Tài liệu Luận văn Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang: LUẬN VĂN:
Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành,
tỉnh An Giang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân và là một
bộ phận trọng yếu của tái sản xuất xã hội. Phát triển nông nghiệp luôn giữ một vị trí
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, nhất là đối
với nước ta khi sản xuất nông nghiệp hiện còn đang chiếm 20,9% GDP, thu hút 56,8%
lực lượng lao động xã hội và đóng góp hơn 30% giá trị xuất khẩu của cả nước.
Để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, đạt hiệu quả cao và bền vững,
việc hoàn thiện và xác định một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý, phù hợp với xu
hướng phát triển chung của nền kinh tế không chỉ là yêu cầu có tính khách quan, mà
còn là một trong những nội dung chủ yếu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Nghị
quyết 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về đẩy nhanh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp,...
94 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1083 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành,
tỉnh An Giang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân và là một
bộ phận trọng yếu của tái sản xuất xã hội. Phát triển nông nghiệp luôn giữ một vị trí
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, nhất là đối
với nước ta khi sản xuất nông nghiệp hiện còn đang chiếm 20,9% GDP, thu hút 56,8%
lực lượng lao động xã hội và đóng góp hơn 30% giá trị xuất khẩu của cả nước.
Để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, đạt hiệu quả cao và bền vững,
việc hoàn thiện và xác định một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý, phù hợp với xu
hướng phát triển chung của nền kinh tế không chỉ là yêu cầu có tính khách quan, mà
còn là một trong những nội dung chủ yếu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Nghị
quyết 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về đẩy nhanh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010 đã chỉ rõ:
CNH, HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và
thị trường; ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ
sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông
sản hàng hóa [12, tr.1].
Với tinh thần nêu trên, nhiều chính sách mới trong nông nghiệp được triển khai,
đã thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông nghiệp cả nước chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng
hóa, một số nông sản phục vụ xuất khẩu tăng nhanh, góp phần nâng cao giá trị sản
xuất trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp và tăng thu nhập cho nông dân. Tuy
nhiên, so với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nhất là đứng trước những
đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế sâu, rộng như hiện nay, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp cả nước, khu vực đồng bằng sông Cửu Long cũng như của tỉnh An Giang trong
thời gian qua nhìn chung chuyển dịch còn chậm, chưa phát huy hết tiềm năng và lợi
thế của từng vùng nên hiệu quả chuyển dịch chưa cao. Cụ thể là quy mô, địa bàn sản
xuất của hầu hết các nông sản hàng hóa chủ lực còn phân tán, phát triển theo chiều
rộng là chính, hàm lượng khoa học và công nghệ đưa vào sản phẩm còn ít, dẫn đến
năng suất và chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước
và quốc tế yếu...
Châu Thành là một trong 11 huyện, thị của tỉnh An Giang, nằm ở phía Tây sông
Hậu, thuộc khu vực tứ giác Long Xuyên; có diện tích tự nhiên là 35.506 ha (trong đó
diện tích đất nông nghiệp chiếm 86,9%), dân số 176.782 người, với phần lớn người
dân sống bằng nghề nông nghiệp, đời sống khó khăn, cơ sở vật chất còn thiếu thốn.
Trong những năm qua, kinh tế nông nghiệp của huyện đã có những chuyển biến
tích cực, nhiều vùng đất trước đây chưa được khai thác, hoặc khai thác chưa có
hiệu quả nay đã được sử dụng tương đối hiệu quả vào các lĩnh vực kinh tế khác
nhau... Tuy nhiên, so với tiềm năng và nguồn lực của huyện thì tốc độ phát triển
kinh tế nông nghiệp còn thấp, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch chậm, chưa
hợp lý. Do vậy, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện nhằm
khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế, tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá
trên thị trường trong nước và quốc tế, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp,
nâng cao đời sống của nông dân, đóng góp tích cực vào quá trình CNH, HĐH của
tỉnh là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong bối cảnh hiện nay.
Với lý do đó, tác giả chọn đề tài: Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang để viết luận văn thạc sĩ Kinh doanh
và quản lý, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nói riêng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Dưới đây là
một số công trình nghiên cứu tiêu biểu:
- Bùi Tất Thắng, 1994: Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công
nghiệp hoá của NIEs Đông Nam Á và Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Thạo: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở An Giang, tạp chí
Nghiên cứu lý luận, số 2-1995.
- Bùi Tất Thắng, 1996: Những nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá của Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
- Lê Đình Thắng, 1998: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn - Những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
- Đặng Kim Sơn – Hoàng Thu Hoà, 2002: Một số vấn đề về phát triển nông
nghiệp và nông thôn, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- Lê Huy Ngọ, 2002: Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Lâm Quang Huyên, 2002: Nông nghiệp, nông thôn Nam bộ hướng tới thế kỷ
XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Đinh Phi Hổ, 2003: Kinh tế nông nghiệp – Lý luận và thực tiễn, Nxb Thống
kê, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Minh Châu, 2004: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long những năm đầu thế kỷ XXI, Hội thảo khoa học vì
sự phát triển đồng bằng sông Cửu Long.
- Bùi Tất Thắng, 2006: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói
riêng. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu sâu và hệ thống về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Đề xuất giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang giai đoạn từ nay đến năm 2010 và
2015.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn
tập trung giải quyết một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện;
- Phân tích, đánh giá một cách hệ thống thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, chỉ ra những thành công, hạn chế và
nguyên nhân;
- Đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp huyện Châu Thành trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang giai đoạn 1995-2007. Các
giải pháp và kiến nghị mà luận văn dự kiến đề xuất chủ yếu thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của chính quyền huyện Châu Thành, tỉnh An Giang và cơ quan quản lý nhà nước
các cấp có liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận văn dựa trên
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sử dụng tổng
hợp một số phương pháp như thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp, tổng kết thực
tiễn… Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên
cứu liên quan, đồng thời dựa vào các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính
sách của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
6. Đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn có những đóng góp chủ yếu sau đây:
- Góp phần hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
huyện Châu Thành, tỉnh An Giang;
- Đề xuất được phương pháp và một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang theo hướng
CNH, HĐH trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN CẤP HUYỆN
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
1.1.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Để hiểu khái niệm cơ cấu kinh tế, trước hết cần làm rõ khái niệm cơ cấu.
Theo quan điểm triết học duy vật biện chứng, cơ cấu là một khái niệm dùng để chỉ
cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất của các mối
quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó. Trong khi chỉ rõ mối quan hệ
biện chứng giữa bộ phận và tổng thể, cơ cấu biểu hiện ra như là một thuộc tính của
sự vật, hiện tượng và biến đổi cùng với sự biến đổi của sự vật, hiện tượng. Như
vậy, có thể thấy có nhiều trình độ, nhiều kiểu tổ chức cơ cấu của khách thể và các
hệ thống [29, tr.28].
Nền kinh tế quốc dân là một hệ thống phức tạp, được cấu thành bởi nhiều bộ
phận khác nhau. Đồng thời giữa chúng luôn có quan hệ biện chứng với nhau trong quá
trình vận động và phát triển. Sự vận động và phát triển của nền kinh tế còn chứa đựng
sự thay đổi của chính bản thân các bộ phận và cách thức quan hệ giữa chúng với nhau
trong mỗi thời điểm và trong mỗi điều kiện khác nhau. Do đó, có thể khái quát cơ cấu
kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành cùng với những mối quan hệ về chất lượng
và số lượng giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế trong không gian, thời gian và
điều kiện kinh tế, xã hội nhất định.
Cơ cấu kinh tế là kết quả của sự phân công lao động xã hội, được bắt đầu từ
việc tăng năng suất lao động và sự phát triển của các mối quan hệ trao đổi hàng hóa,
tiền tệ.
Cơ cấu kinh tế phản ánh sự tương tác sống động giữa các yếu tố của lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó vai trò quyết định là sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
Sự cân đối, đồng bộ giữa các bộ phận trong cơ cấu kinh tế xét trên quan điểm
hệ thống với các cấp độ khác nhau, gắn với thời gian, không gian và đặc điểm chính
trị, kinh tế - xã hội nhất định có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm tái sản xuất và
phát triển cả về kinh tế và xã hội.
Như vậy, bản chất của cơ cấu kinh tế là sự biểu hiện của các mối quan hệ giữa
các yếu tố của quá trình sản xuất xã hội, đó là mối quan hệ của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, nhưng không đơn thuần chỉ là những quan hệ về mặt số lượng và tỷ
lệ giữa các yếu tố - biểu hiện về lượng hay sự tăng trưởng của hệ thống, mà là những
mối quan hệ bên trong và bên ngoài của các yếu tố đó - biểu hiện về chất hay sự phát
triển của hệ thống [34, tr.11].
Cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế, phản ánh mối quan hệ khách quan giữa
các yếu tố, các bộ phận hợp thành nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế luôn gắn với phương thức sản xuất nhất định và một nền kinh tế
nhất định. Nó bao gồm nhiều yếu tố cấu thành và tùy theo mục đích phân tích mà có
sự phân loại các yếu tố đó một cách tương ứng. Song, về cơ bản, cơ cấu kinh tế được
xét trên 2 mặt, đó là mặt vật chất – kỹ thuật và mặt kinh tế - xã hội.
- Về mặt vật chất - kỹ thuật, bao gồm cơ cấu ngành nghề, loại hình tổ chức kinh
doanh, trình độ kỹ thuật, sự bố trí theo vùng lãnh thổ.
- Về mặt kinh tế - xã hội, bao gồm cơ cấu thành phần kinh tế, trình độ phát triển
quan hệ hàng hóa, tiền tệ, quan hệ thị trường.
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc
dân. Bản thân ngành nông nghiệp cũng là một hệ thống phức tạp với nhiều bộ phận
hợp thành. Theo đó, có thể hiểu cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể các yếu tố hợp
thành nền nông nghiệp theo những quan hệ nhất định cùng với sự tác động qua lại lẫn
nhau gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể (điều kiện tự nhiên, trình độ công
nghệ, trình độ phân công lao động, trình độ tổ chức quản lý…) nhằm thực hiện có hiệu
quả những mục tiêu đã định.
Cũng như cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính
khách quan, lịch sử, xã hội và luôn gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất,
sự phân công lao động xã hội… chuyển dịch từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp
dưới tác động của quy luật tự nhiên, kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, cơ
cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng chịu tác động của quy luật
cung cầu, giá trị và cạnh tranh. Do vậy, xây dựng cơ cấu kinh tế nông nghiệp không
thể duy ý chí, mà phải nhận thức đúng đắn sự vận động của quy luật khách quan, vận
dụng sáng tạo trong điều kiện cụ thể.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp hình thành, biến đổi gắn liền với sự phát triển của
cơ chế thị trường, từ kinh tế tự nhiên dần dần chuyển thành kinh tế hàng hóa, quá trình
này tác động và thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển đa dạng và năng động theo
hướng tiên tiến.
1.1.2. Các cách tiếp cận cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau:
Cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp: Được thể hiện ở những mối quan
hệ, tỷ lệ giữa các phân ngành trong ngành nông nghiệp (nông-lâm-ngư-diêm
nghiệp…). Trong quá trình phát triển, tương quan giữa các phân ngành trong cơ cấu
kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp sẽ có những chuyển biến quan trọng theo hướng đa
dạng hoá sản xuất. Đó chính là sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động
xã hội trong sản xuất nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp phản ánh sự phân công lao động theo
hướng chuyên môn hóa sản xuất, được hình thành dựa trên mối quan hệ giữa các đối
tượng khác nhau của nền sản xuất, sản xuất càng phát triển thì tập hợp ngành kinh tế
càng đa dạng. Xem xét cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp không chỉ dựa trên
chỉ tiêu giá trị, mà còn phải phân tích chỉ tiêu lao động, chỉ tiêu vốn đầu tư… Tổng
hợp các chỉ tiêu đó phản ánh thực trạng cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp.
Cơ sở của cơ cấu ngành là sự phân công lao động xã hội; phân công lao động
xã hội càng sâu sắc thì cơ cấu ngành càng được phân chia đa dạng. Tiền đề của sự
phân công lao động trong nông nghiệp là năng suất lao động nông nghiệp. Trước hết,
năng suất lao động của khu vực sản xuất lương thực phải đạt tới một giới hạn nhất
định, đảm bảo đủ lương thực cần thiết cho xã hội. Đây là cơ sở quan trọng cho sự phân
công giữa những người sản xuất lương thực với những người chăn nuôi và các ngành
nghề khác trong nông nghiệp.
Cơ cấu thành phần kinh tế: Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau
trong nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng là một tất yếu khách quan trên
con đường đi lên của đất nước. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là
bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta gồm:
Kinh tế nhà nước: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất
quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều
kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Doanh nghiệp nhà nước là bộ
phận quan trọng của kinh tế nhà nước, được củng cố và phát triển trong các ngành và
lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế, đảm đương hoạt động mà các thành
phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư kinh doanh. Trong
nông nghiệp, nông thôn, kinh tế nhà nước cần tập trung vào các lĩnh vực quy hoạch
sản xuất, cơ giới hóa, phát triển thủy lợi và kết cấu hạ tầng nông thôn, hỗ trợ vốn và
khoa học công nghệ cho nông nghiệp; đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ
thuật; giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành công nghiệp chế biến nông sản,
cung ứng dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tham gia quản lý tài
nguyên.
