Tài liệu Luận văn Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại ngân hàng công thương Hoàn Kiếm: LUẬN VĂN:
Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại Ngân
hàng Công Thương Hoàn Kiếm
Lời mỡ đầu
Sau hơn 10 năm đổi mới chuyển từ cơ chế bao cấp sang nến kinh tế thị trường ,
nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trên con đường hội nhập với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Cùng với đà phát triển của nền kinh tế là sự đổi
mới và phát triển của hệ thống Ngân hàng Thương mại. Có thể nói hệ thống Ngân hàng
Thương mại đã đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thông
qua các hoạt động nghiệp vụ của mình.
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, chuyên hoạt động trên
thị trường tiền tệ . Đây là một lĩnh vực chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro khó lường. Các rủi
ro này xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau đã gây cho ngân hàng những tổn thất làm
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một trong những rủi ro mà ngân
hàng thường hay gặp phải là những khoản nợ khó đòi hay còn...
79 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 933 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại Ngân
hàng Công Thương Hoàn Kiếm
Lời mỡ đầu
Sau hơn 10 năm đổi mới chuyển từ cơ chế bao cấp sang nến kinh tế thị trường ,
nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trên con đường hội nhập với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Cùng với đà phát triển của nền kinh tế là sự đổi
mới và phát triển của hệ thống Ngân hàng Thương mại. Có thể nói hệ thống Ngân hàng
Thương mại đã đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thông
qua các hoạt động nghiệp vụ của mình.
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, chuyên hoạt động trên
thị trường tiền tệ . Đây là một lĩnh vực chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro khó lường. Các rủi
ro này xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau đã gây cho ngân hàng những tổn thất làm
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một trong những rủi ro mà ngân
hàng thường hay gặp phải là những khoản nợ khó đòi hay còn gọi là những khoản nợ
xấu.
Mặc dù các Ngân hàng Thương mại đã áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để
khắc phục những khoản nợ xấu này, nhưng dưới tác động của nhiều yếu tố khách quan
cũng như chủ quan mà các biện pháp này chưa đạt được những hiệu quả như ý muốn.
Xử lý tài sản đảm bảo là một biện pháp hữu hiệu để thu hồi các khoản nợ này. Tuy
nhiên, việc xử lý các tài sản đảm bảo hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn bất cập. Điều
này gây nhiều khó khăn cho các Ngân hàng Thương mại .
Để các Ngân hàng Thương mại phát triển theo hướng ổn định, an toàn và giảm
bớt những khó khăn đối với các khoản nợ không thu hồi được thì việc lựa chọn giải
pháp xử lý tài sản đảm bảo cho vay là hết sức quan trọng.
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm , nhận thấy tính
cấp thiết của vấn đề, được sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn, sự quan tâm
giúp đỡ của cán bộ, nhân viên Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm , đặc biệt là cán bộ
Phòng Kinh doanh tín dụng , em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài :
“ Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại
Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm ”
Kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại
Chương II: Thực trạng xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại Ngân hàng Công
Thương Hoàn Kiếm
Chương III: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo
cho vay tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm
Chương I:
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
I. chức năng và vai trò của hệ thống NHtm trong nền kinh tế :
1. Chức năng trung gian tài chính :
Đây là chức năng đặc trưngvà cơ bản nhất của Ngân hàng Thương mại và có ý
nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển .Trung gian tài chính là hoạt
động cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những người có thể
vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lợi sang những người muốn dùng nó vì mục
đích sinh lợi .
Thực hiện chức năng này , một mặt , Ngân hàng Thương mại huy động và tập
trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rổi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình
thành nguồn vốn cho vay; mặt khác , trên cơ sở số vốn đã huy động được, ngân hàng cho
vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất , kinh doanh , tiêu dùng .. của các chủ kinh tế , góp
phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội , thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế . Như vậy , Ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay , hay nói cách
khác , nghiệp vụ của Ngân hàng Thương mại là đi vay để cho vay.
Để mở rộng sản xuất , đối với từng doanh nghiệp yêu cầu về vốn là một trong
những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra . Các doanh nghiệp không chỉ trông chờ vào
vốn tự có , mà còn phải biết dựa vào vốn của nhiều nguồn khác nhau trong xã hội . Ngân
hàng Thương mại với tư cách là nơi tập trung nguồn vốn nhàn rổi trong xã hội , sẽ là
trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển . Như vậy , tín dụng ngân
hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian tích luỹ vốn nhanh chống cho
đầu tư mỡ rộng sản xuất , vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho
nền kinh tế .
Chức năng trung gian tài chính của các Ngân hàng Thương mại được hình thành
rất sớm , ngay từ lúc hình thành các Ngân hàng Thương mại . Ngày nay , thông qua chức
năng trung gian tín dụng , Ngân hàng Thương mại đã và đang thực hiện chức năng xã
hội của mình , làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên , vốn đầu tư được mỡ rộng và từ
đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế , cải thiện đời sống của nhân dân.
2. Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán :
Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng ngân hàng là thủ quỹ của
các doanh nghiệp , tức là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả theo
lệnh của chủ tài khoản .Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng , họ sẽ được đảm bảo an
toàn trong cất giữ và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng , tiện lợi , nhất là đối với
những khoản thanh toán có giá trị lớn , mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém , khó
khăn và không an toàn . Nếu như mọi khoản thanh toán được thực hiện không qua ngân
hàng , thì sẽ có những bất tiện và tốn kém , như : những chi phí cho lưu thông tiền
mặtvà những chi phí có liên quan đến người trả và người nhận. Khi ngân hàng thương
mại ra đời và phát triển, thì hầu hết các khoản thanh toán chi trả về hàng hoá , dịch vụ
giữa các chủ thể kinh tế đều được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện , việc thanh toán
trở nên thuận lợi , tiết kiệm được nhiềuchi phí , mọi quan hệ thanh toán được thực
hiệnbằng cách các chủ thể kinh tế mở tài khoản tại ngân hàng và yêu cầu ngân hàng thực
hiện các khoản chi trả hoặc uỷ nhiệm cho ngân hàng thực hiệnviệc thu nhận các khoản
tiền vào tài khoản của mình.
Trong khi làm trung gian thanh toán , ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông
tín dụngvà độc quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân , thẻ thanh toán ..)
đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độluân chuyển vốn
, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá.
Việc làm trung gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển đến tầm
mức đa dạng, không chỉ là trung tâm thanh toán truyền thống như trước, mà còn quản lý
các phương tiện thanh toán . Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí rất quan trọng, phù
hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ. 3.Chức năng tạo ra tiền ngân hàng
trong hệ thống ngân hàng hai cấp : Quá trình tạo tiền của Ngân hàng Thương
mại được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống ngân
hàng , trong mối liên hệ chặt chẻ với hệ thống Ngân hàng Trung ương mổi nước .Tiền “
bút tệ “ do các Ngân hàng Thương mại tạo ra bằng cách nào? Để hiểu vấn đề này chúng
ta giả định rằng tất cả các Ngân hàng Thương mại đều không giữ lại tiền dự trữ quá mức
quy định , các tờ séc không chuyển thành tiền mặt và các yếu tố phức tạp được bỏ qua ,
thì quá trình tạo tiền “ bút tệ “ như sau :
Đó là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận
tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ
tín dụng thanh toán qua nhiều ngân hàng . Một ngân hàng này cho vay xong là hết
vốn , thì số vốn đó lại chuyển sang ngân hàng khác trở thành vốn tiền gửi và làm
tăng thêm vốn tiền gửi của ngân hàng khác . Bây giờ chúng ta quan sát quá trình
tạo ra tiền của ngân hàng khi nó bắt đầu cho vay . Người đến vay tiền của ngân
hàng đem về sẽ chi tiêu theo các mục đích đã định của ông ta . Không ai vay tiền
của ngân hàng để đem về nhà cất mà chịu lãi . Số tiền ông ta chit tiêu qua tay một
người thứ hai . Người này có thể quyết định rằng nên gửi số tiền vừa nhận được
vào ngân hàng để có lãi mỗi ngày, hơn là giữ nó ở nhà không tạo được một lợi ích
nào khác ..
Như thế , đến đây ngân hàng đã tạo ra hai đợt tiền ngân hàng : số tiền
người gửi thứ nhất cầm trên tay và số tiền do người thứ hai cầm , Tổng cộng hai
số tiền ngân hàng tạo ra chỉ từ số tiền người gửi đầu tiên , và nghiệp vụ cho vay
của nó
II. Khái quát về tín dụng của ngân hàng thương mại và hình thức đảm bảo tiền
vay:
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi
nhuận . Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù đắp được chi phí tiền gửi , chi phí
dự trữ , chi phí kinh doanhvà quản lý , chi phí vốn trôi nổi , chi phí thuế các loại và chi
phí rủi ro đầu tư.
1.Khái quát về tín dụng của Ngân hàng Thương mại:
1.1. khái niệm:
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một số hành vi kinh tế hết sức phức tạp, như : bán
chịu hàng hoá , cho vay , chiết khấu ,bão lãnh , ký thác , phát hành giấy bạc
Trong mỗi hành vi tín dụng vừa nói , chúng ta thấy hai bên cam kết với nhau
như sau:
- Một bên thì trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc
- Còn bên kia thì cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của số tài hoá đó trong
một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định
1.2.Tính chất pháp lý của các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng :
Tín dụng ngân hàng là một khái niệm kinh tế hơn là pháp lý . Các hành vi ngân
hàng có cùng một lôgích kinh tế : hứng chịu rủi ro cho một người mà ngân hàng đã tin
tưởng ứng vốn cho vay, nhưng nó không chỉ gồm một giao dịch về pháp lý , mà nhiều
loại ( cho vay, bão lãnh, bảo chứng , ..)
Xét theo tính chất pháp lý, các nghiệp vụ ngân hàng về cơ bản có thể chia thành
ba loại :
- Cho vay ứng trước
- Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền
- Cho vay qua chữ ký ( cho vay qua việc cam kết bằng chữ ký )
1.2.1. Cho vay tiền:
Cho vay tiền là nghiệp vụ tín dụng trong đó người cho vay cam kết giao cho
người đi vay một khoản tiền và người đi vay cam kết sẽ hoàn trả sau một thời gian nhất
định. Giá trị hoàn trả lớn hơ giá trị khoản vay, phần chênh lệch đó là lã cho vay
Loại cho vay dựa trên ba nguyên tắc cơ bản :
1) Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi.
Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn của ngân hàng là vốn
huy động của khách hàng .Đó là một bộ phận tài sản của các sở chủ mà ngân hàng tạm
thời quản lý và sử dụng, ngân hàng cũng có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu rút vốn của khách
hàng khi họ yêu cầu . Nếu các khoản tín dụng không được hoàn trả đúng , thì nhất định
sẽ ảnh hưởng đến khả nănghoàn trả của ngân hàng .
Để thực hiện nguyên tắc này , mỗi lần cho vay ngân hàng phải định kỳ hạn trả
nợ rõ ràng . Khi đến kỳ hạn nợ, người đi vay phải lập giấy trả nợ cho ngân hàng , nếu
không ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của đi vay để thu nợ . Nếu tài khoản
tiền gửi không đủ số dư thì ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn . Sau một thời gian nếu
khách hàng vẫn không trả nợ , ngân hàng sẽ phát mãi tài sản đảm bảo . Nguyên tắc này
hạn chế rủi ro về thanh khoản .
2) Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích :
Tín dụng cung ứng cho nền kinh tế phải hướng đến mục tiêu và yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ phát triển . Đối với các đơn vị kinh tế , tín dụng
phải đáp ứng mục đích cụ thể trong quá trình hoạt đốngản xuất kinh doanh để thúc đẩy
đơn vị hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình.
Tín dụng đúng mục đích không những là nguyên tắc mà còn là phương châm
hoạt động của ngân hàng .
Để thực hiện nguyên tắc này ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử
dụng tiền đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay , bởi vì mục đích đó đã được ngân
hàng thẩm định . Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này , ngân hàng được
quyền thu hồi nợ trước hạn , nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn .
3) Vốn vay phải có tài sản tương ứng đảm bảo :
Trong quá trình cung ứng vốn tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền
kinh tế , không kể thực hiện dưới hình thức nào , đều làm tăng sức mua của xã hội , làm
tăng khối lượng tiền tệ của nền kinh tế , làm tăng lượng hàng hoá trên thị trường . Ngoài
ra , tính chất vận động của vốn tín dụng là gắn liền với sự vận động vật tư hàng hoá ,
gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị . Do đó cần thực hiện nguyên tắc
đảm bảo bằng vật tư hàng hoá tương đương cho những khoản tín dụng đang thực hiện
Tài sản đảm bảo có thể tồn tại dưới nhiều hình thức:
- Tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay
- Tài sản đảm bảo là tài sản của người đi vay
- Tài sản đảm bảo còn có thể là tín chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba.
Đảm bảo tín dụng là một phương tiện cho người chủ ngân hàng có thêm môt
nguồn vốn khác để thu nợ nếu mục đích cho vay bị phá sản .
1.2.2.Cho vay dựa trên việc chuyển nhương trái quyền:
Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền chủ yếu dựa trên cơ sở mua
bán các công cụ tài chính ( hối phiếu , lệnh phiếu, ký hoá phiếu,..), tạo ra nghiệp vụ
chiết khấu thươngphiếu của ngân hàng , tức là mua nợ tính trên khoảng thời gian còn lại
cho đến lúc đáo hạn của thương phiếu .
Trong loại tín dụng này , về phương diện pháp lý , ngân hàng không phải cho
vay mà là được mua một trái quyền . ở đây , ngân hàng ứng trước trị giá của một thương
phiếu chưa đến hạn và đổi lại ngân hàng nắm quyền sở hữu trái quyền của thương phiếu
đó .
Trong hình thức tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền này , khách
hàng là chủ một trái quyền có kỳ hạn, nhưng muốn có vốn ngay lập tức, nên họ phải yêu
cầu ngân hàng cấp cho ngay số tiền đó , trừ đi phần trả lãi. Đổi lại , họ chuyển nhượng
trái quyền cho ngân hàng và khi đến hạn ngân hàng sẽ đòi tiền người thụ trái ( người
phải trả ). Như vậy, tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền cho ngân hàng chủ
yếu là phương thức chiết khấu thương phiếu và chuyển nhượng khoản cho cay nghề
nghiệp
1.2.3.Tín dụng qua chữ ký ( cho vay qua cam kết bằng chữ ký ):
Trong hình thức này , ngân hàng không ứng tiền ra , mà chỉ cam kết sẽ trả một
khoản nợ của khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả được. Chính vì lý do
bão lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình mà ngườita gọi hành vi cam kết bão lãnh
của ngân hàng là tín dụng qua chữ ký.
Các ngân hàng lớn dựa vào uy tín của mình cấp chứng thư cam kết bảo lãnh cho khách
hàng thực hiện các quan hệ tài chính trong nước và quốc tế giúp cho khách hàng của
mình có thêm điều kiện để được các đối tác tín nhiệm về mặt tài chính trong quan hệ
giao dịch.
