Tài liệu Luận văn Giải pháp hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay: LUẬN VĂN:
Hoàn thiện quản lý thu thuế đối với
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay
MỞ ĐẦU
1 - Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển đổi từ cơ chế quản lý nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đổi mới
toàn diện nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực tài chính nói chung và thuế nói riêng. Từ
năm 1990 đến nay, Nhà nước đã từng bước thực hiện cải cách hệ thống chính sách thuế và
bộ máy ngành thuế được tổ chức lại thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến quận
huyện. Quản lý thu thuế đã được dổi mới căn bản, từng bước hiện đại hóa và phát huy
được vai trò tích cực trong việc thực hiện các luật thuế mới và tăng thu cho ngân sách nhà
nước.
Trong quản lý thuế các khu vực kinh tế, thì khu vực doanh nghiệp luôn được quan
tâm hàng đầu vì đây là khu vực đóng góp lớn nhất vào thu ngân sách nhà nước, mặc dù số
doanh nghiệp chỉ chiếm 10% trong tổng số đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng và...
97 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện quản lý thu thuế đối với
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay
MỞ ĐẦU
1 - Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển đổi từ cơ chế quản lý nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đổi mới
toàn diện nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực tài chính nói chung và thuế nói riêng. Từ
năm 1990 đến nay, Nhà nước đã từng bước thực hiện cải cách hệ thống chính sách thuế và
bộ máy ngành thuế được tổ chức lại thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến quận
huyện. Quản lý thu thuế đã được dổi mới căn bản, từng bước hiện đại hóa và phát huy
được vai trò tích cực trong việc thực hiện các luật thuế mới và tăng thu cho ngân sách nhà
nước.
Trong quản lý thuế các khu vực kinh tế, thì khu vực doanh nghiệp luôn được quan
tâm hàng đầu vì đây là khu vực đóng góp lớn nhất vào thu ngân sách nhà nước, mặc dù số
doanh nghiệp chỉ chiếm 10% trong tổng số đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng và thu nhập
doanh nghiệp và bằng 1% tổng số đối tượng nộp thuế, nhưng đóng góp gần 2/3 tổng thu
nội địa. Số thu của một đối tượng ở khu vực này thường gấp nhiều lần số thu của đối
tượng là hộ cá thể hoặc cá nhân. Mặt khác, đây là khu vực đòi hỏi trình độ quản lý cao của
cán bộ thuế và là khu vực có nhiều phức tạp nhất trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản
lý.
Quá trình thực hiện đổi mới quản lý thuế khu vực doanh nghiêp cũng bộc lộ nhiều
bất cập cả về qui trình quản lý, ứng dụng công nghệ tin học, bố trí nguồn nhân lực, trình độ
cán bộ quản lý của cơ quan thuế, chưa tận dụng được kinh nghiệm quản lý thu thuế của các
nước tiên tiến. Số lượng đối tượng nộp thuế nói chung và số doanh nghiệp nói riêng tăng
lên nhanh chóng; tính tuân thủ, tự nguyện của đối tượng nộp thuế chưa cao, tình trạng trốn
thuế, nợ đọng thuế vẫn còn và diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước.
Trước vấn đề đặt ra như trên đòi hỏi phải có những nghiên cứu cơ bản từ lý luận
đến thực tiễn để tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục trong đó hoàn thiện quản lý
thu thuế được coi là nội dung trọng tâm của cải cách hệ thống thuế. Là người tham gia
quản lý lĩnh vực này của Tổng cục Thuế, tôi lựa chọn đề tài: "Hoàn thiện quản lý thu
thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay" làm luận văn thạc sĩ Kinh doanh và quản
lý - chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
2 - Tình hình nghiên cứu
Từ năm 1990 đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu quản lý thu thuế, tập trung
vào các nhóm sau:
- Quản lý thu thuế trên địa bàn một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, như:
"Công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn Hà Nội", Luận văn thạc sĩ Quản
lý kinh tế của Vũ Thị Toản, Hà Nội, 1996; "Các giải pháp nhằm tăng cường công tác
thanh tra thuế trên địa bàn Hà Nội", Luận văn thạc sĩ Quản lý kinh tế của Phi Văn Tuấn,
Hà Nội, 1997; "Những giải pháp chủ yếu chống thất thu thuế trên địa bàn Nghệ An trong
giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ Quản lý kinh tế của Đoàn Hồng Vũ, Hà Nội, 1999.
- Ngoài ra, nghiên cứu quản lý thu thuế nói chung có đề tài: "Nâng cao hiệu quả
quản lý thu thuế ở Việt Nam trong quá trình đổi mới", Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Trịnh
Hoàng Cơ, Hà Nội, 2004.
Các đề tài, bài viết có đề cập ở mức độ nhất định về quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp, nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống về lĩnh vực này.
Để thực hiện đề tài, chúng tôi có tham khảo ý tưởng trong các công trình khoa học,
bài viết đã công bố, giúp cho việc hệ thống hoá lĩnh vực nghiên cứu từ khi đổi mới đến
nay, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện trong thời gian tới.
3 - Mục đích của luận văn
Mục đích chủ yếu của luận văn là nghiên cứu là rõ cơ sở lý luận và thực trạng quản
lý thu thuế đối với doanh nghiệp, chỉ ra kết quả, hạn chế và nguyên nhân, đề xuất giải pháp
hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.
4 - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề có liên quan đến quản lý thu thuế đối với
doanh nghiệp bao gồm doanh nghiệp thành lập theo luật doanh nghiệp, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài theo Luật Đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước theo Luật
Doanh nghiệp nhà nước.
- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn giới hạn trong lĩnh vực quản lý thu thuế đối với
doanh nghiệp của cơ quan thuế nội địa và trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến nay.
5 - Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử để
nghiên cứu và trình bày các nội dung lý luận và thực tiễn. Luận văn sử dụng một số
phương pháp khác nhau như kết hợp lịch sử với lôgíc, tổng hợp và phân tích để qua đó rút
ra kết luận.
- Nghiên cứu lý luận chung có liên quan đến thuế và quản lý thu thuế đối với đoanh
nghiệp; tổng kết quá trình cải cách quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp của Việt Nam.
Đồng thời, có kết hợp nêu kinh nghiệm các nước tiên tiến.
6 - Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Hệ thống hoá và có đóng góp bổ sung những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý thu
thuế đối với doanh nghiệp.
- Tìm hiểu và rút ra bài học kinh nghiệm về quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở
một số nước có thể tham khảo vận dụng đối với Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện
nay.
7 - Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục
làm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, YÊU CẦU HOÀN THIỆN QUẢN LÝ THU THUẾ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1.1. Thuế và các sắc thuế thu đối với doanh nghiệp
* Thuế đối với doanh nghiệp
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thuế ra đời là một sự cần thiết khách
quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Sự xuất hiện thuế trong kỷ
nguyên của nhân loại gắn liền với nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Có nhiều định nghĩa về thuế. Ở nước ta hiện nay cũng chưa có một định nghĩa
thống nhất về thuế. Chúng tôi cho rằng định nghĩa trong giáo trình "lý thuyết về thuế" Học
viện Tài chính được coi là chính thống thì thuế được định nghĩa như sau: thuế là một
khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời
hạn được pháp luật qui định, nhằm sử dụng cho mục đích công cộng [16].
Thuế không những là một phạm trù kinh tế mà còn là phạm trù tài chính: nó biểu
hiện những thuộc tính chung vốn có của các quan hệ tài chính. Những đặc trưng để phân
biệt thuế với các công cụ tài chính khác đó là: thuế mang tính chất bắt buộc, tính không
hoàn trả trực tiếp và tính pháp lý cao. Thuế thực hiện hai chức năng cơ bản: chức năng huy
động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh tế.
Thuế đối với doanh nghiệp (DN) là thuế đánh vào các pháp nhân kinh doanh bao
gồm: doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn
đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty hợp danh, hợp tác xã.
* Các sắc thuế thu vào doanh nghiệp
Thuế Giá trị gia tăng: là một loại thuế tiêu dùng, tính trên phần giá trị tăng thêm
của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu
dùng.
Giá trị gia tăng (GTGT) là phần giá trị mới được tạo ra trong sản xuất kinh doanh.
Nó được xác định bằng chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và tiêu thụ với tổng giá trị
hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng. Thuế GTGT phải nộp ở mỗi giai đoạn được tính
bằng cách lấy số thuế GTGT đầu ra (tính được bằng cách lấy thuế suất x giá hàng hoá dịch
vụ bán ra) trừ số thuế GTGT đầu vào (tính được bằng cách lấy thuế suất x giá hàng hoá
dịch vụ mua vào).
Thuế GTGT là công cụ có hiệu quả trong việc động viên nguồn thu cho ngân sách
nhà nước (NSNN). Số thuế GTGT từ sản xuất kinh doanh nội địa chiếm tỷ trọng cao nhất
(so với các loại thuế khác) trong tổng thu NSNN: khoảng 16,8%, (từ kinh doanh hàng hoá
xuất nhập khẩu chỉ khoảng 9%) và chiểm 36 % trong tổng thu từ doanh nghiệp. Thuế
GTGT được áp dụng ở nước ta từ 1/1/1999 thay cho thuế doanh thu trước đây (sắc thuế
này hiện đã có trên 120 quốc gia áp dụng).
Thuế tiêu thụ đặc biệt: là loại thuế tiêu dùng, đánh vào một số hàng hoá dịch vụ
đặc biệt nằm trong danh mục Nhà nước qui định, được tính căn cứ vào giá cả và thuế suất
(giá tính thuế là giá chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt). Đối với hàng nhập khẩu, giá tính thuế
tiêu thụ đặc biệt là giá nhập khẩu cộng với thuế nhập khẩu.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là nguồn thu quan trọng của NSNN, là công cụ quan trọng
thực hiện mục đích hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ được coi là đặc
biệt, thực hiện tái phân phối thu nhập của các tầng lớp có thu nhập cao, đảm bảo công
bằng xã hội. Hiện nay, số thuế tiêu thụ đặc biệt từ sản xuất kinh doanh nội địa chiếm
khoảng 8-10% trong tổng thu NSNN (từ kinh doanh hàng hoá xuất, nhập khẩu là 1%), và
chiếm 20,8 % trong tổng thu từ doanh nghiệp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp: là một loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập chịu
thuế của các DN.
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) được tính bằng cách lấy thu nhập chịu thuế (bằng
doanh thu trừ chi phí+các thu nhập khác) x thuế suất.
Thuế TNDN được sử dụng để điều tiết thu nhập của các nhà đầu tư nhằm góp phần
đảm bảo công bằng xã hội, là một trong các nguồn thu quan trọng của NSNN, chiếm
khoảng 15% trong tổng thu NSNN và chiếm 35,3% trong tổng thu từ DN năm 2004, cao
thứ hai sau thuế giá trị gia tăng và là công cụ có hiệu quả để Nhà nước thực hiện các mục
tiêu quản lý kinh tế vĩ mô.
Thuế tài nguyên: là loại thuế đánh vào tài nguyên thiên nhiên khai thác được. Thuế
này được tính bằng cách lấy số lượng tài nguyên thực tế khai thác x Giá tính thuế đơn vị
tài nguyên x Thuế suất.
Thuế tài nguyên là công cụ để quản lý, kiểm soát, hướng dẫn, điều tiết các hoạt
động khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên của đất nước, bảo vệ môi trường sinh thái
và động viên một phần thu nhập cho NSNN. Số thuế tài nguyên chiếm khoảng 0,7% trong
tổng thu NSNN và chiếm 2 % trong tổng thu từ DN năm 2004.
Thuế môn bài: là thuế đăng ký kinh doanh được tính theo năm. Mức thuế được áp
dụng theo số tuyệt đối và được phân biệt theo 2 nhóm: tổ chức kinh tế và hộ kinh doanh cá
thể. Đối với DN (tổ chức) thì mức môn bài được qui định từ 1.000.000đ đến 3.000.000đ
tuỳ theo vốn đăng ký.
Số thuế môn bài chiếm khoảng 0,4% trong tổng thu NSNN và chiếm 0,6% trong
tổng thu từ DN năm 2004.
Ngoài ra còn một số khoản thu khác đối với doanh nghiệp như thuế nhà đất, tiền
thuê đất. Những khoản thu này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu từ doanh nghiệp.
Mỗi sắc thuế nêu trên có phương pháp quản lý cụ thể khác nhau, tuy nhiên trong
phạm vi luận văn không đi sâu vào quản lý của từng sắc thuế cụ thể mà chỉ đề cập những
vấn đề quản lý mang tính chất chung nhất của tất cả các sắc thuế thu vào DN.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, yêu cầu hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
* Khái niệm quản lý thuế và thu thuế đối với doanh nghiệp
- Quản lý thuế là vấn đề đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và có nhiều quan
niệm khác nhau. Mỗi quan niệm đều nhìn nhận quản lý thuế ở một góc độ, phạm vi khác
nhau và với mục đích, ý nghĩa thực tiễn khác nhau. Theo chúng tôi, các quan niệm về quản
lý thuế đều có các điểm chung là:
+ Đều đề cập đến các nội dung của khâu hành pháp về thuế;
+ Đều đề cập đến sự tác động của chủ thể quản lý đối với đối tượng bị quản lý bằng
các phương thức, phương tiện nào đó nhằm đạt mục đích nhất định. Chủ thể quản lý là
Nhà nước (mà trực tiếp là cơ quan thuế các cấp). Đối tượng bị quản lý là các tổ chức và cá
nhân có nghĩa vụ về thuế. Mục đích quản lý là để đối tượng nộp thuế và các đối tượng có
liên quan thực hiện tốt nghĩa vụ luật định về thuế của mình. Phương tiện quản lý là sử
dụng các qui định về đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế, thanh tra thuế...với
bộ máy, đội ngũ cán bộ, cơ sở chất cần thiết để quản lý.
Quản lý nhà nước về thuế là thuật ngữ dùng để chỉ tổng thể các khâu lập pháp, hành
pháp và tư pháp về thuế, còn quản lý thuế gồm những hoạt động có tổ chức trong bộ máy
nhà nước, thuộc lĩnh vực hành pháp và tư pháp về thuế của cơ quan thuế các cấp, với các
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do luật định nhằm thực hiện chính sách thuế đã được cơ
quan có thẩm quyền thông qua. Theo nghĩa rộng, quản lý thuế là hoạt động nhằm đảm bảo
sự thực thi nghiêm chỉnh pháp luật về thuế thông qua sự tự giác của chính đối tượng nộp
thuế và sự hỗ trợ của cơ quan thuế và các cơ quan nhà nước có liên quan.
- Quản lý thu thuế đối với DN là hoạt động quản lý của Nhà nước mà cơ quan thuế
là đại diện để tổ chức hướng dẫn, điều hành, giám sát việc thực thi pháp luật về thuế đối
với các doanh nghiệp nhằm động viên nguồn thu vào ngân sách nhà nước.
- Đối với cán bộ thuế, quản lý thu thuế nói chung và quản lý thu thuế DN nói riêng
bao gồm ba hoạt động riêng biệt, liên tiếp nhau: xác định đối tượng nộp thuế, xác định số
thuế phải nộp và thu thuế. Chức năng chủ yếu của quản lý ở đây là kiểm soát sự tuân thủ
và áp dụng các khoản phạt theo luật thuế để răn đe những đối tượng nộp thuế vi phạm.
Đồng thời, quản lý thu thuế cũng đảm bảo bên thứ ba có giao dịch mua bán hay cung cấp
dịch vụ với đối tượng nộp thuế phải báo cáo đầy đủ, trung thực các giao dịch kinh tế có
phát sinh thuế nộp ngân sách nhà nước theo qui định của luật [25, tr. 39].