Kinh tế tập thể: Kinh tế tập thể với hình thức phổ biến là kinh tế hợp tác xã và
tổ liên kết sản xuất là hình thức liên kết tự nguyện của người lao động, kết hợp sức
mạnh tập thể với sức mạnh của các thành viên để giải quyết có hiệu quả những vấn đề
sản xuất - kinh doanh và đời sống, phát triển trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng,
cùng có lợi, quản lý dân chủ. Bối cảnh phát triển hiện nay đòi hỏi phải chú trọng các
hình thức hợp tác và hợp tác xã cung ứng dịch vụ, vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho
kinh tế hộ gia đình và trang trại; mở rộng các hình thức kinh tế hỗn hợp, liên kết, liên
doanh giữa các hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; kinh tế
tập thể cùng với kinh tế nhà nước phải vươn lên nắm vai trò chủ đạo và trở thành nền
tảng của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế cá thể và tiểu chủ: Kinh tế cá thể và tiểu chủ được khuyến khích phát
triển ở cả thành thị, nông thôn, trong các ngành nghề không bị hạn chế, có thể tồn tại
độc lập hoặc tham gia vào các hợp tác xã, liên kết với doanh nghiệp bằng nhiều hình
thức. Trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta hiện nay, kinh tế hộ gia đình - một bộ
phận của kinh tế cá thể, tiểu chủ - đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nước khuyến
khích phát triển trang trại hộ gia đình nhằm khai thác đất trống, đồi núi trọc, mặt nước
và đất hoang hóa để phát triển sản xuất.
Kinh tế tư bản tư nhân: Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển
không hạn chế về quy mô trong những ngành nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật
không cấm; được khuyến khích hợp tác, liên doanh với nhau và liên doanh với doanh
nghiệp nhà nước, chuyển thành doanh nghiệp cổ phần và bán cổ phần cho người lao
động.
Kinh tế tư bản nhà nước: Kinh tế tư bản nhà nước tồn tại dưới các hình thức
liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước, hình thức này
phát triển ngày càng đa dạng.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận
của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào sản xuất -
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, hàng hóa và dịch vụ có công nghệ cao, xây
dựng kết cấu hạ tầng.
Cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ: Cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ phản ánh sự phân
công lao động xã hội về mặt không gian, địa lý. Trong nông nghiệp, cơ cấu kinh tế
vùng, lãnh thổ dựa trên điều kiện riêng, đặc thù về tiềm năng, thế mạnh của mỗi vùng
trong phạm vi quốc gia hay các địa phương. Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ phản ánh sự
khác nhau về điều kiện sản xuất của mỗi vùng nhưng được đặt trong sự thống nhất
chung của toàn bộ nền nông nghiệp. Việc phân vùng kinh tế nông nghiệp theo vùng
lãnh thổ không đồng nghĩa với phân chia địa giới hành chính và là cơ sở quan trọng
cho việc hoạch định và thực thi chiến lược, kế hoạch và chính sách phát triển nông
nghiệp phù hợp với đặc điểm của từng vùng. Mục đích của phân vùng là nhằm khai
thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh, khắc phục mặt hạn chế của từng vùng trong
tổng thể chung của cả nước, tạo ra sự liên kết bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau giữa các
vùng. Quan trọng hơn là mở ra hướng chuyên canh sản xuất nông sản hàng hóa đặc
trưng của mỗi vùng với khối lượng lớn, năng suất cao, chất lượng tốt, thuận lợi cho
việc chế biến, vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm, góp phần phát triển nông nghiệp theo
hướng sản xuất mới, sản xuất hàng hóa đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế vùng, cần chú trọng tác động vĩ mô
của Nhà nước thông qua hệ thống các chủ trương, chính sách khuyến nông, xây dựng
kết cấu hạ tầng, chính sách thuế ưu đãi, chính sách trợ giá, tín dụng ưu đãi và những
thông tin cần thiết.
Cơ cấu kinh tế theo quy mô và trình độ công nghệ: Cơ cấu kinh tế xét theo
quy mô và trình độ công nghệ có vai trò rất quan trọng trong quản lý kinh tế. Cơ cấu
quy mô các cơ sở sản xuất - kinh doanh vừa nói lên mức độ tập trung hoá sản xuất của
nền kinh tế, vừa nói lên khả năng linh hoạt, mền dẻo của các loại hình tổ chức sản
xuất. Cơ cấu trình độ công nghệ phản ánh chất lượng và hàm lượng khoa học, công
nghệ và tri thức trong nền kinh tế. Trình độ công nghệ của sản xuất được đặc trưng bởi
đặc điểm của công nghệ sản xuất và quản lý. So với khu vực công nghiệp và dịch vụ,
trình độ công nghệ chung trong sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu. Tuy nhiên, sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ đã làm cho kỹ thuật về giống, phân bón, tưới
tiêu, bảo vệ thực vật… từng bước được đổi mới và áp dụng ngày càng có hiệu quả vào
sản xuất nông nghiệp. Quá trình cơ giới hoá nông nghiệp đã thâm nhập vào các khâu
làm đất, gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch, vận chuyển sản phẩm… làm cho năng suất lao
động ngày càng tăng. Đặc biệt, sự tác động của công nghiệp vào khâu chế biến đã làm
tăng chất lượng và giá trị hàng hoá của sản phẩm nông nghiệp, từ đó mang lại thu
nhập cao hơn cho người sản xuất nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế theo hình thức tổ chức sản xuất: Sự tồn tại của các thành phần
kinh tế trong nông nghiệp luôn gắn liền với các hình thức tổ chức sản xuất - kinh
doanh nhất định như kinh tế hộ nông dân tự chủ, hợp tác xã, trang trại, doanh nghiệp,
trạm giống, trạm kỹ thuật, các tổ chức khuyến nông… Việc lựa chọn các hình thức tổ
chức sản xuất trong nông nghiệp phải dựa trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản
xuất và các điều kiện thực tế cụ thể khác.
Ngoài các cách tiếp cận nói trên, cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn được xem xét
dưới các góc độ khác như lao động, thị trường, sản phẩm dưới hình thái hiện vật và
giá trị, trình độ xã hội hoá, trình độ phân công, hiệp tác trong nước và quốc tế…
1.1.3. Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Nông nghiệp là một hệ thống phức tạp gồm nhiều bộ phận có mối quan hệ hữu
cơ với nhau. Những bộ phận này được coi như là các phần tử trong một cấu trúc có sự
quan hệ mật thiết mà sự thay đổi của phần tử này hay sự biến đổi của một yếu tố làm
cho phần tử này thay đổi thì cũng làm cho các yếu tố khác của phần tử khác thay đổi
và kéo theo đó là những biến đổi của cấu trúc. Làm thay đổi các phần tử bên trong một
cấu trúc chính là làm thay đổi cơ cấu hay là chuyển dịch cơ cấu. Như vậy, có thể hiểu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là quá trình làm biến đổi cấu trúc và các mối
quan hệ tương tác trong hệ thống theo những định hướng và mục tiêu nhất định, nghĩa
là đưa hệ thống đó từ trạng thái này tới trạng thái khác tối ưu hơn thông qua sự quản
lý, điều khiển của con người theo đúng quy luật khách quan.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn liền với quá trình tái phân công
lao động xã hội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tạo ra hệ thống kinh tế nông
nghiệp hợp lý cho phép khai thác tối ưu các nguồn lực (vốn, tài nguyên, lao động, kỹ
thuật…), đảm bảo sự phát triển cân đối, ổn định, bền vững, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý tạo điều kiện để ngành nông
nghiệp nhanh chóng thích ứng với yêu cầu hội nhập và mở rộng hợp tác quốc tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý góp phần duy trì có hiệu quả
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý góp phần thực hiện thành công
quá trình CNH, HĐH, thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, từng bước chuyển
sang nền kinh tế tri thức.
1.1.4. Tính tất yếu phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong quá
trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nghĩa là có sự thay đổi ngành nghề sản
xuất - kinh doanh, các khâu, các bộ phận vốn có của nông nghiệp, có sự thay đổi quan
hệ, tỷ lệ giữa chúng và có sự thay đổi cách tổ chức, bố trí các nguồn nhân lực, vật lực.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng là sự thay
đổi một kết cấu kinh tế, thay đổi cả chất và lượng của nền kinh tế, do đó nó là một quá
trình cách mạng lâu dài và khó khăn, cần tiến hành từng bước với qui mô và trình độ
thích hợp. Trước yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường sự thay đổi đó tuy khó khăn
nhưng nhất thiết phải làm từ cơ sở, vùng lãnh thổ đến cả nước, sự thay đổi đó là tất
yếu, hợp quy luật, đúng theo xu hướng phát triển. Bởi lẽ, trước sự chuyển đổi của nền
kinh tế đất nước, chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”, bản thân cơ cấu kinh tế kiểu cũ bộc lộ nhiều hạn
chế, đó là cơ cấu bó hẹp, khép kín, không phải là cơ cấu để sản xuất hàng hoá, do vậy
sản xuất chậm phát triển, thu nhập thấp, đời sống khó khăn...
Nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự thay đổi cơ cấu kinh
tế phù hợp, từ cơ cấu sản xuất tự cung, tự cấp, phải chuyển sang cơ cấu sản xuất nhằm
mục đích để bán. Nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường đòi hỏi mọi ngành, mọi
vùng, mọi tổ chức kinh tế phải hoạt động theo yêu cầu của thị trường, theo mệnh lệnh
và tiếng gọi của thị trường, thị trường cần hàng hoá gì thì sản xuất hàng hoá đó, chỉ
sản xuất và bán những cái mà thị trường cần. Cơ cấu kinh tế kiểu cũ mang tính tự
cung, tự cấp nay phải được đổi mới phù hợp với sự phát triển kinh tế thị trường. Đó là
cơ cấu kinh tế có phân công và hiệp tác lao động, có phân công chuyên môn hoá sản
xuất, có mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, các vùng, trong nước với nước
ngoài, dựa trên thế mạnh của từng ngành, từng vùng để bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong
quá trình phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn là yêu cầu khách quan bắt nguồn
từ nhu cầu khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật và lao động
hiện có trong nông nghiệp để chuyển sang kinh tế hàng hoá, mở rộng thị trường và
phát triển kinh tế nông thôn. Để khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng trong nông
nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá, mở rộng thị trường và phát triển kinh tế nông
thôn thì một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu là phải đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, gắn phát triển nông nghiệp với kinh tế nông thôn,
đây là nhiệm vụ có tầm chiến lược trong toàn bộ sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế để khai thác mọi tiềm năng mở rộng sản xuất hàng
hoá, phát triển kinh tế nông thôn còn là con đường giảm dần khoảng cách về trình độ
phát triển về mọi mặt giữa nông thôn và thành thị, cải thiện và nâng cao từng bước đời
sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho nông dân, khắc phục cảnh đói nghèo đã bao đời
đè nặng lên cuộc sống của họ.
Quan điểm phát triển kinh tế của Đảng ta tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X là:
Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan
trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất,
văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển
kinh tế tri thức, tạo nền tảng để nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 [13, tr.185].
Điều đó đòi hỏi phải quan tâm đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong quá trình phát triển, bởi lẽ trong cơ cấu kinh tế chung
ở nước ta, kinh tế nông nghiệp là bộ phận cấu thành chiếm vị trí đặc biệt quan trọng.
Từ những lý do chủ yếu nói trên, có thể khẳng định rằng, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp là tất yếu khách quan đối với cả nước, cũng như đối với từng
vùng, từng địa phương ở nước ta.
1.2. NỘI DUNG, YÊU CẦU ĐỐI VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH
TẾ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
1.2.1. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp: Chuyển dịch cơ cấu nội
bộ ngành nông nghiệp một cách khoa học và hợp lý là giảm tỷ trọng giá trị sản xuất
ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi, thủy sản. Trong
trồng trọt thì giảm tỷ trọng sản xuất lúa, tăng tỷ trọng diện tích cây rau màu có giá
trị kinh tế cao ở cả 3 vụ (Đông Xuân, Hè Thu và Thu Đông) để đạt hiệu quả cao
hơn trên một đơn vị diện tích sản xuất. Hiện nay, đối với các địa bàn thuộc đồng
bằng sông Cửu Long sản xuất lúa vẫn là nhiệm vụ quan trọng góp phần đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia. Do vậy, cần chuyển dịch cơ cấu trà lúa, giống lúa để có
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao trong sản xuất lúa. Tiếp tục chuyển mạnh một
phần diện tích đất trũng, bãi bồi sang đào ao nuôi cá, lập vườn để có giá trị kinh tế
cao, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp. Từng bước tăng tỷ
trọng chăn nuôi trong sản xuất nông nghiệp, xác định hợp lý cơ cấu đàn lợn, đàn
gia cầm, đàn bò. Thực hiện phương thức chăn nuôi kết hợp chế biến, tiêu thụ sản
phẩm để có hiệu quả kinh tế. Từng bước phát triển thuỷ sản trở thành thế mạnh, kết
hợp nuôi thả những giống cá có hiệu quả kinh tế cao với việc phát triển hệ thống
tiêu thụ, đưa giá trị thu nhập ở khu vực này tăng cao hàng năm.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng
thể hiện sự tái phân công lao động theo vùng lãnh thổ. Dựa trên những lợi thế về điều
kiện tự nhiên, địa lý, kinh tế - xã hội của mỗi vùng mà hình thành các vùng kinh tế.
