Tài liệu Luận văn Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội: LUẬN VĂN:
Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm
cho thanh niên ngoại thành Hà Nội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mọi quốc gia,
đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Giải
quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề
quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành
thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiếp kịp khu vực và thế
giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm, Đảng và Nhà nước ta đã đề
ra nhiều chủ chương, đường lối, chính sách thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy tối đa nội lực,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo nhiều việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở
thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời...
88 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1226 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm
cho thanh niên ngoại thành Hà Nội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mọi quốc gia,
đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Giải
quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề
quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành
thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiếp kịp khu vực và thế
giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm, Đảng và Nhà nước ta đã đề
ra nhiều chủ chương, đường lối, chính sách thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy tối đa nội lực,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo nhiều việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở
thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn, góp phần tăng thu nhập và cải thiện
đời sống nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn về tăng trưởng kinh tế,
Việt Nam cũng đạt được những kết quả quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho
người lao động, đời sống người lao động trong đó có tầng lớp thanh niên được cải thiện rõ
rệt. Thanh niên là lực lượng tiên phong trong phát triển chính trị, kinh tế và xã hội, đồng
thời cũng là lực lượng mang lại sự thay đổi và đổi mới. Thế giới việc làm tạo môi trường
cho thanh niên để họ tham gia một cách chủ động vào xã hội, cống hiến tài năng và tầm nhìn
cho tương lao, phát triển cam kết và các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, tính trung bình, tỷ lệ
thất nghiệp ở thanh niên cao hơn từ hai đến ba lần so với nhóm dân số lớn tuổi hơn, nhất là
thanh niên ở nông thôn, những vùng khó khăn.
Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, ở khu vực ngoại thành Hà Nội, quá
trình đô thị hoá đang diễn ra nhộn nhịp. Đó là một quy luật phát triển tất yếu, đem lại một
cuộc sống văn minh, hiện đại hơn và một nền kinh tế phát triển hơn. Song, đằng sau những
biến đổi tích cực đó còn những vấn đề xã hội khác đang cần quan tâm giải quyết. Điển
hình hơn cả là vấn đề việc làm của thanh niên ngoại thành. Điều này được phát huy hiệu
quả hay không phụ thuộc một phần vào chính sách và sự quan tâm của chính quyền địa
phương và các cơ quan chức năng.
Điều đó đặt ra yêu cầu cần có sự nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống vấn đề
giải quyết việc làm cho thanh niên ở thành phố Hà Nội, đảm bảo kinh tế thành phố Hà Nội
có thể tăng trưởng cao, ổn định trong điều kiện Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới và khu vực. Để góp phần vào những nghiên cứu chung đó, tôi chọn vấn đề
“Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội” làm đề tài
luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
này, dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể nêu một số đề tài sau:
- Đề tài cấp nhà nước 70 A.02.02 “Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở
nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”, của Bộ Lao động-
Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 1994.
- Đề tài cấp nhà nước KX-07-05-05: “Những đặc trưng và xu hướng biến đổi của cơ
cấi xã hội nghề nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay, dự báo và kiến nghị”, do tiến sĩ
Nguyễn Đình Tấn-Giám đốc Trung tâm Xã hội học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh làm chủ nhiệm, 1995.
- Đề tài “Quản lý nhà nước về việc làm ở Hà Nội”, luận án Tiến sĩ Kinh tế Trần Văn
Tuấn, Hà Nội, 1995.
- “Thị trường sức lao động thực trạng và giải pháp” của Phó Tiến sĩ Nguyễn Quang
Hiền, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1995.
- “Chiến lược việc làm và đào tạo nghề thời kỳ 2001-2010” của tiến sĩ Nguyễn Hữu
Dũng, Tạp chí Lao động Xã hội, 2001.
- Đề tài “Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm qua thực tế ở Hà Nội”,
luận án Tiến sĩ Kinh tế Đỗ Thị Xuân Phương, Hà Nội, 2005.
- Đề tài “Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc”, luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội, 2002 bảo vệ tại Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề này với những cách
tiếp cận khác nhau.
Có thể thấy rằng, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào đã công bố, tập
trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Tuy vậy, nghiên cứu các công trình đã công bố, tôi cũng tham khảo được nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn rất có giá trị đối với đề tài của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc
những vấn đề được nghiên cứu trong các công trình khoa học đó, kết hợp với khảo sát thực
tế ở địa bàn thành phố Hà Nội, tôi có thể rút ra và kiến nghị những giải pháp giải quyết
việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn
của vấn đề lao động, việc làm, giải quyết việc làm cho thanh niên trong điều kiện nền kinh
tế thị trường ở nước ta nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng. Trên cơ sở đó, đề xuất
những giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về lao động, việc làm, giải
quyết việc làm cho thanh niên trong điều kiện kinh tế thị trường.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
- Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về hỗ
trợ giải quyết việc làm cho thanh niên, trong đó tập trung vào những biện pháp hỗ trợ từ
phía chính quyền thành phố.
Quản lý và giải quyết việc làm cho người lao động có phạm vi rất rộng và phức tạp.
Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên
thuộc 5 huyện ngoại thành Hà Nội (cũ) dưới góc độ quản lý nhà nước.
Về thời gian luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá vấn đề giải quyết việc làm cho
thanh niên trước ngày 01/8/2008.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách pháp luận của nhà nước, lý luận về
thất nghiệp, việc làm trong kinh tế học hiện đại.
Ngoài các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp trừa tượng
hoá là những phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên
cứu khoa học xã hội, nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn, phân pháp phân tích tổng
hợp, diễn dịch, quy nạp, phương pháp hệ thống, so sánh, thống kê...
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần phân tích và làm rõ những vấn đề cơ bản về lao động, việc làm,
giải quyết việc làm cho thanh niên, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên
ở thành phố Hà Nội, đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt
hơn việc làm cho thanh niên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế của
thành phố Hà Nội.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý, nghiên cứu hoạch định
chính sách và chỉ đạo thực tiễn của thành phố Hà Nội đối với vấn đề giải quyết việc làm
cho thanh niên ngoại thành.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỖ TRỢ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN Ở CÁC VÙNG
NGOẠI THÀNH TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
1.1. VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN KHU
VỰC NGOẠI THÀNH
1.1.1. Khái niệm và phân loại việc làm
1.1.1.1. Khái niệm việc làm
Ngày nay, việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn đề có tính
chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển của một đất nước. Tăng việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp là một trong những biện
pháp quan trọng để từng bước ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo phát triển
bền vững. Đặc biệt đối với Việt Nam, tốc độ tăng dân số, nguồn lao động cao, trong khi
tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm bị hạn chế do khả năng cung về vốn, tư liệu sản
xuất còn thấp.
Về mặt bản chất, việc làm là quan hệ tích cực, sáng tạo của chủ thể việc làm với hoạt
động sống của mình, với ý nghĩa, nội dung và mục đích đặt ra. Tuỳ thuộc vào từng thời
điểm, không gian và từng chủ thể có cách tiếp cận vấn đề, đưa ra các khái niệm khác nhau
về việc làm.
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân
khẩu; nó thuộc loại vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội. Hiện nay, trên các
phương tiện thông tin đại chúng, khái niệm “việc làm” và “thị trường lao động” không
hiếm khi bị đồng nhất với nhau. Hệ thống việc làm được đưa thêm hàng loạt chức năng
không đúng là tính chất của nó, còn thị trường lao động được tăng thêm tính chất tổng hợp.
Khái niệm việc làm và khái niệm lao động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không
hoàn toàn giống nhau. Việc làm không phải là hoạt động mà là những quan hệ xã hội giữa
con người, mà trước hết là những quan hệ kinh tế và pháp lý về việc đưa người lao động
vào hợp tác lao động cụ thể trong một chỗ làm việc xác định. Hoạt động lao động, trước
hết, đó là một quá trình, còn việc làm là tài sản của chủ thể mà bằng cách nào đấy được
đưa vào (hay là loại trừ ra) từ quá trình đó. Về giác độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương
quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong
quá trình sản xuất. Việc làm gắn với quá trình tăng thu nhập, giảm sự nghèo khổ của người
lao động, đồng thời không đi ngược lại với lợi ích cộng đồng mà pháp luật quy định. Nói
cách khác, việc làm là công việc, những hoạt động có ích, không bị pháp luật cấm và mang
lại thu nhập cho bản thân hoặc tạo điều kiện để tăng thu nhập cho các thành viên trong gia
đình, đồng thời góp một phần cho xã hội.
Nhà khoa học nổi tiếng trong kinh tế lao động người Nga Kotlia A., đã đưa ra khái
niệm việc làm như phạm trù kinh tế nói chung tồn tại ở mọi hình thái xã hội. Đồng thời,
việc làm là phạm trù tái sản xuất xã hội, mà không thể đồng nhất với lao động và sử dụng
sức lao động. Nó định rõ đặc tính dân số hoạt động kinh tế so với những yếu tố sản xuất
vật chất thể hiện quan hệ giữa con người về việc tham gia của họ vào trong sản xuất xã
hội.
Các nhà khoa học kinh tế Anh thì lại cho rằng “việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ
các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩ là tất cả những gì quan hệ đến cách kiếm sống
của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ
của quá trình kinh tế” 4, tr.315. Theo quan điểm này thì tất cả những việc làm tạo ra thu nhập
mà không cần phân biệt có được pháp luật thừa nhận hay ngăn cấm đều được gọi là việc làm.
Các nhà kinh tế Sônhin và Grincốp của Liên xô lại cho rằng, “việc làm là sự tham
gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong khu vực xã hội
hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong kinh tế phụ của các nông
trang viên” 4, tr.315. Theo khái niệm này thì những người đang đi học, đang tham gia
hoạt động trong các lực lượng vũ trang, những người nội trợ đều coi là người có việc làm.
Ngày nay, ở Liên Bang Nga khái niệm này được quy định rõ trong Bộ Luật Việc làm của
dân cư Liên bang Nga như sau: “việc làm là hoạt động của công dân nhằm thoả mãn
những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem đến cho họ thu nhập và không bị pháp luật Liên
bang ngăn cấm” 4, tr.315.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khái niệm việc làm chỉ đề cập đến trong mối
quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được phân thành hai loại: Có trả công
(những người làm thuê, học việc...) và không được trả công nhưng vẫn có thu nhập (những
người như giới chủ làm kinh tế gia đình...). Vì vậy, “việc làm có thể được định nghĩa như
một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích
cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất” 4, tr.314. Theo khái niệm này,
người có việc làm là người làm việc gì đó để được trả công, lợi nhuận được thanh toán
bằng tiền hoặc hiện vật, hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì
lợi ích hay vì thu nhập của gia đình (không được nhận tiền công hay hiện vật). Khái niệm
này đã được chính thức nêu tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 của nhà thống kê lao động
(ILO.1993) và đã được áp dụng ở nhiều nước. Tuy nhiên, quan niệm này mang nghĩa rất
rộng, bao trùm mọi hoạt động lao động của con người. Trong thời đại ngày nay, với quan
niệm trên, có rất nhiều người sẽ thuộc diện có việc làm, bao gồm: những hoạt động mang
tính hợp pháp và những hoạt động mang tính phi pháp hay là những hoạt động lao động
của con người vi phạm pháp luật hoặc bị cho là vi phạm đạo đức xã hội và bị ngăn cấm ở
một số nước. Ví dụ, việc buôn bán heroin, mại dâm,... ở các nước như Hà Lan, Colômbia
thì không cấm, nhưng những hoạt động này bị cấm ở các nước khác, đặc biệt là các nước
Châu Á như: Việt Nam, Trung Quốc... Do vậy, khái niệm trên chỉ mang tính khái quát, là
cơ sở nghiên cứu vấn đề chung cho các nước trên thế giới.
Ở nước ta, trong thời kỳ tập trung bao cấp, nhà nước đã đứng ra giải quyết việc làm,
trực tiếp quản lý nguồn lao động kể từ khâu đào tạo, phân bổ đến việc sử dụng đãi ngộ đối
với người lao động thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh. Trong giai đoạn này, những khái
niệm về thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy đủ... hầu như không được
biết đến. Còn khái niệm “thất nghiệp” dường như là điều cấm kị nói tới dưới bất kỳ hình
thức nào, trong nền kinh tế quốc dân, xu hướng quốc doanh hoá được coi là một điều tất
yếu. Hướng phấn đấu của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh là chuyển nhanh vào khu vực
quốc doanh, đối với mỗi công dân là vào đội ngũ viên chức nhà nước. Do đó việc làm và
người có việc làm được xã hội thừa nhận và trân trọng là những người làm việc trong
thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực Nhà nước và kinh tế tập thể.
Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, quan điểm về việc làm được hiểu là hoạt động lao
động không bị pháp luật ngăn cấm tạo thu nhập hoặc tạo ra điều kiện cho các thành viên
trong hộ gia đình có thêm thu nhập. Điều này cũng phù hợp với các nhìn nhận và phân tích
của Nhà nước ta, được quy định trong Điều 13 của Bộ luật Lao động: “Mọi hoạt động lao
động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”
27, tr.13.
Khái niệm việc làm của Bộ luật Lao động Việt Nam được cụ thể hoá, có thể hiểu
dưới ba dạng hoạt động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc hiện vật.
- Làm các công việc để thu lợi nhân cho bản thân.
- Làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình
thức tiền lương, tiền công cho công việc đó.
Theo quan niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn hai tiêu thức:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho các
thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu
nhập của việc làm.
Thứ hai, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỏ rõ tính pháp lý
của việc làm, quan niệm đã rõ ràng hơn so với quan niệm của tổ chức ILO. Hoạt động có
ích không giới hạn về phạm vi, ngành nghề và hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của thị
trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người
lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tư do
liên kết kinh doanh, tự do tìm kiếm việc là, tự do thuê mướn lao động trong khuôn khổ của
pháp luật, không bị phân biệt đối xử dù làm việc trong hay ngoài khu vực Nhà nước. Điều
này khẳng định tính chấp pháp lý trong hoạt động của người lao động thuộc khu vực ngoài
Nhà nước và các khu vực phi chính thức.