- Đối với một cơ quan thuế, quản lý thu thuế hay quản lý thu thuế đối với DN là
một quá trình giống như quá trình sản xuất. Trong đó, đầu vào gồm nhân công (cán bộ
thuế), tài liệu và các thông tin, còn đầu ra là số thu cho Nhà nước và sự công bằng cho
người nộp thuế.
- Trên phạm vi cả nước, quản lý thu thuế đối với DN bao gồm các hoạt động: hoạch
định mục tiêu, phân cấp quản lý, xây dựng và ban hành qui trình thủ tục, đề ra giải pháp tổ
chức thực hiện và kiểm tra, thanh tra, sắp xếp tổ chức bộ máy và nhân sự để thực hiện các
khâu công việc [25, tr. 20-22].
* Đặc điểm quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
- Quản lý thu thuế đối với đối với DN là quản lý thu thuế đối với những pháp nhân
và là những đối tượng nộp thuế (ĐTNT) lớn. Số thu từ DN chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
thu nội địa (như đã nêu trên) do vậy quản lý thu thuế đối với DN được đặc biệt quan tâm
và đặt ưu tiên hàng đầu. Hầu hết cơ quan thuế các nước cũng tập trung không ngừng và
đáng kể các nguồn lực vào việc quản lý nhóm đối tượng nộp thuế này.
- Quản lý thu thuế trên cơ sở ĐTNT thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ.
Theo chế độ hiện hành, các DN đều phải mở sổ sách kế toán, và hạch toán kế toán theo chế
độ qui định và thực hiện nghĩa vụ thuế theo phương pháp kê khai thuế.
- Doanh nghiệp có phạm vi kinh doanh rộng hơn và mức độ phức tạp cao hơn so
với đối tượng là hộ cá thể. Ngày nay, nhiều DN có phạm vi kinh doanh toàn cầu. Vì vậy,
việc kiểm soát chi phí và thu nhập khi tính thuế là hết sức phức tạp. Nhiều DN lớn không
trốn thuế một cách "ngây ngô" như các DN nhỏ hoặc cá nhân kinh doanh bằng cách gian
lận hoá đơn hay bán hàng không xuất hoá đơn. Các DN này luôn xuất trình đủ hoá đơn,
chứng từ và hạch toán rất bài bản, nhưng đằng sau những số liệu "sạch sẽ" đó, là cả một kế
hoạch tránh thuế hết sức tinh vi. Do đó, quản lý thu thuế đối với DN đòi hỏi đội ngũ cán
bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Có như vậy, mới phát hiện được các thủ thuật
trốn thuế, tránh thuế hết sức tinh vi của các đối tượng này, từ đó đề xuất hoàn thiện chính
sách hoặc xử lý đối tượng vi phạm.
* Yêu cầu hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
Xuất phát từ vị trí của thu từ doanh nghiệp trong thu nội địa
Tỷ trọng thu từ khu vực DN ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng chủ yếu trong
tổng thu nội địa, từ 70% giai đoạn 1996-2000 lên 76,8% giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng
thu khu vực DN bình quân 5 năm là 19% (trong khi tốc độ tăng tổng thu NSNN bình quân
chỉ đạt 13,9%/năm). Các khoản thu khác như phí, lệ phí, các khoản thu từ nhà, đất và thu
khác giảm dần, từ 30% giai đoạn 1996-2000 xuống còn 23,2% giai đoạn 2001-2005.
Thu từ khu vực DN là khoản thu quan trọng, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu
nội địa, vì vậy việc nghiên cứu để hoàn thiện quản lý thuế từ doanh nghiệp có ý nghĩa quan
trọng trong công tác quản lý thuế nói riêng và quản lý tài chính nói chung.
Tác động của việc hoàn thiện chính sách thuế đối với doanh nghiệp
Đối tượng quản lý là một hệ thống phức tạp, luôn vận động và phát triển. Qui luật
về sự phù hợp giữa cơ chế quản lý với đối tượng quản lý là một qui luật cơ bản của quản lý
mang tính lịch sử cụ thể rõ nét [15, tr.66].
Chức năng quản lý xác định khối lượng các công việc cơ bản và trình tự các công
việc của quá trình quản lý. Chức năng quản lý xác định vị trí, mối quan hệ giữa các bộ
phận, các khâu, các cấp trong hệ thống quản lý [15, tr.52]
Việc hoàn thiện chính sách thuế chính là làm thay đổi khối lượng công việc và
trình tự các công việc trong quá trình quản lý thuế, và làm thay đổi mạnh mẽ đối tượng
quản lý. Ví dụ khi ban hành Luật Thuế GTGT, khối lượng công việc quản lý thuế thay đổi
như phát sinh thêm các công việc về hoàn thuế, về đối chiếu hóa đơn; đối tượng quản lý
thay đổi như một số đối tượng trước đây chịu thuế doanh thu nay không thuộc đối tượng
chịu thuế GTGT...
Từ năm 1986, đất nước ta bắt đầu chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống pháp luật thuế mới bắt đầu
được xây dựng và không ngừng được bổ sung sửa đổi. Việc hoàn thiện chính sách thuế nói
chung và thuế đối với DN nói riêng đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện về phương pháp, qui
trình và tổ chức quản lý thuế.
Tác động của hội nhập kinh tế và hội nhập về thuế đối với doanh nghiệp
Xu thế hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực tiến tới toàn cầu hoá kinh tế là tất
yếu khách quan, một mặt tạo cơ hội thuận lợi cho các nước phát huy lợi thế của mình để
phát triển kinh tế. Các nước đang phát triển lợi dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới đồng thời thu hút được nguồn
vốn từ nước ngoài để tạo bước phát triển nhảy vọt về kinh tế, làm cho nền kinh tế có khả
năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, có cơ hội thu hẹp khoảng cách so với các nước
phát triển. Ngược lại, xu hướng hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực, tiến tới toàn cầu
hoá kinh tế sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh giữa các nền kinh tế. Mỗi nước phải tranh thủ
được cơ hội, khắc phục yếu kém vươn lên mới chiến thắng trong cạnh tranh và hội nhập.
Quá trình hội nhập không chỉ đòi hỏi hệ thống thuế nhập khẩu phải được sửa đổi mà
hệ thống thuế nội địa cũng phải được sửa đổi phù hợp với thông lệ quốc tế. Quản lý thuế
nội địa nói chung và quản lý thuế đối với DN nói riêng cũng phải được cải cách theo các
chuẩn mực quốc tế, tiến tới trao đổi thông tin về quản lý thuế đối với các công ty đa quốc
gia.
1.2. NỘI DUNG QUẢN LÝ THU THUẾ, CÁC CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ PHƯƠNG
THỨC KÊ KHAI NỘP THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.2.1. Nội dung quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
* Thứ nhất là hoạch định mục tiêu
Mục tiêu là trạng thái tương lai, là đích phải đạt tới mà hệ thống quản lý mong
muốn đạt tới. Nó có vai trò chi phối và định hướng hoạt động của toàn bộ hệ thống.
Mục tiêu quản lý phải được xác định trước, nó luôn chi phối, dẫn dắt cả chủ thể và đối t-
ượng quản lý trong toàn bộ quá trình hoạt động. Xác định mục tiêu đúng có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với hoạt động quản lý.
Mục tiêu của quản lý thuế nói chung thường được xác định bằng các chỉ tiêu cụ thể
như: số thuế thu trong một thời gian nhất định; tỷ lệ huy động nguồn thu từ thuế vào ngân
sách nhà nước; tốc độ tăng trưởng về số thu của thời kỳ kế hoạch so với thời kỳ trước; tỷ
trọng các sắc thuế (thường hay quan tâm đến tỷ trọng của thuế gián thu và thuế trực thu
trong tổng thu ngân sách) cần đạt được trong từng thời kỳ vv... [10, tr12]. Tuy nhiên, vì
thuế có các chức năng cơ bản là huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước và điều chỉnh
các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước, do đó xét đến cùng, mục tiêu của quản lý thuế là
nhằm làm cho ĐTNT thực hiện đầy đủ kịp thời các nghĩa vụ luật định về thuế của mình,
đồng thời Nhà nước thực hiện được các mục tiêu vốn có của mỗi sắc thuế [4].
Mục tiêu cụ thể của quản lý thuế đối với DN, đó là làm cho các DN thực hiện đầy
đủ kịp thời các nghĩa vụ luật định về thuế của mình trên cơ sở mức độ tuân thủ tự nguyện
pháp luật thuế của các DN ngày càng cao. Điều đó cũng có nghĩa là số thuế thu từ DN sẽ
tiến gần đến số thuế tiềm năng, hay thất thu thuế ngày càng giảm thiểu và tiến dần tới 0; số
thu của ngân sách nhà nước từ DN sẽ là lớn nhất trong điều kiện chính sách thuế ổn định,
đồng thời chi phí của cơ quan thuế giảm khi mức độ tuân thủ của đối tượng nộp thuế ngày
càng tăng. Đồng thời mục tiêu vốn có của mỗi sắc thuế cũng được thực hiện.
* Thứ hai là phân cấp quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
Hệ thống quản lý là một hệ thống rất phức tạp, bao gồm nhiều tầng nấc, mỗi tầng
nấc là một hệ thống con có sự độc lập tương đối, có mục tiêu riêng và điều kiện vận động
đặc thù cả về vật chất và thông tin nhưng lại đặt trong sự quản lý thống nhất chung của
toàn hệ thống. Như vậy, toàn bộ hệ thống vừa có một sự quản lý tập trung thống nhất, vừa
có sự tự vận động độc lập tương đối. Do đặc thù quản lý của hệ thống, chủ thể quản lý một
mặt phải đảm bảo sự quản lý tập trung thống nhất trên những mặt cơ bản chính yếu nhất,
mặt khác phân cấp cho cấp dưới xử lý thông tin và ra quyết định với những quyền hạn và
trách nhiệm xác định. Việc phân cấp trong quản lý mang lại nhiều lợi ích:
- Giải phóng cho chủ thể quản lý cấp cao những công việc sự vụ, tập trung vào
những nhiệm vụ quan trọng, có tầm chiến lược, đảm bảo sự quản lý tập trung, thống nhất.
- Giao quyền và trách nhiệm quản lý cho cấp dưới để tạo điều kiện phát huy tính
năng động sáng tạo của cấp dưới, rèn luyện và tập dượt cho cấp dưới trưởng thành, khắc
phục tính dựa dẫm, ỷ lại cấp trên.
- Tạo nên bầu không khí tâm lý dân chủ và lành mạnh trong tập thể của hệ thống
quản lý, mở rộng dân chủ hoá trong quản lý.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý cũng là nội dung cơ bản của phân cấp,
vừa đảm bảo sự quản lý tập trung trên những vấn đề cơ bản và mở rộng dân chủ cho cấp
dưới. Trong quản lý hiện đại, nhất là trong điều kiện của hệ thống quản lý ngày càng phức
tạp, lượng thông tin cực kỳ lớn và rất nhạy cảm trong xử lý thì yêu cầu phân cấp càng lớn
và càng đòi hỏi dân chủ hoá và mở rộng quyền. Tuy nhiên, tập trung quyền lực hay phân
quyền đến đâu còn tuỳ thuộc vào điều kiện khách quan và nhất là trình độ, năng lực của
cán bộ quản lý ở mỗi cấp [15, tr.69-70].
Trong hệ thống quản lý thuế, việc phân cấp quản lý cho từng cấp là hết sức cần
thiết. Ở nhiều nước, hệ thống thuế được tổ chức phù hợp với tổ chức của Nhà nước như
thuế Liên Bang, thuế Bang (như Hoa Kỳ, Úc), hoặc thuế Trung ương và thuế địa phương
(như Trung Quốc,Nhật Bản, Philipin...). Đối với thuế Liên Bang hoặc thuế Trung ương, xu
hướng chung trên thế giới hiện nay là cơ quan thuế được tổ chức theo ngành dọc thống
nhất gồm hai hoặc ba cấp. Đối với Việt Nam, Hệ thống thuế được tổ chức lại thống nhất
theo ngành dọc từ Trung ương đến quận, huyện (từ năm 1990) chịu trách nhiệm quản lý
thu tất cả các khoản thu nội địa (không phân biệt thuế Trung ương hay thuế địa phương).
Việc phân cấp quản lý thu trong ngành Thuế thường căn cứ vào đối tượng quản lý
(không căn cứ vào sắc thuế). Một đối tượng có thể nộp nhiều loại thuế khác nhau nhưng
hầu hết sẽ chỉ chịu sự quản lý của một cơ quan thuế. Điều này tránh được sự phiền hà cho
ĐTNT (chỉ phải liên hệ với một cơ quan thuế). Trong tổng số đối tượng nộp thuế hiện nay:
khoảng hơn 140.000 doanh nghiệp, gần 1,5 triệu hộ kinh doanh cá thể, hơn 10 triệu hộ nộp
thuế nhà đất, hàng trăm nghìn đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân và các loại thuế khác,
tất yếu phải được phân cấp quản lý cho từng cấp trong ngành thuế một cách phù hợp. Có
như vậy, mới tạo ra sức mạnh tổng hợp để quản lý thu có hiệu quả.
Đối với DN, mặc dù số đối tượng nộp thuế không lớn, tuy nhiên số thu từ đối tượng
này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nội địa; qui mô và phạm vi kinh doanh rộng lớn hơn
hộ cá thể rất nhiều, đòi hỏi cán bộ quản lý thuế phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao
do đó việc phân cấp quản lý đối tượng này cũng phải dựa vào qui mô, ngành nghề kinh
doanh, đặc điểm của DN, độ phức tạp của công tác quản lý, cơ sở vật chất và nhân lực của
cơ quan thuế.
* Thứ ba là xây dựng, ban hành và thực hiện các qui trình quản lý thu đối với
doanh nghiệp
Qui trình quản lý thu thuế qui định trình tự, thủ tục các bước công việc phải làm để quản
lý thu thuế.
Việc ban hành qui trình quản lý giúp cho cơ quan thuế chỉ đạo, điều hành hoạt động
của cả hệ thống một cách thống nhất, khoa học, theo một trình tự hợp lý, đảm bảo tuân thủ
đúng pháp luật thuế, thực hiện dân chủ hóa, công khai minh bạch và rõ ràng để các cán bộ
thuế, đối tượng nộp thuế dễ thực hiện và kiểm soát cơ quan thuế.
Việc thực hiện các qui trình quản lý thuế phản ánh chất lượng quản lý của cơ quan
thuế và tác động đến kết quả thu thuế.
Mỗi loại ĐTNT có đặc điểm khác nhau, các sắc thuế áp dụng khác nhau. Vì vậy,
qui trình quản lý thuế cũng được qui định cho từng loại đối tượng phù hợp với đặc điểm về
chính sách thuế và đặc điểm riêng có của từng loại đối tượng, như qui trình quản lý đối với
doanh nghiệp, qui trình quản lý đối với hộ cá thể kinh doanh, qui trình quản lý phí, lệ phí,
qui trình quản lý thuế trước bạ...Cùng với cải cách chính sách thuế và yêu cầu quản lý, đòi
hỏi các qui trình này cũng phải được bổ sung, sửa đổi hoặc cải cách căn bản qua các giai
đoạn.
Qui trình quản lý thu đối với DN bao gồm các qui trình nhỏ như qui trình đăng ký
thuế, kê khai nộp thuế, kiểm soát tính thuế, thông báo thuế, thu thuế, tuyên truyền hỗ trợ
ĐTNT; cưỡng chế thu nợ thuế; thanh tra, kiểm tra, và xử lý vi phạm pháp luật về thuế. Nội
dung của qui trình này bao gồm:
- Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các đơn vị và cá nhân liên quan đến quản lý thu
thuế đối với DN trong cơ quan thuế.
