Tài liệu Luận văn Giải pháp cơ bản nhằm khai thác và phát triển có hiệu quả nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam: 1
Luận văn
Giải pháp cơ bản nhằm khai
thác và phát triển có hiệu quả
nguồn lực con người đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá hiện
đại hoá ở Việt Nam
2
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, vai trò quyết định của nguồn lực con người
không chỉ có sức mạnh cơ bắp mà chủ yếu là ở sức mạnh trí tuệ. Xét đến
cùng có thể nói rằng con người là nguồn lực của mọi nguồn lực. Tuy nhiên
để thực hiện thành công vai trò quyết định đó của nguồn lực con người,
người lao động phải có những năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng yêu
cầu của quá trình công nghiệp háo hiện đại hoá đặt ra. Trong nhẽng điều
kiện cách mạng khoa học công nghệ kinh tế thị trường hội nhập quốc tế hiện
nay, phẩm chất đạo đức năng lực trí tuệ, sức khoẻ văn hoá lao động công
nghệ, văn hoá tinh thần những giá trị nhân văn…. trong đó năng lực trí tuệ là
yếu tố quan trọng nhất.
Từ vị trí đặc điểm của nguồn lực con người và những năng lực phẩm
chất cần có ở người lao động, như vậy vấn đề đặt ra là ph...
24 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 996 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp cơ bản nhằm khai thác và phát triển có hiệu quả nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Giải pháp cơ bản nhằm khai
thác và phát triển có hiệu quả
nguồn lực con người đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá hiện
đại hoá ở Việt Nam
2
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, vai trò quyết định của nguồn lực con người
không chỉ có sức mạnh cơ bắp mà chủ yếu là ở sức mạnh trí tuệ. Xét đến
cùng có thể nói rằng con người là nguồn lực của mọi nguồn lực. Tuy nhiên
để thực hiện thành công vai trò quyết định đó của nguồn lực con người,
người lao động phải có những năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng yêu
cầu của quá trình công nghiệp háo hiện đại hoá đặt ra. Trong nhẽng điều
kiện cách mạng khoa học công nghệ kinh tế thị trường hội nhập quốc tế hiện
nay, phẩm chất đạo đức năng lực trí tuệ, sức khoẻ văn hoá lao động công
nghệ, văn hoá tinh thần những giá trị nhân văn…. trong đó năng lực trí tuệ là
yếu tố quan trọng nhất.
Từ vị trí đặc điểm của nguồn lực con người và những năng lực phẩm
chất cần có ở người lao động, như vậy vấn đề đặt ra là phải xem xét đánh giá
1 cách toàn diện thực trạng và đặc điểm của nguồn lực con người ở nước ta
hiện nay để từ đó có hướng khai thác và phát triển hợp lý có hiệu quả nguồn
lực con người đảm bảo cho sự thành công của công cuộc công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước. Bài viết này xin làm sáng tỏ những vấn đề trên.Bài
viết gồm.
Chương I: cơ sở khẳng định vai trò của nguồn lực con người, nguồn
nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hóa.
Chương II: Thực trạng nguồn lực cong ngừơi Việt Nam và những vấn
đề đặt ra trước yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Chương III: giải pháp cơ bản nhằm khai thác và phát triển có hiệu quả
nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt
Nam
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC
CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI
HOÁ(CNH-HĐH)
I. khái niệm cơ bản nguồn lực con ngừơi, quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá.
3
1 khái niệm cơ bản về nguồn lực con người.
Đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về nguồn lực con người nhưng
đều đặc điểm chung về nguồn lực con người đó là khái niệm chỉ số dân, cơ
cấu dân số và nhất là chất lượng con người với các đặc điểm và sức
mạnhcủa nó trong sự phát triển của xã hội. Với cách hiểu như vậy khái niệm
“ nguồn lực con người” cso nội dung lớn nó bao gòm những mặt cơ bản sau:
Lịch sử loài người trước hết là lịch sử lao động sản xuất, khái
niệm “nguồn lực con người” trước hết cũng được biểu hiện ra là
người lao động lực lượng lao động là nguồn lao động đồng thời khái
niệm “ nguồn lực con người” cũng phản ánh quy mô dân số thông qua
số lượng dân cư và tốc độ tăng dân số của một nước trong một thời
kỳ.
Khái niệm “ nguồn lực con người” cũng được phản ánh ở khía
cạnh cơ cấu dân cư và cơ cấu lao động trong các ngành các vùng, cơ
cấu lao động qua đào tạo trong các lĩnh vực và khu vực kinh tế, cơ cấu
trình độ tuổi trong lực lượng lao động cơ cấu nguồn lao động dự trữ.
Khái niệm “nguồn lực con người” chủ yếu phản ánh phương
diện chất lượng dân số đặc biệt là chất lượng của lực lượng lao động
trong hiện tại và trong tương lai gần thể hiện qua hàng loạt yếu tố: sức
khoẻ cơ thể, sức khoẻ tâm thần, mức sống, tuổi thọ, trình độ giáo
dục… trong đó trí lực và thể lực, đạo đức là những yếu tố quan trọng
nhất quýêt định chất lượng và sức mạnh của nguồn lực con người.
Khái niệm “nguồn lực con người” hàm chứa cả sự liên hệ tác
động lẫn nhau giữa các yếu tố nội tại trong nó, sự ảnh hưởng qua laị
giữa nguồn lực con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội, giữa nguồn lực con người với các nguồn lực khác.
Khái niệm “nguồn lực con người” còn chỉ ra rằng con người
được xem xét với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại cơ bản
trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội. Nguồn lực con
người khác các nguồnlực khác ở chỗ có nó các nguồn lực khác mới
phát huy được tác dụng và có ý nghĩa tích cực với sự phát triển xã hội
vì thế nó là nguồn lực của mọi nguồn lực.
4
Sức mạnh của nguồn lực con người được biểu hiện qua sức mạnh của
thể lực, trí lực, đạo đức niềm tin, ý trí….Sự thống nhất biện chứng giữa sức
mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng
xã hội không chỉ trong thực tế mà còn ở dạng tiềm năng.
Bên cạnh khái niệm “nguồn lực con người” ta còn bất gặp khái niệm “khái
niệm nguồn nhân lực”. Khái niệm nguồn nhân lực ngoài nghĩa rộng được
hiểu như khái niệm nguồn lực con người nó còn được hiểu theo nghĩa hẹp là
nguồn lao động thậm chí còn được hiểu là lực lượng lao động …
2. Khái niệm về quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá( CNH-HĐH)
Hội nghị ban chấp hành TW khoá 7 cho rằng: quá trình công nghiệp
hóa là quá trình cải biến căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh dịch vụ, quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là
chính sang sử dụng sức lao động cùng với công nghệ phương tiện phương
pháp tiên tiến hiện đại nhằm tạo ra năng suốt lao động xã hội cao.
II. Cơ sở khẳng định vai trò của nguồn lực con người trong quá trình
CNH-HĐH .
1. Cơ sở triết học
Chúng ta có các loại nguồn lực thúc đẩy quá trình CNH-HĐH là
nguồn lực con người,vốn tài nguyên thiên nhiên cơ sở vật chất kỹ thuật và
nguồn lực nứơc ngoài. Các nguồn lực có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng
tham gia vào quá trình CNH-HĐH nhưng mức độ tác động lẫn nhau và vai
trò của chúng đối với toàn bộ quá trình không giống nhau trong đó nguồn
lực con người giữ vai trò quýêt định.
