Luận văn Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa ở huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên

Tài liệu Luận văn Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa ở huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH ---------------------------------------------------- Triệu Thị Minh Hồng GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO HƢỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Thái nguyên, năm 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH ------------------------------------------ Triệu Thị Minh Hồng GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO HƢỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 60- 31- 10 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học TS. Đoàn Quang Thiệu Thái nguyên, năm 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án này là trung thực và...

pdf114 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1062 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa ở huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH ---------------------------------------------------- Triệu Thị Minh Hồng GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO HƢỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Thái nguyên, năm 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH ------------------------------------------ Triệu Thị Minh Hồng GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO HƢỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 60- 31- 10 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học TS. Đoàn Quang Thiệu Thái nguyên, năm 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận án đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Thái Nguyên, tháng 10 năm 2009 Tác giả Triệu Thị Minh Hồng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành bản luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các cấp lãnh đạo và cá nhân. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn và kính trọng tới tất cả tập thể và cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Đoàn Quang Thiệu người đã hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa sau đại học, Khoa Kinh tế, các đơn vị liên quan của Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh Thái Nguyên. Tôi xin trân trọng cảm ơn các giáo sư, tiến sĩ của Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh- những người đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu để giúp tôi hoàn thành công trình này. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở Kế hoạch và Đầu tư, UBND tỉnh Thái Nguyên, UBND huyện Đồng Hỷ, Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Đồng Hỷ, các xã và các hộ nông dân huyện Đồng Hỷ đã giúp tôi trong quá trình điều tra số liệu. Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên chia sẻ, giúp đỡ nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn thành luận án. Thái Nguyên, tháng 10 năm 2009 Tác giả Triệu Thị Minh Hồng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các bảng Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục tiêu nghiên cứu 2 2.1. Mục tiêu chung 2 2.2. Mục tiêu cụ thể 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 4. Ý nghĩa khoa học của Luận văn 3 5. Bố cục của Luận văn 3 Chƣơng 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phƣơng pháp nghiên cứu 4 1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá 4 1.1.1. Cơ sở lý luận nông nghiệp và phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá 4 1.1.2. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam 20 1.2. Phương pháp nghiên cứu 33 1.2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết 33 1.2.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 34 1.2.3. Hệ thống chỉ tiêu phân tích 38 Chƣơng 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp theo hƣớng sản xuất hàng hoá ở huyện Đồng Hỷ 41 2.1. Đặc điểm của huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên 41 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 41 2.1.2. Điều kiện về kinh tế xã hội 47 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 2.1.3. Đánh giá chung về những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên 54 2.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên 55 2.2.1. Một số kết quả phát triển nông nghiệp của huyện Đồng Hỷ 55 2.2.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa ở huyện Đồng Hỷ 69 2.2.3. Thực trạng và các loại hình tổ chức sản xuất 69 2.2.4. Đánh giá chung về thực trạng sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở huyện Đồng Hỷ 84 Chƣơng 3 : Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông nghiệp theo hƣớng sản xuất hàng hoá huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên 87 3.1. Một số quan điểm chủ yếu 87 3.2. Định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở huyện Đồng Hỷ đến năm 2010 và 2015 91 3.2.1. Định hướng chung 91 3.2.2. Các giải pháp chủ yếu 92 Kết luận và kiến nghị 102 Tài liệu tham khảo 105 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1. Tình hình sử dụng đất đai của huyện Đồng Hỷ năm 2008 44 Bảng 2.2. Tình hình nhân khẩu và lao động của huyện Đồng Hỷ 49 Bảng 2.3. Kết quả sản xuất các ngành kinh tế huyện Đồng Hỷ giai đoạn (2004 – 2008) 53 Bảng 2.4. Giá trị sản xuất, cơ cấu giá trị sản xuất, giá trị gia tăng ngành nông lâm thủy sản huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2004 - 2008 55 Bảng 2.5. Cơ cấu diện tích gieo trồng cây hàng năm huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2004 – 2008 57 Bảng 2.6. Diện tích, năng suất và sản lượng cây lương thực huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2004 - 2008 59 Bảng 2.7.Diện tích, năng suất và sản lượng cây thực phẩm huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2004 – 2008 61 Bảng 2.8.Diện tích, năng suất và sản lượng cây công nghiệp hàng năm huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2004 – 2008 62 Bảng 2.9. Diện tích, năng suất và sản lượng cây chè, cây ăn quả huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2004 – 2008 63 Bảng 2.10. Kết quả ngành chăn nuôi huyện Đồng Hỷ giai đoạn 2004 - 2008 66 Bảng 2.11. Một số chỉ tiêu của trang trại huyện Đồng Hỷ năm 2008 74 Bảng 2.12. Tình hình chế biến và tiêu thụ sản phẩm của trang trại 75 Bảng 2.13. Cơ cấu hộ nông dân theo quy mô hàng hoá ở các xã điều tra năm 2008 78 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Bảng 2.14. Quy mô và cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá bình quân ở hộ nông dân điều tra năm 2008 80 Bảng 2.15. Mức thu nhập bình quân theo lao động và nhân khẩu của hộ nông dân điều tra 82 Bảng 2.16. Tổng hợp một số chỉ tiêu về các loại hình tổ chức sản xuất 83 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta thu được những thắng lợi đáng khích lệ. Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân cũng đã đạt được kết quả bước đầu trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá, công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Song, kết quả đạt được còn nhiều hạn chế, sản xuất hàng hoá với quy mô hiệu quả chưa cao. Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chủ trương và giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng đưa từ nền kinh tế hàng hoá nhỏ lên nền kinh tế thị trường hiện đại, đáp ứng yêu cầu hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt khi chúng ta đã tham gia thực hiện AFTA, tham gia APEC và ra nhập WTO. Đây là thuận lợi nhưng cũng là vấn đề rất khó khăn, thách thức cho phát triển nông nghiệp của nước ta. Nông nghiệp nước ta có thế mạnh về đất đại, lao động và có khả năng đa dạng hóa sản phẩm, nhưng chúng ta có nhiều điểm yếu: cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ, sản xuất và chế biến, kinh nghiệm thương trường, trình độ tổ chức quản lý… Những hạn chế đó làm cho chất lượng sản phẩm còn thấp, giá thành sản xuất cao, hiệu quả thấp, làm hạn chế tính cạnh tranh chưa cao. Để hội nhập với thị trường khu vực và quốc tế, giữ được thị trường trong nước, chúng ta cần phải phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Đồng Hỷ là một huyện trung du miền núi của tỉnh Thái Nguyên, với 17 xã và 3 thị trấn. Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 47.037,94 ha trong đó đất nông nghiệp là 12.488,92 ha chiếm 26,55% diện tích đất tự nhiên, đất lâm nghiệp là 21.402,61 ha chiếm 45,5% diện tích đất tự nhiên còn lại là các loại đất khác. Đồng Hỷ là huyện có nhiều tiềm năng nông lâm nghiệp chưa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 được khai thác, hiệu quả sản xuất nông nghiệp còn thấp, đời sống của nông dân trong khu vực nông thôn còn nhiều khó khăn. Một trong những nguyên nhân quan trọng là nền nông nghiệp của huyện còn nhiều trở ngại, chưa thực sự đi vào sản xuất hàng hóa. Chính vì vậy, nghiên cứu phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa là hết sức cần thiết đối với từng vùng, từng địa phương và phạm vi toàn quốc. Do đó tôi chọn đề tài: "Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên" làm luận văn tốt nghiệp nhằm góp phần thiết thực vào việc khai thác có hiệu quả tiềm năng, phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu chung Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp, đánh giá thực trạng tình hình phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp của huyện Đồng Hỷ, từ đó đề ra những giải pháp khoa học nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa có tính bền vững ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, góp phần phát triển kinh tế-xã hội nâng cao đời sống người dân địa phương. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. - Đánh giá thực trạng tình hình phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa ở huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa ở huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: là những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phương hướng và giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa ở huyện Đồng Hỷ. * Phạm vi nghiên cứu: - Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phân tích thực trạng về sản xuất hàng hoá chủ yếu tập trung vào phân tích các ngành và trong từng ngành. - Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên. - Về thời gian: Các tư liệu tổng quan thu thập từ các tài liệu đã công bố trong giai đoạn từ năm 2004 - 2008, số liệu điều tra hiện trạng chủ yếu thu thập số liệu của năm 2008. 4. Ý nghĩa khoa học của đề tài - Đề tài là một công trình khoa học, là tài liệu tham khảo cho những người học tập và nghiên cứu trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp hàng hoá. - Đề tài có ý nghĩa quan trọng giúp cho các nhà lãnh đạo địa phương có những giải pháp khoa học trong phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá góp phần phát triển kinh tế-xã hội địa phương. 5. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Chương II: Thực trạng phát triển nông nghiệp của huyện Đồng Hỷ theo hướng sản xuất hàng hóa. Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 CHƢƠNG I TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp theo hƣớng sản xuất hàng hoá 1.1.1. Cơ sở lý luận về phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá 1.1.1.1 Nông nghiệp và phát triển nông nghiệp - Vị trí, vai trò của nông nghiệp trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nó không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học, kỹ thuật. Nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi và ngành dịch vụ. Còn nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngành thuỷ sản. Ngành nông nghiệp cung cấp lương thực thực phẩm cho nhu cầu xã hội: Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản, giữ vai trò to lớn trong phát triển kinh tế ở hầu hết các nước, nhất là các nước đang phát triển là những nước còn nghèo, đại bộ phận dân số sống bằng nghề nông. Tuy nhiên ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng nông nghiệp không lớn, nhưng khối lượng nông sản của các nước này khá lớn và không ngừng tăng lên, đảm bảo cung cấp đủ lương thực, thực phẩm cho đời sống của nhân dân nước đó. Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên, có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và phát triển kinh tế xã hội Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 của đất nước mà hiện nay, mặc dù trình độ khoa học – công nghệ ngày càng phát triển nhưng vẫn chưa ngành nào có thể thay thế được. Xã hội càng phát triển, đời sống con người ngày càng cao thì nhu cầu của con người về lương thực và thực phẩm cũng ngày càng tăng về số lượng, chất lượng và chủng loại. Các nhà kinh tế học đều thống nhất cho rằng, điều kiện tiên quyết cho sự phát triển là tăng cung lương thực cho nền kinh tế quốc dân bằng sản xuất hoặc nhập khẩu lương thực. Có thể chọn con đường nhập khẩu lương thực để giành nguồn lực làm việc khác có lợi hơn, nhưng điều đó chỉ phù hợp với các nước như Singapore, Ả rập Saudi hay Brunei mà không dễ gì đối với các nước như Inđônêxia, Trung Quốc, Ấn Độ hay Việt Nam là những nước đông dân. Các nước đông dân muốn nền kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân ổn định thì phần lớn lương thực tiêu dùng phải sản xuất trong nước. Thực tiễn lịch sử của các nước trên thế giới đã chứng minh, chỉ có thể phát triển kinh tế một cách nhanh chóng, chừng nào quốc gia đó đã có an ninh lương thực. Nếu không đảm bảo an ninh lương thực thì khó có sự ổn định chính trị và thiếu sự đảm bảo cơ sở pháp lý, kinh tế cho sự phát triển thì sẽ khó thu hút được đầu tư để phát triển bền vững, lâu dài. Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho phát triển công nghiệp và khu vực thành thị, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, phần lớn dân cư sống bằng nông nghiệp và tập trung ở khu vực nông thôn. Vì thế khu vực nông nghiệp nông thôn thực sự là nguồn dự trữ nhân lực dồi dào cho phát triển công nghiệp và đô thị. Quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, một mặt tạo ra nhu cầu lớn về lao động, mặt khác nhờ đó mà năng suất lao động nông nghiệp không ngừng tăng lên, lực lượng lao động từ nông nghiệp được giải phóng ngày càng nhiều. Số lao động này dịch chuyển, bổ sung cho phát triển công nghiệp và đô thị. Đó là xu hướng có tính quy luật của mọi quốc gia Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khu vực nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu to lớn và quý cho công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Thông qua công nghiệp chế biến, giá trị của sản phẩm nông nghiệp nâng lên nhiều lần, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá, mở rộng thị trường. Khu vực nông nghiệp còn là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự phát triển kinh tế, trong đó có công nghiệp, nhất là giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, bởi vì nông nghiệp là khu vực lớn nhất, xét cả về lao động và sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn từ nông nghiệp có thể được tạo ra từ thuế nông nghiệp, tiết kiệm của nông dân đầu tư vào các hoạt động phi nông nghiệp, ngoại tệ thu được do xuất khẩu nông sản, … Những điển hình thành công về sự phát triển ở nhiều nước đều đã sử dụng tích luỹ từ nông nghiệp để đầu tư cho công nghiệp. Ngoài ra cần phải khai thác các nguồn khác một cách hợp lý, không nên cường điệu quá vai trò của vốn tích luỹ trong nông nghiệp. Nông nghiệp và nông thôn còn là thị trường tiêu thụ lớn của công nghiệp và dịch vụ. Ở hầu hết các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp bao gồm tư liệu tiêu dùng và tư liệu sản xuất được tiêu thụ chủ yếu dựa vào thị trường trong nước mà trước hết là khu vực nông nghiệp và nông thôn. Sự thay đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp nông thôn sẽ có tác động trực tiếp đến sản lượng ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển mạnh mẽ nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho dân cư nông nghiệp, làm tăng sức mua từ khu vực nông thôn sẽ làm cho cầu về sản phẩm công nghiệp và dịch vụ tăng, thúc đẩy công nghiệp và dịch vụ phát triển. Nông nghiệp còn là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn. Các loại nông lâm thuỷ sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các sản phẩm công nghiệp. Vì thế ở các nước đang phát triển, nguồn xuất khẩu để có ngoại tệ chủ yếu dựa vào các loại nông lâm thuỷ sản. Xu hướng chung ở các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 nước trong quá trình công nghiệp hoá, ở giai đoạn đầu, giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng đó sẽ giảm dần cùng với sự phát triển cao của nền kinh tế. Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn, là sơ sở trong sự phát triển bền vững của môi trường vì sản xuất nông nghiệp gắn liền trực tiếp với môt trường tự nhiên: đất đai, khí hậu, thời tiết, thuỷ văn. Nông nghiệp sử dụng nhiều hoá chất như phân bón hoá học, thuốc trừ sâu,... làm ô nhiễm đất và nguồn nước. Dư lượng độc tố trong sản phẩm tăng ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Nếu rừng bị tàn phá, đất đai sẽ bị xói mòn, thời tiết, khí hậu thuỷ văn thay đổi xấu sẽ đe doạ đời sống của con người. Vì thế trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, cần tìm ra các giải pháp thích hợp để duy trì và tạo ra sự phát triển bền vững của môi trường [8]. - Một số vấn đề lý luận về tăng trưởng và phát triển Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng lên về số lượng và sự cải thiện về chất lượng của sản phẩm xã hội và các yếu tố sản xuất ra sản phẩm xã hội. Tăng trưởng là sự gia tăng thu nhập quốc dân và sản phẩm quốc dân, hoặc thu nhập quốc dân và sản phẩm quốc dân tính theo đầu người. Nếu như sản phẩm hàng hoá trong một quốc gia tăng lên, nó được coi là tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng cũng được áp dụng để đánh giá cụ thể đối với từng ngành sản xuất, từng vùng sản xuất của một quốc gia. Để biểu thị tăng trưởng kinh tế, người ta dùng mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế (tính toàn bộ hay tính bình quân đầu người) của thời kỳ sau so với thời kỳ trước, đó là mức tăng % hay tuyệt đối hàng năm, hay tính bình quân trong một giai đoạn. Tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm liên tục trong một giai đoạn nhất định sẽ cho khái niệm tốc độ tăng trưởng, đó là sự tăng thêm sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 Phát triển bao hàm ý nghĩa rộng hơn, phát triển bao gồm tăng trưởng cộng thêm các thay đổi cơ bản trong cơ cấu nền kinh tế, phát triển là việc nâng cao phúc lợi của nhân dân, nâng cao các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức khoẻ và đảm bảo sự bình đẳng cũng như quyền công dân. Phát triển kinh tế có thể hiểu là quá trình chuyển biến theo hướng tiến bộ về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, trong đó bao gồm tăng trưởng về của cải vật chất và sự tiến bộ xã hội. Tóm lại: phát triển kinh tế là một khái niệm chung nhất về một chuyển biến của nền kinh tế từ trạng thái thấp lên trạng thái cao hơn. Để phản ánh mức độ phát triển kinh tế của một ngành trong từng thời kỳ cụ thể, chúng ta phải sử dụng các nhóm chỉ tiêu như giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, cơ cấu các ngành và cơ cấu nội bộ ngành... 1.1.1.2. Hàng hóa và sản xuất hàng hóa * Hàng hoá là một dạng vật chất được đem ra trao đổi: Hàng hoá là sản phẩm của lao động nhằm thoả mãn nhu cầu của con người thông qua trao đổi là mua bán. Hàng hoá có hai thuộc tính: Giá trị và giá trị sử dụng. Từ khái niệm đó ta thấy một sản phẩm sản xuất ra được đem ra trao đổi mới được gọi là hàng hoá; song trao đổi được thì sản phẩm đó đã có một giá trị nhất định (giá trị trao đổi) và sản đó đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng (giá trị sử dụng). Như vậy, sản phẩm hàng hoá trên thị trường chịu sự chi phối của hai quy luật: Quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. Nếu sản phẩm cung vượt cầu thì sản phẩm đó hoặc là thừa hoặc phải chịu bán với giá thấp, chịu thua lỗ. Ở khía cạnh khác, cùng một loại sản phẩm lưu thông trên thị trường nhưng sản phẩm có chất lượng tốt hơn, đáp ứng được yêu cầu và thị hiếu của người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 tiêu dùng, có giá cả hợp lý, rẻ hơn thì sản phẩm đó được tiêu thụ dễ dàng. Sản phẩm kém chất lượng, giá cả cao, cung cấp không ổn định thì sản phẩm đó bị thừa ế, thua lỗ, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường hàng hoá. * Sản xuất hàng hoá: Sản xuất hàng hoá đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế của mổi nước. So với nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp, kinh tế hàng hoá có nhữg ưu thế nổi bật. Vì trong nền sản xuất hàng hoá, sản phẩm sản xuất ra là để bán nên nó chịu sự chi phối của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh, buộc các tập thể sản xuất, người sản xuất phải tổ chức lại sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, thay đổi mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất và càng tạo điều kiện cho nền sản xuất công nghiệp hoá, hiện đại hoá ra đời. Kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội gắn liền với hai điều kiện: Sự phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu. Phân công lao động xã hội không mất đi mà ngày càng phát triển về chiều rộng lẫn chiều sâu ( Hợp tác quốc tế và khu vực, thị trường chung, hội nhập kinh tế, WTO...). Hình thức sở hữu cũng được thay đổi để phù hợp với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất. Sự chuyên môn hoá và phân công hợp tác quốc tế đã trở thành một yêu cầu tất yếu ngay cả trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Ở nước ta, kinh tế hàng hoá đã ra đời nhưng đang trong dạng sản xuât hàng hoá nhỏ và đang từng bước thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển theo chiến lược kinh tế mở: Đưa nhanh cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại làm cho trình độ xã hội hoá sản xuất ngày càng được mở rộng. Sản xuất hàng hoá không chỉ dựa trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế kỹ thuật mà đã tính đến khả năng liên kết quốc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 tế. Chính sự giao lưu và hợp tác quốc tế đã làm cho nền kinh tế hàng hoá nước ta có những bước phát triển mới. 1.1.1.3. Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá a. Đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế nông nghiệp sản xuất hàng hóa: * Phát triển kinh tế sản xuất nông nghiệp hàng hoá bền vững là một đặc trưng cơ bản trong cơ chế thị trường hàng hoá. Nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển bền vững phải dựa trên mấy tiêu chí: + Bền vững về mặt sản xuất: Sản phẩm được tạo ra không những phải khai thác được lợi thế tự nhiên (đất đai, khí hậu, thời tiết...) lợi thế về mặt kinh tế (lao động, vốn, trình độ sản xuất, cơ sở hạ tầng hiện có...) về mặt xã hội và môi trường (tạo ra được sự liên kết trong nông thôn, xây dựng nông thôn mới và cải tạo được môi sinh môi trường...) [ 16]. + Bền vững về thị trường tiêu thụ: Sản phẩm sản xuất ra đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của thị trường trong nước và xuất khẩu về khối lượng, chất lượng và giá cả có tính cạnh tranh cao. Có thị trường tiêu thụ ổn định và tạo khả năng mở rộng thị trường mới.Thị trường ở đây được hiểu là thị trường tiêu dùng sản phẩm cùng thị trường nguyên liệu sản phẩm cho công nghiệp chế biến.