Hai điều kiện đó có quan hệ chặt chẽ với nhau và là điều kiện cần và đủ để một hoạt
động lao động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động tạo ra thu nhập, nhưng vi
phạm pháp luật như trộm cắp, buôn bán ma tuý, mại dâm... thì không được thừa nhận là
việc làm. Mặt khác một hoạt động là hợp pháp và có ích, nhưng không tạo ra thu nhập
cũng không được thừa nhận là việc làm.
Nhận thức về việc làm và tạo việc làm đã có sự chuyển biến căn bản. Nếu như trước
đây, quan niệm phổ biến là Nhà nước chịu trách nhiệm tạo việc làm và bố trí việc làm cho
người lao động thì nay đã chuyển sang quan niệm tạo việc làm là trách nhiệm của Nhà
nước, doanh nghiệp, xã hội và của chính bản thân người lao động. Sự thay đổi quan niệm
về việc làm của Nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường, coi hoạt động lao động tao
ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm, có vai trò quan
trọng trong giải phóng sức lao động, thúc đẩy tạo mở việc làm và phát triển thị trường lao
động ở nước ta.
Quan niệm về việc làm nêu trên đã mang tính khái quát cao, tuy nhiên vẫn còn một
số hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất, xét trên phạm vi rộng thì tính hợp pháp của một hoạt động lao động được
thừa nhận là việc làm tuỳ thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia và mỗi thời kỳ. Có hoạt
động là việc làm ở nước này nhưng lại không được thừa nhận là việc làm ở nước khác.
Thứ hai, không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình và xã hội đều tạo
ra thu nhập mặc dù nó góp phần làm giảm chi tiêu cho gia đình thay vì thuê người làm
công.
Theo giáo trình Kinh tế Lao động của Khoa Kinh tế Lao động và Dân số- Trường đại
học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, khái niệm việc làm được hiểu “là phạm trù để chỉ trạng thái
phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để
sử dụng sức lao động đó” 48.
Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỉ lệ giữa chi phí ban đầu (C)
như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...và chi phí về sức lao động (V). Quan
hệ tỉ lệ biểu diễn sự kết hợp giữa sức lao động với trình độ công nghệ sản xuất. Khi công
nghệ thay đổi thì sự kết hợp đó cũng thay đổi theo, có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn
hoặc công nghệ sử dụng nhiều sức lao động. Chẳng hạn, trong điều kiện kỹ thuật thủ công
một đơn vị chi phí ban đầu về tư liệu sản cuất, vốn có thể kết hợp với nhiều đơn vị sức lao
động. Còn trong điều kiện tự động hoá, sản xuất theo dây chuyền hiện đại thì chi phí về
vốn, thiết bị, công nghệ rất cao, nhưng chỉ đòi hỏi sức lao động với tỉ lệ thấp. Do đó, tuỳ
từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phương án phù hợp để có thể tạo việc làm cho người lao
động.
Trong điều kiện của tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự áp dụng các thành tựu của khoa
học công nghệ vào sản xuất mạnh mẽ như hiện nay, quan hệ tỉ lệ giữa C và V thường
xuyên biến đổi theo các dạng khác nhau.
- Sự phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động có nghĩa là mọi người có khả năng
lao động, có nhu cầu làm việc đều có việc làm. Nếu chỉ xem xét trên phương diện sử dụng hết
thời gian lao động có nghĩa là việc làm đầy đủ. Trong trường hợp sự phù hợp của mối quan hệ
này cho phép sử dụng triệt để tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động ta có khái
niệm việc làm hợp lý.
- Sự không phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động sẽ dẫn đến thiếu nguồn
nhân lực tức thiếu việc làm và thất nghiệp.
Trong luận văn này, từ những phân tích trên, tác giả đồng tình với khái niệm việc
làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết
(vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để sử dụng sức lao động đó. Trên cơ sở này sẽ hình
thành các dạng việc làm cũng như phân tích các nhân tố ảnh hướng đến hỗ trợ giải quyết
việc làm.
1.1.1.2. Các dạng việc làm
Trong lý thuyết và cả trong thực tế việc làm được chia làm nhiều hình thức khác
nhau. Những hình thức việc làm là các phương pháp tổ chức pháp lý và những điều kiện sử
dụng lao động. Trong khuôn khổ của thị trường lao động quốc gia hoạt động lao động của
con người được tổ chức với sự trợ giúp của những hình thức tổ chức pháp lý khác nhau,
được phân biệt bởi định mức điều tiết pháp lý thời gian và chế độ ngày làm việc, sự đều
đặn của hoạt động lao động, vị trí thực hiện công việc...
- Việc làm đầy đủ: khái niệm việc làm đầy đủ không thể chỉ giải thích theo một
nghĩa, nó phụ thuộc vào tiêu chí và tính chất của vấn đề. Đầy đủ ở đây không có nghĩa là
việc làm chung cho tất cả mọi người, đảm bảo chỗ làm việc cho tất cả dân số có khả năng
lao động. Xã hội luôn có khuyng hướng đạt được cân đối nguồn lao động trong mức tối đa,
dự đoán dòng chuyển động nguồn lao động được dựa trên cơ sở dự báo và lên kế hoạch tạo
chỗ làm việc.
Trong tư duy và thực tế ở phương Tây, việc làm đầy đủ là tình hình nền kinh tế, mà ở
đó tất cả những người mong muốn làm việc có việc làm với mức lương thực tế khống chế.
Trong ngữ cảnh này nó được sử dụng đồng nhất như khái niệm “toàn dụng nhân lực”.
Trong lý thuyết kinh tế và thực tế người ta còn chia việc làm đầy đủ ra thành nhiều
dạng như việc làm năng suất, hiệu quả và hợp lý.
- Việc làm năng suất có nghĩa là việc làm tạo ra những phúc lợi và dịch vụ hữu ích cả
cho xã hội và cả cho từng người lao động.
- Việc làm hợp lý dự đoán sự phân chia một cách tối ưu người đang làm việc theo các
ngành sản xuất và các khu vực lãnh thổ của đất nước với mục đích sản xuất ra những sản
phẩm và sử dụng những dịch vụ phục vụ cho nhu cầu.
- Việc làm hiệu quả là việc làm trong sản xuất sinh lợi nhuận được trang bị kỹ thuật
với tổ chức lao động tiên tiến, năng suất lao động cao và đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Nó dự đoán sự hiện có những cán bộ và đội ngũ những nhà quản lý có trình độ chuyên
nghiệp cao và hướng tới công việc có hiệu quả. Khái niệm việc làm hiệu quả này thường
hướng vào sự phát triển toàn diện con người và hoàn toàn chấp nhận được, nhưng nó khá
rộng và không có khả năng đo được bằng một chỉ tiêu. Tuy nhiên có thể đưa ra tính chất
định lượng để đánh giá qua hệ thống chỉ tiêu như:
+ Mức độ việc làm của cư dân bằng lao động chuyên nghiệp trên tổng dân số, thể
hiện dưới dạng phần trăm (gọi là hệ số việc làm). Hệ số này cho thấy sự phụ thuộc mức độ
việc làm vào yếu tố nhân khẩu, có nghĩa là hệ số sinh, chết và tốc độ tăng trưởng dân số,
được tính toán trên các con số thống kê, hệ số đó là một trong những con số biểu hiện sự
phồn vinh của xã hội.
+ Mức độ việc làm của dân số có khả năng lao động trong nền kinh tế - xã hội. Về
quan điểm kinh tế học, mức độ việc làm của dân số có khả năng lao động thể hiện, một
mặt là đòi hỏi của kinh tế-xã hội đối với người lao động, mặt khác là đòi hỏi của người lao
động về chỗ làm việc. Nó được tính theo hệ số phần trăm giữa tổng số dân cư đang hoạt
động chuyên nghiệp với số lượng toàn bộ dân số có khả năng lao động (nguồn nhân lực).
+ Tỉ lệ phân chia nguồn lao động xã hội theo lĩnh vực công ích xã hội. Khi tính được
hệ số việc làm bằng lao động chuyên nghiệp ta có thể xác định được hệ số việc làm bởi
việc học hành cũng như các dạng hoạt động công ích xã hội khác. Điều đó cho phép làm rõ
những tỉ lệ cần thiết.
+ Cấu trúc phân bố người lao động hợp lý theo ngành và theo khu vực kinh tế. Chỉ
tiêu này, thường được gọi là chỉ tiêu hợp lý, tỉ lệ phân chia tiềm năng lao động theo dạng
việc làm, ngành, khu vực kinh tế...
+ Chỉ tiêu gắn với việc tối ưu hoá cấu trúc chuyên môn nghề nghiệp củ người lao
động, cho phép làm rõ ràng sự phù hợp cấu trúc chuyên môn nghiệp vụ của dân số lao
động với cấu trúc chỗ làm việc, đồng thời cũng xác định hệ thống đào tạo cán bộ là phù
hợp với đòi hỏi của nền kinh tế.
Về hiệu quả việc làm có thể theo chỉ tiêu định mức thất nghiệp. Hiện nay, ở phương
Tây, việc làm đầy đủ và có hiệu quả đạt được khi có sẵn định mức thất nghiệp tự nhiên.
Định mức thất nghiệp tự nhiên là mức độ của nó mà kiềm chế mức lương thực tế và giá cả
không thay đổi với mức tăng trưởng năng suất lao động bằng không. Trong thực tế định
mức thất nghiệp được tính bằng cách tính tổng thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cấu
trúc. Phương pháp đơn giản nhất để tính định mức thất nghiệp tự nhiên là tính theo mức độ
của nó trong điều kiện lạm phát ở mức vừa phải. Vì vậy, không nên đánh giá việc làm đầy
đủ và có hiệu quả chỉ theo một phương pháp, mà để nhận được thông tin chính xác thì nên
sử dụng hệ thống các chỉ tiêu đã nêu trên.
- Việc làm hợp lý: là sự thoả mãn nhu cầu làm việc cho bất cứ ai có khả năng lao
động trong nền kinh tế quốc dân và phù hợp với trình độ, nguyện vọng của họ.
Việc làm hợp lý không những hàm chứa nội dung việc làm đầy đủ mà còn nói rõ
việc làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người lao động. Việc làm hợp
lý, do vậy có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế-xã hội cao hơn so với việc làm đầy
đủ. Trong quá trình thực hiện việc làm đầy đủ, cần từng bước, từng bộ phận thực hiện việc
làm hợp lý. Việc làm hợp lý phản ánh sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các
yếu tố con người với điều kiện vật chất của sản xuất và xã hội, hợp lý giữa lợi ích cá nhân
người lao động với lợi ích của xã hội.
Khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối. Vì
trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý không có
nghĩa là không có người thất nghiệp. Mục tiêu phấn đấu của chúng ta là việc làm, tiến tới
việc làm đầy đủ, việc làm hợp lý và tự do lựa chọn việc làm.
- Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất hoặc có thu
nhập cao hơn so với các công việc khác. Như vậy, những hoạt động lao động của con người
mang lại nguồn thu nhập chính cho bản thân và gia đình họ thì đó là việc làm chính. Hiện nay,
các hoạt động lao động được coi là việc làm chính, ví dụ những người lao động làm việc trong
các doanh nghiệp, các cơ quan đơn vị bởi vì thời gian và nguồn thu nhập của họ lại chiếm cao
hơn so với các công việc làm thêm ngoài giờ của họ. Mặc dù hiện nay, vấn đề làm thêm giờ
hoặc làm ở nhà do có cửa hàng của gia đình nhưng số thời gian mà họ việc trong một ngày
vẫn chiếm tỉ lệ cao tại các doanh nghiệp, cơ quan.
Mặt khác, những hộ gia đình có cơ sở sản xuất kinh doanh dựa vào nguồn sẵn có của
mình để mở một cửa hiệu mà nguồn thu nhập lại phụ thuộc rất lớn vào cửa hiệu thì khi đó,
công việc mà họ làm tại cửa hàng đó cũng được coi là việc làm chính.
- Việc làm phụ là việc làm thêm theo nhu cầu hoặc mong muốn của người lao động
để kiếm thêm thu nhập ở một công sở khác hoặc là ngay tại chính nơi mình đang làm việc.
Việc làm phụ được xếp vào nhóm những công việc kiêm nhiệm cả ở những công sở khác
và cả ở nơi đang làm việc; những công việc dịch vụ vào những lúc nhàn rỗi; buôn bán lặt
vặt... Trong số nhiều hình thức việc làm khác nhau thì việc làm phụ chiếm một vị trí đặc
biệt. Nó gắn với đặc thù bản chất việc làm và cả với tác động mà nó ảnh hưởng tới hoạt
động của thị trường lao động. Việc làm phụ là hình thức sử dụng lực lượng lao động bổ
sung vào hoạt động lao động, hay nói cụ thể là việc làm có thu nhập thêm ở doanh nghiệp
(công sở) khác hoặc là ngay tại nơi đang làm việc, mà đang được sử dụng rộng rãi trên thế
giới, trong đó có Việt Nam.
Việc làm thêm là nhu cầu chính đáng của người lao động để tăng thu nhập trong điều
kiện mức sống còn thấp như ở Việt Nam, đồng thời còn là mong muốn thể hiện khả năng
cạnh tranh của chính bản thân người lao động trên thị trường lao động và cũng là một “cầu
nối đặc biệt” đảm bảo thay thế chỗ làm việc mới trong tương lai mà không phải trải qua
thời kỳ thất nghiệp. Hiện nay, việc làm thêm tuỳ tiện ở một số ngành (như giáo dục, y tế),
sự khác biệt quá lớn giữa tiền lương và thu nhập của một bộ phận công chức dưới danh
nghĩa việc làm thêm của khu vực nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay lại ảnh
hưởng rất tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội nói chung và sự phát triển đồng bộ thị
trường lao động nói riêng.
Cùng với chính sách mới cho người lao động được tự do lựa chọn công việc và nghề
nghiệp thì việc làm phụ là một biểu hiện hợp lý. Tuy nhiên, ở Việt Nam, biểu hiện này về cơ
bản nó gắn với những xuất hiện tiêu cực như: việc làm không đầy đủ, thu nhập của người lao
động thấp, tăng trưởng kinh tế chưa bền vững. Xét từ góc độ này thì phát triển việc làm phụ
rộng rãi chỉ là biểu hiện tạm thời và nó sẽ giảm khi nền kinh tế - xã hội của đất nước phát triển
ổn định.