Vai trò quyết định của nguồn lực con người đã được C.Mác đặc biệt
chú ý và luận giải một cách khoa học: con người không chỉ là sản phẩm của
tự nhiên mà còn là chủ thể cải biến tích cực cải biến tự nhiên và xã hội con
người là điểm khởi đầu và cũng là điểm kết thúc của mọi quá trình biến đổi
lịch sử cách mạng sự biến đổi xã hội tập chung và sâu sắc là sự nghiệp của
quần chúng lao động con người là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng
sản xuất là lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại.
5
2. Cơ sở thực tiễn.
Vai trò của nguồn lực con người trong quá trình CNH-HĐH được thể
hiện qua các kỳ đại hội Đảng toàn quốc.
Đại hội lần thứ 4 ban chấp hành TW khoá VII của Đảng ta
khẳng định: con người chủ thể của mọi sáng tạo mọi nguồn của cải
vật chất và văn hoá của mọi nền văn minh của các quốc gia.
Đại hội lần thứ 8 của Đảng tiếp tục khẳng định: nâng ca dân trí
bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là
nhân tố quyết định sự thắng lợi của công cuộc CNH-HĐH.
Đại hội khoá IX vẫn tiếp tục khẳng định: nguồn nhân lực con
người là yếu tố cơ bản để phát triển xã hộităn trưởng kinh tế nhanh và
bền vững, con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát
triển đất nước trong thời kỳ CNH-HĐH.
Từ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đã chứng minh: nguồn lực con
người là nguồn lực duy nhất mà nhờ nó các nguồn lực khác mới phát huy
được tác dụng và có ý nghĩa tích cực đối với quá trình CNH-HĐHvới ý
nghĩa đó là nguồn lực cong người là yếu tố tất yếu không thể thay thế được.
6
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG NGUỒN LỰC CON NGỪƠI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRƯỚC YÊU
CẦU CNH-HĐH
I.thực trạng nguồn lực con người.
Nguồn lực con người ở nước ta hiện nay là vấn đề lớn và bức xúc đã
và
đang thu hút nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Song cho đến nay,
việc phân tích và đánh giá thật đầy đủ chính xác, khách quan và toàn diện về
vấn đề này còn là điều nan giải. ở đây em xin trình bày một những nét cơ
bản xung quanh thực trạng nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.
Nguồn lực con người của mỗi nước luôn vận động biển đổi cả về số
lượng và chất lượng lẫn cơ cấu. Vì thế, việc xem xét đánh giá nguồn lực
người ở mỗi quốc gia cũng có tình lịch sử, tương ứng với trình độ phát triển
kinh tế xã hộ trong từng giai đoạn nhất định.
1.Về số lượng nguồn lực con người.
Số lượng nguồn lưc con ngừơi được phản ánh qua quy mô dân số và
tốc độ gia tăng dân số trong một thời kỳ nhất định.Theo số liệu thống kê
những năm gần đây tốc độ tăng dân số và lực lượng lao động của nước ta
khá cao và liên tục nên nguồn bổ sung vào đội ngũ lao đông là rất lớn. Tốc
độ tăng dân số thực tế qua các năm trở lại đây 2001-2005 tăng bình quân
khoảng 2,8%/ năm. Nghĩa là trong suốt thời kỳ chúng ta tiến hành CNH-
HĐH nguồn lao động rất dồi dào. Đây là thuận lợi của quá trình CNH_HĐH
ở nước xét từ góc độ cung ứng số lượng lao động, đồng thời cũng là khó
khăn nếu nền sản xuấ xã hội không đáp ứng đủ việc làm cho người lao động.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do trong nhiều thập kỷ nước ta có
tốc độ tăng dân só cao, trongkhi đó nền sản xủât xã hội lạikém phát triển
không đáp ứng được phân công lao động xã hội. Mặt khác ngoài số lao động
gia tăng tự nhiên hàng năm, những người ngoài lực lượng lao động như
người về hưu, trẻ em, học sinh đang học tại các trường chuyên nghiệp cũng
có nhu cầu việclàm khá lớn. Ngoài ra, cần thấy rằng cơ cấu kinh tế nông
thôn nước ta về cơ bản vẫn là thuần nông(80% lao động nông nghiệp, 20%
lao động phi nông nghiệp) mà đất canh tác bình quân lại thấp nên hệ số sử
dụng quỹ thời gian lao động bình quân cho một lao động nông thôn rất thấp.
hiện tại lực lượng lao động tăng thêm hàng năm trên 1 triệu lao độngcộng
7
với trên 2 triệu lao động chưa có việc làm ở nông thôn, tận dụng hết quỹ thời
gian lao động cần có thêm xấp xỉ 8 triệu chỗ làm việc. Trên thực tế 3 năm
2001-2003 chỉ mới tạo được 4,3 triệu việc làm. Do đó sức ép về việc làm
nước ta hiện nay là rất lớn.
Tóm lại, quy mô dân số và lực lượng lao động ở nước ta gia tăng ở
mực cao mặc dù những năm gần đây tốc độ tăng dân số có chậm laị. Quy mô
dân số đông lực lượng dồi dào, đó là sức mạnh quốc gia là yếu tố cơ bản để
mở rộng và phát triển sản xuất. Nhưng đối với các nước chậm phát triển,
trong đó có nước ta, khả năng mở rộngvà phát triển sản xuất rất hạn chế,
nguồn vốn, trang thiểt bị, nguyên nhiên vật liệu thiếu thốn, cơ sở hạ tầng yếu
kém…. thì nguồn lao động đông, thiếu việc làm là bài toàn nan giải mà nước
ta đã, đang và sẽ tiếp tục giải quyết trong những thập kỷ tới.
2.Về cơ cấu nguồn lực con ngừời.
Cơ cấu nguồn lực con người phản ánh qua cơ cấu dân cư , cơ cấu lao
động trong các ngành, cơ cấu lao động đã qua đào tạo trong các lĩnh vực và
các khu kinh tế , cơ cấu lao động trình độ lao độn, cơ cấu độ tuổi trong lực
lượng lao động, cơ cấu nguồn lao động dự trữ trong các trường đại học cao
đẳng trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Theo số liệu thống kê những năm gần đây cơ cấu dân cư và lao động
ở nước ta đã có sự chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng lao động trong các ngành
nông –lâm-ngư nghiệp có xu hướng giảm dần lao động trong công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ tăng mặc dù tốc độ còn chậm. Tuy nhiên so với chỉ tiêu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra: nông – lâm-
ngư nghiệp 20-21% công nghiệp và xây dựng38-39% các ngành dịch vụ41-
42%thì tốc độ chuyển dịch cơ cấu còn quá chậm, dẫn đến khoảng cách khá
xa giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Nhưng điều đáng chú ý hơn là cơ
cấu lao động được đào tạo giữa các ngành các vùng các khu vực sản xuất
các dạng lao động và giữa các trình độ còn bất hợp lý. Nông thôn chiếm gần
70% dân số và lao động nhưng chỉ chiếm 47,38% lực lượng lao động đựơc
đào tạo cả nước, đặc biệt trong gần 60% lao động làm việc ở lĩnh vực
nông,lâm,ngư nghiệp số đào tạo mới chỉ chiếm 7%. Đây thực sự là trở ngại
lớn khi tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Trong khu vực sản xuất số lao động được đào tạo chỉ chiếm 34,35%
tổng số lao động được đào tạo, còn 65.56% thuộc khu vực phi sản xuất. Số
cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học làm việc trong khu vực
8
sản xuất kinh doanh chỉ chiếm 32,7% còn lại 67,3% ở khối cơ quan hành
chính sự nghiệp. Số lao động có trình độ cao được phân bố không hợp lý,
chủ yếu tập trung ở Hà Nội sau đó là Thành Phố Hồ Chí Minh và một số
thành phố khác. Lực lượng lao động chủ yếu là lao động cơ bắp, lao động trí
tuệ chiếm mộ tỷ lệ khá nhỏ. Đến năm 2003, lao động trí tuệ mới đạt 18%,
lao động chân tay 82% trong khi ở các nứơc phát triển tỷ lệ đó tương ứng
72% và 28%. Tỷ lệ này phản ánh sự lạc hậu về kỹ thuật, công nghệ của nền
sản xuất và trình độ thấp của nền lao động.