Tín dụng này có nhiều dạng :
1) Bảo lãnh ngân hàng :
Đây là hình thức rất quan trọng trong thức tiễn , bởi vì nó là điều kiện rất hay
phải có để một số người thụ trái được trả chậm hoặc không phải ký quỹ tiền đặt cọc.
Bảo lãnh của ngân hàng có thể thực hiện dưới dạng bảo chứng thương phiếu :
“Bảo đảm trả ngay khi có yêu cầu đầu tiên”, do các ngân hàng cấp. Loại bảo lãnh này
trái ngược với loại trên ở chổ , người bảo lãnh cam kết với chủ nợ sẽ trả tiền ngay khi có
yêu cầu đầu tiên , mà không được phản đối những ngoại lệ mà người thụ trái có thể phản
đối .
2) Tín dụng chấp nhận:
Trong loại tín dụng này , ngân hàng chấp nhận một hối phiếu đòi tiền chính
ngân hàng , và ngay trước khi hối phiếu đến hạn , khách hàng phải nộp vào ngân hàng số
tiền cần thiết để thanh toán . Như vậy, ngân hàng không phải chi vốn ra về nguyên tắc .
Việc chấp nhận này cho phép chủ nợ có được một chứng từ bảo đảm được thanh toán
bởi khả năng thanh toán của ngân hàng đã đứng ra chấp nhận.
1.3. Phân loại tín dụng chung:
1.3.1. Tín dụng ngắn hạn , trung hạn và dài hạn:
Chúng khác nhau ở thời hạn ngân hàng giao vốn cho khách hàng sử dụng : tối
đa là 6 tháng về ngắn hạn , tới 7 năm đối với trung hạn và trên 7 năm là dài hạn.
1.3.2. Tín dụng cấp ra kèm theo hoặc không kèm theo cam kết của ngân hàng :
- Một số loại tín dụng , thường rất ngắn hạn , là kết quả của sự khoan dung của
ngân hàng ( ví dụ: hình thức hổ trợ quỹ ). Trong trường hợp này ngân hàng không hề
cam kết dứt khoát với khách hàng và do đó có thể tự chấm dứt cho vay , trừ trường hợp
quá lạm quyền .
- Nhưng tín dụng thường phát sinh từ một cam kết dứt khoát của ngân hàng ,
hoặc là cấp một tín dụng cụ thể , hoặc là mở một hạn ngạch tín dụng cho khách hàng của
họ .
Khi hạn ngạch tín dụng không có thời hạn xác định, ngân hàng chỉ được chấm
dứt hoặc giảm hạn ngạch sau khi đã thông báo bằng văn bản khi đến hạn báo trước thoả
thuận lúc mở tín dụng.
Nhưng ngân hàng bao giờ cũng có thể chấm dứt việc mở tín dụng mà không cần
báo trước khi:
+ Khách hàng có thái độ rất đáng trách
+ Tình hình của khách hàng bị tổn hại không thể cứu vãn được.
1.3.3. Tín dụng có thể huy động và tín dụng không thể huy động được ( có thể bán lại và
không thể bán lại ).
- Tín dụng có thể huy động là những khoản tín dụng mà ngân hàng có thể
nhượng lại nhằm thu hồi lại được tiền trước kỳ hạn đã định. Các khoản tín dụng này chủ
yếu dựa trên kỹ thuật các chứng phiếu có thể chuyển nhượng và cho phép ngân hàng đi
vay lại được ( tự tái cấp vốn ).
- Tín dụng không huy động là tín dụng mà ngân hàng cấp ra không thể đem
chuyển nhượng để vay lại vốn .
1.4.Rủi ro tín dụng:
Đó là rủi ro gắn liền với hoạt động ngân hàng, cho vay bao giờ cũng bao gồm
rủi ro và xảy ra mất mát. Rủi ro tín dụng không giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn
bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng, như: các hoạt
động bão lãnh, cam kết, chấp nhận tài trợ thương mại, cho vay ở thị trường liên ngân
hàng, những chứng khoán có giá, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ v.v.. . Ngày nay, dù có
nhiều hính thức kinh doanh mới trong hoạt ngân hàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, song
hoạt động tín dụng vẫn là hoạt kinh doanh chủ yếu của ngân hàng . Vì thế ở các nước,
rủi ro tín dụng là vấn đề được đặc biệt quan tâm . Các ngân hàng luôn luôn tìm cực đại
lợi nhuận qua việc tìm kiếm những lợi tức cao nhất có thể có ở các món cho vay và
chứng khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay, như:
sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, qui định
các mức tín dụng, vật thế chấp, và hạn ché tín dụng. Dẫu sao, không một ngân hàng nào
nghĩ được hết mọi sự bất ngờ khi nó viết ra những qui định hạn chế trong hợp đồng tín
dụng; sẽ luôn luôn có những hoạt động rủi ro của người vay tiền, chưa có một qui định
hạn chế nào loại bỏ được chúng. Người ta gọi đó là rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu được nợ khi đến hạn.
Rủi ro tín dụng xảy ra thường tạo cho ngân hàng những tổn thất về tài chính.
Nhưng những thiệt hại về uy tín của ngân hàng, về mất lòng tin của xã hội là những tổn
thất còn lớn hơn rất nhiều lần. Rủi ro tín dụng giống như là “ngòi nổ”tự mình nó sự phá
hoại chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp nhưng khi có những chất kích thích sự phá hoại lan
truyền và sự tàn phá khủng khiếp sẻ diển ra. Rủi ro tín dụng lúc đó có thể là đầu mối của
những cuộc khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảnh kinh tê- xã hội.
Rủi ro tín dụng thường có hai loại: rủi ro sai hẹn là rủi ro xảy ra khi khách hàng
không trả nợ đúng hạn và rủi ro mất vốn là rủi ro xảy ra khi khách hàng không trả được
tiền vay. Và cho dù bất cứ loại rủi ro nào thì các ngân hàng cũng luôn tìm cách để hạn
chế các rủi ro xảy ra và một khi nó đã xảy ra thì có thể xử lý được nó. Một trong những
biện pháp chính là vấn đề đảm bảo cho vay trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
2. Hình thức đảm bảo tiền vay:
2.1. Tính tất yếu khách quan phải đảm bảo tiền vay :
Rủi ro tín dụng luôn thường trực trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng
Thương mại và là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các vụ đổ vỡ của phần lớn các ngân
hàng. Các rủi ro này bắt nguồn từ sự không an toàn về sử dụng vốn của ngân hàng. Do
đó, an toàn trong quá trình sử dụng vốn là tất yếu khách quan và không thể thiếu được
đối với các Ngân hàng Thương mại.
Lý do chính đòi hỏi một khoản vay có đảm bảo là nhằm tạo điều kiện để người
cho vay giảm bớt được những rủi ro mất mát trong trường hợp người đi vay không muốn
hoặc không có khả năng trả được nợ vay khi đến hạn. Nhưng đảm bảo không có nghĩa là
các khoản vay sẽ được hoàn trả vì Ngân hàng chỉ trở thành chủ nợ ưu tiên trong chi trả
và cũng có quyền ưu tiên so với tất cả các chủ nợ khác trong việc thanh lý các tài sản
đảm bảo cho vay. ở bất cứ lúc nào, với khách hàng nào thì cho vay có đảm bảo là
nguyên tắc hoàn toàn hợp lý và cần thiết để đảm bảo cho ngân hàng đối phó với những
tổn thất khi món nợ quá hạn, khó đòi hoặc khách hàng không có khả năng thanh toán.
Mặc dù hoàn trả tín dụng không phải là mục đích kinh doanh của ngân hàng
nhưng nó là cơ sở quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Sử
dụng đảm bảo tiền vay giúp cho các nhà kinh doanh tiền tệ có thể hạn chế đến mức tối
thiểu các rủi ro xảy ra. Bởi họ có thể thu hồi vốn khi đến hạn thông qua việc xữ lý các
tài sản đảm bảo ngay cả khi người vay gặp khó khăn không có khả năng trả nợ. Mục
đích của ngân hàng trong việc đặt ra đảm bảo tiền vay là tạo điều kiện cho Ngân hàng có
thể thu hồi nợ một cách chắc chắn, đồng thời có cơ sở để mỡ rộng qui mô tín dụng. Hơn
nữa, Ngân hàng có quyền phát mãi các tài sản của người vay được dùng làm đảm bảo đã
góp phần nâng cao ý thức hoàn trả của người vay.
Tuy nhiên, không phải khách hàng nhất thiết phải có đủ tài sản đảm bảo thì
Ngân hàng mới cho vay. Một phương án kinh doanh có cơ sở vững chắc để thực hiện có
hiệu quả là điều kiện tiên quyết cho vay của Ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay khi
phương án kinh doanh của khách hàng có hiệu quả, có khả thu nợ chứ không chỉ dựa
vào việc bán tài sản đảm bảo để thu nợ.
Mặc dù vậy, nếu Ngân hàng không thực hiện các đảm bảo tiền vay thì sẽ không
chống đỡ nổi khi có rủi ro xảy ra. Tình trạng mất vốn khi cho vay và bị đọng vốn thường
xuyên không có cách khắc phục sẽ làm cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng không
có hiệu quả, thậm chí còn bị phá sản. Vì lẽ đó, đảm bảo tiền vay được coi là một trong
những biện pháp hữu hiệu trong việc hạn chế rủi ro tín dụng.
2.2. Khái niệm đảm bảo tiền vay:
Đảm bảo tiền vay là thiết lập những cơ sở pháp lý để có thêm một nguồn thu nợ
thứ hai ngoài nguồn thu thứ nhất.
Trong hoạt tín dụng của Ngân hàng, cho vay kinh doanh có nguồn thu nợ thứ
nhất là doanh thu đối với cho vay vốn lưu động, hoặc là khấu hao và lợi nhuận đối với
cho vay trung và dài hạn để hình thành tài sản cố định. Trong cho vay tiêu dùng, nguồn
thu nợ thứ nhất của Ngân hàng là thu nhập của cá nhân khách hàng như: tiền lương, các
khoản thu nhập chính ( lãi cho vay, lãi các chứng khoán ) và các khoản thu nhập khác.
Trong xem xét đánh giá hoạt động của khách hàng, nếu thấy nguồn thu nợ thứ
nhất chưa có cơ sở vững chắc thì Ngân hàng phải thiết lập các cơ sở pháp lý để có thêm
nguồn thu nợ thứ hai. Nguồn thu nợ thứ hai bao gồm giá trị tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc bảo lãnh của bên thứ ba và đây chính là nguồn dự phòng nếu bất trắc xảy ra.
2.3. Phân loại đảm bảo tiền vay:
2.3.1. Cho vay có đảm bảo bằng tài sản :
Cho vay có đảm bảo bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà
theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài
sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay hoặc bão lãnh bằng tài sản của bên
thứ ba.
2.3.2. Cho vay không có đảm bảo bằng tài sản:
Cho vay không có đảm bảo bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà
biện pháp đảm bảo tiền vay được thực hiện theo các biện pháp :
- Tổ chức tín dụng chủ động lựa chọn khách hàng vay
- Tổ chúc tín dụng nhà nước được cho vay theo sự chỉ định Chính phủ
- Tổ chức tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bão lãnh bằng tín
chấp của tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội.
III. Vấn đề cho vay có đảm bảo bằng tài sản trong các Ngân hàng Thương mại Việt
nam:
1.Tài sản đảm bảo và vai trò của tài sản đảm bảo :
Tài sản đảm bảo là những tài sản mà người đi vay ( hoặc người bảo lãnh) dùng
để đảm bảo cho khoản vay của người vay tại Ngân hàng bằng cách trao cho Ngân hàng
giấy tờ sở hữu tài sản và xác nhận cho Ngân hàng quyền phát mãi tài sản khi khách hàng
không trả được nợ khi đến hạn.
Như vậy, tài sản đảm bảo phải là những tài sản thuộc quyền sở hữu của khách
hàng . Quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.
Khi một tài sản được dùng để đảm bảo cho một khoản vay tức là có sự chuyển
về mặt pháp lý quyền sở hữu tài sản cho Ngân hàng nếu khoản vayquá hạn. Nếu khoản
vay được hoàn trả theo đúng thoã thuận thì tài sản đảm bảo đó được trao lại cho khách
hàng. Nếu khoản vay không được thanh toán và người vay không thực hiện nghĩa vụ của
mình thì tài sản đảm bảo sẻ bị xữ lý theo phán quyết của toà án.
Một mặt tài sản đảm bảo là một phương tiện tạo cho Ngân hàng một sự đảm bảo
rằng sẽ có một nguồn khác nữa dùng để hoàn trả cho khoản nợ nếu người đi vay mất khả
năng chi trả. Như vậy, tài sản đảm bảo là một phương thức làm giảm rủi ro tín dụng.
Mặt khác, tài sản đảm bảo còn tạo tâm lý cho Ngân hàng yên tâm hơn khi cấp
tín dụng cho khách hàng ; đồng thời nó nâng cao trách nhiệm của người đi vay trong
hoạt động kinh doanh của mình . Đây là cơ sở để Ngân hàng thiết lập được một mạng
lưới khách hàng cho mình.
2.Các hình thức cho vay có đảm bảo bằng tài sản:
2.1.Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay:
2.1.1. Thế chấp:
Thế chấp tài sản vay vốn Ngân hàng là việc bên vay vốn dùng tài sản là bất
động sản và một số động sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ trả nợ ( bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt quá hạn) đối với bên cho vay. Đây là
phương thức nhất thiết phải đảm bảo trong cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, cá thể và hộ gia đình. Đối với doanh nghiệp nhà nước hiện nay cũng có thể phải
áp dụng hình thức thế chấp tuỳ thuộc với doanh nghiêp và mối quan hệ của doanh
nghiêp với Ngân hàng.
Tài sản được dùng thế chấp là bất động sản và một số loại động sản nhất định
được quy định rõ với thời hạn bất kỳ ( Tàu biển , máy bay,..). Người ta có thể dùng tài
sản thế chấp để vay ngắn hạn , trung hạn hoặc dài hạn. Đối với thế chấp Ngân hàng bao
giờ cũng nắm giữ các giấy tờ sở hữu gốc.
2.1.2. Cầm cố:
Cầm cố tài sản vay vốn Ngân hàng là việc bên vay vốn có nghĩa vụ giao tài sản
là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay vốn để thực hiện nghĩa vụ trả nợ (
bao gồm nợ gốc, tiền lãi và tiền lãi phạt quá hạn). Nếu tài sản mà pháp luật có quy định
đăng ký quyền sở hữu hoặc có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu thì các bên có quyền
thoã thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố và giao bản gốc giấy tờ quyền sở hữu tài
sản thế chấp để vay cả ngắn hạn , trung hạn và dài hạn.
2.2.Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba:
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) dùng
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để cam kết với người cho vay vốn ( bên nhận bảo
lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bên vay vốn ( bên được bảo lãnh) nếu người
vay vốn không thực hiện nhiệm vụ trả nợ khi đến hạn
Hoạt động bảo lãnh ở Việt nam chủ yếu do các Ngân hàng Thương mại đảm
nhận cho khách hàng tham gia các dự án hoặc xin vay ở các Ngân hàng khác.
