Tài liệu Luận văn Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá: LUẬN VĂN:
Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chính sách mở cửa với phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá kinh
tế đối ngoại, hoạt động xuất khẩu được coi là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc
dân. Thực tế đã chứng minh, xuất khẩu là một phương hướng hữu dụng nhất để hội nhập
và tận dụng những cơ hội trong quá trình hội nhập để tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Xuất khẩu phát triển kéo theo sự phát triển của tất cả các lĩnh vực, là điều kiện tiền đề để
nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, giải quyết công ăn việc làm và làm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Thanh Hoá là tỉnh có dân số đông với nhiều làng nghề truyền thống sản xuất hàng
thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là ngành hàng thu hút nhiều
lao động, tận dụng được thế mạnh của các làng nghề truyền thống. Sản phẩm thủ công mỹ
nghệ của Tỉnh được ưa chuộng tại nh...
148 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1182 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chính sách mở cửa với phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá kinh
tế đối ngoại, hoạt động xuất khẩu được coi là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc
dân. Thực tế đã chứng minh, xuất khẩu là một phương hướng hữu dụng nhất để hội nhập
và tận dụng những cơ hội trong quá trình hội nhập để tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Xuất khẩu phát triển kéo theo sự phát triển của tất cả các lĩnh vực, là điều kiện tiền đề để
nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, giải quyết công ăn việc làm và làm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Thanh Hoá là tỉnh có dân số đông với nhiều làng nghề truyền thống sản xuất hàng
thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là ngành hàng thu hút nhiều
lao động, tận dụng được thế mạnh của các làng nghề truyền thống. Sản phẩm thủ công mỹ
nghệ của Tỉnh được ưa chuộng tại nhiều thị trường nước ngoài. Trong những năm qua Tỉnh
uỷ và Chính quyền tỉnh Thanh Hoá đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm đẩy mạnh sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ như phát triển làng nghề, phát triển nguồn nhân lực, chính sách
tín dụng, hỗ trợ nghiên cứu tìm hiểu thị trường ... Với những chính sách và biện pháp đó,
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Thanh Hoá đã không ngừng tăng lên, góp phần đáng
kế vào thực hiện xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm cho hàng ngàn lao động, góp phần tăng
trưởng và phát triển kinh tế của Tỉnh. Tuy nhiên, trong những năm qua hoạt động xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ chưa đạt được kết quả như mong muốn: kim ngạch xuất khẩu còn
thấp, hiệu quả chưa cao, sản xuất còn manh mún ... chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế,
tài nguyên thiên nhiên và con người của Tỉnh. Vì thế, câu hỏi “Làm thế nào để đẩy mạnh
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tương xứng với tiềm năng của Tỉnh?” là câu hỏi lớn đang
đặt ra cho các cấp uỷ Đảng, Chính quyền của tỉnh Thanh Hoá hiện nay.
Trong lĩnh vực xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng,
những năm qua đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn. Có tác
giả nghiên cứu toàn diện hoạt động xuất khẩu từ nội dung, hình thức và những tác động của
nó đến sự phát triển kinh tế nói chung. Nhiều đề tài khoa học, luận văn của sinh viên, học viên
cao học nghiên cứu về thực trạng kinh doanh xuất khẩu của một doanh nghiệp cụ thể. Tuy nhiên
còn ít các công trình nghiên cứu tập trung vào đánh giá hoặc đề xuất về chủ trương, biện pháp
của chính quyền tỉnh đối với hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Đối với Thanh Hoá, cũng đã có một số đề tài khoa học, luận văn thạc sỹ nghiên cứu về
tình hình hoạt động Thương mại nói chung hoặc một số mặt hàng xuất khẩu cụ thể của tỉnh. Các
đề tài chủ yếu tiếp cận từ phía các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh để đưa ra các đề xuất nhằm
phát triển kinh doanh xuất nhập khẩu.
Đề tài “Chương trình phát triển xuất khẩu tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2001 - 2005
và giai đoạn 2006 - 2010” của sở Thương mại Thanh Hoá được Tỉnh Uỷ, UBND tỉnh
Thanh Hoá phê duyệt và triển khai thực hiện nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thanh
Hoá theo hướng xuất khẩu, từ sản xuất các hàng hoá bán trong nước, các mặt hàng có giá
trị xuất khẩu thấp sang các mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao và có khả năng cạnh tranh.
Nhìn chung, cho đến nay chưa có đề tài nghiên cứu nào tập trung vào xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ, cũng như chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào về các chủ
trơng, biện pháp của Tỉnh Thanh Hoá đối với xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Góp phần vào nghiên cứu đưa ra các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ của tỉnh Thanh Hoá, tôi chọn đề tài: “Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành: Quản lý
kinh tế.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
a) Mục đích:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của ngành hàng thủ công mỹ
nghệ xuất khẩu
- Đề xuất giải pháp từ góc độ quản lý Nhà nước để phát triển hàng thủ công mỹ
nghệ xuất khẩu của tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay.
b) Nhiệm vụ:
Để đạt mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài cần thực hiện các nội dung sau:
- Đưa ra những luận cứ khoa học làm cơ sở và định hướng cho vấn đề nghiên cứu
thông qua hệ thống hoá lý luận về xuất khẩu, vai trò và công cụ quản lý của chính quyền
địa phương đối với đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng thủ công
mỹ nghệ nói riêng.
- Phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, các chủ tr-
ương và biện pháp của tỉnh Thanh Hoá đối với hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ trên địa bàn tỉnh thời kỳ 2001 - 2007.
- Đề xuất với tỉnh Thanh Hoá những chủ trương, giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đến năm 2010, hướng tới năm 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài lấy hoạt động tổ chức sản xuất, kinh doanh xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và các chủ trương, biện pháp của tỉnh Thanh Hoá đối với xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ làm đối tượng nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn nghiên cứu các chủ trương, biện pháp của cơ
quan Quản lý Nhà nước tỉnh Thanh Hoá đối với hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ trên địa bàn tỉnh, các vấn đề khác có liên quan chỉ được đề cập ở mức độ cần thiết để
đảm bảo tính đồng bộ, tổng thể của vấn đề nghiên cứu.
Thời gian: thực trạng từ 2001 - 2007, giải pháp đến năm 2010, hướng tới năm 2020
và những năm tiếp sau.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu này là: phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: phương pháp
thống kê, phân tích và tổng hợp, phương pháp khung logic, nghiên cứu so sánh, phỏng
vấn.
Các thông tin, số liệu phục vụ cho nghiên cứu này chủ yếu là các số liệu thứ cấp từ
các báo cáo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, các sở, ban ngành của tỉnh; các kết quả
nghiên cứu của một số đề tài nghiên cứu đã được công bố.
Các số liệu sơ cấp được thu thập bổ sung cho nghiên cứu qua phỏng vấn sâu do tác
giả luận văn thực hiện trong năm 2007-2008. Đối tượng phỏng vấn là các nhà quản lý ở
tỉnh, huyện và một số làng nghề; một số doanh nghiệp, chủ hộ sản xuất kinh doanh hàng
thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, một số doanh nghiệp thương mại.
5. Dự kiến những đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu có một số đóng góp chính sau đây:
- Đề tài góp phần hệ thống hoá và phát triển một bước những vấn đề cơ bản về hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung và hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng của tỉnh, vai
trò và công cụ của chính quyền tỉnh đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
- Bằng cách tiếp cận hệ thống, logic đề tài đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng hoạt
động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh Thanh Hoá; phân tích đánh giá các chủ
trương, biện pháp mà tỉnh Thanh Hoá đã thực hiện trong những năm qua nhằm đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu.
- Đề xuất, kiến nghị với chính quyền Tỉnh một số giải pháp chủ yếu góp phần đẩy
mạnh xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010, hướng
tới năm 2020.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài kết
cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh Thanh Hoá giai
đoạn 2001 - 2007
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010, hướng tới năm 2020.
Chương 1
Những vấn đề cơ bản
về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
1.1. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam có truyền thống hàng trăm hàng ngàn năm, gắn
liền với tên những làng nghề phố nghề, được biểu hiện qua những sản phẩm độc đáo - tinh
xảo - hoàn mỹ. Từ thế kỷ XI dưới thời Lý việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã được
thực hiện. Khi đó các sản phẩm chỉ bao gồm: gốm, đồ gỗ, mây tre, giấy đó, tơ lụa, đồ bạc,
sừng, ngà... Qua 11 thế kỷ các phường thợ, làng nghề truyền thống đã trải qua nhiều bước
thăng trầm, một số làng nghề bị suy vong (giấy sắc, dệt quai thao) nhưng bên cạnh đó cũng
có một số làng nghề mới xuất hiện và phát triển.
Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam như đồ gốm sứ, sơn
mài, đồ gỗ, mây tre, tơ lụa, đồ bạc, ngà, sừng... nổi tiếng trên thế giới nhờ những nét độc
đáo mang đậm sắc thái văn hoá dân tộc, những đường nét hoa văn tinh tế qua bàn tay khéo
léo, tinh xảo của các nghệ nhân. Gắn liền với những sản phẩm đó là các làng nghề truyền
thống đã tồn tại và phát triển từ ngàn đời nay và đã trở thành một trong những di sản văn
hoá quý báu của dân tộc Việt Nam. Ngày nay hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, trong đó
có nhiều sản phẩm của các làng nghề truyền thống, đã có mặt và được ưa chuộng trên thị
trường thế giới.
1.1.1. Vai trò, đặc điểm của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
a) Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Xuất khẩu và nhập khẩu là 2 lĩnh vực hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
tạo điều kiện cho nhau phát triển trong một tổng thể thống nhất biện chứng. Do mối quan
hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu rất chặt chẽ với nhau nên mỗi quốc gia, mỗi địa phương
thường biểu thị mối quan hệ đó thông qua cán cân thương mại tức là bảng cân đối giữa
xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia và địa phương đó.
Để phát triển kinh tế xã hội của địa phương trong điều kiện tiến bộ khoa học công
nghệ, mở rộng phạm vi phân công lao động xã hội, quốc tế hoá đời sống kinh tế thì phát
triển xuất khẩu thường được coi là lĩnh vực quan trọng nhất để tận dụng tài nguyên thiên
nhiên, lực lượng lao động đông đảo tạo ra việc làm, tăng thu nhập, ổn định đời sống nhân
dân. Bởi vậy xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu hàng TCMN nói riêng chiếm vị
trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của địa phương, của doanh nghiệp, trở
thành đòn treo quan trọng thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. Vai trò to lớn của
xuất khẩu hàng hoá thể hiện ở các nội dung:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ cho nhập khẩu và phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá.
Xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu hàng TCMN nói riêng tạo nguồn vốn
ngoại tệ cho nhập khẩu và phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá của địa phương, doanh
nghiệp. Công nghiệp hoá tạo ra lợi ích giúp các ngành công nghiệp phát triển, sản xuất
phát triển, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ở các địa phương hiện nay,
khắc phục tình trạng nghèo nàn, chậm phát triển của các địa phương. Công nghiệp hoá
nhanh trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có lượng vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc
thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến.
Các nguồn vốn nước ngoài như vay, viện trợ... tuy quan trọng nhưng cuối cùng
cũng phải trả bằng cách này hay cách khác, trong khi đó ngân sách của Trung ương cấp
ngày càng hạn hẹp. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá địa phương
là tích cực đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ để có ngoại tệ nhập khẩu. Bởi
vậy xuất khẩu của các địa phương quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu, quyết
định tốc độ công nghiệp hoá của chính địa phương đó.
Thứ hai, xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.
ở góc độ địa phương, hiện nay vẫn tồn tại cách nhìn nhận về tác động của xuất
khẩu đối với sự phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
- Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do vượt quá nhu cầu, nếu chỉ
thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé, tăng trưởng chậm
chạp, sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế hạn chế.
- Thị trường quốc tế là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất, xuất khẩu do đó cần
xuất phát từ nhu cầu thị trường quốc tế để tổ chức sản xuất. Điều này sẽ có tác dụng tích
cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động của xuất
khẩu thể hiện: (1) Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành sản xuất có cơ hội phát triển
thuận lợi. Chẳng hạn nếu phát triển xuất khẩu TCMN tức là tạo cơ hội cho các ngành trồng
cói, đay... và các vùng nguyên liệu phát triển, sẽ phát triển các làng nghề về TCMN. Xuất
khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản xuất. (2) Xuất
khẩu tạo những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất.
Nói cách khác xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến từ nước
ngoài vào doanh nghiệp sản xuất.
Thứ ba, xuất khẩu góp phần tạo việc làm, cải thiện đời sống, giảm bớt tệ nạn xã
hội.
Tác động của xuất khẩu đối với xã hội bao gồm nhiều mặt, trước hết thúc đẩy các
ngành sản xuất phục hồi và phát triển, sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng vạn lao
động thủ công, tạo việc làm có thu nhập ổn định. Góp phần giải quyết nỗi lo không có việc
làm của thanh niên và các tầng lớp xã hội khác. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập
khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu là một hoạt động có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo
điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chính sách xuất khẩu hàng hoá thúc đẩy
quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng thị trường du lịch, vận tải quốc tế... Mặt khác các quan
hệ này lại tạo điều kiện để mở rộng xuất khẩu, kinh tế phát triển và gắn bó chặt chẽ với
phân công lao động quốc tế.
Thứ năm, xuất khẩu là nhân tố thúc đẩy các doanh nghiệp luôn đổi mới và hoàn
thiện quản lý sản xuất kinh doanh.
Với những lý do đã trình bày ở trên cho thấy xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng
TCMN nói riêng có vai trò hết sức quan trọng, có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội để tham
gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế về giá cả cũng như chất lượng sản phẩm.
Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với
thị trường.
Do cạnh tranh sản xuất hàng xuất khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn luôn đổi
mới, hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh. Đồng thời xuất khẩu giúp doanh nghiệp có
ngoại tệ để tái đầu tư cho quá trình sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động vào làm
việc, tạo ra thu nhập ổn định, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu vật liệu sản xuất và tiêu dùng
cần thiết, vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu được lợi nhuận. Ngoài
ra khi tiến hành hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp có cơ hội mở rộng buôn bán kinh doanh
với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở đảm bảo lợi ích cho tất cả các bên, tăng doanh số và
lợi nhuận; đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng
cường uy tín của doanh nghiệp, góp phần nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thương
trường.
Xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp,
chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất,
marketing cũng như sự phân bố và mở rộng trong việc cấp giấy phép.