- Trình tự, thủ tục hành chính của các bước công việc: đảm bảo hoạt động đồng bộ
giữa các bước công việc cũng như về thời gian.
- Mối quan hệ công tác giữa các đơn vị, cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ: phối hợp
ngang giữa các bộ phận trong cơ quan, giữa các cơ quan trong ngành; kết hợp các công
việc của các cá nhân trong bộ phận.
Việc xây dựng, ban hành và thực hiện các qui trình quản lý thu đối với doanh
nghiệp là nội dung cơ bản của quản lý thuế.
Một số khâu cơ bản trong qui trình quản lý:
Tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT:
- Cơ quan thuế thực hiện tuyên truyền giáo dục pháp luật thuế cho doanh nghiệp và
mọi tầng lớp dân cư trong xã hội để làm cho các cấp các ngành và mọi người dân hiểu biết
về thuế, thực hiện luật thuế và lên án những hành vi vi phạm pháp luật thuế, hỗ trợ cơ quan
thuế trong quản lý thu thuế.
- Cơ quan thuế cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho DN: nắm bắt nhu cầu và tổ chức các
hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ DN sát với yêu cầu, đặc điểm của từng nhóm ĐTNT với
những nội dung, hình thức phù hợp đảm bảo đáp ứng được yêu cầu của DN nhanh nhất và
đầy đủ nhất, nhằm hỗ trợ tối đa để DN hiểu biết pháp luật thuế và kê khai thuế, nộp thuế
đúng qui định của pháp luật thuế.
Xử lý tờ khai và kế toán thuế:
- Nhận các tờ khai thuế, phát hiện các lỗi kê khai và hướng dẫn ĐTNT sửa lỗi kịp
thời, xác định nghĩa vụ thuế theo kê khai của của DN.
- Theo dõi tình hình thực hiện kê khai của DN và cung cấp thông tin này cho các
khâu quản lý tiếp theo để các khâu quản lý như hỗ trợ, thu nợ, thanh tra, kiểm tra... có biện
pháp xử lý phù hợp như: hướng dẫn người nộp thuế để tránh các lỗi đã mắc trong kê khai
nếu việc mắc lỗi là do chưa hiểu rõ; hoặc xem xét sửa đổi mẫu tờ khai nếu tờ khai chưa
phù hợp; hoặc đó là một dấu hiệu để xem xét, lựa chọn các trường hợp thanh tra.
- Nhận chứng từ nộp thuế, hạch toán số thuế đã nộp của DN, theo dõi thanh toán
thuế, đảm bảo tính đúng nợ thuế của ĐTNT theo từng khoản thuế phải nộp, để khâu cưỡng
chế thu nợ thuế thực hiện đôn đốc và cưỡng chế DN nộp thuế vào NSNN.
Cưỡng chế thu nợ thuế:
Mục tiêu của công tác cưỡng chế thu nợ thuế là kịp thời phát hiện và xử lý các đối tượng
nộp thuế cố ý chây ỳ, nợ thuế, chiếm đoạt tiền thuế và các khoản tiền phạt liên quan đến
thuế, để đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thu vào NSNN, phù hợp với
pháp luật thuế.
Nội dung của công tác cưỡng chế thu nợ thuế là:
- Giám sát chặt chẽ việc thực hiện nghĩa vụ kê khai, nộp thuế của DN, có biện pháp
kịp thời để đôn đốc, xử phạt việc chậm kê khai, chậm nộp thuế của DN theo qui định của
luật thuế.
- Theo dõi được số thuế nợ của DN theo từng loại thuế, mức nợ, tuổi nợ, nguyên
nhân của từng khoản nợ thuế và kết hợp với việc phân tích thông tin về tình hình sản xuất,
kinh doanh, tình hình tài chính của DN để xây dựng kế hoạch và có biện pháp tổ chức thu
nợ phù hợp.
Thanh tra, kiểm tra:
Kiểm tra, thanh tra có liên quan đến mọi cấp quản lý, nhằm đo lường và điều chỉnh
hoạt động của các bộ phận cấp dưới căn cứ vào mục tiêu và kế hoạch đã định. Mục đích
của kiểm tra nhằm đảm bảo kế hoạch thành công, nhờ phát hiện kịp thời những sai sót, tìm
ra nguyên nhân và biện pháp sửa chữa kịp thời những sai sót đó. Kiểm tra là tai mắt của
quản lý. Vì vậy cần tiến hành thường xuyên linh hoạt nhiều hình thức kiểm tra. Kiểm tra là
việc làm bình thường không được cản trở đối tượng thực hiện mục tiêu [15].
Kiểm tra, thanh tra là một nội dung quan trọng trong quản lý thuế. Lịch sử phát
triển của công tác quản lý thuế của các nước trên thế giới đã chứng minh chức năng thanh
tra thuế là tất yếu và là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan thuế để bảo đảm
chính sách thuế được thi hành nghiêm túc.
Đối tượng của kiểm tra thanh tra thuế là các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ nộp
thuế cho Nhà nước. Kiểm tra, thanh tra thuế nói chung và kiểm tra, thanh tra thuế đối với
DN nói riêng đều nhằm hướng vào các mục đích chủ yếu sau [14]:
- Phát hiện để từ đó có biện pháp xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật thuế
như khai man, trốn thuế, nợ đọng thuế, nhằm hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng thất thu
thuế cho Nhà nước và đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế trong việc thực
hiện nghĩa vụ thuế.
- Làm cho các DN tin rằng mọi vi phạm về thuế, đặc biệt là các trường hợp trốn thuế sẽ bị
cơ quan thuế phát hiện và xử phạt. Từ đó, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế của
ĐTNT.
- Phát hiện những nội dung không phù hợp trong các văn bản pháp qui về thuế, những
điểm bất hợp lý trong qui trình quản lý thuế, cơ cấu tổ chức, từ đó kiến nghị các cơ quan
chức năng sửa đổi, bổ sung kịp thời để không ngừng hoàn thiện chính sách thuế và quản lý
thuế.
Nội dung kiểm tra, thanh tra thuế đối với DN gồm: kiểm tra, thanh tra việc chấp
hành những qui định về đăng ký, kê khai và nộp thuế, việc chấp hành chế độ sổ sách kế
toán và hoá đơn, chứng từ.
Về kỹ thuật thanh tra: có thanh tra theo truyền thống và thanh tra dựa trên cơ sở
phân tích rủi ro (là kỹ thuật thanh tra mà các nước tiến tiến đang áp dụng.)
Về hình thức thanh tra: nếu xét theo thời gian có thanh tra đột xuất và thanh tra theo
kế hoạch, xét theo phạm vi có thanh tra toàn diện và thanh tra có trọng điểm. Tuỳ theo yêu
cầu cụ thể để áp dụng hình thức thanh tra đối với DN một cách phù hợp.
* Thứ tư là xây dựng cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ
Về cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức quản lý là một chỉnh thể gồm các bộ phận có chức năng, nhiệm vụ
quyền hạn khác nhau, có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được bố trí thành từng cấp, từng
khâu khác nhau, thực hiện các chức năng quản lý được chuyên môn hoá nhằm đạt mục tiêu
xác định [15]. Mỗi cơ cấu tổ chức quản lý có hai mối quan hệ cơ bản: quan hệ ngang và
quan hệ dọc. Theo quan hệ ngang, cơ cấu tổ chức quản lý chia thành các khâu quản lý
khác nhau. Theo quan hệ dọc, cơ cấu tổ chức quản lý được chia thành các cấp quản lý.
Hầu hết mô hình tổ chức cơ quan thuế gồm 3 cấp: Trung ương, vùng, địa phương.
Ở nhiều quốc gia, có sự phân chia thuế Trung ương và thuế địa phương hoặc thuế Liên
bang, thuế Bang.Thông thường bộ máy thuế Trung ương hay Liên Bang có nhiệm vụ thu
những loại thuế quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu của quốc gia, ngược lại
bộ máy thuế địa phương hoặc Bang thu những khoản thu nhỏ, gắn với chính quyền địa
phương...
Ở một số nước đang phát triển hoặc có nền kinh tế chuyển đổi, cơ quan thuế địa
phương chịu sự song trùng lãnh đạo của cơ quan thuế cấp trên và chính quyền địa phương,
nhưng xu hướng chung, cơ quan thuế được tổ chức theo ngành dọc độc lập với chính
quyền địa phương.
Về mô hình tổ chức cụ thể, có 3 hình mẫu phổ biến nhất, đó là tổ chức theo sắc
thuế, tổ chức theo chức năng, tổ chức theo đối tượng nộp thuế (tương ứng với 3 mô hình tổ
chức trong khu vực kinh doanh là: tổ chức theo sản phẩm, chức năng và khách hàng).
Mô hình tổ chức bộ máy theo sắc thuế: là mô hình tổ chức các phòng, ban riêng biệt
để quản lý một số loại thuế cụ thể (như Cục hay phòng thuế thu nhập, phòng thuế GTGT,
phòng thuế TTĐB...). Trong từng phòng ban, được tổ chức các bộ phận thực hiện các khâu
công việc quản lý của sắc thuế đó.
Với mô hình này, DN sẽ chịu sự quản lý của nhiều phòng ban, mỗi phòng ban chịu
trách nhiệm quản lý một sắc thuế.
Mô hình tổ chức bộ máy theo chức năng: Tổ chức các phòng (bộ phận) thực hiện
một hoặc một số chức năng nhất định trong qui trình quản lý thu thuế (Phòng dịch vụ hỗ
trợ ĐTNT, phòng xử lý tờ khai, phòng quản lý thu các trường hợp nợ đọng, gian lận,
phòng Thanh tra...).
Với mô hình này, DN cũng sẽ chịu sự quản lý của nhiều phòng ban, mỗi phòng ban
chịu trách nhiệm quản lý theo chức năng được phân công đối với tất cả các sắc thuế, ví dụ:
chịu sự quản lý của phòng Thanh tra về khả năng thanh tra tất cả các sắc thuế đối với DN.
Mô hình tổ chức bộ máy theo nhóm ĐTNT: Tổ chức các đơn vị (Cục) theo nhóm đối
tượng. Mỗi Cục chịu trách nhiệm cung cấp toàn bộ các chức năng quản lý thuế cho nhóm
đối tượng (như Cục Quản lý thuế các DN lớn, Cục Quản lý thuế các DN vừa, nhỏ, Cục
Quản lý tiền công và lương hưu... như ở Australia).
Theo mô hình này DN chỉ chịu sự quản lý của một tổ chức (Cục), gồm các phòng
thực hiện các chức năng quản lý thuế.
Mô hình này hiện đang được áp dụng ở một số nước phát triển.
Hiện nay, trên thế giới có 3/4 cơ quan thuế các nước hoạt động với cơ cấu tổ chức
theo chức năng hoặc hỗn hợp giữa các mô hình. Cả 3 mô hình nêu trên, mỗi mô hình đều
có ưu điểm, nhược điểm. Những ưu điểm không phải tự có và những nhược điểm cũng
không phải không hoàn toàn tránh được. Vì vậy, mỗi quốc gia cần nghiên cứu kỹ những
đặc điểm của đất nước mình để tổ chức cơ quan thuế phù hợp.
Về cán bộ quản lý
Cán bộ quản lý là người lao động quản lý bao gồm tất cả các cá nhân thực hiện
những chức năng quản lý nhất định trong bộ máy quản lý của một hệ thống. Đội ngũ cán
bộ nói chung gồm 2 loại chính: cán bộ lãnh đạo và cán bộ chuyên môn nghiệp vụ.
Đội ngũ cán bộ quản lý giữ vai trò cực kỳ quan trọng, là nhân tố quyết định sự
thành công hay thất bại của một hệ thống quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "cán bộ
là cái gốc của mọi công việc... công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém".
Để xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, trước hết phải xác định yêu cầu (yêu cầu về
phẩm chất đạo đức, yêu cầu về năng lực, trình độ). Từ đó, kế hoạch hoá đội ngũ cán bộ
(xác định số lượng và chất lượng cán bộ, kế hoạch bổ sung, luân chuyển, qui hoạch, đào
tạo), phân định chức năng, quyền hạn và trách nhiệm cho cán bộ trong cơ quan quản lý, bố
trí, đánh giá, đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ quản lý.
Để nâng cao hiệu lực của bộ máy nói chung và thuế nói riêng, việc lựa chọn, bố trí,
qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu công việc, có vai trò rất
quan trọng.
Chất lượng của quản lý thuế phụ thuộc vào trình độ cán bộ, việc bố trí nhân lực cho
các khâu để quản lý các đối tượng nộp thuế trong qui trình một cách hợp lý.
Đối với các nước có trình độ quản lý thuế tiến tiến thì tỷ lệ cán bộ bố trí cho khâu
xử lý tờ khai và kế toán thuế chiếm từ 14-22%, khâu tuyên truyền và dịch vụ hỗ trợ doanh
nghiệp chiếm từ 12-24%, khâu thanh tra, kiểm tra chiếm từ 24-40%, khâu cưỡng chế thu
nợ thuế chiếm từ 12-17%. (xem biểu 1.1).
Bảng 1.1: Tỷ lệ cán bộ bố trí theo các chức năng ở một số nước
Đơn vị tính:(%)
Quốc gia TT-hỗ trợ
ĐTNT
Xử lý tờ
khai
Thanh tra,
kiểm tra
Thu nợ
thuế
Khác
Canada 8 17 26 17 32
Hoa Kỳ 24 14 27 12 23
Newzeland 19 22 24 14 21
Singapore 20 15 40 13 12
Nguồn: Quĩ Tiền tệ quốc tế
Trong bố trí cán bộ, tỷ lệ cán bộ trực tiếp quản lý thuế phải chiếm tỷ trọng cao
thông thường khoảng 80%, tỷ lệ cán bộ làm công tác phục vụ, quản lý nội bộ ngành
khoảng 20%. Đồng thời phải xác định được các khâu trọng yếu của quản lý thuế và bố trí
cán bộ phù hợp.
Chất lượng và số lượng cán bộ quản lý doanh nghiệp phải được quan tâm hàng đầu,
vì đây là khu vực có số thu lớn nhất, do đó khả năng rủi ro về thuế cũng lớn nhất.
Cùng với xác định tỷ lệ cán bộ ở các khâu thì cũng cần bố trí cán bộ có trình độ phù
hợp vào quản lý các đối tượng và các khâu công việc. Trong quản lý đối tượng nộp thuế
gồm DN, cá nhân kinh doanh, cá nhân nộp thuế thu nhập cá nhân, đối tượng nộp phí, lệ
phí thì quản lý DN đòi hỏi cán bộ phải có trình độ cao, có kiến thức đầy đủ về tài chính kế
toán, am hiểu hoạt động kinh doanh của DN. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ
thuế nói chung và đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ quản lý thuế đối DN nói riêng phải được
tiến hành thường xuyên, theo hướng chính qui hiện đại.
1.2.2. Các cơ chế quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
* Cơ chế cơ quan thuế tính thuế
Cơ chế cơ quan thuế tính thuế: là cơ chế quản lý thu trong đó các đối tượng nộp
thuế phải kê khai thuế và nộp tờ khai cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế nhận tờ khai, kiểm
tra tờ khai và tính thuế, thông báo số thuế phải nộp gửi đối tượng nộp thuế. Trong khoảng
thời hạn theo thông báo (qui định trong luật), ĐTNT phải có trách nhiệm nộp đầy đủ số
thuế theo thông báo vào kho bạc nhà nước.