- Việc làm không trọn ngày hay việc làm dở dang có đặc điểm công việc trong chế độ
thời gian làm việc không trọn ngày làm việc hoặc tuần làm việc không đầy đủ, nghỉ phép
bắt buộc không hưởng lương theo chủ động của lãnh đạo công sở (doanh nghiệp), có thể
được ấn định từ phía công ty, người thuê lao động và thậm chí có thể từ sự thoả thuận
đồng ý của người lao động, đó là việc làm không trọn ngày tự nguyện. Thời gian gần đây,
cả chế độ này hay chế độ kia đều được sử dụng rộng rãi ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển.
Đối với người lao động, việc làm không trọn ngày hoàn toàn có thể chấp nhận được
trong hàng loạt các trường hợp: phụ nữ có con nhỏ, những lao động lớn tuổi, những người
tàn tật, thanh niên vừa đi học, vừa đi làm đều có lợi thế với loại hình việc làm này.
- Việc làm độc lập: là công việc độc lập theo chủ động cá nhân không thu nhận lao
động làm thuê khi sản xuất những hàng hoá tiêu dùng và các dịch vụ khác nhau. Đồng thời
người lao động làm chủ những phương tiện sản xuất nhất định và tự tổ chức công việc cho
mình. Trong giới hạn nhất định việc làm độc lập là tình thế phải chọn của người lao động
thất nghiệp (có thể do doanh nghiệp không đủ năng lực đảm bảo khả năng với mức lương
đầy đủ), nhưng điều đó không thể phủ nhận vai trò tích cực chủ động của nó.
- Việc làm tổng thể: là việc làm trong tất cả các lĩnh vực hoạt động lao động, cả trong
nền kinh tế của đất nước, cả trong các hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên nghiệp, trong
dịch vụ quốc phòng, kinh tế gia đình, trong các công sở, tôn giáo và trong cả trong các
dạng khác hoạt động công ích xã hội.
- Việc làm linh hoạt (thời gian linh hoạt): là việc làm tồn tại dưới nhiều dạng, hình
thức phổ biến là khi người lao động thoả thuận với người sử dụng lao động có thể tự lựa
chọn thời gian bắt đầu và kết thức công việc, đồng thời bắt buộc người lao động phải tuân
theo chế độ ngày làm việc hoặc quỹ thời gian theo tuần (tháng) đã quy định.
- Việc làm tạm thời: là những công việc theo hợp đồng hoặc là công việc khoán. Các
công ty quan tâm tới loại hình công việc này vì họ có thể tự do thay đổi số lượng lao động
làm thuê, giảm chi phí cho nhân viên bằng cách trả lương tạm thời thấp hơn cho người
đang làm việc, thay thế linh hoạt những người thường xuyên vắng mặt vì lý do nào đó,
tăng nhanh chóng số người làm việc. Việc làm tạm thời được sử dụng rộng rãi trong các
ngành thương mại, dịch vụ và xây dựng.
- Việc làm theo thời vụ: là loại hình việc làm gắn với những công việc theo thời vụ
trong nông nghiệp, xây dựng, khai thác rừng, ở các khu nghỉ mát, trong các ngành mía
đường, đánh bắt hải sản và nhiều ngành khác với công việc không đều trong năm. Với loại
hình này phần thời gian còn lại đáng kể trong năm người lao động không có việc làm. Về
bản chất nó là biến thể của việc làm tạm thời, nhưng có điểm khác ở chỗ là việc làm thời
vụ có thể lặp lại hàng năm ở chỗ này hay chỗ khác.
- Việc làm không tiêu chuẩn hoá: là loại việc làm bao gồm rất nhiều hình thức, một
trong số đó là làm việc tại nhà, khi người lao động nhận nguyên vật liệu, máy móc, công
cụ từ công ty rồi thường kỳ trao trả thành phẩm hoặc bán thành phẩm. Không ít người
quan tâm tới loại hình công việc này, bởi vì chính họ tự xác định được thời gian, khối lượng
công việc, vì chính họ xác định được thời gian, khối lượng công việc và có thể kết hợp với
việc khác như: chăm sóc con cái, vừa làm, vừa học thêm, làm các việc lặt vặt trong gia đình.
Mặt khác, công ty lại giảm được diện tích sản xuất, tiết kiệm chi phí lương mà những người
làm ở nhà thường được nhận ít hơn những người làm chính.
Hình thức quan trọng của việc làm không theo tiêu chuẩn hoá là những công việc xã hội,
được tổ chức bởi các dịch vụ việc làm và chính quyền địa phương dành riêng cho những người
thất nghiệp. Đó là những công việc tạm thời ít cần đến chuyên môn như: thu dọn địa hạt, tham
gia vào xây dựng đường giao thông...
1.1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của giải quyết việc làm cho thanh niên
1.1.2.1. Khái niệm giải quyết việc làm
Theo khái niệm việc làm nêu ở phần trên, việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù
hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để
sử dụng sức lao động đó. Rõ ràng tạo được việc làm cho người lao động hoặc tạo nhiều
việc làm luôn gắn với quá trình phát triển kinh tế xã hội, phát huy sức mạnh tiềm năng của
con người, phát huy trí tuệ người lao động để tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Chính vì vậy,
Văn kiện Đại hội X của Đảng đã nêu rõ “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát
huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân” 17. Vấn đề giải quyết việc
làm cho người lao động là cần thiết, không những mang tầm quốc gia mà vượt ra bên
ngoài khu vực và thế giới. Tuỳ thuộc vào các cách thức tiếp cận và mục đích nghiên cứu
khác nhau mà người ta đưa ra khái niệm về giải quyết việc làm:
Giải quyết việc làm là một quá trình tạo ra môi trường hình thành các chỗ làm việc
và sắp xếp người lao động phù hợp với chỗ làm việc để có các việc làm chất lượng, đảm
bảo nhu cầu của cả người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời đáp ứng được
mục tiêu phát triển đất nước.
Với khái niệm trên, việc giải quyết việc làm không chỉ có nhiệm vụ chức năng của
Nhà nước mà còn là trách nhiệm của xã hội, của các cơ quan doanh nghiệp và ngay bản thân
người lao động. Hiện nay, các chính sách của Nhà nước luôn quan tâm chú trọng đến tạo
công ăn việc làm cho người lao động thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các
chương trình, chính sách hỗ trợ tới tận hộ gia đình, các cá nhân sẵn sàng làm việc. Chính
vì vậy, chính sách nhà nước là một trong những tác động quan trọng rất mạnh đến việc làm
của người lao động như khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất như giảm thuế
tiền sử dụng đất, thuê nhà xưởng, văn phòng, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng điện đường, trường
trạm nhằm phục vụ cho các công trình sản xuất... Chính sách chính sách nhà nước tác động
toàn diện đến vấn đề giải quyết việc làm. Bên cạnh đó, các chương trình, chiến lược phát
triển, các hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp tác động trực tiếp đến giải quyết việc làm
cho người lao động như đào tạo nguồn lao động, tuyển dụng, bố trí sắp xếp lao động phù hợp
năng lực và yêu cầu...
Trong khái niệm trên, giải quyết việc làm còn có một ý nghĩa là tạo thêm được công
ăn việc làm mới cho người lao động. Ở đây là tạo thêm công ăn việc làm mới cho người
lao động mang tính chất là người lao động đang không có việc làm nay có việc làm chứ
không phải là người lao động đang đi làm có thêm được việc làm khác nữa. Với khái niệm
như vậy, theo cách hiểu trên thì giải quyết việc làm là tạo thêm việc làm mới từ các cơ chế
chính sách của Nhà nước cũng như việc tuyển dụng thêm lao động của các doanh nghiệp.
Ngoài ra, hình thành môi trường cho sự kết hợp các yếu tố sức lao động và tư liệu
sản xuất. Ở đó thông qua cơ chế chính sách khuyến khích thu hút của Nhà nước, thông qua
sự hoạt động đầu tư của nhà sản xuất nhằm tạo thêm nơi làm việc mà người lao động có
thể vận dụng sức lao động của mình mà sản xuất của cải cho xã hội.
1.1.2.2. Nội dung cơ bản của giải quyết việc làm
Từ khái niệm giải quyết việc làm như đã nêu trên, có thể thấy được nội dung cơ bản
của giải quyết viẹc làm đó là: Dự báo nguồn lao động, phân tích thực trạng giải quyết việc
làm và ban hành chính sách việc làm.
Một là, dự báo nguồn lao động. Đó là việc tính toán lượng lao động tương lai dựa
vào những giả thiết nhất định về xu hướng vận động của dân số nói chung và lượng lao
động nói riêng trong cả một quá trình dài hạn.
Bản thân dự báo nguồn lao động không chỉ đơn thuần là dự báo về số lượng lao động
trong khu vực hay trong một vùng là bao nhiêu trong những năm tiếp theo, mà thực chất
dự báo nguồn lao động là một khái niệm tổng hợp gồm nhiều vấn đề liên quan phản ánh
mối quan hệ và tác động qua lại đến nguồn lao động. Chẳng hạn, để có thể đưa ra được
một chính sách, cơ chế đúng đắn về giải quyết việc làm thì bản thân các quan hoạch định
chính sách rất cần biết về các thông tin dự báo về nguồn lao động như chất lượng lao động,
số lượng lao động có sự khác nhau hay nói cách khác có một khoảng cách quá xa hay
không tại cùng một thời điểm của các khu vực, đơn vị khác nhau..., ở các địa phương có
những điều kiện văn hoá, xã hội, tự nhiên khác nhau thì sẽ tác động tới chất lượng, số
lượng lao động và ý thức của người lao động như thế nào... Chính vì tính chất tổng hợp
này đã xác định việc lựa chọn được phương pháp dự báo và cũng như đưa ra được chính
sách chính xác.
Tuỳ thuộc vào mục đích của việc xây dựng, hoạch định chính sách người ta đưa ra
cách tính dự báo. Nếu theo tính chất dự báo nguồn lao động thì có thể dự báo theo thời
gian (ngắn hạn 5 năm, trung hạn 10 năm hay dài dạn trên 10 năm...) hay dự báo theo phạm
vi lãnh thổ (quốc gia, vùng, miền, địa phương...). Có thể dự báo nguồn lao động theo tính
chất nghề nghiệp, theo chất lượng lao động hay theo từng lĩnh vực.
Các kết quả dự báo được ứng dụng nhiều cho xây dựng, hoạch định chính sách phát
triển kinh tế xã hội, là một bộ phận của kế hoạch dài hạn và trung hạn cho mỗi đơn vị, địa
phương. Mức độ chính xác của kết quả dự báo phụ thuộc vào nguồn lực liên quan tới
nguồn lao dộng. Hay nói cách khác, các giả thiết đưa ra phụ thuộc vào khả năng làm thay
đổi các xu hướng tăng, giảm của tỉ lệ sinh, chết, di dân, xu hướng chất lượng sao cho phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội.
Hai là, phân tích thực trạng nguồn lao động. Thực chất phân tích nguồn lao động
thường được gắn liền với quá trình dự báo nguồn lao động. Bản thân của quá trình dự báo
nguồn lao động thì các số liệu cũng phản ánh theo một xu hướng nhất định nào đó. Tuy
nhiên, hiện nay để có được số liệu chính xác cũng như cần thiết cho quá trình nghiên cứu
và thực thi ban hành chính sách giải quyết việc làm thì cần một con số chính xác, phù hợp
với tiêu chí, tính chất của sự việc.
Việc phân tích thực trạng nguồn lao động thường được xem xét trên hai khía cạnh cơ
bản đó là: phân tích tổng quát chung và phân tích theo từng lĩnh vực, khía cạnh khác nhau.
Thông thường phân tích tổng quát chung là đưa ra các số liệu mang tính tổng quát
như sẽ có bao nhiêu người trong độ tuổi lao động, có bao nhiêu người hiện nay và dự báo
trong thời gian tới không có việc làm hay còn gọi là thất nghiệp, bao nhiêu người bước ra
khỏi độ tuổi lao động hoặc không còn khả năng lao động. Những điều đó ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển kinh tế xã hội của khu vực, có bị thiếu hụt lao động hoặc bị thất nghiệp
với mức tỉ lệ cao quá không. Với số liệu như vậy, người đọc có thể hình dung ra được mức độ
quan trọng của việc cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động.
Sự phân tích thực trạng nguồn lao động theo từng khía cạnh cụ thể hoặc lĩnh vực nào
đó. Ví dụ, cần đánh giá chất lượng nguồn lao động trong thời gian tới cũng như cần tạo
việc làm ở hiện tại thì cần dựa vào dự báo của chất lượng lao động như lao động được đào
tạo, không qua đào tạo, lao động có bằng nghề chuyên môn, lao động không có nghề
chuyên môn. Ngoài ra cũng có thể phân tích một cách kết hợp giữa chất lượng lao động
với từng lĩnh vực cụ thể. Với việc dự báo như vậy, sẽ giúp cho người ban hành chính sách
có thêm cơ sở để hoạch định chính sách một cách chính xác, đúng đắn.
Người ta sử dụng các chỉ tiêu thất nghiệp và tỉ lệ thất nghiệp để phân tích đánh giá giải
quyết việc làm tại một khu vực nào đó, trong đó tỉ lệ thất nghiệp thường được sử dụng hơn. Tỉ
lệ thất nghiệp sẽ cho ta biết được mức độ với với con số so sánh mang tính tương đối của
người lao động đã có việc làm. Với con số tỉ lệ thất nghiệp mà cho phép người hoạch định
chính sách có thể xem xét và đánh giá một cách tổng quát nhất tình hình giải quyết việc làm.
Có thể giúp cho nhà hoạch định chính sách so sánh mức độ tương đối giải quyết việc làm qua
các thời kỳ khác nhau tại một khu vực, địa phương nhất định nào đó.
Với sự đánh giá phân tích về giải quyết việc làm tại mỗi quốc gia, địa phương khác
nhau trên cơ sở đó mà người ta đặt ra mục tiêu mức độ cần giảm tỉ lệ thất nghiệp. Thông
thường, nhà hoạch định chính sách có xu hướng ban hành chính sách việc làm mà muốn
tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, có nghĩa là giảm tỉ lệ thất nghiệp
càng thấp càng tốt. Đó là một trong những điều đáng lưu ý qua tâm của nhà hoạch định
chính sách.