3. Các điều kiện đối với tài sản dùng đảm bảo tiền vay:
Khi các tài được dùng để đảm bảo cho các khoản vay tại Ngân hàng phải có các
điều kiện sau:
* Tài sản đảm bảo phải có các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, thuộc quyền
sở hợp pháp của khách hàng vay (hoặc bên bảo lãnh), các tài sản mà pháp luật quy định
đăng ký quyền sở hữu thì phải được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đối
với quyền sử dụng đất, bên đem đảm bảo phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp, đất không có tranh chấp, có thể chuyển nhượngvà
thời hạn dùng để đảm bảo tối đa bằng thời hạn được giao đất hoặc thuê đất còn lại.
` * Tài sản đảm bảo phải được pháp luật cho phép mua bán, chuyển nhượng trên
thị trường
* Những tài sản mà pháp luật qui định phải bảo hiểm thì bên vay vốn (hoặc bên
bảo lãnh) phải thực hiện bảo hiểm.
* Tài sản đem đảm bảo phải có khả năng phát mãi.
* Một tài sản được dùng để bảo đảm cho một nghĩa vụ trả nợ tại một tổ chức tín
dụng; trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu theo qui định pháp luật, thì một tài
sản có thể được đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ trả nợ tại một tổ chức tín dụngvới
điều kiện giá trị tài sản đảm bảo tiền vay phải lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được
đảm bảo.
* Hoa lợi, lợi tức, các quyền phát sinh từ bất động sản được đem làm bảo đảm
thuộc tài sản đảm bảo hay không là do các bên thoã thuận hoặc do pháp luật qui định.
4.Qui trình cho vay có đảm bảo bằng tài sản:
Cho vay có hoặc không có đảm bảo bằng tài sản đều có những đặc điểm giống
nhau trong qui trình tài trợ tín dụng của Ngân hàng như: xem xét yêu cầu vay vốn của
khách hàng, nghiên cứu và đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đàm phán
về tiền vay, kỳ hạn cho vay, lãi suất cho vay, ký kết hợp đồng cho vay.
Đối với những khoản cho vay có đảm bảo bằng tài sản thì qui trình cho vay
được tiến hành như sau:
4.1. Định giá tài sản đảm bảo:
Sau khi nhân viên tín dụng đã phân tích, đánh giá hồ sơ vay vốn của khách hàng
về mục đích vay vốn, khả năng tài chính, khả năng hoạt động,..nếu tất cả đều phù hợp
với chính sách kinh doanh của Nhà nước và mức độ rủi ro có thể chấp nhận được thì tiến
hành giám định về hồ sơ tài sản và định giá tài sản đem đảm bảo.
* Giám định tính chất pháp lý của tài sản: Ngân hàng phải xem xét thông qua
các hồ sơ , giấy tờ có liên quan để xác định tài sản đó có thuộc quyền sở hữu của khách
hàng vay vốn ( hoặc của bên bảo lãnh) hay không? Tài sản đó có được phép dùng để
đảm bảo khoản vay theo qui định của pháp luật hay không? Tài sản có khả năng phát
mãi hay không?..
* Định giá tài sản đảm bảo: Định giá tài sản phải sát với giá trên thị trường.
Nếu định giá cao hơn giá trên thị trường sẽ có nguy cơ dẫn đến bán tài sản không thu hồi
đủ nợ gốc, lãi và các chi phí khác có liên quan trong trường hợp khách hàng khônh
thanh toán nợ được khi đến hạn.Còn nếu định giá thấp hơn giá thị trường sẽ ảnh hưởng
đến nhu cầu vốn cho khách hàng , từ đây có thể ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng trong việc thu hút khách hàng.
Việc xác định giá trị tài sản đảm bảo tiền vay do các bên thoã thuận, hoặc thuê
tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định.
4.2.Xác định mức cho vay dựa vào tài sản đảm bảo:
Sau khi đã xác định giá trị tài sản đảm bảo thì Ngân hàng tiến hành cho vay dựa
vào tài sản này. Do tài sản đảm bảo là nguồn thu nợ thứ hai và nguồn này phải đảm bảo
chi trả đủ các khoản sau: nợ gốc, lãi vay, các chi phí có liên quan khác . Vì vậy mức cho
vay bao giờ cũng thấp hơn giá trị của tài sản định mức (thông thường là 70% giá trị tài
sản đảm bảo). Tuy nhiên giá trị tài sản thường xuyên biến động trên thị trường, vì vậy
tuỳ vào mức độ biến động của từng tài sản trên thị trường mà Ngân hàng ấn định tỷ lệ
cho thích hợp. Những loại tài sản ít biến động giá, mức cho vay có thể lên đến 80% so
với giá trị tài sản.Còn những tài sản có mức biến động lớn, tỷ lệ cho vay có thể là 50%.
4.3. Ký kết hợp đồng và quản lý tài sản đảm bảo:
Sau khi hai bên đã thoã thận được các điều kiện về tín dụng, bên vay vốn (hoặc
bên bảo lãnh) phải lập giấy cầm cố, thế chấp tài sản đồng thời chuyển giao giấy chứng
nhận quyền sở hữu tài sản cho Ngân hàng và tiến hành ký kết hợp đống tín dung theo
mẫu qui định của cơ quan có thẩm quyền.
Đối với tài sản cầm cố, thế chấp là phương tiện vận tải, tàu thuyền đánh bắt thuỷ
hải sản có giấy chứng nhận đăng ký, thì tổ chức tín dụng giữ bản chính giấy chứng nhận
đăng ký, chủ phương tiện được dùng bản sao có công chứng của Nhà nước và xác nhận
của tổ chức tín dụng để lưu hành phương tiện trong thời gian cầm cố, thế chấp.
Khi thế chấp tài sản, tài sản thế chấp do khách hàng vay giữ , trừ trường hợp các
bên thoã thuậngiao cho tổ chức tín dụng hoặc bên thứ ba giữ. Nếu tài sản là tài sản có
đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đất thì tổ chức tín dụng phải giữ bản chính giấy
chứng nhận quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất.
Trong trường hợp cầm cố, thế chấp tài sản cho khoản vay hợp vốn, các tổ chức
tín dụng tham gia hợp vốn cử người đại diện quản lý tài sản và các giấy tờ của tài sản
bảo đảm tiền vay.
IV. Vấn đề xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ trong hoạt động của Ngân hàng thương
mại:
1.Khái niệm nợ khó đòi:
Nợ khó đòi là khoản nợ mà khách hàng không có khả năng chi trả cho Ngân
hàng sau một thời gian kết thúc hợp đồng tín dụng.
Theo luật Ngân hàng hiện nay, nợ khó đòi hay còn gọi là nợ xấulà khoản nợ đã
quá hạn trên 360 ngày và dư nợ cho vay tuy chưa quá hạn nhưng đã xác định là đã bị
mất (người vay chết, mất tích, doanh nghiệp bị phá sản, giải thể, bị khách hàng lừa
đảo,..). Ngoài ra một bộ phận của khoản nợ quá hạn mà Ngân hàng phải trả thay cho
khách hàng trong các khoản bảo lãnh mở thế chấp nhập hàng trả chậm cũng được coi là
khoản nợ khó đòi.
2.Thời điểm phát sinh việc xử lý tài sản đảm bảo cho vay:
Rủi ro tín dụng luôn là yếu tố tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng Thương mại. Do vậy tình trạng khách hàng không trả được nợ đúng hạn hay không
trả được nợ cho Ngân hàng là điều luôn xảy ra. Và nợ quá hạn hay nợ khó đòi luôn xuất
hiện khiến các Ngân hàng Thương mại luôn phải đặt mình trong tình trạng phải xử lý
các khoản nợ này.
Như chúng ta đã biết xử lý tài sản đảm bảo là một biện pháp để thu hồi các
khoản nợ này. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khi nào thì phát sinh việc xử lý các tài sản
này, Mặc dù một phần khoản nợ khó đòi nằm trong nợ quá hạn dưới 360 ngày nhưng
không có nghĩa khi phát sinh tình trạng khách hàng không trả nợ đúng hạn là đã tiến
hành xử lý tài sản đảm bảo tức là khẳng định khách hàng không trả được nợ. Ngân hàng
vẫn tiếp tục xem xét khả năng trả nợ của khách hàng và cho gia hạn nợ nếu xét thấy
khách hàng vẫn còn có khả năng thanh toán. Mục tiêu của Ngân hàng không phải là bắt
nợ khách hàng mà cố gắng tối đa để giúp khách hàng trả được nợ cho Ngân hàng. Ngân
hàng có thể cấp thêm vốn cho khách hàng để tiếp tục duy trì sản xuất nếu dự án còn khả
thi và nguyên nhân khách hàng không trả được nợ là do khách hàng thiếu vốn để sản
xuất kinh doanh.
Chính vì vậy, việc xem xét đến tài sản đảm bảo chỉ nên áp dụng sau khi đã thẩm
định, phân tích kỷ khả năng tồn tại để tiếp tục sản xuất của khách hàng. Nếu xét thấy
tình hình kinh doanh của khách hàng có dấu hiệu phát triển lành mạnh thì Ngân hàng
không nên xiết tài sản đảm bải để thu hồi nợ, mà nên tiếp tục gia hạn nợ, hoặc điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ cho khách hàng. Nếu giải phàp này gặp trở ngại do tranh chấp giữa
các chủ nợ của người vay thì Ngân hàng cũng có thể xiết nợ để xác lập quyền sở hữu và
quyền định đoạt của mình đối vơi tài sản đó nhưng không nên phát mãi mà nên cho
khách hàng thuê lại với điều kiện khách hàng phải hoàn trả vốn cho Ngân hàng trong
một thời gian nhất định do hai bên thoã thuận mà thực chất đây là thay đổi hợp động tín
dụng bằng hợp đồng thuê tài sản. Tài sản đảm bảo chỉ nên xử lý bằng phát mãi khi
doanh nghiệp không thể trả được nợ cho Ngân hàng do dự án vay vốn không khả thi
hoặc doanh nghiệp bị phá sản.
3.Nguyên tắc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ:
Việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ đối với các khoản cho vay có
đảm bảo bằng tài sản phải được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
* Khi đến hạn mà khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ đối với tổ chức tín dụng, thì tài sản bảo đảm xin vay được xử lý để
thu hồi nợ.
* Tài sản đảm bảo phải được xử lý theo các phương thức mà các bên đã thoã
thuận trong hợp đồng, trường hợp các bên không xử lý được theo các phương thức đã
thoã thuận thì tổ chức tín dụng có quyền:
a) Bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ.
b) Yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; nếu bên bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì xử lý tài sản của bên bảo
lãnh để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
* Tổ chức tín dụng có quyền chuyển giao quyền thu hồi nợ và uỷ quyền cho bên
thứ ba xủ lý tài sản đảm bảo tiền vay; trong trường hợp này thì bên thư ba cũng có
quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ như tổ chức tín dụng.
* Trường hợp một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ trả nợ, nếu phải xử lý tài
sản đảm bảo tiền vay để thực hiện một nghĩa vụ trả nợ đến hạn, thì các nghĩa vụ trả nợ
khác tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạnvà được xử lý tài sản đảm bảo tiền vay
để thu hồi nợ.
* Trường hợp tài sản được các bên xử lý theo thoã thuận thì phải thực hiện
nhanh chóng, công khai, bảo đảm lợi ích giữa các bên; nếu tài sản không xử lý được do
không thoã thuận được giá bán , thì tổ chức tín dụng có quyền quyết định giá bán tài sản
để thu hồi nợ.
* Các chi phí phát sinh trong xử lý tài sản đảm bảo tiền vay do khách hàng vay,
bên bảo lãnh chịu. Tiền thu được từ xử lý tài sản đảm bảo tiền vay sau khi trừ đi chi phí
xử lý, thì tổ chức tín dụng thu nợ theo thứ tự: nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn, các chi phí
khác (nếu có). Tài sản đảm bảo tiền vay sau khi xử lý nếu không đủ để thực hiện nghĩa
vụ trả nợ, thì khách hàng vay. bên bảo lãnh phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ đã
cam kết.
* Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm tạo điều kiện, hổ trợ các
bên xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho tổ chức tín dụng.
* Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là biện pháp để thu hồi nợ, không phải là
hoạt động kinh doanh tài sản của Ngân hàng.
4.Phương thức xử lý tài sản đảm bảo tiền vay:
Tài sản đảm bảo được xử lý theo các phương thức đã thão thuận trong hợp đồng
tín dụng hoặc trong hợp đồng cầm cố, thế chấp, hợp đồng bảo lãnh giữa tổ chức tín dụng
và khách hàng vay, bên bảo lãnh. Trong trường hợp các bên không xử lý được tài sản
đảm bảo theo phương thức đã thoã thuận, thì tổ chức tín dụng có quyền chủ động áp
dụng các phương thức xử lý tài sản đảm bảo tiền vay.
*Đối với tài sản thông thường:
1) Ngân hàng tiến hành bán tài sản đảm bảo:
Bán tài sản đảm bảo là việc tổ chúc tín dụng hoặc các bên bảo đảm hoặc các bên
phối hợp để bán tài sản trực tiếp cho người mua hoặc uỷ quyền cho bên thứ ba bán tài
sản cho người mua.
Bên thứ ba được uỷ quyền bán tài sản có thể là trung tâm bán đấu giá tài sản
hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản hoặc tổ chức có chức năng được mua tài sản để
bán.
2) Nhận chính tài sản đảm bảo để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo
đảm:
Nhận chính tài sản đảm bảo để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo
đảm là việc Ngân hàng trực tiếp nhận tài sản đảm bảo, lấy giá tài sản đảm bảo được định
giá khi xử lý làm cơ sở để thanh toán nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn của bên bảo đảm sau
khi trừ đi các chi phí khác (nếu có) và được tiếp nhận tài sản đó theo qui định.
3)Nhận các khoản tiền, tài sản mà bên thứ ba phải trả hoặc phải giao cho bên
bảo đảm :
Nhận các khoản tiền, tài sản mà bên thứ ba phải hoặc phải giao cho bên bảo đảm
là việc tổ chức tín dụng trực tiếp nhận khoản tiền hoặc tài sản mà bên thứ ba phải trả
hoặc phải giao cho bên bảo đảm theo các thủ tục qui định.
*Đối với các tài sản là quyền sử dụng đất:
Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp quyền sử dụng đất
mà bên thế chấp không thực hiện hoặc không đúng nghĩa vụ thì quyền sử dụng đất được
xử lý. Trong trường đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng đã thế chấp tại Ngân
hàng thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tổ chức
đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi vốn và lãi, trong trường hợp quyền sử dụng đất ở
đã thế chấp với tổ chức kinh tế, cá nhân thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi vốn và lãi.
5. Khai thác, sử dụng tài sản đảm bảo trong thời gian chưa xử lý:
Trong thời gian tài sản đảm bảo chưa xử lý được để thu hồi nợ, tổ chức tín dụng
có quyền khai thác, sử dụng tài sản bảo đảm hoặc cho phép bên bảo đảm hoặc uỷ quyền
cho bên thứ ba khai thác,sử dụng tài sản đảm bảo theo đúng tính năng và công dụng của
tài sản. Việc cho phép hoặc uỷ quyền khai thác, phương thức khai thác và việc xử lý hoa
lợi, lợi tức từ việc khai thác, sử dụng tài sản bảo đảm phải được lập thành văn bản.