Về cơ cấu trình độ của lực lượng lao động, đến cuối năm 2003 tỷ lệ
lao động qua đào tạo nghề trong lực lượng lao động là 17,5%. Cụ thể có
khoảng 4.9 triệu lao động có trình độ sơ cấp hoặc có chứng chỉ nghề 1,47
triệu lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp , khoảng 1,3 triệu lao
động có trình độ cao đẳng, đại học hơn 10 nghìn thạc sĩ. Riêng tiến sĩ, phó
giáo sư và giáo sư đến tháng 5 năm 2002 cso khoảng 13500 người. Nghĩa là
tỷ lệ đại học- trung học chuyên nghiệp- công nhân kỹ thuậtlà 1-1,75-2,3. Tỷ
lệ này nói lên sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu trình độ lao động.
Đáng lưu ý là sự mất cân đối này chẳng những chưa được khắc phục mà
còngia tăng trong thời gian tới bởi số học sinh được đào tạo bậc công nhân
kỹ thuật và trunghọc chuyên nghiệp được đào tạo ngày càng giảm so với sự
gia tăng học sinh bậc đại học cao đẳng. Điều này làm cho nguồn lao động
được đào tạo vốn đang rất thiếu ở nước ta lại bị ế thừa, tình trạng thừa thầy
thiếu thợ hơn nữa người thiết kế nhiều hơn người thi công về mặt tỷ lệ so
với yêu cầu của thị trường lao động trong lực lượng lao động ở nước ta trong
những năm tơi là một thực tế. được đào tạo không chỉ quá thấp mà còn bất
hợp lý. Chúng ta có cả cán bộ trên đại học, đại học, trung học chuyên nghiệp
và công nhân kỹ thuật lành nghề nhưng thiếu hụt nghiêm trọng hơn cả là
chuyê gia đầu ngành và công nhân kỹ thuật lành nghề- kỹ thuật viên.
Về cơ cấu độ tuổi của lực lượng lao động, nói chung lực lượng lao
động nước ta xếp vào loại trẻ 54% số người lao động là thanh niên (16-35
tuổi) hàng năm có thêm 1,2 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Lực
lượng lao động trẻ cí thuận lợi về sức khoẻ, tính năng động, sáng tạo ,có
trình độ văn hoá khá cao, khả năng tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến
nhanh. Tuy nhiên đội ngũ lao động có trình độ cao lại đang bị già hoá rất
nhanh và có hẫng hụt lớn giữa thế hệ Số công nhân bậc cao đa phần xấp xỉ
tuổi 50 trong số trên 10000cán bộ khoa học bậc cao thì bình quân của tiến sĩ
là 52,8% giáo sư ở độ tuổi 51-70 chiếm 96% dưới 50 tuổi chỉ chiếm 4%, phó
giáo sư độ tuổi 51-70 chiếm 82% dưới 50 chỉ có 18%.
9
3. Về chất lượng nguồn lực con người.
Chất lượng con người quyết định sức mạnh của nguồn lực con người,
nó bao gồm các yếu tố như: sức khỏe,mức sống, trình độ giáo dục, đào tạo
về văn hoá và chuyên môn nghề nghiệp,trình độ học vấn, năng lực sáng tạo,
khả năng thích ứng, kỹ năng lao động, văn hoá lao động,đạo đức, tâm lý,tư
tưởng , tình cảm,tính cách, lối sống,…song khái quát lại, gồm: thể lực,trí lực
và những phẩm chất đạo đức- tinh thần của con người.
Về thể lực.
Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, tầm vóc và thể lực của con người
Việt Nam đang được cải thiện về chiều cao, cân nặng, tỷ lệ suy dinh
dưỡngvà tuổi thọ. Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam đã tăng từ
1,56m năm 1994 lên 1,58m năm 2000. Tuổi thọ trung bình của người Việt
Nam tăng từ 65 tuổi năm 1989 lên 68,5 tuổi năm 2000. tỷ lệ suy dinh dưỡng
trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 44,9% năm 1995 xuống còn 33,1% năm 2000 và
30,1% năm 2002, nhưng tỷ lệ như thế này là vẫn còn rất cao. Thể lực của
người việt nam vẫn còn kém hơn nhiều so với một số nước trong khu vực và
so với yêu cầu nguồn lực con người cần có ở nước ta. Hiện tại nước ta nằm
trong số các nước có mức sống thấp nhất thế giới( GDP tính theo đầu ngừời
là 410 USD vào năm 2001) và thấp hơn 12 lần thu nhập bình quân đầu
người của thế giới (5150 USD). Đến cuối năm 2003, Việt Nam vẫn còn 29%
dân số sống dưới mức thu nhập 1USD / ngày và 50% dân số sống dưới thu
nhập 2 USD/ngày, 12 % hộ nghèo và chỉ có 55% dân số nông thôn có nước
sạch. Mức thu nhập thấp như vậy mà tôc độ tăng dân số vẫn còn cao, trình
độ hiểu biết về dinh dưỡng và sức khoẻ của nhân dân lại thấp, nên đã ảnh
hưởng trực tiếp đên vịêc nâng cao chất lượng sống, trong đó có vấn đề giáo
dục và chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ . Điều kiện lao động trong nhiều cơ sở và
cácc ngành sản xuất cũng như trong một số ngành cơ quan hành chính sự
nghiệp của nước ta còn rất khắc nghiệt, môi trường lao động bị ô nhiễm
nghiêm trọng, các yếu tố nguy hiểm và độc hại vượt quá ngưỡng giới hạn
cho phép nhiều lần; tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có chiều hướng
tăng, nhất là khu vực kinh tế tư nhân va hợp tác xã: tất cả những điều này
cho thấy chất lượng dân số nói chung và người lao động nói riêng về mặt thể
lực, sức khỏe cũng như điều kiện lao động không bảo đảm, cần phải được
cải thiện căn bản. Nói cách khác thu nhập thấp, đời sống khó khăn, dinh
10
dưỡng thiếu, thể lực hạn chế, đó là trạng thái chung cuả nguồn lực con người
nước ta hiện nay về phương diện mức sống và sức khoẻ.
Về trí lực.
Chất lượng nguồn lực con người được phản ánh qua sức mạnh trí tuệ
đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng của nguồn lao động, đặc
biệt trong điều kiện trí tuệ hoá lao động hiện nay. Trình độ trí tuệ biểu hiện ở
năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi và kỹ năng lao động nghề nghiệp của
người lao động thông qua các chỉ số: trình độ văn hoá, dân trí, học vấn trung
bình của một người dân; số lao động đã qua đào tạo, trình độ và chất lượng
đào tạo; mức độ lành nghề (kỹ năng,kỹ xảo…)của lao động; trình độ tổ chức
quản lý sản xuất kinh doanh; năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động;…
Nói chung, người Việt Nam có tư chất thông minh, sáng tạo , có khả
năng vận dụng và thích ứng nhanh, đó là ưu thế nổi trội của nguồn lực nước
ta. Những phẩm chất này khẳng định năng lực trí tuệ củangười Việt Nam có
thể theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ hiện đại . Nếu được đào tạo và
sử dụng hợp lý, người lao động nước ta có khả năng làm chủ được các loại
hình công nghệ từ đơn giản đến phức tạp và hiện đại. Theo đánh giá của
nhiều chuyên gia, nhiều nhà đầu tư nước ngoài, ngừơi lao động Việt Nam
nhanh nhạy hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực.
