:
- Hà Nội là thành phố trung tâm của cả nước, nơi tập trung nhiều Tổng
công ty lớn, nhiều cơ quan đầu não của các ngành nên có nguồn vốn tập trung lớn.
Do đó, Chi nhánh đã tập trung khai thác những nguồn vốn lớn này.
- Phát triển mối quan hệ chặt chẽ với các đơn vị khách hàng truyền thống,
những đơn vị có nguồn vốn lớn do đó phải làm tốt công tác thanh toán sao cho
nhanh chóng và thuận lợi, chu đáo nhất, tạo mối quan hệ gắn kết giữa khách hàng
và ngân hàng. Đồng thời mở rộng quan hệ với khách hàng mới nhằm huy động
nguồn vốn nhàn rỗi từ các tổ chức này và phát triển thanh toán trong hệ thống.
- Khuyến khích các đơn vị điện, nước, điện thoại, điểm bán xăng dầu; mở
tài khoản, chuyển tiền tại Chi nhánh; Ngân hàng thực hiện thu tiền mặt tại đơn vị.
Đối với doanh nghiệp có số dư, doanh số tiền gửi lớn, có thu tiền mặt thường
xuyên, Chi nhánh thực hiện thu, chi tại chỗ, thực hiện dịch vụ kiểm ngân không
thu phí, hoặc với mức thu thấp.
- Đẩy mạnh khâu kinh doanh quảng cáo tiếp thị thu hút khách hàng, với
phương châm lắng nghe ý kiến từ doanh nghiệp, từ các tổ chức tín dụng khác để
Trang 56
điểu chỉnh kịp thời các thủ tục rườm rà bất hợp lý, áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt
đối với từng đối tượng khách hàng nhưng phải đảm bảo nguyên tắc phát triển ổn
định và lâu dài.
- Phân công người theo dõi quản lý đơn vị nguồn để nắm bắt tình hình của
doanh nghiệp, xem tình hình hoạt động của doanh nghiệp, lắng nghe ý kiến của
doanh nghiệp để đưa ra những giải pháp phục vụ một cách tốt nhất.
Đối với khách hàng là các tầng lớp dân cư
- Hà Nội cũng là thành phố có nền kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao
nên Chi nhánh đã tận dụng để khai thác lợi thế này bằng cách tiếp cận với các
doanh nghiệp có lượng lao động lớn, mức thu nhập cao để mở tài khoản chi lương.
Nguồn vốn này trước mắt chưa nhiều, song đây là nguồn vốn rẻ và người dân có
điều kiện tiếp cận và làm quen với hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
- Thực hiện trả lương cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp thông
quan tài khoản của doanh nghiệp và tài khoản cá nhân tại chi nhánh bằng cách làm
tốt dịch vụ thanh toán chi trả lương cho cán bộ viên chức của các doanh nghiệp.
Đồng thời Chi nhánh tìm các biện pháp thích hợp để khai thác khách hàng, nâng
cao chất lượng phục vụ.
- Nguồn tiền gửi dân cư tuy tăng trưởng chậm nhưng tương đối ổn định để
khai thác được triệt để nguồn vốn này thái độ phục vụ của cán bộ, lòng tin của
người gửi đối với Ngân hàng, lãi suất huy động vốn, thông tin quảng cáo đến
khách hàng phải được tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng lĩnh, gửi
tiền bằng cách: Tiếp tục mở thêm bàn giao dịch, duy trì phục vụ cả ngày thứ Bảy
và Chủ nhật, đa dạng hoá các phương thức lĩnh, gửi theo Văn bản 404 của Hội
đồng quản trị, đối với khách hàng có lượng tiền lĩnh, gửi lớn có thể triển khai phục
vụ tại nhà có thu phí.
- Mở thêm nhiều chi nhánh thành viên, các phòng giao dịch, nhiều bàn tiết
kiệm để thu hút nguồn tiền gửi từ dân cư, quảng bá sâu rộng cho người dân trên
địa bà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ (2).pdf