Luận văn Giải pháp đổi mới hoạt động của chi nhánh ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam

Tài liệu Luận văn Giải pháp đổi mới hoạt động của chi nhánh ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam: LUẬN VĂN: Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đói nghèo và Việc làm là một trong những vấn đề xã hội bức xúc mang tính toàn cầu. Giải quyết đói nghèo và việc làm ngày nay không còn là công việc riêng của từng quốc gia, mà trở thành một trong những chính sách được ưu tiên hàng đầu trong các chư- ơng trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của toàn thế giới. Việt Nam là một trong số những nước có tỷ lệ hộ nghèo và tỷ lệ lao động thiếu việc làm khá cao nên giải quyết vấn đề đói nghèo và việc làm ở nước ta càng trở nên bức bách, là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Một trong những chính sách mang tính đột phá, đóng vai trò động lực quan trọng là hình thành định chế tài chính của Nhà nước, thực hiện giải pháp hỗ trợ trực tiếp cho hộ...

pdf85 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1052 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp đổi mới hoạt động của chi nhánh ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đói nghèo và Việc làm là một trong những vấn đề xã hội bức xúc mang tính toàn cầu. Giải quyết đói nghèo và việc làm ngày nay không còn là công việc riêng của từng quốc gia, mà trở thành một trong những chính sách được ưu tiên hàng đầu trong các chư- ơng trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của toàn thế giới. Việt Nam là một trong số những nước có tỷ lệ hộ nghèo và tỷ lệ lao động thiếu việc làm khá cao nên giải quyết vấn đề đói nghèo và việc làm ở nước ta càng trở nên bức bách, là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Một trong những chính sách mang tính đột phá, đóng vai trò động lực quan trọng là hình thành định chế tài chính của Nhà nước, thực hiện giải pháp hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg ngày 04/10/2002 về việc thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) nhằm thống nhất các nguồn lực tài chính, thiết lập một cơ chế hổ trợ, góp phần thực hiện mục tiêu của Nhà nước đối với các đối tượng chính sách xã hội.Tuy nhiên,có cơ chế chính sách nhưng tổ chức hoạt động để đưa chính sách đến đúng đối tượng cũng không kém phần quan trọng. Việc (NHCSXH) ra đời, trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng phục vụ người nghèo, tách ra từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đáp ứng được yêu cầu tổ chức lại hoạt động phục vụ đối tượng chính sách, nhưng đòi hỏi phải xây dựng một cơ chế hoạt động phù hợp để Ngân hàng này có đủ năng lực thực hiện được các mục tiêu chính sách xã hội. Quảng Nam là một trong số những tỉnh nghèo,có tỷ lệ hộ đói nghèo cao hơn rất nhiều so với bình quân chung cả nước. Theo tiêu chí mới cả nước có tỷ lệ là 22% hộ đói nghèo thì Quảng Nam tỷ lệ là 30,2%, nhu cầu nguồn lực để đầu tư, phát triển, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn đang là mối quan tâm hàng đầu của các cấp lãnh đạo, các ngành của tỉnh. Từ thực tiễn tổ chức thực hiện các chương trình tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn tỉnh trong những năm qua, đồng thời là người trực tiếp tham gia quản lý NHCSXH tác giả chọn đề tài: “Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam" để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ- chuyên ngành quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Liên quan đến đề tài đã có một số công trình nghiên cứu đã được công bố như: Hà Thị Hạnh, "Giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội", Luận án tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội, 2003. Võ Văn Lâm, "Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Hà Nội, 1999. Võ Văn Lâm, "Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường", Luận án tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội, 2003. Nguyễn Thị Liễu, "Giải pháp tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Hà Nội, 2006. Huỳnh Ngọc Thành, "Một số phương hướng và giải pháp đổi mới hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo Đà Nẵng", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Hà Nội, 2000. Các công trình trên đã tiếp cận và giải quyết nhiều nội dung về mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động, chất lượng tín dụng của NHCSXH, và hoạt động tín dụng trên địa bàn Quảng Nam.Tuy nhiên trên địa bàn Quảng Nam và đối với chi nhánh NHCSXH tỉnh Quảng Nam chưa có công trình nào nghiên cứu về đề tài này. Để thực hiện đề tài, tác giả có kế thừa những ý tưởng về cơ sở lý luận và một số nội dung liên quan để phục vụ cho quá trình khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp của đề tài. Tác giả cũng xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các số liệu kết quả nêu trong đề tài này là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Góp phần làm rõ cơ sở lý luận, khảo sát phân tích thực trạng, đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới hoạt động của Chi nhánh NHCSXH Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu luận giải những căn cứ về sự ra đời và hoạt động của NHCSXH, những vấn đề chung của chính sách tín dụng ưu đãi và quan điểm của Nhà nước ta về chính sách tín dụng ưu đãi. - Đánh giá thực trạng hoạt động của Chi nhánh NHCSXH Quảng Nam qua 3 năm triển khai đi vào hoạt động và 6 năm hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo (tiền thân của NHCSXH). Qua đó rút ra những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất và kiến nghị các giải pháp để đổi mới hoạt động của Chi nhánh NHCSXH Quảng Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam. - Phạm vi: Trong khuôn khổ luận văn Thạc sỹ đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tổ chức quản lý của NHCSXH tỉnh Quảng Nam thực hiện các chương trình tín dụng ưu đãi trong 9 năm hoạt động kể từ khi tái lập tỉnh Quảng Nam, từ năm 1997 đến nay (6 năm Ngân hàng phục vụ người nghèo và 3 năm NHCSXH) về cơ cấu nguồn vốn cho vay cũng như thực trạng về chất lượng các chương trình tín dụng đang cho vay như cho vay hộ nghèo, cho vay giải quyết việc làm, cho vay xuất khẩu lao động, cho vay học sinh sinh viên, cho vay trồng rừng... 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phân tổ thống kê, phân tích hoạt động kinh tế và xử lý hệ thống. 6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để xây dựng các chính sách phát triển kinh tế xã hội (nhất là các chính sách xã hội, chính sách tín dụng) trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết. Chương 1 Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội 1.1 Ngân hàng chính sách xã hội trong hệ thống ngân hàng Nhà nước 1.1.1 Hệ thống Ngân hàng ở nước ta hiện nay ở nước ta hiện nay, hệ thống Ngân hàng gồm có Ngân hàng nhà nước, các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác. * Ngân hàng nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng nhà nước) là cơ quan của Chính Phủ và là Ngân hàng Trung ương của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. - Hoạt động của Ngân hàng nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Ngân hàng nhà nước là một pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước; có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội. * Các tổ chức tín dụng Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gởi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Tổ chức tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập theo pháp luật nước ngoài. Tổ chức tín dụng hợp tác là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và Luật hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Tổ chức tín dụng hợp tác gồm ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng và các hình thức khác. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gởi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. 1.1.2 Ngân hàng Chính sách xã hội * Khái niệm về Ngân hàng chính sách ã hội Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường sẽ tồn tại những ngành hàng, những khu vực, đối tượng khách hàng có sức cạnh tranh kém, không đủ các điều kiện để tiếp cận với dịch vụ tín dụng của các ngân hàng thương mại như các ngành hàng mang tính lợi ích công cộng, những khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện thời tiết khắc nghiệt, chi phí đầu tư cao, rủi ro lớn, do đó các Ngân hàng thương mại (NHTM) rất ít đầu tư vào khu vực này, mặt khác nhiều hộ dân, tổ chức kinh tế ở vùng này thiếu vốn nhưng không đủ các điều kiện để vay vốn các Ngân hàng thương mại. Tuỳ điều kiện và quan điểm của mỗi quốc gia, Chính phủ sẽ thiết lập các kênh tín dụng hoặc các ngân hàng chuyên biệt để thực hiện chính sách cho vay các nhóm đối tượng này. Như vậy, các khoản tín dụng chính sách là các khoản cho vay chỉ định để hổ trợ các chính sách kinh tế và ngành công nghiệp của Chính phủ. Đây là việc cho vay phi thương mại đối với các hoạt động bán tài chính mà không đáp ứng các tiêu chí thương mại nhưng lại có tác động xã hội và chính trị quan trọng trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Các Ngân hàng được thiết lập để chuyên thực hiện tín dụng chính sách của Chính phủ được gọi là loại hình Ngân hàng Chính sách. Ngân hàng Chính sách có 2 loại: - Ngân hàng Chính sách phục vụ các chính sách phát triển còn gọi là Ngân hàng phát triển - Ngân hàng Chính sách phục vụ các chính sách xã hội còn gọi là Ngân hàng Chính sách xã hội. Đối với nước ta Nhà nước thành lập các Ngân hàng Chính sách xã hội hoạt động không vì mục đích lợi nhuận để phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách khác; phục vụ miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; phục vụ nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Chính phủ quy định chính sách tín dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện, thời hạnvay vốn. 1.1.3. Quá trình hình thành Ngân hàng Chính sách xã hội ở nước ta 1.1.3.1. Giai đoạn hình thành Ngân hàng phục vụ người nghèo Đầu thập niên 1990 thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế chỉ có 2 thành phần: Quốc doanh và tập thể đã chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế đều bình đẳng tự chủ trong sản xuất kinh doanh cùng tiến đến mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Kết quả giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã khởi sắc, từng bước kiềm chế được lạm phát, mức tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Đời sống kinh tế, văn hoá và tinh thần của người dân được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên theo quy luật phát triển không đồng đều trong xã hội, một số doanh nghiệp và bộ phận dân cư có vốn, có tri thức, nhạy bén với cơ chế thị trường đã nhanh chóng trở nên giàu có, họ là những doanh nghiệp và cá nhân tiên phong của thời đại các thành phần kinh tế đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó còn một bộ phận doanh nghiệp và dân cư do thiếu kinh nghiệm sản xuất, thiếu vốn sinh sống ở các vùng khó khăn không hoà nhập kịp với cơ chế thị trường đã trở nên nghèo khó. Sự phân cực trải đều làm cho phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét, khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo ngày càng tăng trong xã hội. Cùng hoà nhập với tiến trình đổi mới của nền kinh tế, lĩnh vực tài chính Ngân hàng cũng bước sang một trang sử mới, từng bước xoá bỏ bao cấp trong hoạt động tín dụng, các Ngân hàng tự chủ về vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính, nguồn vốn tín dụng chủ yếu “đi vay để cho vay”. Trong hoạt động tín dụng, để bảo tồn nguồn vốn hoạt động của mình các Ngân hàng thực hiện cho vay có tài sản thế chấp, được lựa chọn khách hàng, riêng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) còn mở rộng cho vay sản suất trong nông nghiệp nông thôn. Mâu thuẩn mới nảy sinh, một bộ phận dân nghèo không có tài sản thế chấp, không vay được vốn Ngân hàng. Để duy trì sản xuất nhiều hộ phải đi vay nặng lãi, bán lúa non, số khác cầm cố ruộng đất…làm cho người nghèo càng nghèo thêm. Trước thực trạng trên, theo sáng kiến của NHNo & PTNT Việt Nam và được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đồng ý, tháng 4 năm 1995, Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo đã được thiết lập với tổng số tiền ban đầu là 432 tỷ đồng, trên cơ sở góp