Xuất khẩu góp phần không nhỏ vào việc tạo nguồn vốn chủ yếu để đầu tư, mua sắm
mở rộng kinh doanh, trang bị máy móc, tạo nguồn vốn cho nhập khẩu thiết bị, nguyên vật
liệu, đổi mới dây chuyền công nghệ... Có thể nói hoạt động xuất khẩu đóng vai trò rất quan
trọng đối với doanh nghiệp.
Hàng thủ công mỹ nghệ là những sản phẩm mang đậm nét văn hoá dân tộc nên
không những chỉ đáp ứng nhu cầu hàng ngày mà còn là những sản phẩm văn hoá phục vụ
đời sống tinh thần. Ngày nay xu hướng mua sắm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng
gia tăng, đặc biệt ở các nước phát triển. Vì vậy, cần tận dụng những điểm mạnh có được để
đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Đây là việc làm cần thiết vì không
những thu được nhiều ngoại tệ về cho đất nước mà còn tạo được nhiều công ăn việc làm cho
người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn. Do hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất
chủ yếu từ nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước và nguyên liệu nhập khẩu thường không
đáng kể nên xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt mức thực thu ngoại tệ rất cao, góp phần
giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động nông thôn. Mặt khác, hầu hết các mặt hàng
thủ công mỹ nghệ đều mang những giá trị văn hoá, lịch sử nhất định nên việc xuất khẩu các
mặt hàng này cũng có một vai trò không nhỏ trong việc truyền bá, giao lưu văn hoá Việt
Nam đến các nước trên thế giới.
b) Đặc điểm xuất khẩu hàng TCMN
- Đặc điểm về sản phẩm:
Đặc điểm nổi bật về sản phẩm hàng TCMN chủ yếu và phổ biến là sản phẩm thủ
công truyền thống in đậm sắc thái văn hoá trong sản phẩm.
Sản phẩm thủ công truyền thống chủ yếu phục vụ nhu cầu hàng ngày; phần lớn quá
trình sản xuất bằng tay, riêng công đoạn hỗ trợ có thể sử dụng máy móc; sản xuất dựa trên
kỹ thuật hay công nghệ truyền thống (có từ 100 năm về trước) nhưng có thể tiến hành cải
tiến kỹ thuật hay công nghệ mà không ảnh hưởng cơ bản đến sản phẩm thủ công đó; sử
dụng phần lớn nguyên liệu truyền thống có tại địa phương.
Sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ của các làng nghề truyền thống đều là sự kết
giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Các sản phẩm đều
mang tính cá biệt và có sắc thái đặc trưng riêng của mỗi một làng nghề. Cùng là đồ gốm
sứ, nhưng người ta vẫn có thể phân biệt đâu là gốm, sứ Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc
Ninh) với Đông Triều (Quảng Ninh). Từ những con rồng chạm trổ ở các đình, chùa, hoa
văn trên các trống đồng đến những nét chấm phá trên các bức thêu... đều mang vóc dáng
dân tộc, quê hương, chứa đựng ảnh hưởng về văn hoá tinh thần, quan niệm về nhân văn và
tín ngưỡng tôn giáo của từng vùng.
Các sản phẩm hàng TCMN vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị thẩm mỹ cao, nhiều
loại sản phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền, chùa,...
Người thợ thủ công sản xuất hàng thủ công, trước hết là do yêu cầu kinh tế và nguồn sống
của mình. Do đó, sản phẩm thủ công truyền thống tự thân đã là sản phẩm hàng hoá. Đó là
các sản phẩm có giá trị kinh tế, nhưng đậm nét mỹ thuật, mỹ nghệ duyên dáng, thanh thoát
bởi đó là sự kết hợp khéo léo, nhuần nhị vẻ đẹp nghệ thuật cổ với vẻ đẹp cách tân rất hiện
đại, vừa sâu lắng, tinh tế lại vừa bóng bẩy. Chúng được mua bán, trao đổi với số lượng lớn
trên thị trường trong nước và quốc tế, đem lại nguồn lợi kinh tế cho đất nước, cho doanh
nghiệp cũng như cho người thợ ở các làng nghề.
- Đặc điểm về thị trường tiêu thụ sản phẩm:
Hiện nay, sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ tiêu dùng trong nước mà còn
được xuất khẩu sang nhiều thị trường trên thế giới.
Sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ rất khác nhau, mang nét đặc trưng của làng nghề
và thoả mãn những nhu cầu riêng biệt của con người, do vậy mỗi làng nghề đều hướng tới
những thị trường riêng. Vì vậy, sự thăng trầm trong thị trường tiêu thụ của các làng nghề
cũng phụ thuộc vào sự thăng trầm của từng thị trường đó.
Sản phẩm hàng TCMN hiện nay không chỉ có khả năng đáp ứng được nhu cầu đa
dạng trong nước mà còn được xuất khẩu sang nhiều nước, có khả năng đáp ứng được nhu
cầu của thị trường thế giới.
- Đặc điểm về vốn và quan hệ tín dụng:
Vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo cho các làng nghề hoạt động được
trong cơ chế thị trường. Vốn là yếu tố quan trọng giúp các cơ sở ở các làng nghề mua sắm
nguyên liệu, dụng cụ sản xuất, trả công cho lao động... Vốn đảm bảo cho quá trình sản
xuất ở các làng nghề diễn ra liên tục. Mặt khác, vốn còn là yếu tố giúp các cơ sở của các
làng nghề đầu tư máy móc thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất đi lên sản xuất lớn. Nhu cầu
về vốn cho sản xuất kinh doanh ở các làng nghề đòi hỏi ngày càng lớn để sản xuất hàng
xuất khẩu. Đa số nguồn vốn sản xuất của các làng nghề hiện nay là của cá nhân hoặc hộ
gia đình. Các nguồn vốn chủ yếu trong các làng nghề hiện nay gồm nhiều hình thức nhưng
chủ yếu là hai hình thức: vốn tự có và vốn vay.
Vốn tự có hiện chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong các làng nghề, đặc biệt trong
điều kiện hiện nay, khi cơ chế vay vốn đang gặp nhiều bất cập. Tuy nhiên, để đảm bảo
làng nghề phát triển, không thể dựa hoàn toàn vào nguồn vốn tự có được, do lượng vốn
này quá nhỏ so với yêu cầu đầu tư phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ. Đặc biệt, đối với
các cơ sở sản xuất đã chuyên môn hoá, cần mở rộng phát triển sản xuất luôn đi cùng với
đôỉ mới công nghệ, tạo lập mặt bằng nhà xưởng.
Vốn vay đang có nhu cầu ngày càng tăng. Việc đầu tư đổi mới công nghệ, đa dạng
hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như đào tạo công nhân đòi hỏi cũng
phải có vốn đầu tư. Vốn tự có trong các cơ sở sản xuất của làng nghề không đáng kể so với
nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất, đặc biệt do đổi mới công nghệ hay mở rộng quy mô sản
xuất. Bởi vậy, vốn vay hiện nay chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển làng nghề
nói riêng cũng như ngành nghề nông thôn nói chung.
Tại các làng nghề hiện nay quy mô vốn của đa số các cơ sở còn nhỏ, mức độ đầu tư
cho tài sản cố định còn thấp, nhiều cơ sở thiếu vốn nhưng lại không có nhiều cơ hội để tiếp
cận các nguồn vốn vay, đặc biệt là các nguồn vốn vay ưu đãi; đã xuất hiện một số hộ và cá
nhân có vốn đứng ra làm “chủ bao mua”, “cai đầu dài”, làm đại lý cung ứng nguyên liệu
và bao tiêu sản phẩm cho cả làng. Nhiều “ông cai” có trong tay từ hàng trăm triệu đồng
đến hàng tỷ đồng. Những nguời này có quan hệ với chủ bao mua lớn ở các đô thị như Hà
Nội, Thành phố HCM và hiểu rõ nhất các kênh cung ứng và xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ.
1.1.2. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ
a) Cơ cấu sản phẩm thủ công mỹ nghệ
Ngành thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam có thể được phân loại thành 10 tiểu ngành,
gồm các nhóm cơ bản dưới đây:
- Tre, mây, cói, lá
- Gốm
- Gỗ
- Thêu
- Dệt
- Kim loại
- Giấy thủ công
- Các loại nguyên liệu khác nhau
- Tác phẩm nghệ thuật
- Khác
Theo báo cáo mới đây của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và cơ quan hợp
tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) thì sản xuất hàng thủ công ở tất cả những tiểu ngành này chủ
yếu dựa trên một hệ thống gồm 2.017 làng nghề trên toàn quốc. Trong 10 nhóm hàng nêu
trên, có các nhóm hàng cần quan tâm là:
* Tre, mây, cói và lá
Từ nguồn dồi dào nguyên liệu thô ở các địa phương như tre, mây, cói và lá và cũng
gồm có các nguyên liệu thô như guột, bèo tây, chuối hoặc rơm, Việt Nam sản xuất ra
những đồ dùng trong gia đình như rổ, nôi, va-li, túi mua hàng, thảm lót (đĩa, cốc), bình
phong và nhiều vật dụng khác. Các sản phẩm được phục vụ cho mục đích sử dụng và trang
trí, sản phẩm rất đa dạng, phục vụ những thị hiếu khác nhau của khách hàng. Sản phẩm
đan thu được kim ngạch xuất khẩu cao nhất. Các sản phẩm này được sản xuất ở nhiều tỉnh,
thành phố trên cả nước nhưng hầu hết tập trung ở Hà Tây, Hà Nam, Thái Bình, Thanh
Hoá, Khánh Hoà, Tiền Giang. Trong các năm gần đây, xuất khẩu sản phẩm thủ công từ
nguyên liệu bèo tây đã phát triển nở rộ. Có nhiều làng nghề ở các tỉnh phía nam như Tiền
Giang, Đồng Nai, Đồng Tháp và Thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt chuyên về các sản phẩm từ
bèo tây. Hoạt động cung cấp nguyên liệu như tre, mây, lá là một ngành tự thân có tầm quan
trọng đặc biệt đối với thu nhập ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, các nguyên liệu thô dồi dào
trước kia ngày càng trở nên khan hiếm. Việt Nam hiện phải nhập khẩu tre từ Trung Quốc và
mây từ Lào, Campuchia và In-đô-nê-xi-a. Nguyên liệu mây cần phải có sự lưu tâm đặc biệt do
nó có truyền thống rất lâu đời. Việt Nam đã luôn được nhìn nhận là một đất nước của mây
(đứng thứ ba chỉ sau In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a) và người Việt Nam rất giỏi chế tạo các sản
phẩm không chỉ từ các giỏ đan làm bằng mây mà còn cả những đồ dùng bằng mây sử dụng
trong nhà và ngoài trời. Ghế, bàn và ngăn kéo mây sản xuất ở Việt Nam đã trở nên rất phổ
biến ở nhiều nước như Đức, Italia và Mỹ với nhu cầu thậm chí còn đang tăng lên.
* Gốm sứ
Nghề gốm của Việt Nam có thể được chia ra làm 04 nhóm chính: Bộ đồ ăn, bình và
lọ hoa, tượng và những vật dụng trang trí khác. Tuỳ thuộc vào công nghệ và nhiệt độ nung
mà các sản phẩm sẽ là gốm, sứ. sành hay đất nung. Nghề gốm đã có ở Việt Nam từ hàng
ngàn năm nay và các cơ sở sản xuất gốm phân bổ trên khắp cả nước. Tuy nhiên, một số
trung tâm sản xuất sản phẩm gốm lớn nằm ở Hà Nội (Bát Tràng), Đồng Nai và Bình Dương.
Gần đây, các sản phẩm nghệ thuật làm từ sành phục vụ nhu cầu trang trí nhà và vườn đã phát
triển mạnh ở các tỉnh Đồng Nai, Vĩnh Long, Hà Nam và Bắc Ninh và đã thu hút được sự chú
ý đặc biệt của các nhà nhập khẩu trên khắp thế giới.
* Thêu ren và các sản phẩm dệt
Các sản phẩm thêu ren bằng tay hầu hết là khăn trải bàn, quần áo, váy, túi và những
vật dụng sử dụng thông thường. Những sản phẩm này được tạo ra chủ yếu ở các làng nghề
trong các tỉnh Hà Tây, Thái Bình, Ninh Bình và Hà Nam. Trước kia, những sản phẩm này
chủ yếu được xuất khẩu sang các nước Đông Âu nhưng ngày nay, thị trường xuất khẩu đã
mở rộng sang nhiều nước, đặc biệt là Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp và Italia. Các nhà xuất
khẩu sản phẩm này gặp nhiều khó khăn trong hoạt động thâm nhập thị trường mới và cạnh
tranh với các sản phẩm sản xuất bằng máy từ các nhà máy của Trung Quốc.
Sản phẩm dệt ở Việt Nam được tạo ra từ 432 làng nghề, trong đó có nhiều sản phẩm
từ các dân tộc thiểu số. Các nguyên liệu sử dụng phổ biến là lụa, cotton, len và sợi lanh.