Tuy nhiên, phải khách quan thừa nhận rằng năng lực chuyên môn,
trình độ tay nghề, khả năng biến trí thức thành kỹ năng lao động nghề
nghiệp của người lao động nước ta còn hạn chế, chưa đáp ứng được các yêu
cầu của quá trình CNH-HĐH. Nguyên nhân chính là do mặt bằng dân trí ở
nứơc ta còn thấp, tốc độ nâng cao dân trí trong nhiều năm qua hết sức chậm
chạp. đáng lo ngại hơn là, mặc dù trong suốt mấy chục năm qua chúng ta đã
cố gắng nhiều để đạt được tỷ lệ hơn 90% dân số biết chữ, nhưng hiện nay
lại diễn ra quá trình tái mù chữ nghiêm trọng, nhất là các tỉnh miền núi, vùng
sâu, vùng xa( có xã số người mù chữ lên tới 70% trong số trẻ em ở độ tuổi đi
học chỉ có hơn 50% trẻ em học cấp I). Tình trạng hiện tồn này sẽ đẻ ra
những hậu quả lớn nhường nào sau 10- 15 năm nữa! Bởi lẽ chính thế hệ trẻ
hiện nay sẽ là chủ nhân của công cuộc CNH-HĐH trong những năm tới.
Mặt khác,cho đến nay đại bộ phận lao động nước ta chưa được đào
tạo đầy đủ, đến cuối năm 2003 số người được đào tạo mới chỉ chiếm 17,5%
tổng số lao động cả nước và hiện vẫn còn 3,74% lao động không biết chữ.
11
Trong cơ cấu đội ngũ lao động ở các cơ sở sản xuất của nước ta đội ngũ
công nhân và lao động giản đơn chiếm 82%, đội ngũ các nhà kỹ thuật quản
lý, phát minh và đổi mới công nghệ chỉ chiếm 18%, trong khi tỷ lệ tương
ứng ở các nước phát triển là 28% và 72%.
Như vậy chưa nói đến chất lượng đào tạo và sự phù hợp giữa kiến
thức đào tạo trước đây với việc làm hiện nay ra sao, mà chỉ riêng những chỉ
số trên đã cho thấy tỷ lệ lao động được đào tạo ở nứơc ta là quá thấp vì vậy
chất lượng lao động nói trên rất hạn chế. Đáng chú ý là số lao động được đào
tạo đã thấp mà hiện tại vẫn còn 2,2% trong tổng số lao động có trình
độchuyên môn kỹ thuật chưa có vịêc làm. Thêm vào đó, chỉ khoảng 70% số
ngừời có trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp làm việc đúng
ngành nghề đào tạo. Chẳng hạn trong số học sinh tốt nghiệp các ngành nông,
lâm ngư nghiệp ở các trường trung học chuyên nghiệp chỉ trên 40% làm việc
đúng ngành nghề, còn trong số sinh viêc tốt nghiệp đại học ở các khoa này
thì chỉ khoảng 20% làm việc đúng ngành đào tao. Trong số lao động chuyển
ngành nghề so với ngành nghề đào tạo chỉ có 42,5% được đào tạo lại, số còn
lại 57,5% làm trái nghề, coi như chưa đào tạo. ở khu vực hành chính sự
nghiệp và bộ máy sản xuất kinh doanh khu vực nhà nứơc hiện có khoảng
30% cán bộ,nhân viên không đủ trình độ chuyên môn hoặc làm không đúng
nghề, họ làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm…Tình hình này làm cho chất
lượng nguồn lao động càng thêm hạn chế.
Trong thành phần nguồn lực con người trong quá trình CNH-HĐH,
đội ngũ công chức hành chính nhà nước là bộ phận rất quan trọng, chịu trách
nhiệm vận hành bộ máy nhà nước về mọi mặt. Nhìn chung, chất lượng đội
ngũ công chưc những năm qua đã được củng cố và nâng lên một bước, song
so với yêu cầu quản lý của nhà nước trong thời kỳ CNH-HĐH thì thật là bất
cập. Hiện tại có 10%công chức chưa tốt nghiệp phổ thông; 60,5% công chức
tốt nghiệp,đại học cao đẳng; 4,41% công chức có trình độ trên đại học;
4,28% có trình độ lý luận chính trị cao cấp; 28,26% có trình độ lý luận trung
cấp; 37,07% có trình độ tiếng Anh (A,B,C); 14,47% đã qua đào tạo quản lý
hành chính nhà nước; 4,43% đã qua đào tạo quản lý kinh tế; 27,19% được
đào tạo về tin học.
Như vậy chât lượng đội ngũ công chức nước ta còn thấp so với yêu
cầ, điều này không chỉ thể hiện ở tỷ lệ số công chức được đào tạo trong môi
trường và điều kiện làm việc theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp,
nên chịu ảnh hưởng nặng của cơ chế và cách làm việc kiểu công chức cũ, “
sớm vác ô đi, tối vác về” số được đào tạo theo quan điểm nhà nước pháp
12
quyền, cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế trong điều kiện định hướng
XHCN còn ít,vì thế tính năng độn, khả năng thích ứng của công chức nói
chung bị hạn chế.
Trong quá trình CNH-HĐH, đội ngũ công nhân công nghiệp là lực
lượng trụ cột, vậy mà đội ngũ này ở nước ta hiện nay vừa nhỏ bé về số
lượng lại vừa yếu về chất lượng. Hiện tại, đội ngũ công nhân nứơc ta có
khoảng 1,76 triệu người làm việc trong khu vựckinh tế quốc hoanh và
khoảng 3,64 triệu ngừơi làm việc ngoài khu vực quốc doanh; trongđó có
khoảng 2 triệu công nhân kỹ thuật. Đây là lực lượng quan trọng trực tiếp vận
hành thiết bị, máy móc, các công nghệ hiện đại của các ngành kinh tế kỹ
thuật trong sự nghiệp CNH-HĐH. Tuy vậy trong số công nhân ở khu vực
quốc doanh chỉ có khoảng 50% được đào tạo tại các trường dạy nghề, số còn
lại được tuyển dụngbằng nhiều con đường khác nhau, không qua thử tay
nghề tuổi đời bình quân của công nhân tăng lên do những năm gần đay sơ
lượng công nhân trẻ được nhận vào làm việc ít. Đi đôi với hiện tượng đó là
sự già hóa , đứt đoạn và giảm đi đội ngũ công nhânlành nghề, thợ bậc cao,
thợ giỏi nhất là khu vực kinh tế quốc doanh( công nhân bậc 5, bậc 6, bậc 7
chỉ chiếm 3,9% tổng số công nhân). Tuy nhiên hiện nay nước ta có gần 70%
công nhân khu vực kinh tế quốc doanh có trình độ từ phổ thông cơ sở trở
lên, nhưng nội dung kiến thức mà nhà trường trang bị cho họ còn thiếu hụt
và lạc hậu, chưa bảo đảm đủ điều kiện để tiếp cận công nghệ hiện đại. Đội
ngũ công nhân nước ta nói chung chưa có văn hoá lao động công nghiệ, hạn
chếvề trình độ, thiếu tính kỷ luật và trách nhiệm nghề nghiệp… đó chính là
thực trạng đáng lo ngại.