Tuy nhiên, theo các nhà kinh tế học, không thể giảm hết tỉ lệ thất nghiệp, tuy rằng đó
là lý tưởng nhưng cần tính đến khả năng thúc đẩy cũng như tạo động lực cho mọi người
lao động có ý thức vươn lên, tự giác trao đổi học tập và phấn đấu bồi dưỡng bản thân.
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, hiện tượng thất nghiệp vẫn xảy ra, theo nghiên cứu
cho thấy, để kích thích sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội thì cần duy trì mức tỉ lệ thất
nghiệp từ 3-5%. Đây cũng là điều khó khăn cho việc xây dựng và hoạch định chính sách, tính
toán sao cho vẫn đạt mục tiêu gia tăng năng suất lao động cao nhưng vẫn phải đảm bảo tình
hình xã hội trong nước có công ăn, việc làm cho người lao động. Điều đó đòi hỏi có sự phối
hợp giữa các chính sách của chính phủ, chính quyền địa phương có sự linh hoạt áp dụng cho
từng thời điểm sao cho phù hợp.
Ba là, ban hành chính sách việc làm. Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm,
tư tưởng, các mục tiêu, giải pháp và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động và tạo việc
làm cho lực lượng lao động đó. Hay nói cách khác, chính sách việc làm là sự thể chế hoá
pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan điểm,
phương hướng mục tiêu và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động.
Chính sách việc làm thực chất là một hệ thống các chính sách chung có quan hệ và
tác động đến việc mở rộng và phát triển việc làm cho lực lượng lao động của toàn xã hội, như
các chính sách: Khuyến khích phát triển các lĩnh vực, những ngành nghề có khả năng thu hút
nhiều lao động, chính sách tạo việc làm cho những đối tượng đặc biệt (lao động nữ, người tàn
tật, đối tượng tệ nạn xã hội...); chính sách hợp tác và xuất khẩu lao động đi nước ngoài...
1.1.2.3. Đặc điểm giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành
Đặc điểm của lao động thanh niên
Theo N. O’Higgins, thanh niên là lứa tuổi đang trong thời gian chuyển tiếp giữa thời
thiếu niên và trưởng thành 8. Tuy nhiên, theo cơ cấu lứa tuổi của dân số các nước trên
thế giới có những quy định khác nhau về độ tuổi thanh niên, thông thường từ 15 đến 24,
25, 29 hoặc 34 tuổi. Theo Liên hợp quốc lứa tuổi 15-34 là thuộc cơ cấu lao động trẻ.
Thanh niên thường tính trong độ tuổi 15-24 hàm ý ở độ tuổi này thanh niên gồm những
người rời ghế nhà trường sớm nhất từ 15 tuổi (kết thúc PTCS khi 15 tuổi) và kết thúc việc đào
tạo nghề nghiệp ở cấp ĐH lúc 24 tuổi. NhiÒu n-íc quy ®Þnh ë ®é tuæi 15-24, riªng ViÖt
Nam quy ®Þnh ë ®é tuæi 15-30 theo LuËt Thanh niªn n¨m 2005 28.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này xem xét TNNT có hộ khẩu thường trú ở
ngoại thành Hà Nội là lực lượng tham gia thị trường lao (trong lứa tuổi 15-30), có thể chia
ra làm các nhóm:
- Nhóm sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông không có điều
kiện học lên, tham gia ngay vào thị trường lao động. Đó là lao động phổ thông, chưa có
nghề;
- Nhóm sau khi tốt nghiệp các trường CĐ, ĐH, DN sẵn sàng tham gia vào thị trường
lao động. Đó là lao động có chuyên môn kỹ thuật (có nghề);
- Nhóm bị mất việc làm hoặc thất nghiệp đang có nhu cầu việc làm, sẵn sàng tham
gia hoặc trở lại thị trường lao động.
Thanh niên là lực lượng lao động trẻ có tiềm năng rất lớn. Tiềm năng lao động thanh
niên thể hiện ở thể chất, trí tuệ và tinh thần của từng cá nhân và cộng đồng thanh niên đang
độ sung sức và phát triển nhanh. Tiềm năng đó phụ thuộc vào các nhân tố bên trong và bên
ngoài rất đa dạng, tác động qua lại đan xen nhau, có thể mô tả bằng hình như sau:
BiÓu ®å 1.1: M« h×nh h×nh thµnh tiÒm n¨ng lao ®éng c¸ nh©n
cña thanh niªn 8.
TiÒm n¨ng lao ®éng c¸ nh©n thanh
niªn
ThÓ lùc, trÝ lùc,
t©m lùc
§iÒu kiÖn sèng vµ
lµm viÖc
N
h
÷
n
g
n
h
©
n
t
è
b
ª
n
n
g
o
µ
i
N
h
÷
n
g
n
h
©
n
t
è
b
ª
n
t
r
o
n
g
Yếu tố trình độ nghề nghiệp của thanh niên rất quan trọng khi tham gia thị trường lao
động, thậm chí quyết định năng lực cạnh tranh của họ và phải thông qua đào tạo, tích luỹ
kinh nghiệm trong cuộc sống và làm việc, thể hiện ở hình sau:
Trình độ nghề nghiệp được biểu hiện về mặt hình thức là trình độ đạt được qua đào
tạo nghề nghiệp; về mặt nội dung là trình độ nghề nghiệp thực tế thể hiện ở năng suất, hiệu
quả làm việc.
Lao động thanh niên có nhiều tiềm năng, tuy nhiên thanh niên đang trong độ tuổi
phát triển, chưa đến độ tuổi của lao động trưởng thành, nên lao động thanh niên có một số
hạn chế:
Biểu đồ 1.2: Mô hình về trình độ nghề nghiệp của lao động thanh niên 8.
TRÌNH ĐỘ NGHỀ NGHIỆP
Kiến thức nghề nghiệp
Kỹ năng thực tế,
kinh nghiệm làm việc
Kỹ năng thích ứng
nghề nghiệp, công việc
Cấp trình độ
và ngành đào tạo
Thâm niên làm việc
T
rì
n
h
đ
ộ
th
ự
c
tế
T
rìn
h
đ
ộ về h
ìn
h th
ứ
c
- Søc
khoÎ
- H×nh
thÓ
- Giíi
tÝnh
- Løa
- TrÝ
tuÖ
- Tinh
Tr×nh ®é
nghÒ
nghiÖp
- §iÒu kiÖn
¨n ë
- §iÒu kiÖn
lµm viÖc
- KhÝ hËu,
thêi tiÕt
- Lao động mới tăng thêm thường 100% là ở tuổi thanh niên, nhưng chủ yếu là lao
động phổ thông chưa qua đào tạo nghề nghiệp;
- Số lao động thanh niên qua đào tạo, khi tham gia thị trường lao động phải có
khoảng thời gian nhất định để làm quen, thích nghi với công việc và vẫn phải tiếp tục được
đào tạo;
- Kinh nghiệm tích luỹ trong thực tế còn hạn chế.
Chính vì những đặc điểm nêu trên, việc làm có vai trò rất lớn đối với thanh niên. Việc
làm cho lao động xã hội nói chung, cho thanh niên nói riêng là vấn đề toàn cầu và cũng là
vấn đề xã hội bức xúc, gay gắt nhất của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Đặc điểm của giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành
Để hiểu hơn về việc làm cho thanh niên ngoại thành cần nghiên cứu những nét đặc
trưng của giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành. Xã hội càng phát triển thì cơ cấu
việc làm cho thanh niên cũng có sự biến đổi, trong phạm vi nghiên cứu của mình, tác giả
có thể đưa ra một số đặc điểm cở bản của giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành
như sau:
- Xu hướng giảm việc làm của lao động có trình độ thấp, đặc biệt là trong nông
nghiệp và những ngành, nghề truyền thống đang mất dần do áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ mới.
- Xu hướng tăng việc làm cho các nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các khu
công nghiệp, khu chế xuất, vùng kinh tế động lực…
Đối với nước đang phát triển thì trên tổng thể là một thị trường dư thừa lao động,
nhất là lao động phổ thông, tuy nhiên lại thiếu lao động trình độ cao. Kết quả là tình
trạng thiếu việc làm và thất nghiệp luôn tồn tại, trong đó thanh niên thất nghiệp
thường chiếm tỷ lệ cao nhất. Nguyên nhân thanh niên gặp khó khăn tìm việc làm trên
thị trường lao động chủ yếu là do:
- Cung lao động rất lớn trong khi cầu lao động thanh niên lại rất chọn lọc.
- Thiếu sự chuẩn bị đào tạo nghề nghiệp, tỷ lệ được đào tạo thường rất nhỏ, còn đa số
thanh niên, nhất là TNNT chưa có điều kiện tiếp cận các cơ hội đào tạo nghề nghiệp trước
khi bước vào thị trường lao động.
- Đối với những người được đào tạo, cũng gặp phải vấn đề chưa ăn khớp, hoặc bất
cập của hệ thống đào tạo với yêu cầu của thị trường lao động, nên khả năng hội nhập thị
trường lao động của thanh niên cũng gặp khó khăn.
- Thanh niên chưa đủ thời gian để tích luỹ kinh nghiệm, khi vào thị trường lao động
họ phải cạnh tranh quyết liệt với lao động ở độ tuổi trưởng thành, có nhiều kinh nghiệm
hơn trong nghề nghiệp.
Do áp lực của kinh tế thị trường, người sử dụng lao động yêu cầu lao động thanh niên
phải có trình độ nghề nghiệp, kinh nghiệm làm việc, trong khi đáp ứng của lao động thanh
niên đối với yêu cầu này còn hạn chế, mặt khác khi tuyển lao động thanh niên, người sử
dụng lao động cũng phải cân nhắc tính hiệu quả, vì phải tăng chi phí đào tạo lại, đào tạo bổ
sung kỹ năng mới cho họ phù hợp với công nghệ đang áp dụng.
1.1.2.4. Ý nghĩa của giải quyết việc làm cho thanh niên
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi quốc gia
nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Chính sách việc làm
vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt chính trị xã hội cũng như giáo dục
con người. Việc hoạch định và thực thi không tốt chính sách việc làm sẽ dẫn đến những
hậu quả, những thiệt hại trực tiếp cả về kinh tế, chính trị và xã hội cho đất nước.
Trước hết, giải quyết việc làm đảm bảo việc làm cho thanh niên tham gia hoạt động
kinh tế, kết nối họ vào các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, tạo khả năng cho họ nhận được
những khoản thu nhập thiết yếu để tái sản xuất sức lao động của chính bản thân mình,
cũng như nuôi sống gia mình. Tạo nhiều việc làm tạo điều kiện cho thanh niên dễ dàng lựa
chọn công việc phù hợp, tạo năng suất cao hơn và có cơ hội nhận được thu nhập cao hơn.
Thông qua giải quyết việc làm cho thanh niên, các doanh nghiệp, công ty, người sử
dụng lao động được lựa chọn sức lao động trẻ cần thiết theo khối lương và chất lượng đòi
hỏi của doanh nghiệp. Nhưng không phải lúc nào cũng sẵn có lực lượng thanh niên cần
thiết trong một khu vực, chính vì vậy nhờ việc giải quyết việc làm sẽ cung cấp đầy đủ các
thông tin về ngành nghề, nơi nào đang dư thừa lao động thanh niên và nơi nào thì khan
hiếm lao động trẻ, cũng như việc thanh niên cần phải trang bị những kiến thức và kỹ năng
nghề nghiệp gì để có thể kiếm được việc làm.
Giải quyết việc làm cho thanh niên có quy hoạch, kế hoạch sẽ giúp cho cả cho người sử
dụng lao động trẻ cũng như bản thân thanh niên có những kế hoạch hoạt động trong tương lai
của họ. Trong thực tế, những năm vừa qua đã cho chúng ta thấy rằng, lao động trẻ có tay nghề
cao, có óc sáng tạo, năng động, biết thích ứng nhanh với môi trường mới thì sẽ không bao giờ
thiếu việc làm. Mặc khác, giải quyết việc làm cho thanh niên sẽ tạo ra môi trường làm việc
thuận lợi, thể hiện sự quan tâm nhất định về thoả mãn cần thiết và đảm bảo quan hệ qua lại
trong tập thể lao động , cũng như giữa chủ doanh nghiệp với lao động trẻ.
Giải quyết việc làm cho thanh niên còn đảm bảo việc phân chia, sắp xếp lại lao động
trẻ hoạt động kinh tế thường xuyên trong trường hợp cải cách, sắp xếp lại các doanh
nghiệp. Ở Việt Nam, vẫn đang cổ phẩn hoá, sắp xếp lại các doanh nghiệp đã làm cho lao
động trẻ mất việc. Nhưng bên cạnh đó, cũng cho phép thành lập nhiều doanh nghiệp mới đã
giải quyết nhiều chỗ việc làm mới cho lao động trẻ. Tỷ trọng lao động trẻ trong các thành phần
kinh tế, các ngành nghề, các khu vực dần thay đổi theo hướng hợp lý, thích ứng và phù hợp.
Tóm lại, giải quyết việc làm cho thanh niên có quy hoạch, kế hoạch hợp lý thì sẽ có
tác động tích cực đến kinh tế - xã hội nói chung và bản thân thanh niên nói riêng. Nhưng,
nếu không có sự sắp xếp, giải quyết hợp lý, thì giải quyết việc làm cho thanh niên sẽ tạo
cho bản thân thanh niên tính ỷ lại, trông chờ vào sự sắp xếp công việc của Nhà nước, là
thói quen ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ người Việt Nam.
1.2. HỖ TRỢ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN KHU VỰC
NGOẠI THÀNH
1.2.1. Sự cần thiết hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên khu vực ngoại
thành
Xuất phát từ những hạn chế của khu vực ngoại thành như sự chuyển dịch cơ cấu các
ngành trong nền kinh tế, dân số bước vào độ tuổi lao động tăng, đất đai bị thu hẹp do ảnh
hưởng của đô thị hoá... sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm của thanh niên ngoại thành.
Nếu thanh niên ngoại thành không được giải quyết tạo nhiều việc làm, sẽ gây mất ổn định
an ninh, trật tư xã hội, người ảnh hưởng đến đời sống của họ và gia đình họ do không có
thu nhập, từ đó ảnh hưởng đến tình hình phát triển kinh tế khu vực ngoại thành nói chung.