Các vùng kinh tế này có những đặc điểm khác nhau nhưng có điểm chung là dựa vào
những lợi thế đó để khai thác có hiệu quả các nguồn lực và tiềm năng kinh tế trong
vùng nhằm tạo ra sự phát triển.
Kinh tế vùng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng nhằm khai thác những lợi thế
từ lao động, từ vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên để xây dựng một chiến lược phát triển
sản xuất - kinh doanh theo hướng chuyên môn hoá, đa dạng hoá.
Chuyển dịch cơ cấu vùng còn làm cho những diện tích đất trước đây chưa sử
dụng, hoặc sử dụng chưa hiệu quả, hoặc chưa chuyển đổi được sang hướng sản xuất
phù hợp được sử dụng có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, khi có một cơ cấu kinh tế vùng
hợp lý sẽ thu hút được vốn đầu tư từ bên ngoài nhằm duy trì và phát triển kinh tế vùng
đó.
Trong nền kinh tế thị trường, ở mỗi vùng, ngành nào có ưu thế cạnh tranh sẽ
phát triển nhanh. Từ đó, kéo theo các ngành khác có liên quan cùng phát triển cả về
qui mô và tốc độ theo một quan hệ, tỷ lệ nhất định, qua đó đạt hiệu quả kinh tế cao
nhất của vùng.
Xác định cơ cấu kinh tế vùng hợp lý sẽ tạo cơ sở để khai thác và sử dụng có
hiệu quả hơn những tiềm năng về tài nguyên, sức lao động, cơ sở vật chất hiện có của
từng vùng. Điều này quyết định tốc độ phát triển kinh tế hàng hoá ở nông thôn mỗi
vùng cũng như cả nước. Khi có biến đổi lớn trong vùng kinh tế về kết cấu hạ tầng và
tình hình kinh tế - xã hội như hệ thống giao thông, thuỷ lợi, trình độ dân trí, vốn đầu
tư, thị trường tiêu thụ, đặc biệt là sự xuất hiện của những tiến bộ mới trong công nghệ
sinh học, nhu cầu mới của thị trường… sẽ xuất hiện những ngành sản xuất - kinh
doanh mới có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Để phát triển các ngành mũi nhọn ở các vùng kinh tế nông thôn, trong quá trình
xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế vùng cần coi trọng tác động vĩ mô của Nhà nước
thông qua hệ thống các chủ trương, chính sách như: Khuyến nông, xây dựng kết cấu
hạ tầng, chính sách thuế ưu đãi và những thông tin cần thiết…
Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế: Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn
tại những hình thức sở hữu khác nhau. Chính sự đa dạng hoá sở hữu đã quyết định sự
tồn tại của các thành phần kinh tế. Sự khác nhau giữa các thành phần kinh tế thể hiện
ở trình độ xã hội hoá, sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ tổ chức quản lý,
phương thức phân phối sản phẩm và các mối quan hệ về lợi ích. Mỗi thành phần kinh
tế có bản chất và những đặc điểm riêng. Lợi ích của các thành phần kinh tế vừa thống
nhất, vừa mâu thuẫn và có mối quan hệ với nhau, cùng tồn tại với nhau trong một nền
kinh tế. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã trở thành tất yếu trong đời
sống xã hội của nhiều nước trên thế giới. Do đó, phải tạo điều kiện để các thành phần
kinh tế cùng tồn tại và phát triển trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Chuyển
dịch cơ cấu thành phần kinh tế trong nông nghiệp ở nước ta được thực hiện theo
hướng đảm bảo để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo điều kiện và môi trường
thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân
có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lao động: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lao
động là sự tái phân công lao động dựa vào các lợi thế trong quá trình phát triển sản
xuất. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lao động nhằm tạo ra đủ việc làm cho người lao
động, nâng cao thu nhập và đời sống cho người lao động, phát huy năng lực của lao
động, đóng góp hiệu quả hơn cho khu vực, cho vùng, cho đất nước, cho sự phát triển
và ổn định kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lao động được thực hiện trên cơ
sở kế hoạch, chiến lược qui hoạch đội ngũ cán bộ, công nhân, nông dân… theo một cơ
cấu hợp lý để từ đó phát huy được thế mạnh về lao động.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo trình độ công nghệ: Trình độ công nghệ trong
sản xuất nông nghiệp nước ta từng bước được nâng cao, cơ sở vất chất kỹ thuật của
nông nghiệp ngày càng hiện đại, khai thác có hiệu quả hơn những tiềm năng to lớn của
nền nông nghiệp nhiệt đới phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều
kiện khoa học công nghệ trên thế giới phát triển cao, nhất là công nghệ tin học, công
nghệ sinh học, đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo trình độ công nghệ trong sản xuất nông nghiệp. Xu hướng chung hiện nay là phải
tăng tỷ trọng công nghệ sản xuất và quản lý hiện đại kết hợp với khai thác lợi thế của
công nghệ truyền thống.
1.2.2. Yêu cầu đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với tăng trưởng: Tăng
trưởng kinh tế là sự gia tăng hay mở rộng về sản lượng hàng hóa và dịch vụ của nền
kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu quan
trọng trong phát triển kinh tế, được phản ánh qua sự tăng lên về quy mô sản lượng và
sản lượng bình quân đầu người của một nền kinh tế. Như vậy, có thể hiểu tăng trưởng
nông nghiệp là sự tăng lên về sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong lĩnh vực nông
nghiệp. Nguồn gốc của tăng trưởng nông nghiệp là sự gia tăng và/hoặc sử dụng hiệu
quả hơn các nguồn lực đầu vào cơ bản đối với quá trình sản xuất nông nghiệp là đất
đai, vốn, lao động và công nghệ. Mặt khác, để đảm bảo cung cấp đủ lương thực, thực
phẩm thiết yếu cho nhu cầu tiêu dùng của dân cư ngày càng tăng, nguyên liệu cho phát
triển công nghiệp, vốn và ngoại tệ cho tái sản xuất mở rộng và tích lũy ban đầu để đầu
tư phát triển các ngành kinh tế khác, các ngành, các lĩnh vực trong nông nghiệp phải
không ngừng gia tăng quy mô sản lượng, nghĩa là tăng trưởng. Tuy nhiên, mức tăng
sản lượng giữa các ngành, giữa các lĩnh vực là không giống nhau, nhờ đó tạo tiền đề
để chuyển dịch về cơ cấu giữa các ngành, các lĩnh vực trong nông nghiệp. Để đảm bảo
về mặt số lượng và chất lượng của tăng trưởng, việc đổi mới cơ cấu các ngành, các
lĩnh vực trong nông nghiệp, hay nói cách khác, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp phải dựa trên cơ sở bố trí lại một cách hợp lý các nguồn lực được sử dụng
trong sản xuất nông nghiệp giữa các ngành, các lĩnh vực.
Hai là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phát triển nông nghiệp bền vững:
Phát triển nông nghiệp bền vững luôn là mục tiêu phấn đấu của mọi quốc gia và là một
quá trình biến đổi lâu dài theo xu hướng ngày càng hoàn thiện. Phát triển nông nghiệp
bền vững có ý nghĩa rộng lớn, bao hàm cả bốn mục tiêu cơ bản là: Tăng trưởng kinh tế
- tăng về quy mô số lượng, thay đổi về cơ cấu kinh tế - thay đổi về chất lượng, tiến bộ
về xã hội - nâng cao chất lượng cuộc sống của đại bộ phận dân cư, cải thiện về môi
trường tự nhiên, đảm bảo cân bằng sinh thái và chỉ khi nào đồng thời đạt hiệu quả cao
ở cả bốn mục tiêu này thì nền nông nghiệp mới được xem là phát triển bền vững.
Ngày nay, hầu hết các nhà kinh tế học coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một
trong những nội dung trụ cột phản ánh mức độ phát triển của một nền kinh tế [29,
tr.33]. Bởi vì, có những quốc gia đạt được mức tăng trưởng nông nghiệp rất cao nhưng
vẫn còn một bộ phận lớn người dân sống ở nông thôn có thu nhập dưới mức nghèo
đói. Đây là hệ quả của sự chuyển dịch thiếu cân đối giữa các ngành kinh tế, giữa các
thành phần kinh tế và giữa các vùng lãnh thổ của nền kinh tế đó. Mặt khác, sự tăng
trưởng nhanh chóng của nền kinh tế có thể kéo theo sự khai thác tài nguyên thiên
nhiên bừa bãi, khiến cho các nguồn tài nguyên bị kiệt quệ, làm phá vỡ cân bằng môi
trường sinh thái hoặc cùng với tăng trưởng là sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị và
nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp bị hạ thấp hoặc mất đi, dẫn tới cơ cấu xã hội bị đảo
lộn và bất ổn định. Tuy nhiên, nếu chỉ nhấn mạnh đến công bằng xã hội và bền vững
môi trường tự nhiên sẽ dẫn tới phát triển dàn trải giữa các ngành và giữa các vùng, dẫn
tới tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu diễn ra chậm, không đáp ứng được các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì thế, để bảo đảm hài hòa cả mục tiêu trước
mắt và lâu dài, nhiều nước chọn con đường phát triển toàn diện thông qua tăng trưởng
kinh tế nhanh đi đôi với nâng cao chất lượng tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
Ba là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải xuất phát từ tín hiệu của thị trường:
Phát triển nông nghiệp toàn diện với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững nhất thiết
phải dựa trên cơ sở kinh tế hàng hóa gắn với thị trường. Chỉ có như vậy mới khắc
phục được xu hướng tự phát, tự cung, tự cấp, phân tán nhỏ lẻ trong sản xuất nông
nghiệp và phát triển nông thôn nước ta hiện nay. Sản xuất hàng hóa đặt ra yêu cầu sản
xuất sản phẩm nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng và chủng loại ra sao phải do thị
trường quyết định, không phải do khả năng đất đai, lao động, khí hậu, kinh nghiệm
của người sản xuất quyết định.
Bốn là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn với hiệu quả kinh tế và xã hội: Một
cơ cấu kinh tế hợp lý phải là cơ cấu đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế và xã hội cao. Trong
điều kiện kinh tế thị trường, sản xuất chỉ có thể tồn tại được khi sản phẩm có khả năng
cạnh tranh, hay nói cách khác sản xuất phải đạt hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả
kinh tế không phải bao giờ cũng thống nhất với hiệu quả xã hội. Do vậy, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp không chỉ tính đến hiệu quả về mặt kinh tế mà còn phải
tính đến hiệu quả về mặt xã hội, phải được đo lường bằng các chỉ tiêu tổng hợp, cả về
kinh tế và xã hội.
Năm là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn với nền kinh tế mở và hội nhập
quốc tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phải phù hợp với xu
hướng hội nhập và mở cửa với thế giới và khu vực. Yêu cầu trên còn là cơ sở để hình
thành các giải pháp xây dựng cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn hợp lý trong giai
đoạn hiện nay.
Sáu là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn với công bằng xã hội: Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH trong thế kỷ XXI ở
nước ta không chỉ đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, vững chắc và toàn diện mà
còn phải đảm bảo ổn định xã hội và nâng cao đời sống của nhân dân nói chung, khu
vực nông thôn nói riêng. Vì vậy, cùng với phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông
thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải gắn với mục tiêu xóa đói giảm
nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu – nghèo ở nông thôn, giữa nông thôn và thành thị.
Bảy là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải kết hợp giữa truyền thống và hiện đại:
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta hiện nay, một mặt phải kế
thừa những kinh nghiệm truyền thống, bao gồm cả ngành nghề truyền thống ở nông
thôn, nông nghiệp lúa nước, kinh nghiệm thâm canh cây trồng, vật nuôi, giống cây đặc
sản… Mặt khác, phải tiếp cận với xu thế hiện đại của thế giới và khu vực, thực hiện
phương châm “đi tắt đón đầu”, nhanh chóng ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ
thuật và quy trình công nghệ tiên tiến vào phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Tám là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn mục đích tăng trưởng kinh tế với
phân công lại lao động nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp,
tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ ở khu vực này: Để đảm bảo sự phát
triển nông thôn bền vững, ổn định thì cơ cấu lao động nông thôn phải được điều chỉnh
hợp lý. Cơ cấu kinh tế gắn với phân công lại lao động nông nghiệp là phương hướng
lâu dài của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta. Thay đổi cơ
cấu kinh tế nông nghiệp không chỉ thúc đẩy phân công lại lao động xã hội bên trong
lãnh thổ mà còn thúc đẩy quá trình tham gia vào hợp tác lao động quốc tế tạo thuận lợi
cho từng ngành chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế sâu hơn, cạnh tranh
mạnh mẽ hơn, nhờ đó mà kích thích tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Chín là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với quy hoạch, chiến lược
và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, của vùng và của cả nước: Nông
nghiệp trên địa bàn huyện là một bộ phận của nền nông nghiệp cũng như nền kinh tế
nói chung của tỉnh, của vùng và cả nước. Do đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp trên địa bàn phải gắn kết với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, của vùng và
của cả nước về mục tiêu, phương hướng và giải pháp.