vốn từ 3 Ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 100 tỷ đồng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 200 tỷ đồng, NHNo & PTNT Việt Nam 132 tỷ đồng. Quỹ được sử dụng để cho vay hộ nghèo thiếu vốn sản xuất theo cơ chế hộ nghèo vay vốn không phải thế chấp tài sản, lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất của Ngân hàng Thương Mại và giao cho NHNo & PTNT quản lý. Từ kinh nghiệm thực tiễn về quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo NHNo & PTNT đã đề xuất và được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình với Chính phủ về sự cần thiết phải có một tổ chức tín dụng của Nhà nước cùng với hệ thống chính sách phù hợp để hỗ trợ tài chính đối với các hộ nghèo thiếu vốn sản xuất. Ngày 31 tháng 8 năm 1995 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 525/ TTg thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo. Ngân hàng phục vụ người nghèo (NHNg) chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1996 với số vốn điều lệ ban đầu là 500 tỷ đồng, bộ máy quản lý điều hành gọn nhẹ. Việc cho vay uỷ thác hoàn toàn qua hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam. Phương thức quản lý, cho vay uỷ thác bước đầu đã mang lại hiệu quả thiết thực, Nhà nước tiết kiệm được chi phí quản lý do tận dụng được mạng lưới, con người, cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có của NHNo & PTNT, đội ngũ cán bộ chuyên trách và kiêm nhiệm cho NHNg được NHNo & PTNT trả lương. Toàn bộ nguồn vốn của NHNg đều tập trung cho vay hộ nghèo, vùng nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Từ nguồn vốn ban đầu nhận bàn giao từ quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo là 518 tỷ đồng, sau 7 năm hoạt động 1996-2002 “ tổng nguồn vốn của NHNg đã lên tới 7.083 tỷ đồng, hơn 2 triệu hộ nghèo được vay vốn để phát triển sản xuất với tổng dư nợ 5.700 tỷ đồng vốn vay đã giúp cho hàng triệu hộ vươn lên thoát nghèo. NHNg thực sự trở thành địa chỉ tin cậy của người nghèo thiếu vốn sản xuất, là công cụ điều hành hữu hiệu của chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương, là người bạn đồng hành của các tổ chức chính trị - xã hội trên khắp mọi miền đất nước. Có thể nói thành công của công tác tín dụng Ngân hàng phục vụ hộ nghèo cũng là thành công của chủ trương đường lối chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước trên mặt trận chống đói nghèo. Thành tựu xoá đói giảm nghèo của Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế và các bạn bè trên thế giới công nhận. 1.1.3.2. Sự ra đời của Ngân hàng Chính sách xã hội Cuối năm 2002, trước yêu cầu của tiến trình hội nhập, đòi hỏi phải cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng, từng bước tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại để các ngân hàng thương mại rãnh tay vươn ra nắm giữ thị trường chuẩn bị cho tiến trình hội nhập thương mại khu vực và quốc tế. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 đã nêu rõ “ Cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng. Phân biệt chức năng của Ngân hàng nhà nước và Ngân hàng thương mại Nhà nước, chức năng cho vay của Ngân hàng Chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng thương mại [7]. Về mục tiêu xoá đói giảm nghèo, Đảng ta tiếp tục khẳng định trong nghị quyết IX: “ Bằng nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội, tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm đối với những vùng nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo” [7]. Vì vậy, việc thiết lập một loại hình Ngân hàng Chính sách cho mục tiêu xói đói giảm nghèo là một tất yếu khách quan cho tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Ngày 4/10/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định 78/ NĐ-CP về tín dụng người nghèo và các đối tượng Chính sách khác nhằm sử dụng các nguồn lực tài chính do Nhà nước huy động để cho người nghèo và các đối tượng Chính sách khác vay ưu đãi phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN, ổn định xã hội. Nghị định cho phép tập trung các nguồn lực tài chính của Nhà nước để thực hiện tín dụng chính sách nhằm khắc phục những tồn tại của thời kỳ trước đây là nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước nhưng do nhiều tổ chức cùng thực hiện nên việc đầu tư dàn trải theo nhiều phương thức với nhiều mức lãi suất khác nhau, dẫn tới chồng chéo, kém hiệu quả. Theo đó, Nghị định cho phép thành lập NHCSXH để thực hiện tín dụng Chính sách đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng phục vụ người nghèo, tách ra khỏi hệ thống NHNo & PTNT. Với những kết quả và kinh nghiệm sau 7 năm hoạt động, trên cơ sở những vướng mắc và tồn tại về mô hình tổ chức quản lý và cơ sở hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo để thiết lập Ngân hàng Chính sách xã hội của Chính phủ dành riêng thực hiện mục tiêu xói đói giảm nghèo, phù hợp với điều kiện và thực tiễn của Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 131/2001/QĐ-TTg ngày 4/10/2002 về việc thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội. Đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm thông qua phương thức tín dụng để tập trung nguồn lực tốt hơn với mục tiêu hỗ trợ tài chính đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, tạo cho họ có điều kiện tự cải thiện cuộc sống, từng bước xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.1.4 Đặc thù của Ngân hàng Chính sách xã hội 1.1.4..1 Đặc thù về mô hình tổ chức Sơ đồ 1.1: tổ chức hệ thống ngân hàng chính sách xã hội Ghi chú: Quan hệ chỉ đạo Quan hệ báo cáo Ban chuyên gia tư vấn Uỷ ban nhân dân xã Phường, ban xoá đói Giảm nghèo xã, phường Tổ tiết kiệm và vay vốn Hội sởchính Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Chi nhánh tỉnh, thành phố Ban đại diện HĐQT tỉnh, thành phố Phòng giao dịch/ Chi nhánh quận, huyện Ban đại diện HĐQT quận, huyện Người vay Người vay Người vay Người vay Phối hợp Là một tổ chức tín dụng hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, do đó mô hình tổ chức của Ngân hàng Chính sách xã hội cũng có những đặc điểm riêng với các tổ chức tín dụng khác. Loại hình NHCSXH chủ yếu là Ngân hàng thuộc sỡ hữu Nhà nước, sử dụng một phần nguồn tài chính của Nhà nước tham gia hỗ trợ cho các ngành, các khu vực. Vì vậy, mô hình quản lý của loại hình ngân hàng này phải có sự hiện diện của một số cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan để tham gia quản trị ngân hàng, hoạch định các chính sách tạo lập nguồn vốn, chính sách đầu tư với các khu vực, các đối tượng trong từng thời kỳ cho NHCSXH. * Bộ máy quản trị NHCSXH Tại cấp Trung ương: Có Hội đồng quản trị gồm 12 thành viên, 9 thành viên kiêm nhiệm và 3 thành viên chuyên trách. 9 thành viên kiêm nhiệm gồm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Bộ trưởng Bộ tài chính, Bộ KH & ĐT, Bộ LĐTB & XH, Bộ NN & PTNT, Uỷ ban dân tộc, Văn phòng Chính phủ, lãnh đạo Hội nông dân, Hội phụ nữ; 3 thành viên chuyên trách gồm: 1 thành viên giữ chức vụ phó chủ tịch thường trực, 1 uỷ viên giữ chức Tổng giám đốc, 1 thành viên giữ chức Trưởng ban kiểm soát. Nhiệm kỳ của thành viên HĐQT NHCSXH là 5 năm và có thể bổ nhiệm lại. Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch, Phó chủ tịch, các uỷ viên HĐQT và Trưởng ban kiểm soát Tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quận, huyện, thị xã trực thuộc tỉnh được thành lập Ban đại diện HĐQT do Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch ủy Ban nhân dân cùng cấp làm trưởng ban. Thành phần và số lượng Ban đại diện HĐQT như trung ương nhưng không có cơ cấu phó ban thường trực. Tuỳ tình hình ở từng địa phương do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định cơ cấu thành phần nhân sự và quyết định thành lập Ban đại diện HĐQT. Giúp việc Ban đại diện HĐQT có Ban chuyên gia tư vấn gồm chuyên viên các ngành là thành viên HĐQT do các ngành cử và một số chuyên gia do Chủ tịch HĐQT ra quyết định chấp thuận. Giúp việc Ban đại diện HĐQT các cấp do Giám đốc Chi nhánh NHCSXH cùng cấp, giám đốc phòng giao dịch đảm nhiệm. Tại cấp cơ sở xã, phường, cùng với cấp tổ chức chính trị - xã hội thiết lập các tổ vay vốn gồm các đối tượng chính sách có nhu cầu vay vốn ở các thôn bản tự nguyện hoạt động theo thoả ước tập thể, có trách nhiệm trong việc sử dụng vốn và đây thực sự là mạng lưới chân rết cho mạng lưới hoạt động NHCSXH. * Bộ máy điều hành NHCSXH NHCSXH có hệ thống mạng lưới hoạt động từ Trung ương đến tỉnh, thành phố, quận, huyện theo địa giới hành chính. Điều hành hoạt động của hệ thống NHCSXH là Tổng giám đốc, giúp việc cho Tổng giám đốc là một số Phó tổng giám đốc và các phòng chuyên môn nghiệp vụ tại Hội sở chính. - Tại Trung ương + Hội sở chính NHCSXH đặt tại thủ đô Hà Nội - Tại địa phương + Chi nhánh NHCSXH các tỉnh, thành phố và Sở giao dịch. + Các Phòng giao dịch NHCSXH cấp huyện. Chi nhánh NHCSXH cấp tỉnh: Là đơn vị trực thuộc Hội sở chính, đại diện pháp nhân theo uỷ quyền của Tổng giám đốc trong việc chỉ đạo, điều hành các hoạt động của NHCSXH trên địa bàn. Điều hành Chi nhánh cấp tỉnh là Giám đốc, giúp việc Giám đốc là một số phó giám đốc và các phòng chức năng tại Hội sở tỉnh. Phòng giao dịch cấp huyện: là các đơn vị trực thuộc Chi nhánh NHCSXH cấp tỉnh, đặt tại các Quận, Huyện, trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ của NHCSXH trên địa bàn. Điều hành Phòng dịch quận, huyện là giám đốc, giúp việc Giám đốc là phó giám đốc và các Tổ nghiệp vụ. Tổ tiết kiệm và vay vốn: NHCSXH thực hiện phương thức cho vay đến người vay thông qua các tổ chức nhận uỷ thác. Tổ tiết kiệm và vay vốn của các tổ chức nhận uỷ thác là cánh tay nối dài của NHCSXH đảm bảo vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ đến đúng người nghèo và các đối tượng chính sách cần vay vốn. 1.1.4.2 Đặc thù về cơ chế hoạt động * Về mục tiêu hoạt động: NHCSXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà mục tiêu hoạt động chính là nhằm XĐGN, giải quyết việc làm trên cơ sở bảo tồn vốn đầu tư. - Đối với khu vực kinh tế nông thôn: cho vay hỗ trợ kinh tế hộ gia đình từng bước cải thiện đời sống. - Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã, các cơ sở kinh doanh của người tàn tật, cho vay để tạo việc làm. - Đối với các tổ chức kinh tế, hộ sản suất kinh doanh thuộc những khu vực kinh tế kém phát triển vùng sâu, vùng xa: cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vốn sản suất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư và phát triển đời sống. - Đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn: cho vay trang trải các chi phí học tập. * Về đối tượng khách hàng: Đối tượng khách hàng của NHCSXH có thể là: hộ gia đình nghèo, hộ sản suất, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở vùng nghèo và các đối tượng chính sách khác. Phần lớn khách hàng của NHCSXH rất ít có điều kiện để tiếp cận nguồn vốn tín dụng từ các NHTM. Về nguồn vốn: Trong khi hoạt động đặc trưng của các Ngân hàng thương mại là “đi vay để cho vay”, hay nói cách khác là đi huy động các nguồn vốn nhàn rỗi để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế thì nguồn vốn của NHCSXH lại được tạo lập chủ yếu từ Ngân sách Nhà nước như cấp vốn điều lệ; nguồn vốn ODA dành cho chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ; nguồn vốn của Chính phủ vay; nguồn vốn NHCSXH huy động trên thị trường theo kế hoạch cấp bù từ ngân sách Nhà nước. * Về sử dụng vốn: Do đối tượng khách hàng chủ yếu là hộ nghèo và các đối tượng chính sách nên việc sử dụng vốn của Ngân hàng cũng có những đặc thù riêng như: - Món cho vay nhỏ, chi phí quản lý cao. - Tính rủi ro cao, khả năng sinh lời từ vốn thấp. - Vốn vay được ưu đãi về thủ tục, về lãi suất, thời hạn vay vốn. - Việc giải ngân thường được uỷ thác qua các tổ chức trung gian như: các tổ chức tín dụng, các tổ chức chính trị - xã hội. 1.2. Ngân hàng chính sách xã hội với mục tiêu xoá đói giảm nghèo 1.2.1. Phạm vi, nội dung hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội * Nguồn vốn - Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước: + Vốn điều lệ; + Vốn cho vay XĐGN, tạo việc làm và thực hiện Chính sách xã hội khác; + Vốn trích một phần từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách các cấp để tăng nguồn vốn cho vay trên địa bàn; + Vốn ODA được Chính phủ giao - Vốn huy động: + Tiền gửi có trả lãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; + Tiền gửi các tổ chức tín dụng Nhà nước bằng 2% số dư nguồn vốn huy động bằng đồng Việt Nam có trả lãi theo thoả thuận; + Tiền gửi tự nguyện không lấy lãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; + Phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, chứng chỉ tiều gửi và các giấy tờ có giá khác; + Tiền gửi tiết kiệm của người nghèo; - Vốn đi vay: + Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước; + Vay tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm xã hội Việt Nam; + Vay Ngân hàng Nhà nước; - Vốn đóng góp tự nguyện không hoàn trả của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức phi Chính phủ trong và ngoài nước. - Vốn nhận uỷ thác cho vay ưu đãi của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các tổ chức phi Chính phủ, các cá nhân trong và ngoài nước. - Các vốn khác. * Cho vay: - Phạm vi cho vay + Hộ nghèo; + Học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đang theo học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học nghề; + Các đối tượng cần vay vốn để giải quyết việc làm theo Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11 tháng 4 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ); + Các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; + Các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh thuộc hải đảo; thuộc khu vực II, III miền núi và thuộc Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (sau đây gọi là Chương trình 135); + Các đối tượng khác khi có quyết định của Thủ tướng Chính phủ. + Các đối tượng cho vay được quy định ở trên gọi chung là Người vay. - Vốn cho vay được sử dụng vào các việc sau: + Đối với hộ nghèo; hộ sản suất kinh doanh thuộc hải đảo, thuộc khu vực II, III miền núi và các xã thuộc Chương trình 135, sử dụng vốn vay để:  Mua sắm vật tư, thiết bị, giống cây trồng, vật nuôi, thanh toán các dịch vụ phục vụ sản suất, kinh doanh;  Góp vốn thực hiện các dự án hợp tác sản xuất, kinh doanh được cấp có thẩm quyền phê duyệt;  Giải quyết một phần nhu cầu thiết yếu về: nhà ở, điện thắp sáng, nước sạch, học tập. + Đối với các tổ chức kinh tế thuộc hải đảo, thuộc khu vực II, III miền núi và các xã thuộc Chương trình 135, sử dụng vốn vay để chi phí cho sản suất, kinh doanh theo chương trình, dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt. + Đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, sử dụng vốn vay để mua sắm phương tiện học tập và các chi phí khác phục vụ cho việc học tập tại trường. + Người vay là đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài, sử dụng vốn vay để trả phí đào tạo, phí dịch vụ, tiền đặt cọc, vé may bay. + Người vay là các đối tượng khác thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. + Vốn nhận uỷ thác cho vay ưu đãi được sử dụng theo hợp đồng uỷ thác. - Loại cho vay + Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng. + Cho vay trung dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng. + Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay trên 60 tháng. - Điều kiện để được vay vốn + Người vay là hộ nghèo phải có địa chỉ cư trú hợp pháp và phải có tên trong danh sách hộ nghèo được uỷ ban nhân dân cấp xã quyết định theo chuẩn nghèo do Bộ Lao động- Thương binh và xã hội công bố, được Tổ tiết kiệm và vay vốn bình xét, thành lập danh sách có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã. + Người vay là các đối tượng chính sách khác thực hiện theo các quy định hiện hành của Nhà nước và các quy định trong Nghị định của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. - Nguyên tắc tín dụng + Người vay phải sử dụng vốn vay đúng mục đích xin vay. + Người vay phải trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi. - Uỷ thác cho vay + NHCSXH thực hiện cho vay đến Người vay thông qua các tổ chức nhận uỷ thác. Bên nhận uỷ thác là người giải ngân và thu nợ trực tiếp đến Người vay và được hưởng phí uỷ thác. + Bên nhận uỷ thác là tổ chức tín dụng thực hiện theo quy định hiện hành về uỷ thác và nhận uỷ thác cho vay vốn của tổ chức tín dụng. + Bên nhận uỷ thác là tổ chức chính trị - xã hội cần có các điều kiện sau  Có đội ngũ cán bộ am hiểu nghiệp vụ cho vay.  Có mạng lưới hoạt động đến vùng nghèo, hộ nghèo.  Có uy tín trong nhân dân, có uy tín với Ngân hàng Chính sách xã hội.  Có điều kiện tổ chức kế toán, thống kê, báo cáo theo các quy định cụ thể của NHCSXH; - Nội dung, phạm vi, mức độ, phí uỷ thác, quyền và nghĩa vụ của bên uỷ thác, bên nhận uỷ thác được thể hiện trong hợp đồng uỷ thác do hai bên thoả thuận; - Tổng giám đốc NHCSXH và Thủ trưởng đơn vị bên nhận uỷ thác là đại diện pháp nhân trong việc ký hợp đồng uỷ thác. Nếu bên nhận uỷ thác là pháp nhân ở cấp tỉnh, huyện, xã thì giám đốc Chi nhánh NHCSXH cấp tỉnh, cấp huyện, phòng giao dịch được Tổng giám đốc uỷ quyền ký hợp đồng uỷ thác. - Quy chế về uỷ thác cho vay, Quy chế hoạt động và trả thù lao cho Tổ tiết kiệm và vay vốn thực hiện theo quy định của Hội đồng quản trị trong phạm vi mức phí quản lý của NHCSXH được Thủ tướng Chính phủ quyết định. - Lãi suất cho vay + Lãi suất cho vay ưu đãi do thủ tướng Chính phủ quyết định cho vay từng thời kỳ theo đề nghị của Hội đồng quản trị NHCSXH, thống nhất một mức trong phạm vi cả nước. + Lãi suất nợ quá hạn được tính bằng 130% lãi suất khi cho vay. - Rủi ro tín dụng và xử lý rủi ro: + Ngân hàng Chính sách xã hội được trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng vào chi phí nghiệp vụ để bù đắp những khoản rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan thuộc diện đơn lẻ, cục bộ. Mức trích được tính bằng 0,02% trên số dư nợ bình quân năm. Trường hợp quỹ dự phòng rủi ro tín dụng không sử dụng hết trong năm, được chuyển sang năm sau. Trường hợp quỹ dự phòng rủi ro không đủ bù đắp số rủi ro trong năm, Chủ tịch Hội đồng Quản trị trình Bộ trưởng Bộ tài chính giải quyết. + Người vay không trả được nợ do nguyên nhân khách quan gây ra như: thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, chính sách Nhà nước thay đổi, biến động giá cả thị trường được giải quyết như sau:  Trường hợp xảy ra trên diện rộng, thực hiện theo quyết định Thủ tưởng Chính phủ;  Trường hợp xảy ra ở diện đơn lẻ, cục bộ được cho gia hạn nợ hoặc được xử lý từ quỹ dự phòng rủi ro của Ngân hàng Chính sách xã hội do Hội đồng quản trị quyết định. + Những thiệt hại do nguyên nhân chủ quan của Người vay, của tổ chức nhận uỷ thác, của cán bộ viên chức Ngân hàng Chính sách xã hội gây ra thì các đối tượng này phải bồi thường và bị xử lý theo quy định của pháp luật. - Mức cho vay Mức cho vay đối với một lần vay phù hợp với từng loại đối tượng được vay vốn tín dụng ưu đãi do Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội quyết định và công bố trên cơ sở nhu cầu vay vốn và khả năng có thể huy động được trong từng thời kỳ. - Thời hạn cho vay, gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn: + Thời hạn cho vay được quy định căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay của Người vay và thời hạn thu hồi vốn của chương trình, dự án có tính đến khả năng trả nợ của người vay. + Trường hợp người vay chưa trả được nợ vay đúng kỳ hạn đã cam kết do chưa thu hoạch, bị kéo dài so với dự kiến hoặc chưa tiêu thụ được sản phẩm, Giám đốc chi nhánh ngân hàng nơi cho vay xem xét gia hạn nợ của các tổ chức nhận uỷ thác cho vay tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác ghi trong hợp đồng. + Trường hợp cho vay lưu vụ: thời hạn cho vay là thời hạn của chu kỳ sản xuất tiếp theo. + Trường hợp người vay sử dụng vốn vay sai mục đích; người vay có khả năng trả khoản nợ đến hạn nhưng chây ỳ không trả thì chuyển nợ quá hạn. Tổ chức cho vay kết hợp với chính quyền sở tại, các tổ chức chính trị - xã hội có biện pháp thu hồi nợ. - Thời hạn cho vay, gia hạn nợ, chuyển cho vay lưu vụ, chuyển sang nợ chờ xử lý, chuyển nợ quá hạn thực hiện theo quy định của Hội đồng quản trị Ngân hàng chính sách xã hội. * Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: - Ngân hàng Chính sách xã hội được mở tài khoản tiền gởi tại Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng khác trong nước nơi gần nhất theo địa giới hành chính để thuận tiện cho việc giải ngân và thanh toán. - NHCSXH được mở tài khoản tiền gởi cho khách hàng trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. - NHCSXH được mở tài khoản ngoại tệ tại nước ngoài theo quy định của Ngân hàng nhà nước để phục vụ hoạt động của ngân hàng. - NHCSXH được thực hiện các nghiệp vụ về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. - NHCSXH được nhận uỷ thác cho vay ưu đãi của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các tổ chức phi Chính phủ, các cá nhân trong và ngoài nước. - Các dịch vụ trên được thực hiện từng bước phù hợp với điều kiện, khả năng và yêu cầu thực tế. 1.2.2. Vai trò của Ngân hàng chính sách xã hội trong xói đói giảm nghèo Ngân hàng chính sách xã hội đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu của Chính phủ vì sự phát triển cân đối của nền kinh tế và vì một xã hội ổn định, dân giàu, nước mạnh thể hiện ở các nội dung sau: Thứ nhất: tập trung được mọi nguồn vốn ưu đãi của nhà nước về một đầu mối là NHCSXH, là địa chỉ cần thiết để các tổ chức, cá nhân thể hiện mối quan tâm đối với người nghèo thông qua việc gửi vốn có lãi hoặc không lãi để cho người nghèo vay. Đồng thời, thông qua hoạt động huy động vốn để cho người nghèo vay, được triển khai rộng rãi trong cộng đồng dân cư và những hộ nghèo thông qua tổ nhóm tiết kiệm đã khơi dậy tinh thần trách nhiệm đối với sự nghiệp xoá đói giảm nghèo, phát huy nội lực bản thân, nội lực từng vùng và khu vực, để thực hiện thành công công cuộc xoá đói giảm nghèo. Có thể số lượng huy động vốn trong cộng đồng người nghèo không nhiều, song qua đó cũng hình thành dần ý thức tích luỹ đầu tư, tạo thói quen tiết kiệm và gửi tiền vào Ngân hàng, đồng thời làm quen với việc sử dụng các dịch vụ Ngân hàng như chuyển tiền, nhận tiền, gửi tiền... [18, tr.23]. Thứ hai: với nguyên tắc cho vay có hoàn trả cả gốc và lãi đã khắc phục tư tưởng tự ti, ỷ lại khi nhận vốn cấp phát; tự nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh để hoà nhập kinh tế thị trường. Đương nhiên điều này không có nghĩa là không cần tới phương thức cấp phát. Nhà nước cần phải có các giải pháp đầu tư cấp phát các công trình cơ sở hạ tầng, phúc lợi công cộng, tạo điều kiện cho các đối tượng chính sách xã hội tiếp cận với nền sản xuất hàng hoá. Thứ ba: Cung cấp vốn tín dụng đối với người nghèo, góp phần cải thiện thị trường tài chính cộng đồng, nơi có hộ nghèo sinh sống: vốn tín dụng cho người nghèo đã góp phần cải thiện tình hình thị trường tài chính khu vực nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc ít người, những vùng có nhiều hộ nghèo sinh sống, hạn chế được nạn cho vay nặng lãi, giảm bớt được tình trạng bán, gán, cầm cố ruộng đất hoặc tình trạng bán sản phẩm non ở các khu vực nông thôn. Khi có nhu cầu sản xuất kinh doanh họ phải vay nặng lãi, cầm cố ruộng đất hoặc nhận bán sản phẩm non để có vốn đầu tư sản xuất và chi phí cho cuộc sống gia đình, do vậy áp lực tài chính đối với những hộ nghèo rất nặng nề. Khi có nguồn vốn tín dụng đến với những hộ nghèo đã giải toả phần lớn các áp lực về tài chính. Nhất là khi hộ nghèo vay vốn bị rủi ro bất khả kháng, tuỳ mức độ thiệt hại, Nhà nước có chính sách xử lý gia hạn nợ, giãn nợ, khoanh hoặc xoá nợ. Như vậy, hộ nghèo không bị áp lực tâm lý về khoản nợ không trả được do rủi ro khách quan. Mặt khác nguồn vốn tín dụng đối với người nghèo cho vay với lãi suất ưu đãi cũng đã góp phần hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi thường xảy ra trước đây ở các vùng nông thôn. Thứ tư: Vốn tín dụng Ngân hàng dành cho người nghèo góp phần tạo nhiều cơ hội việc làm cho người nghèo: vốn tín dụng cho người nghèo đã góp phần tạo việc làm cho hàng vạn lao động, phát huy tiềm năng sẵn có của những hộ gia đình nghèo. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên đầu người hiện nay ở các vùng nông thôn của nước ta còn thấp. Trong khi đó, số lao động ở nông thôn ngày càng tăng, sản xuất thuần nông trên thời gian làm việc của một lao động trong năm gom lại chỉ khoảng 100 ngày. Còn hơn 2/3 thời gian lao động trong năm của nông dân là nông nhàn, thất nghiệp. Tình trạng thất nghiệp diễn ra khá phổ biến ở các vùng nông thôn. Đặc biệt hộ nghèo thường là những gia đình đông con, không có việc làm, thu nhập thấp không đảm bảo chi tiêu, là gánh nặng trong cuộc sống. Thông qua vốn tín dụng cho người nghèo đã hỗ trợ phát triển ngành nghề ở nông thôn, như chế biến nông sản, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống cũng như thủ công mỹ nghệ, ngành nghề truyền thống. Nhờ vậy đã giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, giải quyết phần lớn thời gian nông nhàn, tận dụng lao động để khai thác ngành nghề truyền thống, khai thác tiềm năng nội lực, tạo cơ hội cho người nghèo tự vận động, vượt qua khó khăn, vươn lên thoát khỏi đói nghèo hoà nhập dần dần vào cơ chế kinh tế thị trường. Thứ năm: Vốn tín dụng cho người nghèo góp phần nâng cao thu nhập của hộ nghèo: vốn cung ứng cho người nghèo thông qua hình thức tín dụng đã góp phần tạo cơ hội cho người nghèo tăng thu nhập, nâng cao đời sống và giúp nhiều hộ nghèo vượt qua ngưỡng đói nghèo [18, tr.24]. 1.3. Kinh nghiệm của một số nước về phát huy tín dụng ngân hàng trong việc xoá đói giảm nghèo 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước ở Châu á 1.3.1.1. Kinh nghiệm về cung cấp vốn cho hộ nghèo trong xoá đói giảm nghèo ở Trung Quốc Theo kết quả khảo sát kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo tại Trung Quốc của đoàn cán bộ gồm Bộ Lao động thương binh và xã hội, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Ban tổ chức cán bộ, Văn phòng Chính phủ và cơ quan hợp tác kỹ thuật GTZ (CHLB Đức) thì Trung Quốc có chính sách ưu đãi đặc biệt trong việc xoá đói giảm nghèo cho các vùng nghèo, cả cấp trung ương và cấp tỉnh. Cấp trung ương có chính sách vĩ mô như: đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, chính sách ưu đãi, chính sách miễn giảm thuế cho từng vùng... Địa phương có chính sách cụ thể phù hợp với tình hình xã hội và khả năng kinh tế của mỗi tỉnh, như chính sách thuế đối với vùng cây đặc sản, chính sách miễn giảm thuế cho hộ. Đối với lĩnh vực cung cấp vốn tại cấp trung ương có hai loại vốn xoá đói giảm nghèo cho các huyện trọng điểm trong toàn quốc. - Vốn cấp không hoàn lại: dùng để phát triển cơ sở hạ tầng, gọi là vốn phúc lợi. - Vốn vay có hoàn trả gồm: vốn cho hộ nghèo vay phát triển sản xuất, chú trọng cho vay chăn nuôi và vốn phục vụ phát triển cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ, xí nghiệp nhỏ trong vùng đói, nghèo. Kinh phí cho xoá đói giảm nghèo là mục chi của Ngân sách Nhà nước trung ương, có tài khoản riêng. Ngoài nguồn vốn tài chính trung ương cấp, địa phương phải huy động để đầu tư thêm vốn đối ứng cho xoá đói giảm nghèo ở địa phương khoảng 30-40% so với tổng số vốn đầu tư của Trung ương. Mặt khác, Trung Quốc cũng mở rộng hợp tác để tranh thu viện trợ của các tổ chức quốc tế. Để quản lý nguồn vốn hợp tác quốc tế được tập trung tại Văn phòng xoá đói giảm nghèo ở các cấp, từ trung ương đến cấp huyện đều có trung tâm quản lý các dự án hợp tác quốc tế. Kinh nghiệm thành công trong việc cung cấp vốn để thực hiện xoá đói giảm nghèo đó là việc phân chia phối kết hợp tốt giữa vốn không hoàn lại xây dựng cơ sở hạ tầng với nguồn vốn tín dụng cho hộ nghèo vay phát triển sản xuất. Nguồn vốn không hoàn lại là tiền đề thuận lợi để đảm bảo tính an toàn của vốn tín dụng, trên cơ sở hạ tầng vùng nghèo được cải thiện, giao thương kinh tế thuận lợi, thị trường phát triển làm đà cho việc phát huy hiệu quả vốn tín dụng. Đồng thời việc cân nguồn vốn đối ứng giữa trung ương và địa phương khoảng 30-40% trong tổng đầu tư như vậy sẽ nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc tạo nguồn vốn dành cho xoá đói giảm nghèo, không thụ động chờ đợi nguồn từ trung ương. Tại Trung Quốc ngoài việc phát huy nội lực huy động các nguồn lực từ trong nước còn mở rộng quan hệ hợp tác tranh thủ sự viện trợ của các tổ chức quốc tế. 1.3.1.2. Kinh nghiệm phối hợp chương trình tín dụng với các chương trình khác trong công cuộc xoá đói giảm nghèo ở In-đô-nê-xi-a Inđônêxia là một đất nước đông dân (hơn 210 triệu người), điều kiện địa lý không thuận lợi (hàng ngàn đảo nhỏ), cho nên đất nước này gặp nhiều thách thức khi thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Giao thông liên lạc khó khăn, cản trở việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản. Xây dựng được chiến lược tổng thể quốc gia về xoá đói giảm nghèo là chìa khoá tháo gỡ vướng mắc nêu trên. Chính phủ In-đô-nê-xi-a đang vận động đông đảo các tầng lớp người dân tham gia góp ý xây dựng chiến lược, chương trình tạo khung tư vấn rộng rãi gồm: giới nghiên cứu; các tổ chức quốc tế; tổ chức phi chính phủ; chính quyền địa phương và đặc biệt là nhóm người nghèo. Chính phủ hỗ trợ họ về tài chính thông qua con đường tín dụng ngân hàng. Các địa phương, Bộ, Ngành được tự do hoạch định chương trình xoá đói giảm nghèo nhưng phải phù hợp chiến lược tổng thể của quốc gia. Kinh nghiệm về phát huy vai trò tín dụng ngân hàng trong chương trình xoá đói giảm nghèo ở In-đô-nê-xi-a đó là sự phối hợp đồng bộ các chương trình khác với chương trình tín dụng đối với hộ nghèo. Người nghèo thường thiếu về nhiều mặt, muốn lao động sản xuất họ cần có sức khoẻ, cần có kiến thức sản xuất, cơ hội việc làm, môi trường kinh tế xã hội...Nếu chỉ có cung cấp vốn tín dụng ngân hàng thì sẽ chưa đủ. Chính phủ tạo cơ hội cho họ lựa chọn và quyết định con đường thoát nghèo. 1.3.1.3. Kinh nghiệm cấp tín dụng đối với người nghèo ở Băng-la-dét Từ khi xuất hiện hình thức cấp tín dụng cho người nghèo vào năm 1976, do Ngân hàng Grameen thực hiện, những người nghèo ở đây được hưởng một chương trình trợ giúp có nhiều hiệu quả. Băng-la-đet là một nước có nền kinh tế nông nghiệp, có hơn 80% trong khoảng 120 triệu dân sinh sống tại các vùng nông thôn, chủ yếu bằng nghề nông. Tuy nhiên, có hơn 50% số hộ nông dân không có ruộng đất, phần lớn trong số họ có cuộc sống dưới mức nghèo khổ. Từ khi giáo sư Yumus, thuộc trường Đại học kinh tế Băng-la-đét, có sáng kiến thực hiện chương trình tín dụng đối với người nghèo thông qua ngân hàng Grameen đã giúp cho người nghèo có vốn khai thác nhiều ngành nghề từ đó có thu nhập, ổn định cuộc sống hơn so với trước. Đến năm 1995, Ngân hàng Grameen đã có hơn 2 triệu thành viên, đặc biệt đa số là thành viên nữ chiếm tỉ lệ 94%, vốn điều lệ của Ngân hàng Grameen tăng lên đạt gần 4 triệu USD. Cơ chế hoạt động của Ngân hàng Grameen cho phép bất cứ người nông dân nào không có đất canh tác, thu nhập dưới 2500 taka/năm (tương đương 100 USD) đều được vay vốn, không cần phải thế chấp, cầm cố tài sản để đảm bảo nợ vay. Mức tiền vay thấp nhất là 5000 taka (tương đương 200 USD). Cho vay theo lãi suất thị trường. Hoạt động của Ngân hàng Grameen rất kiên trì mục tiêu phục vụ và khai thác triệt để những đặc điểm của người nghèo, khơi dậy tính tích cực từ bản năng vượt nghèo của họ. Kinh nghiệm thành công từ hoạt động Ngân hàng Grameen đó là: xác định mục tiêu hoạt động của ngân hàng là vì người nghèo, đặc biệt quan tâm đến tầng lớp thấp nhất của xã hội, biết khai thác mặt tích cực của người nghèo, khẳng định mục tiêu chiến lược của tín dụng là giúp người nghèo thoát cảnh cùng cực, đối tượng phục vụ trước hết là phụ nữ, vì người nghèo khổ nhất ở nông thôn Băng-la-đét là phụ nữ. Tiếp đến việc cho vay của Ngân hàng Grameen thông qua tổ nhóm vay vốn, nhằm quản lý giám sát lẫn nhau, hạn chế tình trạng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, ngoài ra thông qua hoạt động tổ vay vốn đã huy động tiết kiệm bắt buộc mỗi tuần 1 taka, như thế vừa huy động được nguồn vốn, vừa tạo cho người vay có nguồn trả nợ khi gặp khó khăn và nhất là tạo thói quen tiết kiệm trong cộng đồng người nghèo. Một kinh nghiệm khác đối với hoạt động Ngân hàng Grameen đó là cho vay hộ nghèo theo lãi suất thị trường, tỷ lệ nợ quá hạn là một trong những ngân hàng thấp nhất ở Băng-la-đét, điều đó chứng tỏ việc cho vay người nghèo theo lãi suất thị trường có tác dụng thúc đẩy người nghèo hoà vào cơ chế kinh tế thị trường, chủ động cân đối chi phí sản xuất và giá thành để có lãi, có khả năng trả nợ gốc và lãi tốt. 1.3.1.4. Hệ thống tổ chức tín dụng chính sách của Nhật Bản Xuất phát từ tình hình nền kinh tế đất nước do bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kinh tế chậm phát triển ở một số ngành nghề và một số vùng khó khăn, nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện của nền kinh tế, Chính phủ Nhật Bản chủ trương hỗ trợ tài chính (bao cấp) đối với một số ngành nghề phục vụ cho lợi ích công cộng của quốc gia mà nền kinh tế tư nhân không thể đầu tư do nguồn vốn lớn, thời hạn dài, không có khả năng sinh lời. Để thực hiện vai trò của Chính phủ trong việc điều tiết nguồn tài chính cho các lĩnh vực đầu tư dài hạn, Chính phủ Nhật Bản xác định: nhất thiết phải thiết lập một loại hình “ngân hàng chính sách” để thông qua đó hỗ trợ tài chính với chính sách ưu đãi (trong đó có ưu đãi lãi suất) đối với một số ngành nghề. Đây là các tổ chức tài chính thuộc Chính phủ được thiết lập để hỗ trợ tài chính cho những ngành nghề, và những vùng cần phải đầu tư dài hạn, vốn lớn, rủi ro cao, khả năng sinh lời thấp mà kinh tế tư nhân không đầu tư được hoặc không muốn đầu tư. Về cơ chế tạo lập nguồn vốn của các tổ chức tín dụng chính sách: Các tổ chức tài chính thuộc loại hình Ngân hàng chính sách của Chính phủ không được phép tổ chức trực tiếp huy động vốn trên thị trường. Nguồn vốn hoạt động của các tổ chức này được cấp từ tài khoản đặc biệt của Ngân sách Nhà nước. Tài khoản đặc biệt thuộc Chính phủ do Bộ tài chính được giao trách nhiệm quản lý, hình thành từ các nguồn sau: - Chính phủ vay của dân thông qua Quỹ tiết kiệm Bưu điện. Toàn bộ nguồn vốn do Quỹ tiết kiệm Bưu điện huy động được đều phải chuyển hết vào tài khoản đặc biệt. - Chính phủ phát hành các trái phiếu cho các chương trình đầu tư của Chính phủ nhằm thu hút vốn trên thị trường tài chính. Nguồn này được sử dụng để tạo lập Quỹ cho vay tài chính. Nguồn ngân sách đặc biệt: dành một phần từ nguồn thu thuế của Ngân sách Nhà nước, nguồn từ Quỹ Bảo hiểm lương hưu. Về cơ chế cho vay của các tổ chức tín dụng chính sách: - Về lãi suất: lãi suất cho vay tới khách hàng của các tổ chức tín dụng chính sách do Bộ tài chính ban hành từng thời kỳ nhưng đều thấp hơn lãi suất cho vay ưu đãi áp dụng đối với doanh nghiệp đặc biệt của các Ngân hàng thương mại lớn. Trường hợp bị thua lỗ thì Chính phủ bù lỗ cho các tổ chức tín dụng này. - Về điều kiện cho vay: điều kiện cho vay được ưu đãi và cũng khác với các điều kiện của các Ngân hàng thương mại, phù hợp với các khách hàng vay vốn không đáp ứng được các điều kiện vay vốn của các Ngân hàng thương mại. Đến nay khi mà nền kinh tế Nhật Bản đã phát triển cao thì các tổ chức tài chính của Chính phủ vẫn khẳng định được vai trò quan trọng và sự cần thiết phải tồn tại của loại hình “Ngân hàng chính sách” trong nền kinh tế Nhật Bản, đồng thời khẳng định vai trò điều tiết của Nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, các tổ chức này đã và đang tự hoàn thiện về mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động nhằm từng bước giảm dần sự bao cấp của Nhà nước và tạo dựng tính bền vững trong hoạt động của mình trên thị trường tài chính. 