Đội ngũ trí thức- lực lượng nòng cốt trong CNH-HĐH tuy chưa nhiều
nhưng những năm gần đây phát triển khá nhanh. Lao động có trình độ cao
đẳng trở lên từ 800000 năm 1995 len 1,3 triệu người năm 2000; số tiến sĩ
chuyên ngành và tiễn sĩ khoa học tăng từ 9300 năm 1995 lên 135000 người
năm 2000. Còn theo số liệu thống kê của hội đồng chức danh nhà nước thì
đến cuối năm 2002 cả nước có hơn 1000 giáo sư và khoảng 4000 phó giáo
sư trong đó có một số người là chuyên gia đầu ngành về khoa học kỹ thuật
công nghệ trình độ quốc tế. Còn theo thống kê của bộ nội vụ thì đến năm
2004 cả nước đã có khoảng 5497 giáo sư, phó giáo sư trong đó đang làm
việc là 3075 chiếm 56,1%. Đó là những con số đáng mừng là nguồn vốn quý
giá của đất nước mà không phải nước đang phát triển nào cũng có được khi
bước vào CNH-HĐH. Tuy vậy so với một số nước trong khu vực và so với
yêu cầu cấp bách của sự nghiệp CNH-HĐH trong điều kiện ngày nay thì
những con số đó còn quá nhỏ nhoi.
13
Về những phẩm chất đạo đức- tinh thần của người Việt Nam.
Xem xét chất lượng nguồn lực con người không thể không nói đến
đạo đức tư tưởng văn ho, tâm lý, tính cách… của con người. Đấy là những
phẩm chất đạo đức tinh thần có vai trò hết sức quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng nguồn lực con người nó thúc đẩy tích cực và làm gia
tăng hiệu quả hoạt động của con người. Những phẩm chất đạo đức tinh thần
trên không chỉ do tồn tại xã hội đương thời chi phối mà nó chịu ảnh hưởng
dai dẳng của xã hội trước, nhất là khi đã trở thành truyền thống. Con người
là sản phẩm của lịch sử, nên cho dù có ý thức hay không đều mang trong
mình một di sản truyền thống nhất định mà truyền thống thì bao gồm cả
những yếu tố giá trị tích cực lẫn yếu tố giá trị tiêu cực. Vì vậy trong tư
tưởng, đạo đức, văn hoá, tâm lý, tính cách của con người Việt Nam hôm nay
bên cạnh những giá trị truyền thống tốt đẹp có cả những di sản không tốt từ
truyền thống cần được khắc phục trong quá trình phát triển
II. Những đòi hỏi về nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Quá trình công nghieeph hoá, hiện đại hoá tự bản thân nó đặt ra những
đòi hỏi khách quan về số lượng, cơ cấu và chất lượng nguồn lực con người
với những năng lực và phẩm chất cần thiết, thích ứng với bối cảnh ngày nay.
Đó là thời kỳ hoà bình xây dung đất nước, thời kỳ cách mạng khoa học –
công nghiệp phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, là thời kỳ công nghiệp hoá
gắn với hiện đại hoá, với xu thế trí tuệ hoá lao động; là thời kỳ mở rộng
quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế, hội nhập quốc tế. Thời kỳ hiện nay
cũng là thời kỳ phát triển con người công nghệ - nhân văn, đi đôi với xu
thhes dân chủ hoá, nhân văn hoá đời sống xã hội, đặc biệt là kết hợp khai
thác các giá trị truyền thống và hiện đại phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Trong điều kiện mới với những đặc điểm như vậy, quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta giờ đây đòi hỏi người lao động phải có
những năng lực và phẩm chất nhất định, khác với thời kỳ trước.
Trước hết, người lao động Việt Nam phải có lòng yêu nước thiết tha,
có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần tự cường dân tộc, có lòng tự trọng
14
dân tộc cao, quyết chí đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện
thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh, để “sánh vai cùng các cường quốc năm châu
khác”.Lòng yêu nước đó phải thấm sâu vào con tim, khối óc và phải được
biểu hiện bằng nhưng tình cảm, hành động, việc làm cụ thể, chứ không phải
một tình yêu trừu tượng hoặc mơ hồ nào đó. Nhà văn lớn của nước Nga
Êrenbua có một đoạn văn đại ý: Như dòng suối chảy vào sông, sông đổ vào
đại trường giang Vônga, sông Vonga đi ra bể, lòng yêu nước bắt nguồn từ
tình yêu nhà, yêu quê hương, những tình yêu cụ thể thành tình yêu lớn, tình
yêu tổ quốc,… Lòng yêu nước là phẩm chất quý báu, hết sức cần thiết của
người lao động Việt Nam cũng như của nhân dân lao động các nước khác
trên thế giới, bởi nếu không có những công dân yêu nước, có lòng tự trọng,
tự tôn, tự cường dân tộc cao, có sự hợp tác, cố kết dân tộc chặt chẽ … thì sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá khó mà gặt hái được thành công.
Không phải ngẫu nhiên mà Nhật Bản và các nước công nghiệp mới châu á
rất coi trọng việc giáo dục nhân dân về đạo lý, văn hoá, trách nhiệm công
dân, ý thức dân tộc và truyên thống. Có thể nói đó là một trong những nhân
tố quyết định sự thành công trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
của họ. Chẳng thế mà trong cuốn Chuẩn bị cho thế kỷ XXI, nhà sử học Mỹ
Paul Kennedy đã đánh giá Nhật Bản là “Một trong những lòi giống đồng
nhất và có ý thức về bản ngã nhất trên thế giới”, là “Một xã hội công dân cố
kết, tự trọng và có ý thức cộng đồng”.
Tuy nhiên, tinh thần yêu nước được biểu hiện ở các dân tộc không
hoàn toàn giống nhau và trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, mỗi quốc gia -
dân tộc cũng có những nét khác nhau. ở nước ta, tinh thần yêu nước trong
thời kỳ kháng chiến chống đế quốc xâm lược của con người Việt Nam biểu
hiện trước hết ở tinh thần dũng cảm, dám chiến đấu hi sinh, “Cảm tử cho tổ
quốc quyết sinh” để dành láy độc lập tự do cho Tổ quốc. Và trong thực tế,
con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã suy nghĩ và hành động như vậy,
nên đã “đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ”. Còn trong công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước hiện nay, tinh thần yêu nước của người Việt
Nam bên cạnh những giá trị truyền thống, còn biểu hiện ở những nội dung
mới. Đó là sự dũng cảm vựơt qua những tính toán vị kỷ, đầu óc hẹp hòi, trì
tuệ, bảo thủ, yếu kém về trí tuệ, không chụi học hỏi, không chụi đổi mới. Đó
là tinh thần hợp tác, cố kết cộng đồng chặt chẽ trong hoạt động khoa học và
thực tiễn, vì trong điều kiện ngày nay, lao động của mỗi người, dù tài giỏi,
cũng rất khó thành công nếu thiếu sự hợp tác với cộng đồng. Đó là thái độ
không cam chụi đói nghèo, lạc hậu, dám nghĩ, dám làm, dám hội nhập quốc
tế; là tinh thần sáng tạo, táo bạo trong tư duy, hăng say học tập, không
15
ngừng nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, nỗ lực tiến quân vào khoa
học -công nghệ vì sự phát triển của đất nước; là tinh thần lao động chăm chỉ,
có kỹ thuật, sáng tạo và có hiệu quả cao, quyết chí làm giàu cho bản thân,
gia đình, tập thể và xã hội. Tinh thần yêu nước ngày nay còn biểu hiện ở bản
lĩnh chính trị vững vàng trước những cám dỗ đời thường, trước lối sống
phương Tây xa lạ không phù hợp với điều kiện Việt Nam; ở phẩm chất đạo
đức trong sáng với lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung
thực, nhân nghĩa, tôn trọng đạo lý,…
Nói một cách khái quát, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự tôn, tự hào
dân tộc trong thời kỳ kháng chiến phải được chuyển sang thời kỳ hoà bình
xây dung đất nước với quan niệm và ý thức coi nghèo nàn , lạc hậu cũng là
nỗi nhục không kém gì nỗi nhục mất nước , ý thức đó phải được thấm
nhuần vào từng người và toàn dân tộc để trở thành sức mạnh tinh thần to lớn
, một động lực nôi sinh của sự phát triển kinh tế xã hội đất nước , động lực
cho sự cố gắng , kiên trì vượt khó , vươn lên sánh kịp các nước trong khu
vực và trên thế giới .Nghĩa là , lòng yêu nước và ý thức dân tộc phải được kế
thừa và phát huy với những nội dung mới , biểu hiện mới .