Mười là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với công nghiệp hóa, đô
thị hóa và xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn: Xu hướng và tốc độ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp phải phù hợp với xu hướng và tốc độ công nghiệp hóa, đô thị
hóa và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn trong từng giai đoạn. Mối tương quan xuất
phát từ thực tế ở nước ta và kinh nghiệm của các nước: Công nghiệp hóa, đô thị hóa
và xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn vừa tạo ra điều kiện vật chất, vừa thu hút lao
động dư thừa của khu vực này trong quá trình CNH, HĐH.
1.3. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ XU HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
1.3.1. Các yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Thứ nhất, điều kiện tự nhiên:
Theo FAO, các yếu tố tự nhiên có vai trò quan trọng trong việc hình thành các
hệ sinh thái nông nghiệp khác nhau. Các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc
hình thành các cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên một vùng lãnh thổ gồm có: Khí hậu,
nguồn nước, đất đai và hệ sinh vật.
Sản xuất nông nghiệp diễn ra trên địa bàn rộng lớn và đối tượng khai thác là
sinh vật nuôi trồng gắn liền với vị trí địa lý, thổ nhưỡng, khí hậu, chế độ thuỷ văn, ánh
sáng, hệ sinh thái, tài nguyên thiên nhiên… Đây là các yếu tố tiền đề cực kỳ quan
trọng đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Vấn đề căn bản là lựa chọn được cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu nghề
nghiệp để huy động và khai thác có hiệu quả nhất những lợi thế so sánh về tự
nhiên, tránh và hạn chế rủi ro cũng như những tác động bất lợi của tự nhiên để tăng
năng suất cây trồng, vật nuôi, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, góp
phần cạnh tranh thắng lợi trong nền kinh tế thị trường.
Do vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghệp phải bố trí được cơ cấu cây
trồng, vật nuôi tương thích với điều kiện thổ nhưỡng, chế độ thuỷ văn, ánh sáng, khí
hậu, phải tôn trọng các quy luật tự nhiên để đảm bảo năng suất cây trồng, vật nuôi cao
nhất, đảm bảo mức sinh lời lớn với chi phí thấp, qua đó đạt hiệu quả kinh doanh cao
nhất.
Ngày nay, mặc dù khoa học – công nghệ đã phát triển đến trình độ rất cao, con
người đã tạo ra những giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao và thích ứng với điều
kiện tự nhiên, nhưng để có một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lí, mang lại hiệu quả
kinh tế cao nhất, nhất thiết phải tôn trọng các quy luật tự nhiên, coi trọng vấn đề bảo
vệ môi trường, sinh thái. Đồng thời khuyến khích sự sáng tạo của con người nhằm
tranh thủ tốt nhất những lợi thế của tự nhiên để phát triển kinh tế nói chung và kinh tế
nông nghiệp nói riêng đạt hiệu quả cao nhất.
Thứ hai, yếu tố kinh tế - xã hội:
Yếu tố thị trường:
Trước hết, phải kể đến nhân tố thị trường. Thông qua quan hệ cung-cầu, giá cả
thị trường đối với sản phẩm nông nghiệp, yếu tố này chi phối rất lớn đến chuyển dịch
cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Bởi vì, trong kinh tế thị trường những sản phẩm nào có lợi
nhuận cao, thị trường ổn định thì các doanh nghiệp, hộ gia đình, hợp tác xã sẽ đầu tư
vốn để phát triển.
Thông qua những chức năng như điều tiết và kích thích sản xuất, thông tin tín hiệu
cho người sản xuất và quản lý, thị trường tác động mạnh đến sự chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, cơ cấu ngành nghề trong sản xuất nông nghiệp. Bởi vì, mục đích của người
kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận, nếu có thị trường ổn định để tiêu thụ hàng hoá, giá cả có
thể chấp nhận được thì đó là căn cứ, là tiếng gọi đối với nhà đầu tư kinh doanh nông
nghiệp.
Quy mô, cơ cấu và động thái của thị trường chi phối rất lớn và có thể nói là yếu
tố quyết định đối với người sản xuất - kinh doanh, chi phối quá trình chuyển dịch cơ
cấu cây trồng, vật nuôi.
Trong nền kinh tế thị trường, cả 3 vấn đề cơ bản là sản xuất cái gì, sản xuất như
thế nào, sản xuất cho ai đều do thị trường quyết định. Thị trường không chỉ quyết định
về số lượng mà còn về chất lượng, cơ cấu, mẫu mã sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Thị
trường tác động trực tiếp đến quy mô, trình độ phát triển của cơ sở kinh tế, đến xu
hướng phân công lao động, vị trí, tỷ trọng các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế quốc
dân. Do vậy, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp có hiệu quả phải căn cứ vào nhu cầu thị trường để làm định hướng chuyển
dịch. Thị trường có vai trò là động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là điều kiện thúc đẩy thị trường nông nghiệp
phát triển. Tuy nhiên, nếu để thị trường phát triển tự phát sẽ dẫn đến mất cân đối, do
đó cần phải có sự quản lý của Nhà nước để điều tiết thị trường.
Vốn đầu tư: Vốn đầu tư cũng là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Có vốn mới giải quyết được vấn đề tăng
cường cơ sở kỹ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng
nguồn lao động. Vì vậy, để tăng trưởng kinh tế nông nghiệp cao và ổn định, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có hiệu quả phải tăng cường đầu tư vốn cho phát triển
sản xuất và kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn cũng như các yếu tố kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội liên quan khác.
Trình độ, kỹ năng của người lao động, tập quán canh tác, ngành nghề truyền
thống: Trình độ, kỹ năng của người lao động, tập quán canh tác, ngành nghề truyền
thống cũng chi phối mạnh mẽ đến bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu sản phẩm ở
mỗi vùng, mỗi địa phương. Các nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ cũng tác động tích
cực tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH tất yếu phải phát triển lực lượng sản xuất, trong đó lực lượng
lao động là nhân tố hàng đầu. Chỉ có đội ngũ lao động với chất lượng cao, cơ cấu hợp
lý mới có khả năng tiếp thu được khoa học công nghệ, nhất là công nghệ tin học, sinh
học để phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Thứ ba, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội:
Các yếu tố của kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như hệ thống giao thông, thuỷ
lợi, điện, bưu chính - viễn thông… là điều kiện, là tiền đề cho sản xuất hàng hoá và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Tất cả các yếu tố đó đều tác động trực tiếp và
mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Thứ tư, yếu tố tổ chức và quản lý:
Đó là tổng thể những tác động về thể chế, chính sách kinh tế nhằm định hướng
và điều tiết cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Thông qua hệ thống pháp luật, các chính sách
và công cụ quản lý vĩ mô như chính sách đầu tư, chính sách tài chính, tiền tệ, tỷ giá,
chính sách thương mại, xuất nhập khẩu, chính sách kinh tế đối ngoại… yếu tố này tác
động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Trình độ tổ chức và quản
lý kinh doanh của người nông dân cũng ảnh hưởng rất lớn tới chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế là biểu hiện của đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội
của Đảng và Nhà nước. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp đúng đắn, hợp lý mang tính khách
quan, khoa học và tính lịch sử xã hội, nhưng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
chịu sự tác động chi phối, định hướng của đường lối phát triển kinh tế của Đảng và thể
chế của Nhà nước. Nhà nước tạo động lực và hành lang pháp lý điều tiết sản xuất, kinh
doanh qua hệ thống luật pháp và chính sách. Nhà nước còn can thiệp vào thu hút, sử
dụng vốn đầu tư để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có hiệu quả theo
mục tiêu, phương hướng chung của đất nước.
Ngoài ra, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện còn chịu
ảnh hưởng trực tiếp của các chính sách phát triển kinh tế của tỉnh như chính sách đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; chính sách chuyển giao khoa học
và công nghệ; chính sách khuyến khích phát triển các mặt hàng mũi nhọn trong nông
nghiệp…
Thứ năm, yếu tố quốc tế:
Trong điều kiện nền kinh tế mở, mỗi biến động về chính trị, quân sự, biến động
về tài chính, tiền tệ, thị trường quốc tế… cũng gây ảnh hưởng nhất định đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong nước và trên địa bàn.
Các biến động về tài chính, tiền tệ, giá cả, thị trường quốc tế ảnh hưởng rất lớn
đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Bởi lẽ, quy mô, cơ cấu, động thái tăng,
giảm của thị trường thế giới đều tác động mạnh mẽ đến tốc độ và cơ cấu nông sản xuất
khẩu của nước ta.
Nhìn chung, xu thế chính trị - xã hội của khu vực và thế giới, xu thế toàn
cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng quốc tế hóa lực lượng sản xuất, hình
thành các cam kết của đất nước đối với khu vực và thế giới, tạo sự phát triển đan
xen nhau, khai thác thế mạnh của nhau, hợp tác cùng phát triển trong sản xuất và
trao đổi hàng hóa, dịch vụ đều tác động đến sự hợp tác và phân công lại lao động
trong nông nghiệp, tác động mạnh mẽ đến tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn ở phạm vi cả nước cũng như ở từng địa
phương.
Thứ sáu, sự phát triển của khoa học – công nghệ:
Sự phát triển của khoa học - cộng nghệ tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp. Tiến bộ khoa học - công nghệ được ứng dụng vào sản xuất
nông nghiệp cho phép tạo ra những sản phẩm mới, chất lượng và năng suất cao hơn.
Những thành tựu và kiến thức về khoa học xã hội và nhân văn cũng tác động tích cực
đến việc nâng cao trình độ văn hoá, kiến thức kinh tế cho nông dân trong chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Khoa học - công nghệ phát triển đã tạo cho người nông dân nhiều giống mới
với phẩm chất tốt, cho phép đổi mới công nghệ sản xuất, bảo quản, chế biến, cho phép
thực hiện phân công lại lao động xã hội. Khoa học - công nghệ phát triển sẽ hạn chế
được những yếu tố bất lợi của tự nhiên, kinh tế và xã hội. Thực tế “chiến tranh” nông
phẩm của thế giới đã minh chứng điều đó.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ là yếu tố tác động mạnh mẽ và trở thành
động lực trực tiếp đột phá cho sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp. Sự phát triển và ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất nông
nghiệp đã góp phần tăng nhanh năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hiệu quả
sản xuất. Tuy nhiên, trong quá trình ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ phải đảm
bảo đồng bộ, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ lao động và sự
tiếp cận của nền kinh tế nông nghiệp trong từng giai đoạn nhất định.
Các yếu tố cơ bản nêu trên có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau và cùng tác
động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn. Tuy nhiên, khi xác
định cơ cấu và chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phải tìm ra những yếu tố có
ảnh hưởng quyết định đến quá trình này để trên cơ sở đó có các biện pháp tổ chức thực hiện
phù hợp.
1.3.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp không phải là một mô hình tĩnh tại mà nó luôn vận
động và phát triển vươn tới sự hoàn thiện. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chịu sự tác
động của các yếu tố trong nội bộ nền kinh tế và các yếu tố bên ngoài nên sự vận động
của nó rất đa dạng, phức tạp. Tuy vậy, tất cả sự vận động này đều diễn ra theo những
xu hướng mang tính quy luật. Đó là:
- Xu hướng chuyển dịch từ nền nông nghiệp tự cung, tự cấp sang nền nông
nghiệp sản xuất hàng hóa: Đó là kết quả tất yếu của quá trình phát triển lực lượng sản
xuất và phân công lao động xã hội. Từ đó, nền nông nghiệp với cơ cấu kinh tế giản
đơn, yếu ớt, lỏng lẻo, dần trở thành nền nông nghiệp có mối liên kết kinh tế ngành, vùng
chặt chẽ trên cơ sở phân công lao động ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Sự phát triển của
lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc tất yếu sẽ phá vỡ thế
tự cung, tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hóa. Trong bối cảnh nước ta đang tiến hành
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, các địa phương đã và đang tiến hành chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, áp dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ vào sản xuất, khai thác tối đa thế mạnh của địa phương nhằm thu
được những kết quả và giá trị kinh tế cao nhất. Nông nghiệp là một bộ phận của nền kinh
tế quốc dân. Do đó, cơ cấu kinh tế nông nghiệp được chuyển dịch cũng trên cơ sở định
hướng chung của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần được xác lập và chuyển
dịch theo hướng từ một nền nông nghiệp thuần nông, độc canh sang một nền nông nghiệp
đa canh, sản xuất hàng hóa có hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Xu hướng giảm lao động trong nông nghiệp và nông thôn: Với việc tăng
cường sử dụng máy móc trong sản xuất nông nghiệp và những phương pháp trồng trọt,
chăn nuôi mới, lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp giảm đi và tỷ
trọng lao động làm việc trong ngành công nghiệp, dịch vụ tăng lên. Tuy nhiên, để có
sự chuyển biến thực sự và tích cực ở phương diện này thì phải phá thế độc canh trong
nông nghiệp, đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, đồng thời thúc đẩy phát triển các
ngành ngoài nông nghiệp ở nông thôn. Kinh tế ngoài nông nghiệp là một ngành kinh
tế độc lập ở nông thôn, không phải là nghề phụ, phụ thuộc vào nông nghiệp nhưng lại
không đối lập với nông nghiệp mà gắn bó mật thiết với nông nghiệp. Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp có nội dung quan trọng là chuyển dịch và phát triển các hoạt
động kinh tế ngoài nông nghiệp, bên cạnh các hoạt động kinh tế nông nghiệp ở nông
thôn.