Hầu hết 90% các làng nghề dệt đan phân bổ ở các tỉnh phía Bắc, đặc biệt là khu vực đồng
bằng Sông Hồng. Quy mô sản phẩm dệt nhìn chung không đa dạng và hầu hết thành phẩm
có giá trị gia tăng thấp. Sản phẩm từ lụa và cotton là các nguồn thu nhập chính. Khăn tay
làm từ cotton (ở Thái Bình, Hà Tây, Nam Định...), sản phẩm dùng trong nhà tắm và nhà
bếp làm từ các nguyên liệu dệt khác (Ninh Bình, Hà Tây...) là một số những sản phẩm dệt
có tiềm năng xuất khẩu cao nhất. Tuy nhiên, hầu hết các nguyên liệu cotton thô đều phải
nhập khẩu. Nhóm khác gồm có các dân tộc thiểu số sống ở các khu vực miền núi sử dụng
các khung cửi và một số nguyên liệu đặc biệt và nhuộm màu tự nhiên. Đây là các nhóm
sản phẩm có tiềm năng phát triển rất tốt nếu chúng ta phát triển các thị trường ngách cũng
như tập trung vào thị trường thương mại bình đẳng. Do những khó khăn về nguồn nguyên
liệu thô, các nhà sản xuất đang ngày càng sử dụng các nguyên liệu thô nhập khẩu giá rẻ,
điều này sẽ làm giảm chất lượng các sản phẩm. Đối với các sản phẩm dệt và các sản phẩm
của người thiểu số định hướng để xuất khẩu, điều vô cùng quan trọng quyết định đến thành
công là sự sẵn có của nguyên liệu thô chất lượng cao, cải thiện chất lượng và phát triển thị
trường
* Sản phẩm đá quý và kim loại
Các vật phẩm dùng để trang trí và sản phẩm quà tặng làm từ kim loại như tượng
nhỏ, đồ trang sức, chuông, chiêng và khung tranh. Trong số những sản phẩm này, các vật
dụng như đồ mạ bạc, đồ đồng chế tác và đồ đúc bằng đồng thiếc được xuất khẩu. Gần đây,
sản phẩm chế tác đồng đã tăng mạnh về kim ngạch xuất khẩu, đặc biệt do sự kết hợp giữa
sản phẩm đồng chế tác với các nguyên liệu tự nhiên khác như mây, bèo tây và các nguyên
liệu khác. Trên cơ sở kết hợp nguyên liệu này, có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm đa dạng
trong thời điểm hiện nay. Có 45 làng nghề chạm khảm/tạc đá trong nước. Mặc dù 90%
phân bổ ở miền Bắc, nhưng những làng nghề nổi tiếng nhất cả trong nước và quốc tế lại
thuộc khu vực miền Trung (thành phố Đà Nẵng). Thiết kế đang thịnh hành về chạm khảm đá
cơ bản tập trung vào hình ảnh tôn giáo, tượng phật, tượng người, động vật và dụng cụ trong
nhà. Thẩm mỹ của những thiết kế này cơ bản thiên về châu á. Đá rắn chủ yếu được sử dụng
đối với các sản phẩm truyền thống như hình ảnh về phật, hình ảnh động vật truyền thống, các
cột kiến trúc trang trí, lồng cầu thang... Nhiều thiết kế có thể được áp dụng đối với các loại đá
mềm. Đá trắng có thể được nhuộm thành nhiều màu khác nhau, do đó, có thể tương thích với
những thiết kế đa dạng. Những sản phẩm từ đá cho EU, Hoa Kỳ và Canađa gồm có tượng và
các vật dụng trong vườn. Sử dụng đá mềm đang có xu hướng tăng lên. Các nhà mua hàng
nước ngoài thường thích những thiết kế đơn giản và chưa hoàn thiện trên các sản phẩm đá
thủ công.
* Gỗ mỹ nghệ
Nhóm sản phẩm có ưu thế lớn của ngành gỗ là đồ dùng trong nhà, chiếm hơn 70%
kim ngạch xuất khẩu. Hầu hết hoạt động sản xuất đồ dùng làm từ gỗ tập trung ở các tỉnh
khu vực phía Bắc của Việt Nam như Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, Hà Tây,
trong khi đó thì ngành chế biến gỗ công nghiệp lại chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền Trung
và miền Nam. Các nhóm sản phẩm quan trọng tập trung vào sản phẩm bàn và đồ bếp. ở
Việt Nam, những sản phẩm này chủ yếu được làm từ gỗ nhẹ hơn như gỗ thông và gỗ thích.
Cũng có các hoạt động sản xuất lớn về các phụ kiện như khung tranh, khung ảnh, khung
gương. Một số các sản phẩm thủ công đồ gỗ đòi hỏi sự tinh xảo như tượng, gỗ chạm khảm
đang có xu hướng gia tăng, đặc biệt phục vụ cho các thị trường châu á như Trung Quốc,
Hồng Kông, Đài Loan.
b) Phân loại các sản phẩm thủ công mỹ nghệ
- Phân loại theo tính chất của sản phẩm, có hai nhóm lớn:
Nhóm các sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc như: chạm, khảm
vàng - bạc, chạm khảm gỗ, đồ sơn mài, tranh dân gian, đồ gốm mỹ nghệ, lụa tơ tằm, thổ cẩm,
thêu... Đây là nhóm các mặt hàng không thể mất vị trí trong quá trình CNH, HĐH bởi sản
phẩm mang tính nghệ thuật, không thể sản xuất hàng loạt bằng máy móc được. Đối với các
nghề và làng nghề sản xuất các mặt hàng này, chúng ta cần phải phát huy được công nghệ
truyền thống, động viên được các nghệ nhân tích cực truyền nghề để tránh đứt gãy nghề
truyền thống, song vẫn cần phải sử dụng một số yếu tố kỹ thuật hiện đại vào những khâu sản
xuất cần thiết, nhưng chủ yếu là cải tiến, nhằm giảm nhẹ sức người, nâng cao hiệu quả công
nghệ truyền thống và sự sáng tạo của nghệ nhân.
Nhóm các sản phẩm mà phần nhiều mang giá trị sử dụng như gạch, ngói thông
dụng, dệt may thông dụng, nông cụ, đồ gỗ thông dụng, các hàng nhựa - cao su - thuỷ tinh,
đường kẹo, nước chấm... Nhìn về tương lai, những làng nghề sản xuất các mặt hàng này sẽ
bị sức ép mạnh của kỹ thuật và công nghệ hiện đại.. Bởi thế, những nghề và làng nghề đó
cần được đầu tư đổi mới công nghệ, đi dần vào guồng máy công nghiệp hiện đại.
- Phân loại theo mục đích sản xuất, có 3 nhóm sản phẩm:
Các sản phẩm được sản xuất nhằm mục đích xuất khẩu đáp ứng nhu cầu của khách
hàng quốc tế (xuất khẩu qua hải quan và xuất khẩu tại chỗ cho khách du lịch quốc tế).
Các sản phẩm được sản xuất nhằm mục đích tiêu thụ trên thị trường trong nước,
đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong nước.
Các sản phẩm được sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính gia đình sản
xuất tự sản tự tiêu (phần sản phẩm này chiếm tỷ trọng rất nhỏ).
- Phân loại theo định hướng khách hàng tiêu thụ, có 3 nhóm sản phẩm cơ bản:
Các sản phẩm được sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu trang trí trong các gia đình
hoặc văn phòng, khách sạn, nhà hàng,... Nhóm sản phẩm này chủ yếu là hàng TCMN tinh
xảo, có tính dị biệt cao đáp ứng nhu cầu các thị trường “ngách” đa dạng trong và ngoài
nước.
Các sản phẩm được sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở, đi, lại và sử dụng
làm phương tiện sinh hoạt của con người... Đây là các sản phẩm được sản xuất hàng loạt
với các tập khách hàng tương đối lớn và thông dụng, tính dị biệt của sản phẩm không cao.
Các sản phẩm đáp ứng nhu cầu sản xuất như nguyên liêu, công cụ...
Hiện nay, phạm vi hoạt động kinh doanh của không ít làng nghề không còn bó hẹp
trong từng địa phương như trước đây nữa mà đã trở nên rộng rãi, ở cả quy mô quốc gia và
quốc tế. ở hầu hết các làng nghề, tính chất “bí truyền” đã bị phá vỡ, nên công nghệ truyền
thống từ “làng gốc” đã phát triển sang các làng nghề khác trong xã, trong vùng, hình thành
nên các xã nghề, vùng nghề, các cụm công nghiệp làng nghề. Vì thế, quy mô sản phẩm
hàng hoá của các làng nghề truyền thống ngày càng lớn, chuyển sang sản xuất hàng loạt.
- Phân loại theo quốc tịch của khách hàng:
Các tập khách hàng quốc tế (đối với các sản phẩm xuất khẩu qua biên giới và xuất
khẩu tại chỗ) gồm: các nhà nhập khẩu nước ngoài, các nhà sản xuất và người tiêu dùng có
quốc tịch nước ngoài.
Các tập khách hàng trong nước gồm: các nhà sản xuất trong nước (đối với các sản
phẩm là nguyên liệu, vật liệu, công cụ sản xuất ...); các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu, các doanh nghiệp và chủ đầu tư xây dựng (đối với các sản phẩm là vật liệu xây
dựng, trang trí nội thất); người tiêu dùng ở các đô thị và nông thôn (đối với các sản phẩm
thủ công mỹ nghệ và hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ, ăn, ở, đi lại của dân cư...).
- Phân loại theo hình thức lưu thông phân phối và tiêu dùng, có các tập khách hàng
sau:
Các nhà nhập khẩu nước ngoài trực tiếp ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với các
doanh nghiệp ở các làng nghề truyền thống.
Các doang nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam ký hợp đồng cung cấp
nguyên liệu thu mua sản phẩm để sản xuất hoặc hợp đồng thu mua gom sản phẩm của các
làng nghề xuất khẩu.
Các thương nhân ở các đô thị lớn ký hợp đồng.
1.1.3. Các chủ thể tổ chức sản xuất kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ
Tất cả các nhóm ngành chính về gỗ, mây, tre, cói, gốm, dệt, thêu và sơn mài thông
thường được sản xuất thông qua các hộ gia đình nhỏ trong làng nghề. Nguyên liệu thô hoặc
là được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu (các nhóm nguyên liệu như mây, tre, cói,
chạm khắc gỗ, gốm...) thường được các cá nhân hoặc các hộ sản xuất đơn lẻ trực tiếp khai
thác và thu hoạch từ các khu rừng lân cận ở các địa phương hoặc ở các tỉnh khác trong
nước. Sau đó, họ bán nguyên liệu này cho những người thu gom với giá rất thấp để kiếm
sống hàng ngày. Đối với các sản phẩm khác như dệt và thêu, hầu hết nguyên liệu thô gồm
có vải hoặc chỉ được nhập khẩu do nguyên liệu sẵn có trong nước chất lượng thấp. Tơ Việt
Nam có chất lượng tốt nhưng kỹ thuật nhuộm lại không đảm bảo.
- Doanh nghiệp thu gom nguyên liệu thu thập nguyên liệu thô từ những nhà sản xuất
nguyên liệu, tiến hành phân loại cơ bản xong rồi họ vận chuyển nguyên liệu tới các nhà
bán buôn ở các tỉnh. Nhiều khâu trung gian tham gia vào mạng lưới này làm cho kênh
nguyên liệu thô trở nên phức tạp và làm nâng giá mặt bằng sản xuất.
- Doanh nghiệp xử lý nguyên liệu thô thu mua nguyên liệu từ những nhà thu gom
hay những người bán buôn ở các tỉnh. Họ hoàn toàn khác những nhà sản xuất nguyên
liệu/thu gom nguyên liệu/nhà bán buôn do họ tham gia vào nhiều hơn khâu xử lý và bán
nguyên liệu đã được chế biến
- Nhà sản xuất chủ yếu là các hộ gia đình tại làng nghề ở các khu vực nông thôn,
đây là lực lượng lao động chính trong sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Ngành gốm phát
triển ở mức độ cao hơn với sự xuất hiện của nhiều nhà máy tuyển dụng các lao động làm
việc dài hạn.
Mặc dù mức thu nhập vẫn còn thấp, nhưng sản xuất hàng thủ công vẫn mang lại cho
các hộ nhỏ kiếm được nguồn thu phi nông nghiệp bền vững bên cạnh việc sản xuất lương
thực cơ bản. Trong nhiều trường hợp, thu nhập từ sản xuất hàng thủ công cao hơn so với
sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn, với công việc đan ghế mây, một người nông dân có thể
kiếm được trung bình 20.000 đồng/ngày (tương đương với 1 euro), số tiền này gấp hai lần
so với việc người đó kiếm được từ sản xuất lúa trên diện tích gieo trồng trung bình là 360
m2.
Mức thu nhập thay đổi từ một nhóm sản phẩm này so với nhóm sản phẩm khác, với
những người sản xuất đồ nội thất, tỷ lệ trung bình là 1,5 đôla Mỹ/ngày (thuộc diện thu
nhập cao) trong khi ở tiểu ngành thêu lại có mức thu nhập ở mức thấp nhất với trung bình
khoảng 0,55 đôla Mỹ/ngày.
Sản xuất theo kiểu gia đình ở các khu vực nông thôn thực sự rẻ hơn so với sản xuất
tại nhà máy ở các thành phố lớn.
Người thu gom sản phẩm là những người sống tại các làng nghề và có vai trò như
cầu nối giữa những thương gia kinh doanh mặt hàng này với các nhà sản xuất. Họ giữ
trọng trách đối với nhiều loại công việc, từ cung cấp nguyên liệu cho người sản xuất
(không thường xuyên), giám sát sản xuất, thu gom hàng và đôi khi họ cũng phụ trách khâu
hoàn thiện sản phẩm (xử lý, nhuộm màu...) và đóng gói.
Cơ sở kinh doanh hàng thủ công ở nông thôn là những doanh nghiệp sản xuất quy
mô nhỏ đặt tại các làng và có nhiều nhân công, có trang thiết bị căn bản và cũng thực hiện
hoạt động thu gom sản phẩm, giám sát sản xuất và hoạt động hoàn thiện sản phẩm.
Doanh nghiệp cung cấp máy móc hiện tại không có vai trò lớn do trang thiết bị sử
dụng trong ngành thủ công mỹ nghệ rất đơn giản, chỉ bao gồm lò nung gốm, máy sấy, máy
tiện, máy nặn, máy may nhỏ, máy khoan, thiết bị phun dùng cho sản xuất đồ nội thất hoặc
máy may cho sản phẩm dệt...
Doanh nghiệp xuất khẩu tìm kiếm nguồn hàng từ các nhà sản xuất ở các làng nghề,
các nhà thu gom sản phẩm hoặc các nhà kinh doanh sản phẩm này ở nông thôn. Hầu hết
các đơn hàng thực hiện theo hình thức hợp đồng phụ (subcon tract) với các nhà sản xuất.
Trong một số trường hợp, các nhà xuất khẩu cũng cung cấp cho các nhà sản xuất ở các
làng nghề nguyên liệu thô hoặc những cấu phần được làm sẵn.
Một phần của hoạt động sản xuất đang ngày càng có xu hướng được thực hiện tại
nhà máy của các nhà xuất khẩu (sản phẩm cần những kỹ năng hoặc trang thiết bị đặc biệt,
khâu hoàn thiện sản phẩm, sản xuất những cấu phần làm sẵn cho những thợ dệt và thợ gốm
đòi hỏi công nghệ hiện đại) với lực lượng lao động gồm vài trăm, thậm chí hàng ngàn
người.
Trước đây, các nhà xuất khẩu hàng thủ công ở một số thành phố chính và các tỉnh
khác hầu như đều là những doanh nghiệp nhà nước. Vài năm trở lại đây, có sự gia tăng
nhanh chóng về số lượng các công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân hoạt động kinh doanh
rất thành công và đang cạnh tranh mạnh với các doanh nghiệp quốc doanh. Các nhà xuất
khẩu khu vực tư nhân có tầm quan trọng ngày càng tăng.