Hoa lợi, lợi tức thu đượcphải được hạch toán riêng (trừ các bên có thoã thuận
khác); sau khi trừ đi các chi phí cần thiết cho việc khai thác, sử dụng tài sản (bao gồm:
chi phí quản lý, tu bổ, sữa chữa tài sản, các loại thuế, phí khai thác tài sản và các chi phí
cần thiết khác), số tiền còn lại được thanh nợ cho tổ chức tín dụng.
6. Định giá tài sản đảm bảo khi xử lý:
Tổ chức tín dụng và bên bảo đảm thoã thuận về giá xử lý tài sản đảm bảo tại
thời điểm xử lý và lập biên bản thoã thuận việc định giá tài sản
Trường hợp các bên không thoã thuận được về giá tài sản đảm bảo thì việc định
giá được tiến hành như sau:
* Trước khi tổ chức tí dụng quyết định giá xử lý tài sản đảm bảo, tổ chức tín
dụng thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định giá hoặc tham khảo giá đã được
tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định, giá thực tế tịa địa phương vào thời điểm
xử lý, giá qui định của Nhà nước (nếu có) và các yếu tố khác về giá.
* Trong trường hợp bán tài sản đảm bảo mà có sự chênh lệch lớn về giá giữa
những người cùng đăng ký mua tài sản hoặc khi có nhiều người cùng đăng ký mua tài
sản thì tổ chức tín dụng quyết định giá xử lý tài sản đảm bảo trên cơ sở trả giá cao nhất
hoặc đưa ra bán đấu giá để thu hồi nợ.
Trường hợp uỷ quyền cho tổ chức bán đấu giá tài sản thì việc xác định giá xử lý
tài sản đảm bảo được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản.
Trường hợp uỷ quyền hoặc chuyển giao cho bên thứ ba xử lý tài sản đảm bảo thì
tổ chức tín dụng có thể xác định giá xử lý tài sản đảm bảo hoặc thoã thuận để bên thứ ba
xác định giá xử lý tài sản đảm bảo theo nguyên tắc quy định của cơ quan có thẩm quyền.
7. Thanh toán thu nợ từ việc xử lý tài sản đảm bảo:
7.1.Việc thanh toán thu nợ được tiến hành theo thứ tự sau:
+ Các chi phí cần thiết để xử lý tài sản đảm bảo: chi phí bảo quản, định giá,
quảng cáo bán tài sản, tiền hoa hồng, chi phí lệ phí bán đấu giá và các chi phí cần thiết
khác liên quan đến công việc xử lý tài sản.
+ Thuế và các khoản phí nộp ngân sách Nhà nước (nếu có)
+ Nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn tính đến ngày bên bảo đảm hoặc bên giữ tài sản
giao tài sản cho Ngân hàng để xử lý.
7.2. Trường hợp tổ chức tín dụng ứng trước để thanh toán các chi phí xử lý tài
sản hoặc các khoản thuế, phí nộp ngân sách Nhà nước, thì tổ chức tín dụng được thu hồi
lại số tiền ứng trước này trước khi thanh toán nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn, ttrừ trường
hợp bên bảo đảm đã thanh toán lại số tiền ứng trước cho tổ chức tín dụng.
7.3. Trong trường hợp số tiền thu được khi bán tài sản và các khoản thu từ việc
khai thác, sử dụng tài sản đảm bảo trong thời gian chưa xử lý (sau khi trừ đi các chi phí
cần thiết) lớn hơn số nợ phải trả, thì phần chênh lệch thừa đước hoàn trả lại cho bên bảo
đảm. Bên bảo đảm có nghĩa vụ tiếp tục trả nợ nếu khoản thu được không đủ để thanh
toán khoản nợ phải trả và những chi phí liên quan đến việc xử lý tài sản đảm bảo.
7.4. Đối với một tài sản đảm bảo cho nhiều nghĩa vụ trong trường hợp cho vay
hợp vốn, nếu phải xử lý tài sản để thực hiện nghĩa vụ trả nợ đến hạn, thì các bên tham
gia cho vay hợp vốn được thanh toán theo tỷ lệ vốn góp.
7.5. Trong trường hợp tài sản đã mua bảo hiểm, thì tiền bảo hiểm do cơ quan
bảo hiểm trả được trực tiếp cho tổ chức tín dụng để thu nợ. Số tiền này sẽ được dùng để
thanh toán khoản nợ của bên bảo đảm.
7.6. Trường hợp bên bảo đảm làm tăng giá trị tài sản đảm bảo (như sữa chữa
hoặc nâng cấp tài sản..) trong quá trình trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản đảm bảo, thì
phần giá trị tăng thêm của tài sản đảm bảo được coi là một phần trong giá trị của tài sản
đảm bảo để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ban đầu. Khi xử lý tài sản đảm bảo, tổ chức tín
dụng được thanh toán nợ từ cả phần giá trị tăng thêm của tài sản bảo đảm.
8.Các nhân tố ảnh hưởng đến việc xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ:
8.1. Các yếu tố thuộc về Ngân hàng:
* Chất lượng nhân sự:
Con người ở đâu và bao giờ cũng luôn quan trọngvà là yếu tố quyết định tới sự
thành bại của công việc. Đối với ngành Ngân hàng, để công tác xử lý tài sản đảm bảo
cho vay đạt được hiệu quả cao thì chất lượng cán bộ tín dụng là điều trước tiên phải tính
đến. Đội ngũ cán bộ có trình độ, có kinh nghiệm và kiến thức thực tiễn sẽ giúp cho việc
thẩm định dự án đầu tư có hiệu qủa, tránh việc thẩm định sai dẫn đến phải phát mãi tài
sản đảm bảo để thu hồi nợ. Ngoài ra đội ngũ cán bộ có khả năng chuyên sâu trong từng
lĩnh vực của nền kinh tế , phân tích được tình hình biến động của thị trường sẻ giúp cho
việc định giá tài sản đảm bảo được đúng, hợp lý, tạo thuận lợi cho cả Ngân hàng và
khách hàng. Đội ngũ cán bộ có đạo đức tốt, trong sáng, nhiệt tình làm việc sẽ tránh được
tình trạng cấu kết với khách hàng để lừa đảo Ngân hàng thông qua nhận tài sản đảm bảo
không có giá trị hoặc giá trị thấp khiến cho việc xử lý tài sản đảm bảo gặp nhiều khó
khăn. Đôị ngũ cán bộ thực hiện tốt qui trình và các thủ tục cho vay có đảm bảo bằng tài
sản sẽ làm giảm bớt những rủi ro cho Ngân hàng.
* Công tác quản lý, tổ chức kiểm soát hoạt động Ngân hàng:
Công tác quản lý, tổ chức thực hiện được tiến hành chặt chẽ, có trình tự và
thường xuyên sẽ khuyến khích các hoạt động thẩm định được diển ra lành mạnh, ngược
lại sẽ tạo khe hở cho một số cán bộ tín dụng lợi dụng gây ra hậu quả nghiêm trọng cho
Ngân hàng.
Công tác tổ chức, kiểm soát tốt sẽ giúp cho Ngân hàng nắm rõ được thông tin về
các khoản vay, thực trạng về tài sản đảm bảo , tránh tình trạng khách hàng sử dụng tài
sản đảm bảo sai mục đích, lừa đảo Ngân hàng.
8.2.Các yếu tố thuộc về phía khách hàng:
* Năng lực của khách hàng:
Bất kỳ một khoản vay nào được giải ngân , Ngân hàng đều muốn sau một thời
gian nhất định sẽ thu hồi được nợ gốc và lãi. Tuy nhiên, nếu năng lực của khách hàng
kém, khách hàng làm ăn không hiệu quả, yếu kem trong công tác quản lý dẫn đến làm ăn
thua lổ không thu hồi được nợ dẫn không trả được nợ vay cho Ngân hàng. Mặt khác, các
tài sản đảm bảo có thể xuống giá nghiêm trọng và không đủ bù đắp cho nguồn vốn vay.
Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thế chấp bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay,
khi phải phát mãi tài sản để thu hồi nợ thường khồng thu đủ nợ do tài sản không bán
được, ảnh hưởng rất nhiều đến Ngân hàng và cả khách hàng.
*Đạo đức khách hàng:
Thái độ của khách hàng đối với việc trả nợ vay cho Ngân hàng là rất quan trọng,
ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Khi tài sản đảm bảo
phải phát mãi để thu hồi nợ vốn vay cho Ngân hàng, nếu khách hàng tôn trọng và hợp
tác với Ngân hàng để đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp với qui định và đáp ứng được
yêu cấu của hai bên thì việc xử lý tài sản đảm bảo sẻ diễn ra thuận lợi. Tuy nhiên, có
những trường hợp khách hàng gây khó dể cho Ngân hàng trong việc xử lý tài sản khiến
các Ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn . Có rất nhiều cách mà khách hàng gây khó
khăn cho Ngân hàng: lợi dụng các kẻ hở, các mâu thuẩn giữa các văn bản qui định của
Chính phủ về xử lý tài sản đảm bảo cho vay để cố tình chây ì, kéo dài thời gian phát mãi
tài sản, tiến hành các thủ đoạn lừa đảo Ngân hàng để tránh phải trả nợ.
8.3. Các yếu tố khách quan:
Công tác xư lý tài sản đảm bảo cho vay không chỉ chịu tác động của các yếu tố
chủ quan mà còn bị tác động từ các yếu tố khách quan từ môi trường nằm ngoài sự kiểm
soát của Ngân hàng.
*Môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế dù thay đổi theo chiều hướng nào cũng tác động đến hoạt
động của Ngân hàng. Các chính sách kinh tế của Nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến công
tác xử lý tài sản đảm bảo chop vay. Việc phát triển kinh tế theo từng lĩnh vực và việc
khuyến khích mở rộng các ngành nghề sẻ khiến cho các Ngân hàng có thể bán được tài
sản đảm bảo thuộc về những ngành nghề và lĩnh vực đó. Cơ chế, chính sách kinh tế
trong từng thời kỳ của Đảng và Nhà nước cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc phát mãi tài
sản đảm bảo thu hồi nợ của Ngân hàng . Ngoài ra, vấn đề thị hiếu, nhu cầu dân chúng có
tác động đến việc phát triển các thị trường, như: thị trường bất động sản , thị trường đất
đai, thị trường máy móc, thiết bị, ..tạo điều kiện cho Ngân hàng phát mãi tài sản đảm
bảo được dể dàng.
*Môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý ổn định sẻ thuận tiện hơn rất nhiều cho việc kinh doanh của
Ngân hàng. Các văn bản luật và các qui định về vấn đề cho vay có bảo đảm bằng tài sản,
xử lý tài sản đảm bảo cho vay.. cũng ảnh hưởng nhiều đến việc xử lý tài sản đảm bảo
của Ngân hàng. Nếu các văn bản này còn nhiều bất cập, mâu thuẩn và không đồng bộ sẻ
khiến cho Ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Ngược lại, các qui trình và thủ tục xử lý tài
sản đảm bảo đơn giản sẽ giúp các Ngân hàng rất nhiều trong việc phát mãi tài sản đảm
bảo.
*Môi trương chính trị:
Môi trường chính trị ổn định sẻ giúp cho các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh, trả được nợ cho Ngân hàng khiến Ngân hàng không cần
phải phát mãi tài sản đảm bảo để thu hồi nợ. Ngoài ra, môi trường chính trị ổn định sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho việc ban hành các văn bản phát pháp luật có liên quan đến
việc xử lý tài sản đảm bảo, từ đó giúp cho các Ngân hàng dễ dàng hơn trong việc tiến
hành xử lý tài sản đảm bảo cho vay.
V. ý nghĩa của việc xử lý tài sản đảm bảo cho vay thu hồi nợ trong hoạt động tín
dụng của Ngân hàng Thương mại:
Nợ quá hạn, nợ khó đòi luôn luôn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của các
Ngân hàng Thương mại. Mặc dù các Ngân hàng Thương mại luôn tìm mọi cách để giảm
thiểu các khoản nợ này nhưng vẫn luôn đối phó với tình trạng là một khối lượng lớn
nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng bị chôn sâu trong tài sản đảm bảo cho vay trong
khi nguồn vốn cần cho kinh doanh lại rất hạn hẹp. Do hoạt động kinh doanh của các
Ngân hàng Thương mại là nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận nên Ngân hàng không thể
thu được lợi nhuận nến nguồn vốn cho vay bị động và có thể không thu hồi đủ giá trị
ban đầu. Vì vậy, việc xử lý tài sản đảm bảo cho vay để thu hồi nợ có ý nghĩa rất quan
trọng đối với cả Ngân hàng va khách hàng.
1. Đối với Ngân hàng:
Xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ sẽ giúp cho Ngân hàng “khơi thông được
dòng chảy của vốn” tạo điều kiện cho nguồn vốn bị ứ động phát huy được tác dụng của
nó, mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Phát mãi tài sản đảm bảo sẽ giúp cho các Ngân
hàng Thương mại thu hồi được một phần lượng vốn đã mất do khách hàng không trả
được nợ và làm giảm được chi phí do nguồn vốn cho vay không thu được lãi nhưng vẫn
phải trả lãi cho các khoản vốn mà Ngân hàng phải huy động từ trong nền kinh tế, bởi vì
các khoản vốn thu hồi lại được sẽ đựoc Ngân hàng đầu tư vào các dự án khác khả thi
hơn.
Mặt khác, xử lý tài sản đảm bảo cũng sẽ giúp cho các Ngân hàng Thương mại
giảm được chi phí do việc phải bảo quản, bảo dưỡng các tài sản bảo đảm của khách hàng
trong khi các tài sản này ngừng hoạt động để đưa vào diện xử lý để thu hồi nợ. Đối với
những Ngân hàng Thương mại mà khối lượng tài sản thế chấp, cầm cố lớn do nhiều
khách hàng không trả được nợ, việc bán tài sản sẻ giúp cho Ngân hàng thu hồi được nợ,
tránh rơi vào tình trạng rủi ro phá sản do không có khả năng thanh toán cho các khách
hàng gửi tiền. Xử lý tài sản đảm bảo sẽ là một biện pháp tạo đà đẩy mạnh tiến trình lành
mạnh hoá hoạt động tài chính của các tổ chức tín dụng.
2. Đối với khách hàng:
Tâm lý khách hàng vay vốn Ngân hàng đều muốn kinh doanh có hiệu quả, thu
được lợi nhuận để trả nợ vay Ngân hàng, không ai muốn bị rủi ro dẫn đến phải bán tài
sản đảm bảo để trả nợ cho Ngan hàng, Tuy nhiên, điều đó lại thường xuyên xảy ra và
đưa khách hàng vào tình trạng buộc phải bán tài sản đảm bảo để trả nợ. Có những khách
hàng do nguồn lực tài chính hùng mạnh hoặc tin tưởng vào khả năng kinh doanh của
mình và rủi ro là yếu tố khách quan thì có xu hướng xin Ngân hàng điều chỉnh kỳ hạn nợ
hoặc gia hạn nợ để tiếp tục kinh doanh nhằm trả nợ cho Ngân hàng. Tuy nhiên, số lượng
khách hàng này là rất ít và chủ yếu số khách hàng còn lại thường rơi vào tình
trạngkhông thể trả được nợ cho Ngân hàng hoặc nếu trả được thì dây dưa, kéo dài trong
thời gian lâu. Và vì vậy, Ngân hàng buộc phải bán tài sản đảm bảo của họ để thu hồi nợ
cho mình. Việc bán tài sản đảm bảo nếu trả được nợ sẽ giúp cho các khách hàng hoàn
thành được nghĩa vụ trả nợ của mình và nếu chưa trả đủ nợ cũng sẽ giúp cho khách hàng
giảm bớt được nợ đối với Ngân hàng . Và quan trọng hơn là sẽ giúp các khách hàng
tránh phải ra hầu toà do không trả được nợ cho Ngân hàng.