Qúa trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở nước ta diễn ra trong bối
cảnh quốc tế còn “ diễn biến hết sức phức tạp , chứa đựng những yếu tố khó
lường” , khi các thế lực thù địch vẫn luôn mưu toan thực hiện “ diễn biến
hoà bình” . Vì vậy , nó còn đòi hỏi ở người lao động Việt Nam , trước hết là
ở cán bộ quản lý các cấp một đức tính trung thành với lợi ích quốc gia và
dân tộc , một phẩm chất chính trị kiên định , một tinh thần cảnh giác cao và
thái độ then trọng trong hợp tác làm ăn với nước ngoài , để không những
không làm tổn hại lợi ích quốc gia dân tộc , mà còn góp phần đem lại phồn
vinh cho đất nước , nâng cao vị thế quốc gia lên tầng cao hơn trên trường
quốc tế . Hay nói như Bác Hồ “việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức
làm,việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh”.
Tuy nhiên, rõ ràng là nếu chỉ có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh
chính trị vững vàng, tinh thần cảnh giác, thái độ then trọng không thôi là
hoàn toàn chưa đủ. Có tất cả những phẩm chất đạo đức và chính trị đó mà
thiếu tri thức, kiến thức khoa học, tức có đức mà không có tài, thì nói như
Hồ Chí Minh , cũng chẳng khác gì ông Bụt ngồi trên toà sen , không làm
điều gì xấu nhưng cũng chẳng làm được việc gì có ích cho đời . Tri thức , trí
tuệ thực sự là yếu tố thiết yếu của mỗi con người , bởi vì “ tất cả cái gì
thúc đảy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc họ” , tức
là phải thông qua trí tuệ .Sự yếu kếm về trí tuệ sẽ là lực cản nguy hại nhất
16
dẫn đến sự thất bại trong hoạt động của con người . Nói về sự ngu dốt, C.
Mác đã khẳng định
:“ Sự ngu dốt là sức mạnh của ma quỷ và chúng ta lo rằng , nó sẽ còn là
nguyên nhân của nhiều bi kich khác nữa” .
Qúa trình công nghiệp hoá hiện đại hoá trong thời đại cách mạng khoa
học công nghệ đòi hỏi khá cao về phẩm chất trí tuệ ở người lao động một
phẩm chất được coi là quan trọng nhất hiện nay . Đó là , người lao động phải
có năng lực sáng tạo , phải có khả năng áp dụng những thành tựu khoa học
để sáng chế những kỹ thuật , công nghệ tiên tiến ; có năng lực thu nhập và
xử lý thông tin trong điều kiện bùng nổ thông tin; có sự nhạy bén , thích
nghi nhanh và thứcj sự làm chủ khoa học , kỹ thuật , công nghệ hiện đại chứ
không như những rôbốt đơn thuần . Đồng thời , người lao động phải có khả
năng biến tri thức thành kĩ năng lao động nghề nghiệp , nghĩa là , phải có kĩ
năng lao động giỏi thể hiên qua trình độ tay nghề , mức độ thành thạo
chuyên môn nghề nghiệp … Nếu như ngày trước ông cha ta đã khẳng định ,
“ một nghề nghiệp cho chín , hơn chín mười nghề” thì sinh thời , chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi ngừơi lao động ở chức trách nào cũng phải tinh
thông nghiệp vụ của mình người đầu bếp phải nấu ăn ngon, thầy thuốc phải
giỏi chữa bệnh cứu người công nhân phải giỏi nghề, giám đốc phải giỏi kinh
doanh và quản lý,…
Tóm lại, quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện ngày
nay đòi hỏi người lao động phải có năng lực khả năng thích nghi nhanh và
kỹ năng lao động giỏi đó là những yêu cầu chung. Tuy nhiên, các thành phần
lao động khác nhau thì mức độ yêu cầu chuyên sâu của mỗi loại năng lực
cũng khác nhau. Điều này đòi hỏi phải có một cơ cấu đội ngũ lao động theo
hướng chuyên sâu.
17
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CNH-HĐH
1.Giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu để phát triển
nguồn lực con người.
Có thể nói nếu như nguồn lực con người quyết định sự phát triển của
mỗi quốc gia thì giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất
lượng con ngừơi là nền tảng của chiến lược con người. Với tính cách là động
lực phát triển kinh tế xã hội giáo dục và đào tạo chuẩn bị con người cho phát
trỉên bền vững trên tất cả các lĩnh vực, cho lợi ích hiện tại và cho lợi ích
tương lai của đất nước.
1.1 Nhận thức đúng vị trí của giáo dục và đào tạo:
Điều đầu tiên cần chú ý, đó là phải làm cho toàn Đảng toàn dân nhận
thứcsâu sắc rằng giáo dục và đào tạo là nền tảng của chiến lược con người;
rằng mọi chiến lược phát triển kinh tế xã hộ sẽ không thành công nếu không
thực hiện tốt chiến lược giáo dục và đào tạo. Quan niệm tích cực này càng
trở nên cấp thiết trong điều kiện hiện nay, khi tỷ lệ lao động cơ bắp ngày
một giảm, tỷ lệ lao động trí óc ngày một tăng; khi lợi thế so sánh dựa trên
lao động đông và giá công nhân rẻ cũng sẽ nhanh chóng mất tác dụng do
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa họ- công nghệ hiện đại mang lại.
Giáo dục và đào tạo đóng vai trò quyết đinh trong việc gây dựng nguồn lực
con người- nguồn lực quý giá nhất trong các nguồn lực. Ngoài ra, theo một ý
nghĩa rộng hơn, giáo dụ và đào toạ còn có tác dụng thuc đẩy hiểu biết sâu
sắc hơn về thế giới quanh ta về bản sắc từng dân tộc cũng như sự tương
đồng và khác biệt giữa các nền văn hoá- văn minh, các giai cấp các quốc
gia… nghĩa là giáo dục có vai trò mở rộng tầm nhìn nâng cao trình độ tri
thức cho ngừoi lao đọng để hốcc thể tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá
của nhân loại trong khi vẫn bảo tồn được bản sắc văn hoá dân tộc.
1.2 Tiếp tục đổi mới hệ thống giáo dục
18
Con người là sản phẩm của giáo dục và đào tạo có đủ năng lực và
phẩm chất cần thiết thích ứng không chỉ trong điều kiện hiện nay mà cả
trong tương lai thì nội dung giáo dục đào tạo phải được định hướng đầy đủ
theo các mục tiêu: kinh tế, xã hội, kỹ thuật, nhân văn, chính trị và phát triển.
Những định hướng giá trị cơ bản cần được giáo dục cho con người Việt
Nam hiện nay là yêu nước trung thành tuyệt đối với lợi ích quốc gia dân tộc,
có tinh thần đoàn kết các cộng đồng, có niềm tin vững chắc có quyết tâm cao
thực hiện nhiệm vụ lịch sử CNH-HĐH. Cần lưu ý rằng phải gắn nội dung
giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, tri thức hàn lâm với tri thức
chuyên môn, tạo ra sự kết hợp phối hợp chặt chẽ giữa khoa học, kỹ thuật và
công nghệ, phục vụ thiết thực cho CNH-HĐH.