Doanh nghiệp nhập khẩu hầu hết là những nhà bán buôn ở Châu Âu, Châu á hoặc
Chây Mỹ, các cửa hàng lớn ở nước ngoài và những chuỗi bán lẻ mua trực tiếp từ các nhà
sản xuất hoặc xuất khẩu của Việt Nam. Một số khách hàng quốc tế có đại lý hoặc văn
phòng đại diện ở Việt Nam để tìm kiếm các sảm phẩm thủ công. Một vài người trong số
họ là những doanh nghiệp lớn có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Những công ty nước
ngoài này có vai trò quan trọng trên thị trường và họ mua với số lượng lớn.
Toàn bộ khối lượng xuất khẩu hàng thủ công Việt Nam hiện nay phụ thuộc lớn vào
một số rất ít những nhà mua hàng lớn. Một chuỗi bán lẻ ở Châu Âu chiếm khoảng 20%
khối lượng xuất khẩu trên toàn quốc, một số ít hãng khác cũng nắm giữ vị trí quan trọng.
Sự có mặt và các hoạt động mua hàng của những chuỗi như vậy ở Việt Nam mang lại một
lợi thế lớn cho đất nước và cũng là lý do chính làm cho ngành có mức tăng trưởng nhanh
chóng. Tuy nhiên, sự chiếm ưu thế cũng là một mối đe dọa lớn do ngành phải phụ thuộc
nhiều vào họ.
Thông thường, các công ty nước ngoài tìm kiếm sản phẩm thông qua các nhà xuất
khẩu (công ty tư nhân và những công ty xuất khẩu của nhà nước). Khách hàng thường lập
kế hoạch sản xuất của họ trước từ 3-6 tháng. Họ cung cấp cho các nhà xuất khẩu
catalogue, hình ảnh và những bức vẽ cùng với mã hàng và đặt hàng theo các mã hàng của
họ.
Doanh nghiệp bán lẻ trong nước, đặc biệt là các cửa hàng ở các thành phố lớn là Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng có vai trò quan trọng trong marketing sản phẩm thủ công
của Việt Nam. Các sản phẩm thủ công trưng bày ở những cửa hàng này hầu hết được các chủ
cửa hàng lấy từ các làng nghề hoặc do các nhà thu gom và đôi khi do các công ty tư nhân ở
các làng nghề giới thiệu.
Các cửa hàng tự phân biệt mình bằng chất lượng sản phẩm hàng hoá. Một số các
cửa hàng chuyên về các sản phẩm chất lượng cao. Trong trường hợp này, thu nhập của họ
hầu hết là do xuất khẩu cho các khách hàng nước ngoài và họ cũng đã mang đến khá nhiều
thiết kế mới và thông tin cho các làng nghề. Họ phát triển các sản phẩm mới như một chiến
lược cạnh tranh với các cửa hàng khác. Nhiều cửa hàng cũng nhằm vào đối tượng khách
hàng là dân cư trong nước và khách du lịch.
Công ty giao nhận và kho vận hoặc là các công ty trong nước hoặc là các công ty
nước ngoài cung cấp nhiều loại hình dịch vụ, từ tờ khai và thủ tục hải quan tới thuê
contener, thuê tàu, vận chuyển nội địa... Cạnh tranh giữa các công ty vận chuyển rất khốc
liệt. Mỗi công ty thường có thế mạnh trên một tuyến vận chuyển cụ thể.
1.1.4. Quan niệm, đặc điểm và vai trò của làng nghề
a) Quan niệm về làng nghề
Làng, xã với cơ cấu và tổ chức của nó là hiện tượng đặc thù của xã hội Việt Nam,
được hình thành và phát triển rất lâu đời - Là nơi sinh ra các làng nghề thủ công. Quá trình
phát triển của làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn.
“Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có các nghề tách ra
khỏi sản xuất nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập, chiếm ưu thế về số hộ, số lao
động và số thu nhập so với nghề nông” [21, tr7].
Làng nghề có nhiều loại, có loại làng một nghề, làng nhiều nghề; có loại làng nghề
truyền thống, làng nghề mới
- Làng một nghề là những làng ngoài nghề nông ra chỉ còn thêm một nghề duy nhất
chiếm ưu thế tuyệt đối như: Lụa Vạn Phúc, gốm Bát Tràng, chạm bạc Đồng Xâm...
- Làng nhiều nghề là những làng ngoài nghề nông ra còn có một số nghề khác
- Làng nghề truyền thống là những làng mà ở đó nghề được hình thành, tồn tại và
phát triển lâu đời trong lịch sử, được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác
- Làng nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự lan toả của các làng nghề truyền
thống trong những năm gần đây (những năm sau cách mạng), đặc biệt trong quá trình đổi mới,
thời kỳ chuyển sang kinh tế thị trường.
b) Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc khôi phục và phát triển của các làng
nghề ở nông thôn
- Sự biến động của nhu cầu thị trường
- Các chính sách của Nhà nước
- Kết cấu hạ tầng (Hệ thống đường giao thông, hệ thống cung cấp điện nước, bưu
chính viễn thông, y tế, giáo dục, điều kiện sinh hoạt...)
- Yếu tố truyền thống (sự lưu giữ truyền đạt những kinh nghiệm, kỹ thuật của sản
xuất, những thói quen nghề nghiệp, những đức tính kiên trì, cần mẫn sáng tạo và cả ý chí
quyết tâm đạt tới giá trị sản phẩm tốt, bền, đẹp về hình dáng mẫu mã của các nghệ nhân,
thợ cả cho người thợ thế hệ sau)
- Nguồn nguyên liệu là nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển làng
nghề, tới việc đa dạng hoá sản phẩm trong các làng nghề (khối lượng, chất lượng và
khoảng cách cung cấp nguyên vật liệu cho làng nghề có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát
triển của các làng nghề bởi lẽ chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm làng
nghề làm ra, trữ lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng đến sự tồn tại lâu dài của làng nghề, khoảng
cách cung cấp nguyên vật liệu ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm của các cơ sở sản xuất).
c) Đặc điểm của các làng nghề ở nông thôn Việt Nam
- Làng nghề tồn tại ở nông thôn gắn bó mật thiết với sản xuất nông nghiệp
- Sản xuất trong các làng nghề (đặc biệt là làng nghề thủ công truyền thống) chủ
yếu bằng phương pháp thủ công, công nghệ thô sơ, lạc hậu
- Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các làng nghề nông thôn chủ yếu là
quy mô gia đình
- Phương pháp dạy nghề chủ yếu được thực hiện theo phương thức truyền nghề
- Sản phẩm của các làng nghề đa dạng trong đó có một số sản phẩm có tính mỹ
thuật cao, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc.
d) Vai trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn
Làng nghề không chỉ đơn thuần làm ra các sản phẩm hàng hoá, mà còn là nơi tiềm
ẩn những giá trị văn hoá tinh thần và nơi bảo lưu, giữ gìn công nghệ truyền thống lâu đời
của dân tộc. Môi trường văn hoá làng nghề phản ánh sinh động cách sống, lối sống và nếp
sống giàu tính nhân văn. Có thể khái quát vai trò của làng nghề trên một số mặt chủ yếu
sau:
- Góp phần tích cực trong việc giải quyết việc làm cho người lao động ở khu vực
nông thôn
- Là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Góp phần tăng khối lượng hàng hoá và sự đa dạng về chủng loại hàng hoá phục vụ
cho nhu cầu nền kinh tế
- Tạo điều kiện và thúc đẩy xây dựng một nông thôn Việt Nam mới, hiện đại
- Góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
1.1.5. Các hình thức xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
a) Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là xuất khẩu hàng hoá do chính doanh nghiệp sản xuất hoặc đặt
mua của các doanh nghiệp sản xuất trong nước, sau đó xuất khẩu sản phẩm này cho khách
nước ngoài.
Hình thức xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi chính các doanh nghiệp trực tiếp bán sản
phẩm của mình ra nước ngoài. Hình thức này có ưu điểm là công ty có thể kiểm soát toàn
bộ hoặc từng phần kế hoạch marketing ở nước ngoài, thu thập được thông tin phản hồi ở
thị trường, từ đó có thể cải tiến sản phẩm trong sản xuất, trong kinh doanh xuất khẩu, tập
trung nỗ lực của mình cho sản phẩm do mình sản xuất và bảo vệ tốt hơn nhãn hiệu, bản
quyền và những tài sản vô hình, đem lại nhiều lợi nhuận cho các doanh nghiệp xuất khẩu
hàng hoá, do không mất khoản chi phí trung gian và tăng uy tín cho doanh nghiệp nếu
hàng hoá thoả mãn yêu cầu của đối tác giao dịch, có điều kiện thâm nhập thị trường, chủ
động trong sản xuất, tiêu thụ hàng hoá. Tuy nhiên, phương thức này còn bộc lộ một số
nhược điểm như: không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể áp dụng được, đòi hỏi
một lượng vốn tương đối lớn và có quan hệ tốt với bạn hàng, dễ gặp rủi ro, sai lầm khi
giao dịch ở một thị trường mới, người tiến hành phải có năng lực hiểu biết về kỹ thuật
nghiệp vụ ngoại thương và phải có thời gian tích luỹ kinh nghiệm. Nếu các doanh nghiệp
không nắm bắt kịp thời thông tin hoặc am hiểu ít về thị trường thế giới và đối thủ cạnh
tranh thì rủi ro trong hình thức kinh doanh này không phải là ít.
b) Xuất khẩu gián tiếp
Hình thức xuất khẩu này không đòi hỏi sự tiếp xúc giữa nhà sản xuất và người mua
ở nước ngoài. Nhà sản xuất bán sản phẩm của mình cho một công ty khác và công ty đó
tiếp tục làm công tác xuất khẩu trực tiếp. Phương thức này thường áp dụng đối với các
công ty có quy mô nhỏ hoặc trung bình mới xâm nhập thị trường chưa đủ điều kiện xuất
khẩu trực tiếp. Hình thức xuất khẩu gián tiếp cũng gặp phải một số nhược điểm là nhà sản
xuất không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Điều này làm cho nhà sản xuất không biết
được sở thích mong muốn của khách hàng. Các doanh nghiệp có thể thực hiện xuất khẩu
gián tiếp thông qua các hình thức sau:
- Các công ty quản lý xuất khẩu (Exporrt Management Company - EMC): Công ty
quản lý xuất khẩu hoạt động như một phòng xuất nhập khẩu của công ty. EMC sẽ thực
hiện việc tìm kiếm thị trường cho nhà sản xuất, cố vấn cho nhà sản xuất về thị trường nước
ngoài. Dịch vụ EMC được thanh toán bằng tiền hoa hồng.
- Khách hàng nước ngoài (Foreign Buyer): Là hình thức xuất khẩu thông qua các
nhân viên của các công ty nhập khẩu nước ngoài. Họ là những người được đào tạo và có
hiểu biết về điều kiện cạnh tranh trên thị trường thế giới. Hình thức này nhà sản xuất
không cần phải đích thân ra nước ngoài để đàm phán trực tiếp với đối tác. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp cũng cần xem xét kỹ khách hàng để thiết lập mối quan hệ.
- Nhà uỷ thác xuất khẩu (Exporrt Commission House): Là những người đại diện
cho người mua nước ngoài cư trú trên nước của nhà xuất khẩu. Hoạt động dựa trên lợi ích
của người mua và người mua trả tiền uỷ thác. Khi chuẩn bị có đơn đặt hàng nhà uỷ thác
lập phiếu đặt hàng với nhà sản xuất và lo mọi chi tiết liên quan đến quá trình xuất khẩu.
Bán hàng cho các nhà uỷ thác là một phương thức thuận lợi cho xuất khẩu, việc thanh toán
diễn ra nhanh chóng cho nhà sản xuất, những vấn đề vận chuyển do nhà uỷ thác chịu hoàn
toàn.
- Môi giới xuất khẩu (Exporrt Borker): Là thực hiện chức năng làm môi giới giữa
nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu mà không xử lý mua bán trực tiếp. Người môi gới được nhà
xuất khẩu uỷ nhiệm và trả hoa hồng cho hoạt động của họ. Những người này thường chuyên
về một mặt hàng, nhóm hàng nhất định. Điểm quan trọng là họ có thể hoạt động độc lập cho
người bán và người mua.
- Hãng buôn xuất khẩu (Export Merchants): Hãng buôn xuất khẩu thường đóng tại
nước xuất khẩu và mua hàng của người chế biến hoặc của nhà xuất khẩu, sau đó tiếp tục
thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu. Những rủi ro trong quá trình xuất khẩu hàng hoá do hãng
buôn chịu. Nhược điểm khi sử dụng hãng buôn xuất khẩu là không thể tiếp cận với thị trường
nước ngoài. Do đó không nhạy cảm với thị trường nước ngoài trước sự biến động của thị
trường.
- Hiệp hội xuất khẩu (Export Association): Liên kết với nhau giữa các thành viên
để xuất khẩu ra thị trường, thống nhất giá bán tạo ra sức mạnh cho các thành viên xâm
nhập thị trường.
Thời gian qua xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của ta diễn ra với hình thức này là:
Doanh nghiệp ngoại thương với vai trò trung gian xuất khẩu thay cho các đơn vị sản xuất
bằng các thủ tục cần thiết để xuất khẩu và hưởng phần trăm phí uỷ thác theo giá trị hàng
xuất khẩu.
Ưu điểm của hình thức này là hạn chế được rủi ro, trách nhiệm ít bởi người đứng ra
xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, không đòi hỏi vốn lớn. Tuy
nhiên, lợi nhuận thu được cho doanh nghiệp ngoại thương không cao. Còn đối với doanh
nghiệp xuất khẩu, khi thực hiện phương thức này họ sẽ mất một khoản phí uỷ thác mà
không được tiếp cận với khách hàng nước ngoài, không tìm hiểu được về thị trường xuất
khẩu...
c) Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là hình thức trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu,
người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi với nhau có giá trị tương đương. ở
đây mục đích xuất khẩu không phải thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một hàng
hoá có giá trị tương đương, vì những đặc điểm đó người ta gọi phương thức này là xuất
nhập khẩu liên kết hoặc phương thức hàng đổi hàng.
Các hình thức buôn bán đối lưu như: hàng đổi hàng, giao dịch bù trừ, mua đối lưu,
chuyển giao nghĩa vụ, bồi hoàn, mua lại.
d) Gia công xuất khẩu (gia công quốc tế)
Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó một bên nhận gia công
nguyên vật liệu hay bán thành phẩm của bên kia đặt gia công nhằm thu lợi nhuận (phí gia
công).