Mặc dầu xử lý tài sản đảm bảo là yêu cầu bắt buộc nếu khách hàng không thực
hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình đối với Ngân hàng. Tuy nhiên, các Ngân hàng
không thực hiện việc xử lý tài sản đảm bảo một cách nguyên tắc mà có tình có lý đối với
khách hàng đặc biệt là đối với tài sản thế chấp là nhà ở của các cá nhân. Ngân hàng vẫn
sẽ phát mãi tài sản đảm bảo nhưng số tiền thu đựoc một phần được sử dụng để đảm bảo
nơi ăn chốn ở cho khách hàng, phần còn lại mới là phần thu cho Ngân hàng. Như vậy,
khách hàng vừa đảm bảo được nghĩa vụ trả nợ vừa đảm bảo đuợc nơi ăn chốn ở cho
chính mình.
Do đó, đối với cả Ngân hàng và khách hàng, mặc dù xử lý tài sản đảm bảo thu
hồi nợ không phải là một giải pháp tối ưu nhưng nó đáp ứng được yêu cầu cấp bách là
thu hồi được nợ cho Ngân hàng, đảm bảo an toàn cho người gửi tiền.
VI. kinh nghiệm xử lý các khoản nợ xấu thông qua xử lý tài sản đảm bảo và việc trích
lập dự phòng rủi ro tại thái lan và hàn quốc:
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 trong khu vực đã làm ảnh hưởng
trầm trọng đến hệ thống Ngân hàng của các nước Châu á. Thái Lan và Hàn Quốc- hai
con rồng Châu á cũng không thoát khỏi vòng xoáy và chịu ảnh hưởng một cách nặng nề.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu tác động đến cuộc khủng hoảng mà hai nước lâm
phải là: vay nợ nước ngoài nhiều, nợ quá hạn (nợ xấu) chiếm tỷ trọng lớn. Tại Thái Lan,
dư nợ nước ngoài khi xảy ra khủng hoảng là 80 tỷ USD , trong đó cá nhân nợ chiếm
73%, nợ xấu tính đến tháng 6/1998 là 104 tỷ bạt. Còn tại Hàn Quốc, dư nợ nước ngoài
khi xảy ra khủng hoảng là 150 tỷ USD , trong đó nợ ngắn hạn chiểm tới 50%. Các khoản
vay nợ đến hạn nhưng không trả được dẫn đến Ngân hàng mất khả năng thanh toán. Cả
hai nước đều lấy tài sản thế chấp làm đảm bảo vốn vay là chủ yếu mà xem nhẹ đảm bảo
bằng dự án khả thi, có hiệu quả, trong khi tài sản thế chấp bán được giá trị thấp, thậm
chí không có khả năng bán, do đó không thu hồi được vốn vay.Trước tình hình đó,
Chính phủ Thái Lan và Hàn Quốc đã và đang có nhiều quyết sách tích cực nhằm khắc
phục hậu quả, tháo gỡ khó khăn, chấn chỉnh, cơ cấu lại khu vực tài chính ngân hàng và
đặc biệt là xử lý tài sản thế chấp, những khoản nợ xấu.
Tại Thái lan, việc đánh giá tài sản thế chấp có thể do hai bên chủ nợ và con nợ
thoã thuận thực hiện, hoặc có thể thuê một công ty có chức năng đánh giá tình hình. Khi
đánh giá phải được làm rõ tài sản nào có giá trị, có khả năng thu hồi vốn vay, tài sản nào
bị nghi ngờ. Tài sản nào không có khả năng thu hồi giá trị. Từ đó xác định tỷ lệ dự
phòng rủi ro thích hợp.Chính phủ Thái Lan cho phép các Ngân hàng Thương mại được
thành lập công ty mua bán tài sản thế chấp, cầm cố. Cổ đông của công ty là các Ngân
hàng Thường mại, mỗi Ngân hàng Thương mại được mua tối đa 10% vốn điều lệ. Công
ty mua nợ của Nhà nước sẽ trả theo giá trị ghi trong sổ sách kế toán sau khi trừ đi một số
tiền khấu trừ sẽ được qui định thống nhất và phát hành công trái dài hạn để cung cấp vốn
cho công ty này. Công ty mua nợ sẽ do giới chuyên môn chứ không phải là do giới chức
quan liêu của Chính phủ điều hành. Trong điều kiện cần thiết như cuộc khủng hoảng vừa
qua Chính phủ có thể mua cổ phần của các Ngân hàng gặp khó khăn, phải giải thể, sát
nhập,..Đồng thời, Nhà nước cho phép thành lập quỹ phát triển và phục hồi tài sản tài
chính do Bộ tài chính quản lý để phát hàng trái phiếu 200 tỷ bạt dùng mua cổ phần ưu
tiên, 100 tỷ bạt mua cổ phần thường của các Ngân hàng Thương mại, công ty tài chính.
Mặt khác, nếu chưa đủ đáp ứng yêu cầu , sẽ kêu gọi nước ngoài mua cổ phần. Đồng thời
thành lập công ty Bảo hiểm trên thế giới để phòng ngừa rủi ro, tỷ lệ đóng góp từ 0,23%
đến 0,35% trên tổng số tiền huy động của mổi Ngân hàng Thương mại. Để cơ cấu lại nợ
và dự phòng rủi ro, hiện nay Thái Lan sử dụng 3 cách:
- Điều chỉnh, sửa lại hợp đồng vay vốn như hạ lãi suất vay, giảm hoặc không
phạt, hoặc yêu cầu con nợ chuyển giao tài sản thế chấp để bán, chấp nhận lổ để xoá nợ
- Kết hợp giữa điều chỉnh lại hợp đồng vay với việc chuyển giao tài sản thế chấp
để xử lý
- Giãn nợ, khi con nợ gặp khó khăn tạm thời trong thu chi tài chính, sản xuất
kinh doanh.
Việc phân loại nợ quá hạn để dự phòng rủi ro được tính toán và xác định theo 5
loại: ( theo bảng)
Việc tính dự phòng rủi ro, 6 tháng thực hiện một lần.
Loại
Thời hạn không
thu được nợ
Tỷ lệ dự phòng
Loại 1 (Nợ quá hạn bình thường)
1 tháng 1%
Loại 2 (Nợ quá hạn không bình
thường)
1-3 tháng 2%
Loại 3 (Nợ quá hạn dưới tiêu chuẩn
bình thường)
3-6 tháng 20%
Loại 4 (Nợ khó đòi) 6-12 tháng 50%
Loại 5 ( Nợ quá hạn không thu hồi
được)
Trên 12 tháng 100%
Tại Hàn Quốc, việc xử lý nợ xấu được thực hiện bằng các biện pháp: Chính ohủ
lập công ty mua bán nợ xấu. Công ty này do Chính phủ quản lý, vốn hoạt động của công
ty từ Ngân sách Nhà nước.Công ty mua nợ xấu theo giá qui định của Chính phủ: mua
36% giá trị nợ xấu nếu nợ xấu có tài sản thế chấp, cầm cố, mua 1% giá trị nợ xấu nếu
khoản nợ đó không có tài sản thế chấp, cầm cố. Đồng thời Chính phủ giao thêm nhiệm
vụ cho công ty bảo hiểm mua phần chênh lệch giữa tài sản nợ và tài sản có của các Ngân
hàng Thương mại được sát nhập với lãi suất từ 10-15% (tài sản tốt giao cho Ngân hàng
sát nhập, tài sản xấu giao cho công ty bảo hiểm). Nguồn vốn của công ty bảo hiểm dùng
mua là từ nguồn bảo hiểm . nếu thiếu được phép phát hành chứng chỉ thương mại để
mua. Ngoài ra, Chính phủ Hàn Quốc có thể mua cổ phần của Ngân hàng Thương mại.
Trên thực tế, Chính phủ đã mua cổ phần của hai Ngân hàng Thương mại dưới 94% cổ
phần của mỗi Ngân hàng. Nhưng sau đó, trong một thời gian dài nhất định sẽ bán lại số
cổ phần này cho tư nhân.
Việc đánh giá, phân loại nợ và dự phòng rủi ro được phân theo 5 loại:
Bên cạnh phân loại nợ, Ngân hàng Hàn Quốc cũng tiến hành đánh giá tài sản và
phân thành 5 loại:
Loại Đánh giá Mức trích dự phòng rủi ro
1 Bình thường 0,5%
2 Hơi có vấn đề 2%
3 Dưới tiêu chuẩn 20%
4 Có vấn đề 75%
5 Xấu 100%
Loại Tài sản Tỷ lệ trích dự phòng rủi ro
1
Tiền mặt, trái phiếu Chính phủ và
Ngân hàng bằng bản tệ, trái phiếu
Chính phủ và Ngân hàng và các
nước phát triển (OECD)
0%
2
Các khoản cho vay Chính phủ
Trung ương, chính quyền địa
phương
10%
3
Khoản vay của các nước ORCD
và khoản vay của Ngân hàng
quốc tế
20%
4
Cho vay hộ gia đình xây dựng
nhà cửa
50%
5 Cho vay tư nhân, cho vay khác 100%
Trên đây là những giải pháp mà Thái lan và Hàn Quốc đã và đang thực hiện
nhằm sớm khắc phục những hậu quả do cuộc khủng hoảng tài chính gây ra cho họ. Đặc
biệt, họ đã đưa ra các chính sách, biện pháp mang tính kỷ thuật, nghiệp vụ và cả các
biện pháp có tính hành chính của Nhà nước để xử lý tài sản thế chấp, đánh giá phân loại
nợ, tính toán và dự phòng rủi ro thích hợp cho từng loại nợ, loại tài sản Đây chính là
những giải pháp mang tính tích cực mà Việt nam chúng ta nên tham khảo để phục vụ
cho việc xây dựng,
hoạch định các chính sách, điều hành và xử lý vấn đề nợ khó đòi trong hệ thống Ngân
hàng Thương Vịêt nam hiện nay nhằm giúp các Ngân hàng
Thương mại Việt nam phát triển được an toàn, hiệu qủa và ngày càng phát triển.
Chương II:
thực trạng xử lý tài sản đảm bảo
cho vay tại ngân hàng công thương
hoàn kiếm
I. Khái quát về Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm:
1.Lịch sử hình thành và phát triển:
Ngày 6 tháng 5 năm 1951, Ngân hàng quốc gia được thành lập với tư cách là
Ngân hàng phát hành Trung ương, đồng thời kiêm nhiệm chức năng của Ngân hàng
Thương mại. Sau khi thống nhất đất nước và hoàn thành quốc hữu hoá dưới chế độ cũ
miền Nam, trên cả nước hình thành hệ thống Ngân hàng thống nhất với các đặc điểm của
Ngân hàng một cấp. Trước yêu cầu bức thiết của nền kinh tế bước sang thời kỳ đổi mới,
ngày 26 tháng3 năm 1988 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT hình thành
hệ thống Ngân hàng Việt nam hai cấp. Cùng với sự ra đời của 4 Ngân hàng Việt nam
chuyên doanh: Ngân hàng Ngoại Thương Việt nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
nam, Ngân hàng nông nghiệp Việt nam thì từ 1/7/1988 Ngân hàng Công thương Việt
nam đã ra đời và đi vào hoạt động.
Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm (NHCTHK) là một chi nhánh của
NHCTVN, có trụ sở chính tại 37 Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Trước tháng
3/1988, NHCTHK thuộc về NHCT thành phố Hà Nội thực hiện nhiệm vụ chính được
giao là vừa kinh doanh tiền tệ, tín dụng và thanh toán, đồng thời vừa đảm bảo nhu cầu
về vốn cho các đơn vị ngoài quốc doanh và các tập thể trên địa bàn quận Hoàn Kiếm.
Nhưng kể từ sau khi chỉ thị số 218/CT ban hành ngày 13/7/1987 của HĐBT, thực hiện
Điều lệ của NHCTVN, ngày 26/3/1988 NHCTHK chính thức tách ra khỏi NHCT thành
phố Hà Nội để trở thành NHCTHK như ngày nay.
Do NHCTHK là một chi nhánh của NHCTVN nên bên cạnh việc thực hiện đầy
đủ các chức năng của một chi nhánh thì ngoài ra NHCTHK còn thực hiện các hoạt động
kinh doanh tiền tệ như một NHTM.
NHCTHK là một đơn vị hạch toán độc lập nhưng tương đối phụ thuộc vào
NHCTVN, có quyền tự chủ kinh doanh, có con dấu riêng và được mở tài khoản giao
dịch tại NHNN cũng như các tổ chức tín dụng khác trong cả nước. Kể từ khi thành lập
cho đến nay, NHCTHK đã và đang hoạt động kinh doanh trên cơ sở tự kinh doanh, tự bù
đắp và có lãi.
Trãi qua quá trình hoạt động trên 10 năm, NHCTHK đã hoà nhập vào hoạt động
chung của cả hệ thống Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, NHCTHK
không những chỉ đứng vững trong cạnh tranh mà còn không ngừng mỡ rộng và hoạt
động với hiệu quả ngày càng cao.
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy:
Hiện nay, NHCTHK có hơn 200 cán bộ trên tổng số 1,2 vạn cán của toàn hệ
thống NHCT. Trong đó có 40,8% có trình độ đại học và trên đại học, còn lại đã được
qua đào tạo qua hệ cao đảng, trung học chuyên ngành ngân hàng. NHCTHK có 9 phòng,
hoạt động theo chức năng riêng đã được phân công theo sự chỉ đạo điều hành của Ban
giám đốc và hai phó giám đốc cùng các quỹ tiết kiệm nằm rải rác trên địa bàn.
* Phòng kinh doanh: Đây là phòng kinh doanh tổng hợp, thực hiện các nghiệp
vụ cho vay đối với các khách hàng là các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh
tế, dưới hình thức là các khoản vay ngắn, trung và dài hạn, cho vay uỷ thác, cho vay
theo dự án. Đồng thời cũng thực hiện chức năng giám sát và quản lý việc sử dụng vốn.
* Phòng kinh doanh đối ngoại: Thực hiện hai chức năng chính là thanh toán
quốc tế (thanh toán xuất nhập khẩu bằng các phương thức mở tài khoản, nhờ thu cà L/C)
và kinh doanh ngoại tệ (thanh toán, chuyển tiền cho khách hàng, chủ yếu là mua bán
ngoại tệ để phục cho các doanh nghiệp XNK), hạch toán kế toán các nghiệp vụ ngoại tệ,
làm đầu mối thanh toán séc du lịch thẻ tín dụng quốc tế, thu chi tiền mặt ngoại tệ cho
các đơn vị, thực hiện việc giải ngân cho một số dự án do NHCTVN chỉ định.