Theo cơ chế này, tất cả các ĐTNT đều được cơ quan thuế kiểm tra, tính thuế do đó
đảm bảo được việc tính toán chính xác số thuế phải nộp trên tờ khai của các đối tượng, phù
hợp với một nền kinh tế trong đó ý thức và trình độ hiểu biết về luật pháp nói chung và
luật thuế của đối tượng nộp thuế chưa cao. Tuy nhiên, khối lượng công việc mà cơ quan
thuế đảm nhận sẽ rất nhiều, đặc biệt khi số lượng ĐTNT tăng lên nhanh chóng sẽ gây áp
lực lên cơ quan quản lý thuế, đồng thời trong một số trường hợp, cách quản lý này gây
lãng phí nguồn nhân lực; hơn nữa cơ chế này không tạo kiện và khuyến khích các đối
tượng nộp thuế tuân thủ tốt nghĩa vụ thuế (vì 100% đối tượng nộp thuế đều được kiểm soát
như nhau)
Trên thế giới, hầu hết các nước phát triển đã trải qua cơ chế quản lý này. Tuy nhiên,
đến nay các nước phát triển đã chuyển sang cơ chế đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự tính,
tự nộp thuế (sẽ được giới thiệu dưới đây).
* Cơ chế đối tượng nộp thuế tự kê khai - tự nộp thuế
Cơ chế ĐTNT tự kê khai - tự nộp thuế hay còn gọi là tự khai- tự nộp (TK-TN) là cơ
chế quản lý thuế trong đó các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh căn cứ nghĩa vụ thuế
được qui định tại luật thuế, tự kê khai thuế và tự nộp thuế đầy đủ, đúng hạn vào ngân sách
nhà nước. Cơ quan thuế tăng cường tuyên truyền và cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho ĐTNT,
đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trên cơ sở kỹ thuật thanh tra, kiểm tra
theo rủi ro (tức là thanh tra, kiểm tra các đối tượng có nguy cơ trốn lậu thuế thông qua việc
phân tích các thông tin).
Trong cơ chế TK-TN, cơ quan thuế chủ yếu tập trung vào công tác tuyên truyền
phục vụ, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh nhằm tạo điều kiện cho đối tượng
nộp thuế hiểu và thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình, đồng thời tiến hành công tác
thanh tra, kiểm tra và cưỡng chế thuế có hiệu quả hơn đối với các đối tượng nộp thuế có
khả năng rủi ro cao (khả năng trốn lậu thuế lớn).
Cơ chế TK-TN thường gắn với mô hình tổ chức theo chức năng.
Ưu điểm của cơ chế tự khai - tự nộp:
+ Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế: mục đích của cơ chế này là nhằm nâng
cao tính tuân thủ tự nguyện của đối tượng nộp thuế trên cơ sở tăng cường tuyên truyền hỗ
trợ đối tượng nộp thuế và đẩy mạnh thanh tra và kiểm tra, do đó tỷ lệ đối tượng nộp thuế
tuân thủ tự nguyện luật thuế ngày càng cao, có nghĩa là số thu ngày càng lớn, thất thu ngày
càng giảm. Hiệu quả quản lý còn được thể hiện ở chỗ: khi đối tượng nộp thuế tăng lên
nhanh chóng, sẽ không gây áp lực cho cơ quan quản lý thuế do cơ quan thuế không phải
kiểm tra và tính thuế đối với tất cả các tờ khai như cơ chế cơ quan thuế tính thuế mà trách
nhiệm kê khai và tính thuế là của ĐTNT, cơ quan thuế chỉ tập trung tăng cường công tác
tuyên truyền hỗ trợ ĐTNT và kiểm tra thanh tra các đối tượng nộp thuế có dấu hiệu nghi
ngờ gian lận thuế, vì vậy có điều kiện phân bổ nguồn lực có hiệu quả hơn, do đó tiết kiệm
được chi phí quản lý. Trường hợp ĐTNT đã thực hiện nghiêm túc luật thuế, kê khai và tính
toán chính xác số thuế phải nộp thì rõ ràng việc phải tính toán kiểm tra lại của cơ quan
thuế (theo cơ chế cơ quan thuế tính thuế) là thừa và lãng phí thời gian, công sức. Với số
lượng các ĐTNT hiện lên đến gần 140.000 doanh nghiệp, sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời
gian và công sức cho cán bộ quản lý thu thuế, tiết kiệm được nhân lực quản lý để tăng
cường cho các khâu trọng yếu trong quản lý thu đối với DN: thanh tra, kiểm tra và xử lý
các đối tượng vi phạm luật thuế. Ngoài ra, nhờ việc hàng tháng không phải gửi thông báo
mà ngành thuế tiết kiệm được chi phí giấy, mực, in ấn, cước phí bưu điện...đem lại một
hiệu quả kinh tế không nhỏ, giảm chi phí quản lý thu.
+ Thực hiện cơ chế TK-TN, các ĐTNT không phải đợi nhận được thông báo của cơ
quan thuế để làm cơ sở cho việc nộp thuế. Đối tượng nộp thuế được giảm bớt các thủ tục
hành chính thuế, được chủ động và tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện nghĩa vụ
thuế, được cung cấp các dịch vụ hỗ trợ một cách đầy đủ nhất, tốt nhất, giúp họ hiểu và tự
kê khai nghĩa vụ thuế; Theo cơ chế này, ĐTNT phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính
trung thực của số liệu kê khai và cả tính chính xác của việc tính toán số thuế phải nộp. Nói
cách khác, ĐTNT được nâng cao trách nhiệm pháp lý trong việc kê khai thuế với Nhà
nước.
Một số hạn chế
+ Nguy cơ trốn lậu, thất thoát thuế lớn nếu trình độ dân trí thấp và không có biện
pháp quản lý phù hợp
Nếu không có biện pháp quản lý thuế phù hợp, chẳng hạn công tác thanh tra, kiểm
tra không kịp thời, việc phổ biến pháp luật kém hiệu quả..., có thể dẫn đến tình trạng lợi
dụng việc không kiểm tra, tính toán lại thường kỳ của cơ quan thuế để cố tình kê khai sai
nhằm trốn lậu thuế. Trong trường hợp do hiểu biết pháp luật của đối tượng nộp thuế kém
thì có thể có tình trạng kê khai sai số thuế phải nộp một cách vô ý.
+ Đòi hỏi cao về cơ sở vật chất và trình độ quản lý của các cơ quan nhà nước
Để áp dụng cơ chế mới một cách hiệu quả, đòi hỏi cơ sở vật chất của ngành Thuế
phải được hiện đại hóa, đặc biệt là hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thông tin,
hỗ trợ cho việc kiểm tra, đối chiếu số liệu có thể được thực hiện nhanh chóng và chính xác.
Nghĩa là, cần có sự đầu tư ban đầu rất lớn, trong khi ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Mặt
khác, trình độ quản lý của các cơ quan hành pháp hiện nay còn thấp, nếu không có sự
chuẩn bị kỹ càng có thể xẩy ra tình trạng thả nổi, buông lỏng công tác quản lý thuế [10].
- Những điều kiện tiên quyết để thực hiện cơ chế tự khai - tự nộp thành công
+ Xây dựng hệ thống chính sách thuế và qui trình, thủ tục đơn giản, rõ ràng để các
ĐTNT dễ dàng hiểu và thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, có thể tự mình điền vào các mẫu tờ
khai và hoàn thành các thủ tục qui định.
+ Cơ quan thuế cần tập trung vào việc phục vụ, hỗ trợ ĐTNT để đối tượng nộp thuế
hiểu và thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình: ĐTNT phải nhận được các thông tin rõ
ràng, chính xác về nghĩa vụ thuế, bao gồm căn cứ tính thuế, thuế suất, thời hạn kê khai nộp
thuế, các yêu cầu về chứng từ nộp kèm theo tờ khai... Các mẫu tờ khai cùng với các hướng
dẫn rõ ràng cách điền vào tờ khai cần được cung cấp miễn phí và sẵn có ở các địa điểm
thuận tiện. Các ĐTNT phải luôn được thông báo và cập nhật những thay đổi trong chính
sách thuế và cần được tạo điều kiện dễ dàng tiếp cận với các cán bộ thuế để được hỗ trợ và
giải đáp thắc mắc. Hơn nữa, cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho ĐTNT nộp tờ khai thuế
và nộp thuế dễ dàng (ví dụ: đồng thời nộp tờ khai và nộp thuế tại ngân hàng hay kho bạc).
+ Tăng cường được công tác thanh tra, kiểm tra ĐTNT cả về số lượng và chất
lượng để ngăn ngừa và phát hiện kịp thời những trường hợp không chấp hành nghĩa vụ kê
khai, nộp thuế; áp dụng các hình thức xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp vi
phạm về thuế; làm cho ĐTNT tin tưởng rằng các chương trình thanh tra thuế hiệu quả
đang tồn tại. ĐTNT phải nhận thức được rằng các trường hợp không tuân thủ và gian lận
về thuế sẽ bị phát hiện và khi đó họ sẽ phải chịu các hình thức xử phạt. Đồng thời phải làm
cho ĐTNT nhận thức được hệ thống xử phạt nghiêm khắc nhưng công bằng đang được áp
dụng. Cùng với hệ thống xử phạt nghiêm khắc là việc xây dựng một quy trình khiếu nại
nhằm bảo vệ quyền của ĐTNT và họ phải hiểu về quyền khiếu nại của mình.
+ Cơ quan thuế cần đẩy mạnh việc hiện đại hóa công tác quản lý thu thuế. Việc áp
dụng một hệ thống quản lý thuế được tin học hóa sẽ giúp ngành thuế giảm bớt gánh nặng
công việc, hợp lý hóa các quy trình thủ tục đồng thời giúp cơ quan thuế tập trung nguồn
lực vào các lĩnh vực quan trọng góp phần làm tăng tính hiệu quả của quản lý thuế.
+ Sắp xếp lại bộ máy tổ chức quản lý thuế chuyên sâu theo các chức năng; phân bổ
nguồn lực phù hợp và đào tạo nâng cao năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ thuế.
Trên thế giới, cơ chế này không chỉ được áp dụng đối với quản lý doanh nghiệp mà
còn được áp dụng phổ biến đối với quản lý thuế thu nhập cá nhân và một số đối tượng
khác.
1.2.3. Các phương thức kê khai thuế
Các phương thức kê khai thuế nói chung và kê khai thuế dối với DN hiện nay gồm
có: kê khai thuế trên giấy và kê khai thuế thông qua các phương tiện điện tử, chủ yếu là
qua mạng Internet sau đây gọi là kê khai thuế qua mạng.
* Kê khai trên giấy là phương thức kê khai trong đó đối tượng nộp thuế kê khai
thuế vào các mẫu tờ khai bằng giấy (viết tay hoặc đánh trên máy tính và in lên giấy) và gửi
đến cơ quan thuế trực tiếp hoặc qua đường bưu điện. (Mỗi khi có sai sót cần điều chỉnh
cũng đều phải thực hiện từng bước thủ tục văn bản và thời gian như gửi lần đầu).
Với phương thức kê khai này cơ quan thuế phải nhập toàn bộ dữ liệu trên tờ khai
vào máy tính để lập sổ thuế và theo dõi thu nộp. Do đó, vào kỳ kê khai thuế, lượng tờ khai
phải nhập rất lớn đòi hỏi cơ quan thuế phải làm thêm giờ, tăng nhân lực và dễ có sai sót.
Đây là phương thức truyền thống mà nhiều nước đã và đang áp dụng.
* Kê khai thuế qua mạng Internet
Kê khai điện tử là quá trình truyền các dữ liệu kê khai thông qua các phương tiện
điện tử, chủ yếu là qua mạng Internet.
Kê khai thuế qua mạng Internet là quá trình truyền tờ khai thuế hoặc thông tin liên
quan tới cơ quan quản lý thuế thông qua mạng Internet.
Việc kê khai điện tử đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và trong nhiều lĩnh
vực khác nhau như: kê khai thuế, kê khai hải quan, kê khai xuất nhập cảnh, đăng ký kinh
doanh, gửi đơn khiếu tố - khiếu nại tới tòa án vv…
Ở Việt Nam kê khai qua mạng được áp dụng thí điểm trên một số lĩnh vực và địa
phương như: bắt đầu thí điểm đăng ký kinh doanh tại thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM)
từ ngày 22/12/2000 đối với các DN tư nhân sau đó mở rộng dần với các loại hình DN
khác. Đến cuối năm 2003 đã có trên 6000 DN ở TP.HCM được cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh qua mạng. Nhờ đó người dân có thể đăng ký kinh doanh mọi lúc mọi nơi,
và thời gian đăng ký kinh doanh được rút ngắn. Qua khảo sát cho thấy, thời gian rút ngắn
giữa đăng ký kinh doanh qua mạng so với đăng ký trực tiếp đối với DN tư nhân là 6 ngày
(chỉ mất có 4 ngày so với 10 ngày nếu đăng ký trực tiếp), đăng ký hoạt động chi nhánh và
văn phòng đại diện nhanh hơn 3 ngày; công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần chỉ
còn có 7 ngày (so với 15 ngày nếu đăng ký trực tiếp); thực hiện đăng ký thay đổi nội dung
kinh doanh chỉ có 4 ngày (so với 7 ngày).
Thí điểm kê khai hải quan ở một số Cục Hải quan từ tháng 9 năm 2004: được học
tập theo mô hình của Trung Quốc: thay việc mang hồ sơ đến khai báo tại cơ quan Hải
quan, doanh nghiệp chỉ cần khai báo các số liệu của tờ khai theo mẫu, rồi truyền dữ liệu
qua mạng đến cơ quan Hải quan. Tiếp theo, doanh nghiệp phải trình bộ tờ khai bằng giấy
tại cơ quan Hải quan để đối chiếu và tiếp nhận làm thủ tục. Quy trình khai báo hải quan
điện tử có khả năng rút ngắn thời gian làm thủ tục Hải quan còn 15 phút so với thời gian từ
3 đến 4 ngày như trước đây.
- Những ưu điểm của kê khai thuế qua mạng Internet
Đối với cơ quan thuế: thực hiện kê khai thuế qua mạng Internet, cơ quan thuế
không còn phải nhập dữ liệu bằng tay, khắc phục được sự nhầm lẫn, sai sót; thông tin nhận
được nhanh hơn, đáp ứng tốt hơn cho công tác quản lý; tiết kiệm được thời gian và nhân
lực của khâu nhập dữ liệu để tăng cường bố trí cho các khâu quản lý trọng yếu khác hoặc
giảm biên chế cơ quan thuế.
Đối với ĐTNT: thực hiện kê khai thuế qua mạng Internet, ĐTNT chỉ cần từ văn
phòng truyền dữ liệu lên mạng Internet gửi tới cơ quan thuế. Cơ quan thuế cũng thông qua
mạng Internet để tiếp nhận và thông báo cho ĐTNT biết rất nhanh chóng và thuận tiện. Do
đó ĐTNT cũng tiết kiệm được cả thời gian và vật chất.
- Điều kiện để thực hiện kê khai thuế qua mạng Internet: trước hết phải có qui định
hợp pháp hoá các giao dịch điện tử dưới hình thức văn bản qui phạm pháp luật, có hệ
thống công nghệ thông tin tương đối phát triển, trong đó cơ sở vất chất và hệ thống tin học
của cơ quan thuế cũng như của DN đạt đến một trình độ nhất định.
Vì vậy, hiện nay, chỉ có các nước phát triển và một số nước đang phát triển có nền
công nghệ thông tin ở mức tương đối cao đã áp dụng phương thức kê khai thuế qua mạng
Internet. Đặc biệt phương thức này mới phát triển mạnh trong những năm gần đây và trở
thành xu hướng tất yếu của kê khai thuế trong quản lý thuế hiện đại.