[ 9] + Bền vững về môi trường kinh tế - xã hội nông thôn: Sản xuất sản phẩm hàng hoá (sản phẩm chuyên môn hoá) phải gắn với phát triển sản phẩm đa dạng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ và sử dụng lao động, tài nguyên tại chỗ, phải là sản phẩm sạch, không gây ô nhiễm môi trường, phá hoại môi trường, môi sinh. + Gắn được sản xuất, chế biến với môi sinh môi trường nông thôn mới, tạo điều kiện xây dựng một cơ cấu kinh tế mới phù hợp, bền vững: Gắn được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 sản xuất với chế biến để vừa sử dụng được nguyên liệu tại chỗ, giảm được chi phí vận chuyển, thu hút được lao động tại chỗ, tạo thêm được việc làm. Đa dạng hoá sản phẩm nhằm sử dụng tiềm năng đa dạng của điều kiện tự nhiên, đất đai và lao động của từng địa phương, tăng thu nhập cho hộ gia đình, tạo điều kiện để sản phẩm hàng hoá phát triển thuận lợi, hiệu quả. * Phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá bền vững là một quá trình từ một nền nông nghiệp truyền thống,phân tán, lạc hậu, cơ sở hạ tầng thấp kém lên một nền sản xuất nông nghiệp hiện đại một nền kinh tế mở, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Ở một nền sản xuất nông nghiệp như nước ta sản xuất hàng hoá phải đi từng bước vững chắc, không chủ quan nóng vội, duy ý chí nhưng không thể ngồi chờ, phải tạo ra thế và lực để phát triển. Đi từng bước vững chắc, trước hết phải giải quyết tốt nhu cầu tiêu dùng tại chỗ bằng cách đa dạng hoá sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm. Phát huy nội lực của mình, bằng thâm canh tăng năng suất, bằng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến tăng nhanh sản phẩm vừa đáp ứng tiêu dùng vừa có sản phẩm trao đổi. Khi đã tạo được thế đứng vươn lên làm giàu, lựa chọn sản phẩm vừa có nhu cầu trên thị trường, vừa có lợi thế của địa phương để sản xuất hàng hoá. Khi đã có hàng hoá, có chỗ đứng của hàng hoá rồi mở rộng sản xuất, phát huy cao lợi thế, từng bước đi vào chuyên môn hoá, tranh thủ ngoại lực để phát triển. Đó là bước đi của một nền nông nghiệp hàng hoá phát triển bền vững Giai đoạn nông nghiệp sản xuất hàng hóa bền vững. Đặc trưng của nó là nền nông nghiệp được thương mại hóa và chuyên môn hóa cao, khối lượng hàng hóa nhiều và chủng loại hàng hóa phong phú, có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cho phép hình thành và phát triển các vùng cây con chuyên môn hóa và thâm canh với quy mô lớn, cơ cấu sản xuất hợp lý, khai thác tối đa thế mạnh sản xuất nông nghiệp từng vùng, từng địa phương; thị trường Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 được mở rộng cả trong và ngoài nước. Mục đích của sản xuất nông nghiệp hàng hóa là tối đa hóa lợi nhuận, sản phẩm trở thành hàng hóa đã được xác định từ trước khi quá trình sản xuất diễn ra. Do đó, sản xuất cái gì và sản phẩm như thế nào không phải xuất phát từ nhu cầu của người sản xuất mà xuất phát từ nhu cầu người mua, của thị trường. Thời kỳ này được tự do thương mại hóa nên con người sản xuất tìm mọi cách đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào công nghiệp hoá và hiện đại hoá sản xuất nhằm làm tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm để tối đa hoá lợi nhuận, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm trên thị trường. Vai trò của Nhà nước ở thời kỳ này chủ yếu là thiết lập hệ thống luật pháp, chính sách về thị trường, đào tạo cán bộ, cung cấp hàng hóa công cộng, tổ chức hệ thống dự báo, thông tin cho các cơ sở sản xuất, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các chủ thể kinh doanh nông nghiệp [16]. * Chuyên môn hóa cây con có lợi thế: Xuất phát từ đặc điểm của nền sản xuất nông nghiệp là đa dạng về tự nhiên và sinh học, để thúc đẩy kinh tế nông nghiệp hàng hóa phát triển, tăng khối lượng nông lâm sản hàng hóa, điều quan trọng là phải lựa chọn và phân bố chuyên môn hóa tập đoàn cây con thích hợp cho từng vùng theo hướng cây con có lợi thế. - Cây con được lựa chọn phải thích hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và môi trường, với khả năng canh tác của từng vùng, tiểu vùng, từng hộ gia đình về khả năng đầu tư và trình độ sản xuất, phát huy khai thác nội lực, tranh thủ ngoại lực. - Cây con được lựa chọn phải có khả năng phát triển tập trung, quy mô lớn để tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn phục vụ nhu cầu tiêu dùng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 của thị trường hay nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong vùng hoặc liên vùng, trong huyện và liên huyện một cách ổn định. - Cây con được lựa chọn trước mắt lợi dụng những cơ sở hạ tầng sẵn có như cơ sở chế biến, đường giao thông, đường điện... để giảm chi phí sản xuất và tiêu thụ nhưng về lâu dài phải tiếp thu được kỹ thuật mới và cơ sở hạ tầng mới, nguồn nhân lực mới để tăng được năng lực cạnh tranh trên thị trường. Quá trình hình thành và phát triển nông nghiệp hàng hóa bền vững là quá trình thực hiện mục đích tối đa hóa lợi nhuận và cũng là quá trình tái sản xuất hàng hoá mở rộng, ổn định. Hiện nay trên thế giới, tùy điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi nước, mà nền nông nghiệp đang ở các giai đoạn phát triển khác nhau; ở nước ta hiện nay về căn bản vẫn là một nước nông nghiệp, hàng hóa nhỏ với một trình độ sản xuất nông nghiệp hàng hóa lạc hậu, chuyên môn hóa thấp, khối lượng nông sản hàng hóa được sản xuất ra chưa tương xứng với tiềm năng. Do vậy, đẩy nhanh sự phát triển nông nghiệp hàng hóa ở nước ta trong thời gian tới không chỉ là một tất yếu khách quan mà còn là một thuộc tính bên trong lâu dài của chính sự phát triển nền kinh tế - xã hội theo hướng XHCN Đối với nông nghiệp ở nước ta hiện nay, một số vùng, địa phương, bên cạnh sản xuất tự cung tự cấp cũng đã có một số sản phẩm trở thành hàng hóa với những quy mô và trình độ phát triển khác nhau như chè, cà phê, cao su, trâu bò, gà, lợn, nuôi trồng thủy sản... Các chính sách của Nhà nước cần có những thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện phát triển của mỗi vùng thì có thể đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hoá bền vững. b. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp hàng hóa: Phát triển nông nghiệp hàng hóa có vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của một quốc gia, nó tạo cơ sở cho các ngành trong nền Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 KTQD phát triển, làm tăng khả năng tích lũy và làm biến đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế - xã hội nông thôn. Chính vì vậy việc phát triển nông nghiệp hàng hóa là yêu cầu bức thiết trước mắt cũng như lâu dài đối với các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, để phát triển nền nông nghiệp hàng hóa đạt trình độ cao còn tùy thuộc vào nhiều nhân tố. Có thể xem xét các nhân tố chủ yếu sau: * Thứ nhất: Nhân tố thị trường Thị trường có vai trò vừa là điều kiện, vừa là môi trường của kinh tế hàng hóa; nó thừa nhận giá trị và giá trị sử dụng, khối lượng nông sản hàng hóa tiêu thụ trên thị trường, nó điều tiết (thúc đẩy hoặc hạn chế) quan hệ kinh tế của cả người quản lý, nhà sản xuất và người tiêu dùng thông qua tín hiệu giá cả thị trường. Chính cái "phong vũ biểu" giá cả thị trường sẽ cung cấp tín hiệu, thông tin nhanh nhạy để điều tiết hành vi kinh tế của các chủ thể kinh tế sao cho có lợi nhất. Thông qua sự vận động của giá cả, thị trường có tác dụng định hướng cho người sản xuất điều chỉnh quy mô sản xuất, thay đổi mặt hàng, thay đổi kỹ thuật sản xuất cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Thị trường ngày càng phát triển góp phần làm cho nông nghiệp hàng hóa cũng ngày càng đa dạng, phong phú. Nó cũng lựa chọn, đòi hỏi cao về số lượng và chất lượng, phong phú về chủng loại nông sản hàng hóa. Nhân tố thị trường ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp hàng hóa ở đây được xem xét trên 2 góc độ: Thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Thị trường đầu vào: Bao gồm đất đai, lao động, khoa học, công nghệ sản xuất, vốn... trong đó đặc biệt là thị trường đất và lao động. Cũng như các hàng hoá khác, đất đai và lao động cũng trở thành hàng hoá. - Trong nông nghiệp, đất đai tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất ra sản phẩm, nó vừa là tư liệu lao động, vừa là đối tượng lao động và là tư liệu sản xuất chủ yếu, không thể thay thế được; hiệu quả của sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng đất đai. Xác định rõ quyền sử dụng đất ổn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 định lâu dài cho một cá nhân hoặc một nhóm và như vậy nó tạo ra các chủ thể sản xuất thực sự làm chủ các tư liệu sản xuất, làm chủ trong sản xuất kinh doanh, từ đó làm chủ đối với nông sản phẩm và tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Việc cho phép nông dân được quyền sử dụng đất sản xuất lâu dài thì nguồn tài nguyên đất đai mới sử dụng có hiệu quả, được bảo vệ và phát triển độ màu mỡ trong quá trình khai thác, phát huy hết khả năng kinh doanh nông nghiệp của mình. Mặt khác, quá trình mua - bán, luân chuyển, chuyển nhượng quyền sử dụng đất sẽ dẫn đến đất đai vận động theo hướng tập trung, hình thành nên các trang trại, đồn điền, có quy mô sản xuất hàng hóa phù hợp, đem lại lợi nhuận cao. Người nông dân làm chủ sử dụng đất là điểm khởi đầu cho sự phát triển nông nghiệp hàng hóa. [ 4] - Cũng như đất đai, sức lao động là một trong hai yếu tố cơ bản cấu thành quá trình sản xuất và tái sản xuất nông nghiệp. Mở rộng thị trường lao động chính là môi trường tạo nên sự chuyển dịch người lao động từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ việc làm không hiệu quả sang việc làm có hiệu quả hơn, tạo điều kiện để phân bố sức lao động hợp lý, phù hợp với khả năng, trình độ của người lao động trong nông nghiệp. Chính sự phân công lao động và chuyên môn hóa lao động trong nông nghiệp là cơ sở và là điều kiện để hình thành và phát triển nông nghiệp hàng hóa. Mặt khác, thị trường lao động có được phát triển hay không, nhanh hay chậm phụ thuộc nhiều vào một mặt là trình độ dân trí, khả năng lao động, kỹ năng nghề nghiệp, tính chất cần cù, thông minh.. Trên trực tế, trình độ của người sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp hàng hóa phải cao hơn người sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế tự nhiên, biểu hiện họ là những người dám kinh doanh làm giàu cho mình và cho xã hội. Họ dám bỏ sức lực và tiền của vào sản xuất cái gì có khả năng nhất, có hiệu quả nhất. Để thực hiện điều đó, đòi hỏi người sản xuất cần phải có những kiến thức cơ bản về khoa học - Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 công nghệ, về quản trị kinh doanh, biết tiếp cận và nghiên cứu thị trường, nhận biết nhu cầu của thị trường, từ đó biết lựa chọn những cây, con nào được người tiêu dùng đánh giá cao và có sức mua lớn. Một mặt khác là sản xuất có được mở rộng hay không? có được chuyển đổi từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá hay khôngg? điều này lại phụ thuộc vào thị trường đầu vào, phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học công nghệ sản xuất, trình độ khoa học kỹ thuật và cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ sử dụng khoa học công nghệ và kỹ thuật sản xuất. Tiến bộ khoa học - công nghệ trong nông nghiệp được biểu hiện những nội dung cơ bản sau: - Ứng dụng tiến bộ công nghệ sinh học vào sản xuất. - Hoàn thiện hệ thống quy trình kỹ thuật sản xuất, quy trình công nghệ bảo quản, chế biến sản phẩm. - Tiến bộ kỹ thuật trong việc sử dụng cải tạo đất, sử dụng nguồn nước phục vụ nông nghiệp, nông thôn và bảo vệ môi trường. - Tiến bộ kỹ thuật trong việc sử dụng các phương tiện hóa học như phân bón, thuốc bảo vệ cây trồng vật nuôi, thuốc kích thích tăng trưởng, vật liệu hóa học xây dựng... - Những tiến bộ liên quan đến người lao động nông nghiệp bao gồm: Trình độ văn hóa, trình độ quản lý, kỹ năng, kỹ xảo, trình độ lành nghề, trình độ tiếp thị... - Tiến bộ kỹ thuật trong việc trang bị và sử dụng các phương tiện cơ khí như: Máy công tác hay là công cụ lao động nói chung; hệ thống các công trình thủy lợi; các yếu tố thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất như đường sá, phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, nhà xưởng, kho bãi... Các nhân tố nêu trên được coi là hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, chính là "giá đỡ vật chất", là bộ xương sống của sản xuất, là nhân tố trực tiếp làm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 thay đổi trạng thái của sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa nông sản. Ngày nay ở các nước kinh tế phát triển, khoa học- công nghệ đang được ứng dụng rộng rãi và nó đã ảnh hưởng, tác động rất lớn đến trình độ, quy mô phát triển nông nghiệp hàng hóa. Trong nền sản xuất hàng hóa, vốn là một trong những yếu tố quan trọng để tiến hành sản xuất kinh doanh. Vốn ở đây được xét theo nghĩa hẹp, nó được biểu hiện một lượng tiền mặt nào đó, nó có thể biến thành một nguồn lực cần thiết để tiến hành sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy, tốc độ và quy mô sản xuất nông nghiệp hàng hóa tùy thuộc vào mức thu nhập và khả năng tích lũy vốn của các đơn vị, các chủ thể sản xuất kinh doanh nông nghiệp cũng như sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước ở cả hai khía cạnh tỷ trọng vốn đầu tư và chính sách đầu tư. Do đó, vốn và việc sử dụng vốn có ảnh hưởng quan trọng đến phát triển nông nghiệp hàng hóa. Đối với doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hoặc hộ nông dân, muốn nâng cao trình độ sản xuất hàng hóa thì không những cần có lượng vốn đầu tư đủ lớn mà quan trọng là cần phải biết cách nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn. Nhưng trên thực tế cả hai vấn đề này các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn; hộ nông dân là những người có ít vốn đầu tư và trình độ sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý thấp. Do vậy, muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển nông nghiệp hàng hóa đòi hỏi phải có sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước thông qua hệ thống tài chính, tín dụng và các hình thức huy động vốn khác. Có như vậy mới tạo ra sự đột phá để đẩy nhanh sự phát triển nông nghiệp hàng hóa. Thị trường đầu ra: Việc xây dựng thị trường đầu ra cho nông nghiệp hàng hóa là cơ sở để các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Trong nền sản xuất hàng hóa, sản phẩm sản xuất ra là nhằm để bán và trao đổi trên thị trường. Do vậy, điều kiện cơ bản để các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 tiến hành hoạt động kinh doanh của mình là phải xác định được thị trường đầu ra, tìm kiếm được khách hàng và lựa chọn được phương thức tiêu thụ sản phẩm. Thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nông nghiệp rất đa dạng và phong phú, đó có thể là các doanh nghiệp công nghiệp (các cơ sở công nghiệp chế biến nông sản), các doanh nghiệp thương mại (các nhà bán buôn, bán lẻ, các đại lý...) và những người tiêu dùng, nông lâm sản thông qua các chợ nông thôn các đại lý tiêu thụ, các cơ sở chế biến công nghiệp tiêu thụ ở thị trường nước ngoài thông qua các nhà xuất khẩu các hợp đồng kinh tế, khả năng khai thác và mở rộng thị trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp là nhân tố hết sức quan trọng quyết định quy mô và trình độ phát triển nông nghiệp hàng hóa. * Thứ hai: Nhóm nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên Trong nông nghiệp đối tượng của sản xuất là những cây trồng và vật nuôi. Nó là những cơ thể sống, phát triển theo quy luật sinh học nhất định, rất nhạy cảm với những yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay đổi về điều kiện thời tiết - khí hậu đều tác động trực tiếp đến phát triển của cây trồng, vật nuôi, đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Trong quá trình sản xuất, người lao động phải nghiên cứu rất cụ thể đặc tính sinh học của các loại cây trồng, vật nuôi liên quan đến điều kiện tự nhiên, nơi định bố trí sản xuất loại cây trồng, vật nuôi đó để bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với từng vùng tự nhiên cụ thể mới đưa lại hiệu quả. Chính vì vậy, đối với phát triển nông nghiệp hàng hóa, đòi hỏi phải nghiên cứu tạo ra những giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt, thích hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, từng địa phương. Mặt khác, sự khác biệt về điều kiện tự nhiên giữa các vùng lãnh thổ đã hình thành nên các vùng cây con đặc sản có lợi thế cạnh tranh rất cao. Đây cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa cần phải Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 nghiên cứu để tận dụng tối đa điều kiện tự nhiên trong sản xuất hàng hóa nông nghiệp. * Thứ ba: Nhóm nhân tố thuộc về tthể chế, chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước Chính sách kinh tế vĩ mô có ý nghĩa tạo ra môi trường kinh doanh để hình thành nền nông nghiệp hàng hóa. Vì thế, nếu chính sách đúng đắn, thích hợp nó sẽ phát huy được tính năng động của các chủ thể sản xuất - kinh doanh, khai thác tốt nhất mọi tiềm năng thế mạnh của đất nước, thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp hàng hóa và ngược lại nếu các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước không đúng đắn, không thích hợp nó sẽ trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển nông nghiệp hàng hóa. Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước thông qua các chính sách để điều tiết thị trường theo định hướng XHCN như: Chính sách đất đai, chính sách đầu tư và tín dụng, chính sách khoa học- công nghệ, chính sách tiêu thụ nông sản...các chính sách này vừa tạo điều kiện phát triển sản xuất, vừa tạo điều kiện thu hút, đầu tư để thúc đẩy sự hình thành và phát triển nông nghiệp hàng hóa. Phát triển khoa học- công nghệ, cung cấp dịch vụ thông tin, đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng (hệ thống đường giao thông, điện, thủy lợi, hệ thống thông tin liên lạc...), cung cấp vốn, tín dụng…những vấn đề này thể hiện sự can thiệp và trợ giúp của Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng và là nhân tố không thể thiếu được trong phát triển nông nghiệp hàng hóa phát triển bền vững. Các nhóm nhân tố nêu trên có mối quan hệ cùng thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển bền vững, trong mỗi nhóm nhân tố đều có mặt tích cực riêng song nếu giải quyết không đồng bộ thì sản xuất hàng hoá hoặc không phát triển được hoặc không bền vững Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 Đối với nền nông nghiệp Việt Nam, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, với việc từng bước tham gia các thị trường AFTA, và WTO, thì tất yếu khách quan phải chuyển nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng sang sản xuất hàng hóa. Vì thế, nghiên cứu để thực thi một hệ thống thể chế pháp lý và chính sách có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Vì có phát huy được lợi thế so sánh, nhằm làm tăng các loại sản phẩm, giá trị sản xuất hàng hóa ngành nông nghiệp, thỏa mãn ngày càng cao về nhu cầu nông sản phẩm cho sản xuất, đời sống và xuất khẩu, góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. 1.1.2. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam 1.1.2.1. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở một số nước trên thế giới Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại hóa và bền vững là bước đi thích hợp của nhiều nước trên thế giới trong chiến lược phát triển kinh tế. Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy, không có một công thức phát triển chung cho quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đối với tất cả các nước. Mỗi nước có cách đi riêng, tùy theo những đặc điểm, điều kiện cụ thể của mình, dưới đây là kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của một số nước ở Châu Á : * Phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Trung Quốc: Trung Quốc là nước có nền nông nghiệp lớn và lâu đời nhất thế giới, đồng thời là một trong những chiếc nôi của nền nông nghiệp thế giới. Do đó, nền nông nghiệp Trung Quốc đã tích lũy nhiều kinh nghiệm thâm canh cổ truyền với một hệ thống công cụ sản xuất thủ công phong phú, đa dạng, tận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 dụng nguồn lao động dồi dào ở nông thôn, bảo đảm sản xuất nông nghiệp tự túc, tự cấp có hiệu quả cao. Kể từ khi tiến hành công cuộc cải cách, mở cửa đến nay, nền nông nghiệp Trung Quốc đã có nhiều thay đổi, phát triển theo hướng hiện đại hóa và bền vững. Kinh tế nông nghiệp Trung Quốc đã có sự chuyển dịch cơ cấu tích cực nhằm tạo ra năng suất cây trồng, vật nuôi cũng như hiệu quả lao động cao, sản xuất nhiều nông sản hàng hóa. Nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc đã có những bước thay đổi to lớn và đạt được những thành tựu đáng kể, đời sống nông dân được cải thiện từng bước, một bộ phận dân cư đã có đời sống khá giả. Là nước có diện tích đất canh tác khan hiếm và eo hẹp, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp cao, Trung Quốc chủ trương nâng cao hiệu quả sử dụng đất và cải tạo đất trồng, giải quyết vấn đề dôi dư lao động. Vì vậy, quốc gia này đã thực hiện thu hẹp kiểu kinh doanh cần nhiều lao động, mở rộng việc kinh doanh tập trung vốn và kỹ thuật. Đó là điều có lợi cho nông dân, cho công cuộc cải cách nông thôn và việc phân bổ tối ưu các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp. Thực tế cho thấy, phương thức kinh doanh trên những mảnh ruộng manh mún cổ truyền trước đây không còn phù hợp với việc thâm canh bằng tập trung vốn và kỹ thuật. Chỉ có phương thức kinh doanh với quy mô lớn mới tạo tiền đề cho việc đầu tư nhiều vốn và kỹ thuật nhằm đạt tới một nền sản xuất hiện đại và bền vững. Hiện nay, nông nghiệp vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng và đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc. Tổng kết kinh nghiệm 20 năm cải cách và phát triển kinh tế nông thôn, Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ rõ: "Không có sự ổn định của nông thôn sẽ không có sự ổn định của cả nước, không có sự sung túc của nông dân sẽ không có sự sung túc của nhân dân cả nước, không có hiện đại hóa nông nghiệp sẽ không có hiện đại hóa của toàn bộ nền kinh tế quốc dân". Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 định rằng, hiện nay và trong một thời gian dài nữa, nông nghiệp Trung Quốc vẫn giữ vị trí hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế; hiện đại hóa nông nghiệp là một bộ phận trọng yếu trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm trên xuất phát từ thực tế là ở Trung Quốc, nông nghiệp có vai trò mà không một ngành kinh tế nào có thể thay thế được. Tuy nhiên, trên thực tế, nông nghiệp Trung Quốc vẫn chưa đạt tới trình độ hiện đại hóa và bảo đảm sự phát triển bền vững. Vì vậy, hiện đại hóa nông nghiệp nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển trở thành đòi hỏi cấp bách hơn bao giờ hết. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã ban hành một loạt chính sách có lợi cho việc giải quyết vấn đề "tam nông" như: thực hiện xóa bỏ thuế nông nghiệp và phụ thu thuế nông nghiệp; trợ cấp cho nông dân sản xuất lương thực; thực hiện chế độ khám chữa bệnh loại hình mới trong cả nước, trong đó có việc giải quyết khám chữa bệnh cho nông dân... Qua hơn 20 năm cải cách nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa và phát triển bền vững, Trung Quốc đã thu được những bài học kinh nghiệm cả về lý luận và thực tiễn. Đó là: Bảo đảm đầy đủ quyền tự chủ, phát huy tính tích cực của nông dân; phát triển nhiều loại hình sở hữu kinh tế, trong đó công hữu là chủ thể, thực hiện sở hữu tập thể đối với ruộng đất kinh doanh khoán gia đình, tách quyền sử dụng với quyền sở hữu; cải cách theo hướng thị trường, tạo ra sức sống mới cho kinh tế nông thôn; xây dựng địa vị chủ thể của trang trại trong kinh doanh tự chủ của các nông hộ, khuyến khích nông dân phát triển sản xuất hàng hóa hướng về thị trường; tôn trọng tinh thần sáng tạo của nông dân, thúc đẩy sự nghiệp cải cách, khoán chế độ trách nhiệm đến hộ gia đình và phát triển các xí nghiệp hương trấn; kiên trì đường lối căn bản “từ quần chúng mà ra, đi vào quần chúng"; coi trọng cao độ nông nghiệp, kết hợp cải cách nông thôn và cải cách thành thị... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 * Thái Lan với chiến lược xây dựng nền nông nghiệp chất lượng cao, sức cạnh tranh mạnh: Thái Lan là nước có nền nông nghiệp chiếm địa vị chi phối, dân số nông thôn chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Nông nghiệp Thái Lan trong hàng thập kỷ qua đã chứng tỏ vai trò quan trọng, góp phần tăng trưởng kinh tế, bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân. Chính phủ Thái Lan xác định hướng chiến lược là xây dựng nền nông nghiệp với chất lượng cao, có sức cạnh tranh mạnh. Do đó, những năm gần đây, Thái Lan tập trung mũi nhọn phát triển mạnh hàng chế biến nông sản và công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Hiện Thái Lan có tới hơn 1/4 số xí nghiệp gia công sản phẩm được xây dựng ngay tại nông thôn, nhờ đó đã tạo dựng sự vững mạnh, ổn định về kinh tế cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống người nông dân. Bên cạnh đó, Chính phủ còn chú trọng xây dựng các tổ chức nông nghiệp và phát triển hệ thống điều hành nông nghiệp và nông thôn trên cơ sở sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học và hợp lý hướng tới phát triển bền vững. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền nông nghiệp, Thái Lan đã áp dụng một số chiến lược như: Tăng cường vai trò các cá nhân và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phong trào học tập, nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng cách mở các lớp học và các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn; tăng cường công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề nợ trong nông nghiệp; giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo đảm rủi ro cho nông dân. Đối với các sản phẩm nông sản, Nhà nước tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản bằng việc tăng khả năng tổ chức và tiếp thị thị trường. Phân bổ khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học và hợp lý, ngăn chặn tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi và kịp thời phục hồi những khu vực mà tài nguyên đã bị suy thoái. Giải quyết tốt những mâu thuẫn về tư tưởng trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 nông dân có liên quan đến việc sử dụng tài nguyên lâm, thủy hải sản, đất đai, đa dạng sinh học, phân bổ đất canh tác. Về xây dựng kết cấu hạ tầng, Nhà nước đã có chiến lược trong xây dựng và phân bố hợp lý các công trình thủy lợi lớn phục vụ cho nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết đất canh tác trên toàn quốc, góp phần nâng cao năng suất lúa và các loại cây trồng khác trong sản xuất nông nghiệp. Chương trình điện khí hóa nông thôn với các dự án thủy điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp cả nước. Một trong những tiêu chí để phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững và hiện đại hóa là cơ giới hóa nông nghiệp và áp dụng các quy trình kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Thái Lan chú trọng phát triển cơ giới hóa nhằm đưa nông nghiệp đi vào thâm canh, cải tạo và xây dựng nông thôn. Phát triển mạng lưới xí nghiệp cơ khí nhỏ và vừa của tư nhân ở các thành phố, thị trấn và nông thôn. Khuyến khích nông dân mua máy móc do các xí nghiệp cơ khí trong nước chế tạo, có cơ chế bảo hành và sửa chữa miễn phí trong vòng từ 1 đến 3 năm. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cải tạo đất, áp dụng công nghệ sinh học để lai tạo giống cây trồng, vật nuôi; thực hiện việc chuyển giao công nghệ nuôi cấy phôi; nghiên cứu các công nghệ bảo quản sau thu hoạch. Thái Lan còn chú trọng phát triển các ngành mũi nhọn như hàng nông, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu sang các nước khác, nhất là các nước công nghiệp phát triển. Hiện nay, ngoài mặt hàng xuất khẩu truyền thống như gạo, ngô, cao su, đường, nông nghiệp Thái Lan còn có nhiều mặt hàng xuất khẩu mới như hải sản đông lạnh, gia cầm, hoa quả tươi, chế biến rau xanh và sắn củ. Nhờ có chính sách khuyến khích nông nghiệp phát triển mạnh, Thái Lan đã đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo (khoảng 5 triệu tấn/năm), là nước xuất khẩu thực phẩm mạnh nhất khu vực Đông - Nam Á. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 Giáo dục và đào tạo cũng hướng vào nông nghiệp, nông thôn với các chương trình đào tạo phát triển kỹ năng cho nông dân và người quản lý đất đai, quản lý kinh doanh, bảo vệ môi trường và an toàn sức khỏe. Ngoài ra, còn có những hoạt động đào tạo truyền thống như tạo công ăn việc làm trong lĩnh vực hoạt động nông nghiệp nhằm góp phần thu hút lực lượng lao động đông đảo là thanh niên. Thái Lan thực hiện chính sách "ưu đãi nông nghiệp - nông thôn - nông dân" nhằm ổn định chính trị - xã hội. * Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Nhật Bản: Nhật Bản là nước có diện tích đất đai canh tác có hạn, số lượng người đông, đơn vị sản xuất nông nghiệp chính tại Nhật Bản vẫn là các hộ gia đình nhỏ, mang đậm tính chất của nền văn hóa lúa nước. Với đặc điểm tự nhiên và xã hội, trong phát triển nông nghiệp Nhật Bản đã đề ra một chiến lược khôn khéo và hiệu quả, như tăng năng suất nền nông nghiệp quy mô nhỏ (bằng cách thâm canh tăng năng suất trên đơn vị diện tích và trên đơn vị lao động để nông nghiệp Nhật Bản cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm cho nhu cầu của nhân dân); dưỡng sức dân, tạo khả năng tích lũy và phát huy nội lực; thâm canh tăng năng suất; xuất khẩu nông, lâm sản (nguồn thu ngoại tệ quan trọng) để nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ công nghiệp hóa; phi tập trung hóa công nghiệp, đưa sản xuất công nghiệp về nông thôn, gắn nông thôn với công nghiệp, gắn nông thôn với thành thị. Những bước đi thích hợp này là những điều kiện quan trọng để phát triển nông nghiệp, nông thôn Nhật Bản theo hướng hiện đại hóa. Để tạo cơ sở thúc đẩy nông nghiệp tăng trưởng và phát huy tác dụng máy móc, thiết bị và hóa chất cho quá trình cơ giới hóa và hóa học hóa nông nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao trong nông nghiệp, Nhật Bản đã chú trọng phát triển, xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng, hệ thống năng lượng và thông tin liên lạc hoàn chỉnh, phân bổ các ngành công nghiệp chế biến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 dùng nguyên liệu nông nghiệp (như tơ tằm, dệt may...), các ngành cơ khí, hóa chất trên địa bàn nông thôn toàn quốc. Tạo việc làm cho lao động nông thôn, ngăn chặn làn sóng lao động rời bỏ nông thôn ra thành thị. Chính phủ Nhật Bản thường xuyên có chính sách trợ giá nông sản cho các vùng nông nghiệp mũi nhọn. Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững và hiện đại hóa hiện là xu thế tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế các nước. Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản đều thực hiện chính sách lấy nông nghiệp làm nền tảng ổn định xã hội và tích lũy cho công nghiệp, thu hút vốn đầu tư, phát triển công nghiệp hướng vào xuất khẩu... làm tăng nhanh tiềm lực kinh tế đất nước. Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại hóa và phát triển bền vững của các nước này là bài học kinh nghiệm để chúng ta tham khảo và học tập [6]. 1.1.2.2. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở Việt Nam Trước năm 1980, sản xuất nông nghiệp nước ta lâm vào tình trạng đình đốn do mô hình hợp tác kiểu cũ và cơ chế kế hoạch hoá tập trung không phù hợp. Vào những năm cuối của thập niên 80 của thế kỷ XX, mức sản xuất lương thực bình quân đầu người liên tục giảm, lượng gạo hàng năm nhập khẩu tăng lên gần 1 triệu tấn, tình trạng khoán chui diễn ra phổ biến. Chỉ thị 100/CT-TW ngày 13/01/1981 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã bước đầu giải phóng lao động nông dân, gắn trách nhiệm và lợi ích của họ với sản phẩm cuối cùng trên ruộng khoán, khuyến khích đầu tư thêm lao động, phân bón, vật tư để thu thêm nhiều sản phẩm vượt khoán. Kết quả đã đem lại 6-7 vụ được mùa liên tiếp, sản lượng lương thực tăng gần 1 triệu tấn/năm. Bắt đầu từ cuối năm 1983 đến 1984, động lực khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động có dấu hiệu suy giảm, bởi lẽ khoán sản phẩm mới chỉ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 điều chỉnh cơ chế phân phối và cơ chế quản lý giữa người lao động và hợp tác xã, giữa công nhân lao động và nông trường, chưa thiết lập đầy đủ quyền làm chủ cho các hộ nông dân. Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 5/4/1988 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp đã chính thức thừa nhận vai trò của kinh tế hộ và coi kinh tế hộ là đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp. Đồng thời nhiều chính sách khác được thực hiện như xoá bỏ chế độ độc quyền thu mua nông sản, xoá bỏ chế độ 2 giá, thực hiện chính sách khuyến khích nông dân tăng sản lượng để bán ra thị trường, cải cách chế độ thuế và hỗ trợ đối với nông nghiệp, từng bước cải cách pháp lý để hỗ trợ kinh tế thị trường phát triển trong nông nghiệp...Kết quả là đến năm 1995, lần đầu tiên hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 1991-1995 trong đó có chỉ tiêu nông nghiệp, đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức, đưa nước ta thành nước xuất khẩu trên dưới 3 triệu tấn gạo/năm. Từ năm 1995 đến nay, đối mới trong nông nghiệp tiếp tục được thực hiện để tăng trưởng và hội nhập. Tháng 11/1998, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 06-NQ/TW về một số vấn đề nông nghiệp và kinh tế nông thôn, trong đó khẳng định vấn đề trọng yếu là kinh tế trang trại. Tháng 2 năm 2000, Chính phủ ra nghị quyết 03 về phát triển kinh tế trang trại...Những văn bản chính sách về khuyến khích phát triển nông nghiệp tiếp tục được hoàn thiện tạo động lực cho nông nghiệp nước ta phát triển và đã đạt được những thành tựu quan trọng: + Sản xuất lương thực tiếp tục tăng cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường. Đến năm 2007, sản lượng lương thực có hạt cả nước đạt 40 triệu tấn (trong đó lúa là 35,9 triệu tấn) nâng mức lương thực có hạt bình quân đầu người từ 444 kg năm 2000 lên 469,5 kg năm 2007. Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng để một nước đang phát triển có thể thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá thực sự. Trong vòng 10 năm, sản xuất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 lương thực tăng hơn 13 triệu tấn, mỗi năm tăng hơn 1 triệu tấn. Giai đoạn 2001-2007, các sản phẩm trồng trọt khác đều tăng với tốc độ khá như chè búp khô tăng 51,5%, cao su mủ khô tăng 61%, hạt tiêu 172,67%, đỗ tương 84%, lạc 42%...Một số cây trồng có lợi thế cạnh tranh là gạo, cà phê, cao su, tiêu. Sản lượng các loại cây trồng đều tăng nhanh, trong khi đó diện tích gieo trồng các loại cây lương thực giảm từ 8,44 triệu ha năm 2000 xuống còn 8,27 triệu ha năm 2007, riêng diện tích trồng lúa giảm mạnh từ 7,66 triệu ha xuống còn 7,2 triệu ha. Về cơ bản đã khắc phục được tình trạng độc canh cây lúa trên phần lớn diện tích, làm giá trị sản xuất trên 1 ha đất canh tác tăng từ 17 triệu đồng năm 2000 lên trên 30 triệu đồng năm 2007; Riêng ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đạt xấp xỉ 40 triệu đồng /ha. Diện tích đạt trên 50 triệu đồng/ha đã tăng từ 10% lên 20%. Chăn nuôi phát triển toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá. Từ năm 2000 đến 2007, ngành chăn nuôi đạt tốc độ tăng trưởng khá, tăng cao nhất là năm 2005 đạt 11,4%, năm 2007 tăng 4,6%. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng năm 2007 đạt 2,55 triệu tấn, tăng 80,4% so năm 2000. Chăn nuôi trâu bò tương đối ổn định qua các năm, tính bình quân giai đoạn 2000-2007, sản lượng thịt trâu, bò tăng bình quân 9,8%/năm. Đàn bò sữa phát triển nhanh, năm 2005 cả nước có 104 ngàn con, sản lượng sữa đạt 198 ngàn tấn, tăng gấp 4 lần so năm 2000 và tăng bình quân trên 30%/năm. Chăn nuôi gia cầm tăng trưởng bình quân 7,6%/năm giai đoạn 2000-2003. Đến năm 2007, tổng đàn gia cầm cả nước đạt 226 triệu con, đạt 358,8 ngàn tấn thịt hơi. Về cơ bản, ngành chăn nuôi nước ta đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và một phần xuất khẩu. Ngành lâm nghiệp phát triển và đạt được một số thành tựu: Tốc độ tăng trưởng của ngành lâm nghiệp bình quân đạt 1,4%/năm. Với thành tựu bảo toàn và phát triển được vốn rừng. Độ che phủ của rừng năm 1990 là 27,7%, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 đến năm 2005 đạt 37,3%. Từ năm 2000 đến nay, bình quân hàng năm trồng được gần 200 ngàn ha rừng. Các khâu khoanh nuôi tái sinh, khoán quản lý bảo vệ rừng theo phương thức”giao đất khoán rừng” đều đạt và vượt kế hoạch. Thành tựu đáng ghi nhận trong việc khai thác và chế biến lâm sản từ rừng là tỷ lệ gỗ khai thác từ trồng đã tăng lên, từ 47,4% năm 1998 lên 62,4% năm 2000 và đạt cao hơn trong những năm gần đây. Ngành thuỷ sản đang vươn lên thành ngành mũi nhọn trong nông lâm thuỷ sản. Đến năm 2007, sản lượng thuỷ sản cả nước đạt hơn 4,15 triệu tấn, tăng gấp 2,6 lần so với năm 2000. Thành tựu đáng chú ý nhất là diện tích và sản lượng nuôi trồng thuỷ sản tăng trưởng ở mức cao. So với năm 2000, năm 2007 diện tích nuôi tăng gấp 1,57 lần và sản lượng tăng gấp hơn 3,5 lần, đạt 2.085,2 ngàn tấn. Trong quá trình phát triển, các hoạt động khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản đã gắn kết chặt chẽ. Các khâu trọng yếu về hạ tầng kỹ thuật phục vụ nuôi trồng, khai thác, chế biến đã được đầu tư, từng bước hiện đại hoá. Hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp đã có nhiều chuyển biến. Nghị định số 03/NĐ-CP năm 2000 của Chính phủ đã tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho kinh tế trang trại phát triển. Năm 2006 cả nước có 72,02 ngàn hộ trang trại, tăng 16 ngàn hộ so với năm 2000, thu hút khoảng 240 ngàn lao động. Kinh tế hợp tác xã ngày càng phát triển, năm 2006 có 6.971 hợp tác xã, trong đó có 5.847 hợp tác xã cũ chuyển đổi, 1.124 hợp tác xã mới thành lập. Các hình thức liên doanh liên kết đã tạo ra những năng lực phát triển mới mang lại hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. Sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản phát triển sau đổi mới đã làm cho kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản tăng nhanh chóng, năm 2007 đạt trên 12 tỷ USD với 1.229,2 ngàn tấn cà phê, 152,5 ngàn tấn hạt điều, 82,9 ngàn tấn hạt tiêu, 114,5 ngàn tấn chè, cao su thiên nhiên đạt 714,9 ngàn tấn, thuỷ sản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 đạt 3,8 tỷ USD, tăng gấp 2,53 lần so năm 2000. Thị trường xuất khẩu được đa dạng hơn, có nhiều thị trường mới cho hàng nông, lâm, thuỷ sản. Bên cạnh những kết quả đạt được, nông nghiệp nông thôn nước ta còn gặp một số khó khăn, thách thức, đó là: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn chuyển dịch chậm so với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tốc độ giảm tỷ trọng nông lâm nghiệp thuỷ sản trong GDP cả nước đã chậm lại, năm 1990, tỷ trọng này là 38,74%, năm 2000 còn 24,53%, bình quân mỗi năm giảm 1,4%, nhưng giai đoạn 2001-2007 chỉ giảm dưới 0,8%/năm, còn 20,3% năm 2007. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp vẫn thể hiện tính độc canh, tự túc, phân tán và quy mô nhỏ. Chăn nuôi chiếm tỷ trọng 24% và không vững chắc. Phương thức chăn nuôi phân tán dưới hình thức hộ gia đình với kỹ thuật thủ công và chăn nuôi tận dụng vẫn là phổ biến. Số trang trại chăn nuôi tuy có tăng lên nhưng mới chỉ chiếm khoảng 3% số trang trại cả nước và sản phẩm chăn nuôi của trang trại cũng chỉ chiếm khoảng 10% tổng sản phẩm chăn nuôi. Các sản phẩm trồng trọt xuất khẩu ngoài gạo, cao su, cà phê chỉ đạt mấy chục ngàn tấn/năm. Nhiều loại sản phẩm xuất khẩu chủ yếu dưới hình thức tiểu ngạch sang Trung Quốc như rau, quả, cao su,... Dân số và lực lượng lao động còn lưu lại trong nông nghiệp nông thôn khá cao. Năm 2007, trong số trên 30 triệu lao động nông thôn, lao động sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản chiếm tới 23,89 triệu người và chưa có dấu hiệu thuyên giảm do tình trạng thất nghiệp (tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn mới đạt trên 80% năm 2007) và tốc độ chuyển dịch cơ cấu chậm. Năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam còn thấp. Chất lượng nông sản thấp, nguyên nhân chính là chúng ta chưa có đủ bộ giống cây trồng và vật nuôi cho sản phẩm chất lượng cao. Công nghệ bảo quản, chế biến nông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 sản chậm được đổi mới và chưa đồng bộ là nguyên nhân cố hữu nhất, tồn tại lâu nhất làm ảnh hưởng đến chất lượng nông sản. Giá thành nông sản còn cao do nhiều nguyên nhân như giống kém, trình độ thâm canh còn hạn chế, tỷ lệ hao hụt trong các khâu thu hoạch, vận chuyển, bảo quản, chế biến khá cao; Sản xuất nông nghiệp phân tán với 9,78 triệu hộ nông nghiệp (năm 2006). Cơ sở hạ tầng dịch vụ thương mại hàng nông sản còn hạn chế, chi phí cao. Nạn chặt phá rừng và tình trạng cháy rừng chưa được ngăn chặn hữu hiệu. Giai đoạn 2001-2007, bình quân mỗi năm bị cháy hơn 5,5 ngàn ha rừng và bị chặt phá 3,32 ngàn ha gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế xã hội, môi trường. Mỗi năm vẫn còn tới hàng chục ngàn vụ vi phạm lâm luật về bảo vệ và phát triển rừng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên như hoạt động của lực lượng kiểm lâm còn hạn chế, ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn kém,... nhưng nguyên nhân cơ bản nhất là người dân chưa sống được nhờ nghề rừng. Thu nhập từ nông nghiệp giảm, phân hoá giàu nghèo trong nông thôn diễn ra với khoảng cách ngày càng xa hơn. Chất lượng tăng trưởng nông nghiệp thấp, mặc dù giá trị sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản tăng 5,5%/năm nhưng chi phí sản xuất cao nên giá trị gia tăng của toàn ngành chỉ tăng 4%. Tỷ lệ giá trị gia tăng/giá trị sản xuất nông nghiệp giảm dần. Thu nhập bình quân/hộ giảm do giá cả các loại vật tư nông nghiệp ngày càng cao, gây bất lợi cho sản xuất nông nghiệp và các hộ nông dân [dt 8], [10]. Trong những năm tới,để phát triển nền nông nghiệp nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và bền vững, cần phải xây dựng được một chiến lược phát triển nông nghiệp đúng đắn dựa trên các căn cứ khoa học sau: Thứ nhất, phải đánh giá một cách khách quan và sâu sắc chiến lược phát triển nông nghiệp trong giai đoạn trước, chỉ ra những thành tựu đã đạt được cũng như các hạn chế tồn tại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 Thứ hai, phải căn cứ vào nguồn tài nguyên của đất nước, bao gồm tài nguyên về đất đai, thời tiết, khí hậu. Đất nước ta với nguồn tài nguyên phục vụ cho nông nghiệp có nhiều lợi thế, song cũng có những khó khăn lớn. Cần đánh giá đúng các lợi thế và những khó khăn trong quá trình xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nông nghiệp. Thứ ba, căn cứ vào cơ sở vật chất - kỹ thuật nông nghiệp bao gồm hệ thống công cụ máy móc, hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Với hệ thống đạt ở mức nào, cần thiết phải điều chỉnh bổ sung và nâng cấp xây dựng nhằm hướng vào phục vụ chiến lược phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện tại và tương lai. Thứ tư, căn cứ vào nguồn lao động và trình độ của người lao động: số lượng và chất lượng của nguồn lao động. Ở nước ta nguồn lao động nông nghiệp dồi dào, song chất lượng còn thấp, ít được đào tạo về kỹ thuật và quản lý, trình độ dân trí chưa cao. Thứ năm, căn cứ vào nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế về sản phẩm nông nghiệp. Ở từng giai đoạn, yêu cầu về số lượng, chất lượng và chủng loại các nông sản rất khác nhau ở trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Cần phân tích, đánh giá và dự báo về nhu cầu của thị trường một cách có căn cứ khoa học. Thứ sáu, căn cứ vào trình độ khoa học và công nghệ của thế giới, của nước ta và khả năng ứng dụng những thành tựu tiến bộ khoa học và công nghệ của thế giới vào điều kiện Việt Nam hiện nay và sắp tới. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đại hội X của Đảng đã chỉ ra chiến lược phát triển nông nghiệp của nước ta như sau: “Phải luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn hướng tới xây dựng, phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và hiệu quả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện từng bước hình thành một nền nông nghiệp sạch, phấn đấu giá trị tăng thêm trong nông lâm nghiệp thuỷ sản tăng 3-3,2%/năm”[7]. Từ chiến lược tổng quát trên, có thể xác định những nội dung chủ yếu: + Phát triển một nền nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá có cơ cấu sản xuất ngày càng hợp lý. + Xây dựng và phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, đa dạng có cơ cấu sản phẩm hàng hoá phong phú, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và hướng mạnh vào xuất khẩu, đồng thời đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ mới để nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh trên thị trường. + Xây dựng và phát triển nền nông nghiệp sinh thái bền vững, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện từng bước hình thành một nền nông nghiệp sạch. Mục tiêu phát triển: + Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và lâu dài. + Tăng nhanh sản xuất nông sản hàng hoá và hàng hoá xuất khẩu. + Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân cư nông nghiệp và nông thôn. + Bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai để phát triển bền vững [9]. 1.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 1.2.1. Các câu hỏi đặt ra cần giải quyết - Trong 5 năm (2004- 2008) ngành nông nghiệp của huyện Đồng Hỷ đã đạt được những kết quả như thế nào? Những mặt còn tồn tại, hạn chế? - Nguyên nhân đạt được kết quả nêu trên và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế? Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 - Đặc thù, thế mạnh và những tiềm năng của ngành nông nghiệp ở huyện Đồng Hỷ trong phát triển nông nghiệp hàng hoá là gì? - Định hướng mục tiêu phát triển của ngành nông nghiệp ở huyện Đồng Hỷ trong những năm tới là gì? - Những giải pháp quan trọng nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa của huyện Đổng Hỷ? 1.2.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Để tiến hành nghiên cứu đạt được những mục đích đề ra, phải sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để giải quyết các vấn đề như: Các phương pháp cụ thể bao gồm: 1.2.2.1. Chọn địa điểm nghiên cứu Chọn điểm nghiên cứu là vấn đề hết sức quan trọng, nó có ảnh hưởng quyết định đến tính chính xác, khách quan và tính thực tiễn của kết quả nghiên cứu đề tài. Chọn điểm nghiên cứu được tiến hành theo các bước sau: a). Chọn vùng nghiên cứu Theo kết quả phân vùng sinh thái và kinh tế huyện Đồng Hỷ được chia làm 3 vùng sinh thái: vùng đồng bằng, vùng đồi thấp và vùng núi. Ba vùng sinh thái này có sự khác biệt tương đối rõ rệt về điều kiện đất đai, địa hình, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, điều kiện thị trường, cơ sở hạ tầng, trình độ dân trí... Do vậy, để đảm bảo yêu cầu cho nhu cầu nghiên cứu, điểm được chọn có đầy đủ các vùng sinh thái và cụm kinh tế trong huyện. b). Chọn xã nghiên cứu Việc chọn xã nghiên cứu phải đảm bảo theo yêu cầu nghiên cứu và phân tích và đảm bảo các tiêu chuẩn như sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 + Đại diện và theo tỷ lệ các xã trong vùng sinh thái, kinh tế của huyện. + Có quỹ đất nông lâm nghiệp ở mức trung bình khá so với các xã khác trong huyện. + Có điều kiện sản xuất, mức độ kinh tế, trình độ dân trí... ở mức trung bình trong huyện. + Được phân bố đều ở phía Bắc, Nam, Đông, Tây và vùng trung tâm của huyện. + Có khoảng cách xa, gần khác nhau đến thị trường, đường quốc lộ và trung tâm huyện lỵ Đồng Hỷ hoặc thành phố Thái Nguyên. Trên cơ sở đó, đề tài chọn 3 xã đại diện theo các vùng sinh thái và kinh tế, cụ thể như sau: Vùng bằng phẳng (Trung tâm): xã Hóa Thượng. Vùng đồi thấp (Phía Nam): xã Khe Mo. Vùng núi (Phía bắc): xã Hoà Bình. Nhìn chung các xã được chọn đã đáp ứng được yêu cầu đề ra. 1.2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu Để có được đầy đủ thông tin số liệu phục vụ cho việc phân tích đánh giá đáp ứng yêu cầu của mục đích nghiên cứu đề tài tiến hành từng bước và sử dụng nhiều phương pháp thu thập khác nhau. a). Thu thập thông tin số liệu thứ cấp Đó là những thông tin số liệu có liên quan đến quá trình nghiên cứu của đề tài đã được công bố chính thức ở các cấp, các ngành. Thông tin số liệu chủ yếu bao gồm: Các kết quả nghiên cứu có liên quan đã tiến hành trước đó, thông tin số liệu liên quan đến tình hình sử dụng đất nông lâm nghiệp, các chính sách đầu tư khuyến khích phát triển sản xuất, kết quả sản xuất nông lâm nghiệp và các thông tin số liệu như: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 + Các công trình khoa học và tác phẩm nghiên cứu liên quan đến tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và sản xuất hàng hóa ở trong và ngoài nước. + Các tài liệu tổng kết, báo cáo hàng năm của các cơ quan cấp huyện Đề tài sử dụng các phương pháp điều tra trực tiếp thông qua hệ thống chứng từ sổ sách, tài liệu đã được công bố, phương pháp chuyên khảo hoặc thông qua các cuộc phỏng vấn các chuyên gia nông nghiệp, các lão nông tư điền, chủ trang trại và hộ sản xuất giỏi. Đề tài đã sử dụng phương pháp: Đánh giá nhanh nông thôn (RRA): và phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA): Trực tiếp tiếp xúc với nông dân tại điểm nghiên cứu, khuyến khích giúp đỡ và gợi mở tạo cơ hội cho người dân trao đổi bàn bạc đưa ra những kinh nghiệp và những khó khăn, nguyện vọng, kế hoạch và giải pháp để phát triển sản xuất cho gia đình cũng như cộng đồng thôn bản. b). Thu thập số liệu sơ cấp + Dùng phiếu điều tra kinh tế hộ nông dân: Công việc này được tiến hành sau khi đã lựa chọn được các hộ nông dân trong mỗi thôn xã. Mục đích của điều tra, kinh tế hộ nông dân là nhằm thu thập các thông tin số liệu về tình hình đời sống, sản xuất cũng như các vấn đề liên quan như chính sách, lao động, việc làm, khó khăn trong sản xuất... đặc biệt là mô hình và phương hướng phát triển sản xuất rong hiện tại và tương lai trong từng hộ nông dân ở điểm nghiên cứu. Thông qua phiéu điều tra Phiếu điều tra bao gồm những thông tin chủ yếu sau: + Điều tra phỏng vấn trực tiếp các hộ nông dân với bộ câu hỏi đã được chuẩn bị được tiến hành làm thử trước hết ở một số ít hộ, sau đó được chỉnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 sửa cho hoàn chỉnh phù hợp với thực tế và cuối cùng là dùng để điều tra phỏng vấn toàn bộ các hộ nông dân được chọn. Số liệu thu thập được thông qua điều tra và được kiểm tra lại. Số liệu thứ cấp và sơ cấp được sử dụng chủ yếu đánh giá thực trạng sản xuất, kinh doanh trong từng nhóm hộ, từng loại đất, loại cây trồng... xác định các yếu tố ảnh hưởng cũng như là cơ sở để đưa ra những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả việc phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa của từng vùng sinh thái cũng như toàn huyện nghiên cứu. 1.2.2.3. Tổng hợp, xử lý và phân tích số liệu a). Tổng hợp, xử lý số liệu * Đối với số liệu sơ cấp (số liệu đã công bố) Sau khi được thu thập, toàn bộ những số liệu này được xử lý tính toán phản ánh thông qua bảng thống kê hoặc đồ thị thống kê dùng để so sánh, đối chiếu đánh giá và rút ra những kết luận cần thiết. * Đối với số liệu sơ cấp Toàn bộ số liệu thu thập được trên các phiếu điều tra đều được kiểm tra, bổ sung, chỉnh lý sau đó nhập vào bảng tính toán EXCEL trên máy vi tính xử lý, tổng hợp và phân tích thông tin số liệu vào những chỉ tiêu cụ thể nhằm đạt được mục đích nghiên cứu đề ra. Trong quá trình xử lý số liệu, phương pháp phân tổ thống kê được coi là phương pháp chủ đạo. b). Phương pháp phân tích số liệu - Phương pháp thống kê kinh tế: Phương pháp phân tổ thống kê bao gồm chủ yếu là thống kê mô tả và thống kê so sánh. Phương pháp thống kê mô tả được thực hiện thông qua việc sử dụng số bình quân, tần suất, số tối đa và tối thiểu. Phương pháp thống kê Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 so sánh bao gồm cả số tương đối và số tuyệt đối để đánh giá sự vật và hiện tượng theo không gian và thời gian. Trên cơ sở các chỉ tiêu đã được tính toán cho từng dạng hộ nông dân theo các dạng nhóm phân tổ, có thể so sánh các vùng khác nhau, giữa các năm với nhau và giữa các dân tộc khác nhau, nhằm rút ra những ưu điểm, những hạn chế của các đối tượng, làm cơ sở cho việc đề ra những giải pháp triển phù hợp với các mô hình sản xuất của người nông dân trên từng vùng sinh thái. Phương pháp so sánh chỉ áp dụng đối với các chỉ tiêu và các đối tượng so sánh có ý nghĩa nhằm phát hiện những nét đặc trưng cơ bản của kinh tế hộ nông dân. Đồng thời phương pháp này được sử dụng chủ yếu là so sánh kinh tế hộ nông dân theo hướng phát triển kinh tế hàng hoá ở những mô hình kinh tế trong các vùng ở các đồng bào dân tộc khác nhau. 1.2.3. Hệ thống chỉ tiêu phân tích 1.2.