* Phòng giao dịch Đồng Xuân: Do trên địa bàn quận Hoàn Kiếm có khu chợ
Đồng Xuân nên NHCTHK đã tổ chức ra một phòng riêng để phục vụ cho các thành phố
ngoài quốc doanh. Phòng này hoạt động như một chi nhánh ngân hàng, hạch toán thu chi
độc lập và có lãi.
Ban giám đốc
Phòng
kinh
doanh
Phòng
kinh
doanh
đối
ngoại
Phòng
giao
dịch
Đồng
Xuân
Phòng
nguồn
vốn và
cân đối
vốn
tổng
hợp
Phòng
Kế
toán
Tài
chính
Phòng
Ngân
quỹ
Phòng
Kiểm
Soát
Phòng
vi tính
Phòng
tổ
chức
hành
chính
Các quỹ tiết kiệm
* Phòng nguốn vốn và cân đối tổng hợp: Làm nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cân
đối và tổng hợp về nguồn vốn và sử dụng vốn; huy động mọi nguồn vốn tiết kiệm từ các
tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế; thực hiện chế độ thông tin, lập kế
hoạch tài chính, tổng hợp, phân tích, báo cáo về mọi tình hình hoạt động kinh doanh của
NHCTHK theo yêu cầu của Giám đốc NHCTVN.
* Phòng kế toán- tài chính: Thực hiện hạch toán kế toán các nghiệp vụ thanh
toán bằng VND, lên cân đối tổng hợp. Phòng có 5 tổ công tác chịu trách nhiệm về các
chức năng riêng biệt: Tổ kế toán nội bộ, Tổ thanh toán viên,Tổ thanh toán liên hàng, Tổ
thanh toán bù trừ và Tổ tiết kiệm.
* Phòng ngân quỹ: Quản lý tồn quỹ, thực hiện thu chi theo lệnh về tiền mặt
VND và ngoại tệ, bảo quản và phân phối các chứng từ có giá.
* Phòng kiểm soát: Thực hiện kiểm soát nội bộ là nhiệm vụ trọng tâm của
phòng, ngoài ra còn thanh tra các vụ việc có liên quan, các thao tác nghiệp vụ nhằm
ngăn chặn các rủi ro từ chính các cán bộ ngân hàng.
* Phòng vi tính : Quản lý và xử lý các dữ liệu kế toán, kết nối mạng nội bộ,
ngoài ra còn thực hiện việc bảo dưỡng, lắp đặt các máy tính phục vụ cho việc tổng hợp,
cân đối, sao kê cho mạng máy tính phòng kế toán.
* Phòng tổ chức hành chính: Thực hiện các công việc về hành chính quản trị
như các doang nghiệp khác, bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động kinh doanh của các
phòng ban; quản lý, sắp xếp và điều chuyển nhân sự, bảo đảm tiền lương cho cán bộ
nhân viên, tham mưu cho lãnh đạo về xét tuyển và đề bạt cán bộ.
Các phòng trên có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, phối hợp với nhau để thực
hiện các hoạt động của Ngân hàng. Cơ cấu tổ chức của các phòng ban ngày càng được
cải tiến để ngày càng phục vụ tốt hơn cho nhiệm vụ của một Ngân hàng đa năng, hiện
đại và ngày càng có nhiều sản phẩm mới, đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng
trong cơ chế thị trường.
3.Các hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng:
Huy động vốn: với hoạt động mỡ tài khoản và nhận tiền gửi tiết kiệm của tất cả
các tổ chức và dân cư trong và ngoài nước:
- Mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn bằng VND và ngoại tệ.
- Nhận tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không kỳ hạn
- Phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu và trái phiếu ngân
hàng
- Các hình thức huy động khác như tiếp nhận vốn tài trợ, vốn uỷ thác từ
NHNN và các tổ chức quốc tế, chính phủ của các nước và các cá nhân.
- Đặc biệt là dịch vụ tiết kiệm điện tử lần đầu tiên thực hiện ở Việt nam.
Tín dụng:
- Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng VND và ngoại tệ đối với các tổ chức
kinh tế, các cá nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Đồng tài trợ, cho vay hợp vốn đối với những dự án có quy mô lớn và thời
hạn hoàn vốn dài.
- Bảo lãnh: bảo lãnh mua hàng trả chậm, bảo lãnh tham gia đấu thầu, bảo lãnh
thực hiện hợp đồng, vay vốn với bên thứ ba, bảo lãnh tiền đặt cộc, bảo lãnh
giao nhận hàng.
- Các chương trình vay vốn ưu đãi: cho vay bằng Quỹ phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ (SMEDF), các hiệp định tín dụng khung và đặc biệt là
chương trình cho vay sinh viên với lãi suất ưu đãi.
Thanh toán quốc tế: thực hiện nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu hàng hoá dịch
vụ bằng các phương thức:
- Thư tín dụng (L/C): nhận phát hành thư tín dụng, thông báo L/C, xác nhận,
chiết khấu và thanh toán L/C..
- Nhờ thu: nhờ thu hối phiếu trả ngay (D/P) và nhờ thu chấp nhận hối phiếu
(D/A)..
- Chuyển tiền điện tử
- Chuyển tiền kiều hối
- Thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, séc du lịch
Thực hiện các dịch vụ kinh doanh tiền tệ, ngoại hối:
- Dịch vụ mua bán ngoại hối giao ngay (Spot)
- Dịch vụ mua bán ngoại hối kỳ hạn ( Forward)
- Dịch vụ hoán đổi Swap
Dịch vụ thanh toán điện tử: được thực hiện nhanh chóng, chính xác, an toàn và
tiện lợi nhờ hệ thống máy tính được nối mạng nội bộ
Dịch vụ tư vấn và quản lý tài chính tiền tệ, đại lý ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm,
quản lý tiền vốn và các dự án đầu tư phát triển theo yêu cầu của khách hàng.
Đầu tư dưới các hình thức hùn vốn, liên doanh, mua cổ phần, mua tài sản và các
hình thức đầu tư khác vào các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính tín dụng khác
Thực hiện các nghiệp vụ uỷ quyền khác của Nhà nước và NHNN.
II. khái quát Đặc điểm kinh tế –xã hội trên địa bàn tác động đến NHCTHK:
NHCTHK có địa bàn hoạt động chính tại Quận Hoàn Kiếm, là một quận thuộc
khu trung tâm thương mại lớn nhất của thủ đô Hà Nội gồm 18 phường với hơn 22 vạn
dân và diện tích là 425 km2. Mặt khác, nằm trong trung tâm kinh tế xã hội của cả nước,
NHCTHK có nhiều thuận lợi trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của mình.
Tuy nhiên, do đặc điểm dân cư trong địa bàn và lại hoạt động trên lĩnh vực
thương mại là chủ yếu nên hầu hết khách hàng của Ngân hàng là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, các cơ sở sản xuất và các cá nhân. Bên cạnh đó, NHCTHK không tránh khỏi sự
cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng khác trong hệ thống. Hơn nữa, trên địa bàn quận
còn có Hội sở chính của NHCTVN nên các cơ quan, xí nghiệp lớn của các Bộ, Sở và các
doanh nghiệp có tầm cỡ khác thường mở tài khoản và giao dịch tại Hội sở chính này.
Nhìn chung, khách hàng chủ yếu của NHCTHK là các đối tượng khách hàng
thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, còn lại là một số ít các đơn vị kinh tế quốc
doanh. Tuy nhiên, trong mấy năm gần đây, Ngân hàng đã chú trọng và tìm mọi pháp
nhằm thu hút và lôi kéo khách hàng thông qua việc không ngừng nâng cao chất lượng
dịch vụ, giảm thiểu những thủ tục hành chính rườn rà ...
Năm 2001, nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục ổn định và phát triển. Với tốc độ tăng
trưởng GDP 6,8%, sự ổn định về chính trị và những thành công trong đối ngoại, nước ta
đã trở thành một địa chỉ tin cậy cho các nhà đầu tư nước ngoài.Các công cụ thực hiện
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước đã có những thay đổi lớn theo thông lệ quốc
tế, đặc biệt là lãi suất và tỷ giá đã tạo ra môi trường thụân lợi, khiến cho hoạt động ngân
hàng ngày càng sôi động và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do ảnh
hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Hoạt động của nền kinh tế còn kém hiệu quả và
một số yếu tố khách quan không thuận lợi cho hoạt động ngân hàng, đó là: sản phẩm
cạnh tranh thấp, giá các mặt hàng xuất khẩu chiến lược như nông sản, dầu thô, cà phê..
liên tục giảm
Lãi suất ngoại tế trên thị trường tiền tế giảm mạnh từ 6,5% xuống còn
1,75%/năm, lãi suất cho vay liên tục giảm trong khi chi phí cho các khoản huy động có
kỳ hạn chưa kịp giảm theo. Cộng với sự cạnh tranh gay gắt của trên 70 ngân hàng lớn
nhỏ trên địa bàn mà chủ yếu là cạnh tranh về lãi suất và phí, đã có tác động đến tình
hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Như vậy, với những yếu tố khách quan cũng như chủ quan NHCTHK đã và đang
cố gắng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, khắc phục và vượt qua khó khăn, không
ngừng tăng trưởng nguồn vốn và mỡ rộng mạng lưới kinh doanh, sử dụng linh hoạt
nguồn vốn nhằm mục tiêu “Phát triển-an toàn-hiệu quả”.
III. tình hình hoạt động kinh doanh của NHCTHK:
1. Nghiệp vụ huy động vốn:
Thực hiện phương châm “huy động tiền gửi để cho vay”, NHCTHK đã luôn coi
trọng công tác huy động vốn và coi nguồn vốn là yếu tố đầu tiên của quá trình kinh
doanh, quyết định đến sự tồn tại của Ngân hàng. Với nguồn vốn có cơ cấu hợp lý, chi
phí huy động thấp sẽ là cơ sở để mỡ rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng.
Tổng nguồn vốn: năm 2001, Ngân hàng đã đạt nguồn vốn huy động là 3.502,015
tỷ đồng, tăng 40,5% so với năm 2000.
Hình thức huy động ngày càng phong phú: các loại tiền gửi, kỳ phiếu nội ngoại tệ
với nhiều kỳ hạn, trả lãi hoặc sau, có nhiều mức lãi suất khác nhau,...đã thu hút được
nhiều khách hàng, khơi tăng nguồn vốn huy động...
Về cơ cấu nguồn vốn: Theo kỳ hạn ta thấy, tiền gửi không kỳ hạn tại Ngân hàng
luôn chiếm tỷ trọng lớn (bình quân là 60% hàng năm). Có được như vậy là do khách
hàng của Ngân hàng chủ yếu gửi tiền để phục vụ nhu thanh toán trong hoạt động kinh
doanh . Tuy nhiên thực tế này cũng gây không ít khó khăn cho Ngân hàng vì tính không
ổn định của nguồn vốn này ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của Ngân hàng. Các
doanh nghiệp có thể rút vốn bất cứ lúc nào để đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh ,
nhiều khi là với một khối lượng lớn, gây bị động về nguồn vốn cho Ngân hàng.
2.Nghiệp vụ sử dụng vốn:
Bằng nguồn vốn huy động dồi dào, NHCTHK đã cho vay và đầu tư đối với tất cả
các thành phần kinh tế, góp phần phát triển kinh tế-xã hội thành phố Hà Nội. Biểu 2 cho
thấy tình hình sử dụng vốn tại NHCTHK.
Dư nợ đạt 620,111 tỷ đồng, tăng 13,3% so với năm 2000. Trong năm, không phát
sinh nợ quá hạn. Vốn tín dụng được đầu tư “an toàn, hiệu quả” cho các ngành kinh tế
trọng điểm, quan trọng như: Than, Điện, Giao thông vận tải, Xây dựng, Lắp máy, Chế
tạo thiết bị điện tử, Điện tử, Chế biến nông sản xuất khẩu,..
Việc phân tích đánh giá được thực hiện một cách tổng thể, khách quan về khả
năng phát triển kinh doanh (cả trước mắt, cũng như lâu dài), về tình hình tài chính của
từng khách hàng. Trên cơ sở đó, Ngân hàng đưa ra quyết địng cho vay đúng, phù hợp
với cơ chế tín dụng và khả năng quản lý không chỉ đối với khách hàng vay vốn mà cả
đối với cán bộ tín dụng của Ngân hàng.
Nếu so sánh tỷ lệ tăng trưởng dư nợ của Ngân hàng (13,3%) với tốc độ tăng
trưởng GDP của nền kinh tế (6,8%), chúng ta thấy đây là một tỷ lệ hợp lý (cả về mặt lý
thuyết cũng như thực tế). Chính nó đã khẳng định tính khách quan về sự tăng trưởng dư
nợ phù hợp với trình độ và năng lực quản lý của Ngân hàng. Trong 620,111 tỷ dư nợ thì
dư nợ ngắn hạn chiếm 66,06%, dư nợ trung và dài hạn chiếm 33,94%; dư nợ ngoài quốc
doanh chiếm 36,65%, tập trung chủ yếu vào các Công ty liên doanh và 100% vốn nước
ngoài, có mặt hàng, sản phẩm được sản xuất với công nghệ cao, có khả năng xuất khẩu
và có tình hình tài chính lành mạnh. Phần còn lại là cho vay CBCNV, doanh nghiệp dân
doanh và hộ gia đình có nhu cầu kinh doanh, tiêu dùng thực sự đảm bảo khả năng trả nợ
Ngân hàng, công việc này trong năm có sự khởi sắc cả ở Phòng giao dịch Đồng Xuân và
cả ở Phòng kinh doanh.
Phân tích cơ cấu dư nợ cho vay:
Theo thời hạn ta thấy: vốn vay ngắn hạn luôn chiếm một tỷ trọng cao trong tổng
dư nợ (trên 66%), mặc dù xét về số lượng cả vốn vay ngắn hạn và trung dài hạn đều tăng
nhưng về tỷ trọng thì vốn vay ngắn hạn ngày càng giảm: năm 2000 là 72,22%, năm 2001
là 66,06%, tỷ lệ tăng vốn ngắn hạn
năm 2000 là 12,2% nhưng đến năm 2001 chỉ là 3,6%. Dư nợ cho vay trung và dài hạn đã
có sự chuyển biến mạnh từ chổ thứ yếu (thường dưới 25%) thì đến năm 2001 đã chiếm
33,94%; nguyên nhân là trong những năm gần đây, NHCT-HK đã từng bước cải cách
hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt Ngân hàng đã quan tâm và triển khai mạnh mẽ
cho vay trung và dài hạn.
Theo khu vực vay, ta thấy: chủ yếu là cho vay đối với thành phần kinh tế quốc
doanh, tuy nhiên thời gian gần đây tỷ lệ tăng cho vay đối với thành phần kinh tế này là
không đáng kể, có năm lại giảm: năm 1999 là 385.116 tỷ đồng, năm 2000 là 34.569 tỷ
đồng(giảm 13,1%) và năm 2001 là 393.750 tỷ đồng (tăng 17,7%). Nguyên nhân là Ngân
hàng đã thực hiện hạn chế cho vay, rút dần dư nợ đối với các doanh nghiệp làm ăn kém
hiệu quả để tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp khác làm ăn có hiệu quả hơn
Doanh số cho vay đạt 1.933 tỷ đồng, tăng so với năm 2000 là 14%, trong đó,
doanh số cho vay xuất nhậo khẩu đạt 1.291 tỷ đồng.