1.3. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ THU THUẾ DOANH NGHIỆP CỦA MỘT SỐ
NƯỚC VÀ BÀI HỌC THAM KHẢO ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1.3.1 Khảo sát kinh nghiệm của một số nước
Khảo sát kinh nghiệm một số nước phát triển như Australia, nước có điều kiện gần
tương đồng với Việt Nam như Indonesia và nước có nền kinh tế chuyển đổi như Hungari
với mục đích tìm hiểu những cải cách và hướng hoàn thiện quản lý thu thuế nói chung và
quản lý thuế đối với DN nói riêng trên những nội dung chủ yếu sau:
* Đăng ký thuế:
Ở bất kỳ một quốc gia nào, DN tiến hành kinh doanh đều phải đăng ký thuế. Đây là
bước đầu tiên để cơ quan thuế quản lý được ĐTNT. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều
đưa hệ thống mã số ĐTNT áp dụng trong việc đăng ký thuế.
Đối với Indonesia, trong phạm vi 1 tháng kể từ khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh, các doanh nghiệp đều phải đăng ký thuế tại cơ quan thuế cấp quận, huyện để được
cấp mã số thuế. Tổng số đối tượng nộp thuế GTGT, TNDN là 2,8 triệu trong đó có
812.782 doanh nghiệp. Việc đăng ký và cấp mã số thuế vẫn thực hiện theo phương pháp
truyền thống (bằng giấy).
Đối với Hungari, năm 1996, thực hiện cấp mã số cho tất cả ĐTNT. Ngoài ra, cơ quan thuế
phải phối hợp với các cơ quan khác để lấy các thông tin liên quan đến việc quản lý thu
thuế như đăng ký về dân số, đăng ký về tổ chức có tư cách pháp nhân và không có tư cách
pháp nhân, đăng ký về đất đai tài sản khác...
Đặc biệt đối với Australia, với phương châm coi đối tượng nộp thuế là khách hàng, cơ
quan thuế đã đưa nhiều hình thức để giúp khách hàng của mình dễ dàng đăng ký thuế, như:
việc đăng ký thuế của đối tượng nộp thuế thông qua Internet chiếm gần 25%, thông qua hệ
thống điện tử tại các đại lý thuế là 38%, thông qua giấy tờ là 38%.
Cả nước có 3,7 triệu DN, trong đó có 2,2 triệu DN đăng ký nộp thuế hàng hoá và
dịch vụ (tương tự thuế giá trị gia tăng-các doanh nghiệp có doanh thu từ 50.000$/năm trở
lên thì phải đăng ký nộp thuế hàng hoá và dịch vụ, những đối tượng có doanh thu dưới
50.000$/năm thì không thuộc đối tượng nộp thuế hàng hoá và dịch vụ mà chỉ nộp thuế thu
nhập). Đối tượng này sau khi đăng ký được cấp mã số DN.
* Dịch vụ cho đối tượng nộp thuế
Ở các quốc gia bộ phận dịch vụ hỗ trợ ĐTNT được thành lập ở tất cả các cơ quan
thuế để tăng cường trợ giúp cho đối tượng nộp thuế dưới nhiều hình thức khác nhau, nhằm
cung cấp các sản phẩm dịch vụ chất lượng cao và kịp thời cho ĐTNT, giúp DN thực hiện
tốt nghĩa vụ thuế.
Đối với Indonesia, Tổng cục Thuế cam kết cung cấp các dịch vụ tuyệt hảo cho đối
tượng nộp thuế để giúp họ hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình. Tổng cục Thuế đã xây dựng
trang thông tin điện tử nhằm cung cấp thông tin nhanh cho đối tượng nộp thuế và công
chúng, đồng thời có một bộ phận tư vấn điện tử đặt tại Jakata phục vụ trong phạm vi cả
nước. Các hình thức dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế hết sức phong phú như: hỗ trợ trực
tiếp, trả lời bàng công văn, hướng dẫn hoặc toạ đàm trên đài tiếng nói hoặc truyền hình,
phát hành các ấn phẩm, tờ rơi. Đặc biệt có chế độ tờ khai thuế xanh (áp dụng cho ĐTNT
chấp hành tốt nghĩa vụ thuế). Đối với những DN này sẽ được ưu đãi hoàn thuế nhanh trong
vòng 1 tuần đối với thuế GTGT. Đồng thời, có điều lệ qui định rõ trách nhiệm của cán bộ
thuế và ĐTNT trong trường hợp cán bộ thuế hướng dẫn hoặc tư vấn cho ĐTNT sai chính
sách.
Đối với Hungari,các hình thức dịch vụ hỗ trợ ĐTNT gồm: dịch vụ trả lời qua điện
thoại không mất tiền, Internet, phần mềm kiểm tra việc tính thuế trên Internet và bằng đĩa
CD, giảng bài và tư vấn trực tiếp, sổ tay về thuế, phát hành tạp chí...
Đối với Australia, dịch vụ hỗ trợ ĐTNT rất phong phú và hiện đại: Ngoài những nội
dung và hình thức nêu trên với chất lượng cao hơn, nội dung phong phú hơn, cơ quan thuế
còn cung cấp hướng dẫn trọn gói cho ĐTNT cùng với tờ khai thuế. Các ĐTNT được phân
loại theo mức độ tuân thủ để từ đó có biện pháp đối xử và hình thức cung cấp dịch vụ phù
hợp với từng loại ĐTNT:
Nhóm 1- đối tượng phản ứng hoặc trốn thuế
Nhóm 2- đối tượng chỉ nộp thuế khi cơ quan thuế ép buộc
Nhóm 3- đối tượng không muốn nộp thuế nhưng vẫn nộp đúng
Nhóm 4- đối tượng luôn mong muốn làm đúng
Theo sự phân loại nói trên, chiến lược cung cấp dịch vụ cho các đối tượng nộp thuế
cũng rất khác nhau:
Nhóm 1: Không tuân thủ - "Gặp mặt một đối một bắt buộc tại các quầy dịch vụ".
Nhóm 2: Không muốn tuân thủ nhưng miễn cưỡng thực hiện - "Gặp mặt một đối
một có hẹn ước".
Nhóm 3: Tuân thủ nhưng chưa hiểu rõ về pháp luật thuế - Chương trình giáo dục và
thông tin "một với nhiều người".
Nhóm 4: Hoàn toàn tuân thủ: đối tượng nộp thuế tự phục vụ thông qua các dịch vụ
thông tin được cơ quan thuế cung cấp dưới nhiều hình thức.
Hiện có 20 trung tâm cung cấp dịch vụ thông tin của cơ quan thuế đặt tại các thành
phố lớn, nơi tập trung phần lớn đối tượng nộp thuế.
Trong năm 1999-2000 đã có khoảng 500.000 đối tượng nộp thuế đã tới trung tâm
để được cung cấp dịch vụ; 529.678 cuộc gặp trực tiếp của cán bộ thuế với đối tượng nộp
thuế trong đó có 93% được trả lời trong 15 phút; 10.000 thư điện tử; 2,4 triệu người sử
dụng quyển hướng dẫn trọn gói cùng tờ khai; 1 triệu các ấn phẩm tham khảo; 600 cán bộ
thuế được huy động vào thời kỳ cao điểm và 400 cán bộ thuế phục vụ đối tượng nộp thuế
vào các thời gian còn lại trong năm.
* Thanh tra, kiểm tra:
Thanh tra, kiểm tra là chức năng cơ bản của cơ quan thuế và có vị trí quan trọng để
đảm bảo thành công trong việc thực hiện quản lý thuế theo cơ chế TK-TN. Việc thực hiện
thanh tra chủ yếu dựa trên kỹ thuật phân tích rủi ro.
Tại Indonesia, thanh tra được phân ra nhiều loại: thanh tra tại cơ quan thuế, thanh
tra tại cơ sở. Theo thứ tự ưu tiên, thanh tra được sắp xếp theo thứ tự như sau: Thanh tra
thường xuyên, thanh tra chứng cứ ban đầu (được thực hiện để thu thập chứng cứ ban đầu
chứng tỏ doanh nghiệp vi phạm luật hình sự), thanh tra tại cơ sở của doanh nghiệp, thanh
tra đặc biệt (được thực hiện khi doanh nghiệp có sự bất thường).
Hệ thống tiêu chí để lựa chọn thanh tra trên cơ sở dữ liệu từ tờ khai thuế, báo cáo tài
chính DN và các thông tin khác, sau đó được chấm điểm để lựa chọn. Việc thanh tra cũng
có thể được mở rộng phạm vi và thời gian, đảm bảo nguyên tắc doanh nghiệp đã được
thanh tra thuế sẽ không bao giờ bị thanh tra lại trong phạm vi một năm (trừ những trường
hợp rất đặc biệt).
Từ năm 2002, thanh tra thuế được ưu tiên tập trung vào DN qui mô vừa trở lên.
Việc thanh tra các DN lớn phải được chấp thuận của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế.
Đối với Hungari, cơ quan thuế chia đối tượng nộp thuế thành 5 nhóm để có chiến
lược và kế hoạch thanh tra, kiểm tra: đối với đối tượng nộp thuế lớn (doanh nghiệp lớn),
việc kiểm tra được thực hiện một năm một lần. Việc thanh tra thuế được thực hiện 5
năm/lần. Cơ quan thuế có quyền thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ thuế của đối
tượng nộp thuế từ 5 năm trở về trước., kể cả kiểm tra bên thứ ba có liên quan.
Đối với Australia, dựa vào cách phân loại ĐTNT thành bốn nhóm như phần dịch vụ
hỗ trợ ĐTNT đã nêu trên, cơ quan thuế đưa ra các biện pháp quản lý phù hợp với từng loại
đối tượng. Nhóm 1 và 2 là nhóm đối tượng cần tập trung kiểm tra nhiều nhất của cơ quan
thuế. Đối với nhóm 1 cơ quan thuế tiến hành kiểm tra tất cả các thông tin đã kê khai. Đây
là nhóm đối tượng cần chú ý nhất vì các trường hợp trốn thuế đều thuộc nhóm đối tượng
này. Nội dung thanh, kiểm tra được gắn vào các Cục, Vụ và các Phòng, không tổ chức Cục
thanh tra thuế ở Trung ương hay phòng thanh tra, kiểm tra tại các Chi nhánh một cách
riêng biệt.
Ngoài ra trên thế giới hiện nay, có hơn 1/3 số quốc gia trong đó có Indonesia thực
hiện giao quyền điều tra, khởi tố các vụ vi phạm pháp luật thuế cho cơ quan thuế. Đối với
Inddonesia, việc điều tra các hành vi vi phạm luật thuế để khởi tố hình sự chỉ được thực
hiện bởi các điều tra viên thuế. Điều tra viên thuế là những cán bộ thanh tra thuế giỏi được
lựa chọn để đào tạo nghiệp vụ điều tra và được Bộ Tư pháp cấp giấy phép hoạt động điều
tra viên. Điều tra thuế nhằm ngăn chặn tội phạm bỏ trốn ra nước ngoài, đưa ra toà xét xử
các vụ án trốn thuế, tìm kiếm tịch thu các tài sản phạm tội, công bố rộng rãi trước công
chúng về các thông tin liên quan đến việc phạm tội. Điều tra viên có quyền triệu tập các
nghi can, người làm chứng và các chuyên gia, soạn thảo báo cáo điều tra, thực hiện các
hoạt động khác được pháp luật cho phép. Hầu hết các vụ điều tra về thuế do cơ quan thuế
đưa ra đều được xử lý.
Hệ thống chính sách phạt cũng như việc thực hiện phạt đối với đối tượng vi phạm
được thực hiện nghiêm minh nhằm mục đích răn đe có hiệu quả. Đối tượng bị phạt không
chỉ là các đối tượng nộp thuế vi phạm mà cả cán bộ thuế và bên thứ 3 vi phạm như cố tình
không cung cấp thông tin cho cơ quan thuế, thậm chí bị tù kể cả trường hợp tiết lộ bí mất
của đối tượng nộp thuế.
* Cơ chế tự khai-tự nộp thuế
Đối với Indonesia và Hunggari đều đã thực hiện cơ chế TK-TN đối với quản lý thu
thuế doanh nghiệp (với các sắc thuế giá trị gia tăng, thu nhập doanh nghiệp...) và cả các
đối tượng khác như đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân. Bên cạnh cơ chế TK-TN, cơ chế
cơ quan thuế tính thuế và ra thông báo thuế vẫn được áp dụng đối với các khoản phí, lệ phí
và một số khoản thu khác.
Đối với Australia, năm1986, trước sức ép của Nghị viện yêu cầu cơ quan thuế Liên
bang phải nâng cao hiệu quả của bộ máy, giảm chi phí quản lý, Tổng cục trưởng Tổng cục
thuế đã quyết định thực hiện cơ chế TK-TN cùng với việc đưa công nghệ thông tin vào trợ
giúp quản lý thuế với mục tiêu nhằm tăng thu, tăng sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế,
giảm trường hợp khiếu nại về thuế, đảm bảo sử dụng tốt hơn nguồn lực của cơ quan thuế
Liên bang. Quy trình này đầu tiên thực hiện đối với đối tượng nộp thuế lớn, như các doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sau đó mở rộng dần phạm vi đối
với các đối tượng nộp thuế là cá nhân. Cùng với việc áp dụng cơ chế này, việc chuyển đổi
cán bộ cũng được thực hiện (1.745 cán bộ thuế đã phải chuyển đổi, sắp xếp lại). Hầu hết số
cán bộ đó được chuyển đổi sang làm thanh tra hoặc dịch vụ cho đối tượng nộp thuế. Việc
thực hiện cơ chế TK-TN đã đạt được các mục tiêu đề ra.
* Kê khai thuế qua mạng Internet
Tại Indonesia, tháng 7/2002, Tổng cục Thuế bắt đầu áp dụng kê khai thuế qua
mạng. Điều này được xem như một bước cải thiện dịch vụ hỗ trợ cho đối tượng nộp thuế.
Việc kê khai thuế qua mạng được áp dụng trước hết đối với tờ khai thuế GTGT của các
DN trong tháng có từ 500 hoá đơn trở lên. Những DN trong tháng có dưới 500 hoá đơn
vẫn áp dụng kê khai thuế theo phương pháp truyền thống (bằng giấy). Việc kê khai thuế
qua mạng đã đem lại nhiều lợi ích cho cơ quan thuế và ĐTNT. Dịch vụ này đang được
nghiên cứu hoàn thiện cơ chế chính sách về mặt pháp lý, cơ sở vật chất kỹ thuật để mở
rộng về đối tượng và sắc thuế.
Tại Hunggari, các ĐTNT có thể "tải" mẫu tờ khai thuế trên mạng và thực hiện kê
khai thuế. Chương trình sẽ tự động kiểm tra lỗi tờ khai và tự động báo lỗi để DN sửa lỗi,
hoàn chỉnh tờ khai trước khi gửi cơ quan thuế. Hiện tại,có 3000 DN lớn thực hiện kê khai
thuế qua mạng. Mọi dữ liệu trên tờ khai được tự động nhập vào cơ sở dữ liệu của cơ quan
thuế. Hiện tại việc áp dụng chữ ký điện tử chưa được phổ biến tại Hungary, trừ các tổ chức
ngân hàng. Do vậy chưa có cơ quan riêng thực hiện việc giám định chữ ký điện tử. Để áp
dụng kê khai thuế qua mạng, cơ quan thuế phải thực hiện cả chức năng đăng ký và giám
định chữ ký điện tử.