- Xu hướng ngày càng giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng công nghiệp,
dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân: Do chức năng chủ yếu của khu vực nông
nghiệp là sản suất lương thực, thực phẩm nên nhu cầu về sản lượng nông nghiệp sẽ
không tăng nhanh như nhu cầu về các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ; do giới hạn của
đất đai và tính sinh học của cây trồng, vật nuôi nên sản xuất nông nghiệp không thể phát
triển như tốc độ của công nghiệp, dịch vụ. Trong khi đó, cùng với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường, tiến bộ của khoa học và công nghệ, nhu cầu tiêu dùng xã hội tăng lên
và xu thế quốc tế hóa lực lượng sản xuất đã thúc đẩy nền kinh tế các nước phát triển,
nhiều ngành công nghiệp mới ra đời, nhiều trung tâm công nghiệp và đô thị hình thành.
Theo đó, cơ cấu kinh tế có xu hướng chuyển dịch từ nền nông nghiệp là chủ yếu và tỷ
trọng lớn sang phát triển công nghiệp và dịch vụ. Trong đó, nông nghiệp mặc dù vẫn tăng
lên về giá trị tuyệt đối nhưng giảm dần về giá trị tương đối trong GDP, công nghiệp và
dịch vụ sẽ tăng lên nhanh chóng cả về giá trị tương đối và tuyệt đối.
- Xu hướng chuyển từ cơ cấu kinh tế khép kín trong phạm vi quốc gia sang nền
kinh tế mở trong quan hệ kinh tế quốc tế: Đây là xu hướng tất yếu, xu hướng chung
của thời đại. Ngày nay, không một quốc gia nào có đầy đủ các nguồn lực để tự mình
có thể xây dựng được một nền kinh tế hoàn chỉnh, phát triển bền vững, do đó mỗi
nước đều phải mở rộng quan hệ đối ngoại. Trong xu thế đó, nền nông nghiệp nước ta
cũng mở rộng quan hệ hợp tác đa dạng, đa phương, hội nhập với khu vực và thế giới.
1.4. KINH NGHIỆM ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC, QUỐC TẾ VÀ
BÀI HỌC RÚT RA CHO HUYỆN CHÂU THÀNH
1.4.1. Kinh nghiệm ngoài nước
Kinh nghiệm của Trung Quốc
Để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Trung Quốc đã sử dụng
nhiều biện pháp, trong đó đáng chú ý là:
Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn;
tập trung đầu tư cho khoa học và công nghệ: Năm 1978, Trung Quốc tiến hành thực
hiện phương thức khoán sản phẩm đến hộ nông dân, từng bước đa dạng hóa sở hữu ở
nông thôn và tập trung đầu tư cho nông nghiệp với các nội dung chủ yếu là đẩy mạnh
nghiên cứu công nghệ sinh học tạo giống cây trồng, vật nuôi tốt đưa vào sản xuất, tăng
cường thủy lợi hóa, cơ giới hóa và hóa học hóa. Đến năm 1997, trên 40% diện tích lúa
sử dụng giống lai cho hiệu quả cao, tăng phân bón từ 80 kg/ha (1952) lên 257 kg/ha
(2002), bảo đảm tưới tiêu nước cho 1/2 diện tích canh tác.
Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, đa dạng hóa sản phẩm trồng trọt hướng về
xuất khẩu: Cùng với hiện đại hóa nông nghiệp, Trung Quốc còn đẩy mạnh chuyển đổi
cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ trồng trọt sang chăn nuôi, đa dạng hóa trồng trọt và tăng
cường xuất khẩu nông sản. Tỷ trọng trồng trọt và chăn nuôi trong GDP nông nghiệp
năm 1978 là 80% và 15%, đến năm 1997 là 56% và 30% [31, tr.9-27].
Điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hội nhập: Để hội nhập vào
nền kinh tế toàn cầu, cơ cấu kinh tế nông nghiệp Trung Quốc được điều chỉnh với mục
tiêu dài hạn là xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại hoá, nhất thể hóa với sản phẩm
chất lượng và năng suất cao, có thể bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và phát triển
bền vững. Mục tiêu ngắn hạn là tập trung nâng cao chất lượng và phát triển sản phẩm
đặc sản có lợi thế, tăng cường ý thức về thương hiệu. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài
nguyên thiên nhiên, điều chỉnh quy hoạch nông nghiệp và từng bước nâng cao tỷ lệ
sản xuất chuyên môn hóa theo từng khu vực, phát triển mạnh dịch vụ nông nghiệp.
Kết quả đạt được của năm 2003 so với năm 2000, diện tích cây lương thực sử dụng
nhiều tài nguyên đất và nước giảm từ 30,3 triệu ha xuống còn 28,5 triệu ha, các cây
trồng sử dụng nhiều lao động, nhất là rau quả tăng, tỷ trọng các sản phẩm có chất
lượng tốt tăng đáng kể, trong đó lúa chất lượng cao vượt 50% và trái cây chất lượng
cao đạt 30% [23, tr.85].
Giảm thuế nông nghiệp cho nông dân, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và thúc
đẩy phát triển công nghiệp nông thôn: Gần đây, để khắc phục tình trạng phát triển
không đồng đều giữa các vùng và các khu vực, Trung Quốc đã thực thi chiến lược
“Đại khai phá miền Tây” và tập trung đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân
thông qua chính sách giảm thuế nông nghiệp cho nông dân, tăng cường đầu tư phát
triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và phát triển hạ tầng ở khu vực nông thôn.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Các biện pháp đáng chú ý mà Hàn Quốc đã thực hiện để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp bao gồm:
Phát triển nông nghiệp trang trại quy mô vừa và nhỏ: Từ những năm 1950, Hàn Quốc
đã hình thành nền nông nghiệp trang trại trên cơ sở kinh tế hộ nông dân quy mô nhỏ,
không phát triển các trang trại quy mô lớn, sản xuất kinh doanh theo phương thức sử dụng
lao động làm thuê. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nông nghiệp ở giai đoạn này là bảo
đảm lương thực. Vì thế, ngoài quản lý việc nhập khẩu lúa gạo, chính phủ đã tập trung cho
đầu tư mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp và đẩy mạnh sản xuất lương thực.
Khuyến khích cộng đồng tham gia đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn: Bước
sang giữa những năm 1960, Hàn Quốc tập trung vào nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn thông qua Chương trình phát triển các xí nghiệp, phong trào cộng đồng mới ở
nông thôn, nhằm nâng cao tinh thần và điều kiện sống, giảm bớt khoảng cách thu nhập
giữa vùng nông thôn và thành thị vào những năm 1970. Khuyến khích nông dân ứng dụng
khoa học và công nghệ thông qua hỗ trợ tín dụng ưu đãi. Để hiện đại hóa nông nghiệp,
Hàn Quốc tập trung vào ứng dụng các thành tựu công nghệ sinh học và hóa học, tăng đầu
tư cho thủy lợi và cải tạo đồng ruộng, thực thi chiến lược tổng thể về cơ giới hóa nông
nghiệp theo hướng cơ khí nhỏ thông qua khuyến khích thành lập tổ cơ giới hóa nông
nghiệp, cho nông dân vay 60% trong thời hạn 5 năm với lãi suất 6%/năm và hỗ trợ 40%
tiền mua máy.
Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao: Để nâng cao chất lượng và hạ giá
thành nông sản phục vụ xuất khẩu, sản xuất nông nghiệp của Hàn Quốc vào đầu những
năm 1990 có xu hướng chuyển sang nông nghiệp kỹ thuật cao, giảm sản xuất lúa, tăng sản
xuất rau quả trong nhà kính với thiết bị điện tử tự động hóa, phát triển nhanh công nghiệp
chế biến thực phẩm với gần 5.000 xí nghiệp lớn, vừa và nhỏ trên cả nước. Đến năm 2002,
chỉ còn khoảng 57% nông dân Hàn Quốc làm nghề trồng lúa.
Kinh nghiệm của Thái Lan
Phát huy lợi thế đẩy mạnh sản xuất, chế biến và xuất khẩu: Vào những năm
1980, Chính phủ đã kịp thời chuyển hướng từ chiến lược ưu tiên công nghiệp hoá đô
thị sang chiến lược vừa công nghiệp hoá đô thị, vừa công nghiệp hoá nông nghiệp,
nông thôn; kết hợp giữa đẩy mạnh sản xuất, chế biến và xuất khẩu các mặt hàng nông
sản theo hướng đa dạng hóa, nhằm phát huy thế mạnh sẵn có và giảm bớt rủi ro thị
trường. Nhờ đó, cơ cấu nông sản thời kỳ 1988 - 1998 biến đổi theo hướng: cao su, hoa
quả, chăn nuôi và mía đường tăng nhanh; lúa gạo và ngô tăng chậm; khoai mì và đậu
tương giảm mạnh.
Hỗ trợ nông dân phát triển sản phẩm chất lượng cao phục vụ xuất khẩu: Gần
đây, Thái Lan chú trọng phát triển nông nghiệp theo hướng thâm canh, xuất khẩu. Bên
cạnh đầu tư mạnh cho chọn lọc, lai tạo và ứng dụng các giống cây, con có năng suất và
chất lượng cao, Thái Lan tiếp tục phát triển mạnh các khu công nghiệp ở nông thôn,
hình thành được ngành cơ khí nông nghiệp và chế biến nông sản tương đối hiện đại,
góp phần làm giảm giá thành và tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa.
Khuyến khích các tổ chức kinh tế tham gia xuất khẩu: Để gia tăng khả năng tiêu
thụ nông sản ổn định và tăng thu nhập cho nông dân, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện
nhiều chính sách khuyến khích các công ty, doanh nghiệp khác nhau tham gia xuất
khẩu nông sản thông qua chính sách giảm thuế xuất khẩu, hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho
các nhà xuất khẩu; dựa trên quy mô kho chứa để khuyến khích các nhà xuất khẩu xây
dựng thêm kho chứa nông sản kết hợp với đầu tư hệ thống phơi sấy, chế biến tại địa
bàn nông thôn.
1.4.2. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Tháp
Từ năm 1985 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Đồng Tháp đã
từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với các tiềm năng của địa
phương theo hướng sản xuất hàng hóa. Cơ cấu kinh tế nông, lâm, thủy sản của tỉnh có
sự chuyển biến đáng kể. Ngành nông nghiệp Đồng Tháp thời kỳ 1996 - 2000 vẫn giữ
được nhịp độ tăng trưởng khá, mặc dù chịu tác động xấu của cuộc khủng kinh tế - tài
chính khu vực 1997 - 1998. Giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản tăng bình quân
5%/năm, chăn nuôi, thủy sản tăng 6,24%/năm; dịch vụ nông nghiệp tăng 21,4%/năm.
Những con số cho thấy trong từng ngành đã có sự chuyển dịch hợp lý.
Để đạt dược kết quả đó, Đồng Tháp đã chú trọng khuyến khích nông dân đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, ưu tiên những vùng đất mới chuyển đổi bằng
giảm thuế, miễn giảm thuỷ lợi phí để chuyển dần từ độc canh sản xuất lương thực sang
kinh tế nông nghiệp hàng hóa đa canh, phù hợp với đặc điểm địa phương, từng vùng
đất.
Nhận thức được rằng, hiệu quả kinh tế từ trồng lúa trên địa bàn không cao bằng
một số loại cây trồng, vật nuôi khác, tỉnh Đồng Tháp đã chỉ đạo nông dân chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, vật nuôi với những chủ trương, chính sách cụ thể. Đồng thời, tỉnh
cũng khuyến cáo nông dân không được biến đất trồng thành đất thổ cư. Nhờ đó, phong
trào chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã phát triển mạnh mẽ trong toàn tỉnh. Từ
năm 1993 - 2000, toàn tỉnh đã chuyển 5.549 ha đất một vụ, hai vụ… sang trồng cây ăn
quả kết hợp thả cá hoặc thả cá kết hợp trồng cây ăn quả.
Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Đồng Tháp còn
chậm, chưa rõ nét, sản xuất nông nghiệp ở nhiều nơi còn phân tán, mang yếu tố tự
phát, việc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất còn chậm
nên năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm nông nghiệp
còn thấp, kém hiệu quả và thiếu bền vững.
1.4.3. Bài học rút ra cho huyện Châu Thành
Từ kinh nghiệm về thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của một
số quốc gia và địa phương trong nước có thể rút ra bài học cho huyện Châu Thành như
sau:
(1) Khuyến khích nông dân đẩy mạnh phát triển các nông sản có lợi thế cạnh
tranh phục vụ xuất khẩu đi đôi với đầu tư thâm canh, đa dạng hóa sản xuất trên cơ sở
địa phương tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống thủy
lợi, hỗ trợ tín dụng, khoa học và công nghệ.
(2) Phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và sử dụng nhiều lao động ở
nông thôn: Chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và sử dụng nhiều
lao động ở nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Theo đó, địa phương cần quy
hoạch các vùng sản xuất chuyên canh kèm theo chính sách khuyến khích đầu tư nhà
máy chế biến, phát triển hệ thống tín dụng và thông tin thị trường ngay tại địa bàn sản
xuất nhằm đảm bảo thị trường đầu ra ổn định cho nông dân.