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động TNNT sang làm các ngành phi nông nghiệp (công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ) do sự tác động của đô thị hoá. Mặc dù xu hướng tăng lao
động thanh niên phi nông nghiệp trong khu vực nông thôn còn chậm, nhưng tỉ lệ TNNT
hàng năm bước vào tuổi lao động cao, do giai đoạn trước tỉ lệ tăng dân số nông thôn cao.
Ở khu vực ngoại thành chậm chuyển sang sản xuất hàng hoá, các loại thị trường ít phát
triển, tăng trưởng kinh tế chậm, ảnh hưởng đến cơ cấu lao động TNNT. Tỷ lệ TNNT qua
đào tạo tập huấn thấp hạn chế khả năng phát triển các loại hình doanh nghiệp ở nông thôn.
Thu hút được ít đầu tư của các cấp chính quyền, tư nhân và các công ty nước ngoài cho
phát triển ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng khó khăn về cơ sở hạ tầng và điều kiện tư
nhiên, đầu tư ít có khả năng sinh lãi. Những vấn đề này sẽ tạo thành vòng luẩn quẩn thiếu
việc làm và nghèo đói.
Sự xuất hiện nhiều ngành nghề mới đòi hỏi TNNT phải có sự đổi mới, nâng cao chất
lượng để thích ứng, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Thêm vào đó, lực lượng
TNNT chủ yếu là sản xuất nông nghiệp trong điều kiện lạc hậu, trình độ sản xuất hàng hoá
thấp, năng suất lao động thấp nên chất lượng lao động của TNNT nhìn chung là thấp. Bộ
phận lớn hộ nông dân chưa có khả năng đầu tư cho giáo dục, đào tạo, cho nên lao động được
đào tạo ít, trình độ văn hoá thấp nên thanh niên ngoại thành ít có cơ hội tham gia hiệu quả vào
thị trường lao động.
Sự di chuyển lao động TNNT ra thành thị là xu thế không thể đảo ngược. Nó có tác
dụng giảm sức ép về việc làm tại các vùng nông thôn và cung ứng lao động cho các công
nghiệp, khu chế xuất tập trung... Sự di chuyển lao động TNNT dẫn đến hiện tượng giảm
bớt một bộ phận lao động nông thôn, mà trong đó, đa số là lao động vừa tốt nghiệp các cấp
phổ thông chưa qua đào tạo. Lao động TNNT nhập cư vào khu vực ngoại thành là nguồn
lực quan trọng đảm bảo cho sự phát triển quy mô các ngành nghề, sự hoạt động sôi nổi của
thị trường lao động, có tác dụng làm biến đổi chất lượng lao động nông thôn, dần có vị trí
mới trong hệ thống sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, sự di chuyển lao động
TNNT một cách ồ ạt vào ngoại thành có mặt trái, đó là gây nên tình trạng quá tải lao động
giản đơn tại các khu vực ngoại thành, quá tải về cơ sở hạ tầng và gây ảnh hưởng đến cảnh
quan môi trường đô thị.
Quy mô lao động ngành nghề truyền thống, nghề tiểu thủ công nghiệp tăng lên và có
vai trò quan trọng trong việc đảm bảo việc làm và thu nhập của lao động nông thôn. Các
làng nghề được cơ giới hoá, điện khí hoá, sản xuất hướng vào xuất khẩu nhiều hơn, có vai
trò lớn trong phát triển lao động thanh niên phi nông nghiệp ở nông thôn. Vấn đề đặt ra là
phát triển, đào tạo nghề cho thanh niên đủ cung ứng lao động trẻ cho các làng nghề và các
cơ sở tiểu thủ công nghiệp. Đây là một trong những giải pháp quan trọng để cải thiện tình
hình thất nghiệp của TNNT khi nông dân bị thu hồi đất, mất việc làm, vừa làm giảm bớt
tình trạng di chuyển lao động TNNT ra khu vực thành thị tìm việc làm.
Lao động nông thôn nói chung và lao động TNNT nói riêng nước ta có thu nhập
thấp, trong khi nền kinh tế đòi hỏi các hộ gia đình nông thôn phải đầu tư lớn hơn cho đào
tạo, phát triển nhân lực để chuyển hướng sang phi nông nghiệp. Các chính sách hỗ trợ
hoặc phát triển hệ thống tín dụng ưu đãi cho đào tạo TNNT từ Nhà nước còn hạn chế, chưa
có tác động lớn nâng cao chất lượng lao động TNNT.
Tóm lại, thanh niên có nhiều việc làm hơn sẽ đóng góp tích cực vào sự phát triển
kinh tê - xã hội, tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế và thu nhập dân cư, đồng thời
kinh tế tăng trưởng cũng làm tăng đầu tư và qua đó làm tăng việc làm. Ngược lại, nếu
thanh niên ngoại thành thất nghiệp kéo dài thì sẽ ảnh hưởng đến mức sống cá nhân và gia
đình họ, từ đó sẽ ảnh hưởng chung cho xã hội. Thất nghiệp đại chúng có thể trở thành yếu
tố mất ổn định, dẫn đến đình trệ, thoái hoá từng khu vực và thậm chí còn gây ra những xáo
động trong xã hội. Vì vậy, giải quyết việc làm luôn được xem là mục tiêu kinh tế - xã hội
quan trọng trong khi hoạch định chiến lược phát triển cũng như xây dựng chính sách kinh
tế - xã hội. Như vậy, giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con
người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính
đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân.
1.2.2. Những nội dung cơ bản về hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên khu
vực ngoại thành
Trong hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành yếu tố chính sách là vô
cùng quan trọng và có tính quyết định. Mỗi chính sách cụ thể, thích hợp mang tính thực
tiễn và kịp thời sẽ đưa ra định hướng đúng đắn, tạo ra động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho sự
phát triển ở cả bề rộng lẫn bề sâu, cả trước mắt và lâu dài. Trong việc hỗ trợ giải quyết
việc làm cho thanh niên ngoại thành, chính sách là một yếu tố quan trọng hành đầu, có tính
xuyên suốt và rất quyết định cho sự thành công. Song yếu tố chính sách lại cần rất cụ thể,
rất thiết thực, phải đồng bộ và phải kịp thời.
Để hỗ trợ giải quyết nhiều việc làm cho thanh niên ngoại thành, chúng ta cần phải có
cả một hệ thống chính sách được thực hiện đồng bộ.
1.2.2.1. Hỗ trợ tạo việc làm mới cho thanh niên
- Phát triển sản xuất, kinh doanh, phát triển nghề truyền thống, chuyển đối cơ cấu
kinh tế ở lhu vực ngoại thành tạo việc làm cho thanh niên ngoại thành được tạo điều kiện
vay từ Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm. Chính sách thị trường giúp cho việc sản xuất
kinh doanh của thanh niên ngoại thành phát triển thuận lợi như giúp quảng bá, trưng bày
sản phẩm, giới thiệu ấn phẩm, tham gia hội chợ.
- Tạo điều kiện về thủ tục đầu tư và xây dựng, đền bù giải phóng mặt bằng, ưu đãi về
tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất đối với các tổ chức, cá nhân có các dự án
xây nhà cho thuê, bán cho thanh niên ngoại thành theo phương thức trả góp với thời hạn và
giá cả hợp lý ở những khu vực ngoại thành tập trung nhiều lao động trẻ.
- Tư vấn, hỗ trợ thanh niên ngoại thành lập nghiệp, khởi sự doanh nghiệp, đào tạo, bồi
dưỡng về khởi sự doanh nghiệp, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật, biểu dương, tôn vinh
các doanh nghiệp trẻ tiêu biểu, làm kinh tế giỏi.
- Khuyến khích thanh niên ngoại thành đi lao động có thời hạn ở nước ngoài.
- Chính sách thuế, tín dụng ưu đãi để đào tạo bồi dưỡng doanh nhân trẻ và khởi sự
doanh nghiệp, mở rộng làng nghề, phát triển sản xuất kinh doanh; tự tạo việc làm, xây
dựng xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh thu hút thanh niên ngoại thành vào làm việc.
- Hướng dẫn hỗ trợ thanh niên ngoại thành lập dự án, Ngân hàng Chính sách Xã hội
có trách nhiệm thẩm định dự án; Đoàn Thanh niên phối hợp với ngành lao động, thương
binh và xã hội và các doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động để vận động, tư vấn,
hướng dẫn thanh niên ngoại thành vay vốn xuất khẩu, tham gia hỗ trợ ngân hàng trong quá
trình thu hồi vốn vay.
1.2.2.2. Hỗ trợ kết nối thanh niên ngoại thành với các cơ sở sử dụng lao động
- Phát triển các Trung tâm giới thiệu, xúc tiến việc làm cho thanh niên ngoại thành.
Hướng dẫn, định hướng các Trung tâm này trong việc:
+ Thu thập, phân tích và cung ứng thông tin về thị trường lao động, bao gồm: nhu cầu
tuyển lao động, tiêu chuẩn lao động, nhu cầu cần việc làm, tiền lương, tiền công trên địa bàn
thành phố và cả nước cho thanh niên ngoại thành.
+ Tư vấn về việc làm, học nghề, chính sách có liên quan đến quan hệ lao động cho
thanh niên ngoại thành Hà Nội
+ Tổ chức các chương trình kết nối giữa nhà trường với doanh nghiệp để giới thiệu
việc làm cho thanh niên ngoại thành; cung ứng và tuyển dụng lao động trẻ theo yêu cầu
của doanh nghiệp.
+ Cung ứng các dịch vụ lao động là thanh niên ngoại thành cho các văn phòng đại
diện, tổ chức, cá nhân nước ngoài theo quy định của pháp luật và định hướng của thành
phố. Cung cấp các thông tin cần biết cho thanh niên Việt Nam đang lao động ở nước
ngoài.
+ Thực hiện tư vấn quan hệ lao động, tuyên truyền phổ biến pháp luật lao động, tư
vấn pháp luật thanh niên ngoại thành và người sử dụng lao động.
+ Tổ chức dạy nghề và liên kết dạy nghề cho thanh niên khu vực ngoại thành.
- Hỗ trợ kinh phí cho các huyện ngoại thành tổ chức các hội chợ việc làm tạo điều
kiện cho thanh niên ngoại thành có nhiều cơ hội gặp gỡ với người sử dụng lao động. Đảm
bảo việc tiếp cận hàng ngày của thanh niên ngoại thành với thông tin về việc làm. Liên kết
giữa công tác giới thiệu việc làm - bảo hiểm thất nghiệp và hội chợ việc làm đảm bảo cập
nhật thông tin hàng ngày về thị trường lao động cho thanh niên ngoại thành. Nhà nước,
chính quyền thành phố nên tạo điều kiện để xã hội hoá hội chợ việc làm cho khu vực ngoại
thành, hợp đồng với các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực để tổ chức Chợ việc làm.
- Định hướng các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, internet... về việc
giới thiệu việc làm, kết nối giữa thành niên ngoại thành với những nhà tuyển dụng. Hỗ trợ
tư vấn trực tuyến qua các phương tiện này vào thời gian nhất định (hàng tháng), để doanh
nghiệp có thể tuyển dụng ở nhiều vị trí vì công việc, thanh niên ngoại thành có thêm nhiều
cơ hội việc làm nếu không có điều kiện đến trực tiếp.
1.2.2.3. Hỗ trợ nâng cao chất lượng lao động
- Hỗ trợ trong việc đào tạo, hướng nghiệp, DN cho TNNT, đặc biệt là đối với nhưng
thanh niên có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông và trung học cơ sở; tạo điều kiện cho
TNNT có cơ hội rộng rãi cho sự lựa chọn các ngành, nghề đào tạo 2-3 năm hoặc những
khoá ngắn hạn....để nâng cao trình độ cho thanh niên ngoại thành.
- Hỗ trợ để chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tổ chức sản xuất kinh doanh cho
thanh niên ngoại thành.
- Tập trung dạy nghề cho thanh niên ngoại thành, bộ đội xuất ngũ. Khuyến khích đào
tạo nghề tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất như có chế độ ưu đãi đối với doanh nghiệp đã
tạo điều kiện để người lao động được nâng cao trình độ tay nghề.
- Chú trọng giáo dục ý thức kỷ luật, kỹ năng lao động, tay nghề cho thanh niên ngoại
thành đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; đồng thời có biện pháp quản lý, giáo dục, giúp
đỡ họ.
- Bảo đảm cơ cấu hợp lý trong đào tạo công nhân kỹ thuật, trung cấp chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học ở khu vực ngoại thành. Có chính sách khen thưởng, sử dụng
và đãi ngộ hợp lý để thu hút tài năng trẻ ở khu vực ngoại thành.
1.2.2.4. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng dịch vụ thị trường lao động ở khu vực
nông thôn
- Thúc đảy hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo hành lang pháp lý phù hợp,
đảm bảo đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động.
- Phát triển sản xuất kinh doanh, nhất là những ngành, lĩnh vực có khả năng thu hút
nhiều lao động trẻ ngoại thành như: phát triển mạnh khu vực dân doanh, phát triển kinh tế
trang trại, hợp tác xã, khôi phục và phát triển các làng nghề tiểu thủ công, mỹ nghệ sản
xuất sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao
động nông thôn theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
- Phát triển mạnh hệ thống dạy nghề với đa cấp trình độ, chuyển từ dạy nghề trình độ
thấp sang trình độ cao, mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3
cấp trình độ (sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề) và liên thông giữa các cấp
trình độ; đào tạo theo định hướng gắn với cầu lao động, quy hoạch hệ thống các trường
dạy nghề, trung tâm dạy nghề cho khu vực ngoại thành.
- Hoàn thiện hệ thống giao dịch của thị trường lao động ở khu vực ngoại thành: đầu
tư nâng cao năng lực hoạt động cho các Trung tâm giới thiệu việc làm; xây dựng cơ sở dữ
liệu lao động-việc làm trong giai đoạn 2008-2010; điều tra thực trạng việc làm và thất
nghiệp trong thanh niên nông thôn... đồng thời đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ làm công tác lao động-việc làm, cho cán bộ các Trung tâm giới thiệu việc làm.
- Mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước: mở rộng thị trường xuất
khẩu lao động sang các khu vực, các nước phù hợp với lao động Việt Nam; ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật về xuất khẩu lao động, tập trung đào tạo nghề cho xuất
khẩu lao động, nâng cao tay nghề, ngoại ngữ, ý thức chấp hành pháp luật, tác phong
công nghiệp cho thanh niên ngoại thành.
Các chính sách cần phù hợp với thực tế phát triển của từng khu vực nông thôn, cần
phải có những điểm riêng, không chỉ có nội dung chung chung. Các chính sách phải có
tính khả thi cao và thiết thực với việc hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên thì mới
mang lại hiệu quả.
Trong năm 2008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 25-
NQ/TW ngày 25/7/2008 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá 17; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 103/2008/QĐ-TTg ngày 21 tháng 7 năm 2008 phê duyệt Đề án Hỗ trợ
Thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008-2015 40, đây là những văn bản quan
trọng thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta đối với thanh niên nói chung và thanh
niên nông thôn nói riêng. Song, các cấp chính quyền các tỉnh, thành phố trong cả nước
cũng cần chủ động có những cơ chế, chính sách đặc thù, triển khai đồng hỗ trợ giải quyết
việc làm cho TNNT.
Hiện nay, thành phố Hà Nội chưa có được các cơ chế, chính sách cụ thể để hỗ trợ
giải quyết việc làm cho TNNT nên nhiều vấn đề về việc làm cho thanh niên ngoại thành
Hà Nội trong những năm vừa chưa được giải quyết (sẽ được phân tích sâu hơn ở chương
II). Khi chưa có chính sách thì khó thực hiện được các giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm
cho thanh niên ngoại thành vì nó không được sự đồng thuận xã hội trong hỗ trợ giải quyết
việc làm cho thanh niên.
Chương 2
THỰC TRẠNG HỖ TRỢ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO THANH NIÊN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
2.1. ĐIỀU KIỆN VÀ THỰC TRẠNG VỀ VIỆC LÀM CỦA THANH NIÊN
NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và văn hoá - xã hội tác động đến việc làm
2.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú. Với vị trí
và địa thế đẹp và thuận lợi, Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học lớn,
đầu mối giao thông quan trọng của cả nước.
Là Thủ đô của cả nước, Hà Nội có điều kiện thuận lợi trong giao lưu và hợp tác quốc
tế, nhanh chóng được tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ thuật và tinh hoa văn hoá
của thế giới, đây là cơ hội lớn cho người lao động Thủ đô có thể tiếp thu và bắt kịp với
trình độ quản lý, sử dụng các công nghệ hiện đại của thế giới.
Với chủ trương phát triển kinh tế ngoại thành, xây dựng nông thôn mới từng bước
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, cùng với quá trình đô thị hoá nhanh trong những
năm qua, nông thôn Hà Nội đã có những bước chuyển mình rõ rệt từ nông thôn cổ truyền
sang nông thôn đô thị.
Tổng diện tích đất tự nhiên của Hà Nội (cũ) là 920,97km2, nội thành chiếm 19,4% và
ngoại thành chiếm 80,6% (xấp xỉ 0,28% diện tích của cả nước) 6, tr.9. Năm 2006, ngoại
thành Hà Nội có 5 huyện với 98 xã, 3 thị trấn và có 256 nghìn hộ gia đình 15.
Giai đoạn từ 1992-2008 so với giai đoạn 1979-1991, Hà Nội nói chung, các huyện
ngoại thành nói riêng bị thu hẹp về diện tích tự nhiên và quy mô các đơn vị hành chính, do
việc tách lập nên các quận mới và trả một số huyện về các tỉnh cũ sau một thời gian sáp
nhập.
Từ năm 1954 đến 7/2008, thành phố Hà Nội đã trải qua 28 lần biến động địa giới và
đơn vị hành chính. Nó là kết quả của quá trình đô thị hoá và phân định lại địa giới hành
chính cho phù hợp với yêu cầu mới. Sự biến động đó một mặt phản ánh xu thế tất yếu của
sự phát triển kinh tế, xã hội, mặt khác, nó là hệ quả tất yếu của một giai đoạn lịch sử nước
ta - giai đoạn tổ chức lại sản xuất. Sự biến động này đã làm ảnh hưởng đến cơ cấu ngành
nghề lao động ở thủ đô, đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó có vấn đề giải quyết
hỗ trợ việc làm cho người lao động nói chung và TNNT nói riêng
Về địa hình, Hà Nội thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Sự chênh
lệch độ cao không lớn, địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ thuận lợi cho việc sản xuất và
quản lý sản xuất. Tuy nhiên, sự khác biệt địa hình các huyện Sóc Sơn, một phần huyện
Đông Anh có địa hình gò đồi xen kẽ với đất vùng trũng gò đồi hoặc huyện Thanh Trì và
quận Hoàng Mai có nhiều hồ lớn và nông... cũng tạo nên sự khác biệt về việc làm và quản
lý hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên.
Về đất đai, theo số liệu thống kê năm 2004, diện tích đất để phát triển nông nghiệp là
47.017 ha, chiếm 51,1% diện tích đất tự nhiên của thành phố Hà Nội. Trong đó có 37.299
ha canh tác, 3.120 ha diện tích mặt nước nuôi thuỷ sản, trên 100 km sông ngòi và 6.598 ha
đất lâm nghiệp [15].
2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Trong các năm thực hiện công cuộc đổi mới, Thủ đô Hà Nội có sự phát triển nhanh
chóng về kinh tế - xã hội, có vai trò to lớn trong thúc đẩy phát triển toàn vùng và cả nước.
Thủ đô Hà Nội đã phát huy các lợi thế về nguồn lực có trình độ văn hoá và trình độ chuyên
môn kỹ thuật; tập trung phần lớn các cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ; hệ thống
đào tạo, DN khá phát triển; là trung tâm văn hoá chính trị của cả nước... để phát triển kinh
tế - xã hội và hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu. Các thành tựu đạt được của Thủ
đô Hà Nội được thể hiện ở một số chỉ tiêu cơ bản về phát triển kinh tế của Hà Nội như sau:
Tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Thủ đô Hà Nội có tốc độ tăng hàng năm khá cao,
tương đối ổn định trong nhiều năm (xem biểu đồ 2.1)
Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng GDP của Hà Nội và cả nước từ 2002 - 2007
12.0811.511.1611.1211.110.3
8.488.28.47.69
7.24
7.0
0
2
4
6
8
10
12
14
2002 2003 2004 2005 2006 2007
T
ốc
đ
ộ
tă
ng
G
D
P
(
%
)
Tốc độ tăng của Hà Nội Tốc độ tăng GDP của cả nước
Nguồn: Cục Thống kê Thành phố Hà Nội [6].
Nhịp độ tăng trưởng GDP trong thời kỳ 1991-1995 là 12,5%; 1996-1998 là 11,6%.
GDP đầu người đạt 660 USD (1998), nhịp độ tăng trưởng 5%/ năm. Trong những năm
thực hiện chủ trương đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Hà Nội có tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả
nước. Năm 2002, tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước là 7,0% và Hà Nội là 10,3%, con số
này năm 2005 là 8,4 và 11,16%, năm 2007 là 8,48 và 12,08%. Vị thế kinh tế của thành phố so
với cả nước ngày càng cao, tổng sản phẩm nội địa của thành phố Hà Nội trong GDP cả nước
năm 2002 là 7,75%, năm 2003 là 8,15% và năm 2006 là 8,96%.
Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 2006 (tính theo giá so sánh
năm 1994) so với năm 2002 tăng 102,96% 13 (trung bình 20,6%/năm) riêng năm 2007
tăng 21,4% so với năm 2006 14; nhiều ngành, nghề, truyền thống được khôi phục phát
triển thành các làng nghề, vấn đề lao động, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của
người lao động từng bước được giải quyết.
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế của Hà Nội thời kỳ 2002-2007
Chỉ tiêu
Đơn
vị
tính
2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng sản phẩm
nội địa (giá hiện
hành)
Triệu
đồng
41944 49090 59210 76006 90929 107743
Dân số trung
bình
1000
người
2926,6 3007,5 3088,7 3182,7 3283,6 3394,6
Tổng sản phẩm
nội địa bình quân
đầu người (giá
hiện hành)
triệu
đồng
14,3 16,3 19,2 24,6 27,7 31,8
Giá trị sản xuất
công nghiệp bình
quân đầu người
(giá 1994)
1000
đồng
8373,4 10133 11849 13482 15379,8
17912,
5
Giá trị sản xuất
nông nghiệp bình
quân đầu người
(giá 1994)
1000
đồng
475,6 476,5 467,2 478,8 458,0 454,8
Nguồn: Cục Thống kê Thành phố Hà Nội, 2002-2007 6.
Trong những năm gần đây, nông nghiệp và nông thôn ngoại thành Hà Nội đã có
những chuyển biến, về sản xuất nông nghiệp có sự tăng trưởng nhưng tốc độ tăng chậm
hơn công nghiệp. Giá trị sản xuất nông nghiệp (theo giá so sánh năm 1994) từ năm 2002
đến năm 2006 chỉ tăng 8,03% 13 (trung bình là 1,6%), riêng năm 2007 so với năm 2006
tăng 2,44% 14. Hàng năm, có khoảng 1500-3000 ha đất nông nghiệp được chuyển đổi
mục đích sử dụng. Diện tích trồng cây lương thực có hạt từ 62 nghìn ha năm 2002 còn
52,1 nghìn ha vào năm 2007, tuy nhiên do thâm canh, tăng năng suất nên sản lượng lương
thực có hạt không giảm mà ngày một tăng lên (từ 37,61 tạ/ha năm 2002 lên 40,67 tạ/ha
năm 2007).
Hệ quả là dân cư làm nghề nông giảm đi nhanh chóng trong những năm qua. Nhiều
người dân làm nghề nông đã chuyển đổi sang các ngành nghề phi nông, lâm, thuỷ sản khác
(xem bảng).
Bảng 2.2: Biến động của tỷ trọng lao động nông, lâm, thuỷ sản
trong dân cư 2001, 2006
Đơn vị tính:%
Các chỉ tiêu 2001 2006
- Tỷ lệ hộ NLTS/Tổng số hộ 57,2 37,0
- Nhân khẩu NLTS/ Tổng số nhân khẩu 59,4 40,6
- Lao động trong độ tuổi/ Tổng số LĐ trong độ tuổi 58,3 40,3
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 15.
Sự phát triển của các ngành, một mặt đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cho thành
phố, mặt khác đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố vận động tích cực
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và xây
dựng. Cơ cấu kinh tế của thành phố với ngành công nghiệp và dịch vụ là chủ yếu. Điều
này được thể hiện ngay trong sự chuyển dịch cơ cấu hộ gia đình khu vực nông thôn của
Thủ đô: hộ nông nghiệp giảm từ 57,2% năm 2001 xuống còn 37,1% năm 2006 và cơ cấu
các loại hộ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ tăng lên. Xét trong nội bộ loại hộ nông,
lâm, thuỷ sản ở khu vực nông thôn cũng có sự chuyển dịch về cơ cấu ngành, nghề theo
hướng tích cực, nhưng số lượng và tỷ trọng hộ lâm nghiệp và thuỷ sản còn quá nhỏ. Tính
đến thời điểm 1/7/2006, khu vực nông thôn Hà Nội có 94.593 hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản (nông nghiệp: 93.265 hộ, lâm nghiệp: 136 hộ, thuỷ sản: 1192 hộ), giảm 59,6 nghìn hộ
(-38,7%) so với năm 2001 (cả nước: năm 2006 so 2001 là -7,5%).
Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hoá của Hà Nội diễn ra nhanh chóng, vì vậy
quỹ đất nông nghiệp của khu vực ngoại thành giảm bình quân 1% một năm. Từ năm 2001
đến 2006, đã có 20 xã được đô thị hoá và chuyển thành phường của các quận ven đô. Khu
vực nông thôn của Thủ đô nhiều nơi có hiện tượng thành thị và nông thôn xen ghép nhau,
nối tiếp nhau về lãnh thổ, đất đai, dân cư và các hoạt động kinh tế - xã hội 15.
Trong nhiều vùng nông thôn Hà Nội đã xuất hiện các đô thị nhỏ, phố làng, chợ, các
tụ điểm dân cư tập trung... bên cạnh các khu công nghiệp, cụm công nghiệp vừa và nhỏ tập
trung, các trường ĐH, CĐ, DN công lập và ngoài công lập, các khu vực cơ quan hành
chính tại các huyện ngoại thành.
Tuy nhiên, quá trình đô thị hoá diễn ra chưa đều khắp, tốc độ lại khác nhau. Các
huyện Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì là những huyện có tốc độ đô thị hoá nhanh hơn. Năm
2001, Gia Lâm có 31 xã, 1 thị trấn; năm 2006 chỉ còn 21 xã, với 2 thị trấn. Thanh Trì năm
2001 có 24 xã, 1 thị trấn; năm 2006 chỉ còn 15 xã và 1 thị trấn 15.
Việc hình thành các khu chế xuất, các khu công nghiệp, khu công nghệ cao ở các
huyện và việc mở rộng các quận nội thành từ 4 quận lên 9 quận càng làm cho diện tích đất
ngoại thành thu hẹp nhanh chóng. Ngay trên địa bàn từng huyện, quận, xã, phường, thị trấn
nhu cầu xây dựng công trình công cộng, khu dân cư cũng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp cho
việc quản lý đất đai, nguồn lao động từ cấp cơ sở đến cấp thành phố. Đây cũng là nhân tố
đòi hỏi các cấp chỉnh quyền cần quan tâm đưa ra các giải pháp tích cực để hỗ trợ giải
quyết việc làm và các vấn đề xã hội nảy sinh. Lao động trong nông nghiệp hiện nay nói
chung và TNNT nói riêng chủ yếu là lao động giản đơn, không chỉ yếu kém về trình độ
chuyên môn mà cả tác phong và ý thức lao động cũng kém. Khi đô thị hoá, đất đai bị thu
hồi cho phát triển công nghiệp và dịch vụ, những TNNT này nhận được một khoản tiền
đền bù, song đổi lại là mất ruộng đất, mất việc làm và gia nhập vào đội quân thất nghiệp.