1.3.2. Kinh nghịêm thực hiện tín dụng chính sách đối với người nghèo của Ngân hàng Nhân dân Brazil ở Brazil tín dụng vi mô cho người nghèo thường có chi phí cao, rủi ro nhiều nhưng lại khó có thể đẩy lãi suất cho vay lên cao để bù đắp chi phí vì khả năng tài chính và kinh doanh của người nghèo không chịu nổi lãi suất cao như vậy. Đó là một lý do chính khiến các Ngân hàng thương mại không muốn cung cấp tín dụng cho người nghèo. Để giải quyết mẫu thuẫn trên, một mặt Chính phủ Brazil yêu cầu các ngân hàng thương mại phải có trách nhiệm đóng góp kinh phí để xoá đói giảm nghèo bằng hai cách: tự thực hiện hoặc chuyển kinh phí đó cho cơ quan nào hoạt động xoá đói giảm nghèo hiệu quả hơn. Các ngân hàng được dùng đến 2% dự trữ bắt buộc của họ (số tiền phải gửi vào một tài khoản không trả lãi tại NHTW) để cung cấp tín dụng vi mô cho người nghèo. Lãi suất cho loại hình tín dụng này không quá 2%/tháng so với lãi suất bình quân 10% đến 12%/ tháng mà các Ngân hàng thương mại áp dụng hầu khắp Brazil. Ngân hàng Nhân dân Brazil được thành lập và hoạt động độc lập từ năm 2004 như một ngân hàng phụ thuộc, chuyên cung cấp tín dụng vi mô cho người nghèo từ bộ phận trước đây phụ trách về chính sách xã hội của Ngân hàng Brazil.. Ngân hàng Nhân dân Brazil ký hợp đồng với các doanh nghiệp như các Tổng công ty dược, thực phẩm, các công ty phân phối hàng. Các điểm giao dịch của Ngân hàng Nhân dân Brazil đặt tại cửa hàng của các doanh nghiệp này sẽ là nơi tiếp xúc khách hàng của Ngân hàng Nhân dân Brazil. Ngân hàng Nhân dân Brazil chỉ cho vay món nhỏ, từ 50 Riel (20 USD) cho tới 1000 Riel (400 USD), thời hạn cho vay bình quân là 6 tháng, tuy nhiên cũng có những khoản vay thời hạn dài hơn như người dân cần sửa chữa nhà có thể vay tới 2 năm. Ngân hàng Nhân dân Brazil không phân biệt rõ ràng mục đích là cho vay tiêu dùng hay sản xuât. 1.3.3. Một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Một là, các quốc gia đều chú trọng xây dựng chính sách xã hội, trong đó có chính sách xoá đói giảm nghèo và tổ chức hoạt động tín dụng hổ trợ cho các hộ nghèo. Hai là, mô hình tổ chức hoạt động tín dụng cho đối tượng hộ nghèo có khác nhau, cơ chế hổ trợ khác nhau nhưng là lĩnh vực được coi trọng và đều hướng tới việc cung ứng tín dụng cho hộ nghèo được thuận lợi và có hiệu quả. Ba là, cơ chế hổ trợ tín dụng được phân biệt đối tượng khá cụ thể từ cho vay cho sán xuất hay cho vay tiêu dùng; thời hạn được vay, mức vay... Bốn là, để phát huy tốt vai trò hiệu quả vốn cho vay đối với hộ nghèo trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, cần phải cơ cấu hợp lý giữa vốn dành để xây dựng cơ sở hạ tầng (Vốn do Ngân sách trung ương hoặc vốn do Ngân sách địa phương cấp không hoàn lại) với vốn vay để hộ nghèo phát triển sản xuất, hợp lý cho từng vùng, từng địa phương và như vậy tạo môi trường kinh tế phát triển theo xu hướng thị trường, giúp người nghèo tiêu thụ sản phẩm làm ra thuận lợi, phát huy hiệu quả đồng vốn. Kết luận chương 1 Xoá đói giảm nhèo là một chủ trương, chính sách xã hội mang tính nhân văn sâu sắc và đã trở thành mục tiêu hàng đầu không chỉ của Việt Nam mà còn của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế xã hội khác nhau mà mỗi quốc gia có các giải pháp và chính sách cụ thể để hỗ trợ cho mục tiêu XĐGN khác nhau như: Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư cho các vùng khó khăn, đào tạo nghề, trợ cấp việc làm, chính sách tín dụng...Trong đó chính sách tín dụng luôn được xem như một trong những giải pháp đúng đắn nhất, khoa học nhất nhằm hỗ trợ tài chính cho người nghèo, trên nguyên tắc có hoàn trả nhằm khơi dậy bản năng vượt nghèo khó của nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu XĐGN. Trong chương 1 luận văn đã nêu lên được những lý luận chung nhất về hoạt động của hệ thống ngân hàng, ngân hàng chính sách xã hội, vai trò của NHCSXH trong mục tiêu XĐGN và từ kinh nghiệm về tín dụng chính sách ở một số nước trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.Đây là cơ sở tiền đề để nghiên cứu những chương tiếp theo của luận văn. Chương 2 Thực trạng hoạt động của chi nhánh ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam 2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam 2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế-xã hội tỉnh Quảng Nam Quảng Nam là một tỉnh nằm ở trung độ của đất nước, có diện tích tự nhiên là 10.406 km2, trong đó diện tích rừng, đồi núi chiếm khoảng 78%, chỉ có 22% diện tích tự nhiên ở đồng bằng và vùng cát ven biển. Có nhiều sông suối phân bổ đều ở các vùng trong tỉnh, đặc biệt có những con sông lớn như sông Vu gia, Thu Bồn, Sông Tiên, Sông Tranh với nguồn thuỷ năng lớn có thể xây dựng được nhiều công trình thuỷ điện lớn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời cung cấp một lượng phù sa đáng kể cho các vùng đồng bằng ở các huyện phía Bắc tỉnh và tạo thuận lợi cho việc phát triển hệ thống giao thông đường thuỷ phục vụ cho việc đi lại, giao lưu kinh tế của nhân dân ở một số vùng phía Bắc và Tây Bắc tỉnh. Là tỉnh mới được tái lập từ đầu năm 1997, Quảng Nam hiện có 15 huyện và 2 thị xã, trong đó có 8 huyện miền núi và 2 huyện trung du, dân số khoảng gần 1,4 triệu người, gồm 233 xã, phường, thị trấn. Theo điều tra vào quý II/2005 toàn tỉnh có 71 xã nghèo đặc biệt khó khăn, có 11 xã chưa có trạm y tế xã để chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, có 14 xã chưa có điện thắp sáng, 45 xã chưa có trường trung học cơ sở, 29 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã, 88 xã chưa có trạm truyền thanh, 53 xã chưa có điện thoại. Là một tỉnh nghèo, có điểm xuất phát về kinh tế thấp, song Quảng Nam có truyền thống văn hoá, truyền thống cách mạng kiên cường, nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, thách thức đã đạt được những thành quả đáng khích lệ trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế tỉnh nhà trong những năm qua, nội lực của nền kinh tế bước đầu được khơi dậy và phát huy, GDP tăng 19,6%, dịch vụ tăng 12,1%, kim ngạch xuất khẩu tăng 28%, huy động vốn đầu tư cho xã hội tăng 32% … đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt, giảm hộ đói nghèo từ 27,04% năm 1997 xuống còn 9,5% năm 2005 (theo chuẩn cũ). Tuy nhiên, kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của tỉnh, một số lĩnh vực phát triển chậm, một số yếu tố thiếu vững chắc, hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh thấp, chuyển biến trong nông nghiệp, nông thôn chậm, hiệu quả trong nông nghiệp chưa cao, chưa tháo gỡ được những khó khăn về kinh tế - xã hội ở nông thôn, nhất là vùng cát, vùng trung du, miền núi nông dân còn nghèo. Sản xuất công nghiệp phát triển nhưng tăng lên trong cơ cấu còn thấp, thị trường tiêu thụ chưa được mở rộng. Trong sản xuất - kinh doanh thiếu những tổng công ty mạnh, còn nhỏ lẻ, thiếu liên kết. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn thấp. Kinh tế du lịch gắn với phát triển các giá trị văn hoá và sinh thái chưa được đầu tư đúng mức. Những thuận lợi, thời cơ đan xen với khó khăn, thách thức của nền kinh tế tỉnh nhà, đã có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngành Ngân hàng trên địa bàn nói chung và NHCSXH nói riêng. song, cùng với tiến trình xây dựng và phát triển của nền kinh tế tỉnh nhà, hoạt động của NHCSXH đã có những đóng góp tích cực vào việc thực hiện chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo của địa phương trong những năm qua. 2.1.2. Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh Quảng Nam được thành lập theo Quyết định số 49/QĐ-HĐQT ngày 14 tháng 01 năm 2003 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội (HĐQT-NHCSXH) trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng phục vụ người nghèo, tách ra từ NHNo & PTNT. Mô hình tổ chức của Chi nhánh NHCSXH tỉnh Quảng Nam được triển khai từ Ban đại diện Hội đồng quản trị đến bộ phận tác nghiệp từ tỉnh đến cơ sở. BĐD-HĐQT ở tỉnh có 11 người, do Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng ban và 10 thành viên là lãnh đạo các sở, ban, ngành và hội đoàn thể của tỉnh. ở các huyện, thị BĐD- HĐQT cũng được thành lập có từ 9 đến 10 thành viên, do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND huyện, thị làm Trưởng ban. Về mạng lưới tổ chức Chi nhánh NHCSXH tỉnh Quảng Nam đến 31/12/2005 gồm 1 hội sở tỉnh và 16 Phòng giao dịch huyện, thị và 216 điểm giao dịch tại xã, phường. Điều hành tác nghiệp NHCSXH tỉnh Quảng nam có Ban Giám đốc và các phòng chuyên môn. Các Phòng Giao dịch ở huyện, thị cũng được tổ chức, bố trí giao dịch trực tiếp với khách hàng để huy động vốn, cho vay thu nợ, thu lãi. Ngoài ra ở các xã, phường, thị trấn còn có đội ngũ cộng tác viên là cán bộ chuyên trách công tác xoá đói, giảm nghèo tham gia tư vấn trong việc bình xét cho vay, quản lý và xử lý nợ được NHCSXH trả thù lao hàng tháng trên cơ sở khối lượng tín dụng quản lý và hiệu quả đạt được. 2.1.3. Chương trình mục tiêu về giảm nghèo 2006-2010 của tỉnh Quảng Nam 2.1.3.1 Thực trạng hộ nghèo, xã nghèo * Tiêu chí xác định hộ nghèo giai đoạn 2006-2010 Theo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 như sau: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng trở xuống đối với khu vực nông thôn và từ 260.000 đồng/người/tháng trở xuống đối với khu vực thành thị là hộ nghèo. * Thực trạng hộ nghèo: Kết quả cuộc điều tra vào quý II/2005 theo tiêu chí mới, toàn tỉnh đã xác định được 101.160 hộ/391.182 khẩu nghèo, chiếm 30,29% so với tổng số hộ dân. Trong đó: Hộ nghèo có thành viên hưởng chính sách người có công có 3.350 hộ/14.564 khẩu, chiếm tỷ lệ 1%, chính sách xã hội có 2.929 hộ/7.166 khẩu, chiếm tỷ lệ 0,88%; hộ nghèo có chủ hộ là nữ giới 39.492 hộ/115.923 khẩu, chiếm tỷ lệ 11,83%; dân tộc thiểu số nghèo có 15.470 hộ/78.981 khẩu, chiếm 4,63% [34, tr.9]. Nếu chia theo khu vực thì: Thành thị (2 thị xã) có 5.033 hộ nghèo/17.756 khẩu, chiếm tỷ lệ 12,31%; Nông thôn có 96.127 hộ/373.426 khẩu, chiếm 32,80% so với tổng số dân từng khu vực (trong đó nông thôn miền núi 8 huyện có 27.101 hộ/130.255 khẩu, tỷ lệ khu vực này là 52,17% và nông thôn đồng bằng trung du 7 huyện 69.026 hộ/243.171 khẩu, tỷ lệ khu vực này là 28,63% so với tổng hộ dân từng khu vực) [34, tr.9]. Như vậy, khu vực nông thôn tỷ lệ hộ nghèo cao hơn gấp 2,5 lần so với khu vực thành thị. Nếu so sánh thành 3 khu vực thì khu vực nông thôn miền núi tỷ lệ hộ nghèo cao xấp xỉ 2 lần khu vực đồng bằng trung du và gấp 4,3 lần so với khu vực thành thị. 2.1.3.2 Nguyên nhân đói nghèo a. Nguyên nhân khách quan: Là tỉnh mới chia tách năm 1997, xuất phát điểm của nền kinh tế khó khăn, hậu quả chiến tranh nặng nề, nguồn thu ngân sách còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, điều kiện tự nhiên và diễn biến thời tiết không thuận lợi ở một số vùng. b. Nguyên nhân chủ quan: Ngoài một số cơ chế, chính sách vẫn còn bất cập, chậm sửa đổi, bổ sung cho phù hợp từ phía các ngành chức năng, còn có nguyên nhân nghèo bắt nguồn trực tiếp từ phía hộ nghèo. Qua phân tích kết quả điều tra hộ nghèo theo chuẩn mới, có 5 nhóm nguyên nhân nghèo chính như sau: - Nhóm thứ nhất: Do gia đình thiếu vốn sản xuất, kinh doanh, do gia đình có người ốm đau tàn tật, không có khả năng lao động và hộ gia đình già cả neo đơn: 58.550 hộ, chiếm tỷ trọng 57,88% trong tổng số hộ nghèo. - Nhóm thứ 2: Do thiếu việc làm và thiếu lao động: 15.593 hộ, chiếm tỷ trọng 7,95 %; Do đó thiếu lao động: 7.551 hộ, chiếm tỷ trọng 7,46% [34, tr.10]. - Nhóm thứ 3: Nhóm nguyên nhân nghèo do gia đình có đông con (đông trẻ em, nhiều người ăn theo): 12.415 hộ, chiếm tỷ trọng 12,27% [34, tr.10]. - Nhóm thứ 4: Do thiếu kiến thức, kinh nghiệm làm ăn và thiếu đất sản xuất: 11.209 hộ, chiếm tỷ trọng 11,08%. Thực tế số hộ thiếu đất sản xuất tập trung chủ yếu ở các huyện miền núi cao và một số huyện đồng bằng. Nguyên nhân là do quá trình giao đất cho dân còn chậm (miền núi), một số hộ nghèo ở đồng bằng do quỹ đất ở một số địa phương chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng đất sản xuất của nhân dân, quá trình đô thị hoá đã làm mất đất sản xuất (Núi Thành, Tam Kỳ, Điện Bàn) [34, tr.10]. - Nhóm thứ 5: Nhóm nguyên nhân khác như tai nạn rủi ro, thất nghiệp, chay lười lao động, mắc tệ nạn xã hội: 3.393 hộ, chiếm tỷ trọng 3,36%. Đây là nhóm nguyên nhân nghèo chiếm tỷ lệ ít nhất nhưng lại là nguyên nhân phức tạp nhất, rất khó xoá nghèo. Vì vậy đòi hỏi phải có sự can thiệp của toàn xã hội [34, tr.10]. 