(3) Ưu tiên đầu tư phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ trong nông
nghiệp: Thực hiện các biện pháp ưu tiên đầu tư phát triển và ứng dụng khoa học -
công nghệ, nhất là công nghệ sinh học để tạo ra các giống mới có năng suất và chất
lượng cao, hỗ trợ tín dụng để nông dân mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ cơ giới
hóa nhằm nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản xuất.
(4) Khuyến khích các công ty, doanh nghiệp tham gia vào thu mua, xuất khẩu
nông sản thông qua chính sách hỗ trợ tín dụng đầu tư xây dựng nhà máy chế biến, kho
chứa nông sản ngay tại địa bàn nông thôn để nông dân yên tâm đầu tư vào sản xuất,
giảm bớt rủi ro.
(5) Tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích các thành phần kinh tế trong
nông nghiệp phát triển: Thúc đẩy các thành phần kinh tế trong nông nghiệp phát triển,
nhất là kinh tế tập thể, kinh tế trang trại và kinh tế tư nhân thông qua chính sách thuế,
kiến lập thị trường tín dụng, thị trường buôn bán vật tư và nông sản, nhằm từng bước
hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hóa, đảm bảo cả về quy mô số lượng cũng
như chất lượng nông sản hàng hóa theo yêu cầu của thị trường.
Chương 2
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN CHÂU
THÀNH TÁC ĐỘNG ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
2.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên
* Vị trí địa lý:
Châu Thành là huyện tiếp giáp với thành phố Long Xuyên - trung tâm của tỉnh
An Giang - về phía Tây sông Hậu, nằm trên tuyến trục động lực Long Xuyên - Châu
Đốc, cửa khẩu biên giới Khánh Bình và Vĩnh Xương, nằm ven sông Hậu. Châu Thành
ở trên tam giác qui hoạch phát triển khu công nghiệp của tỉnh: Cần Đăng - Bình Hòa -
An Châu. Huyện Châu Thành có điều kiện tự nhiên giống như tỉnh An Giang, với diện
tích tự nhiên 35.506 ha, trong đó 86,9% diện tích là đất nông nghiệp, đất phù sa màu
mỡ và diện tích mặt nước ngọt lớn. Chính vì vậy, huyện Châu Thành được xem là nơi
hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nông, ngư nghiệp.
* Đặc điểm tự nhiên:
Khí hậu thủy văn: Châu Thành nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, một
năm có 2 mùa rõ rệt (mùa mưa và mùa khô). Mùa mưa bắt đầu từ tháng 05 đến tháng
11, mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 04 năm sau. Huyện có nền nhiệt độ cao và
ổn định, lượng mưa tương đối lớn và phân bổ theo mùa; chịu ảnh hưởng trực tiếp của
chế độ thủy văn sông Hậu theo chế độ bán nhật triều của biển Đông và dòng chảy
sông Mê Kông. Lượng nước từ các kênh, mương, hệ thống thủy lợi dồi dào đáp ứng
đầy đủ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt của nhân dân. Có hệ thống sông, kênh, rạch lớn,
nhỏ chi chít rất thuận lợi cho việc cung cấp nước ngọt quanh năm. Hạn chế lớn nhất là
hàng năm có lũ, thường xuất hiện từ tháng 08 đến tháng 12 do mực nước sông Mê Kông
dâng cao. Mức độ ngập lụt giảm dần về phía hạ lưu. Nguồn nước dồi dào tạo điều kiện
thuận lợi cho huyện phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với sản xuất nông - ngư nghiệp.
Nguồn nước: Nước mặt khá dồi dào, được cung cấp chủ yếu từ mưa và từ
nguồn nước sông Hậu. Các nguồn nước này có vai trò quyết định đối với cơ cấu mùa
vụ và năng suất cây trồng. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác cần đặc biệt lưu ý các
đặc điểm sau: Từ tháng 7-11, lũ sông Mê Kông đổ về gây ngập úng, thời gian ngập từ
3-4 tháng, độ ngập sâu từ 1-2,5m, vừa gây trở ngại, vừa đem lại lợi ích không nhỏ cho
sản xuất nông nghiệp. Do đó, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở huyện Châu
Thành phải gắn với đặc điểm và khả năng kiểm soát lũ để phát huy lợi thế và khắc
phục hạn chế của lũ.
Đất đai: Huyện Châu Thành có 2 nhóm đất chính, bao gồm: nhóm đất phù sa,
chiếm trên 96% tổng diện tích đất nông nghiệp, còn lại là đất nhiễm phèn. Nhóm đất
phù sa thích hợp với nhiều loại cây trồng, vật nuôi; nhóm đất phèn, chất lượng ngày
càng được cải thiện nhờ canh tác và tưới tiêu hợp lý, phần lớn diện tích sử dụng cho
trồng 2 vụ lúa và trồng nấm rơm đạt hiệu quả khá cao.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
* Đặc điểm kinh tế:
Kinh tế của huyện trong những năm gần đây có mức tăng trưởng khá cao (trên
10%/năm), cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch
vụ, từng bước phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Nổi bật nhất là sản xuất nông
nghiệp và thủy sản, mặc dù điều kiện thời tiết ít thuận lợi, dịch bệnh diễn biến phức
tạp nhưng giá trị sản xuất toàn ngành vẫn tăng với tốc độ cao, cơ cấu sản xuất chuyển
dịch mạnh từ nông nghiệp sang thủy sản, góp phần tăng nhanh sản lượng thủy sản
xuất khẩu.
Hoạt động thương mại, dịch vụ của huyện phát triển ngày càng đa dạng, đã góp
phần thúc đẩy sản xuất phát triển và đáp ứng tốt hơn nhu cầu đời sống của dân cư.
* Phát triển đô thị: Nhìn chung tốc độ đô thị hoá của huyện diễn ra tương đối
nhanh trong thời gian gần đây. Tính đến nay, huyện Châu Thành có tỷ lệ đô thị hoá đạt
14,52% (tỷ lệ này của tỉnh An Giang là 4,2%) với diện tích: 154,38 ha, dân số tập
trung ở đô thị: 25.500 người [Bảng 2.1].
Bảng 2.1: Diện tích, dân số ở đô thị thời điểm 2007
STT Đô thị Diện tích (ha) Dân số (người)
1 Thị trấn An Châu 80 16.000
2 Trung tâm xã Bình Hoà 30,38 4.500
3 Trung tâm xã Cần Đăng 25 3.000
4 Trung tâm xã Vĩnh Bình 15 2.000
Tổng cộng 154,38 25.500
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Châu Thành.
Quá trình hơn 10 năm thực hiện quy hoạch đô thị thị trấn An Châu và một số xã
đã làm thay đổi đáng kể diện mạo Châu Thành từ một huyện có hạ tầng cơ sở thấp
kém so với các huyện lân cận, hàng năm chịu ảnh hương tiêu cực của lũ. Đặc biệt
những năm gần đây, các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trên địa bàn đã
được xây dựng bằng nhiều nguồn vốn khác nhau như: Vốn ngân sách nhà nước, vốn tư
nhân, vốn hỗ trợ của cấp trên… đóng góp tích cực vào việc phát triển đô thị, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của người dân và phát triển kinh tế, xã hội nói chung.
* Đặc điểm xã hội:
Dân số, nguồn nhân lực: Dân số huyện Châu Thành năm 2007 là 176.782
người, mật độ dân số khá cao, 500 người/km2 và phân bổ chủ yếu ở khu vực nông
thôn; lực lượng lao động tăng nhanh, hàng năm có gần 2.500 người bước vào tuổi lao
động, đây là nguồn lao động dồi dào cho sự phát triển. Hơn 72,6% lực lượng lao động
tập trung ở ngành nông nghiệp và thủy sản.
Số người trong độ tuổi lao động là 110.958 người. Nguồn lao động được phân
bổ như sau:
- Số người đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân: 90.891 người.
- Số người trong độ tuổi có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc và chưa có
việc làm: 10.673 người.
- Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đang đi học: 4.894
người.
- Số lao động bổ sung hằng năm: 2.500 người.
Cơ cấu lao động đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng lao động trong sản
xuất công nghiệp, xây dựng lên 8,16%, trong các ngành dịch vụ lên 19,24%. Tỷ trọng
lao động trong nông nghiệp giảm xuống còn 72,6%. Trong đó, lao động ở khu vực nhà
nước là 5%; ở khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác là 95%.
Bảng 2.2: Nguồn lao động xã hội của huyện Châu Thành
giai đoạn 1995-2006
ĐVT: người
Chỉ tiêu
Năm
1995 2000 2005 2006
Nguồn lao động
1. Số người trong độ tuổi lao động
2. Số người ngoài tuổi lao động
96.045
87.911
8.134
106.025
95.926
10.099
116.421
106.524
9.897
117.888
107.824
10.064
Phân phối nguồn lao động
1. Số LĐ đang là việc trong ngành
Kinh tế quốc dân
2. Số người trong độ tuổi LĐ có
khả năng LĐ đang đi học
3 Số người trong độ tuổi LĐ có
khả năng LĐ chưa có việc làm
96.045
81.773
1.017
13.255
106.025
89.160
2.385
14.480
116.421
98.140
4.845
13.436
117.888
99.745
5.035
13.108
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Châu Thành.
Trình độ văn hoá: Theo kết quả điều tra năm 2002 và năm 2004 của tỉnh An
Giang, tỷ lệ dân số của huyện từ 10 tuổi trở lên biết chữ từ 89,17% năm 2002 tăng lên
90,6% năm 2004. Tuy nhiên, mức tăng này còn chậm, chưa theo kịp với tốc độ phát
triển.
Thu nhập và mức sống dân cư: Cùng với phát triển kinh tế, thu nhập và mức
sống của dân cư không ngừng được nâng lên. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển và
so với các nơi khác thì mức độ phát triển đời sống dân cư của huyện còn chậm.
2.1.3. Đánh giá chung về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
Trên cơ sở phân tích một số đặc điểm cơ bản về tự nhiên, kinh tế, xã hội có liên
quan tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp ở huyện Châu Thành có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Những thuận lợi:
- Nằm gần trung tâm của tỉnh (thành phố Long Xuyên) và dọc theo tuyến
đường từ thành phố Long Xuyên đi thị xã Châu Đốc và một số cửa khẩu biên giới,
Châu Thành có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển và giao lưu kinh tế với các địa
phương khác trong và ngoài tỉnh.
- Có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi như đất đai, khí hậu, nguồn nước ngọt…
thuận lợi cho phát triển trồng trọt, chăn nuôi và thuỷ sản. Nhu cầu của thị trường đối
với các mặt hàng nông sản của huyện tiếp tục tăng. Nếu huyện tạo ra được năng lực
mạnh trong lĩnh vực chế biến nông sản thì các sản phẩm nông nghiệp của huyện sẽ có
khả năng mở rộng đáng kể thị phần.
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật, hệ thống giao thông nông thôn, thuỷ lợi, điện trong
nông nghiệp từng bước phát triển, tạo điều kiện đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, theo hướng CNH-HĐH.
- Lực lượng lao động dồi dào, trình độ dân trí khá, người dân có tính cần cù, có
truyền thống và nhiều kinh nghiệm trong trồng trọt và chăn nuôi, có khả năng nắm bắt
tiến bộ khoa học, công nghệ và khả năng sáng tạo; đội ngũ thợ thủ công lành nghề, có
kỹ năng trong sản xuất các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp mà thị trường có nhu cầu;
một bộ phận dân cư và đội ngũ cán bộ quản lý đã bước đầu tiếp cận và quen với nền
sản xuất hàng hoá và cơ chế thị trường. Nếu được đào tạo và có chính sách sử dụng tốt
thì nguồn nhân lực của huyện sẽ trở thành một trong những nội lực quan trọng góp
phần đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng cao và bền vững.
- Huyện Châu Thành được coi là trọng điểm phát triển nông nghiệp của tỉnh, sự
quan tâm đầu tư nhiều hơn cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển
công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm là một lợi thế và cơ hội cho huyện đẩy
mạnh quá trình này.
Những hạn chế:
- Bên cạnh những kết quả đạt được, phát triển kinh tế của huyện cũng còn nhiều
mặt hạn chế, đặc biệt là tỷ trọng nông nghiệp và cây lúa trong cơ cấu GDP của huyện
vẫn còn cao; hiệu quả và sức mạnh của nền kinh tế còn thấp, phụ thuộc nhiều vào khu
vực nông nghiệp; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhìn chung còn yếu kém, nhất là hệ
thống giao thông nông thôn, đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và thu hút đầu tư, tạo
ra những khó khăn nhất định đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
trên địa bàn.
- Thu nhập bình quân đầu người thấp, tình trạng thiếu vốn vẫn tiếp tục là thách
thức lớn cho phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn thu ngân sách chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển và tái đầu tư các lĩnh vực về kết cấu hạ tầng.
- Ngành công nghiệp quy mô nhỏ, thiết bị công nghệ lạc hậu, dựa trên lao động
giản đơn và quy mô hộ gia đình là chủ yếu; ngành thương mại - dịch vụ phát triển
chưa tương xứng với tiềm năng, quy mô các đơn vị trong ngành còn nhỏ lẻ, phân tán;
trình độ, năng lực cạnh tranh thấp, nguồn vốn hiện có chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu
phát triển sản xuất - kinh doanh, khả năng thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài yếu.