Hình thức này được vận dụng khá phổ biến, nó mang lại lợi ích to lớn cho cả 2 bên
đặt gia công và bên nhận gia công. Phương thức này đặt ra về phía nhà nước cần phải có
một cơ chế định hướng và quản lý hoạt động gia công. Về phía các doanh nghiệp phải
nghiên cứu lựa chọn khai thác có hiệu quả hình thức gia công.
Các hình thức gia công như gia công thuê, gia công mua đứt bán đoạn và gia công
kết hợp.
e) Xuất khẩu tại chỗ
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không cần vượt qua
biên giới quốc gia nhưng khách hàng vẫn có thể mua được. ở hình thức này doanh nghiệp
không cần phải đích thân ra nước ngoài đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người
mua lại tìm đến với doanh nghiệp do vậy doanh nghiệp không phải làm thủ tục hải quan,
không phải thuê phương tiện vận chuyển, không phải mua bảo hiểm hàng hoá. Hình thức
này thường được áp dụng với nước có thế mạnh về du lịch, có nhiều tổ chức nước ngoài
đóng tại quốc gia đó.
1.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng TCMN
a) Các nhân tố của môi trường vĩ mô
- Các nhân tố thuộc môi trường kinh tế
Hoạt động xuất nhập khẩu thực chất là bắc cầu để giao lưu hàng hoá giữa trong
nước và ngoài nước, trong quá trình đó sẽ bộc lộ sự khác nhau về trình độ phát triển kinh
tế và xã hội giữa các nước. Bởi vậy trình độ phát triển kinh tế giữa các nước, trình độ dân
trí, thu nhập và mức sống của dân cư, sự ổn định của môi trường pháp luật... của quốc gia
nhập khẩu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp
xuất khẩu của quốc gia xuất khẩu.
Một nền kinh tế phát triển ổn định của quốc gia nhập khẩu sẽ tạo điều kiện tốt để
các doanh nghiệp mở rộng xuất khẩu, ngược lại, một nền kinh tế suy thoái, khủng hoảng
chắc chắn sẽ không kích thích việc nhập khẩu. Điều này làm giảm khả năng xuất khẩu của
các doanh nghiệp xuất khẩu.
Một yếu tố khác có ảnh hưởng đến khả năng mở rộng xuất khẩu của các doanh
nghiệp đó là tỷ giá hối đoái. Xuất khẩu là đưa hàng hoá từ nước này sang bán ở nước khác
để thu ngoại tệ. Vì vậy mỗi tỷ giá của đồng nội tệ với các ngoại tệ sẽ quyết định tính kinh
tế của việc xuất khẩu. Các doanh nghiệp sẽ đẩy mạnh xuất khẩu khi mối quan hệ này có lợi
cho họ, ngược lại khi mối quan hệ này bất lợi, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng giảm xuất
khẩu.
- Các nhân tố thuộc về môi trường chính trị, pháp luật
Hoạt động xuất khẩu này rất nhạy cảm với sự thay đổi của tình hình chính trị thế
giới và trong nước; việc thay đổi đường lối đối nội, đối ngoại một quốc gia thường kéo
theo sự thay đổi chính sách xuất nhập khẩu, điều này trực tiếp tác động tới khả năng mở
rộng hay thu hẹp hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Xuất khẩu còn phụ thuộc vào đường lối, chính sách của quốc gia xuất khẩu và nhập
khẩu trong từng giai đoạnh nhất định. Điều này được thể hiện thông qua các chính sách
thuế, chính sách bảo hộ xuất khẩu và chính sách hạn chế xuất khẩu...
Ngược lại, những quy định của quốc gia nhập khẩu về hạn mức nhập khẩu, nguồn
gốc, xuất xứ sản phẩm, quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, về thuế quan, quy định về thủ tục
giao dịch, về bảo hành sản phẩm cũng như việc thực hiện nghiêm túc hay không các quy
định ấy trong thực tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đẩy mạnh xuất khẩu trong một
doanh nghiệp.
- Các nhân tố thuộc về môi trường tự nhiên
Các điều kiện tự nhiên sẽ quyết định khả năng của nguồn tài nguyên thiên nhiên có
thể khai thác để chế biến xuất khẩu, nó ảnh hưởng đến lợi thế so sánh của một doanh
nghiệp trong việc đẩy mạnh xuất khẩu.
Các yếu tố địa lý, địa hình, vị trí của doanh nghiệp trong quan hệ với hệ thống giao
thông quốc tế cũng như khoảng cách tới thị trường tiêu thụ quan trọng sẽ có ảnh hưởng,
quyết định đến chi phí vận tải và thời gian cần thiết đưa hàng hoá đến nơi tiêu dùng.
Ngoài ra vị trí địa lý cũng có ý nghĩa lớn trong việc tạo ra khả năng để phát triển
các dịch vụ tái xuất khẩu, chuyển khẩu và xuất khẩu tại chỗ.
- Các nhân tố thuộc về môi trường tâm lý - xã hội
Truyền thống lịch sử và văn hoá của quốc gia nhập khẩu là một nhân tố ảnh hưởng
đến khả năng xuất khẩu của bất cứ một doanh nghiệp nào. Tập quán, thị hiếu, thói quen
tiêu dùng của dân chúng chính là sự biểu hiện cụ thể nhất của lối sống trong một quốc gia.
Để đảm bảo cho hàng hoá của doanh nghiệp sản xuất ra có thể thâm nhập vào một
thị trường nào đó trên thế giới, người sản xuất cần phải có sự am hiểu thật sâu sắc về
truyền thống dân tộc, đời sống văn hoá, phong cách sống của dân cư nước nhập khẩu để từ
đó hiểu rõ về thị hiếu, thói quen của người tiêu dùng. Thực tế cho thấy hàng xuất khẩu của
Việt Nam nói chung và hàng TCMN nói riêng khi xuất khẩu sang các nước Châu á thì rất
dễ dàng, song khi xuất khẩu sang các nước Châu Âu, Bắc Mỹ thì lại gặp rất nhiều trở ngại,
khó khăn chủ yếu là do các nhà sản xuất Việt Nam chưa có hiểu biết đầy đủ về thị hiếu,
thói quen tiêu dùng của người tiêu dùng các nước phương Tây.
b) Các nhân tố thuộc môi trường vi mô
* Quy mô và yêu cầu của thị trường về sản phẩm
Để có thể đẩy mạnh xuất khẩu của một doanh nghiệp, trước hết trên thị trường phải
có nhu cầu về sản phẩm mà doanh nghiệp xuất khẩu với một quy mô đủ lớn, đồng thời sản
phẩm mà doanh nghiệp sản xuất cũng phải có khả năng đáp ứng được các đòi hỏi của thị
trường về chất lượng, chủng loại, mẫu mã, uy tín, giá cả và các dịch vụ kèm theo... khả
năng đáp ứng các yêu cầu của thị trường là điều kiện cơ bản để một doanh nghiệp có thể
đẩy mạnh xuất khẩu của mình.
* Khả năng đáp ứng của các ngành cung cấp nguyên liệu
Để có thể mở rộng và phát triển xuất khẩu hàng TCMN của một doanh nghiệp bất
kỳ, vấn đề quan trọng mà doanh nghiệp phải quan tâm đó là khả năng đáp ứng các nguồn
cung cấp, đặc biệt là nguồn nguyên liệu. Chính khả năng đáp ứng của các nguồn cung cấp
nguyên liệu về quy mô, chất lượng, cơ cấu chủng loại sẽ là nhân tố cơ bản quyết định quy
mô, chất lượng, cơ cấu, sản phẩm xuất khẩu của một doanh nghiệp trên thị trường. Nói
cách khác khả năng đáp ứng của các nguồn cung cấp nguyên liệu sẽ là nhân tố ảnh hưởng
lớn đến khả năng đẩy mạnh xuáat khẩu hàng TCMN của một doanh nghiệp.
Ngoài ra khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu về các yếu tố cơ sở hạ tầng như: giao
thông vận tải, điện nước, thông tin liên lạc... cũng có vai trò rất lớn trong việc đảm bảo khả
năng đẩy mạnh xuất khẩu của một doanh nghiệp.
* Mức độ cạnh tranh trên thị trường
Khả năng xuất khẩu của một doanh nghiệp sẽ giảm đi theo mức độ gia tăng của
việc cạnh tranh trên thị trường. Trong ngành xuất khẩu TCMN, khả năng cạnh tranh của
một doanh nghiệp xuất khẩu TCMN thường được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
- Quy mô xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu TCMN là một thị trường không lớn
nhưng rất khắt khe về giá cả, chất lượng và tiến độ giao hàng. Để đảm bảo hiệu quả và
nâng cao khả năng trên thị trường, các doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ có nhiều lợi thế
hơn các doanh nghiệp nhỏ.
- Tính linh hoạt: Thị trường xuất khẩu TCMN có những quy luật vận động riêng
của nó, thường việc thay đổi nhu cầu thị trường diễn ra rất nhanh do đó doanh nghiệp có
khả năng nhanh chóng đáp ứng được yêu cầu của thị trường sẽ có nhiều lợi thế trong cạnh
tranh.
- Khả năng đáp ứng về tính đa dạng của sản phẩm: Sản phẩm TCMN phục vụ cho
rất nhiều nhu cầu khác nhau với nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy một doanh nghiệp sẽ có
lợi thế cạnh tranh khi có khả năng đáp ứng được các yêu cầu phong phú, đa dạng của
khách hàng về chủng loại sản phẩm.
- Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng: Đặc điểm cơ bản của sản phẩm
TCMN là để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của người dân ở nước nhập khẩu. Vì
vậy tiêu chuẩn chất lượng thường rất chặt chẽ, các sản phẩm chỉ được phép nhập khẩu khi
đã xác định là đủ tiêu chuẩn chất lượng. Muốn xâm nhập và mở rộng thị trường để đẩy
mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp phải có khả năng đáp ứng được các yêu cầu này, đây
hiện đang là khâu yếu của các doanh nghiệp xuất khẩu TCMN Việt Nam nói chung.
- Giá cả tiêu thụ: Vì các doanh nghiệp xuất khẩu hiện tại của Việt Nam chưa có
khả năng tổ chức hoạt động phân phối, tiêu thụ sản phẩm ở các nước nhập khẩu mà thường
bán hàng thông qua hệ thống phân phối của các khách hàng trung gian nước ngoài. Trong
trường hợp này, yếu tố giá cả tỏ ra là một yếu tố cạnh tranh khá mạnh trong việc thuyết
phục các khách hàng trung gian tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp mình.
- Tên tuổi, uy tín của nhà xuất khẩu: Về mặt tâm lý, người tiêu dùng tỏ ra an tâm
và sẵn sàng chấp nhận sản phẩm của một nhà cung cấp mà mình đã tin dùng và đã có uy
tín hơn là một nhà cung cấp ít tên tuổi.
- Khả năng hoạt động hữu hiệu của các trung gian
Để thực hiện hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu TCMN phải thông
qua một loạt các trung gian khác như: các trung gian vận chuyển, các trung gian thanh
toán, các trung gian phân phối, tiêu thụ sản phẩm... Chính khả năng hoạt động hữu hiệu
của các trung gian này sẽ góp phần quan trọng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu của một
doanh nghiệp.
* Các yếu tố nội tại của doanh nghiệp và cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ
xuất khẩu
Doanh nghiệp và cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu có thể có những
cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu, tuy nhiên các cơ hội đó có được doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất nắm bắt để trở thành hiện thực hay không còn tuỳ thuộc vào khả năng nội tại của
mình. Khả năng nội tại đó được thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất: Để sản phẩm có thể thâm nhập và cạnh
tranh được trên thị trường xuất khẩu thì sản phẩm của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phải
có khả năng đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu khắt khe nhất của thị trường về chất
lượng. Chính trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất sẽ quyết định khả năng đó.
- Trình độ tay nghề của công nhân: Ngoài vấn đề kỹ thuật sản xuất, tay nghề của
người thợ làm ra sản phẩm TCMN là một yếu tố rất quan trọng để sản xuất gia công hàng
TCMN xuất khẩu vì nó ảnh hưởng đến chất lượng, giá thành sản phẩm... Khả năng xuất
khẩu sẽ tăng lên nếu doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có một đội ngũ lao động chất lượng cao,
có khả năng sản xuất mọi loại sản phẩm theo yêu cầu của thị trường với chất lượng cao nhất
và chi phí ít nhất. Điều này sẽ góp phần tạo ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất trên thị trường xuất khẩu về giá cả, chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm.
- Trình độ tổ chức quản lý: Hoạt động xuất khẩu TCMN đòi hỏi phải có sự nỗ lực
phối hợp cao và đồng bộ giữa tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh từ khâu
tổ chức nghiên cứu thị trường, thiết kế sản phẩm đến khâu cung cấp nguyên vật liệu, tổ
chức sản xuất, bảo quản, vận chuyển, tiêu thụ... Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất kinh doanh xuất khẩu TCMN phải có một trình độ tổ chức quản lý nhất định, nó
cũng chính là một nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của một doanh
nghiệp, một cơ sở sản xuất.
- Trình độ marketing: Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất sẽ
được cải thiện không chỉ ở việc sản xuất được các sản phẩm chất lượng cao, giá rẻ mà còn
tuỳ thuộc rất lớn vào các nỗ lực hoạt động marketing. Trình độ marketing thể hiện ở trình
độ thực hiện các công việc như: nghiên cứu thị trường, thiết kế sản phẩm, tổ chức quảng
cáo, khuyếch trương, tổ chức cho sản phẩm thâm nhập thị trường mới, cải tiến mẫu mã,
bao bì đóng gói, nâng cao uy tín, tên tuổi của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên thị trường
quốc tế.
- Khả năng về tài chính: Khả năng tài chính của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đóng
vai trò quyết định trong việc tạo ra khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của một doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất. Bởi vì suy cho cùng tất cả các yếu tố đảm bảo khả năng đẩy mạnh xuất
khẩu giới thiệu ở trên chỉ có thể thực hiện được khi mà doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có
được nguồn tài chính phong phú.
1.2. Vai trò của chính quyền địa phương đối với xuất khẩu hàng Thủ công mỹ
nghệ
Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng TCMN chính quyền địa phương thường sử
dụng hệ thống các công cụ sau:
- Thể chế pháp luật: Xây dựng khung thể chế pháp luật theo phân cấp, xây dựng và
ban hành quy chế kêu gọi vốn đầu tư, các cơ chế hỗ trợ phát triển xuất khẩu nói chung và
hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng, các văn bản hướng dẫn để thi hành luật tại địa phương
phải phù hợp với các quy định của chính phủ về xuất khẩu hàng TCMN.