Từ 1/1/2005, mọi đối tượng là DN có thể đăng ký thực hiện kê thuế qua mạng. Mọi
giao dịch giữa cơ quan thuế và các doanh nghiệp lớn đều được thực hiện bằng các phương
tiện điện tử.
Tại Australia, dịch vụ kê khai thuế qua mạng được giới thiệu từ năm 1990 và trước
hết được áp dụng cho các đại lý thuế, cho đến nay đã phát triển ở trình độ cao và phạm vi
rộng. Đây là một chương trình được ưu tiên hàng đầu của cơ quan thuế Australia, và được
mở rộng liên tục mỗi năm. Cho đến nay chương trình này đã cung cấp hơn 100 loại mẫu
khác nhau như tờ khai hàng năm đối với DN, cá nhân, các quĩ lương hưu, đăng ký kinh
doanh, báo cáo hoạt động...vv. Phần mềm trọn gói được "tải" miễn phí từ trang thông tin
điện tử của cơ quan thuế. Việc sử dụng chương trình này đã mang lại nhiều lợi ích cho cả
cơ quan thuế và người nộp thuế. Đối với cơ quan thuế: giảm được khối lượng lớn về giấy
tờ và công việc nhập dữ liệu, tiết kiệm được nhân lực để bố trí cho các khâu quản lý khác,
hơn nữa số liệu chính xác, kịp thời đáp ứng tốt hơn yêu cầu quản lý. ĐTNT được phục vụ
một cách thuận lợi hơn và tiết kiệm được thời gian, chi phí.
* Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế
Các nước nói trên đều ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế từ khâu
đăng ký thuế (cấp mã số ĐTNT), xử lý tờ khai thuế, theo dõi thu nộp, xác định các tiêu chí
đánh giá rủi ro, giúp cơ quan thuế lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra, đối chiếu thuế
đầu vào, thuế đầu ra trong thanh tra, kiểm tra thuế giá trị gia tăng, dịch vụ điện tử cho các
doanh nghiệp, lập báo cáo và cung cấp thông tin, trao đổi thông tin với các cơ quan có liên
quan và phục vụ cho quản lý nội bộ ngành. Đặc biệt, đối với Australia, hệ thống công nghệ
thông tin trong quản lý thuế rất hiện đại: hệ thống quản lý được nối mạng toàn quốc và có
sự đối chiếu thông tin một cách tự động. Nếu là các công ty đa quốc gia thì phải có sự trao
đổi thông tin với các nước có công ty mẹ hoặc công ty con ở nước đó. Các dữ liệu trên tờ
khai thuế được nhập vào máy tính, đối chiếu thông tin sau đó được xử lý tự động hoàn
toàn trên 4 dây chuyền. Có 77% tờ khai cập nhật và được xử lý tự động, còn 23% tờ khai
phải bổ sung hoặc làm rõ một số thông tin. Máy tính có thể xử lý nhiều nội dung khác
nhau, kể cả việc điều chỉnh các tờ khai của các đối tượng nộp thuế có hình thức kế toán
khác nhau.
1.3.2 Một số nhận xét và bài học tham khảo có thể vận dụng ở Việt Nam
Thứ nhất là hầu hết các nước đã chuyển từ cơ chế cơ quan thuế tính thuế sang cơ
chế TK-TN. Có thể nói cơ chế TK-TN là cơ chế quản lý thu thuế đối với DN phổ biến hiện
nay trên thế giới.
Để tăng cường việc tuân thủ các luật thuế và tăng thu NSNN, trước sự phát triển
nhanh chóng của ĐTNT cả về số lượng và sự phức tạp của các loại hình kinh doanh do tác
động của toàn cầu hoá và những thành tựu của công nghệ thông tin, các nước trên thế giới
đều hướng tới việc áp dụng cơ chế quản lý thuế hiện đại và có hiệu quả. Một hệ thống
quản lý thuế hiện đại phải đảm bảo được nguyên tắc quản lý thuế cơ bản, đồng thời cũng là
mục tiêu cao nhất của bất kỳ ngành thuế nào - đó là khuyến khích sự tuân thủ tự giác của
ĐTNT. Tuân thủ tự giác đi liền với quản lý theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế.
Việc áp dụng cơ chế TK-TN là vấn đề nổi bật trong quản lý thuế vào những năm
đầu thập kỷ 90, khi hầu hết các nước quyết định việc ban hành thuế GTGT phải đi liền với
cơ chế quản lý TK-TN. Trong số 120 nước trên thế giới hiện nay đang áp dụng thuế
GTGT, chỉ có 16 nước còn quản lý loại thuế này không theo cơ chế TK-TN (chủ yếu là
các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập (khối Liên Xô cũ), Trung Quốc và Việt
Nam).
Tại một số nước tiên tiến như Nhật Bản, Đan Mạch, Thuỵ Điển, cơ chế TK-TN đã
được áp dụng từ nhiều thập kỷ trước trên cơ sở ý thức tuân thủ tự giác của người dân cao.
Tại các nước có nền kinh tế mới nổi và đặc biệt các nước ASEAN (Philipin,
Inđônêxia, Thái Lan), cơ chế TK-TN được áp dụng như một trọng tâm của quá trình cải
cách quản lý thuế cùng với các dự án tin học hoá quản lý thuế và thành lập các bộ phận
quản lý ĐTNT lớn (DN lớn).
Tóm lại, cơ chế TK-TN là một cơ chế quản lý thuế hiện đại đang được áp dụng khá
phổ biến tại các nước trên thế giới. Việc áp dụng cơ chế quản lý này sẽ giúp ngành thuế
giảm bớt chi phí quản lý, nâng cao tính hiệu quả của công tác quản lý thu thuế, là cơ sở để
thúc đẩy cải cách hành chính thuế và hiện đại hoá vì nó đòi hỏi các qui trình quản lý hiện
đại với sự ứng dụng rộng rãi các thành tựu của công nghệ thông tin.
Thứ hai là xu hướng cải cách quản lý thuế nói chung và quản lý thuế đối với DN
nói riêng, đó là nâng cao tính tự giác tuân thủ của ĐTNT bằng các biện pháp tăng cường
dịch vụ hỗ trợ ĐTNT, tạo thuận lợi và giảm chi phí thực hiện nghĩa vụ thuế cho ĐTNT;
Công tác này được quan tâm và trở thành một ưu tiên của cơ quan thuế, được thực hiện
dưới nhiều hình thức; cùng với nó các biện pháp thanh tra và chế tài xử lý được tăng
cường để bảo đảm rằng các đối tượng không tuân thủ sẽ bị phát hiện và xử lý nghiêm theo
qui định của pháp luật.
Thứ ba là song song với việc áp dung cơ chế TK-TN nhằm tăng cường tính tuân
thủ tự nguyện của ĐTNT, cơ quan thuế các nước rất chú trọng đến việc quản lý các ĐTNT
lớn (là DN, đặc biệt là các DN lớn). Ở nhiều quốc gia, cơ quan thuế đã thành lập bộ phận
quản lý DN lớn tại Tổng cục Thuế (ở Trung ương) hoặc Cục Thuế vùng nhằm mục đích
kiểm soát chặt chẽ các ĐTNT có số thu chiếm tỷ trọng lớn.
Thứ tư là việc thực hiện các dịch vụ điện tử về thuế nói chung và kê khai thuế qua
mạng Internet được phát triển và ứng dụng mạnh mẽ trong những năm gần đây (đặc biệt từ
những năm đầu của thế kỷ 21).
Thứ năm là các điều kiện cơ bản thực hiện tốt cơ chế TK-TN và kê khai điện tử là:
một hệ thống chính sách rõ ràng, đơn giản, minh bạch, đầy đủ; cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại với việc ứng dụng tin học ở mức độ ngày càng cao trong quản lý thuế; hệ thống thông
tin trở thành công cụ quan trọng trong cơ chế TK-TN; đội ngũ cán bộ thuế phải được đào
tạo để có trình độ năng lực đáp ứng được yêu cầu.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ THU THUẾ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP Ở NƯỚC TA
2.1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP Ở NƯỚC TA TỪ NĂM 1990 ĐẾN 1998
2.1.1.Về tổ chức bộ máy quản lý thuế
Từ năm 1990, cùng với việc hình thành Hệ thống chính sách thuế áp dụng thống
nhất đối với các thành phần kinh tế trong phạm vi cả nước, bộ máy quản lý thuế nội địa
được thành lập theo hệ thống dọc, từ Trung ương đến quận huyện để thống nhất quản lý
các loại thuế, phí và thu khác trên cơ sở sáp nhập 3 tổ chức thu: Cục Thu quốc doanh, Cục
Thuế công thương nghiệp, Vụ Thuế nông nghiệp (trước đây chính sách thu và thuế phân
biệt các thành phần kinh tế, do vậy tổ chức thu cũng có 3 cơ quan riêng biệt theo từng khu
vực). Hệ thống tổ chức như trên đã đảm bảo triển khai và thực thi các luật thuế được thống
nhất giữa các vùng, miền, địa phương trên phạm vi cả nước. Ở Trung ương có Tổng cục
Thuế trực thuộc Bộ Tài chính, tại các tỉnh, thành phố có Cục Thuế trực thuộc Tổng cục
Thuế, tại huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có Chi cục Thuế trực thuộc Cục Thuế.
Tổng cục Thuế thực hiện chức năng xây dựng chính sách, hướng dẫn chỉ đạo và kiểm tra
thực hiện chính sách thuế (không trực tiếp quản lý thu thuế). Cục Thuế và Chi cục Thuế
tương ứng được tổ chức một số phòng và một số tổ, đội trực tiếp quản lý thu thuế các
doanh nghiệp.
Về đội ngũ cán bộ: năm 1990, khi mới thành lập hệ thống thu thuế nhà nước, trình
độ cán bộ ngành Thuế còn rất thấp. Tỷ lệ cán bộ được đào tạo mới chỉ chiếm 36,5%, trong
đó trình độ cán bộ được đào tạo đại học (tất cả các chuyên ngành) là 10,5%, đào tạo trung
học nghiệp vụ là 26%. Do vậy, trong giai đoạn này ngành Thuế đã tập trung nhiều cho
công tác đào tạo nhằm nâng cao trình độ cán bộ. Công tác đào tạo chủ yếu tập trung vào
đào tạo cơ bản trình độ đại học và trung học cho cán bộ và tập huấn nghiệp vụ, đáp ứng
yêu cầu của chiến lược cải cách thuế giai đoạn 1. Đến hết năm 1998, tỷ lệ cán bộ đã và
đang được đào tạo đại học là 27 %, trung cấp là 64%. Tuy nhiên, ngành Thuế đã bố trí, lựa
chọn cán bộ có trình độ đại học để quản lý các doanh nghiệp lớn và vừa, cán bộ có trình độ
Trung cấp quản lý các doanh nghiệp nhỏ.
2.1.2. Về phân cấp quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
Việc quản lý thu thuế đối với DN quốc doanh, DN đầu tư nước ngoài được giao cho
Cục Thuế tỉnh, thành phố. Riêng một số DN quốc doanh nhỏ và DN ngoài quốc doanh có
thể giao cho Chi cục Thuế quản lý tuỳ theo điều kiện của từng địa phương và giao cho Cục
trưởng Cục Thuế quyết định. Tổ chức bộ máy Cục Thuế có các phòng quản lý thu các DN
quốc doanh phân theo ngành kinh tế, chịu trách nhiệm quản lý thu các DN quốc doanh trên
địa bàn tỉnh, thành phố. Một số Cục Thuế có số lượng DN đầu tư nước ngoài lớn được
thành lập phòng Thuế Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để quản lý thu thuế các
doanh nghiệp này như Cục Thuế Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Đồng Nai,
Bình Dương, Hải Phòng; ngoài ra còn có các phòng chức năng thuộc Cục Thuế.
2.1.3.Về quy trình quản lý thu thuế doanh nghiệp và tổ chức thực hiện
Trong giai đoạn này, quản lý thuế được thực hiện theo cơ chế cơ quan thuế tính
thuế.
Trước năm 1993, ngành Thuế vẫn duy trì việc quản lý thu thuế theo chế độ chuyên quản
khép kín và hoàn toàn thực hiện theo phương pháp thủ công, một cán bộ chuyên quản thực
hiện toàn bộ các khâu từ việc quản lý doanh nghiệp, kê khai, kiểm tra tờ khai thuế đến việc
tính thuế, ra thông báo thuế.
Chính từ cơ chế quản lý nói trên đã dẫn đến việc cán bộ chuyên quản tiếp xúc th-
ường xuyên và trực tiếp với doanh nghiệp, tạo điều kiện cho sự thông đồng trốn thuế.
Quyền hạn của cán bộ chuyên quản được thể hiện rõ trong việc xác định số thuế phải nộp
của DN, dẫn đến những tiêu cực trong công tác quản lý thu thuế, thất thu thuế lớn, đồng
thời hạn chế tính tự giác của doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà
nước.
Vì vậy, ngày 10/7/1993, Tổng cục Thuế đã ban hành Quyết định số 291TC/TCT về
quy trình quản lý thu thuế với việc tách 3 bộ phận bao gồm ba quy trình riêng cho ba loại
ĐTNT, trong đó có qui trình quản lý xí nghiệp quốc doanh. Qui trình này được áp dụng
cho các đối tượng là doanh nghiệp (bao gồm cả DN đầu tư nước ngoài và ngoài quốc
doanh, tuy nhiên lúc đó, số lượng các DN này còn rất nhỏ). Qui trình này có đặc điểm là
thực hiện chuyển đổi từ phương pháp quản lý khép kín đối với từng DN sang phương pháp
quản lý thuế chuyên môn hoá theo 3 bộ phận: bộ phận quản lý DN, bộ phận tính thuế và
phát hành thông báo thuế, bộ phận thanh tra thuế. Ba bộ phận này hoạt động độc lập nhau
nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ và kiểm soát lẫn nhau, đảm bảo cho công tác quản
lý thu thuế chính xác, chống thất thu thuế và hạn chế các hiện tượng tiêu cực trong việc
thu, nộp thuế.
Các DN thực hiện kê khai nộp thuế hàng tháng và cán bộ thuế được phân công quản
lý DN đó có trách nhiệm xác nhận vào tờ khai thuế của DN. Quy định này đã làm giảm
trách nhiệm và tính tự giác kê khai thuế của DN, đồng thời cơ quan thuế phải gánh chịu
hành vi vi phạm luật thuế của DN do chưa thể xác định chính xác nghĩa vụ thuế của DN
thông qua tờ khai nhưng đã phải ký xác nhận trên tờ khai.
Cán bộ phòng (đội) quản lý thuế doanh nghiệp thực hiện hướng dẫn kê khai thuế,
kiểm tra tờ khai và kiểm tra đối với DN hàng tháng hoặc định kỳ. Phòng (tổ) thanh tra chủ
yếu mới thực hiện việc thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành và thanh tra, kiểm tra thuế đối với
từng vụ việc. Công tác thông tin tuyên truyền thuế và phục vụ DN: chủ yếu do cán bộ của
bộ phận quản lý DN thực hiện và mới chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn DN kê khai đăng ký
thuế, kê khai tờ khai thuế và hướng dẫn các thủ tục liên quan đến việc thu nộp thuế. Việc
hướng dẫn DN chưa được tiến hành thường xuyên, chất lượng chưa cao. Ngoài ra, ngành
Thuế đã phối hợp với một số phương tiện thông tin như báo, đài nhằm tuyên truyền các
luật thuế, song rất hạn chế. Vì vậy, việc hiểu biết về luật thuế và các thủ tục thu nộp thuế
của DN còn rất thấp, DN chưa nhận thức được về quyền lợi và trách nhiệm nghĩa vụ nộp
thuế đối với Nhà nước.