Doanh số thu nợ đạt 1.838 tỷ đồng, tăng 7% so với năm 2000, tốc độ tăng của
doanh số thu nợ nhỏ hơn so với tốc độ tăng của doanh số cho vay, nguyên nhân: năm
2001, Ngân hàng có sự chuyển dịch cơ cấu cho vay, phát triển cho vay trung và dài hạn
nhiều hơn so với những năm trước. Cho nên, dư nợ trung và dài hạn tăng lên đáng kể (
từ 1,4% năm 2000 đến 38,4% năm 2001).
3.Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh đối ngoại:
Năm 2001, trong bối cảnh giá cả các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu liên tục giảm
giá nên mặc dù khối lượng xuất khẩu vẫn tăng, nhưng lượng ngoại tệ “vào” Ngân hàng
vẫn giảm đáng kể. Nhưng doanh số kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng vẫn đạt 190 triệu
USD (trong đó, doanh số mua 96 triệu USD, doanh số bán 94 triệu USD), tăng gấp 2 lần
so với năm 2000. Doanh số thanh toán XNK đạt 170 triệu USD tăng 4% so với năm
2000, trong đó, doanh số xuất khẩu đạt 55 triệu USD.
Với thời gian hoạt động kinh doanh đối ngoại chưa bằng nữa thời gian của các
ngân hàng khác, nhưng Ngân hàng vẫn vượt lên đứng vị trí hàng đầu và là một trong 6
đơn vị xuất sắc trong kinh doanh đối ngoại của hệ thống NHCTVN.
Tổng thu phí dịch vụ từ kinh doanh đối ngoại và thanh toán quốc tế đạt 3,5 tỷ
đồng, tăng 46% so với năm 2000, trong đó, thu từ kinh doanh ngoại tệ là 1,1 tỷ đồng.
IV.thực trạng xử lý tài sản đảm bảo cho vay thu hồi nợ khó đòi tại Ngân hàng Công
Thương Hoàn Kiếm:
1.Sự tất yếu phải xử lý tài sản đảm bảo nợ khó đòi tại Ngân hàng Công Thương
Hoàn Kiếm:
Trên cơ sở đảm bảo tín dụng, Ngân hàng thực hiện giao vốn cho khách hàng sử
dụng với cam kết sẽ hoàn trả đầy đủ vốn và lãi khi đến hạn đã thoã thuận. Tuy nhiên,
thực tế lại rất phức tạp, các hợp đồng tín dụng luôn có khả năng bị vi phạm vì nhiều
lý do gây ra rủi ro cho Ngân hàng mà biểu hiện chủ yếu là tình trạng khách hàng
không trả được nợ khi đến hạn cả gốc lẫn lãi hay một trong hai số đó, từ đó phát sinh
ra nợ quá hạn, nợ khó đòi cho Ngân hàng.
Nghiên cứu nợ quá hạn theo cơ cấu thời gian ta thấy: Mặc dù tỷ trọng của từng
loại (dưới 180 ngày; từ 181-360 ngày và trên 360 ngày) không có sự thay đổi lớn qua
các năm, nhưng tỷ trọng của nợ khó đòi (nợ quá hạn trên 360 ngày) luôn chiếm tỷ
trọng cao ( trên 60%)
Năm 2001, số lượng nợ quá hạn có sự giảm mạnh về số lượng so với các năm
trước, năm 2001 là 17.930 triệu đồng so với năm 2000 là 31.395 triệu đồng và năm
1999 là 37.364 triệu đồng; tuy nhiên tỷ trọng nợ khó đòi trong nợ quá hạn vẫn chiếm
tỷ lệ cao (60,4%).
Xét tỷ lệ nợ quá hạn theo thành phần kinh tế quốc doanh ta thấy: thành phần kinh tế
quốc doanh chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Điều này xuất phát từ nguyên nhân là: khách
hàng của Ngân hàng chủ yếu là thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Tỷ lệ nợ quá
hạn của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh luôn chiếm tỷ trọng rất cao (trên 96%)
trong tổng nợ quá hạn. nhưng đã có sự giảm về số lượng: năm 1999 là 36.782 triệu
đồng, năm 2000 là 30.813 triệu đồng và năm 2001 giảm xuống còn 17.348 triệu đồng.
Xét về mặt tuyệt đối thì nợ quá hạn cửa thành phần kinh tế quốc doanh là rất
nhỏ so với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, thế nhưng đa số nợ quá hạn của
thành phần kinh tế quốc doanh đều là nợ khó đòi, tức là có độ rủi ro cao. Nguyên
nhân chủ yếu là thành phần kinh tế quốc doanh thường kém năng động, trình đọ quản
lý làm ăn kinh tế còn yếu kém, bộ máy thì cồng kềnh nên sản xuất kinh doanh thường
gặp nhiều khó khăn.
Biểu 4: Nợ khó đòi trong nợ quá hạn theo thành phần kinh tế
Đơn vị: triệu đồng
Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
Số tiền
Tỷ
trọng
Số tiền
Tỷ
trọng
Số tiền
Tỷ
trọng
I. Kinh tế quốc
doanh:
- Nợ quá hạn
-Nợ khó đòi
582
582
100%
582
582
100%
582
582
100%
II. Kinh tế ngoài
quốc doanh:
- Nợ quá hạn
- Nợ khó đòi
36.782
22.069
60%
30.813
17.872
58%
17.348
10.062
58%
2. Thực trạng vấn đề xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại NHCT-HK:
2.1. Những qui định của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm về xử lý tài sản đảm bảo
cho vay:
Thực hiện theo các qui định của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Công Thương
Việt nam về việc xử lý tài sản đảm bảo cho vay thu hồi nợ, Ngân hàng Công Thương Hoàn
Kiếm đã qui định:
2.1.1. Về vấn đề xử lý tài sản thế chấp, cầm cố:
* Các nguyên tắc xử lý tài sản:
- Ngân hàng qui định nếu bên vay hoặc bên bảo lãnh không thể thực hiện các nghĩa vụ
trả nợ của mình đúng thời hạn đã thoã thuận trong hợp đồng, tài săn đảm bảo sẽ được xử lý
để thực hiện các nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.
- Ngân hàng đề cao sự hợp tác, thoã thuận và bình đẳng giữa các bên trong việc xử lý
tài sản đăm bảo để giải quyết nhanh gọn, hợp lý và giảm chi phí xử lý tài sản. Trong trường
hợp các bên không thể tự sử lý được, Ngân hàng chủ động, kiên quyết yêu cầu Toà án có
thẩm quyền giải quyết.
- Ngân hàng chỉ hạch toán giảm nợ cho bên vay sau khi đã xử lý xong tài sản và thực
thụ thu được tiền, hoặc sau khi đã làm thủ tục sang tên tước bạ cho Ngân hàng nếu nhận gán
nợ.
- Tiền thu được từ việc bán tài sản sau khi trừ đi các chi phí liên quan ưu tiên toàn bộ
để trả nợ cho Ngân hàng theo thứ tự: trả gốc trước, một phần như đảm bảo cuộc sống cho
chính khách hàng có tài sản bị xử lý (nếu khách hàng thực sự gặp khó khăn), trả lãi vay. Nếu
tiền thu được từ việc bán tài sản dùng để thanh toán nợ còn thiếu, thì phải tiếp tục theo dõi,
xử lý thu hồi nợ.
Trong quá trình xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ, Ngân hàng sẽ xem xét giảm, miễn
lãi cho khách hàng theo các qui chế giảm, miễn lãi của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng
Công Thương Việt nam.
* Thời điểm tài sản được xử lý:
- Sau 60 ngày, kể từ ngày phải trả nợ, nếu khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ
của mình, tài sản đảm bảo sẽ được Ngân hàng xử lý như đã thoã thuận.
- Trường hợp tổ chức kinh tế (bên vay) bị giải thể theo luật phá sản
* Phương thức xử lý tài sản:
- Trường hợp nếu thấy tài sản thế chấp, cầm cố cần thiết cho hoạt động kinh doanh của
mình, Ngân hàng và khách hàng thoã thuận phương án gán nợ. Hai bên thoã thuận giá cụ thể
trên cơ sở giá trị còn lại của tài sản, mặt bằng giá tài sản cùng loại trên thi trường vào thời
điểm thoã thuận.
- Ngân hàng yêu cầu khách hàng đứng chủ bán tài sản. Đây là phương án tối ưu vì sẽ
tránh được chi phí phát sinh về xử lý tài sản.
- Ngoài ra, Ngân hàng có thể bán trực tiếp hoặc thông qua trung tâm bán đấu giá để
thu hồi nợ:
+ Đấu giá trực tiếp
+ Uỷ quyền bán đấu giá: giao cho bên thứ ba (trung tâm bán đấu giá có thẩm quyền)
thực hiện việc bán đấu giá.
- Nếu các phương án trên không thực hiện được thì Ngân hàng đề nghị Toà án có thẩm
quyền giải quyêt theo luật định.
- Nếu tranh chấp và việc kiện tụng tại Toà án phát sinh thì tài sản đảm bảo sẽ được xử
lý theo phán quyết của Toà án hoặc theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Trong trường hợp khách hàng bị phá sản, tài sản sẽ được xử lý theo các qui định
trong luật phá sản.
* Trường hợp có tranh chấp khi xử lý tài sản:
Trong trường hợp bên nợ có những hành động từ chối chuyển giao tài sản, gây cản trở
việc bán tài sản của Ngân hàng , Ngân hàng phải tiến hành kiện ra Toà án:
Qui trình khởi kiện tại Toà án:
Thông thường theo hợp đồng đã ký giữa các bên, Ngân hàng có thể đưa sự việc ra Toà
án Kinh tế- Dân sự hoặc trọng tài kinh tế để giải quyết.
- Trường hợp giải quyết bằng Trọng tài kinh tế , các qui định về Trọng tài kinh tế tại
Việt nam sẽ được áp dụng.
- Trường hợp phải giải quyết tại Toà án, thì thủ tục như sau:
+ Gửi các tài liệu liên quan đến Toà án (Kinh tế hoặc Dân sự)
+ Toà thụ lý, xem xét các tài liệu và mời các bên liên quan tới hoà giải.
+ Nếu không đạt được thoã thuận nào, Toà án sẽ mỡ phiên toà xét xử và đưa ra phán
quyết.
+ Nếu bên nợ vẫn từ chối chuyển giao tài sản, phán quyết sẽ được cưỡng chế thực hiện
bởi “Đội cưỡng chế thi hành án”, đội này sẽ tịch thu tài sản.
+ Sau khi phán quyết hoặc tịch thu, tài sản sẽ được chuyển giao cho cơ quan có thẩm
quyền, cơ quan này sẽ tổ chức bán đấu giá.
2.1.2. Một số qui định về việc mua lại tài sản đảm bảo thu hồi nợ khó đòi:
- Ngân hàng có thể xem xét mua lại các tài sản thế chấp của các khách nợ bao gồm các
tổ chức kinh tế và các cá nhân vay vốn do làm ăn thua lổ phải giải thể, sát nhập, ngừng hoạt
động hoặc còn hoạt động nhưng không trả được nợ Ngân hàng bằng cách gán nợ để thu hồi
nợ, sau đó bán lại hoặc cho thuê.
- Loại bất động sản Ngân hàng mua để gán nợ là: Nhà ở, kho tàng, cửa hàng, khách
sạn bao gồm cả trang bị nội thất. Các bất động sản này phải thuộc sở hữu hợp pháp của khách
hàng, có giấy chứng nhận quyền sở hữu theo qui định của pháp luật, phải bán được và có lãi
khi làm thủ tục mua, bán giữa Ngân hàng và khách hàng phải qua công chứng.
- Về giá cả: Nếu là tài sản thanh lý của doanh nghiệp Nhà nước giải thể, sát nhập,
chuyển quyền sở hữu thì giá mua là giá do Hội đồng thanhh lý định giá. Nếu là tài sản do
Ngân hàng phát mãi thì giá mua là giá bán đấu giá công khai của Hội đồng phát mãi tài sản.
Các trường hợp khác là do hai bên tự thoã thuận.
- Trong thời gian tài sản chưa bán, chưa cho thuê, các tài sản phải được quản lý và bảo
quản theo các qui định hiện hành. Khi Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm có nhu cầu sử
dụng phục vụ cho các hoạt động kinh doanh phải được sự đồng ý của Ngân hàng công
thương Việt nam và đồng thời phải dùng vốn thích hợp để trang trải, nhập tài sản cố định,
trích khấu hao theo chế độ hiện hành.
- Khi phát sinh nghiệp vụ thu hồi tài sản của khách hàng để gán nợ, các chi nhánh vẫn
phải theo dõi số cho vay của khách hàng trên tài khoản cho vay hoặc tài sản nợ quá hạn.
- Đối với tài sản gán nợ chi nhánh tạm giữ, chưa chuyển quyền sở hữu thì phối hợp với
các tổ chức kinh tế vay vốn bán lại tài sản khi thu nợ hoặc có văn bản đề nghị cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền tổ chức đấu giá, phát mãi tài sản để thu nợ.
2.2. Thực trạng xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại NHCT-HK:
2.2.1.Vấn đề đảm bảo tiền vay tại NHCT-HK:
Xuất phát từ địa bàn hoạt động là quận Hoàn Kiếm, trung tâm kinh tế của thủ đô Hà
Nội, là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp hoạt động, do đó khách hàng của Ngân hàng rất đa
dạng: bao gồm các doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp cá nhân,Công ty TNHH, Công ty
cổ phần, các hợp tác xã và tổ sản xuất, Công ty liên doanh, cá nhân và hộ gia đình.
Biểu 5: Quan hệ tín dụng của NHCT-HK
Đơn vị: khách hàng
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
1) Kinh tế quốc doanh
2) Kinh tế ngoài quốc doanh
45
400
55
460
60
500
Tuy nhiên, qua biểu ta thấy khách hàng chủ yếu của Ngân hàng là đối tượng kinh tế
ngoài quốc doanh. Đây là những đối tượng khách hàng thường có một độ rủi ro cao trong
kinh doanh. Cũng chính vì vậy mà hình thức đảm bảo tiền vay chủ yếu ở Ngân hàng là thế
chấp tài sản và hình thức này chiếm trên 65%; hình thức bão lãnh chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ;
hình thức cầm cố thì chủ yếu là cầm cố sổ tiết kiệm bằng sổ tiết kiệm tại Ngân hàng.
Các loại tài sản thế chấp tại Ngân hàng rất đa dạng do các đối tượng khách hàng hoạt
động kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, các loại tài sản thế chấp chủ yếu
là: nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh như:
dây chuyền máy móc thiết bị, hàng hoá,..
Đối vơi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, như: các công ty TNHH, công ty cổ phần
thì Ngân hàng áp dụng hình thức đảm bảo tiền vay chủ yếu là thế chấp tài sản và các tài sản
thường đem thế chấp là: trụ sở làm việc, thiết bị dây chuyền sản xuất, hàng hoá.