Phương pháp giáo dục cũng cần sự đổi mới thật sự. Phương pháp giáo
dục bao gồm nhiều con đường cách thức, biện pháp, nhưng phương pháp
chung có hiệu quả cao đang trở thành xu hướng có tính phổ biến là biến quá
trình đào tạo thành tự đào tạo.Phương pháp này có tác dụng kích thích, phát
huy chủ động tích cực thúc đẩy sự phát triển trí tuệ và khai thác khả năng
sáng tạo của người học và giúp học hình thành năng lực và phương pháp tư
duy khoa học thì không theer cso sự phát trỉên tri tuệ thật sự và do đó, nhân
cách sẽ bị thiếu hụt một thành tố tối quan trọng làm cho người ta dễ dao
động và không có sức mạnh tự thân
1.3 thực hiện giáo dục và đào tạo trên những nguyên tắc mới:xã hội hoá dân
chủ hoá và nhân văn hoá
Xã hội hoá giáo dục và đào tạo là huy động toàn xã hội làm giáo dục
động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân
dưới sự quản lý nhà nứơc. Đây là một tư tưởng chiến lược coi sức mạnh của
toàn xã hội là điều kiện tiên quyết để phát triển hiệu quả sự nghiệp giáo dục
và đào tạo một cách lâu dài chứ hoàn toàn không phải là giải pháp tình thế
có tính chất sách lược. Xã hội hoá giáo dục sẽ lạm cho giáo dục và đào tạo
đáp ứng được những nhu cầu đa dạng, phong phú của xã hội,của từng ngành,
từng địa phương, biến nhà trường từ một thể chế nhà nước sang thể chế xã
hội nhà nước, một hệ thống mở, mềm dẻo gắn liền với các quá trình kinh tế-
xã hội. Nhờ vậy nhà trường có thể phục vụ cho mọi thành phần kinh tế, mọi
thành viên trong xã hội, đồng thời thu hút mọi nguồn lực khác nhau tham gai
xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo.
Dân chủ hoá giáo dục là động lực quan trọng thúc đẩy tính năng động,
năng lực sáng tạo, tính tích cực xã hội của chủ thể và khách thể giáo dục do
đó chât lượng giáo dục được nâng cao. Ngày nay người ta coi sự binh đẳng
19
là một trong những mục tiêu quan trọngcủa dân chủ hoá giáo dục. Nghĩa là
nhà nước đảm bảo cho mỗi người có cơ hội học tập thích đáng để có môt
nghề nghiệp xứng đáng.
Nhân văn hoá giáo dục nhằm hướng tới việc hình thành và phát triển
toàn diện nhân cách cho học sinh. Nó đòi hỏi quá trình giáo dục đem đến
cho học sinh không chỉ kíên thức khoa học, trình độ học vấn mà còn hàng
loạt phẩm chất cần thíêt ở con người.Đó là niềm tin trên cơ sở hiểu biết, là
tinh thần phê phán, tôn trọng sự thật và chân lý, thái độ trong thực tiễn và
hiệu quả là những quan niệm đúng đắn về lẽ sống các chuẩn mực đạo đức,
các giá trị thẩm mỹ thể chất về cội nguồn văn hoá dân tộc, phương pháp tư
duy lịch sử , sự kết hợp truyền thống và hiện đại về những hướng gía trị
trong con người Việt Nam cần vươn tới.
1.4 Mở rộng quy mô đi đôi với chất lượng và hiệu quả giáodục và đào tạo
Mở rộng quy mô với việc tăng số lượng người học phổ thông, đa
dạng hoá các loại hình đào tạo để các tầng lớp dân cư có điều kiện nâng cao
dân trí, nhanh chóng giải quyết chất lượng nguồn lao động. Tuy nhiên, việc
mở quy mô không chỉ dựa trên nhu cầu nâng cao mặt bằng dân trí mà quan
trọng hơn là phải căn cứ vào yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực chất lượng
cao cho CNH-HĐH. Mặt khác mở rộng thêm các trường đào tạo thêm các
ngành, các công ty doanh nghiệp lớn có thể thành lập cơ sở đào ttạo công
nhân kỹ thuật riêng…Cần phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học
cơ sở và trung học phổ thông để tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng và
phát triển nhanh đào tạo nghề. Việc phân luồng này phải bằng cơ chế chính
sách vĩ mô của nhà nứơc trên tinh thần làm cho mọi người nhận thức đúng
giá trị xã hội của từng loại lao động khuyến khích vật chất cho học sinh vào
học các trường dạy nghề và mở ra khả năng cho họ phát triển tọng tương lai.
Mặt khác nhà nước cần công bố rộng rãi các ngành các bậc đào tạo đang
thiếu đang thừa sẽ thiếu và sẽ thừa trong tương lai gần để trên cơ sở đó
người học có điều kiện lựa chọn ngành nghề và bậc đào tạo phù hợp.
Nâng cao chất lượng trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ khoa học công
nghệ hiện đại cả về nội dung kiến thức phương pháp giáo dục đào tạo. Vấn đ
này phụ thuộc nhiều yếu tố, từ nội dung chương trình đến người thầy
phương pháp phương tiện vật chất kỹ thuật… trong đó khâu thanh tra giữ vai
trò đặc biệt quan trọng. Vì vậy cần thường xuyên kiểm tra thanh tra, đánh
giá xác minh dư luận xã hội về chất lượng đao tạo nhất là các trường đại học
20
dân lập, đại học mở và các hệ đào tạo không chính quy để lập lại trật tự kỷ
cương trong giáo dục đào tạo.
Nâng cao hiệu quả giáo dục đào tạo bằng cách gắn đào tạo với sử
dụng. Cần khắc phục tình trạng bất cập giữa đào tạo với thị trường lao động
dẫn đến sản phẩm đào tạo ra lại vưa thừa vừa thiếu như hiện nay.
1.5 Phát hiện và đào tạo nhân tài có hiệu quả.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục và đào tạo
là phát hiện bồi dưỡng và nâgn đỡ tài năng để tạo ra đội ngũ chuyên gia giỏi
các nhân tài trong các lĩnh vực. Thiếu đội ngũ này không thể nói đến văn
minh, hiện đại và do đó xã hội không thể phát triển. Họ thực sự là tài sản
quý giá của mỗi quốc gia và ngày càng trở nên quý giá trong thơi đại ngày
nay khi sức mạnh của mỗi dân tộc được đo bằng sức mạnh của nguồn lực trí
tuệ. Đánh giá rằng không có một chương trình đào tạo bồi dưỡng nâng đỡ
nào tự nó làm nảy sinh nhân tài, nhưng chắc chắn môi trường khác nhau thì
mức độ nảy sinh nhân tài khác nhau. Vì thế cần có một môi trường hoạt
động thuận lợi thúc đẩy sự xuất hiện nhân tà. Môi trường đó phải là sự tư do
tư tưởng kích thích tư duy sáng tạo dồi dào về thông tin có đủ phương tiện
cần thiết cho hoạt động sáng tạo và được trọng dụng đãi ngộ thoả đáng về
vật chất và tinh thần .