2.1.3.3. Mục tiêu và giải pháp thực hiện chương trình * Mục tiêu chương trình: - Thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền và giữa các khu vực trong tỉnh. Đảm bảo cho các hộ nghèo đều được hưởng các chính sách về giảm nghèo của Nhà nước. - Giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo, đến năm 2010 còn dưới 18% (theo tiêu chí mới). Mức giảm bình quân mỗi năm từ 3-4% (tương ứng khoảng 10.000 hộ), trong đó khu vực thành thị giảm 2-3%, khu vực nông thôn giảm 4-5% (nông thôn miền núi giảm 5-6%/năm). Không còn xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 40%. - Các xã nghèo ngoài chương trình 135, xã đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ dân sinh và cho sản xuất. Mỗi năm giảm từ 6-7 xã nghèo ngoài chương trình 135 (theo tiêu chí mới giai đoạn 2006-2010). * Giải pháp thực hiện chương trình Để đạt được các mục tiêu nêu trên của chương trình, hoàn thành nhiệm vụ của chương trình trong giai đoạn 2006-2010, cần tập trung thực hiện đồng bộ những giải pháp chủ yếu sau đây: - Giải pháp chung về giảm nghèo: + Tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng các chương trình tín dụng ưu đãi của Nhà nước, tập trung hoàn thiện cơ chế khuyến khích đầu tư ưu tiên như cơ chế hỗ trợ phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại; cơ chế hỗ trợ phát triển chăn nuôi bò theo QĐ 66 của UBND tỉnh; cơ chế phát triển tổ hợp tác, Hợp tác xã các huyện miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; giao đất công nghiệp cho cộng đồng và giao đất ở, đất sản xuất cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số…tăng cường lồng ghép các chương trình, dự án như chương trình mục tiêu về việc làm, chương trình mục tiêu về giáo dục, chương trình 257, chương trình 134, chương trình 135…với chương trình mục tiêu giảm nghèo để đẩy nhanh tiến độ giảm nghèo, đảm bảo đến 2010 đạt được các mục tiêu đề ra. + Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương; đẩy mạnh công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức, năng lực ở các cấp, các ngành và người dân về ý nghĩa, tầm quan trọng, mục tiêu và chủ trương của Đảng, nhà nước về giảm nghèo. Từ đó đề cao tính trách nhiệm để từng bước xoá bỏ tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ, giúp đỡ của nhà nước, làm cho công tác XĐGN thật sự trở thành phong trào của quần chúng nhân dân, có sự gắn kết trách nhiệm của gia đình, tộc họ thôn bản, khối phố. + Đẩy mạnh việc giảm tỷ lệ gia tăng dân số, giảm tỷ lệ sinh con thứ 3, góp phần XĐGN trên tinh thần tổ chức triển khai thực hiện tốt kế hoạch hành động về Dân số - Gia đình và Trẻ em tính đến năm 2010 đảm bảo đạt các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra về giảm tỷ lệ dân số, giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên, góp phần XĐGN. Giao Uỷ ban Dân số, Gia đình và trẻ em tỉnh chủ trì tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch trên. + ưu tiên bố trí và phụ cấp cho mỗi xã 1 cán bộ làm công tác XĐGN để mỗi xã có 1 cán bộ theo dõi, đủ sức tham mưu UBND xã tổ chức thực hiện chương trình giảm nghèo tại địa phương, nhất là các xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo; Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác XĐGN và cán bộ các xã nghèo, vì đây là yếu tố quan trọng để đảm bảo các mục tiêu của chương trình và đưa được các chính sách, dự án vào cuộc sống nhân dân. Thiếu đội ngũ cán bộ chuyên trách và thiếu năng lực chuyên môn sẽ là một trở ngại lớn cho việc xác định đối tượng và tiếp cận của hộ nghèo tới các chính sách, dự án của chương trình. 2.2. Tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn của chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam 2.2.1. Nguồn vốn Tính đến 31/12/2005 tổng nguồn vốn của chi nhánh đạt 388.684 triệu đồng với cơ cấu như sau: -Vốn trung ương: 355.928 triệu đồng. -Vốn ngân sách địa phương: 17.312 triệu đồng. -Vốn huy động: 15.444 triệu đồng Biểu 2.1: Nguồn vốn của NHCSXH tỉnh Quảng Nam (tính đến 31-12-2005) Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Vốn TƯ Vốn NSĐP Vốn huy động 32.86 7 7.225 59.000 7.574 71.00 0 7.799 101.00 0 7.958 141.89 5 8.117 163.7 22 8.321 214.0 00 7.700 2.700 281.91 3 14.716 11.380 355.92 8 17.312 15.444 Tổng cộng 40.09 2 66.574 78.79 9 108.95 8 150.01 2 172.0 43 229.4 00 308.00 9 388.68 4 Nguồn: Báo cáo hoạt động hàng năm của NHCSXH tỉnh Quảng Nam. Tổng nguồn vốn qua 9 năm tăng 348.592 triệu đồng, bình quân mỗi năm tăng trên 38 tỷ đồng; trong đó nguồn vốn Trung ương tăng 323.061 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 92,6%, trong khi đó nguồn vốn ngân sách địa phương qua 9 năm chỉ tăng 10.087 triệu đồng. Như vậy nguồn vốn hoạt động chủ yếu của Chi nhánh vẫn là nguồn vốn được điều chuyển từ Ngân hàng trung ương. Về nguồn vốn huy động Chi nhánh bắt đầu triển khai từ năm 2003 với số dư đến 31/12/2005 là 15.444 triệu đồng, bình quân mỗi năm 5 tỷ đồng, tỷ lệ nguồn vốn huy động chỉ chiếm khoảng 4% trên tổng nguồn vốn(biểu 2.1). 2.2.2 Sử dụng vốn cho vay Tổng hợp tình hình cho vay qua 9 năm (1997-2005) Biểu 2.2: Sử dụng vốn cho vay qua 9 năm (1997-2005) ĐVT: triệu đồng Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1/ Ds cho vay 2/ Ds thu nợ 3/Dư nợ Trong đó: - Nợ quá hạn - Tỷ lệ NQH - Dư nợ hộ nghèo - Dư nợ 120 - Dư nợ XKLĐ - Dư nơ HSSV - Dư nợ Trồng rừng 15.11 4 3.964 51.31 0 1.560 3% 51.31 0 0 0 0 0 23.19 0 11.27 2 63.22 8 956 1,51 % 6322 8 0 0 0 0 26.04 9 15.77 0 73.50 7 1.099 1,49 % 73.50 7 0 0 0 0 55.587 23.368 105.72 6 1.295 1,22% 105.72 6 0 0 0 0 72.552 28.506 149.77 2 2.845 1,89% 149.77 2 0 0 0 0 57.345 36.779 170.33 8 3.410 2% 170.33 8 0 0 0 0 53.086 31.825 224.88 2 5.623 2,5% 185.47 1 39.412 128.78 6 57.615 296.05 3 4.963 1,67% 248.90 8 45.800 864 484 343.18 1 161.33 0 386.04 9 4.761 1,23% 328.97 2 49.919 4.909 956 1.293 Nguồn: Báo cáo hoạt động hàng năm của NHCSXH Quảng Nam. Ghi chú:(Trong 224.882 triệu dư nợ cuối năm 2003 có 33.283 triệu dư nợ chương trình 120 nhận bàn giao từ Kho bạc Nhà nước.) Sau 9 năm hoạt động, kể từ khi tái lập tỉnh, trong đó 6 năm Ngân hàng phục vụ người nghèo (1997-2002) và 3 năm NHCSXH (2003-2005) Chi nhánh NHCSXH tỉnh Quảng Nam trực tiếp quản lý và điều hành tín dụng ưu đãi từ một chương trình tín dụng hộ nghèo thiếu vốn sản xuất lên 5 chương trình, đó là chương trình cho vay hộ nghèo; cho vay giải quyết việc làm; cho vay học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn; cho vay đối tượng chính sách đi lao động nước ngoài; cho vay dự án trồng rừng của Ngân hàng thế giới. Qua biểu 2.2 cho thấy, tình hình cho vay, thu nợ, dư nợ tăng nhanh và ổn định qua các năm. Dư nợ đến cuối năm 2005 là 386 tỷ tăng so với ngày đầu tái lập tỉnh là 335 tỷ đồng, bình quân mỗi năm tăng trên 37 tỷ đồng. Điều đó thể hiện sự hoạt động bền vững của tín dụng chính sách, đặc biệt khi thành lập NHCSXH, tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại, NHNo&PTNT chỉ tập trung kinh doanh, NHCSXH tập trung đầu tư mảng tín dụng ưu đãi thì quy mô và chất lượng tín dụng ngày càng tăng cao, thể hiện chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng trong tình hình mới. Về chất lượng tín dụng: Tỷ lệ nợ quá hạn qua các năm đều ở mức thấp, bình quân dưới 2%, điều này cho thấy nhìn chung hộ nghèo đã biết sử dụng vốn tín dụng đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, chăn nuôi, kinh doanh, dịch vụ, nâng cao thu nhập, bước đầu làm quen với dịch vụ vay, trả vốn tín dụng NHCSXH. Qua theo dõi cho thấy, nợ quá hạn phát sinh do nhiều nguyên nhân. Ngoài nguyên nhân khách quan như: thiên tai, bão lụt, hạn hán, dịch bệnh, cây trồng, vật nuôi… còn có nguyên nhân chủ quan từ bản thân người nghèo, nguyên nhân từ cơ chế chính sách và quản lý điều hành. Cụ thể nguyên nhân từ bản thân người nghèo như: chưa biết sử dụng vốn vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhiều hộ nghèo trình độ dân trí thấp, không biết cách làm ăn, có hộ còn ỷ lại vào các chính sách trợ cấp của Nhà nước; ở nhiều vùng Miền núi, do điều kiện khí hậu, địa lý rất khắc nghiệt, hộ nghèo sản xuất theo hình thức tự cung, tự cấp, không thể tự tiêu thụ được những sản phẩm làm ra, do vậy rất khó khăn trong việc hoàn trả vốn vay, đặc biệt thị trường nông sản bấp bênh, giá cả thua lỗ làm cho nông dân nghèo không trả được nợ. Nguyên nhân từ cơ chế chính sách và quản lý điều hành; chính sách về khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hướng dẫn cách thức làm ăn cho các hộ nghèo chưa được phối hợp đồng bộ với chính sách tín dụng. Khi thực hiện chính sách tín dụng xuất phát từ nguồn vốn phụ thuộc Ngân sách Nhà nước nên khi có vốn thường tổ chức phát tiền vay đồng loạt, tại một thời điểm nên không phù hợp với thời vụ sản xuất. Trong quản lý điều hành vẫn còn tình trạng một số Tổ trưởng Tổ Tiết kiệm và vay vốn tự ý thu nợ, thu lãi của hộ nghèo không nộp ngân hàng… đây cũng là nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn, giảm hiệu quả vốn vay của NHCSXH. Dư nợ phân theo từng vùng kinh tế như sau: Biểu 2.3: Tốc độ tăng trưởng dư nợ phân theo vùng kinh tế ĐVT: triệu đồng Dư nợ Vùng 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Mức tăng trưởng bình quân hàng năm Miền núi 17.04 4 18.75 7 20.62 1 25.18 8 32.47 7 40.22 8 48.31 4 80.87 3 118.3 57 12.644 Trung du 8.865 10.06 6 9.561 13.37 9 22.59 1 31.49 1 34.66 0 44.02 0 59.28 7 6.302 Đồng bằng 25.40 1 34.40 5 43.32 5 67.15 9 94.70 3 98.61 9 143.6 15 171.1 60 208.4 05 22.875 Tổng cộng 51.31 0 36.22 8 73.50 7 105.7 26 149.7 71 170.3 38 226.5 89 296.0 53 386.0 49 41.842 Nguồn: Báo cáo hoạt động hàng năm của NHCSXH tỉnh Quảng Nam. Tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân hàng năm toàn tỉnh là 41.482 triệu đồng, trong đó khu vực đồng bằng là nơi có điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh, môi trường đầu tư thuận lợi,địa bàn rộng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội của cộng đồng người nghèo nơi đây cũng được thuận lợi, nên tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân hàng năm của vùng đồng bằng đạt 22.875 triệu đồng, vùng trung du là nơi có điều kiện để phát triển chăn nuôi đại gia súc, trồng cây công nghiệp song địa bàn hẹp do đó dư nợ ở khu vực này tăng bình quân hàng năm 6.302 triệu đồng. Riêng khu vực miền núi,với 8 huyện nhưng do môi trường đầu tư còn nhiều bất cập, trình độ dân trí thấp, khả năng tiếp cận dịch vụ tín dụng còn hạn chế, nên tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân ở những năm đầu đạt thấp.Tuy nhiên kể từ năm 2003 đến 2005 khi NHCSXH được thành lập, thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ về phát triển kinh tế xã hội của miền núi, cùng với việc đầu tư cơ sở hạ tầng, mở rộng các chương trình khuyến nông khuyến lâm của nhà nước, chi nhánh đã tập trung đầu tư vốn ở miền núi và trung du, hướng đồng vốn vào chăn nuôi bò, cải tạo vườn tạp, trồng lúa nước từ đó đã đưa dư nợ ở 2 khu vực này 3 năm 2003-2005 tăng bình quân trên 35 tỷ đồng.(biểu 2.3). Kết quả thực hiện cho vay các chương trình những năm qua như sau: * Về chương trình cho vay hộ nghèo Đây là chương trình tín dụng chủ yếu và có quy mô lớn nhất của Chi nhánh với tổng dư nợ đến 31/12/2005 là 329 tỷ đồng với trên 82 ngàn hộ vay, với mức dư nợ bình quân là 4 triệu đồng/hộ vay. Mục đích cho vay của chương trình nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm, ổn định xã hội. Phương thức cho vay hộ nghèo được Chi nhánh uỷ thác bán phần qua NHNo & PTNT từ năm 1997 đến 2003 và uỷ thác qua các tổ chức đoàn thể xã hội từ năm 2004 đến nay. Trong tổng dư nợ 312 tỷ đồng thì uỷ thác qua hội phụ nữ là 138 tỷ đồng, hội nông dân là 140 tỷ đồng, hội Cựu chiến binh là 30 tỷ đồng, Đoàn thanh niên là 4 tỷ đồng. Thực tế cho thấy việc thực hiện phương thức cho vay uỷ thác bán phần qua các tổ chức đoàn thể xã hội, thông qua việc xây dựng và phát triển mạng lưới hàng ngàn tổ tiết kiệm và vay vốn là một chủ trương đúng và là cách làm để đưa đồng vốn đến người cần vốn một cách công khai dân chủ, kịp thời, bởi lẽ không ai sâu sát các thành viên của hội bằng lãnh đạo hội ở cấp xã, phường, thôn, bản. Mặt khác với trên 82 ngàn hộ vay vốn trong khi số cán bộ tín dụng chỉ có khoảng 80 người, như vậy mỗi cán bộ tín dụng phải quản lý trên 1.000 hộ vay lại cư trú trên một địa bàn rất rộng, rõ ràng nếu không có mạng lưới tổ tiết kiệm và vay vốn thì chi nhánh khó có thể đạt được mục tiêu kế hoạch đề ra về tăng trưởng cũng như nâng cao chất lượng tín dụng hộ nghèo trong những năm qua. Bên cạnh đó các tổ chức đoàn thể xã hội có điều kiện tập hợp, giúp đỡ đoàn viên, hội viên. Chính quyền các cấp sử dụng NHCSXH như một trong những công cụ kinh tế quan trọng của Nhà nước thúc đẩy sản xuất phát triển, kích thích mọi người vươn lên làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo. Nguồn vốn cho vay của chương trình đã góp phần làm giảm tỷ lệ hộ nghèo trên toàn tỉnh từ 27,4% năm 1997 xuống còn 9,5% cuối năm 2005, bình quân hằng năm giảm 10.460 hộ, vượt so với chỉ tiêu đề ra là 2.960 hộ. Có hàng ngàn hộ nghèo nhờ vay vốn Ngân hàng đã vươn lên làm ăn khá, góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội trên địa bàn, tỷ lệ hộ nghèo được vay đạt từ 85-87%. * Về cho vay giải quyết việc làm Đây là chương trình tín dụng được thực hiện trên cơ sở Nghị Quyết số 120/HĐBT ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ về chủ trương, phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm. Mục đích cho vay của chương trình