Thực tế cho thấy, một bộ phận TNNT ngoại thành khi đô thị hoá đã bị những dòng chảy xã
hội không lành mạnh tha hoá, trở thành người nghiện ngập, chơi bời, cờ bạc, lô đề...mà
nguyên nhân chủ yếu là do "nhàn cư vi bất thiện". Mặt khác, quá trình đô thị hoá, các nhà
máy, khu chế xuất, khu công nghiệp được xây dựng thì tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho thanh
niên, thúc đẩy kinh tế xã hội của địa phương phát triển. Điều này được phát huy hiệu quả hay
không phụ thuộc một phần vào chính sách và sự quan tâm của chính quyền địa phương và các
cơ quan chức năng.
Bên cạnh kết quả và đặc điểm trên, kinh tế Hà Nội, còn chịu nhiều sự tác động của
hệ thống quản lý kinh tế của Trung ương, nhiều doanh nghiệp nhà nước Trung ương quản
lý, nhiều tổ chức, cá nhân doanh nghiệp nước ngoài trực tiếp sản xuất, kinh doanh và có
trụ sở đóng trên địa bàn Hà Nội, điều này vừa là điều kiện thuận lợi cho người lao động
Thủ đô có cơ hội học hỏi kinh nghiệm làm việc, quản lý vừa là thách thức về trình độ
nguồn nhân lực của Thủ đô cần phải đưa ra những giải pháp để đáp ứng yêu cầu của sự
phát triển chung. Bên cạnh đó, là địa phương nằm trong tam giác tăng trưởng phía Bắc,
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu của thành phố có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá vùng đồng bằng Bắc Bộ và các vùng trong cả nước. Vấn đề
này sẽ làm thay đổi nhiều về cơ cấu sử dụng nguồn nhân lực của Thủ đô từ đó đưa các giải
pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao động.
2.1.1.3. Đặc điểm về văn hoá - xã hội
* Dân số và lao động:
Trong quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh ở nhiều địa phương; trên địa bàn thành
phố Hà Nội lại tập trung nhiều dự án, khu công nghiệp, khu chế xuất thu hút đông lao động
từ các nơi về làm việc. Bên cạnh đó một số lượng khá lớn học sinh, sinh viên tỉnh về Hà
Nội theo học tại các trường ĐH, CĐ, DN. Hà Nội là một trong ba tỉnh thành có số dân
đông nhất trong cả nước (xếp sau thành phố Hố Chí Minh và Thanh Hoá).
Quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô và tốc độ tăng dân số.
Theo số liệu thống kê 2007, dân số trung bình của Hà Nội có 3.394,6 nghìn người, trong
đó dân số nông thôn ngoại thành Hà Nội 1.189,2 nghìn người), năm 2002 là 2.926,6 nghìn
người và 1.363,6. Năm 2007 so với năm 2002 tăng 468 nghìn người (xấp xỉ 16%), tốc độ
tăng bình quân hàng năm là 2,6%. So với cả nước, Hà Nội là một trong những địa phương
có số hộ và mật độ dân số nông thôn khá lớn (đứng thứ 5/11 tỉnh Đồng bằng sông Hồng và
thứ 7/26 tỉnh miền Bắc về số hộ). Theo kết quả tổng hợp của cuộc TĐT NTNN -TS tại thời
điểm 1/7/2006 có 98 xã với 98.7179 nhân khẩu, giảm 19 xã với 120.035 nhân khẩu so với
kết quả TĐT năm 2001 15.
Bảng 2.3: Tình hình dân số và dân số nông thôn ngoại thành Hà Nội
2002 - 2007
Đơn vị: 1000 người
Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Dân số
trung bình
2926,6 3007,5 3088,7 3182,7 3283,6 3394,6
Tỉ lệ tăng dân số
tự nhiên (%o)
10,56 12,47 12,18 11,93 11,82 12,87
Dân số nông
thông trung bình
1363,6 1409,3 1155,8 1103,9 1141,7 1189,2
Tỉ lệ dân số nông
thôn so với DS
trung bình (%)
46,59 46,86 37,42 34,68 34,77 35,03
Tỉ lệ tăng dân số
tự nhiên của ngoại
thành (%o)
11,60 13,30 13,57 13,30 13,20 13,86
Nguồn: Cục Thống kê Thành phố Hà Nội, 2002-2007 6.
Nét sinh hoạt mới, nếp sống thị thành cũng đã và đang hình thành rộng rãi tại các
vùng nông thôn. Biểu hiện rõ nhất là việc thực hiện hiệu quả chương trình kế hoạch hoá
gia đình. Năm 2001, quy mô một gia đình nông thôn có 4, 11 nhân khẩu thì đến năm 2006
chỉ còn 3, 87 nhân khẩu/hộ. Quy mô lao động bình quân một hộ ổn định (2,35 người/hộ
năm 2001; 2, 44 người/hộ năm 2006). Từ đây cũng có thể rút ra xu hướng trong nông thôn
Hà Nội ngày nay là:
- Dân số nông thôn đang trẻ hoá;
- Số người sống phụ thuộc trong một gia đình ít hơn số lao động của hộ.
Đây thực sự là cơ hội thuận lợi để nâng cao thu nhập cho mỗi người dân, là nguồn
lực để phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đồng thời, trong
quá trình này hiện tượng tách hộ diễn ra càng rõ nét, hộ gia đình gồm 3 thế hệ sinh sống có
xu hướng giảm dần (năm 2006 là 11%) nhường chỗ cho loại hộ gồm 2 thế hệ. Đây chính là
dáng dấp của cuộc sống đô thị đang dần xuất hiện ở khu vực nông thôn Hà Nội.
Dự báo nguồn lao động thủ đô năm 2010 là 2.016 nghìn người. Trong thời gian qua,
dân số Hà Nội vẫn tăng lên nhưng tăng chậm hơn mức tăng dân số của cả nước. Do mức
sinh giảm, tỷ lệ số người trong độ tuổi lao động so với tổng số dân đang có xu hướng tăng
lên.
Bên cạnh những tác động tích cực, sự phát triển nguồn nhân lực của Hà Nội còn gặp
nhiều khó khăn do ảnh hưởng nặng nề của cơ chế cũ quan liêu, bao cấp kéo dài nhiều năm,
do sự phát triển đô thị không đồng bộ, nhất là cơ sở hạ tầng, do cơ cấu kinh tế chưa thật
hợp lý (nhất là cơ cấu trong nội bộ ngành và nhóm ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành
phần kinh tế), tính chất tự phát trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, do quy mô và
tốc độ nguồn lao động tăng nhanh, lại thiếu những chính sách biện pháp tổng thể có tính
chất chiến lược của Nhà nước trong việc sử dụng lao động ở Thủ đô.
* Văn hoá, giáo dục, y tế:
Hà Nội là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, với lịch sử
ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ và giao thoa các giá trị truyền thống của dân tộc. Người dân
Hà Nội thanh lịch, có truyền thống văn hoá lâu đời, có nhiều ngành nghề truyền thống, tiếp
thu nhanh nhạy cái mới, có thể tạo ra những giá trị kinh tế và văn hoá, tinh thần cao. Điều
này ảnh hưởng tích cực đến chất lượng nguồn lao động của Thủ đô. Với số lượng đầu sách
và sách ngày một tăng từ năm 2000 đến năm 2004 tương ứng là 260 lên 361 và 392 ngàn
lên 333 ngàn bản, tỉ lệ tăng tương ứng là 38,8% và 17,7%. Hệ thống thông tin, phát thành,
truyền hình được mở rộng và hiện đại hoá, góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần
của nhân dân Thành phố. Đa số hộ gia đình đều có máy thu hình, số điện thoại bình
quân/100 dân tăng lên nhanh chóng từ 25,4 năm 2002 lên 42 năm 2006. Đến nay, 100%
UBND các xã có điện thoại cố định và máy vi tính hoạt động, trong đó 8 xã đã nối mạng
interet; 100% số xã có hệ thống truyền thanh thông suốt đến các thôn; 85% số xã có điểm
bưu điện văn hoá, trong đó 43,3% điểm bưu điện văn hoá xã đã nối mạng internet; 21% số
xã có thư viện; 73% số thôn có nhà văn hoá thôn; 100% các xã đã có tủ sách pháp luật 6.
Sự phát triển của ngành du lịch là động lực quan trọng thức đẩy việc trùng tu, tôn tạo
các di tích văn hoá, di tích lịch sử cách mạng, tạo nên diện mạo của Thành phố hiện đại có
nét bản sắc dân tộc, truyền thống.
Về đào tạo nguồn nhân lực: Hà Nội là trung tâm của khoa học kỹ thuật, là đầu mối
giao lưu kinh tế của cả nước, là nơi hội tụ các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các
tổ chức nghiên cứu khoa học và đào tạo đầu đàn. Ngoài ra số lượng lớn các viện nghiên
cứu chuyên ngành, các tổ chức quốc tế, các công ty nước ngoài hoạt động trong các ngành
công nghiệp tiên tiến, mũi nhọn... Đây chính là yếu tố vật chất ảnh hưởng lớn và trực tiếp
đến chất lượng nguồn lao động, đến việc phân bổ, sử dụng lao động trên địa bàn Hà nội,
tạo điều kiện cho Hà Nội có cơ hội hoà nhập vào quá trình phát triển năng động của các
nước trong khu vực và trở thành động lực phát triển của cả nước.
Về chăm sóc sức khoẻ nhân dân: số giường bệnh địa phương quản lý có xu hướng
tăng, hiện Hà Nội có 31 bệnh viên, với 9.390 giường bệnh 6. Hệ thống y tế ở khu vực
ngoại thành đã được quan tâm đầu tư: 100% số xã có trạm y tế, trong đó: 84,7% số trạm y
tế xây dựng kiên cố. Số lượng y bác sỹ được tăng cường, mạng lưới khám chữa bệnh được
mở rộng đến các thôn. Kết quả Tổng điều tra, tại thời điểm 1/7/2006 có 473/624 thôn có
cán bộ y tế, chiếm 75,8% 15. Thực hiện chủ trương xã hội hoá hoạt động y tế của Đảng
và Nhà nước, khu vực nông thôn của thành phố Hà Nội đã hình thành và phát triển các loại
hình khám chữa bệnh tư nhân: có 61,2% số xã có cơ sở khám chữa bệnh tư nhân và 86,7%
số xã có cửa hàng thuốc tư nhân. Công tác bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em được quan tâm
hơn, công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình đã đạt được kết quả trong việc giảm tỉ lệ tăng
dân số tự nhiên. Bảo hiểm y tế không ngừng được mở rộng và phát huy tác dụng đối với
chăm sức khoẻ cho nhân dân thủ đô nói chung và thanh niên ngoại thành nói riêng.
2.1.2. Thực trạng việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội trong những năm
vừa qua
2.1.2.1. Về số lượngthanh niên ngoại thành Hà Nội
Bảng 2.4: Số lượng ước tính dân số trong độ tuổi thanh niên (15-29 tuổi) của khu vực
ngoại thành Hà Nội các năm 2002-2006
Đơn vị: người
Năm
Số thanh niên
ngoại thành Hà Nội
ước tính
% so với dân
số ngoại
thành
% so với dân số trong
độ tuổi lao động
2002 34.957 28.89 47.98
2003 34.184 29.15 47.74
2004 31.805 29.37 47.54
2005 32.332 29.58 47.33
2006 33.222 29.79 47.23
Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội, 2002-2006 29.
Số lượng lao động thanh ngoại thành phản ánh yếu tố cung về lao động thanh niên
ngoại thành cho thị trường lao động. Dân số trong độ tuổi thanh niên ngoại thành Hà Nội
cũng chính là dân số ngoại thành trong độ tuổi lao động đang có xu hướng tăng, do số
lượng thanh thiếu niên bước vào tuổi lao động tăng (bảng 2.4).
Biểu trên cho thấy, tỷ trọng thanh niên ngoại thành Hà Nội năm 2005 chiếm 29,58%
so tổng dân số, đến năm 2006 tăng lên 29,58%; mặc dù tỷ trọng thanh niên ngoại thành so
tổng dân số trong độ tuổi lao động chiếm gần 1/2 nhưng lại có xu hướng giảm. Điều này
chứng tỏ cơ cấu dân số Thủ đô Hà Nội đang bắt đầu chuyển dần sang cơ cấu dân số già
hơn.
Chỉ tiêu quan trọng là số thanh niên ngoại thành tham gia lực lượng lao động. Mặc dù
tỷ lệ thanh niên đi học càng tăng, nhưng do tốc độ tăng của lao động TNNT nên xu hướng
chung là tỷ lệ thanh niên ngoại thành tham gia lực lượng lao động giảm về tỷ lệ và tăng lên
về số tuyệt đối.
Bảng 2.5: Ước lượng số lượng TNNT ngoại thành Hà Nội (15-29 tuổi) tham gia lực
lượng lao động các năm 2002-2006
Đơn vị: người
Năm Tổng số
Tỷ lệ thanh niên
tham gia LLLĐ
(%)
% so tổng LLLĐ
2002 21534 61.6 35,8
2003 21211 62.05 35,58
2004* 19741 62.07 35,20
2005 19748 61.08 34,69
2006 20618 62.06 34,56
Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội, 2002-2006 29.
* Ghi chú: Năm 2004, 2 huyện chuyển thành quận
Bảng số liệu trên phản ánh số TNNT ngoại thành Hà Nội tham gia lực lượng lao
động các năm có xu hướng tăng. Xét về tỷ lệ thanh niên trong lực lượng lao động thì ở Hà
Nội tương đương với cả nước, nhưng nếu xét về tỷ lệ TNNT tham gia lao động (chiếm
khoảng 62%) thì thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước (trên 74%) và đang có xu hướng giảm.
Nguyên nhân là do số TNNT đi học tăng lên hàng năm, chưa tham gia lực lượng lao động.
Theo số liệu của Trung tâm Dịch vụ việc làm Thanh niên Hà Nội, tỉ lệ lao động trẻ
cao trên tổng số lao động của các xã, từ 45-67%, đây là tín hiệu tốy cho việc phát triển
kinh tế - xã hội của từng địa phương trong hiện tại và tương lai.