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng
TCMN để các địa phương có căn cứ thực hiện, các địa phương phải quy hoạch lại làng
nghề sản xuất hàng xuất khẩu cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên cơ sở
đó xây dựng kế hoạch sản xuất và phát triển theo tình hình thị trường nước ngoài.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của các cấp chính quyền cơ sở, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp, làng nghề và các hộ sản xuất hàng TCMN mở rộng sản
xuất cũng như các điều kiện khác để thúc đẩy sản xuất phát triển.
a) Xác định mục tiêu, phương hướng và chủ trương chính sách xuất khẩu hàng
hoá của địa phương
Trong mỗi kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh (thành phố), trên cơ sở tổng kết đánh giá toàn
diện các hoạt động chính trị, quản lý địa phương và tình hình thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế kinh tế - xã hội trong nhiệm kỳ qua, Đại hội Đảng bộ tỉnh (thành phố) đề ra mục
tiêu, phương hướng phát triển kinh tế, văn hoá và các hoạt động khác của tỉnh trong thời
gian tới. Đó là các mục tiêu về tốc độ tăng trưởng GDP, về giá trị sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp, xây dựng, dịch vụ trong đó có mục tiêu xuất khẩu hàng hoá.
Trên cơ sở các mục tiêu chung của tỉnh (thành phố), các sở, ban ngành chức năng
sẽ cụ thể hoá thành mục tiêu của ngành và đơn vị mình. Sở Thương mại (nay là sở Công
Thương) và sở Kế hoạch đầu tư cùng với các đơn vị có liên quan sẽ đề ra phương hướng,
quan điểm, chủ trương, chính sách chi tiết cụ thể để thực hiện mục tiêu xuất khẩu nói
chung và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng.
b) Xây dựng chương trình, kế hoạch đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá nói chung
và hàng TCMN để các địa phương có căn cứ thực hiện
Trên cơ sở quan điểm, phương hướng và mục tiêu đề ra, sở Thương mại (nay là sở
Công Thương) phối hợp với các sở, ban, ngành chức năng xây dựng chương trình, kế
hoạch xuất khẩu nói chung và hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng nhằm phát huy cao độ lợi
thế của địa phương, sử dụng sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, các đơn vị
trên địa bàn phát triển sản xuất, gia tăng xuất khẩu, chủ động hội nhập thành công. Trong
chương trình xuất khẩu thường xác định các lợi thế của địa phương mình và các mặt hàng
chủ lực có khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu. Trên cơ sở kết quả khảo sát, xác định
nhóm hàng xuất khẩu chủ lực, trong đó có nhóm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Từ đó
xây dựng kế hoạch cụ thể cho cả thời kỳ 5 năm và hàng năm.
c) Khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh đầu tư sản xuất và kinh
doanh xuất khẩu hàng TCMN mà địa phương có lợi thế so sánh.
Nhà nước sẽ khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và thông qua các chính sách bảo
vệ lợi ích hợp pháp cho sản xuất và kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là các
hoạt động kinh doanh truyền thống nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu thụ trong
nước, thu hút các nguồn đầu tư sản xuất và kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ,
góp phần tạo công ăn việc làm ở nông thôn, xoá đói giảm nghèo, bảo tồn và thúc đẩy các
giá trị văn hoá dân tộc. Nhà nước dành nhiều ưu đãi về đầu tư (giảm hoặc miễn) đối với
thuê đất đai, thuế sử dụng đất, tỷ lệ thuế thu nhập, thuế thu nhập cá nhân, thuế nhập khẩu
đối với thiết bị và máy móc được nhập khẩu để tạo tài sản cố định. Cùng với việc triển
khai tổ chức thực hiện tốt các cơ chế, chính sách đã được Trung ương ban hành, trên cơ sở
chương trình xuất khẩu được UBND tỉnh ban hành, Sở Thương mại (nay là sở Công
Thương) phối hợp với các sở, ban, ngành và các địa phương xây dựng và trình HĐND,
UBND tỉnh ban hành các cơ chế chính sách hỗ trợ khuyến khích các nhà đầu tư trong và
ngoài nước, các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh đầu tư sản xuất và kinh doanh xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ mà địa phương có lợi thế so sánh như chính sách thuê đất, thuế thu
nhập, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng v.v...
d) Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp, các làng nghề kinh phí đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất khẩu và tay nghề cho đội ngũ
thợ thủ công. Đồng thời thực hiện các biện pháp xúc tiến, hỗ trợ đẩy mạnh xuất khẩu
Cùng với việc cung cấp hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng (đường xá, cung cấp điện nước,
đảm bảo về môi trường), kho bãi, nhà xưởng cho các đối tượng dân cư tham gia vào sản
xuất và kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, Nhà nước trợ cấp kinh phí đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất khẩu và tay nghề cho đội ngũ thợ
thủ công; hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu cho các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất, làng nghề nhằm duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh
hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, tạo điều kiện ưu tiên cho việc đào tạo và sử dụng lao
động; khuyến khích, cho bản thân thợ thủ công tổ chức truyền nghề; khuyến khích các
doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất thực hiện việc truyền nghề, mở các lớp đào tạo nghề cho
người lao động; chỉ đạo các trường đào tạo nghề của Nhà nước ưu tiên cho hoạt động đào
tạo nghề của của các cơ sở kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Đồng thời Nhà nước tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ tiếp
cận kịp thời thông tin về thị trường, giá cả, chi tiết kỹ thuật và tiêu chuẩn của sản phẩm
theo các yêu cầu của thị trường trong nước và nước ngoài, tham gia các hội chợ triển lãm
trong và ngoài nước nhằm thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển thị
trường xuất khẩu, trợ giúp việc xây dựng thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp
và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ
công mỹ nghệ xuất khẩu.
Sở Thương mại (nay là sở Công Thương) các tỉnh (thành phố) là đầu mối giao tiếp
để thực hiện các hoạt động đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, tổ chức hội thảo, hội
chợ, triển lãm, quảng cáo và giới thiệu sản phẩm cho các đối tác nước ngoài, triển khai các
quỹ hỗ trợ cho các doanh nghiệp của tỉnh để mở rộng thị trường, tìm kiếm khách hàng, đẩy
mạnh xuất khẩu.
e) Tạo sự liên kết giữa nhà sản xuất và xuất khẩu hàng TCMN, giúp các doanh
nghiệp, các làng nghề hình thành các hiệp hội ngành nghề để hỗ trợ nhau trong hoạt
động sản xuất và xuất khẩu.
Chính quyền địa phương đóng vai trò cầu nối giữa các cơ quan trung ương và các
làng nghề, các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ
nghệ xuất khẩu về các chính sách và chương trình trợ giúp của Nhà nước. Các cơ sở kinh
doanh hàng thủ công mỹ nghệ có thể liên doanh và hợp tác với các tổ chức và cá nhân
trong và nước về hoạt động sản xuất và bán sản phẩm.
Nhà nước khuyến khích việc tự nguyện thành lập các hiệp hội của những nghề khác
nhau hay ở những địa phương khác nhau nhằm có biện pháp hỗ trợ thực tế cho sự phát
triển của các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, phản ánh được
tâm tư và nguyện vọng của họ, đóng góp ý kiến cho các cơ quan nhà nước trong việc soạn
thảo những cơ chế, chính sách phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ.
1.3. Kinh nghiệm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong nước và
quốc tế
1.3.1. Kinh nghiệm quốc tế
a) Kinh nghiệm của Trung quốc
Nhân tố đầu tiên quan trọng nhất và xuyên suốt là những cải cách về thể chế và phi
thể chế đối với những vùng nông thôn để phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa. Chi phí lao động thấp và định hướng thị trường đã biến các xí nghiệp trở thành
những nhà xuất khẩu có khả năng cạnh tranh quốc tế đối với những sản phẩm có hàm
lưọng lao động cao trong thời kỳ mở cửa của Trung quốc.
Một loạt những cải cách chính sách được thực hiện để tăng độ minh bạch, bình
đẳng, ưu đãi và thông thoáng hơn đã được Chính phủ thực hiện. Chính phủ cũng ban hành
chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp và phát triển vùng nông thôn như tăng đầu tư cho
sản xuất hàng nguyên liệu và sơ chế; trợ giá hàng thủ công mỹ nghệ và có chính sách chỉ
phát triển các xí nghiệp hàng TCMN ở vùng nông thôn. Những cải cách này đã giúp giải
quyết việclàm cho lao động dư thừa nông thôn, tăng thu nhập cho người nông dân và tạo ra
thị trường cầu rộng lớn giúp phát triển kinh tế.
Quan trọng hơn Chính quyền Trung ương đã có những chính sách tăng quyền tự
chủ cho các doanh nghiệp, đặc biệt trong việc đưa ra quyết định trong việc quản lý kinh
doanh. Khi các doanh nghiệp có nhiều quyền tự chủ hơn, họ quan tâm nhiều đến mở rộng
thị phần, yếu tố đòi hỏi sự linh hoạt và đổi mới của từng doanh nghiệp. Họ đã sử dụng
nhiều chiến lược để giành nhiều thị phần hơn nhằm thu lợi nhuận lâu dài thay vì lợi nhuận
trước mắt. Ngoài ra, các doanh nghiệp bắt đầu áp dụng thương mại điện tử để tìm hiểu thị
trường quốc tế và mạnh dạn cử phái đoàn đi tìm hiểu thị trường nước ngoài. Để đảm bảo
việc xuất khẩu, các hiệp hội quản lý chất lượng hàng xuất khẩu cũng được hình thành.
Trong mọi ngành của Trung quốc, các xí nghiệp chú ý nhiều đến đổi mới công
nghệ và tăng hiệu quả cạnh tranh. Với những chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của
Trung Quốc vào khu vực nông thôn, các xí nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đã tích
cực tìm đối tác nước ngoài để liên doanh. Họ không chỉ dừng lại ở việc thu lợi nhuận tài
chính mà còn chú ý đến chuyển giao công nghệ, bao gồm cả công nghệ quản lý, lấy sản
phẩm có hàm lượng công nghệ cao tham gia cạnh tranh quốc tế và chủ yếu lấy khoa học kỹ
thuật cao để cải tạo và nâng cao chất lượng hàng truyền thống của vùng, các xí nghiệp này
thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài, đặc biệt chú ý đến cải tiến kỹ thuật để nâng cao
chất lượng sản phẩm và hàm lượng kỹ thuật trong sản phẩm.
Có thể rút ra hai điều quan trọng từ sự phát triển của các doanh nghiệp kinh tế nói
chung và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng TCMN ở Trung Quốc như sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp tư nhân ở nông thôn, đặc biệt dưới hình thức doanh nghiệp
vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước phụ
thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp.
Thứ hai, để doanh nghiệp vừa và nhỏ này phát huy được vai trò của mình, chính
quyền các cấp cần tạo điều kiện thuận lợi về mặt chính sách để họ có khả năng điều chỉnh
dần dần theo nền kinh tế thị trường trong thời kỳ nền kinh tế đang chuyển đổi và hoàn
thiện khuôn khổ pháp luật. Sự tăng trưởng các doanh nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc vào
nhiều khả năng của các hệ thống trong nước và địa phương cải thiện các điều kiện khách
quan và khả năng công nghệ để doanh nghiệp phát triển. Chính quyền địa phương cần
đóng vai trò điều phối, phát triển cơ sở hạ tầng và thực thi hệ thống pháp luật. Ngoài ra cần
có đầu tư thích đáng vào giáo dục và xây dựng hạ tầng nông thôn, tạo thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp địa phương.
Các cấp chính quyền địa phương quan tâm đến doanh nghiệp trong địa bàn, lắng
nghe ý kiến của họ và tham vấn để đề xuất với chính quyền trung ương đưa ra những chính
sách kinh tế và xã hội đảm bảo sự phát triển trong dài hạn. Đây là cách thức quan trọng
trong việc tăng quyền tự chủ của doanh nghiệp và tạo điều kiện, thay vì bảo hộ để các
doanh nghiệp tự điều chỉnh để tồn tại và nâng cao khả năng cạnh tranh.
b) Kinh nghiệm của Thái Lan
Chính sách kinh tế của Thái Lan trong suốt ba thập kỷ qua đã dẫn đến sự tăng
trưởng không bền vững và phát triển mất cân đối giữa các miền và nhóm người trong xã
hội. Chính phủ của Thủ tướng Thaksin đã đề ra một quốc sách nhằm vực dậy nền kinh tế
đất nước từ bộ phận những người dân nghèo này. Chính sách quốc gia đó là chính sách
“Một làng, một sản phẩm”. Chính sách nhằm phát huy tính tự lực, khai thác tính sáng tạo
của người dân, sử dụng các nguồn lực của địa phương để phát triển kinh tế của tỉnh. Dự án
được coi như một chiến lược tạo ra thu nhập bình đẳng hơn cho người dân nông thôn ở
mọi làng quê trên đất nước Thái Lan. dựa trên đặc điểm và thế mạnh của mình, từng làng
sẽ chọn và phát triển một sản phẩm đặc thù có chất lượng. Mục tiêu cuối cùng là sản phẩm
giành được các thị trường ngách trên thị trường thế giới và được nhận biết thông qua chất
lượng cũng như tính dị biệt nhờ vào đặc thù của từng làng quê Thái. Dự án được xây dựng
trên 3 nguyên tắc cơ bản: một là mang tính địa phương nhưng phải tiến ra toàn cầu; hai là
phát huy tính tự lực sáng tạo và ba là phát huy nguồn nhân lực.
Với những nguyên tắc trên, dự án có 6 mục tiêu cụ thể:
Thứ nhất: Tạo ra những đặc điểm riêng biệt cho sản phẩm địa phương để tăng
doanh số bán. Ngoài ra để hàng hoá có thể thâm nhập thị trường thế giới, phải đáp ứng
được những tiêu chuẩn về vệ sinh và chất lượng quốc tế.
Thứ hai: Làm sống lại, phục hồi và phát huy các kiến thức truyền thống của địa
phương nhằm củng cố hiệu quả kinh doanh của địa phương.
Thứ ba: Phát huy những tri thức của địa phương để sáng tạo và tạo ra những sản
phẩm và hàng hoá có tính đặc thù.
Thứ tư: Song song phát triển du lịch sinh thái và du lịch tham quan các làng nghề
TCMN nhằm tăng thu nhập cho địa phương.