Quản lý thuế đối với DN giai đoạn này chủ yếu bằng thủ công. Công tác tin học
mới từng bước để làm quen với máy tính và chỉ ứng dụng trong việc xử lý một phần số
liệu kế toán, thống kê thuế, bước đầu xây dựng các hệ thống phần mềm ứng dụng và thiết
lập các hệ cơ sở dữ liệu chuyên ngành... Tổng cục thuế đã trang bị gần 1.800 máy vi tính
cá nhân cho các đơn vị thuế trọng điểm có số thu lớn và phát triển một số ứng dụng đơn
giản chạy trên các máy tính đơn lẻ phục vụ cho việc xử lý số liệu kế toán, thống kê thuế và
một số ứng dụng khác.
Như vậy, cùng với việc sửa đổi, bổ sung chính sách thuế, việc phân cấp quản lý DN, qui
trình quản lý thuế nói chung và qui trình quản lý thuế đối với DN đã cũng được nghiên cứu
xây dựng từng bước phù hợp với những cải cách của chính sách thuế và nâng cao hiệu quả
quản lý, chống thất thu thuế và hạn chế các hiện tượng tiêu cực trong việc thu, nộp thuế.
Tuy nhiên, quản lý thu thuế đối với DN trong giai đoạn này còn những hạn chế, tồn
tại như sau:
- Quy trình quản lý thuế đã được cải tiến với việc tách 3 bộ phận mang tính độc lập
tương đối, nhưng trên thực tế việc thực hiện qui trình này còn rất hạn chế. Quản lý thu thuế
vẫn còn mang tính khép kín. Việc quản lý thu thuế theo đối tượng và chủ yếu vẫn thực
hiện chế độ cán bộ chuyên quản, phương pháp quản lý chủ yếu vẫn mang tính thủ công.
Việc phối hợp, kiểm tra và kiểm soát giữa 3 bộ phận chưa được tiến hành chặt chẽ, chưa
phát huy hết tác dụng tích cực của qui trình mới.
- Công tác thanh tra, kiểm tra thuế chưa được chú trọng đúng mức. Bộ máy thanh
tra chưa đủ mạnh để thực hiện chức năng kiểm tra các DN, phát hiện các trường hợp khai
man, trốn lậu thuế.
- Công tác tuyên truyền, hỗ trợ phục vụ DN chưa được đặt ra như một nhiệm vụ
trọng tâm của ngành Thuế. Vì vậy, sự hiểu biết về luật thuế của DN còn rất thấp. Doanh
nghiệp chưa nhận thức được trách nhiệm và nghĩa vụ nộp thuế của mình.
- Ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý thuế ở mức thấp. Quy trình quản
lý thu thuế chưa mô tả chi tiết hết các nhiệm vụ phải thực hiện trong từng khâu, chưa diễn
tả rõ trình tự diễn ra trong quá trình quản lý thuế và chưa chuẩn hoá các mẫu bảng biểu về
việc xử lý thông tin nên việc thực hiện tin học hoá trong giai đoạn này rất khó khăn và hiệu
quả của việc ứng dụng tin học còn nhiều hạn chế.
Hệ thống chính sách thuế đang trong giai đoạn hình thành, phát triển nên thường
xuyên thay đổi là một trở ngại lớn cho công tác tin học hoá. Hơn nữa, trình độ và kinh
nghiệm về tin học lúc đó của Việt Nam nói chung và ngành Thuế nói riêng còn hạn chế. Vì
vậy, mới chỉ có một số ứng dụng trong công tác kế toán, thông kê thuế, quản lý nội bộ
ngành và tính thuế ngoài quốc doanh, chưa có các chương trình ứng dụng cho quản lý thu
đối với doanh nghiệp. Hơn nữa, kinh phí để trang bị và phát triển ứng dụng công nghệ tin
học phục vụ công tác quản lý thu thuế còn nhiều hạn hẹp.
Tính chất đa dạng, phức tạp của các sắc thuế và phương pháp quản lý từng sắc thuế
cũng khác nhau; số lượng DN ngày càng tăng lên một cách nhanh chóng, nên việc xử lý dữ
liệu của ngành thuế bằng phương pháp thủ công chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế.
- Việc đào tạo nâng cao trình độ mới chỉ dừng ở việc đưa đi đào tạo cơ bản đại học,
trung học ở các trường, chứ chưa chú trọng đến việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ quản
lý thuế.
2.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TỪ NĂM
1999 ĐẾN NAY
2.2.1. Phân cấp quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp
Luật thuế GTGT có hiệu lực từ 1/1/1999, theo đó có 2 phương pháp tính thuế:
phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp. Phương pháp khấu trừ áp dụng cho các
ĐTNT có sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn và hạch toán đầy đủ đầu ra, đầu vào, chủ yếu
là các DN; phương pháp trực tiếp áp dụng cho các đối tượng không có sổ sách kế toán,
chứng từ hoá đơn, hoặc chưa hạch toán đầy đủ đầu vào và đầu ra, chủ yếu là các hộ kinh
doanh cá thể. Việc quản lý thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ đặt ra yêu cầu cấp bách
về tin học hoá. Phân cấp quản lý ĐTNT từ 1/1/1999 có sự thay đổi: các đối tượng nộp thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ được tập trung quản lý tại các Cục Thuế, các đối tượng
nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp được quản lý tại các Chi cục Thuế. Như vậy,
toàn bộ các ĐTNT là doanh nghiệp ngoài quốc doanh và quốc doanh quận, huyện, các hợp
tác xã đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ được bàn giao từ Chi cục Thuế
về Cục Thuế quản lý. Tổng số ĐTNT thuộc loại này trong cả nước khoảng gần 3 vạn. Nếu
kể cả gần một vạn DN quốc doanh Trung ương, DN quốc doanh địa phương, DN đầu tư
nước ngoài thì tổng số có khoảng gần 4 vạn đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp
khấu trừ và số thuế quản lý chiếm tới 93% tổng số thu trong toàn ngành (vào thời điểm
năm1999).
Nhìn chung, việc phân công quản lý ĐTNT đã đảm bảo thực hiện được yêu cầu của
các luật thuế mới, nhất là Luật Thuế GTGT, quản lý được đối tượng chịu thuế, đối tượng
nộp thuế; tạo điều kiện thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán và hoá đơn, chứng từ, kê khai
thu nộp thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện các luật thuế mới, cùng với các luật khác
nhất là Luật Doanh nghiệp, thì số DN mới thành lập tăng lên nhanh chóng (trong 10 tháng:
từ tháng 1- 10/2000, có gần 10.000 DN được thành lập, với số vốn đăng ký là 9.395 tỷ
đồng. So với cùng kỳ năm 1999, thì số lượng DN tăng 3 lần, số vốn tăng hơn 2 lần), đặc
biệt là Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh, Cục Thuế thành phố Hà Nội, số lượng đối tượng
nộp thuế do Cục Thuế quản lý quá lớn. Trong 5 năm 2001-2005, bình quân hàng năm tăng
khoảng hơn 20 nghìn DN thành lập mới. Vì vậy, việc phân cấp quản lý như trên chưa đáp
ứng được yêu cầu quản lý, nhất là tại các Cục Thuế lớn.
Từ thực tế đó, đầu năm 2001, việc phân cấp quản lý DN đã được điều chỉnh cho
phù hợp với tình hình thực tế, phát huy được sức mạnh của đội ngũ công chức từ cấp Cục
Thuế đến Chi cục Thuế để đảm bảo quản lý thu thuế có hiệu quả:
Căn cứ vào qui mô sản xuất kinh doanh, địa bàn hành chính để xác định các doanh
nghiệp giao cho Chi cục Thuế quản lý thu thuế, các đối tượng này không có hoạt động
xuất nhập khẩu và không thuộc đối tượng phải hoàn thuế;
Ngoài ra, các doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề dưới đây có thể giao cho
Chi cục Thuế quản lý thu thuế:
- Kinh doanh ăn uống, karaoke, massage, nhà trọ, khách sạn nhỏ,
- Vận tải hành khách, hàng hoá,
- Sản xuất đường thủ công, lò gạch thủ công, xay xát nhỏ, đánh bắt thuỷ sản,
- Kinh doanh bán lẻ hàng hoá trực tiếp cho người tiêu dùng, kể cả kinh doanh xăng
dầu bán lẻ, gas bán lẻ..., gọn ở trong một quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
- Kinh doanh dịch vụ như dịch vụ tư vấn, cầm đồ, tráng rửa phim ảnh, cắt tóc, làm
đầu...
- Một số ngành nghề khác đòi hỏi có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của cơ
quan thuế về việc chấp hành sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ.
Tổng cục Thuế đã giao cho Cục Thuế chủ động nghiên cứu và quyết định phân cấp
theo hướng trên phù hợp với điều kiện quản lý và đặc điểm của từng địa phương.
2.2.2.2. Qui trình quản lý thu thuế
Để thực hiện Luật Thuế GTGT và Luật Thuế TNDN, cơ quan thuế đã thực hiện cải
tiến cơ bản quy trình quản lý thuế và bước đầu hiện đại hoá công tác quản lý thu thuế:
Quản lý thu thuế đối với DN được thực hiện theo quy trình ban hành kèm theo Quyết định
số 1368 TCT/QĐ/TCCB ngày 16/12/1998 của Tổng cục Thuế. Qui trình quản lý thuế trong
giai đoạn này đã được cải tiến cơ bản là thực hiện xoá bỏ dần cơ chế "chuyên quản" với
mối quan hệ một-một giữa các DN với cán bộ thuế chịu trách nhiệm quản lý đôn đốc thu
nộp thuế nhằm hạn chế việc thông đồng, dẫn đến tiêu cực trong việc kê khai, tính thuế,
tăng cường tính tự giác nộp thuế của ĐTNT và nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế, đặc
biệt là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế.
Về cơ bản, qui trình quản lý thu thuế vẫn dựa chủ yếu trên 3 khâu: quản lý ĐTNT, tính
thuế và thanh tra thuế, nhưng có cải tiến là đưa vào áp dụng một phần cơ chế doanh nghiệp
tự khai - tự nộp thuế. Nội dung cơ bản của qui trình này là ĐTNT sẽ phải căn cứ vào kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để thực hiện tự kê khai số thuế phải nộp với
cơ quan thuế theo định kỳ. Cơ quan thuế căn cứ vào tờ khai thuế của DN để phát hành
thông báo thuế (mà không phải ký xác nhận vào tờ khai thuế của doanh nghiệp). Doanh
nghiệp căn cứ vào số thuế phải nộp trên thông báo thuế của cơ quan thuế để thực hiện nộp
tiền thuế vào Kho bạc nhà nước. Cơ quan thuế tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc
tự kê khai và nộp thuế của doanh nghiệp để chống thất thu và tiến hành phạt đối với các
trường hợp cố tình kê khai thuế sai, trốn, lậu thuế. Khác với các nước, trước năm 2003,
Việt Nam vẫn chưa thực hiện DN tự nộp thuế do Luật thuế vẫn qui định DN nộp thuế theo
thông báo của cơ quan thuế. Mặt khác, ý thức về nghĩa vụ nộp thuế của DN còn chưa cao,
nên cơ quan thuế vẫn phải duy trì việc in và phát hành thông báo số thuế mà từng đối
tượng phải nộp theo từng kỳ nộp thuế và thông báo thuế được coi là cơ sở pháp lý buộc
DN phải thực hiện nộp thuế cho Nhà nước.
Điểm khác biệt so với qui trình cũ là qui trình mới đã bước đầu tạo được các yếu tố
để thực hiện ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý thu thuế. Qui trình mới đã
mô tả được khá chi tiết các trình tự, mối quan hệ ràng buộc giữa các khâu công việc, các
dòng thông tin diễn ra trong từng quy trình quản lý cụ thể, đã chuẩn hoá được mẫu biểu thể
hiện kết quả xử lý thông tin, đồng thời, qui định rõ trách nhiệm giữa các bộ phận trong
từng khâu, từng việc. Đây là các yêu cầu rất cơ bản để đảm bảo khả năng thực hiện tin học
hoá quá trình quản lý thu thuế thống nhất trên toàn quốc. Đặc biệt, việc thực hiện ban hành
mã số ĐTNT thống nhất trong toàn quốc đã tạo tiền đề cho việc xử lý thông tin tập trung
và thực hiện trao đổi thông tin giữa các địa bàn khác nhau trong cả nước.
Về cơ chế quản lý thuế, qui trình này vẫn dựa trên cơ chế cơ quan thuế tính thuế (và phát
hành thông báo thuế).
Từ năm 2004, trước yêu cầu cách hành chính thuế, cùng với việc bổ sung, sửa đổi
về chính sách thuế, Tổng cục Thuế đã ban hành qui trình quản lý đối với doanh nghiệp
kèm theo Quyết định số 1209/TCT/QĐ/TCCB ngày 29/72004 thay thế qui trình ban hành
theo Quyết định 1368 TCT/QĐ/TCCB. Qui trình đã được chuyển dần từng bước sang thực
hiện cơ chế TK-TN (đã bỏ thông báo thuế), qui định chi tiết hơn một số trình tự công việc
như chuyển địa điểm, đóng mã số thuế; qui định rõ thời gian xử lý từng bước công việc,
kết hợp cấp chứng nhận đăng ký xuất nhập khẩu khi đăng ký thuế; kết hợp kiểm tra, xác
minh địa điểm kinh doanh cấp sổ bán hoá đơn khi đăng ký thuế, chuyển một số chức năng
của bộ phận quản lý đối tượng sang chức năng của bộ phận xử lý tờ khai, tuyên truyền hỗ
trợ DN, thanh tra, kiểm tra. Cải tiến các tờ khai thuế để tạo thuận lợi cho DN: tờ khai thuế
trước đây qui định rất đơn giản nhưng lại yêu cầu DN phải cung cấp khá nhiều báo cáo và
biểu mẫu có liên quan. Nay qui định trong tờ khai thuế có đủ các chỉ tiêu theo yêu cầu của
công tác quản lý thuế. Vừa đảm bảo đầy đủ thông tin theo yêu cầu của cơ quan thuế, vừa
qui định pháp luật hoá trách nhiệm của DN, tránh tuỳ tiện của các bộ thuế.
Mặc dù qui trình quản lý thuế đã được nghiên cứu bổ sung qua các giai đoạn, song
hình thức kê khai thuế đều là kê khai thuế trên tờ khai bằng giấy và nộp cho cơ quan thuế
(chưa có hệ thống kê khai điện tử).