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả sản xuất nông nghiệp: - Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. - Giá trị gia tăng toàn ngành nông nghiệp. - Tổng đàn gia súc, gia cầm… - Năng suất, sản lượng cây trồng, sản lượng nuôi trồng, khai thác, Sản lượng thịt hơi xuất chuồng… - Thu nhập = Tổng thu - tổng chi. + Trong trồng trọt: Tổng thu trên 1 đơn vị diện tích = sản lượng trên 1 đơn vị diện tích x đưon gái (giá thực tế) Tổng chi trên 1 đơn vị diện tích: bao gồm chi phí mua giống cây, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công lao động, chi phí khác… + Đối với chăn nuôi: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 Tổng thu (tính cho 1 loại vật nuôi) = sản lượng hơi xuất chuống x đơn giá (giá thực tế) Tổng chi bao gồm chi phí mua giống con, chi phí mua thức ăn, chi phí về thú y, chi phí chuồng trại, công lao động… 1.2.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh phân bổ và hiệu quả sử dụng nguồn lực - Diện tích đất nông nghiệp, diện tích tưới tiêu, diện tích trồng cây hàng năm, cây lâu năm… - Các trang trại tập trung chăn nuôi gia súc, gia cầm… 1.2.3.3. Các chỉ tiêu phản ánh sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá * Tỷ suất nông sản hàng hóa. Để đo lường trình độ sản xuất và trao đổi hàng hóa có thể dùng chỉ tiêu “Tỷ suất nông sản hàng hóa”. Tỷ suất nông sản hàng hóa là tỷ lệ phần trăm giữa tổng lượng nông sản hàng hóa với tổng lượng sản phẩm sản xuất ra. Công thức 1: Tỷ suất nông sản hàng hoá = Tổng lượng nông sản hàng hoá x 100% Tổng lượng nông sản SX trong kỳ Tỷ suất nông sản hàng hóa cũng là chỉ tiêu đánh giá về mặt chất lượng trình độ chuyên môn hóa và trình độ huy động nông sản cho xã hội. Tỷ suất hàng hóa tính riêng cho mọi sản phẩm chuyên môn hóa, do đó ở mẫu số và tử số chỉ tính thuần túy cho một loại sản phẩm. Để tính tốc độ phát triển sản xuất, tăng tổng sản lượng và sản lượng hàng hóa nông sản, người ta dùng chỉ tiêu giá trị sản phẩm hàng hoá gia tăng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 Công thức 2: Giá trị SP hàng hoá gia tăng = Giá trị SP hàng hoá Giá trị tổng sản phẩm Trên thực tế, đôi khi ta có một khối lượng sản phẩm hàng hoá nhưng không tiêu thụ được vì sản phẩm chất lượng quá kém, sản phẩm không sạch, có thừa dư lượng hoá chất độc hại, hoặc vì giá thành sản xuất quá cao, bán ra thua lỗ nhiều, hoặc vì không có thị trường tiêu thụ ổn định. Công thức 3: Tỷ suất giá trị hàng hoá được tiêu thụ = SP hàng hoá và giá trị SP hàng hoá được tiêu thụ SP hàng hoá và giá trị SP hàng hoá nói chung Thông thường, các địa phương, xí nghiệp sau một vụ sản xuất thường có nhiều sản phẩm dư thừa và coi đó là địa phương mình có sản phẩm hàng hoá nhưng không có địa bàn tiêu thụ hoặc tiêu thụ bị động, kém hiệu quả. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 CHƢƠNG II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHỆP THEO HƢỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN 2.1. Đặc điểm của huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Đồng Hỷ là một huyện trung du - miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Thái Nguyên. Trung tâm huyện cách thành phố Thái Nguyên 3 km theo quốc lộ 1B. Phía Đông giáp với tỉnh Bắc Giang, phía Tây giáp với huyện Phú Lương, phía Nam giáp với huyện Phú Bình và Thành phố Thái Nguyên, phía Bắc giáp huyện Võ Nhai và tỉnh Bắc Cạn (Phụ lục số 03). Có tọa độ địa lý: 21032' - 21051' độ vĩ Bắc. 105046' - 1060 04 độ kinh Đông. Với đặc trưng của vùng đất trung du miền núi, Đồng Hỷ có thế mạnh về nông nghiệp, địa bàn lại nằm tiếp giáp với thành phố Thái Nguyên có đường quốc lộ 1B đi qua, nên đây là điều kiện thuận lợi để huyện tiêu thụ các mặt hàng nông, lâm sản của mình. Trên địa bàn huyện có sông Cầu chảy qua hàng năm được bồi đắp một lượng phù sa lớn từ con sông Cầu. Trên địa bàn huyện có nhiều khu vực đất bằng phẳng, các khu ruộng nối liền với nhau thành một cánh đồng lớn, có hệ thống tưới tiêu tốt rất thuận tiện cho phát triển trồng trọt và chăn nuôi. Huyện Đồng Hỷ nằm gần thành phố Thái Nguyên, gần khu công nghiệp, gần các trung tâm văn hoá, khoa học, giáo dục của các tỉnh trung du và miền núi Bắc Bộ nên chịu sự tác động lớn về giao lưu trong nhiều lĩnh vực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 kinh tế - xã hội, đây là điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ, phổ biến và quảng bá sản phẩm hàng hoá sản xuất ra của trang trại và hộ nông dân trong huyện. 2.1.1.2. Địa hình Là một huyện điển hình cho vùng trung du và miền núi phía Bắc, nên địa hình phức tạp không thống nhất. Với độ cao trung bình khoảng 100 mét so với mặt nước biển, địa hình thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam, cao nhất là xã Văn Lăng 600 mét, thấp nhất là xã Đồng Bẩm, Huống Thượng độ cao chỉ 20 mét. Vùng Bắc giáp với Huyện Võ Nhai có địa hình núi cao, diện tích đất nông nghiệp ít, chiếm 9% tổng diện tích đất tự nhiên. Vùng trung du nằm ở phía Tây Nam của Huyện tiếp giáp với thành phố Thái nguyên, địa hình tương đối bằng phẳng, diện tích đất nông nghiệp chiếm gần 20% diện tích đất tự nhiên, thích hợp với sản xuất đất nông nghiệp, chăn nuôi (thuỷ sản, gia cầm). Vùng núi phía đông nam tiếp giáp với huyện Yên Thế - Bắc Giang có nhiều đồi núi thấp với diện tích đất nông nghiệp chiếm gần 14% diện tích đất tự nhiên của vùng. Địa hình huyện Đồng Hỷ có nhiều đồi núi xen lẫn nhau với những đồi thấp nên mưa lớn xói mòn, rửa trôi mạnh. Sản phẩm của sự xói mòn đó là sự bồi tụ đất tạo thành nhiều cánh đồng dốc tụ lại phân bố ở khắp mọi nơi, chính vì thế đất dốc tụ thành thung lũng là loại đất trồng lúa, hoa màu chủ yếu của huyện. Đất canh tác nông nghiệp chủ yếu là ruộng bậc thang. Huyện Đồng Hỷ có thể chia thành 3 vùng rõ rệt: - Vùng bằng phẳng (trung tâm) gồm các xã: Hoá Thượng, Cao Ngạn, Chùa Hang, Đồng Bẩm, Linh Sơn, Huống Thượng, Nam Hoà. Vùng này có địa hình thấp, nằm giáp với thành phố Thái Nguyên. Vùng này phát triển sản xuất nông nghiệp như: Trồng lúa, rau, màu, chăn nuôi tiểu gia súc và dịch Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 vụ. Là trung tâm y tế, giáo dục, thương mại của huyện, người dân có cuộc sống khá ổn định, sản xuất hàng hoá đã phát triển, trình độ dân trí khá hơn so với các vùng khác. - Vùng đồi dốc (phía Nam) gồm các xã: Khe Mo, Văn Hán, Cây Thị, Trại Cau, Tân Lợi, Hợp Tiến. Vùng này chủ yếu là đất đồi dốc với độ cao, đất đai bị rửa trôi, xói mòn, có đất ruộng nhưng ít. Ở đây chủ yếu trồng cây lâm nghiệp, cây chè, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, trồng lúa nước. - Vùng cao (phía Bắc) gồm các xã: Văn Lăng, Hoà Bình, Tân Long, Quang Sơn, Hoá Trung, Minh Lập, Sông Cầu. Vùng này đất đồi dốc và núi đá là chủ yếu, đất lúa rất ít, vùng này thuận lợi cho phát triển lâm nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, trồng lúa nương. 2.1.1.3. Đất đai và thổ nhưỡng * Đất đai Diện tích đất tự nhiên là 47.037,94 ha, Đồng Hỷ là huyện có diện tích tự nhiên lớn thứ 3 của tỉnh (sau huyện Võ Nhai và Đại Từ), bình quân diện tích tự nhiên trên đầu người là 0,49 ha/ người, cao hơn bình quân của tỉnh 0,14 ha/ người. Cơ cấu diện tích các loại đất trong huyện được thể hiện ở bảng sau: Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện Đồng Hỷ là 47.037,94 ha, đất lâm nghiệp của huyện chiếm 45,5% tổng diện tích đất tự nhiên, sau đó đến đất nông nghiệp là 12.488,92 ha chiếm 26,55% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện và đất chưa sử dụng còn rất lớn chiếm 21,64% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện Đồng Hỷ (bảng 2.1). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 Bảng 2.1. Tình hình sử dụng đất đai của huyện Đồng Hỷ năm 2008 Loại đất Diện tích (ha) Cơ cấu (%) Tổng diện tích đất tự nhiên 47.037,94 100,00 I. Đất nông nghiệp 12.488,92 26,55 1. Đất trồng cây hàng năm 6.969,83 55,81 2. Đất vườn tạp 1.357,06 10,87 3. Đất trồng cây lâu năm 3.989,74 31,95 4. Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 172,29 1,38 II. Đất lâm nghiệp có rừng 21.402,61 45,5 1. Rừng tự nhiên 12.071,84 56,40 2. Rừng trồng 9.329,44 43,59 3. Đất ươm cây giống 1,33 0,006 III. Đất chuyên dùng 2.101,29 4,47 IV. Đất ở 864,79 1,87 1. Đất ở đô thị 105,00 12,14 2. Đất ở nông thôn 759,79 87,86 V. Đất chƣa sử dụng 10.180,33 21,64 1. Đất bằng chưa sử dụng 384,93 3,78 2. Đất đồi núi chưa sử dụng 7.670,39 75,35 3. Đất có mặt nước chưa sử dụng 33,60 0,33 4. Sông, suối 1.112,26 10,93 5. Núi đá không có rừng cây 463,70 4,55 6. Đất chưa sử dụng khác 515,45 5,06 7. Hệ số sử dụng ruộng đất 1,99 (Nguồn: Phòng Thống kê huyện Đồng Hỷ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 * Thổ nhưỡng Với địa hình phức tạp, đất đai đa dạng tạo điều kiện cho huyện Đồng Hỷ phát triển các loại cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày, cây lâm nghiệp. Những cánh đồng ở thung lũng phát triển cây lương thực đảm bảo an toàn lương thực tại chỗ cho toàn huyện, đồng thời phát triển phong phú các cây rau mầu, cây công nghiệp ngắn ngày tạo điều kiện cho phát triển sản xuất hàng hoá. Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 47.037,94 ha, phân theo thổ nhưỡng bao gồm các loại đất như sau: đất phù sa bồi tụ có 644 ha phân bố chủ yếu ven sông Cầu thuộc các xã Đồng Bẩm, Huống Thượng. Đất phù sa không được bồi là 1.258 ha, chủ yếu ở xã Đồng Bẩm, Huống Thượng, Linh Sơn, Nam Hoà, Hoà Bình, Minh Lập, Hoá Thượng, Cao Ngạn. Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ và vàng là 410,5 ha phân bố nhiều ở Huống Thượng. Đất phù sa ngòi suối có 100,6 ha thuộc các xã Khe Mo, Hóa Trung, Hoá Thượng và Minh Lập. 2.1.1.4. Điều kiện khí hậu, thời tiết Huyện Đồng Hỷ nằm trong vùng có khí hậu mang tính đặc trưng của các tỉnh miền núi và trung du phía Bắc, do đó từng vùng khác nhau có đặc điểm khí hậu khác nhau: - Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 22 - 270C - Về độ ẩm không khí trung bình, thay đổi từ 78 - 86% Khí hậu huyện Đồng Hỷ nói trung là nóng và ẩm thuận lợi cho việc phát triển ngành nông nghiệp và lâm nghiệp, với điều kiện nhiệt độ cao có thể làm nhiều vụ trong một năm mà vòng sinh trưởng của cây trồng vẫn có thể đảm bảo, điều kiện mưa ẩm tạo điều kiện cho nhiều loại cây rau phát triển. Nếu làm thuỷ lợi tốt biết cách giữ điều hoà nước có thể đảm bảo cung cấp nước cho cây trồng trong cả năm. Khí hậu huyện Đồng Hỷ chia thành hai mùa rõ rệt là mùa hè và mùa đông khô lạnh. Mùa hè từ khoảng tháng 5 đến tháng 10, mùa hè nhiệt độ trung bình là 27 - 29 0C có lúc lên tới 30 - 310C, mùa này thường có mưa, mưa nhiều Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 nhất là tháng 7, tháng 8, trung bình lượng mưa trong tháng này là 300 - 500 mm và chiếm tổng số 40 - 46% lượng mưa cả năm. Mùa này nói trung thời tiết khí hậu thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Song vào mùa mưa, thỉnh thoảng có gió bão gây mưa to, gió lớn, úng lụt làm ảnh hưởng đến sản xuất nông lâm nghiệp. Đồng thời do địa hình miền núi nên những trận mưa to ở đầu nguồn dẫn đến xói mòn đất, gây bạc màu cho đất. Mùa đông khô hanh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, nhiệt độ trung bình là 150 - 22 0C, có lúc xuống thấp dưới 150C. Mùa này mưa ít thường hay bị hạn vào tháng 12, tháng 1 có những đợt gió mùa Đông Bắc kèm theo thời tiết lạnh, đôi khi có sương muối kéo dài, rét đậm gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Nhìn chung điều kiện thời tiết khí hậu có những thuận lợi cho sinh trưởng phát triển cây trồng, vật nuôi. Tuy nhiên khi xẩy ra hạn hán, lũ lụt, sâu bệnh…cũng gây khó khăn cho sản xuất lâm nghiệp. 