Thứ năm: Xây dựng lòng tự hào dân tộc và xã hội đối với sản phẩm của Thái Lan.
Thứ sáu: Hỗ trợ các doanh nghiệp địa phương phát triển và cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Điều này được thực hiện thông qua việc hỗ trợ thiết kế và phát triển sản
phẩm để theo kịp thay đổi thị hiếu và sở thích của thị trường.
Như vậy, Dự án “Một làng, một sản phẩm không chỉ dừng lại ở việc phát triển
những sản phẩm hay dịch vụ đặc thù địa phương, đặc biệt là phát triển các hàng TCMN
truyền thống mà mục tiêu của nó có tính toàn diện; phát triển có kế thừa văn hoá địa
phương và các kiến thức truyền thống cùng với những kinh nghiệm lâu đời truyền lại, bao
gồm: nghệ thuật, nhạc và văn học của từng địa phương; từ đó, tạo nguồn thu từ phát triển
du lịch và bảo tồn thiên nhiên, nhằm tạo ra sự phối hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với
phát huy và bảo tồn văn hoá truyền thống. Những sản phẩm của dự án chính là những sản
phẩm truyền thống của địa phương nhưng được cải tiến về mẫu mã và chất lượng để phù
hợp với thị hiếu khách hàng, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và dị biệt trên thị trường toàn
cầu. Những đặc điểm rất có sức cuốn hút của sản phẩm này chính là những nguyên liệu và
sản phẩm có tính cá biệt của địa phương, có chất lượng tốt, thể hiện sự khéo léo, tinh xảo
của người thợ thủ công và giá phải chăng.
Dự án này có mục tiêu cụ thể là kích cầu trong nước. Ngoài ra trên thực tế, một sản
phẩm hay một nhà kinh doanh không thể thành công trên thương trường quốc tế nếu họ
chưa nắm bắt được thị trường trong nước. Chính vì vậy những đánh giá bước đầu về hiệu
quả của dự án đã đề ra chương trình hành động khẩn cấp bao gồm việc thực hiện chiến
dịch marketing ở cấp quốc gia và quốc tế, đàm phán các hợp đồng kinh doanh, hình thành
các kênh phân phối dựa trên sự phối hợp giữa các cửa hàng bách hoá và các trạm xăng để
thiết lập các khu vực “một làng, một sản phẩm”. Thái Lan cũng mở chiến dịch khuyến
khích mua hàng nội, quảng bá lịch các sự kiện truyền thống ở địa phương kết hợp với việc
giới thiệu các sản phẩm đặc trưng của từng địa phương.
Nói tóm lại, Dự án “một làng, một sản phẩm” của Thái Lan tiêu biểu cho một chiến
lược cấp quốc gia về phát triển và quảng bá các sản phẩm trong nước, xây dựng hình ảnh
Thái Lan trên thị trường toàn cầu như một đất nước có những nét văn hoá đặc trưng. Dự án
tiêu biểu cho liên kết có hiệu quả giữa Chính phủ, các cấp chính quyền địa phương, các tổ
chức đoàn thể, khu vực tư nhân và cộng đồng người dân để khai thác nguồn nội lực từ
cộng đồng nhân dân. Đặc biệt, dự án đã sử dụng thương mại điện tử như một công cụ hữu
hiệu để phát triển các sản phẩm truyền thống giúp tấn công nghéo đói, phát triển dân trí và
kinh tế vùng nông thôn.
1.3.2. Kinh nghiệm của một số địa phương ở Việt Nam
a) Kinh nghiệm đẩy mạnh xuất khẩu của Đồng Nai
Trong những năm qua, Đồng Nai đã nhanh chóng lựa chọn cho mình chiến lược
hướng về xuất khẩu. Xuất phát từ nhận thức nguồn lao động là vốn quý nhất của tỉnh vì
vậy tỉnh đã chú trọng khai thác nguồn lực quý báu này. Tỉnh đã lựa chọn một ngành nghề
phù hợp với tiềm năng của địa phương là sản xuất đồ gốm mỹ nghệ xuất khẩu. Các doanh
nghiệp chủ động nghiên cứu thị trường và lựa chọn khoảng trống của thị trường quốc tế và
quyết định sử dụng nguồn nhân lực dồi dào để sản xuất các sản phẩm với khối lượng lớn,
cần ít vốn đầu tư nhưng lại có khả năng tiêu thụ. Nhờ định hướng đúng đắn này Đồng Nai
không những đã phát triển kinh tế của tỉnh theo xu thế phát triển xuất khẩu mà còn giải
quyết được tình trạng đói nghèo. Trong chiến lược xuất khẩu hàng TCMN, Đồng Nai kết
hợp tốt các loại hình doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ trong sản xuất, xuất khẩu hàng TCMN.
ở Đồng Nai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ thích ứng với những biến động thị
trường, đôỉ mới công nghệ, tạo điều kiện huy động vốn của các chủ thể tham gia đầu tư
kinh doanh. Các doanh nghiệp này được trang bị kỹ thuật, máy móc nên năng suất lao
động cao và đảm bảo chất lượng xuất khẩu. Tỉnh sẽ hỗ trợ bất cứ người dân nào có ý định
thành lập doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu.
Ngoài những chính sách chung của Nhà nước khuyến khích xuất khẩu, Đồng Nai
còn đưa ra một số chính sách tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu như: chính sách hỗ trợ
nguồn vốn, miễn giảm thuế cho các ngành sản xuất xuất khẩu hoặc liên quan đến xuất
khẩu, cấp tín dụng đối với lãi suất thấp cho các ngành ưu tiên xuất khẩu.
b) Kinh nghiệm đẩy mạnh xuất khẩu tỉnh Thái Bình
Thái Bình là tỉnh nằm ở đồng bằng châu thổ sông Hồng với 80% dân số làm nông
nghiệp, trong những năm qua để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá tỉnh Thái Bình đã ban hành
nhiều cơ chế chính sách để hỗ trợ sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt trong lĩnh vực
phát triển ngành nghề thủ công để sản xuất hàng TCMN xuất khẩu, tỉnh đã thành lập quỹ
khuyến công nhằm khuyến khích các ngành công nghiệp và công nghiệp nhẹ trong tỉnh,
trong đó có ngành nghề thủ công. Ngân sách cho quỹ được trích từ ngân sách hàng năm
của tỉnh. Quỹ sẽ được sử dụng để hỗ trợ xây dựng dự án, tổ chức điều tra và xây dựng
chính sách về phát triển công nghiệp và làng nghề, hỗ trợ chuyển giao công nghệ và phát
triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, hỗ trợ xúc tiến thương mại, hỗ trợ
cho các tổ chức tư vấn và tài trợ vốn cho áp dụng công nghệ mới vào sản xuất.
Tỉnh uỷ Thái Bình đã ra Nghị quyết về phát triển làng nghề và nghề đã xác định lựa
chọn các chính sách đối với các biện pháp phát triển, bao gồm:
- Khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế và doanh nghiệp có vốn và kinh
nghiệm về kinh doanh đầu tư phát triển nghề và làng nghề.
- Tập hợp các biện pháp thâm nhập và mở rộng thị trường ở cả trong nước và nước
ngoài cho các sản phẩm của làng nghề.
- Tăng cường đào tạo nghề.
- Khuyến khích phát triển HTX, doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH.
Khuyến khích đầu tư áp dụng tiến bộ công nghệ vào sản xuất.
- Gắn làng nghề với du lịch và bảo vệ môi trường làng nghề.
Trên cơ sở đó Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành quy định phát triển nghề và làng
nghề và các biện pháp hỗ trợ bao gồm ưu đãi vốn và hỗ trợ đầu tư; đất cho sản xuất tập
trung, ưu đãi thuế; cung cấp và tìm kiếm thông tin thị trường bao gồm thành lập các Trung
tâm xúc tiến thương mại; hỗ trợ công nghệ, môi trường và hạ tầng; tổ chức cho các nghệ
nhân đào tạo nghề.
Bên cạnh các chính sách và quy định trên, tỉnh đã quyết định dành ngân sách tỉnh
cho quỹ khuyến công bao gồm hỗ trợ cho các làng nghề và ban hành Quyết định khuyến
khích đầu tư vào Thái Bình. Công tác triền khai chính sách toàn diện và tích cực phục vụ
phát triển ngành nghề và làng nghề ở tỉnh Thái Bính đã làm cho các làng nghề phát triển,
đặc biệt xuất khẩu hàng TCMN đã có sự tăng trưởng khá.
1.3.3. Bài học kinh nghiệm đẩy mạnh xuất khẩu hàng TCMN cho Thanh Hoá
Từ kinh nghiệm quốc tế và trong nước, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm
cho Thanh Hoá như sau:
- Lựa chọn cho mình chiến lược hướng về xuất khẩu, xác định các mặt hàng có thế
mạnh của địa phương sử dụng nhiều lao động. Tỉnh cần xác định cho được ngành nghề phù
hợp với địa phương là sản xuất và xuất khẩu hàng TCMN.
- Phải tạo ra được những đặc điểm riêng biệt cho sản phẩm của địa phương để hàng
hoá có thể thâm nhập thị trường quốc tế, đáp ứng được tiêu chuẩn về vệ sinh và chất lượng
quốc tế.
- Phát huy những tri thức của địa phương (các nghệ nhân, thợ lành nghề) để sáng tạo ra
những sản phẩm và hàng hoá có tính đặc thù, làm sống lại, phục hồi và phát huy các làng nghề
truyền thống trong tỉnh để giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động cũng như phát
triển kinh tế địa phương.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp địa phương và các làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ
nghệ phát triển và cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Điều này được thực
hiện thông qua việc hỗ trợ thiết kế và phát triển sản phẩm để theo kịp thay đổi thị trường.
- Sự quan tâm, khuyến khích phát triển xuất khẩu của tỉnh cũng như ban hành một
số cơ chế chính sách tạo điều kiện cho xuất khẩu như: hỗ trợ nguồn vốn, miễn giảm thuế
cho các ngành sản xuất xuất khẩu hoặc liên quan đến xuất khẩu, cấp tín dụng với lãi xuất
thấp cho các ngành ưu tiên xuất khẩu.
- ổn định về chính trị, an ninh xã hội được giữ vững tạo được niềm tin và sự an toàn
cho các nhà đầu tư và bạn hàng.
Chương 2
Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
của tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2001 - 2007
2.1. Tình hình phát triển hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội
a) Vị trí địa lý tự nhiên
Thanh Hoá thuộc vùng Bắc Trung bộ, có vị trí địa lý từ 19018’ đến 20040’ vĩ độ bắc
và từ 104020’ đến 10605’ kinh đông. Phía Bắc giáp với tỉnh Hoà Bình, Sơn La và Ninh
Bình; phía Nam giáp tỉnh Nghệ An; phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước CHĐCN Lào) và
phía Đông giáp biển đông với chiều dài bờ biển 102 Km. Chiều rộng từ Tây sang Đông là
110 Km, từ Bắc xuống Nam là 100 Km, cách thủ đô Hà Nội gần 150 Km, thành phố Đà
Nẵng 610 Km, thành phố Hồ Chí Minh 1.560 Km.
Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 11.112 Km2, là tỉnh có miền núi, vùng cao-biên
giới, vùng đồng bằng và ven biển. Dân số toàn tỉnh 3,62 triệu người, chiếm 4,46% về dân
số và 3,4% về diện tích cả nước. Thanh Hoá nằm ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với
Trung Bộ và Nam Bộ, có đường quốc lộ IA và đường sắt xuyên Việt Bắc Nam, quốc lộ
45,47,10 chạy qua các vùng, miền trong tỉnh; đường chiến lược 15A và đường Hồ Chí
Minh xuyên suốt vùng trung du và miền núi của tỉnh và các miền trong cả nước; đường
217 nối liền tỉnh Thanh Hoá với tỉnh Hủa Phăn của nước bạn Lào; cảng nước sâu Nghi
Sơn cho tàu 10.000 tấn trở lên ra vào, là cửa ngõ của Thanh Hoá và khu vực thông thương
với nước ngoài; sân bay Sao Vàng có khả năng mở rộng kết hợp dịch vụ dân dụng.
b) Nguồn nhân lực
Dân số năm 2005 của tỉnh là 3.674.838 người, trong đó dân số thành thị chiếm
9,75%, dân số nông thôn chiếm 90,25%; dân số 11 huyện miền núi 876.049 người chiếm
24% dân số của tỉnh. Nguồn lao động hiện có 2.270.104 người chiếm 61,3% dân số; lao
động đang tham gia lao động trong nền kinh tế quốc dân có 1.987.132 người, riêng miền
núi 507.772 người chiếm 58% dân số miền núi.
- Cơ cấu lao động trong các lĩnh vực:
Nông Lâm Ngư nghiệp 71,83%; Công nghiệp Xây dựng Giao thông vận tải
12,09%; Dịch vụ 16,08%. Riêng miền núi: Nông Lâm nghiệp 82,90%, Công nghiệp Xây
dựng Giao thông vận tải 9,4%, Dịch vụ 7,7%.
- Chất lượng lao động:
+ Trình độ văn hóa: Đã tốt nghiệp từ tiểu học trở lên đạt 95,81%
+ Trình độ chuyên môn kỹ thuật: Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 27%, trong đó Cao
đẳng, Đại học, Trung cấp trở lên 10%; Dạy nghề 17% (trong đó dài hạn 5,2%, ngắn hạn
11,8%). Riêng Miền núi trình độ văn hóa tốt nghiệp từ tiểu học trở lên 87,15%, lao động
qua đào tạo mới đạt khoảng 18,3% tổng số lao động của miền núi, trong đó 9,52% được
đào tạo cơ bản có bằng tốt nghiệp; trình độ Trung cấp, Cao đẳng, đại học chỉ chếm 3% lao
động qua đào tạo. Người Thanh Hóa có truyền thống cần cù, có tinh thần vượt khó, thông
minh sáng tạo, có khả năng nắm bắt khoa học, kỹ thuật hiện đại, có khả năng thích ứng với
những tình huống phức tạp. Đây là lợi thế cơ bản, là tiền đề quan trọng để Thanh Hóa đẩy
mạnh xuất khẩu và tiến hành CNH, HĐH. Tuy nhiên cũng cần phải nhận thấy rằng có
nguồn lực lao động nhiều chưa chắc đã mạnh, mà lao động cần phải có trình độ nhất định
đáp ứng được đòi hỏi của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại hiện nay.
c) Về phát triển kinh tế
Trong giai đoạn 2001 - 2005, tố độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của
Thanh Hoá đạt 9,1%, cao hơn mức tăng trưởng bình quân thời kỳ 1996 - 2000 (7,3%);
GDP bình quân đầu người năm 2005 đật 430 USD, tăng 1,5 lần so với năm 2000; giá trị
gia tăng nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân 4,4%/năm, sản lượng lương thực năm 2005
đạt 1.484.012 tấn, đàn bò tăng 7,5%/năm, đàn lợn tăng 4,7%/năm, giá trị sản xuất thuỷ sản
tăng bình quân hàng năm 11,3%; Giá trị gia tăng công nghiệp - xây dựng tăng bình quân
15,5%/năm, tăng 1,7% so với thời kỳ 1996 - 2000; giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng
bình quân hàng năm 9,1% (tăng 1,9% so với thời kỳ 1996 - 2000), giá trị xuất khẩu hàng
năm tăng bình quân 23,3%, năm 2005 xuất khẩu đạt 105,3 triệu USD, tăng gấp 2,8 lần so
với năm 2000. Thu ngân sách trên địa bàn từ năm 2003 đạt trên 1 ngàn tỷ đồng, năm 2005
đạt 1.329 tỷ đồng (gấp 2,3 lần so với năm 2000). Tổng mức bán lẻ thị trường xã hội năm
2001 đạt 4.130 tỷ đồng đến năm 2005 đạt 7.000 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân hàng năm
đạt 12,4%.
Cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ trong GDP
năm 2005 là: 31,2% - 35,1% - 33,7%. Trong nông nghiệp năm 2005 tỷ trọng giá trị sản
xuất ngành chăn nuôi chiếm 27,1% (tăng 9,8% so với năm 2000), tỷ trọng thuỷ sản 9,28%
năm 2000 tăng lên 12% năm 2005; trong công nghiệp tỷ trọng công nghiệp chế biến có xu
hướng tăng, nhiều cơ sở công nghiệp lớn tiếp tục mở rộng quy mô và xây dựng mới đưa
vào sản xuất, tăng giá trị và khối lượng sản phẩm; các hoạt động dịch vụ đa dạng và mở ra
nhiều dịch vụ mới đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm đạt 21,3 ngàn tỷ đồng, tăng bình quân
hàng năm 11% và tăng 45% so với thời kỳ 1996 - 2000, trong đó vốn ngân sách nhà nước
25%, vốn tín dụng 15%, vốn doanh nghiệp nhà nước 5%, vốn đầu tư nước ngoài 8%, vốn
khu vực dân cư và các thành phần kinh tế khác 47%. Nhiều dự án quan trọng đã và đang
được xây dựng như: Cảng Nghi Sơn, đường ra cảng, đường Mục Sơn - cửa Đạt, đường Hồ
Chí Minh, công trình thuỷ lợi thuỷ điện Cửa Đạt, khách sạn Sao Mai, Khu công nghiệp
Tây Bắc ga thành phố Thanh Hoá, trường Đại học Hồng Đức, bệnh viện Đa khoa, Bệnh
viện Phụ sản, Bệnh viện nhi, trung tâm truyền hình kỹ thuật số... Cơ sở vật chất trường
học, y tế được tăng cường. Đã có hơn 56,5% số phòng học được kiên cố hoá; 100% số
huyện, thị xã, thành phố, 100% số phường, thị trấn, 96,6% số xã có điện lưới. Đến năm
2005 có 560 xã có điểm bưu điện - văn hoá xã, 100% số xã, phường, thị trấn miền xuôi và
nhiều xã miền núi có máy điện thoại, đưa mật độ thuê bao lên 5,9 máy/100 dân. Tăng
nhanh số lượng doanh nghiệp (năm 2005 có 2.204 doanh nghiệp). Kinh tế hợp tác được
đổi mới phát triển đa dạng (hiện có 991 HTX, trong đó thành lập mới 534 HTX, 26.185 tổ
hợp tác); kinh tế hộ, kinh tế cá thể ngày càng phát triển. Mô hình kinh tế trang trại phát
triển cả về số lượng, quy mô, hiệu quả (hiện có 3.351 trang trại).
Hoạt động khoa học, công nghệ tập trung nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật
vào sản xuất và đời sống; xây dựng nhiều mô hình tiên tiến đem lại hiệu quả kinh tế - xã
hội thiết thực.
* Giá trị xuất khẩu giai đoạn 2001 - 2005
Được sự quan tâm của Tỉnh Uỷ, HĐND, UBND tỉnh, các ngành, các cấp, hoạt
động xuất khẩu tăng trưởng cả về kim ngạch, số lượng, chủng loại hàng hoá và thị trường,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, giải quyết công ăn việc làm, tác động vào
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tăng dần các ngành công nghiệp chế biến
và dịch vụ phục vụ xuất khẩu, từng bước chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo nhu cầu thị
trường. Một số cơ sở sản xuất mới đã được đầu tư thêm góp phần làm tăng giá trị và
chuyển đổi cơ cấu hàng xuất khẩu; công tác tìm kiếm thị trường, xúc tiến thương mại bước
đầu được quan tâm; có thêm nhiều doanh nghiệp tham gia sản xuất hàng hoá và xuất khẩu;
tinh thần chủ động vươn lên của một số doanh nghiệp, sự tham gia của đông đảo người lao
động sản xuất, cung ứng nguyên liệu và chế biến sản phẩm xuất khẩu; ý thức hướng ngoại
trong xu thế hội nhập của các doanh nghiệp ngày càng được khẳng định và trở thành ý thức
của nhiều doanh nghiệp.
- Về kim ngạch xuất khẩu: Tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu của Thanh
Hoá 5 năm 2001-2005 đạt 377,039 triệu USD, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm
23,25%, bằng 287,3% so với thời kỳ 1996-2000; Mức xuất khẩu bình quân đầu người tăng
từ 12,8 USD năm 2001 lên 28,6 USD năm 2005, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân đầu
người giai đoạn 2001-2005 là 21,9%/năm.
- Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu: Nông sản, lâm sản và thực phẩm chiếm tỷ trọng
23,3%; thuỷ hải sản chiếm tỷ trọng 26,1%; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ
trọng 23,9%; khoáng sản, vật liệu xây dựng chiếm tỷ trọng 14,5 %; dịch vụ thu ngoại
tệ chiếm tỷ trọng 12,2%. Nhìn chung các mặt hàng xuất khẩu của tỉnh trong giai
đoạn2001-2005 chủ yếu là sản phẩm nông lâm ngư nghiệp (chiếm 49,4%), hàng hoá chủ
yếu là sơ chế, hàm lượng công nghệ và chất xám trong sản phẩm thấp.
- Về giá cả và thị trường xuất khẩu:
+ Về giá cả: Giá các mặt hàng xuất khẩu thơi gian qua nhìn chung thấp hơn mức
giá bình quân trên thị trường thế giới. Hầu hết các mặt hàng đều có biến động giá, trong
khi đó có một số mặt hàng giá rớt đáng kể, mặt hàng biến động giá nhất là đá ốp lát, quặng
cromite...
+ Về thị trường xuất khẩu: Thời kỳ 2001-2005 các doanh nghiệp Thanh Hoá đã
thiết lập quan hệ bạn hàng với 26 thị trường các nước và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, giá trị
xuất khẩu còn nhỏ bé, số lượng và chủng loại mặt hàng còn ít, thị trường chủ yếu vẫn là
Châu Âu, các nước Đông Nam á, Đông Bắc á và Trung Quốc.
- Về doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu: Thời kỳ 2001-2005 số doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu hàng hoá có tăng lên nhưng không nhiều (chỉ có 73/2.204
doanh nghiệp toàn tỉnh), các doanh nghiệp hầu hết có quy mô nhỏ, năng lực quản lý, vốn
đầu tư, mức độ am hiểu pháp luật, sức cạnh tranh trên thị trường yếu kém, sự hỗ trợ của
nhà nước chưa đủ mạnh.
- Về cơ chế điều hành xuất nhập khẩu và chính sách khuyến khích xuất khẩu: Nhà
nước đã mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho thương nhân, giảm dần hàng rào
phi thuế quan, hạn chế cơ chế xin cho, giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày
31/7/1998 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu,
gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá
thời kỳ 2001 - 2005; Thông tư số 11/2001/TT-BTM ngày 18/4/2001 hướng dẫn thực hiện
Quyết định số 45/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001; Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày
23/1/2006 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua
bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với
nước ngoài; Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 4/4/2006 Quy định chi tiết Luật Thương
mại về hoạt động xúc tiến thương mại; các chương trình hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, trợ cấp,
trợ giá, ban hành chính sách hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại và thưởng khuyến
khích xuất khẩu tương đối thông thoáng.
Thanh Hoá đã có sự quan tâm hơn đến công tác xuất khẩu: Nhìn chung, chính sách
khuyến khích xuất khẩu đã ban hành tuy chưa đồng bộ nhưng cũng có tác dụng kích thích
phát triển xuất khẩu. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã ra Nghị quyết số 02-
NQ/TU ngày 24/01/2002 về phát triển xuất khẩu. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá đã có
Quyết định số 2116/2002/QĐ-UB ngày 27/6/2002 về việc ban hành chương trình phát
triển xuất khẩu tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2002-2005, Quyết định số 3431/2002/QĐ-UB
ngày 21/10/2002 về “chính sách khuyến khích phát triển xuất khẩu”, Quyết định số
467/2003/QĐ-UB ngày 12/2/2003 về việc ban hành Quy định tạm thời về một số chính
sách khuyến khích phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã
khuyến khích các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, làng nghề đẩy mạnh sản xuất, chế biến
hàng xuất khẩu, đẩy mạnh công tác tìm kiếm thị trường, bạn hàng.
Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu so với tiểm năng, thế mạnh và yêu cầu phát triển
kinh tế của tỉnh vẫn còn yếu kém. Quy mô sản xuất hàng xuất khẩu còn quá nhỏ, chưa tạo
được những mặt hàng chủ lực, có sức cạnh tranh. Xuất khẩu nguyên liệu thô và tài nguyên
khoáng sản còn chiếm tỷ trọng lớn, kết quả xuất khẩu chưa vững chắc, thiếu tính ổn định,
bền vững. Giá trị xuất khẩu của tỉnh còn quá nhỏ bé so với tổng kim ngạch xuất khẩu toàn
quốc; thị trường xuất khẩu còn hạn hẹp và thiếu ổn định; công tác đầu tư và xúc tiến
thương mại chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa như mong muốn; công tác quy
hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu và cơ sở chế biến hàng xuất
khẩu còn bộc lộ nhiều bất cập. Trong quan hệ mua bán luôn bị khách hàng ép cấp, ép giá.
Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có giá trị xuất khẩu lớn nhiều năm không đạt kế hoạch
đề ra như: tôm, hải sản đông lạnh, rau quả...; trình độ tay nghề của người lao động qua đào
tạo chiếm tỷ lệ thấp, đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề bậc cao thiếu, ý thức tổ chức
kỷ luật, tác phong công nghiệp kém.
Quản lý Nhà nước về xuất khẩu còn nhiều hạn chế, các ngành, các cấp chưa
nhận thức thấu đáo, chưa thấy rõ trách nhiệm của ngành, cấp mình để phối hợp quản lý
và tổ chức thực hiện. Chỉ đạo, điều hành của chính quyền đối với công tác xuất khẩu
còn nhiều lúng túng; công tác quy hoạch, kế hoạch về xuất khẩu còn nhiều bất cập,
chưa bắt kịp xu hướng của nền kinh tế thị trường và Hội nhập quốc tế. Môi trường đầu
tư và tổ chức kinh doanh xuất khẩu còn nhiều khó khăn, ách tắc; chưa tháo gỡ kịp thời
các vướng mắc; lợi thế vận tải sông biển chưa được phát huy; các dịch vụ hỗ trợ xuất
khẩu chưa được quan tâm nghiên cứu và khuyến khích phát triển; Việc vận dụng cơ
chế, chính sách của Nhà nước; ban hành và tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách
khuyến khích xuất khẩu của địa phương còn chậm. Các doanh nghiệp phần lớn quy mô
nhỏ, vốn ít, phương pháp quản lý, hình thức mẫu mã và chất lượng tiêu chuẩn kỹ thuật
của sản phẩm chưa thích hợp với yêu cầu chung của thị trường, năng lực cạnh tranh
quốc tế thấp; nhiều doanh nghiệp chưa có chiến lược kinh doanh dài hạn, chưa đầu tư
nghiên cứu thị trường, tạo sản phẩm mới, chưa ý thức đầy đủ về đầu tư xây dựng
thương hiệu cho doanh nghiệp, tinh thần hợp tác để khắc phục nhược điểm, phát huy thế
mạnh còn kém.
Bảng 2.1: Giá trị xuất khẩu của tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 2001 - 2005
Đơn
vị
tính
Thực hiện qua các năm Tổng
số
5 năm
thời
kỳ
2001 -
05
So
sánh
thời
kỳ
1996
-
2000
bằng
(%)
Tốc
độ
tăng
giảm
BQ
năm
(%)
2001 2002 2003 2004 2005
A. Tổng giá trị
hàng xuất khẩu
1000
USD
45.52
0
57.57
6
73.11
3
95.83
0
105.0
00
377.03
9
287,3 23,2
5
Chiếm tỷ trọng
trong toàn quốc
%
0,26
0,27
0,36
0,37
0,34
0,33
Phân theo tính
chất XK:
XK chính ngạch 1000
USD
36.20
1
41.39
8
50.84
5
63.21
5
61.04
0
252.69
9
281,2 18,8
XK tiểu ngạch 1000
USD
7.903 11.95
7
15.13
8
21.11
5
22.61
0
78.723 190,2 15,3
Dịch vụ thu
ngoại tệ
1000
USD
1.416 4.221 7.130 11.50
0
21.60
0
45.867
Phân theo
nguồn hàng
Hàng địa phương 1000
USD
44.02
0
54.47
6
69.11
3
90.20
5
103.8
53
361.66
7
311,8 24,3
5
Hàng mua tỉnh 1000 1.500 3.100 4.000 5.625 1.147 15.372 100,8 -
khác USD 10,5
5
B. Tổng kim
ngạch XK toàn
quốc
Triệu
USD
17.52
4
19.45
6
22.40
0
26.00
3
30.50
0
115.88
3
223,5
16
C. XK BQ đầu
người
Của tỉnh Thanh
Hoá
USD
12,8 16 20,2 26,3 28,6 103,9 275 21,9
Của toàn quốc
USD
222,4 243,1 275,9 316,6 365,9 1.423,
9
209,4 14,5
BQ của tỉnh so
vớ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.pdf