để giải quyết việc làm nhằm góp phần tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, bảo đảm việc làm cho người có nhu cầu làm việc, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Về Thẩm quyền và Quyết định cho vay của chương trình: Ngành Lao động Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Kho bạc Nhà nước (nay là NHCSXH) tổ chức thẩm định và trình UBND cùng cấp ra Quyết định cho vay hoặc Tổ chức Hội đoàn thể xã hội trung ương ra Quyết định cho vay (nếu là nguồn vốn do tổ chức hội quản lý). Nguồn vốn cho vay được trích từ Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm của Trung ương và Địa phương hàng năm. Qua 14 năm tổ chức thực hiện, đến 31/12/2005 tổng dư nợ của chương trình là: 50 tỷ đồng, bình quân mỗi năm tăng khoảng 3 tỷ đồng. Nợ quá hạn 1.172 triệu đồng chiếm tỷ lệ 2,34%. Nhiều năm qua, tuy nguồn vốn không lớn nhưng đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm tại địa phương. Hiện nay với trên 4.800 dự án còn dư nợ, giải quyết cho 9.000 lao động có việc làm ổn định, tăng thu nhập và cải thiện đời sống. * Chương trình cho vay xuất khẩu lao động Mục đích cho vay của chương trình nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động, tăng nguồn thu cho đất nước và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới. Để giải quyết cho vay nguồn vốn của chương trình, hằng năm căn cứ Chương trình và Đề án xuất khẩu lao động của tỉnh, chi nhánh đã chủ động phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Trung tâm dịch vụ việc làm của tỉnh, các đơn vị có chức năng xuất khẩu lao động, nắm bắt số lượng lao động được đào tạo nghề là con em hộ nghèo, hộ chính sách, để xây dựng kế hoạch nguồn vốn của chương trình; với mức vay 20 triệu đồng/1 lao động không phải thế chấp tài sản, đã tạo điều kiện cho các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài trang trải những chi phí cần thiết. Mặc dù vừa mới triển khai vào giữa năm 2005, nhưng đã có doanh số cho vay gần 6 tỷ đồng, thu nợ 818 triệu đồng, dư nợ 4.864 triệu đồng, với 327 lao động còn dư nợ. Đây có thể nói là chương trình có vòng quay vốn nhanh nhất trong các chương trình mà NHCSXH đang thực hiện, vì hầu hết các em sau khi sang lao động đã có thu nhập và gửi tiền về trả nợ Ngân hàng. * Chương trình cho vay học sinh sinh viên Mục đích cho vay của chương trình là giúp cho các học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đi học nhằm nâng cao nhận thức và địa vị xã hội, góp phần đào tạo nguồn nhân lực tương lai cho đất nước, xây dựng xã hội dân chủ,công bằng, văn minh. Với mức vay 300.000đồng/tháng, thời gian cho vay từ khi học sinh được vay đến khi kết thúc khoá học.Dư nợ cho vay học sinh sinh viên đến 31/12/2005 đạt 955 triệu đồng, tạo điều kiện cho gần 400 học sinh có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để hỗ trợ việc học. Chương trình này đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội, nhận được sự đồng tình hưởng ứng của các bậc cha mẹ học sinh. Tại Quảng Nam số dư nợ chương trình này đạt thấp là do trước đây việc cho vay được thực hiện tại địa phương có trường nơi học sinh sinh viên theo học, mà tại Quảng Nam chưa có trường Đại học, nên số lượng học sinh sinh viên vay thấp, bên cạnh đó với phương thức cho vay trực tiếp đến HSSV do đó khả năng thu hồi rất thấp, vì phần lớn các em sau khi ra trường về địa phương thì Ngân hàng rất khó thu hồi nợ. * Chương trình cho vay Dự án phát triển ngành Lâm nghiệp Đây là chương trình được thực hiện bằng vốn vay của Ngân hàng Thế giới (WB) để thực hiện Dự án phát triển ngành Lâm nghiệp. Dự án được triển khai tại 4 tỉnh của miền trung, gồm: Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quãng Ngãi, Bình Định. NHCSXH được tham gia cung cấp vốn vay với lãi suất ưu đãi tới các hộ gia đình và các thành viên khác có đủ điều kiện tham gia vào dự án trồng rừng thương mại. Đối với Quảng Nam, dự án được triển khai tại 26 xã của 4 huyện Quế Sơn, Hiệp Đức, Tiên Phước, Bắc Trà My, tổng diện tích rừng trồng khoảng 10.600 ha, với tổng nguồn vốn dự kiến cho vay là 106 tỷ đồng. Năm 2005 là năm đầu triển khai thí điểm, với dư nợ cho vay gần 1,3 tỷ đồng, số còn lại sễ được triển khai vào các năm tiếp theo. 2.2.3 Kết quả tài chính Là một định chế tài chính đặc thù, hoạt động của NHCSXH không vì mục đích lợi nhuận, được nhà nước đảm bảo khả năng thanh toán; tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm), không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước. NHCSXH có trách nhiệm sử dụng vốn đúng mục đích, đúng đối tượng, thực hiện bảo tồn và phát triển vốn, bù đắp chi phí và rủi ro hoạt động theo quy định. Đối với chi nhánh NHCSXH Quảng Nam đã thực hiện tốt quản lý món vay, thu lãi, tận thu các khoản nợ tồn đọng. Kết quả tài chính qua các năm cụ thể như sau: Biểu 2.4: Kết quả tài chính (1997-2005). Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng thu 3.064 4.294 5.717 7.172 8.839 9.821 10.91 0 15.54 2 18.47 7 -Thu lãi cho vay 3.063 4.199 5.629 7.047 8.721 9.525 10.42 1 15.17 6 17.96 6 -Thu khác 1 95 88 125 118 296 489 366 511 Tổng chi 3.290 4.512 5.497 7.133 8.256 9.352 11.25 6 14.84 9 18.63 6 Trả lãi TG 11 71 136 121 126 132 139 254 744 Trả phí SDV 1.095 2.325 2.803 3.236 3.057 4.110 4.411 2.277 3.704 Phí dịch vụNHNo 1.215 1.784 2.191 3.130 4.322 5.110 6.706 0 0 Chênh lệch -226 -218 220 39 583 469 -346 693 -159 Nguồn: Báo cáo hoạt động hàng năm của NHCSXH Quảng Nam. Tổng thu 9 năm đạt 83.836 triệu đồng, trong đó thu lãi cho vay chiếm 96%. Tổng chi phí 9 năm: 82.781 triệu đồng, trong đó chi trả phí sử dụng vốn trung ương: 27.018 triệu đồng chiếm 32,63%, chi trả phí NHNo:24.458 triệu đồng. Chênh lệch thu lớn hơn chi là: 1.055 triệu đồng. Định mức chi phí quản lý từ năm 1997, 1998 thực hiện theo hình thức dự toán được duyệt, tỷ lệ thu lãi thấp trong lúc đó phải đảm bảo các khoản chi cần thiết, nên chênh lệch thu, chi âm. Từ năm 1998 đến 2002, áp dụng hình thức khoán định mức chi phí quản lý theo doanh thu đã khuyến khích cơ sở tăng cường thu nợ, thu lãi, tạo nguồn để áp ứng nhu cầu chi phí, nên tỷ lệ thu lãi luôn đạt trên 95%. Việc định mức chi phí là một trong những giải pháp điều hành có tác động tích cực đến việc tổ chức quản lý món vay, nâng cao hiệu quả tín dụng. Từ năm 2003 khi NHCSXH được thành lập, việc giao kế hoạch tài chính hàng năm được thực hiện theo nguyên tắc khoán thu, khoán chi trên cơ sở định mức giao của Bộ Tài chính cho toàn ngành. Năm 2003,2005 chênh lệch thu, chi âm là do chi mua sắm tài sản, công cụ theo chỉ tiêu giao của Ngân hàng trung ương. 2.2.4. Hoạt động kiểm tra và kiểm toán nội bộ Công tác kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của đơn vị luôn được Ban đại diện Hội đồng quản trị và bộ phận điều hành từ tỉnh đến huyện quan tâm, xem đây như là một giải pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Thực hiện Nghị quyết của Hội đồng quản trị, hàng năm Ban đại diện Hội đồng quản trị tỉnh, huyện đều xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát các mặt hoạt động của toàn Chi nhánh nhất là kiểm tra việc tổ chức thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi, hiệu quả kinh tế - xã hội của đồng vốn đã đầu tư. Qua kiểm tra Ban đại diện các cấp đã đánh giá cao kết quả hoạt động của Chi nhánh, tinh thần tận tuỵ, sâu sát của cán bộ ngân hàng và vai trò phối hợp của các tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn trong việc chuyển tải đồng vốn tín dụng ưu đãi đến với các đối tượng thụ hưởng. Cùng với các hoạt động kiểm tra, giám sát của Ban đại diện Hội đồng quản trị, bộ phận điều hành cấp tỉnh và huyện cũng thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra và tự kiểm tra, nội dung kiểm tra được tập trung vào việc chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, định hướng, mục tiêu, định chế nghiệp vụ mà Hội đồng quản trị và Ban Tổng Giám đốc đã hoạch định và ban hành. Qua kiểm tra tại cơ sở cho thấy, các đơn vị trực thuộc đã chấp hành tốt quy trình tín dụng, chế độ quản lý tài chính - kế toán của Nhà nước và ngành, những sai sót chủ yếu là về mặt kỹ thuật nghiệp vụ trong quá trình thiết lập hồ sơ tín dụng, chứng từ kế toán, nhưng đã được chấn chỉnh kịp thời. 2.3. Những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân 2.3.1. Những kết quả đạt được Sau 03 năm triển khai đi vào hoạt động của chi nhánh NHCSXH tỉnh Quảng Nam, mạng lưới hoạt động của chi nhánh NHCSXH Quảng Nam không ngừng được củng cố, hoàn thiện và phát triển, với 1 Hội sở tỉnh, 16 phòng giao dịch tại các huyện thị, 216 điểm giao dịch xã phường cùng với hàng ngàn tổ TK & VV. Hoạt động của Chi nhánh đã thu được những kết quả và đạt được cả về hiệu quả kinh tế và hiệu quả về mặt xã hội. 2.3.1.1. Hiệu quả về kinh tế Chỉ qua 9 năm hoạt động Chi nhánh đã cung cấp tín dụng cho đại bộ phận dân nghèo vay vốn, đến nay nguồn vốn của Chi nhánh đã cho vay 100% các xã phường trên địa bàn, tạo cơ hội để hộ nghèo tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống. Bên cạnh đó bản thân Chi nhánh cũng không ngừng được củng cố và hoàn thiện. Từ ban đầu chỉ có vài cán bộ kiêm nhiệm phụ thuộc hoàn toàn vào NHNo & PTNT nay tách ra hoạt động độc lập và đã hình thành mạng lưới rộng khắp, đủ sức thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của tỉnh nhà. Hoạt động của NHCSXH đã tập trung được các chương trình tín dụng chính sách có nguồn gốc từ Ngân sách Nhà nước cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo về một đầu mối là NHCSXH và quản lý thống nhất theo chủ trương chính sách của Chính phủ. Hoạt động cho vay hộ nghèo đã dựa vào các tổ chức chính trị - xã hội từ trung ương đến xã, phường với phương thức uỷ thác từng phần từ đó đã huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị - xã hội cùng đồng tâm nhất trí thực hiện Nghị định 78/2002/NĐ-CP của Chính Phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho những đối tượng này tiếp cận với dịch vụ tài chính tiền tệ, tín dụng ngân hàng, lĩnh vực mà lâu nay họ chưa có cơ hội tiếp cận. Một mặt các tổ chức chính trị - xã hội có màng lưới rộng lớn đến tận địa bàn thôn, xã, bản, các cán bộ tổ chức hội sống gần dân, hiểu dân, có kinh nghịêm trong công tác quần chúng. Mặt khác do tín dụng đối với người nghèo trải rộng từ đồng bằng đến vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người, địa bàn đi lại khó khăn, hạn mức tín dụng nhỏ lẻ… nên việc thực hiện uỷ thác qua các tổ chức hội đã tận dụng được bộ máy cán bộ, tiết kiệm đáng kể chi phí quản lý xã hội, tạo điều kiện cho ngân hàng và các tổ chức chính trị - xã hội lồng ghép có hiệu quả chương trình tín dụng và các chương trình văn hoá - xã hội đạt kết quả cao hơn. Các chương trình tín dụng của Chi nhánh đã giúp cho các hộ gia đình nghèo có đủ vốn để đầu tư vào phát triển sản xuất, kinh doanh và dịch vụ…tạo điều kiện cho hộ nghèo có vốn sản xuất tạo việc làm, người nghèo có cơ hội tăng thu nhập, cải thiện đời sống, từng bước làm quen với với nền sản xuất hàng hoá, tiếp cận với cơ chế thị trường và các hoạt động tài chính vi mô cho xoá đói giảm nghèo. Về hoạt động cho vay: với phương châm hoạt động “ đưa NHCSXH đến gần nhà người dân” những năm qua Chi nhánh đã thực hiện tốt mục tiêu đề ra đó là cho vay kịp thời và đến tận tay người cần vốn góp phần giải quyết việc làm, hạn chế việc cho vay nặng lãi ở nông thôn, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo, xoá bó dần khoảng cách giàu nghèo. Đồng thời còn thể hiện tính ưu việt của cơ chế tín dụng chính sách như điều kiện cho vay được nới rộng, không phải thế chấp tài sản hoặc xây dựng các dự án vay vốn, nâng cao vai trò kiểm soát thông qua việc điều hành của Ban đại diện HĐQT ở các cấp. Việc xác định đối tượng được vay vốn được bình xét công khai, dân chủ đảm bảo công bằng và có sự giám sát của cộng đồng nên hạn chế được những tiêu cực xảy ra, tiết kiệm chi phí giao dịch cho khách hàng và Ngân hàng. Cơ chế quản lý tài chính của Chính phủ đối với NHCSXH đang được thực hiện là cơ chế khoán tài chính như một đơn vị sự nghiệp có thu, nâng cao dần tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Qua thanh tra, kiểm tra của nhiều đoàn thuộc các ngành, các cấp và của nội bộ NHCSXH đã cho thấy vốn của Chi nhánh trong những năm qua trực tiếp đến tay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. vốn vay được sử dụng đúng theo mục đích xin vay, đã