2.1.2.2. Về chất lượng của thanh niên ngoại thành Hà Nội
Trình độ văn hoá của thanh niên là một trong những tiêu chí phản ánh chất lượng và
tình trạng phát triển nguồn nhân lực của mỗi địa phương. Chất lượng lao động thanh niên biểu
hiện chủ yếu ở trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật. Chất lượng là yếu tố cực kỳ quan
trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh của lao động thanh niên ngoại thành Hà Nội trên thị
trường lao động.
Theo kết quả điều tra lao động - việc làm hàng năm 2002, lao động thanh niên chưa
biết chữ hoặc học hết tiểu học là 0,5% đã giảm liên tục những năm tiếp theo, các cấp học
cao hơn có xu hướng tăng; nói chung TNNT ngoại thành Hà Nội có trình độ học vấn cao
hơn mức chung của TNNT cả nước. Số năm đi học bình quân của lao động thanh niên cả
nước khá cao, bình quân 7,8 năm (năm 1998) và không có sự khác biệt lớn về giới.
Tuy nhiên, lao động trẻ tốt nghiệp THPT tại các xã ngoại thành có tỷ lệ thấp, điều
này sẽ tạo những khó khăn không nhỏ trên bước đường phát triển tiếp theo của lao động
trẻ. Thể hiện là vẫn còn một bộ phận TNNT ngoại thành Hà Nội có trình độ văn hoá tốt
nghiệp cấp I (năm 2002 có 21,48%), ảnh hưởng đến khả năng tham gia đào tạo chuyên
môn kỹ thuật, giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng của lực lượng TNNT ngoại
thành Hà Nội.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật thể hiện qua học vấn của lao động TNNT ngoại thành
Hà Nội là khá cao so với lao động thanh niên chung cả nước, tỉ lệ gần 40% lao động trẻ đã
qua đào tạo 46, tr.3, nhưng hiện nay chất lượng thực của một phận lao động trẻ đã qua
đào tạo là điều đáng lo ngại. Các bạn trẻ có nhiều chứng chỉ trong tay nhưng lại tỏ ra thiếu
hiểu biết về những kiến thức cơ bản về chuyên môn được đào tạo, một số ít lại tỏ ra yếu về
kỹ năng thực hành đối với chuyên môn mình vừa học xong.
Kết quả điều tra, khảo sát năm 2005 của Trung tâm Dịch vụ việc làm Thanh niên Hà
Nội, với gần 3000 người tại 14 xã ngoại thành của Hà Nội cho thấy tình trạng việc làm của
lao động trẻ ngoại thành như sau (bảng 2.6):
Bảng 2.6: Tình trạng việc làm của lao động trẻ năm 2005
TT Nội dung
Tổng số
Số người Tỉ lệ (%)
1 Có việc làm thường xuyên, ổn định ngay tại
địa phương nơi cư trú
431 15,4
2 Có việc làm thường xuyên, ổn định ngoài nơi
cư trú
557 19,9
3 Có việc làm nhưng không thường xuyên 649 23,2
4 Vừa có việc làm tại nơi cư trú vừa phải kiếm
thêm việc làm ngoài nơi cư trú
351 12,5
5 Hoàn toàn chưa có việc làm 812 29,0
Tổng 2800 100
Nguồn: Trung tâm Dịch vụ Việc làm Thanh niên Hà Nội, 200546
Tỉ lệ số lao động trẻ đã có việc làm ở các mức độ khác nhau, hiện tại không thấp, chiếm
71% số người được hỏi. Trong đó tỉ lệ “có việc làm thường xuyên ổn định ngay tại nơi cư trú”
không cao, chỉ có 15,4%. Bên cạnh đó số lao động “hoàn toàn chưa có việc làm” và các tỉ lệ
có việc làm nhưng không thường xuyên lại cao hơn nhiều, tương ứng là 29% và 23,2%. Số lao
động này có thể hiểu là có việc làm nhưng thất thường, thiếu tính ổn định và “thât nghiệp”.
Điều đó đặt ra trách nhiệm các cấp, ngành, tổ chức đoàn, hội thanh niên và bản thân người lao
động cần phải có những giải pháp tích cực giảm tỉ lệ “lao động không có việc làm” nếu không
số lao động này là đối tượng xã hội gây nhiều vấn đề phát sinh tệ nạn xã hội đang rất quan tâm
và phải giải quyết.
Cũng với mẫu điều tra trên thì trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn của thanh
niên được đào tạo qua TC -CNKT và đào tạo ngắn hạn chỉ chiếm 25,4% là tỉ lệ không cao,
bên cạnh đó tỉ lệ thanh niên được học nghề theo phương thức truyền nghề chỉ chiếm 4,9%
là tỉ lệ rất thấp. Trong khi nhu cầu học nghề tới 72,6%. Đa số lao động TNNT ngoại thành
Hà Nội đã tốt nghiệp THPT trở lên là 49,4% 46, tr.18.
Bảng 2.7: Trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn của lao động trẻ
Đơn vị: %
Trình độ học vấn, chuyên môn Tổng số
Số người Tỉ lệ (%)
Tốt nghiệp Trung học cơ sở 569 20,3
Tốt nghiệp Trung học phổ thông 981 35,0
Tốt nghiệp Cao đẳng, Đại học 404 14,4
Tốt nghiệp TC 397 14,2
Công nhân kỹ thuật 161 5,8
Đào tạo ngắn hạn 152 5,4
Đã được học nghề theo hình thức truyền
nghề
136 4,9
Cộng 2.800 100
Nguồn: Trung tâm Dịch vụ Việc làm Thanh niên Hà Nội, 200546.
Trong tình hình hiện nay trên địa bàn các huyện thuộc thành phố Hà Nội đang mở ra
nhiều khu công nghiệp để đáp ứng số lượng tuyển dụng lao động vào các doanh nghiệp đòi
hỏi lao động có tay nghề kỹ thuật, hoặc đã qua đào tạo thì chưa đủ điều kiện đáp ứng vì tỉ
lệ lao động có trình độ TC-CNKT, đào tạo ngắn hạn chỉ chiến 25,4%. Điều này, có thể giải
thích lao động thanh niên đang trong thời kỳ đào tạo nghề nghiệp, chưa tham gia thị trường
lao động; còn số thanh niên tham gia lao động đa số là là lao động phổ thông.
Ngoài ra, việc duy trì, củng cố phát triển các làng nghề truyền thống tại các huyện
cũng là một kênh để giải quyết viêc làm. Tuy vậy, hiện nay thì tỉ lệ lao động đã được học
nghề theo hình thức truyền nghề chỉ chiếm 4,9%.
Bảng 2.8: Nguyện vọng tham gia đào tạo, học nghề của TNNT
ngoại thành Hà Nội
TT Nội dung
Tổng số
Số người Tỉ lệ (%)
1 Mong muốn được học nghề 2033 72,6
2 Không muốn tham gia 432 15.4
3 Mong muốn tham gia nhưng vì lý do nào
đó không thể tham gia 335 12.0
Cộng 2800 100
Nguồn: Trung tâm Dịch vụ Việc làm Thanh niên Hà Nội, năm 2005 46.
Với 72,6% lao động TNNT ngoại thành Hà Nội mong muốn được tham gia đào tạo,
DN, trong khi chỉ có 15,4% “không muốn tham gia”. Do đó, đòi hỏi các cấp, các ngành,
các tổ chức đoàn thể tạo điều kiện, quan tâm đến đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, DN
để giúp TNNT thực hiện nguyện vọng chính đáng của mình.
Bảng 2.9: Điều tra về sự phù hợp của công việc với trình độ chuyên môn được đào
tạo
Nội dung Kết quả
Số người Tỉ lệ (%)
Rất phù hợp 555 20,7
Phù hợp 989 36,9
Không phù hợp 1138 42,4
Cộng 2682 100
Nguồn: Trung tâm Dịch vụ Việc làm Thanh niên Hà Nội, năm 2005 46.
Có tới 42,4% số thanh niên được hỏi cho rằng việc làm không phù hợp với khả năng
và trình độ chuyên môn được đào tạo, chỉ có 20,7% cho rằng rất phù hợp. Tình trạng trên
thể hiện sự lãng phí trong sử dụng nguồn lao động TNNT, không phát huy được hiệu quả
của quá trình đào tạo. Đây cũng là vấn đề các cấp, các ngành của thành phố cần quan tâm
đến đào tạo hướng nghiệp để nâng cao chất lượng của lao động TNNT.
2.1.2.2. Một số hạn chế về lao động, việc làm của thanh niên ngoại thành Hà Nội
- Tỷ lệ lao động TNNT ngoại thành Hà Nội qua đào tạo, nhất là đào tạo nghề còn
thấp, nhất là chất lượng thực của lao động TNNT ngoại thành Hà Nội; kỷ luật lao động, tác
phong làm việc khoa học công nghiệp vẫn chưa được hình thành, lao động TNNT ngoại
thành Hà Nội tuyển mới vào các doanh nghiệp mới thành lập, các khu công nghiệp, khu
chế xuất sản xuất hàng xuất khẩu (giày da, dệt may, lắp ráp điện tử…) chưa được qua đào
tạo bài bản, nhất là các vùng nông thôn bị thu hồi đất.
- Cơ cấu ngành, nghề đào tạo lao động thanh niên về chuyên môn kỹ thuật còn nhiều
bất cập so với yêu cầu của phát triển kinh tế của Thủ đô và của thị trường lao động. Theo
số liệu trên thì TNNT ngoại thành Hà Nội, ước tính tỉ lệ tỷ lệ đào tạo giữa Cao đẳng, Đại
học và trên Đại học - THCN - công nghiệp kỹ thuật là 1 - 0,99 - 0,78, số liệu nào của thanh
niên cả nước nói chung là 1- 0,9-2,8 trong khi các nước đang phát triển khác tỷ lệ đó là 1 -
4 - 10. Như vậy, chúng ta đang rất thiếu lao động kỹ thuật trình độ cao, nhiều lĩnh vực,
chúng ta phải thuê chuyên gia, công nhân kỹ thuật cao của nước ngoài; xuất khẩu lao động
chủ yếu là lao động TNNT có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc chỉ qua giáo dục
định hướng.
2.2. THỰC TRẠNG HỖ TRỢ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
2.2.1. Thực trạng chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại
thành Hà Nội
Những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã góp phần tạo ra nhiều điều kiện thuận
lợi để thanh niên có cơ hội tự tạo việc làm và có việc làm, đáp ứng yêu cầu bức xúc về đời
sống, góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội.
Một trong 6 mục tiêu của Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010
được Chính phủ phê duyệt ngày 29/4/2003 là cố gắng giảm thiểu tình trạng thất nghiệp,
thiếu việc làm trong thanh niên; nâng cao thu nhập cho thanh niên và gia đình trẻ. Trong
đó nêu rõ chỉ tiêu cụ thể là: "Tạo thêm nhiều việc làm mới, phấn đấu khoảng 1 - 1,1 triệu
thanh niên được giải quyết việc làm mỗi năm”.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở
nông thôn khu vực đồng bằng Sông Hồng, trong đó có Thành phố Hà Nội tăng 76,08%
(năm 2002) lên khoảng 80,7% (năm 2006). Cơ cấu lao động của thành phố Hà Nội chuyển
dịch theo hướng tăng lao động cho sản xuất công nghiệp, xây dựng và các ngành dịch vụ,
giảm lao động nông nghiệp và lâm nghiệp từ 0,53% (năm 2002) xuống còn 0,38% (năm
2007), bình quân mỗi năm giảm 0,025% lao động nông nghiệp 13. Tỷ lệ thanh niên Việt
Nam nói chung có việc làm tăng trung bình 3,1% năm 18.
Tuy nhiên, như ở trên đã phân tích thì số lượng TNNT ngoại thành Hà Nội tham gia
lực lượng lao động ngày một tăng (chưa kể số lượng dân di cư từ các vùng lân cận). Vì
vậy, càng gây sức ép đối với các cấp chính quyền thành phố Hà Nội trong việc hỗ trợ giải
quyết việc làm cho TNNT
Từ năm 2005 đã có Quyết định 81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng
Chính phủ về chính sách hỗ trợ DN ngắn hạn cho lao động nông thôn. Theo quyết định
này, mỗi nông dân bị thu hồi đất được hỗ trợ 300 nghìn đồng /người /tháng. Kinh phí trên
được phân bổ về các cơ sở DN ở địa phương chứ không cấp trực tiếp cho người dân. Tuy
nhiên, các cơ sở DN ở địa phương lại không mặm mà với việc hỗ trợ nông dân chuyển đổi
nghề nghiệp. Vậy là người dân mất đất cũng chẳng thể "đổi nghiệp"! Trước đây, Hà Nội
cũng đã xây dựng đề án về một số giải pháp hỗ trợ ổn định đời sống, đào tạo nghề và việc
làm cho các hộ dân vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Với 4 giải pháp:
Thành lập quỹ hỗ trợ, ổn định đời sống, phổ cập giáo dục, học nghề và việc làm cho các hộ
dân bị thu hồi trên 30% đất sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, thực tế những hỗ trợ này
chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Trong khi nông dân than phiền không có việc
làm, nhưng lại chỉ một số ít biết tổ chức học, chuyển nghề. Rõ ràng, trước một bối cảnh
đầy thách thức mới như hiện nay thì chúng ta cần phải đánh giá lại toàn diện các giải pháp.
Bên cạnh đó, do phần lớn TNNT không có tay nghề, trình độ nên sau khi bị mất đất,
họ xin vào các công ty, xí nghiệp đóng trên địa bàn đều bị trả về vì không thể đáp ứng yêu
cầu công việc. Một số rất ít thanh niên được chính quyền cho tham gia vào các lớp đào tạo
nghề thì xin được vào các công ty, xí nghiệp để làm công nhân nhưng chẳng làm được bao
lâu vì công ty, xí nghiệp không có việc làm thường xuyên, trả lương bèo bọt, không có chế
độ đãi ngộ, ưu tiên.
Trước thực trạng này, thời gian qua nhiều địa phương trong vùng quy hoạch đô thị ở
Hà Nội đã quyết định lập phương án liên kết với các trường DN để tạo điều kiện cho con
em nông dân được theo học sau khi giải phóng mặt bằng. Tuy nhiên, như thế vẫn chưa đủ.
Để đảm bảo cho người dân mất ruộng có việc làm, các địa phương cần th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho thanh niên ngoại thành Hà Nội.pdf