2.1.1.5. Thuỷ văn Sông suối của huyện đều bắt nguồn từ khu vực núi cao phía Bắc và Đông Bắc, mật độ sông suối bình quân 0,2km/km2. Huyện Đồng Hỷ có các sông suối lớn là: - Sông Cầu là con sông lớn nhất chảy theo hướng Bắc Nam, chảy qua phía Tây của huyện dài khoảng 47 km là nguồn nước chính cung cấp cho Đồng Hỷ. Chế độ dòng chảy thất thường nhiều năm gây úng lụt, về mùa cạn nước sông xuống thấp gây hạn hán. - Sông Linh Nham: Bắt nguồn từ huyện Võ Nhai và chảy qua xã Văn Hán, Khe Mo, Hoá Thượng, Linh Sơn ra Sông Cầu, chiều dài chảy qua huyện Đồng Hỷ là 28 km. Do rừng đầu nguồn bị chặt quá nhiều lên lưu lượng nước giữa mùa mưa và mùa khô chênh lệch rất lớn, mùa mưa thường gây lũ lớn, mùa khô mực nước sông xuống rất thấp. - Sông Ngòi Trẹo bắt nguồn từ xã Văn Hán chảy qua Nam Hoà dài 19 km; suối Ngàn Khe bắt nguồn từ Cây Thị chảy qua thị trấn Trại Cau và Nam Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 Hoà dài 21 km. Ngoài ra còn hàng chục con suối lớn nhỏ khác cộng với hàng chục hồ nước lớn, nhỏ phục vụ sản xuất và sinh hoạt. 2.1.1.6. Tài nguyên rừng và khoáng sản Huyện Đồng Hỷ có 21.402,61 ha rừng, trong đó diện tích rừng trồng là 9.329,44 ha. Huyện Đồng Hỷ có nhiều loại khoáng sản như: Quặng sắt, kẽm, chì, vàng sa khoáng, đá vôi.. điều này tao điều kiện thuận lợi cho huyện trong việc phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, công nghiệp vật liệu xây 2.1.2. Điều kiện về kinh tế xã hội 2.1.2.1. Tình hình nhân khẩu và lao động Dân số toàn huyện Đồng Hỷ năm 2008 là 127.279 người, tốc độ tăng trưởng dân số năm 2004 - 2008 là 2,17%. Mật độ dân số phân bố không đều, nơi có mật độ dân số cao nhất là thị trấn Chùa Hang 3.124 người/km2 trong khi đó nơi có mật độ dân số thấp là xã Văn Lăng 71 người/km2. Điều này ảnh hưởng tới quy hoạch đầu tư và phát triển kinh tế xã hội của vùng. Nơi có mật độ dân số đông, thì vấn đề giải quyết việc làm rất cấp bách nếu không giải quyết được sẽ kéo theo tệ nạn xã hội sẽ tăng. Còn nơi có mật độ dân số thấp thì không có đủ nguồn lực để khai thác tiềm năng tự nhiên. Đây chính là vấn đề cần giải quyết của Huyện trong những năm tới. Huyện Đồng hỷ có nhiều dân tộc anh em sinh sống, dân tộc Kinh chiếm chủ yếu 93,26%, dân tộc Nùng 2,44%, Sán Dìu 2,28%, Dao 0,84%, Tày 0,47%, Sán Chay 0,1%, H Mông 0,23%, Hoa 0,05% các dân tộc khác 0,44%. Trình độ dân trí ở các vùng khác nhau, vùng sâu vùng xa trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng được đầu tư ít, kém phát triển, đời sống vấn còn nghèo. Qua bảng 2 ta thấy dân số của huyện có sự biến động tăng qua các năm cụ thể là năm 2004 là 124.566 người, năm 2006 là 125.811 người tăng 1% so với năm 2004, đến năm 2008 là 127.279 người tăng 1,17% so với năm 2006. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 Bình quân giai đoạn 2004 - 2008 dân số tăng 1,09%. Đây là tỷ lệ tăng dân số chưa phải là cao, nhưng để ổn định và phát triển kinh tế xã hội huyện cần phải làm tốt công tác tuyên truyền kế hoạch hoá gia đình cho từng vùng, thôn, xóm... Đồng Hỷ là huyện phần lớn là sản xuất nông nghiệp tính đến năm 2008 dân số nông nghiệp là 89.238 người chiếm 70,11% tổng dân số toàn huyện có mức tăng bình quân qua 3 năm là 0,57%, nhân khẩu phi nông nghiệp chiếm 29,89% trong tổng dân số toàn huyện mức tăng bình quân năm là 2,32% khá cao. Đây chính là dấu hiệu tốt cho việc phát triển các ngành nghề dịch vụ, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Bên cạnh sự gia tăng dân số thì số lao động trong huyện cũng tăng lên năm 2004 là 67.119 lao động, năm 2006 là 67.879 lao động tăng 1,13% so với năm 2004, năm 2008 là 68.563 lao động tăng 1% so với năm 2006. Bình quân năm tăng 1,06%.Trong đó lao động nông nghiệp chiếm phần lớn, nhưng tỷ trọng của nó trong cơ cấu lao động lại có xu hướng giảm. Năm 2004 chiếm 71,16% trong tổng số lao động đến năm 2008 chiếm 71,09% trong tổng số lao động. Số lao động phi nông nghiệp mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong tổng số lao động, ngược lại nó lại có xu hướng tăng lên về cơ cấu nhưng không đáng kể năm 2004 là 28,84% trong tổng lao động, đến năm 2008 chiếm 28,91% trong tổng lao động. Khi dân số tăng kéo theo số hộ cũng sẽ tăng, bình quân tăng 1,06%. Trong đó cả hộ nông nghiệp tăng 1,33%, số hộ phi nông nghiệp tăng cao hơn 8,18%. Như vậy qua tình hình dân số và lao động của huyện Đồng Hỷ ta thấy lực lượng lao động tập trung vào sản xuất nông nghiệp và sản xuất công nghiệp. Một bộ phận nhỏ làm ngành nghề khác. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển nền nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56 Bảng 2.2. Tình hình nhân khẩu và lao động của huyện Đồng Hỷ Chỉ tiêu ĐVT Năm 2004 Năm 2006 Năm 2008 Tốc độ phát triển (%) SL CC (%) SL CC (%) SL CC (%) 06/04 08/06 BQ I. Tổng nhân khẩu Ngƣời 124.566 100 125.811 100 127.279 100 101,00 101,17 101,09 1.Nhân khẩu nông nghiệp Người 88.232 70,83 88.368 70,24 89.238 70,11 100,15 100,99 100,57 2. Nhân khẩu phi nông nghiệp Người 36.334 29,17 37.443 29,76 38.041 29,89 103,05 101,59 102,32 II. Tổng số hộ Hộ 27.611 100 28.177 100 29.866 100 102,05 105,99 104,02 1. Hộ nông nghiệp Hộ 19.075 69,02 19.126 67,88 19.858 66,49 100,27 102,39 101,33 2. Hộ phi nông nghiệp Hộ 8.554 30,98 9.051 32,12 10.008 33,51 105,8 110,57 108,18 III. Tổng số lao động LĐ 67.119 100 67.879 100 68.563 100 101,13 101,00 101,06 1. Lao động nông nghiệp LĐ 47.763 71,16 48.259 71,15 48.738 71,09 101,11 100,99 101,05 2. Lao động phi nông nghiệp LĐ 19.356 28,84 19.584 28,85 19.825 28,91 101,18 101,23 101,21 IV. Bình quân LĐNN/hộ NN LĐ/hộ 2,51 - 2,53 - 2,45 - 100,75 96,83 98,79 V. Bình quân NKNN/hộ NN Ng/hộ 4,63 - 4,62 - 4,56 - 99,79 98,70 99,25 ( Nguồn: Phòng Thống kê huyện Đồng Hỷ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57 2.1.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật của huyện - Hệ thống đường giao thông: Mạng lưới giao thông huyện Đồng Hỷ đã đảm bảo nhu cầu cơ bản cho việc đi lại, phát triển kinh tế - xã hội. Từ Thành phố đi qua trung tâm huyện là tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ dài 47,5 km. Hệ thống đường sông khoảng 45 km từ xã Văn Lăng đến xã Huống Thượng. Hiện nay giao thông Đồng Hỷ có tổng số 667 km. Đến nay toàn bộ 20 xã thị trấn của huyện đã có đã có đường giao thông nông thôn và trung tâm xã, ôtô đi lại thuận tiện, giao lưu kinh tế - văn hoá - xã hội, phục vụ an ninh quốc phòng của nhân dân và các dân tộc toàn huyện Đồng Hỷ. Tuy nhiên hệ thống giao thông ở khu vực vùng sâu, vùng xa còn khó khăn, chưa có đường nhựa, có những đường rải sỏi, đá ong, đường gồ ghề, lầy lội khi trời mưa cũng ảnh hưởng đến việc giao lưu kinh tế - xã hội. Do vậy cần phải có những biện pháp, giải pháp để nâng cao chất lượng hệ thống giao thông của huyện để đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế xã hội. - Thuỷ lợi của huyện: Những năm qua bằng nguồn vốn của tỉnh hỗ trợ và ngân sách địa phương, huyện đã xây dựng được nhiều công trình thuỷ lợi lớn, vừa và nhỏ. Toàn huyện có 49 hồ chứa nước; 52 đập dâng 68 trạm bơm và 147,915 km kênh mương nội đồng được xây dựng kiên cố hoá, phân bố đều trên địa bàn huyện. Trạm thuỷ nông: Công tác quản lý khai thác bảo vệ các công trình thuỷ lợi được đảm bảo trong mùa mưa lũ, phục vụ tưới tiêu kịp thời theo yêu cầu sản xuất. Trong vụ xuân diện tích tưới nước bằng các công trình thuỷ lợi khoảng trên 2.200 ha; vụ đông khoảng trên 1.100 ha rau màu các loại. Tuy nhiên, ở một số xã vùng cao do địa bàn, địa hình chủ yếu là đồi núi nên hệ thống thuỷ lợi còn gặp nhiều khó khăn, hầu hết là tưới nhờ nước trời, vì vậy hạn chế cho việc luân canh cây trồng nhất là đối với cây trồng vụ đông xuân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58 - Trường học trạm xá: Toàn huyện có 47 trường phổ thông, trong đó có 2 trường phổ thông trung trường trung học; 20 trường trung học cơ sở và toàn huyện có 22 trường mầm non. Đến nay đã có 100% số phòng học được ngói hoá, đã xoá bỏ được chế độ học ba ca, các xã và thị trấn đã có phòng học cao tầng. Toàn huyện có 1 bệnh viện một trung tâm y tế, 2 phòng khám khu vực, 20 trạm xá, đủ điều kiện chăm sóc sức khoẻ và khám chữa bệnh cho người dân của huyện. - Các công trình xây dựng khác: Như vấn đề nước sạch nông thôn, điện... đã được chính quyền huyện quan tâm. Tại các xã vùng cao đã ổn định được vấn đề du canh du cư, giải quyết nước sạch ở các vùng xa đô thị, đưa điện lưới quốc gia tới 20/20 xã thị trấn của huyện. Đồng hỷ có 6 tuyến lưới 35 KV và 4 tuyến 6KV, số trạm biến áp toàn huyện là 49 trạm. Các xã và thị trấn của huyện đã có điểm bưu điện văn hoá xã, số máy điện toại của toàn huyện là hơn 6000 máy. 100% các xã đã có báo đọc trong ngày. 2.1.2.3. Tình hình kinh tế của huyện Đồng Hỷ Năm 2007 sản xuất nông - lâm nghiệp thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hô trợ giá giống và đưa giống mới vào sản xuất, tích cực phòng trừ sâu, dịch bệnh hại cây trồng, vật nuôi. Vì vậy về diện tích, năng suất, sản lượng đều hoàn thành các chỉ tiêu. Tổng sản lượng lương thực cả năm 2007 đạt 40.160 tấn/39.000 tấn KH = 102,9%. Đã thực hiện chăm bón, thâm canh 1.100 ha chè, cải tạo 50 ha, trồng mới 120,55 ha, sản lượng chè đạt 18.500 tấn [3]. Sản lượng cây ăn quả các loại đạt 5000 tấn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59 Trong chăn nuôi một số con giống như: gà, bò, lợn, ong đã có hiệu quả trong tăng năng suất, có lợi cho nhà nông. Hiện nay toàn huyện có đàn trâu: 15.789 con. Đàn bò 5.375 con; Đàn lợn 53.869 con. Tổng đàn gia cầm là 530.950 con. Về rừng đã trồng mới được được 1.325 ha, ươm được 125 vạn hom cây giống tai vườn ươm chuẩn bị cho việc trồng rừng năm 2008 [3]. Công tác khuyến nông: Thực hiện chuyển giao kỹ thuật theo nhu cầu của nông dân tại các xã và thị trấn được 185 lớp cho gần 7.000 hộ nông dân. Tổ chức hội thảo tổng kết mô hình 15 cuộc cho gần 1000 người tham dự. Các mô hình đều thu được kết quả tốt. Đó là các mô hình: Nuôi giun quế tại Cao Ngạn, Nuôi ong nội tại xã Hoà Bình. Chăn nuôi gà an toàn sinh học tại Khe Mo. Gieo cấy giống lúa mới tại Minh Lập, Linh Sơn, Hoá Trung… Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp - Thương mại dịch vụ: Giá trị sản lượng năm 2007 ước tính đạt 410 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch năm 2007. Trong đó giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp địa phương ước đạt 248 tỷ đồng. Hoạt động thương mại dịch vụ tiếp tục tăng trưởng, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội đạt 183 tỷ đồng, trong đó của các hộ cá thể đạt 158 tỷ đồng, các doanh nghiệp 25 tỷ đồng Công tác giao thông: Di tu bảo dưỡng trên 300 km đường giao thông, nâng cấp 59 km, đổ bê tông 17,5 km Mặc dù nền kinh tế của huyện Đồng hỷ có những bước tăng trưởng và phát triển. Tuy nhiên huyện Đồng Hỷ vẫn là một huyện thuần nông, sản xuất mang tính tự cung tự cấp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60 Bảng 2.3. Kết quả sản xuất các ngành kinh tế huyện Đồng Hỷ giai đoạn (2004 – 2008) Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2006 Năm 2008 So sánh (%) Tốc độ BQ 04- 08 Giá trị (tr.đ) Cơ cấu (%) Giá trị (tr.đ) Cơ cấu (%) Giá trị (tr.đ) Cơ cấu (%) 06/04 08/06 Tổng giá trị gia tăng 621.047 100 772.533 100 1.133.682 100 124,4 146,7 135,6 Ngành NLTS 159.998 25,76 211.332 27,36 273.415 24,12 132,1 129,4 130,8 Ngành CN- XDựng 215.617 34,72 259.557 33,60 403.812 35,62 120,4 155,6 138 Ngành DVTM 245.432 39,52 301.644 39,05 456.456 40,26 122,9 151,3 137,1 Nguồn: Phòng Thống kê huyện Đồng Hỷ Trong giai đoạn 2004-2008, cơ cấu kinh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf14LV_09_KTampQTKD_KTNN_TRIEU THI MINH HONG.pdf
Tài liệu liên quan