Quá trình thực hiện một số khâu cơ bản trong qui trình quản lý thuế đối với DN:
- Công tác tuyên truyền về thuế và hỗ trợ doanh nghiệp:
+ Đẩy mạnh tuyên truyền thuế dưới nhiều hình thức:
Phối hợp với Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương trong việc chỉ đạo các báo đẩy
mạnh tuyên truyền giáo dục về thuế, phối hợp với các báo lớn như báo Nhân dân, báo Lao
động, báo Pháp luật, Thời báo kinh tế, báo Đầu tư nước ngoài, báo Doanh nghiệp, các báo
trong ngành Tài chính, các ban của Đài Truyền hình Trung ương, Đài Tiếng nói Việt Nam
để phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật thuế; họp báo với các cơ quan thông tấn báo
chí ở trung ương và địa phương, tổ chức đối thoại, tọa đàm, trao đổi với các doanh nghiệp
và tập huấn, hội thảo...Phối hợp với Đài truyền hình xây dựng các phóng sự về thuế, với
hội nhạc sĩ để sáng tác các bài hát về thuế, với các cơ quan thông tấn báo chí để mở các
chuyên mục trên báo, đài phát thanh, đài truyền hình ở trung ương và địa phương nhằm
tuyên truyền hướng dẫn các chính sách thuế; Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật về thuế. Tổ
chức thi tìm hiểu pháp luật về chính sách thuế trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Biểu dương kịp thời các tổ chức, cá nhân đã thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ thuế đối với
NSNN. Đồng thời, lên án mạnh mẽ các hành vi gian lận thuế chây ỳ, không thực hiện
nghĩa vụ thuế trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Ví dụ như trong năm 2004 và 6 tháng 2005, đã thực hiện được 8.929 buổi phát sóng
trên truyền thanh, truyền hình, 2951 bài, ảnh đăng các báo, tạp chí, 2689 biển quảng cáo,
panô, áp phích..., 8 buổi thi tìm hiểu pháp luật về thuế tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh; Phát
hành 1.674.400 ấn phẩm về thuế, phí và lệ phí để hướng dẫn thực hiện các Luật Thuế
GTGT, thuế TTĐB, thuế TNDN, thu nhập cá nhân vừa được sửa đổi, bổ sung năm 2003 và
2004; Công khai 235 trường hợp doanh nghiệp vi phạm chính sách chế độ thuế trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
+ Tăng cường dịch vụ hỗ trợ ĐTNT:
Cơ quan thuế các cấp đã tổ chức mạng lưới làm nhiệm vụ dịch vụ hỗ trợ doanh
nghiệp để cung cấp tài liệu, tập huấn, hướng dẫn, giải đáp mọi vướng mắc về thuế để các
tổ chức, cá nhân hiểu rõ chính sách thuế, tự giác thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ thuế.
Tổng cục Thuế đã ban hành Quy chế công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT; Công tác
hỗ trợ ĐTNT được tập trung về một đầu mối (Phòng, tổ Tuyên truyền hỗ trợ ĐTNT được
thành lập từ cuối năm 2003) đã hạn chế được tình trạng giải đáp trái ngược nhau giữa các
Phòng (đội) quản lý thu trước đây đối với cùng một nội dung vướng mắc;
Việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho DN đã từng bước được triển khai như, tổ chức
tập huấn, toạ đàm, hướng dẫn các chính sách thuế, thủ tục về thuế cho các DN. Ngoài các
hình thức tiếp xúc tại cơ quan thuế, các cơ quan thuế còn cử cán bộ trực tiếp quản lý đến
tận cơ sở để hướng dẫn, giải đáp khi có yêu cầu; thực hiện trả lời trên điện thoại, trả lời
bằng văn bản; cài đặt chương trình trên máy tính, cung cấp đĩa CD cho DN:
Năm 2004 đã trả lời trực tiếp và trả lời bằng văn bản cho 105.753 lượt DN, tổ chức
tập huấn cho 14.685 DN mới thành lập, tổ chức tập huấn cập nhật chính sách mới cho
109.145 DN; hướng dẫn các chính sách thuế, thủ tục hành chính thuế cho 9.992 đối tượng
nộp thuế; 6 tháng năm 2005: đã giải đáp các vướng mắc trong quá trình thực hiện chính
sách thuế cho 5.386 DN tại trụ sở của cơ quan thuế và 5.822 lượt trả lời qua điện thoại và
hàng vạn văn bản trả lời, giải đáp vướng mắc cho các DN;
Xuất bản các ấn phẩm: sách, tờ rơi (mỗi năm trên 2 triệu bản), tạp chí thuế ra hàng
tháng trên 2 vạn cuốn mỗi số, mở chuyên mục giải đáp về thuế trên một số phương tiện
thông tin đại chúng. Tổ chức đường dây nóng, với trên 800 số điện thoại trên phạm vi cả
nước để trả lời trực tiếp các vướng mắc, cung cấp thông tin cho DN và đối tượng nộp thuế
khác.
Tổ chức các cuộc đối thoại với DN để kịp thời nắm tình hình, giải quyết các vướng
mắc, đồng thời lấy ý kiến của DN đóng góp vào chính sách, qui trình thủ tục quản lý. Năm
2004, có 437 cuộc đối thoại với DN; 6 tháng năm 2005, đã có 58 Cục Thuế, 396 Chi Cục
Thuế tổ chức đối thoại với DN với tổng số ĐTNT đến tham dự là 14.393/16.751 ĐTNT
được mời tham dự, tổng số câu hỏi của ĐTNT đưa ra đã được trả lời tại hội nghị là 3.063
câu hỏi.
+ Tổng cục Thuế chính thức khai trương trang Thông tin điện tử ngành Thuế trên
mạng Internet (còn gọi là Website ngành Thuế) với địa chỉ Đến
tháng 6 năm 2005, trang Thông tin điện tử ngành Thuế đã cập nhật: 2.026 tin, bài về kinh
tế, tài chính trên các chuyên mục Tin tức, Nghiên cứu - Trao đổi, 636 văn bản pháp quy,
văn bản hướng dẫn về thuế, 410 câu hỏi về thuế thường gặp và khoảng 60 loại thủ tục về
thuế; xây dựng các chuyên mục mới phù hợp, khai thác thông tin có liên quan để cập nhật
lên Website ngành Thuế, phục vụ mục tiêu tuyên truyền của ngành; Trong quá trình hoạt
động, Ban Biên tập, Tổ thường trực cũng đã xử lý các vướng mắc và ý kiến trao đổi của
bạn đọc nhận được qua phần "Ý kiến bạn đọc" của Website.
Bên cạnh đó, đang xây dựng và triển khai Website tiếng Anh; triển khai Website
nội bộ cho các Cục Thuế (đang được triển khai thí điểm tại 6 địa phương: Hà Nội, Quảng
Ninh, Bà Rịa Vũng Tàu, Đồng Nai, An Giang, Thừa Thiên Huế).
Website ngành Thuế ra đời và hoạt động theo đúng định hướng, chủ trương cải cách
và hiện đại hoá của ngành Thuế, thực hiện việc công khai, minh bạch thông tin về chính
sách pháp luật thuế, về các thủ tục hành chính thuế, tuyên truyền hướng dẫn, tạo điều kiện
cho ĐTNT nói chung và doanh nghiệp nói riêng nâng cao ý thức tuân thủ, chấp hành tốt
nghĩa vụ nộp thuế của mình.
Website ngành Thuế đang trở thành địa chỉ quen thuộc với mọi doanh nghiệp,
người dân. Biểu hiện cụ thể và rõ rệt nhất qua số lượng người truy cập đạt khá cao: Sau 1
năm hoạt động, đã có khoảng trên 1 triệu lượt người truy cập.
Website ngành Thuế được xây dựng nhằm tạo thêm một kênh cung cấp thông tin
nhanh chóng, chính xác, đầy đủ về các chính sách, chế độ thuế, các qui định về thủ tục,
trình tự đăng ký, kê khai nộp thuế..., các thông tin mới về các lĩnh vực thuế, kinh tế - tài
chính và các thông tin hữu ích khác cho các tổ chức, cá nhân nộp thuế và mọi đối tượng có
liên quan.
- Công tác xử lý tờ khai và kế toán thuế:
Từ năm 1999, theo qui trình quản lý DN ban hành tại Quyết định số 1368
TCT/QĐ/TCCB ngày 16/12/1998 của Tổng cục Thuế, toàn bộ khâu xử lý tờ khai và kế
toán thuế trong qui trình này đều được tin học hoá. Ngành Thuế đã thực hiện việc cấp mã
số duy nhất cho các ĐTNT sử dụng thống nhất trên địa bàn cả nước. Thông qua việc cấp
mã số thuế, ngành Thuế đã có điều kiện để quản lý chặt chẽ hơn số lượng ĐTNT. Các
thông tin cơ bản về đăng ký thuế với ĐTNT nói chung và DN nói riêng được lưu giữ tập
trung tại Tổng cục Thuế đã tạo thuận lợi cho công tác quản lý thu thuế, đặc biệt là hỗ trợ
cho việc kiểm tra khấu trừ, hoàn thuế và trao đổi thông tin với các ngành liên quan như
Hải quan, Kho bạc. Các thông tin từ tờ khai, chứng từ nộp thuế, báo cáo quyết toán thuế,
quyết định hoàn thuế, miễn giảm thuế được nhập vào máy tính. Hệ thống chương trình tự
động tính thuế, tính nợ, tính phạt và in thông báo thuế. Cơ quan thuế phát hành thông báo
thuế đến DN. Nghĩa vụ thuế của từng DN được theo dõi đầy đủ trên hệ thống máy tính.
Hệ thống thông tin báo cáo trong ngành Thuế đã được xây dựng và ứng dụng tin
học, đặc biệt hệ thống thông tin quản lý DN từ cấp Cục Thuế đã được tin học hoá và một
số báo cáo về thuế của DN đã được truyền tự động thông qua hệ thống mạng của ngành.
Cùng với sửa đổi tổ chức bộ máy ngành Thuế theo Quyết định số 218/QĐ-TTg
ngày 28/10/2003, Tổng cục Thuế đã nghiên cứu sửa đổi qui trình quản lý thu thuế đối với
doanh nghiệp, ban hành Quyết định số 1209/TCT/QĐ/TCCB ngày 29/7/2004 thay thế
Quyết định số 1368/TCT/QĐ/TCCB. Theo Qui trình 1209 TCT/QĐ/TCCB, các bước xử lý
tờ khai đã được cải tiến, đảm bảo nhanh hơn, hợp lý hơn, qui định lại một số nhiệm vụ của
bộ phận xử lý tờ khai để đảm bảo giải quyết được các yêu cầu về nghiệp vụ.
- Công tác kiểm tra, thanh tra thuế:
Việc doanh nghiệp tự tính, tự khai thuế và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kê
khai và nghĩa vụ nộp thuế của mình đã tạo điều kiện cho cơ quan thuế tập trung nguồn lực
để tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thu nộp thuế; giải quyết các khiếu nại về
thuế, góp phần giảm tiêu cực trong ngành Thuế và tăng lòng tin và tính tuân thủ đối với
DN.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, xử lý kịp thời các hành vi gian lận về thuế, chống thất
thu ngân sách, đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế và tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh giữa các DN.
+ Hàng năm Cục Thuế lập kế hoạch thanh tra DN báo cáo Tổng cục Thuế phê
duyệt. Những DN thanh tra tập trung vào những doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm luật
thuế, DN được ưu đãi, miễn giảm thuế, DN sắp hết thời hiệu thanh tra, DN lớn kinh doanh
tổng hợp đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng lớn.
+ Bộ máy thanh tra, kiểm tra thuế đối với DN ngày càng được tăng cường cả về số
lượng và chất lượng cán bộ; đặc biệt từ năm 2004, khi tổ chức bộ máy quan thuế các cấp
được tổ chức lại theo Quyết định số 218/2003/QĐ-TTg ngày 28/10/2003, nhiều Cục Thuế
được tổ chức từ 2 đến 3 phòng thanh tra (trước đây mỗi Cục Thuế chỉ có 1 phòng thanh tra
và xử lý tố tụng về thuế). Tổng cộng đã thành lập thêm 27 phòng thanh tra tại một số Cục
Thuế tỉnh, thành phố. Số cán bộ làm công tác thanh tra tăng từ 11,4% năm 2003 lên 17,6%
vào tháng 6/2004. Việc lựa chọn cán bộ làm công tác thanh tra đã chú trọng trình độ
chuyên môn, phẩm chất đạo đức và thái độ làm việc khách quan, trung thực.
Hiện tại, việc ứng dụng tin học để phân tích và lựa chọn doanh nghiệp thanh tra
chưa được áp dụng do còn thiếu thông tin và chưa xây dựng được các tiêu chí để đánh giá
rủi ro về thuế đối với doanh nghiệp.
- Ứng dụng công nghệ tin học trong quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp:
Tin học ngành Thuế đã xây dựng và triển khai từng bước hệ thống ứng dụng rộng
khắp phục vụ các yêu cầu trọng tâm của công tác quản lý thuế và quản lý nội bộ ngành,
trong đó ưu tiên hàng đầu cho việc ứng dụng tin học đối với quản lý thu thuế DN ở cấp
Cục Thuế (vì Cục Thuế quản lý thu đối với các DN lớn và vừa, chiếm đại bộ phận số thu
nội địa) và việc ứng dụng công nghệ tin học đã tác động tích cực đến việc cải tiến và thống
nhất cơ chế, quy trình quản lý thuế DN, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý thu thuế đối
với DN nói riêng và quản lý thuế nói chung.
Giai đoạn này đã thực hiện ứng dụng công nghệ tin học một cách có hệ thống trên
cơ sở cải cách quy trình quản lý thu thuế, liên kết việc xử lý thông tin về thuế giữa các
khâu quản lý thu, nộp thuế trong nội bộ ngành Thuế và với Kho bạc, hỗ trợ tích cực cho
công tác quản lý và chỉ đạo thu của lãnh đạo và các bộ phận nghiệp vụ quản lý thu. Các
vấn đề nghiệp vụ được đưa vào tin học hoá trong giai đoạn này là: quản lý đăng ký thuế và
cấp mã số ĐTNT; xử lý tờ khai, giấy nộp tiền thuế để tính và phát hành thông báo nộp
thuế; lập bộ và theo dõi tình hình thu, nộp, tính phạt; thực hiện công tác kế toán, thống kê
thuế và theo dõi tiến độ thực hiện dự toán thu thuế; liên kết thông tin về thuế với các ngành
liên quan như Kho bạc, Hải quan. Kết quả nổi bật là việc triển khai thành công ứng dụng
công nghệ tin học vào công tác đăng ký cấp mã số thuế và hệ thống quản lý thu thuế, trong
đó có chương trình quản lý DN. Chương trình đăng ký thuế và cấp mã số thuế, được coi là
cốt lõi để tạo cơ sở cho việc quản lý ĐTNT và quản lý thu thuế. Với việc cập nhật và lưu
giữ toàn bộ thông tin kê khai đăng ký thuế của hơn 1,5 triệu ĐTNT, trong đó có hơn 140
nghìn DN, chương trình đã trợ giúp tra cứu khai thác thông tin về ĐTNT, hoạt động của
ĐTNT trên các địa bàn cả nước. Đồng thời, chương trình còn trợ giúp tổng hợp thống kê
số ĐTNT theo các tiêu thức khác nhau phục vụ công tác quản lý thu thuế và cung cấp
thông tin cho các ngành, các cấp.
Công tác phát triển tin học giai đoạn này có những đặc điểm khác hẳn giai đoạn
trước: phát triển ứng dụng một cách có hệ thống thay cho việc phát triển mang tính chất
phục vụ một số nhu cầu tính toán đơn giản; thiết lập hệ thống các mạng máy tính cục bộ tại
các Cục Thuế thay thế dần việc sử dụng các máy tính đơn lẻ; thiết lập môi trường mạng
truyền dữ liệu phục vụ việc trao đổi thông tin giữa các cấp nhanh chóng, chính xác.
Công tác tin học hoá giai đoạn này được thực hiện dựa trên cơ sở Đề án tin học hoá
ngành thuế 1995 - 2000 và 2000-2005 do Tổng cục thuế xây dựng. Trong giai đoạn này,
ngành Thuế đã tập trung xây dựng hệ thống mạng cục bộ cho các Cục Thuế và mạng
truyền thông giữa các cấp trong ngành thuế. Kết nối mạng thống nhất 64 Cục thuế với hai
trung tâm máy tính Tổng cục được đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Hiện tại, hơn 600 Chi cục
Thuế đã nối mạng truyền tin với Cục Thuế. Số trang thiết bị trong giai đoạn này tăng
nhanh, với tổng số máy chủ là 250, máy trạm khoảng 1500, máy tính cá nhân là 2500.
Ngành Thuế đã ưu tiên tiến hành xây d
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Hoàn thiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.pdf