- Việc ứng dụng khoa học - công nghệ vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh và
đời sống xã hội còn thấp, hoạt động thủ công là chủ yếu. Mặt bằng dân trí tuy có nâng lên
nhưng vẫn còn ở mức thấp. Số lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ trọng cao, tỷ lệ lao
động qua đào tạo chuyên môn còn ít nhưng lại chưa được sử dụng tốt và có hiệu quả.
Trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở còn yếu, thiếu chủ động. Đây là những trở
ngại lớn cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành.
Như vậy, có thể thấy những tiềm năng và thuận lợi của huyện hiện vẫn
chưa được khai thác tốt, trong khi đó những khó khăn, hạn chế đã và đang tác
động trực tiếp tới sự phát triển kinh tế - xã hội, tới quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp trên địa bàn. Do đó, việc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn đòi hỏi phải vừa giải quyết các vấn đề về đầu
tư phát triển, vừa khắc phục những hạn chế, khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội
của
địa phương.
2.2. THỰC TRẠNG CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN CHÂU THÀNH GIAI
ĐOẠN 1995-2007
2.2.1. Thực trạng cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Châu
Thành
Trong giai đoạn 1995 - 2007, kinh tế của huyện phát triển với tốc độ tăng trưởng
bình quân 10%/năm; GDP bình quân đầu người không ngừng tăng lên, năm 1995 là
3,010 triệu đồng, đến năm 2007 đạt 8,775 triệu đồng; tỷ lệ động viên vào ngân sách nhà
nước bình quân đạt 3,8% GDP. Cơ cấu kinh tế huyện trong hơn 10 năm qua có sự
chuyển dịch theo hướng tích cực: Tỷ trọng khu vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ
năm 1995 lần lượt là 70%, 6,4%, 23,6%, đến năm 2007 là 49,8%, 12,11%, 38,09%.
Trong lĩnh vực nông nghiệp giai đoạn 2001 - 2007, diện tích gieo trồng tăng
3,5% so với giai đoạn 1995 - 2000, hệ số vòng quay của đất tăng lên, đạt 2,07 lần.
Tổng sản lượng lúa năm 2007 đạt 349.440 tấn, tương đương 1.983 kg/đầu người. Sản
lượng thủy sản, đặc biệt là thủy sản nuôi trồng tăng mạnh trong thời gian qua. Cây
màu cũng phát triển khá mạnh và đã đóng góp khá trong cơ cấu sản phẩm nông
nghiệ
p.
Nguồ
n:
Niên
giám
thống
kê
huyện
Châu
Thàn
h.
GDP nông nghiệp bình quân đầu người tăng từ 1,52 triệu đồng năm 1995 lên 2,45 triệu
đồng năm 2007, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 5,18%/năm. Nông nghiệp đóng góp 46,33%
vào mức tăng thu nhập bình quân đầu người, tuy giảm so với năm 1995 (61,53%) nhưng vẫn ở
mức cao. Mặc dù tỷ trọng GDP khu vực nông nghiệp trong tổng GDP của huyện giảm dần
Cơ cấu kinh tế huyện Châu Thành năm 1995, 2000 và 2007
70%
63,10%
49,80%
23,60%
31,10%
38,09%
6,40% 5,80%
12,11%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
1995 2000 2007 Năm
Nông-lâm-thủy sản
Thương mại-dịch vụ
Công nghiệp-TTCN
Biểu đồ 2.1:
nhưng đóng góp của khu vực này vào tăng trưởng GDP của huyện vẫn đạt mức cao; GDP khu
vực nông nghiệp bình quân đầu người cao hơn so với mức bình quân chung của cả tỉnh. Điều
này cho thấy xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện là đúng đắn, theo hướng tích cực,
nâng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ. Tuy
nhiên, so với tiềm năng, lợi thế và yêu cầu đặt ra đối với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH thì
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện trong những năm qua còn bộc lộ một số mặt hạn chế
[Bảng 2.3].
Bảng 2.3: GDP, cơ cấu và tăng trưởng GDP của huyện Châu Thành
giai đoạn 1995 – 2007
Chỉ tiêu ĐVT
Năm
1995 2000 2005 2006 2007
GDP (giá hiện
hành)
trđồng 451.090 627.899 893.321 980.032 997.354
Cơ cấu GDP
Khu vực nông
nghiệp
Khu vực công
nghiệp
Khu vực dịch vụ
%
%
%
%
100
70,03
6,38
23,59
100
63,10
5,80
31,10
100
55.51
10.77
33.72
100
51,67
11,20
37,13
100
49,80
12,11
38,09
Tăng trưởng GDP
Khu vực nông
nghiệp
Khu vực công
nghiệp
Khu vực dịch vụ
%
%
%
%
10,53
0,2
20,16
27,39
5,60
0,4
5,70
23,13
8,88
5,44
16,11
12,55
9,20
3,77
16,12
15,65
10,27
4,00
17,90
18,01
GDP/người (giá
1994)
trđ 3,010 3,923 6,829 7,653 8,775
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Châu Thành.
Mặc dù định hướng phát triển kinh tế của huyện trong nhiều năm qua là tăng
dần tỷ trọng khu vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ, tuy
nhiên tỷ trọng của hai khu vực này tăng chưa đáng kể, tổng tỷ trọng của cả hai khu
vực mới bằng tỷ trọng của khu vực nông nghiệp. Như vậy, về cơ bản kinh tế của
huyện phụ thuộc vào nông nghiệp. Bên cạnh đó, tốc động tăng trưởng hàng năm của
các khu vực không ổn định, biến động rất lớn. Điều này cho thấy mức độ ổn định
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế không cao, việc quy hoạch và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trong thời gian qua của huyện chưa đạt hiệu quả cao. Khu vực nông
nghiệp vẫn là khu vực kinh tế lớn nhất của huyện.
2.2.2. Thực trạng cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp huyện Châu Thành
2.2.2.1. Thực trạng cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp
* Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất:
Cơ cấu giá trị sản xuất các ngành trong khu vực nông nghiệp thời kỳ 1995 -
2007 có sự chuyển dịch mạnh theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp từ 81% năm
1995 xuống 66,75% năm 2007 (giảm 14,25%), tăng tương ứng tỷ trọng thủy sản, trong
đó mức tăng của giai đoạn 2001 - 2007 cao hơn 1,2 lần so với giai đoạn 1995 - 2000.
Nguyên nhân là do có sự điều chỉnh hợp lý các nguồn lực, nhất là đất đai, lao động từ
ngành nông nghiệp sang ngành thủy sản, vừa tạo thuận lợi cho ngành thủy sản tăng
trưởng ở tốc độ cao (14,22%/năm), vừa duy trì được tốc độ tăng trưởng ngành nông
nghiệp ổn định ở mức khá cao (4,58%/năm). Kết quả là tốc độ tăng trưởng giá trị sản
xuất của khu vực nông nghiệp đạt cao.
Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất nội bộ ngành nông nghiệp (trồng trọt, chăn
nuôi, dịch vụ nông nghiệp) thời kỳ 1995 – 2007 thể hiện xu hướng chuyển dịch như
sau: tỷ trọng giá trị sản xuất trồng trọt giảm chậm từ 81,26% năm 1995 xuống 79,66%
năm 2007 (giảm 1,60%); tỷ trọng chăn nuôi tăng từ 12,76% năm 1995 lên 15,89%
năm 2003 (cả thời kỳ 1996 - 2005 chỉ tăng 1,62%); tỷ trọng dịch vụ nông nghiệp
chuyển dịch không rõ xu hướng (dao động từ 6,15 - 8,27%). Nguyên nhân chính là do
chăn nuôi (kể cả những năm trước khi xảy ra dịch cúm gia cầm) và dịch vụ nông
nghiệp vừa có quy mô giá trị sản xuất nhỏ, vừa có tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất
không cao, trong khi trồng trọt vốn đã có quy mô giá trị sản xuất lớn, lại đạt tốc độ
tăng trưởng khá cao (6,83%/năm), đã làm cho quá trình chuyển dịch chậm lại.
- Đối với trồng trọt: Giá trị sản xuất trồng trọt thời kỳ 1995 - 2007 có tốc độ
tăng trưởng khá cao (4,37%/năm), nhưng tốc độ chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất
giữa các nhóm sản phẩm chủ lực lại diễn ra chậm và không ổn định qua các năm, cụ
thể:
+ Nhóm cây lương thực có hạt, chủ yếu là lúa chiếm tỷ trọng giá trị sản xuất lớn và giảm
chậm, giai đoạn 1995 - 2007 giảm 1,5%, do tốc độ tăng trưởng của nhóm cây này khá cao
(3,76%/năm). Năng suất và chất lượng lúa tăng làm cho xuất khẩu gạo được cải thiện, nhất là từ
năm 2003 trở lại đây. Xuất khẩu gạo tăng nhanh cả về số lượng và giá bán, kéo theo giá lúa trong
nước tăng cao (chỉ số tăng giá lúa là 149,4% thời kỳ 1995 - 2005) đã kích thích các hộ trồng lúa
đầu tư thâm canh tăng năng suất, dẫn đến sản lượng lúa tăng mạnh.
+ Nhóm cây ăn quả chiếm tỷ lệ thấp và có tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất không
cao, tuy nhiên chất lượng một số trái cây chủ lực bước đầu được cải thiện, nhưng do điểm
xuất phát về quy mô giá trị sản xuất nhỏ nên tỷ trọng tăng chậm từ 10,24% năm 1995 lên
11,04% năm 2007 (tăng 0,84%).
+ Nhóm các cây còn lại (rau, đậu nành, mía,...) có tỷ trọng giá trị sản xuất nhỏ và
tăng chậm, từ 15,07% năm 1995 lên 15,54% năm 2007 (tăng 0,47%). Trong đó, chỉ có
giá trị sản xuất rau các loại tăng, các cây còn lại hầu hết đều giảm là do thị trường tiêu
thụ chủ yếu trong nước, giá cả không ổn định và tăng chậm (chỉ số tăng giá đậu xanh là
136,2%, đậu nành là 125,9% thời kỳ 1995 - 2005).
- Đối với chăn nuôi: So với các huyện miền núi của tỉnh, huyện Châu Thành có
điều kiện phát triển chăn nuôi ít thuận lợi (trừ chăn nuôi vịt) do tình trạng ngập lũ và
dân cư phân bố theo cụm, tuyến tập trung với mật độ cao. Do tác động của dịch cúm gia
cầm (năm 2004) nên số lượng đàn gia cầm tăng không đáng kể, tuy nhiên trong hai năm
gần đây tổng đàn gia cầm tăng mạnh, tính đến năm 2007 tổng đàn là 653.631 con (chủ
yếu là vịt đàn). Tốc độ tăng trưởng của đàn gia súc trung bình giai đoạn 2000-2007 là
trên 12%/năm (trừ năm 2004).
- Ngành thủy sản: Cơ cấu giá trị sản xuất nội bộ ngành thủy sản (nuôi trồng thuỷ
sản, khai thác thủy sản và dịch vụ thủy sản) của huyện thời kỳ 1996 - 2005 chuyển dịch
mạnh theo hướng: Tỷ trọng giá trị sản xuất khai thác thủy sản giảm; tỷ trọng giá trị sản
xuất nuôi trồng thủy sản tăng nhanh và tỷ trọng giá trị sản xuất dịch vụ cũng tăng.
Nguyên nhân chính là nhờ có sự chuyển hướng khai thác tiềm năng và lợi thế tự nhiên
của huyện từ nông nghiệp sang nuôi trồng thủy sản, dẫn đến tốc độ tăng trưởng của nuôi
trồng và dịch vụ thủy sản tăng cao. Sản lượng thủy sản, năm 2007 đạt hơn 38.440 tấn,
trong đó nuôi trồng chiếm đến 87% tổng sản lượng và sản lượng này mỗi năm tăng trên
20%, đặc biệt năm 2007 tăng đến 62,4%. Đây là định hướng phát triển đúng đắn và đạt
hiệu quả cao của huyện trong việc phát triển nuôi trồng thủy sản, mà chủ lực là cá tra, cá
ba sa; một mặt đã góp phần cung ứng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến, mặt khác
góp phần gia tăng giá trị cho lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản và đã góp phần giải quyết
vấn đề lao động ở nông thôn.
Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp nêu trên đã thu hút
một lực lượng lớn lao động từ khu vực nông nghiệp chuyển sang khu vực thủy sản, làm
tăng sản lượng và giá trị thủy sản xuất khẩu. Tuy nhiên, do sự tăng nhanh về quy mô
diện tích nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là diện tích nuôi tôm chân ruộng ở các vùng trũng
và diện tích nuôi cá tra, cá ba sa ở các xã, thị trấn ven sông Hậu cùng với tình trạng nuôi
trồng một cách tự phát từ năm 2000 trở lại đây đã nảy sinh một số vấn đề bất cập cần
được điều chỉnh: (1) Hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là thủy lợi và các hoạt động dịch vụ
phát triển không theo kịp hoặc thiếu đồng bộ với sản xuất; (2) Môi trường nước ở một
số khu vực nuôi trồng thủy sản bị ô nhiễm; (3) Tỷ lệ nợ xấu và rủi ro trong các hộ nuôi
trồng thủy sản hiện nay khá cao; (4) Chất lượng sản phẩm chưa được kiểm soát chặt
chẽ, nhất là về tiêu chuẩn và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Như vậy, trong cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp của huyện thời gian qua,
lĩnh vực trồng trọt vẫn là bộ phận chủ yếu với cây trồng chính là lúa, tiếp đến là lĩnh vực
thuỷ sản với sự phát triển mạnh của nuôi trồng; trong lĩnh vực chăn nuôi, số lượng và
sản lượng gia súc, gia cầm tăng đều qua các năm. Đây là những thuận lợi cho công tác
quy hoạch và phát triển nông thôn giai đoạn tiếp theo.