1.6 Phát triển số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
Điều đáng nói nữa là chất lượng của sản phẩm giáo dục đào tạo phụ
thuộc chủ ýêu vào chất lượng của đội ngũ giáo viên. Vì vậy phải cấp bách
xây dựng được đội ngũ giáo viên đủ về số lượng bảo đảm chất lượng, có
trách nhiệm và có lương tâm nghề nghiệp tập trung tâm lực vào sự nghiệp
giáo dục đào tạ. Để giải quyết nhiệm vụ này không có cách nào là nhà nước
hãy đưa ra những chính sách tích cực thoả đáng đối với việc đào tạo và sử
dụng đội ngũ giáo viên. Những chính sách đó phải là kết quả của sự thấm
nhuần sâu sắc vai trò “ quốc sách hàng đầu” của giáo dục và đào tạo.Nâng
cao mức sống và điều kiện làm việc cho giáo viên bảo đảm cho người thây \f
có thể lao động hết mình vì sự nghiệp “trồng người”, xác lập vị trí cao quý
của ngừơi thầy trong xã hội trên tinh thần thừa kế và phát huy truyền thống
“tôn sư trọng đạo” của dân tộc. Đồng thời dịch chuyển thang giá trị nghề
nghiệp sao cho thu hút ngày càng nhiều người giỏi muốn làm nghề dạy học
dần tiến tới chuẩn mực chỉ có những người tài năng đức độ mơi được tuỷên
chọn làm thầy giáo.Nâng cao chất lượng đào tạo đọi ngũ giáo viên sử dụng
21
hợp lý và khai thác có hiệu quả tài năng của họ. Nhà nước cần có những sự
quan tâm đặc biệt đến đội ngũ này thông qua các chính sách chế độ cụ thể
thiết thực về tiền lương, nhà ở, hưởng thụ và dịch vụ xã hội các phần thưởng
và danh hiệu cao quý.
1.7 Đầu tư thoả đáng cho giáo dục và đào tạo.
Đầu tư cho giáo dục đào tạo không chỉ đầu tư cho con ngừơi như một
phương tiện phát trỉên con người xã hội mà còn đầu tư cho chính mục tiêu
phát triển con người của xã hội. Vì vậy, nhà nước cần điều chỉnh ngân sách
cho giáo dục và đào tạo ít ra cúg nên bằng mức đàu tư của các nước đang
phát triển ở khu vực Châu Á. Ngoài ngân sách nhà nước cần có chính sách
huy động vốn từ nhiều nguồn với tinh thần khuyến khích đầu tư cho giáo
dục và đào tạo: từ ngân sách địa phương, sự đóng góp của người học, sự bảo
trợ của các tổ chức xã hộ, các cá nhân và sự viện trợ quốc tế đặc biệt nhà
nước sớm ban hành chính sách đóng góp phí đào tạo từ phía các cơ sở sử
dụng lao động qua đào tạo nhất là đối với những đơn vị ngoài khu vực nhà
nước.
2. Quan tâm chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng dân số cải thiện
mội trường sống cho con ngừơi.
Để phát triển nguồn lực con ngừơi đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH đất
nước bên cạnh những giải pháp về giáo dục và đào tạo nhà nứơc cần quan
tâm đúng mức các vấn đề y tế và chăm sóc sức khoẻ vấn đề dân số nâng cao
chất lượng dân số cũng như vấn đề cải thiện môi trường sống cho nguồn lực
con ngừơi
Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe đòi hỏi tất cả mọi ngừơi đều quan cần
đựơc chăm sóc chu đáo. Song hướng ưư tiên và quan tâm hàng đầu là chăm
sóc sức khoẻ re em vì chăm sóc tốt sức khoẻ cho trẻ em thì mới có được
những người lao động khoẻ mạnh trong tương lai. Do đó cần có những chính
sách cụ thể như đảm bảo dinh dưỡng hợp lý trước hết là nhằm phòng và
chống suy dinh dưỡng của phụ nữ mang thai và trẻ em dưới 5 tuổi thực hiện
tốt hơn chương trình tiêm chủng mở rộng cho tre em , công tác kiểm tra sức
khoẻ định kỳ cho trẻ em tiểu học, trung học cơ sở. Tổ chức mạng lưới y tế
rộng khắp từ trung ương đên địa phương đến các xã,phường, thôn, bản đi đôi
với việc nâng cao chất lượng phục vụ y tế. Xây dựng các hệ thống y tế đa
năgn bao gồm cả phòng bệnh và chữa bệnh điều dưỡng phục hồi chức
năng… Điều cơ bản là toàn bộ bộ máy y tế cúng như cơ chế vận hành bộ
22
máy đó được thực hiện đồng bộ, nhịp nhàng, chất lượng cao, đảm bảo việc
chăm soc sức khoẻ đựơc kịp thời có hiệu quả thiết thực.
Bên cạnh chính sách về y tế cần quan tâm đên chính sách dân số vì nó
cũng đang là vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển con
người Việt Nam. Kinh nghiệm các nước phát triển cho thấy những người có
mức sống khá và trình độ học thức cao thường không có nhu cầu sinh nhiều
con nhưng lại rât quan tâm tới chất lượng cuộc sống. Vì vậy, trong chính
sách dân số cần kết hợp vấn đề hạn chế về số lượng với việc cải thiện nâng
cao chất lượng dân số.
3. Một số biện pháp khác.
Tiếp tục xây dựng và thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia để
giải quýêt hiệu quả việc phát triển nguồn lực con người. Việc xây dựng và
thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhất là vài năm gần đây đã góp
phàn không ít công việc. Các chương trình này có thể mở ra khả năng huy
động nguồn nhân lưc trong dân và thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế.
Xây dựng môi trường xã hộ thuận lợi phục vụ cho việc khao thác, sử
dụng và phát triển có hiệu quả nguồn lực con ngườivà giải quyết đúng đắn
vấn đề xã hội
KẾT LUẬN
Vị trí, đặc điểm và sức mạnh của nguồn lực con người được thể hiện
trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác, trong mối quan hệ hữu cơ với
các nguồn lực khác; với tư cách là chủ thể lẫn tư cách là khách thể của quá
trình CNH-HĐH. Nói một cách tổng quát , nguồn lực con người giữ vị trí
trung tâm không chỉ trong hệ thống cá nguồn lực của quá trình CNH-HĐH
mà còn chính bản thân quá trình CNH-HĐH.Đó là con người vừa là chủ thể
vừa là khách thể vừa là động lực vừa là mục tiêu của quá trình CNH-HĐH
do con người vì con người; mối quan hệ giữa nguồn lực con người cà CNH-
HĐH là mối quan hệ biện chứng trong đó con người giữ vai trò quyết định
nội dung cách thức và kết quả của quá trình CNH-HĐH. Tuy nhiên mức độ
quyết định của nguồn lực con ngừơi tuỳ thuộc và chất lượng lao động, tính
hợp lý trong cơ cấu lao động , năng lực tổ chức lao động…
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác-lênin,Nxb chính trị quốc, Hà Nội
2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mac- Lênin, Nxb chính trị quốc gia Hà
Nôi.
3. Tạp chí lý luận chính trị số 7 năm 2005
4. Tạp chí cộng sản số 10 tháng 5 năm 2005
5. Nghiên cứu con người số 23 năm 2006-05-25
6. Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốcVII.VII,IX Nxb chính trị quốc gia
MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG QUÁ TRÌNHCNH-HĐH 2
I. Khái nịêm cơ bản về nguồn lực con người, quá trình CNH-HĐH 2
1. Khái niệm về nguồn lực con người 2
2. Khái niệm quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá 2
II. Cơ sở khẳng định 3
1. Cơ sở triết học 3
2. Cơ sở thực tiễn 3
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRƯỚC YÊU CẦU CNH-HĐH 5
I. thực trạng nguồn lực con người 5
1. Số lượng nguồn lực con người 5
2. Cơ cấu nguồn lực con người 6
3. Vấn đề chất lượng nguồn lực con người 8
II. Những đòi hỏi về nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH-HĐH 16
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI 16
1. Giáo dục và đào tạo là phươn gtiện chủ yếu phát trỉên nguồn lực
con người 16
2. Quan tâm chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng đời sống cải
thiện môi trường sống cho con người 20
3. Một số giải pháp khác 20
Kết luận 22
24
Tài liệu tham khảo 23
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Giải pháp cơ bản nhằm khai thác và phát triển có hiệu quả nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam.pdf