Các doanh nghiệp quốc doanh chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong quan hệ tín dụng của
Ngân hàng, và thường thì đối với thành phần kinh tế này thì hình thức đảm bảo khoản vay
chủ yếu là tín chấp; tuy nhiên nếu nhận thấy đơn vị kinh tế có độ rủi ro cao thì Ngân hàng
buộc phải áp dụng hình thức thế chấp tài sản.
Với loại hình là doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình thì hình thức thế chấp, cầm cố là
bắt buộc quan trọng trong quan hệ tín dụng với Ngân hàng.
Biểu 6: Phân loại các loại hình đảm bảo tiền vay
tại NHCT-HK năm 2001
Đơn vị: triệu đồng
Hình thức đảm bảo
Doanh số
Tỷ trọng
- Thế chấp
- Tín chấp
- Bão lãnh
- Cầm cố
1.285,4
189,43
202,97
255,16
66,5%
9,8%
10,5%
13,2%
Tổng: 1.933
Nhận thức được tầm quan trọng của tài sản đảm bảo tiền vay ( trong đó chủ yếu là thế
chấp) khi có rủi ro xảy ra nên vấn đề áp dụng và thẩm định tài sản đảm bảo luôn được
NHCT-HK đặc biệt coi trọng và xem nó như là một điều kiện bắt buộc đối với các khoản vay,
đặc biệt là đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Việc thực hiện qui trình đánh giá tài sản đảm bảo được tiến hành đúng với qui định
của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt nam. NHCT-HK đã thực hiện căn
cứ theo từng món vay và giá trị tài sản đảm bảo để đưa ra các mức cấp tín dụng phù hợp,
thường là dao động xung quanh 70% giá trị tài sản đảm bảo.
Công tác kiểm tra, đánh giá thực trạng tài sản đảm bảo của mỗi khoản vay được các
cán bộ tín dụng của Ngân hàng thực hiện một cách thường xuyên nhằm tránh được những rủi
ro đối với tài sản đảm bảo nếu phải phát mãi để thu hồi nợ.
2.2.2.Vấn đề xử lý tài sản thế chấp tại NHCT-HK:
Nghiên cứu nợ quá hạn của Ngân hàng qua các năm ta thấy: nợ quá hạn đã có chiều
hướng giảm xuống, tuy nhiên nợ khó đòi vẫn giữ một tỷ trọng cao. Điều này cho thấy công
tác xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ còn nhiều bất cập.Đây là một khó khăn lớn qua nhiều
năm , Ngân hàng đặc biệt quan tâm đến việc xử lý thu hồi nợ khó đòi (nợ đọng) do lịch sử để
lại.
Số tài sản thế chấp năm 2000 buộc phải xử lý vào khoảng 37.370 triệu đồng và năm
2001 giảm xuống còn 31.400 triệu đồng cho thấy việc xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ đã đạt
được những kết quả khả quan nhưng còn chưa cao. Số lượng tài sản thế chấp hiện nay còn
phải xử lý tại Ngân hàng chủ yếu là: nhà cửa, quyền sử dụng đất, các dây chuyền máy móc
thiết bị sản xuất, hàng hoá.
Một thực tế là các tài sản thế chấp là dây chuyền thiết bị sản xuất tại Ngân hàng
thường không đồng bộ, một dây chuyền có thể được lắp ráp từ nhiều nguồn khác nhau. Mặt
khác, do trình độ quản lý yếu kém của doanh nghiệp trong vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh , cộng với sự vướng mắc từ một số sơ chế, chính sách của Nhà nước nên các dây
chuyền không thể phát huy hết khả năng và còn có một số dây chuyền không hoạt động.
Chính vì điều này mà khi tiến hành đem xử lý các dây chuyền này thì rất khó bán.Thực trạng
này đã có ảnh hưởng đến tiến trình xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ của Ngân hàng.
Trong năm 2001, Ngân hàng đã tiến hành xử lý được một số tài sản thế chấp và kết
quả là đã giải quyết được hơn 32 tỷ đồng nợ khó đòi, điều này đã tạo thêm thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh năm 2002 và những năm tiếp theo. Song song trong quá trình xử lý tài sản
để thu hồi nợ, đặc biệt là các tài sản thế chấp bằng nhà cửa, đất đai , Ngân hàng cũng chú ý
đến tính nhân đạo trong phương thức xử lý của mình. Số tiền thu được từ việc phát mãi tài
sản, đầu tiên sẽ trích một khoản để bảo đảm cuộc sống cho khách hàng, số tiền còn lại mới
đưa vào giảm nợ vay cho khách hàng. Điều này đã góp phần nâng cao được uy tín của Ngân
hàng.
Biểu 7: Danh mục tài sản phải xử lý năm 2001
Đơn vị: triệu đồng
Danh mục tài sản
Doanh số
Tỷ trọng (%)
- Nhà cửa, vật kiến trúc
- Quyền sử dụng đất
- Dây chuyền máy móc
thiết bị
- Hàng hoá
9.449,9
8.068,5
8.413,9
5.046,7
30,1
25,7
26,8
17,4
Tổng:
31.395
2.3.Những vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản thu hồi nợ tại NHCT-HK:
Để giải quyết vấn đề nợ khó đòi thì giải pháp hữu hiệu nhất là xử lý tài sản đảm bảo,
vấn đề này hiện đang được NHCT-HK đặc biệt quan tâm . Tuy nhiên, công tác phát mãi tài
sản đảm bảo trong thời gian qua vẫn gặp phải một số vướng mắc từ các nguyên nhân khác
nhau khiến cho việc phát mãi tài sản đảm bảo thu hồi nợ đạt tốc độ chậm và đạt hiệu quả
chưa cao.
2.3.1.Những vướng mắc từ phía khách hàng:
- Khách hàng tìm dủ mọi cách để lẫn tránh việc phát mãi tài sản, bỏ trốn khi toà án có
lệnh; dựa vào quyền có nhà ở do luật qui định bên thế chấp chây ỳ gây khó dễ cho Ngân hàng
đòi hỏi phải có chổ ở khác, cố tình lợi dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc trả nợ, kéo dài
thời gian xử lý gây thiệt hại cho Ngân hàng.
- Một số khách hàng vay vốn có tài sản thế chấp là nhà, đất thì giấy tờ chưa hợp lệ,
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc việc xác nhận quyền sở hữu, quyền
sử dụng khồn đúng thẩm quyền. Nhà và đất thường từ đời cha ông để lại, nhiều người chưa
muốn làm các giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà vì khi xây dựng trước
đây thiếu giấy tờ cấp phép, mặt khác thuế sang tên trước bạ cao tạo ra tâm lý không muốn
hoàn chỉnh hồ sơ chính chủ. Vì vậy, tạo ra việc xử lý tài sản thế chấp gặp khó khăn khi nợ
khó đòi phát sinh.
- Khách hàng thực hiện hành vi lừa đảo, một tài sản thế chấp đem thế ở nhiều nơi để
vay vốn hoặc tài sản đem thế chấp nhưng vẫn có những thủ đoạn tẩu tán, bán tài sản khiến
cho Ngân hàng phải gánh chịu hậu quả.
- Bên vay bị phá sản, mất khả năng thanh toán phải trốn nợ, nên không ký nhận lại nợ
vay do đó không thể làm được thủ tục xử lý tài sản để thu hồi nợ.
2.3.2.Hạn chế về trình độ của cán bộ NHCT-Hk:
Sự hiểu biết về thi trường các loại tài sản của cán bộ tín dụng Ngân hàng còn hạn chế
dẫn đến việc định giá tài sản đảm bảo không đúng với giá trị thực. Các tài sản thường được
khai khống giá cả lên rất nhiều khiến cho khi tiến hành phát mãi tài sản để thu hồi nợ gặp rất
nhiều khó khăn, không thu đủ số tiền gốc mà Ngân hàng đã cho vay.
2.3.3.Việc bán tài sản thế chấp, cầm cố không thuận lợi:
Nguyên nhân do không phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người mua, tài sản (các
máy móc dây chuyền sản xuất) cũ kỷ, lạc hậu, tâm lý người mua không muốn mua tài sản của
người “vỡ nợ”, nếu bán qua đấu giá thì chi phí quá cao.Thị trường bất động sản ở Việt nam
còn phôi thai, còn nhiều vướng mắc về pháp lý, hành chính nên quá trình mua bán, chuyển
nhượng còn nhiều bất cập.
2.3.4. Quyền của Ngân hàng nhận tài sản thế chấp, cầm cố trong việc xử lý chưa được đề
cao:
Cho nên khi cần xử lý tài sản, bên thế chấp, cầm cố không bàn giao tài sản cho Ngân
hàng, thậm chí chây ì nhưng chưa có qui định nào được áp dụng để xử lý. Một số nơi chính
quyền địa phương chưa thật sự ủng hộ việc xử lý tài sản do còn nhận thức chưa đúng về tính
pháp lý của hợp đồng kinh tế mà các bên đã thoã thuận ký kết và nhận thức chưa đúng của
Hiến pháp 1992 về quyền có nơi ở của công nhân nên yêu cầu Ngân hàng phải tìm chổ ở cho
bên thế chấp nếu xử lý tài sản để thu hồi nợ. Điều này khiến cho việc phát mãi tài sản thu hồi
nợ của Ngân hàng gặp nhiều khó khăn, nhiều khi thu được tiền về nhưng trang trải tất cả các
chi phí, số vốn thu hồi lại được của Ngân hàng thực tế chẳng còn bao nhiêu. Mặt khác khi
bên vay vốn không trả nợ cho Ngân hàng, Ngân hàng muốn phát mãi tài sản thế chấp, cầm cố
để thu hồi nợ thì phải làm đơn kiện ra toà án kinh tế đề nghị giải quyết và chỉ khi bản án được
quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, phía Ngân hàng mới có quyền yêu cầu trung tâm
bán đấu giá tổ chức bán đấu giá tài sản.
2.3.5.Các vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp, cầm cố khi xảy ra chưa được
cơ quan toà án quan tâm giải quyêt, thời hiệu thi hành án dài và không hiệu quả, nhiều vụ đã
được toà xử lý nhưng không được thi hành án và không có biện pháp cưỡng chế thi hành án:
Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố còn
thiều chặt chẽ, mỗi cấp nhận thức mỗi khác, thực hiện theo cách riêng của mình.Nhiều nơi cơ
quan thi hành án giữ quyền định giá tài sản phát mãi. gây trở ngại cho việc phát mãi tài sản.
Ngoài ra, việc qui định về thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế 6 tháng đối với hoạt động
Ngân hàng là quá ngắn về các khoản nợ vay của khách hàng khi đến hạn mà chưa trả cho
Ngân hàng, Ngân hàng thường phải thương lượng với khách hàng để tìm giải pháp tốt nhất để
thu hồi nợ, tránh phải đưa ra kiện tụng tranh chấp trước Toà do đó đã mất một khoảng thời
gian dài. Nếu khách hàng biết được qui trình này cố tình không xác nhận nợ trong 6 tháng thì
Ngân hàng không thể khởi kiện do hết thời hiệu khởi kiện, nên quyền lợi chính đáng của
Ngân hàng không được bảo vệ.
2.3.6. Hệ thống các văn bản pháp luật qui định về xử lý tài sản thế chấp, cầm cố chưa hoàn
chỉnh đồng bộ và đầy đủ. Các văn bản chỉ dừng lại ở những qui định chung, còn có sự chồng
chéo, thiếu thống nhất giữa các văn bản.
- Theo Điều 12 Nghị định 178 về việc giữ tài sản và giấy tờ của tài sản cầm cố thế
chấp có qui định: “Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu, tổ chức tín dụng phải giữ bản chính
giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản”, tuy nhiên thực tế hiện nay, các Ngân hàng đều chưa
nắm rõ được các danh mục các tài sản theo qui định phải đăng ký quyền sở hữu và cơ quan
chức năng cấp chứng nhận quyền sở hữu đó.
- Còn có sự mâu thuẫn trong các qui định của pháp luật về thế chấp tài sản:
+ Trong Bộ luật dân sự qui định khác nhau giữa thế chấp và cầm cố là tài sản dùng
làm đảm bảo thực hiện hợp đồng là bất động sản hay động sản. Ngược lại tại Nghị định số
17/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ trưởng thì qui định sự khác nhau giữa thế chấp
và cầm cố là ai nắm giữ tài sản đó (chủ nợ nắm giữ tài sản là cầm cố, bên nợ nắm giữ tài sản
là thế chấp)
+ Luật các tổ chức tín dụng mục a) khoản 2 Điều 54 qui định: “ Bán tài sản cầm cố để
thu nợ, chuyển nhượng, bán tài sản thế chấp để thu hồi vốn trong một thời hạn nhất định theo
qui định của pháp luật.”. Như vậy, Luật qui định không minh thị, thiếu nhất quán. Chúng ta
hiểu rằng thu hồi nợ bằng thu hồi vốn gốc + lãi. Qui định không rõ ràng như trên sẽ dẫn đến
người vay viện cớ theo luật định chỉ trả vốn chứ không trả lãi.
Chương III:
một số giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo tại
Nhct-hk
Hiện nay, vấn đề xử lý tài sản thế chấp, cầm cố để thu hồi nợ là một vấn đề hết sức
búc xúc, quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc không chỉ ở NHCT-HK
mà cả hệ thống NHTMVN nói chung. Không chỉ đến bây giờ, nghành Ngân hàng mới quan
tâm đến nhiệm vụ xử lý tài sản để thu hồi nợ, mà vấn đề này đã được các NHTM và cả
NHNN quan tâm thực hiện nhằm giảm thiểu số lượng nợ quá hạn đến mức an toàn và thu hồi
được nguồn vốn của mình. Vấn đề này hiện đã và đang thu hút được sự quan tâm và tranh
luận của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực Ngân hàng, xoay quanh mục tiêu là nhằm đem lại
một hiệu quả cao nhất trong việc xử lý tài sản thu hồi nợ cho Ngân hàng.
` Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã và đang cố gắng thực hiện các biện pháp
nhằm đẩy nhanh tiến trình xử lý tài sản thế chấp, cầm cố thu hồi nợ, mặc dù đã được những
kết quả khả quan nhưng vẫn còn một khoảng cách nhất định so với yêu cầu.
Trong thời gian thực tập tại NHCT-HK, thông qua quá trình tìm hiểuvà nghiên cứu
vấn đề , em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến. Các ý kiến có thể còn nhiều bất cập nhưng
em mong đó sẽ là ý kiến mang tính đóng góp, xây dựng góp phần tháo gỡ những khó khăn
vướng mắc mà NHCT-HK nói riêng và toàn bộ hệ thống NHTM Việt nam nói chung đang
gặp phải.
I. Phương hướng hoạt động cho vay của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm:
*Chỉ tiêu cụ thể:
- Dư nợ: 1000 tỷ đồng
- Nguồn vốn: 4.500 tỷ đồng
*Giải pháp thực hiện:
- Nghiên cứu, nắm chắc tình hình kinh tế –xã hội của đất nước, đưa ra những chính
sách phù hợp trong từng thời kỳ, tránh những ảnh hưởng xấu có tính chu kỳ của nền kinh tế .
- Tiếp tục mỡ rộng cho vay đối những khách hàng có dự án khả thi, các công trình
trọng đi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm.pdf