Mặc dù quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp đã đạt
được những thành quả nhất định, song nhìn chung, ngành nông nghiệp của huyện vẫn
chưa khai thác hết các tiềm năng hiện có. Sản xuất dựa trên hộ gia đình riêng lẻ, không
có sự liên kết giữa những người sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cao
chất lượng và giá trị sản phẩm, không có sự liên kết giữa sản xuất và chế biến, phân
phối nên người sản xuất nhỏ luôn chịu rủi ro và thiệt thòi.
* Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi:
Trong những năm qua, nông nghiệp vẫn được xác định là ngành quan trọng
nhất trong phát triển kinh tế - xã hội, tạo sự ổn định đời sống của nhân dân và là lợi
thế phát triển của huyện Châu Thành, trong đó, lĩnh vực trồng trọt là lĩnh vực có thế
mạnh vượt trội. Do vậy, huyện đã chú trọng thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi nhằm khai thác các lợi thế cũng như tạo sự chuyển biến mạnh mẽ ở tất cả các lĩnh
vực của ngành nông nghiệp, cụ thể như sau:
- Đối với lĩnh vực trồng trọt:
+ Đối với cây lương thực: Châu Thành là một huyện vùng trũng có nhiều thuận
lợi để phát triển sản xuất lương thực. Với cách nhìn tổng thể, an ninh lương thực thể
hiện ở góc độ vừa sản xuất đủ lương thực cung cấp cho nhu cầu đời sống xã hội, vừa
cung cấp cho lưu thông, chế biến, chăn nuôi, xuất khẩu… góp phần ổn định chính trị -
xã hội, trong những năm qua, huyện đã đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nhất là
chuyển đổi cơ cấu giống lúa chất lượng cao, đưa những giống lúa năng suất, chất
lượng, hiệu qua kinh tế cao vào sản xuất. Nhờ đó, kết hợp với tăng cường đầu tư các
công trình thủy lợi, cải tạo đồng ruộng, áp dụng tiếp bộ khoa học - kỹ thuật vào sản
xuất, nên sản lượng lương thực không ngừng tăng lên cả về lượng lẫn về chất [Bảng
2.4].
Biểu 2.4: Diện tích, năng suất, sản lượng cây lương thực
của huyện Châu Thành giai đoạn 1995 – 2007
Loại cây trồng ĐVT
Năm
1995 2000 2005 2006 2007
Lúa
+ Diện tích
+ Năng suất
+ Sản lượng
Ha
tạ/ha
tấn
53.289
56,95
303.523
56.223
50,4
283.527
56.651
63,14
368.582
55.490
62,9
349.134
55.941
63
349.440
Bắp (ngô)
+ Diện tích
+ Năng suất
+ Sản lượng
Ha
tạ/ha
tấn
125
27,7
348
355
27,8
555
414,2
34,30
1.414
415,3
34,60
1.317
417,4
34,2
1.427,5
- Khoai
+ Diện tích
+ Năng suất
+ Sản lượng
Ha
tạ/ha
tấn
11
22,50
240
3,8
60
22,8
3,7
152
56,2
1,5
165
24
0
0
0
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Châu Thành.
Tuy nhiên, do diện tích gieo trồng không tập trung nên việc thu mua và đầu tư
phát triển sản xuất gặp nhiều khó khăn.
+ Đối với cây màu thực phẩm: Ngoài việc giữ diện tích gieo trồng cây lúa hàng
năm trên 55.000 ha để đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu (năm 1995: 53.289
ha; năm 2000: 57.369 ha; năm 2007: 55.941 ha), huyện đã tạo điều kiện tăng nhanh
diện tích cây thực phẩm (năm 1995: 605 ha; năm 2000: 762 ha; năm 2007: 1.348 ha),
từ đó sản lượng cây màu thực phẩm cũng không ngừng tăng lên, đem lại thu nhập cao
cho người nông dân. [Bảng 2.5]
Bảng 2.5: Diện tích, năng suất, sản lượng cây màu thực phẩm
của huyện Châu Thành giai đoạn 1995 – 2007
Loại cây trồng ĐVT Năm
1995 2000 2005 2006 2007
- Đậu xanh
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
ha
tạ/ha
tấn
86,4
14,36
124,08
7,3
15,2
11,12
19
14,40
27,30
45
14,30
64,50
54,8
15,5
82,74
- Dưa hấu
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
ha
tạ/ha
tấn
0
0
0
11
164
181
48,4
116,30
562,90
89,6
144,40
1.292,80
97,4
149,2
1.453,2
- Rau dưa các loại
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
ha
tạ/ha
tấn
518,6
136,69
7.088,85
755,04
184,2
13.912
953,4
150,10
14.314,3
940
129,90
12.212,5
1.195,8
142,3
17.016
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Châu Thành.
Ngoài ra, huyện đã quy hoạch vùng chuyên canh rau, màu tại xã Bình Thạnh
(diện tích đất cồn nằm giữa sông Tiền, sông Hậu) để tận dụng điều kiện thổ nhưỡng
thuận lợi của vùng này đối với sản xuất rau, màu. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng
trong từng vụ cũng được đặc biệt quan tâm, những giống cây có giá trị kinh tế cao đã
được đưa vào sản xuất trong những năm gần đây, qua đó đã đem lại hiệu quả kinh tế
cao. Tuy nhiên, trong những năm gần đây diện tích rau vụ đông không tăng do không
mở rộng được thị trường tiêu thụ và những hạn chế, yếu kém của công nghệ chế biến
xuất khẩu.
+ Đối với cây công nghiệp ngắn ngày: Cây công nghiệp ngắn ngày của huyện
nhìn chung qui mô nhỏ, diện tích gieo trồng, năng suất, sản lượng có xu hướng tăng
nhưng không đáng kể. Tuy nhiên, do điều kiện thổ nhưỡng và thị trường tiêu thụ nên
nông dân chỉ tập trung vào 02 loại cây chính, đó là cây đậu nành và cây mía. Năm 1995,
diện tích đậu nành là 54,4 ha, mía là 93,5 ha; đến năm 2007, đậu nành là 84 ha, mía là
211,4 ha.
- Đối với ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm:
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của ngành trồng trọt, ngành chăn
nuôi giá súc, gia cầm cũng có sự phát triển khá cả về giá trị sản xuất, số lượng và sản
lượng thịt. Quy mô tổ chức sản xuất, phương thức chăn nuôi truyền thống đã dần được
thay thế bằng chăn nuôi theo hướng công nghiệp và bán công nghiệp. Một số giống
mới được chú trọng như ngan pháp, vịt anh đào, gà tam hoàng, lợn siêu nạc, bò lai
Sind... Tỷ trọng ngành chăn nuôi từ 3,58% trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp (năm
1995) đã tăng lên 7,45% (năm 2007).
Bảng 2.6: Số lượng, sản lượng thịt giá súc, gia cầm
của huyện Châu Thành giai đoạn 1995 – 2007
Năm
Trâu Bò Lợn Gia cầm
Số
lượng
(con)
sản
lượng
(tấn)
Số
lượng
(con)
sản
lượng
(tấn)
Số
lượng
(con)
sản
lượng
(tấn)
Số
lượng
(con)
sản
lượn
g
(tấn)
1995 266 6 981 84 10.204 1.796 224.734 272
2000 150 4 1.034 129 13.756 2.440 218.490 294
2005 327 11 3.271 447 15.250 2.822 223.411 304
2006 344 12 3.695 527 16.488 3.191 323.266 345
2007 375 15 3.820 549 24.671 5.065 653.631 444
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Châu Thành.
- Đối với nuôi trồng thủy sản:
Trong những năm gần đây nuôi trồng thuỷ sản đã thực sự trở thành một trong
những thế mạnh của huyện, do diện tích đất bãi bồi và diện tích đất trũng có khả năng
chuyển đổi sang lập vườn, đào ao thả cá của huyện khá lớn. Trong những năm qua, cơ
bản phần diện tích làm lúa kém hiệu quả đã được chuyển đổi sang đào ao nuôi cá.
Ngoài ra, với lợi thế nguồn nước ngọt dồi dào quanh năm, người dân đã tận dụng để
đóng bè nuôi thủy sản (chủ yếu là cá tra, cá basa, cá điêu hồng, cá rô phi đơn tính) và
diện tích đất bãi bồi đăng quầng để nuôi cá tra. Năm 1995, diện tích thả nuôi là 50,53
ha và 107 chiếc bè; đến năm 2007, diện tích thả nuôi là 459,64 ha và 280 chiếc bè. Mô
hình nuôi tôm chân ruộng cũng tăng nhanh về diện tích thả nuôi, từ đó sản lượng thủy
sản không ngừng tăng lên.
2.2.2.2. Thực trạng cơ cấu kinh tế theo thành phần và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo thành phần kinh tế trong nông nghiệp
Trong những năm qua, thực hiện nhất quán quan điểm của Đảng về phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, các thành phần kinh tế hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp hoặc liên
quan trực tiếp đến lĩnh vực nông nghiệp trên địa bàn huyện đều có bước phát triển.
Kinh tế nhà nước tuy có nhiều khó khăn song vẫn giữ vai trò chủ đạo; kinh tế hộ gia
đình có tốc độ phát triển khá và còn nhiều tiềm năng; kinh tế tập thể đang có bước
chuyển đổi nhưng còn lúng túng, tuy nhiên, cũng đã có một số mô hình tổ chức kinh
doanh dịch vụ hiệu quả, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ; kinh tế tư nhân trong nông
nghiệp còn nhỏ bé nhưng hoạt động mang lại hiệu quả cao.
- Kinh tế nhà nước: Trên địa bàn huyện hiện có 04 doanh nghiệp nhà nước hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp và chế biến thủy sản gồm:
1/ Nhà máy sản xuất thuốc bảo vệ thực vật
2/ Trung tâm giống cây trồng, vật nuôi
3/ Xí nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu (Đông lạnh 8)
4/ Xí nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu (Đông lạnh 10)
Các đơn vị chế biến đã phát huy được vai trò gắn kết giữa nông dân với thị
trường. Các đơn vị dịch vụ giống và vật tư nông nghiệp đã góp phần đáng kể trong
việc chuyển đổi cơ cấu giống cây con, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ trong sản xuất nông
nghiệp, thuỷ sản; thực hiện tốt chính sách hỗ trợ nông nghiệp trong việc mở đại lý
phục vụ tại các cụm xã về giống và vật tư theo chính sách trợ cước, trợ giá cho các xã
vùng sâu, vùng xa; phục vụ tốt công tác chống úng, chống hạn cho sản xuất nông
nghiệp.
- Kinh tế tập thể: Kể từ khi có Nghị quyết 10 (năm 1988) của Bộ Chính trị, các
hợp tác xã nông nghiệp chuyển dần sang làm dịch vụ cho kinh tế hộ gia đình. Toàn
huyện đã thành lập được 08 hợp tác xã, nhưng tính đến ngày 30/6/2005 thì chỉ còn 06
hợp tác xã hoạt động (trong đó: 05 HTX.NN và 01 HTX.TS), với tổng số xã viên là
260, tổng số vốn điều lệ là 510.200.000 đồng. Lĩnh vực hoạt động của hợp tác xã chủ
yếu là dịch vụ bơm tưới và chống úng, ngoài ra còn có những dịch vụ khác như sản
xuất giống chất lượng cao ( HTX.NN An Hòa, Vĩnh Thành). Hiện nay, 06 hợp tác xã
cung ứng dịch vụ cho 899 ha và 25 chiếc bè cá. Các hợp tác xã hoạt động dần dần đi
vào ổn định và làm ăn có lãi, khắc phục được tâm lí e ngại hợp tác xã kiểu cũ, từng
bước thực hiện công tác tương trợ cộng đồng và góp phần xóa đói giảm nghèo [Bảng
2.7].
Bảng 2.7: Danh sách và vốn điều lệ của các Hợp tác xã
ở huyện Châu Thành tính đến thời điểm 31/12/2007
STT
Tên hợp tác xã
Xã viên
tham gia
(hộ)
Diện tích
phục vụ
(ha)
Số bè
hoạt động
(cái)
Vốn điều
lệ
(1000đ)
1 HTX.NN An Châu 34 185 250.000
2 HTX.TS Hòa Phú 13 25 30.000
3 HTX.NN An Hòa 79 285 72.000
4 HTX.NN Hòa A 56 109 67.000
5 HTX.NN Bình An 17 34 20.000
6 HTX.NN Vĩnh Hòa 62 286 71.200
Tổng 260 899 25 510.200
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Châu Thành.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Kinh tế cá thể, tiểu chủ trong nông nghiệp có hình thức
chủ yếu là kinh tế hộ gia đình, trang trại hộ gia đình. Chính sách kinh tế nhiều thành phần,
đã tạo điều kiện để các hộ gia đình nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, được giao
quyền sử dụng ruộng đất lâu dài. Chính sách này đã thực sự tạo ra động lực to lớn thúc
đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, từng bước cải thiện
đời sống nông dân, làm xuất hiện nhiều hộ gia đình làm kinh tế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.pdf