và đang phát huy hiệu quả kinh tế. Một số địa phương đã lồng ghép với các chương trình kinh tế - xã hội khác như khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, kế hoạch hoá gia đình, nâng cao dân trí, xoá mù chữ… nên vốn vay đã phát huy hiệu quả thiết thực. 2.3.1.2. Hiệu quả về mặt xã hội Việc thành lập NHCSXH là một chủ trương sáng suốt, phù hợp với ý Đảng lòng dân. Do đó nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp. Kết quả hoạt động trong thời gian qua tuy chưa dài song đã gây được lòng tin và ấn tượng tốt đẹp trong nhân dân, đặc biệt là nông dân nghèo rất phấn khởi và ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Đây là một giải pháp rất cụ thể góp phần ổn định kinh tế chính trị, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ và văn minh. Với những kết quả đã đạt được tín dụng đối với hộ nghèo đã thực sự đóng vai trò trung gian cầu nối củng cố khối liên minh công nông. Hoạt động của Chi nhánh đã huy động được sức mạnh tổng hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội cùng với chi nhánh đưa nguồn vốn tín dụng chính sách đến tận tay người được thụ hưởng chính sách. Hoạt động của NHCSXH đã góp phần tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động, phát huy tiềm lực đất đai, ngành nghề, tạo điều kiện sản xuất, đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi và tình trạng bán lúa non, cầm cố ruộng đất ở nông thôn, đời sống dân nghèo được cải thiện góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội đất nước. Thực hiện kênh tín dụng đối với hộ nghèo đã thể hiện tính nhân văn, nhân ái và lương tâm trách nhiệm của cộng đồng đối với người nghèo, góp phần củng cố khối liên minh công nông và thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Các cấp uỷ, chính quyền địa phương đã xem NHCSXH như một công cụ tài chính quan trọng để góp phần thực hiện mục tiêu xói đói giảm nghèo trên địa bàn. Nâng cao vai trò kiểm tra, kiểm soát thông qua việc điều hành của Ban đại diện Hội đồng quản trị các cấp ở địa phương, qua bình xét đối tượng được vay vốn của các tổ chức chính trị xã hội, từng bước mở rộng tính công khai, dân chủ và tính nhân dân sâu sắc trong hoạt động tín dụng ngân hàng là sợi dây kinh tế thắt chặt và củng cố khối liên minh công nông. Với đặc thù riêng, mô hình quản lý và phương thức tín dụng được NHCSXH triển khai thực hiện không chỉ tạo điều kiện cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác tiếp cận với dịch vụ tài chính tiền tệ tín dụng Ngân hàng mà còn khuyến khích họ tham gia quản lý xây dựng tổ chức Ngân hàng phục vụ mình. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Hạn chế - Vấn đề khó khăn nhất hiện nay của toàn hệ thống nói chung và chi nhánh nói riêng là việc tạo lập nguồn vốn để hoạt động. Nguồn vốn hoạt động của NHCSXH đã được Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể trong Nghị định 78, song thực tế thời gian qua việc tạo lập nguồn vốn hoạt động của NHCSXH là vấn đề không đơn giản, quy mô tín dụng phụ thuộc vào khối lượng vốn cấp bù của Ngân sách hàng năm. Tại địa phương tuy đã được UBND tỉnh, huyện, thị xã quan tâm chuyển vốn để lập quỹ cho vay nhưng do ngân sách còn nghèo do đó tổng nguồn vốn địa phương đến nay đạt trên 17 tỷ đồng, chỉ chiếm gần 5% tổng nguồn vốn hoạt động của chi nhánh, do đó việc chủ động nguồn vốn để đầu tư luôn là bài toán khó đối với đơn vị. Công tác thanh toán cho NHCSXH đã được thiết lập nhưng chưa triển khai được các dịch vụ nhận tiền gửi, chưa tổ chức thanh toán đến hộ gia đình ở nông thôn; chưa tranh thủ được các nguồn vốn tài trợ nhân đạo trong và ngoài nước không có lãi hoặc có lãi suất thấp để mở rộng nguồn vốn cho vay giảm gánh nặng cấp bù chênh lệch lãi suất cho Ngân sách Nhà nước. Với cơ cấu nguồn vốn như hiện nay đi đôi với việc càng mở rộng đối tượng cho vay lớn bao nhiêu thì Ngân sách Nhà nước phải cấp bù lãi suất ngày càng lớn bấy nhiêu, đây chính là nguyên nhân tạo khoảng cách giữa cung và cầu vốn luôn luôn căng thẳng và là yêu cầu bức xúc hiện nay cũng như trong thời gian tới của NHCSXH. - Việc triển khai chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đối với vùng II, vùng III, vùng đặc biệt khó khăn và một số chương trình tín dụng chính sách khác cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu, vùng xa,... do còn có nhiều ý kiến khác nhau về chính sách và đối tượng thụ hưởng nên vẫn chưa được chuyển giao việc thực hiện từ các Ngân hàng thương mại cho Ngân hàng Chính sách xã hội, do đó với 1 tỉnh nghèo như Quảng Nam có 8 huyện miền núi thì cần sớm có sự hỗ trợ của nhà nước về tín dụng đối với vùng II, vùng III để tạo điều kiện phát triển kinh tế tỉnh nhà. - Các chính sách về nguồn vốn, chính sách về đầu tư còn bị động, chắp vá,ví dụ như chương trình cho vay giải quyết việc làm, nguồn vốn phân bổ hàng năm rất thấp nhưng thường xuyên bị tồn đọng do để thẩm định một món vay cần phải có đủ 3 ngành Ngân hàng, Lao động TB & XH, tài chính; cho vay trồng rừng phải có ngành nông nghiệp phối hợp thẩm định, trình UBND ra Quyết định cho vay … - Các quy định cụ thể về cho vay đối với hộ nghèo còn chưa phù hợp với yêu cầu sản xuất và đời sống như: mức cho vay còn thấp,việc bình xét cho vay còn mang tính bình quân, dàn đều, lãi suất cho vay chưa hợp lý. vốn vay mới đáp ứng yêu cầu sản xuất chăn nuôi nhỏ, chia đều xẻ mỏng, việc đầu tư theo chương trình, dự án còn ít nên hiệu quả chưa cao. - Thành viên Ban đại diện Hội đồng quản trị NHCSXH ở các cấp là các quan chức trong bộ máy quản lý nhà nước làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên ít thời gian và điều kiện để thực thi nhiệm vụ. Hiện nay Ban đại diện HĐ QT có đại diện Lãnh đạo của các tổ chức chính trị - xã hội nhưng các tổ chức chính trị xã hội lại là đối tác ký hợp đồng giải ngân cho NHCSXH. Như vậy, việc một số thành viên BĐD HĐQT vừa tham gia ban hành chính sách vừa là đối tác của NHCSXH là chưa hợp lý. Một số Ban xói đói giảm nghèo xã phường từ khi thành lập đến nay chỉ sinh hoạt vì việc phân phối vốn cho các hội đoàn thể mà chưa chú trọng đến công tác chỉ đạo, xây dựng kế hoạch, hướng dẫn kiểm tra sử dụng vốn của hộ nghèo. Khi có nợ quá hạn thì khoán trắng cho cán bộ Ngân hàng mà không có biện pháp xử lý cụ thể. đặc biệt phần lớn các xã phường chưa xây dựng được chương trình kế hoạch XĐGN cụ thể trong năm và phân loại nguyên nhân, do đó chưa chủ động được công tác giải ngân. Công tác phối hợp với các Ban, Ngành còn nhiều bất cập, việc lồng ghép với các chương trình kinh tế - xã hội đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân còn nhiều vấn đề khó khăn, bức xúc. Bởi vì, việc chỉ đạo phải thực hiện các chương trình, mục tiêu theo định hướng riêng của từng ngành, từng cấp nên điều kiện nâng cao hiệu quả các chương trình lồng ghép đến nay còn nhiều tồn tại, gây lãng phí tài sản, vốn và hiệu quả đầu tư thấp. - Về cơ chế lãi suất vẫn còn nhiều bất cập, chưa hợp lý cùng một đối tượng khách hàng vay NHCSXH nhưng các chương trình tín dụng khác nhau được hưởng các khoản lãi suất khác nhau gây tâm lý so bì, nghi kỵ lẫn nhau. - Việc tổ chức cho vay hộ nghèo ở miền núi, nhất là các xã vùng cao gặp rất nhiều khó khăn, do điều kiện giao thông trở ngại, nhiều xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã, việc vận chuyển tiền cho vay có nơi phải cõng bộ, tuy chưa có mất máữẫy ra nhưng phải nói rằng về lâu dài là không đảm bảo an toàn. Cán bộ tín dụng ở vùng này quá tải trong công việc. - Khả năng tiếp cận và sử dụng vốn có hiệu quả của hộ nghèo còn thấp, điều kiện sản xuất kinh doanh không thuận lợi, thiếu kiến thức và kinh nghiệm làm ăn, nhiều hộ nghèo nhất là ở vùng sâu, vùng xa không biết sử dụng vốn để đầu tư làm việc gì. Hiệu quả xói đói giảm nghèo chưa thật sự bền vững, chỉ cần có thiên tai xảy ra hoặc trong gia đình có người ốm đau.. thì đói nghèo có thể tái xuất hiện đối với gia đình họ. - Công tác kiểm tra, đối chiếu nợ vay, thăm hỏi khách hàng không thường xuyên, cá biệt nhiều nơi làm chưa tốt, nên có UBND xã, hội đoàn thể, tổ trưởng lợi dụng xâm tiêu tiền vốn thu hồi của Nhà nước không nộp vào Ngân hàng, gây ảnh hưởng không tốt trong xã hội. - Chế độ tài chính tuy đã được bổ sung, điều chỉnh nhưng vẫn chưa phù hợp với tình hình thực tế của NHCSXH và luôn ở thế bị động, chắp vá, chưa khích thích đội ngũ cán bộ gắn bó với công việc, tính bền vững của NHCSXH bị hạn chế. Đối với Quảng Nam mức khoán chi là 40 triệu trên 1 tỷ đồng dư nợ có thu được lãi trong khi chi phí đầu tư quá cao là chưa phù hợp với thực tế. - Về cơ sở vật chất trang thiết bị làm việc, tuy đã được sự quan tâm của các cấp, các ngành nhưng mới chỉ là giải pháp tình thế, khắc phục khó khăn trước mắt. Mặt khác, trong điều kiện biên chế có hạn, nhiệm vụ được giao ngày càng nhiều, trong khi cơ sở vật chất kỷ thuật, công cụ làm việc còn thiếu thốn, công nghệ Ngân hàng còn lạc hậu, lao động thủ công vẫn là chính, năng suất thấp, nắm bắt xử lý thông tin chưa kịp thời. Hiện nay toàn bộ trụ sở làm việc từ tỉnh đến các huyện, thị đều phải thuê mượn của UBND, các ngành và nhà dân do đó không đảm bảo yêu cầu hoạt động của một Ngân hàng. - Công tác thông tin tuyên truyền tiếp thị các chính sách tín dụng chưa thực sự sâu rộng đến các đối tượng thụ hưởng và những người triển khai chính sách, đôi lúc, đôi nơi còn xem chương trình tín dụng ưu đãi là kiểu hỗ trợ không hoàn lại của nhà nước cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Một số phòng giao dịch huyện, thị cán bộ tín dụng còn thiếu đôn đốc trong kiểm tra, giám sát việc thu hồi vốn gốc và thu lãi theo định kỳ đã thoả thuận. Việc tham mưu cho Ban đại diện Hội đồng quản trị các cấp trong chỉ đạo điều hành hoạt động tín dụng hộ nghèo trên địa bàn còn hạn chế. 2.3.2.2. Nguyên nhân * Nguyên nhân khách quan - Là một tổ chức tín dụng đặc thù vừa mới được thành lập nên kinh nghiệm trong quản lý điều hành còn chưa nhiều, có những qui định, qui trình thay đổi nhiều lần làm ảnh hưởng đến quá trình hoạt động. Sự phối hợp giữa chương trình tín dụng của ngân hàng với các chính sách khác trong chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo như khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển cơ sở hạ tầng...còn chưa đồng bộ, làm hạn chế hiệu quả hoạt động tín dụng đối với người nghèo của NHCSXH. - Ngân hàng Chính sách xã hội về hình thức là một tổ chức tín dụng của Nhà nước có tư cách pháp nhân nhưng trong hoạt động còn chịu sự tác động của nhiều phía như: về chế độ tài chính phụ thuộc Bộ tài chính, quy chế hoạt động nghiệp vụ phụ thuộc Ngân hàng Nhà nước và một số Bộ, Ngành có liên quan theo từng chương trình, việc thực hiện cho vay chủ yếu thông qua uỷ thác do vậy phần nào còn bị động về việc lựa chọn đối tượng cho vay, từ đó làm hạn chế vai trò tín dụng đối với hộ nghèo. - Với mô hình hoạt động đặc thù của NHCSXH là có sự tham gia của các cơ quan quản lý Nhà nước với vai trò Ban đại diện HĐQT ở các cấp. Thời gian qua nhìn chung Ban đại diện HĐQT ở các cấp đã thực hiện được vai trò chỉ đạo đối với hoạt động của NHCSXH các cấp song bên cạnh đó cũng có một số nơi hiệu quả hoạt động của Ban đại diện HĐQT chưa cao, thiếu sự chỉ đạo kiểm tra, giám sát và tạo sự phối hợp giữa các Ban, Ngành, đoàn thể; còn sự bất cập nhất là trong việc tuyên truyền các chính sách tín dụng đối với hộ nghèo, hưóng dẫn cách cách thức làm ăn, chỉ dẫn thị trường tiêu thụ sản phẩm… Một số còn phát sinh tiêu cực trong việc sử dụng vốn vay là nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Hoạt động tín dụng trong tình hình kinh tế có nhiều biến động, thiên tai dịch bệnh liên tiếp xảy ra như hiện nay thì luôn luôn chứa đựng nhiều rủi ro, bên cạnh đó đối tượng khách hàng của NHCSXH đa số là hộ nghèo, ý thức xã hội chưa cao, trình độ năng lực sản xuất yếu kém, vay không có tài sản thế chấp, thông qua hình thức tín chấp từ các đoàn thể xã hội thì càng chứa đựng nhiều rủi ro. Là một định chế tài chính nhà nước vừa mới được thành lập trên cơ sở tách ra từ NHNo & PTNT lại hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, với mạng lưới hoạt động rộng khắp từ trung ương đến huyện, thị do đó việc xây dụng trụ sở, phương tiện làm việc cần phải có thời gian trong điều kiện ngân sách hiện nay, đặc biệt đối với Quảng Nam, một tỉnh nghèo vừa được tái lậ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam (2).pdf
Tài liệu liên quan