Luận văn Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt nam hiện nay

Tài liệu Luận văn Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt nam hiện nay: LUẬN VĂN: Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối Sống mới cho sinh viên Việt nam hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Sinh viên là một lực lượng xã hội đặc thù, có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước. Họ cũng là lực lượng kế tục và phát huy nguồn lực trí tuệ của nước nhà, là lớp người đang trong quá trình hoàn thiện, khẳng định nhân cách và tài năng của mình. Vị trí, vai trò của sinh viên Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đang là vấn đề thu hút sự quan tâm, chú ý cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, không chỉ của các nhà nghiên cứu mà còn đối với các nhà lãnh đạo quản lý, các tổ chức, cơ quan giáo dục - đào tạo. Cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở rộng quan hệ quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, lối sống của sinh viên Việt Nam đang có nhiều biến đổi. Những thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới đã củng cố niềm tin của nhân dân nói chung, của sinh viên nói ri...

pdf92 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1169 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối Sống mới cho sinh viên Việt nam hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Sinh viên là một lực lượng xã hội đặc thù, có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước. Họ cũng là lực lượng kế tục và phát huy nguồn lực trí tuệ của nước nhà, là lớp người đang trong quá trình hoàn thiện, khẳng định nhân cách và tài năng của mình. Vị trí, vai trò của sinh viên Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đang là vấn đề thu hút sự quan tâm, chú ý cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, không chỉ của các nhà nghiên cứu mà còn đối với các nhà lãnh đạo quản lý, các tổ chức, cơ quan giáo dục - đào tạo. Cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở rộng quan hệ quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, lối sống của sinh viên Việt Nam đang có nhiều biến đổi. Những thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới đã củng cố niềm tin của nhân dân nói chung, của sinh viên nói riêng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hàng loạt các giá trị mới được hình thành, góp phần làm đa dạng, phong phú lối sống của các tầng lớp nhân dân, trong đó có đội ngũ học sinh, sinh viên nước nhà. Sự tác động của quá trình phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm cho các cá nhân, các nhóm xã hội năng động, cởi mở và giàu khả năng thích nghi với những biến đổi của môi trường trong nước và quốc tế. Giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng đã và đang tạo điều kiện cho sinh viên tiếp thu các giá trị tốt đẹp từ lối sống của các dân tộc khác để bổ sung và không ngừng hoàn thiện nhân cách, lôi sống của mình. Tuy nhiên, bối cảnh mới cũng đồng thời đặt ra nhiều thách thức với vấn đề lối sống và việc xây dựng lối sống mới, đặc biệt là vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống vào quá trình xây dựng lối sống mới cho sinh viên hiện nay. Hiện tượng suy thoái đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và sinh viên đã và đang diễn ra hết sức phức tạp. Tiêu cực xã hội có chiều hướng gia tăng, đời sống văn hoá tinh thần, nhất là sự xuống cấp về tư tưởng, đạo đức, lối sống, khuynh hướng muốn hiện đại hoá theo kiểu Tây hoá, Mỹ hoá, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, lãng quên truyền thống cha ông để lại... đã xuất hiện ở một bộ phận không nhỏ trong thanh niên, sinh viên. Tại Hội nghị BCH TW lần thứ mười, khoá IX, Đảng ta nhấn mạnh: “tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng các tệ nạn xã hội và tội phạm, đáng lo ngại nhất là trong giới trẻ”[4, tr.14]. Đại hội Đại biểu toàn Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VIII (tháng 2- 2009) đã đánh giá: Sinh viên Việt Nam đã phát huy được những ưu điểm và truyền thống tốt đẹp của các thế hệ sinh viên đi trước, thi đua học tập, rèn luyện, tiếp thu tiến bộ khoa học, công nghệ, chủ động tiếp thhu nét đẹp của sinh viên quốc tế, tạo nên lớp sinh viên những năm đầu thế kỷ XXI mang tính cách truyền thống và thời đại.....Tuy nhiên, nhiều sinh viên còn mang nặng tính bình quân chủ nghĩa...., một bộ phận sinh viên chưa xác định được mục tiêu, động cơ học tập đúng đắn, thiếu kiên trì, quyết tâm, chưa chăm chỉ học tập, thiếu trung thực trong thi cử, kiểm tra, chưa thể hiện rõ ước mơ, hoài bão, thụ động, thiếu ý chí vươn lên, ứng xử kém, tinh thần trách nhiệm xã hội còn hạn chế, có những biểu hiện chưa tốt về lối sống , mắc tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật, một bộ phận sinh viên còn dễ bị lợi dụng, lôi kéo vào những hoạt động với mục đích xấu [2, tr 2-3]. Đứng trước thực trạng đó, việc xây dựng lối sống mới- lối sống xã hội chủ nghĩa- cho sinh viên cũng như tìm hiểu những nhân tố tác động đến lối sống của sinh viên Việt Nam hiện nay có tính cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn: “Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề truyền thống và giáo dục giá trị truyền thống đã từng thu hút sự chú ý, quan tâm của các nhà lãnh đạo, quản lý giáo dục, của giới lý luận trong và ngoài nước Đảng cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng luôn chú trọng và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc và đã tạo ra được sức mạnh to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và trong công cuộc xây dựng CNXH . Nhiều chủ trương, đường lối nhằm phát huy giá trị truyền thống dân tộc của Đảng đã được thể hiện trong các văn kiện của nhiều kỳ đại hội, đặc biệt là đại hội VII, VIII, IX, X và các Nghị quyết khác của Trung ương. Đã có những công trình chuyên khảo nghiên cứu về truyền thống và giá trị truyền thống Việt Nam trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp CNH, HĐH, đã đi sâu vào phân tích những thách thức và cơ hội của toàn cầu hoá đối với việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống trước thách thức toàn cầu hoá. Trong đó tiêu biểu có các công trình: “ Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam” do Trần Văn Giàu chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích các giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, đặc biệt là “chủ nghĩa yêu nước” Việt Nam- cái làm nên bản sắc, tinh thần, cốt cách Việt Nam; “ Biện chứng của truyền thống” của Hà Văn Tấn, Tạp chí Cộng sản, số 3- 1981; “ Về truyền thống dân tộc” của Trần Quốc Vượng, Tạp chí Cộng sản, số 3- 1981; “Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta” của Đỗ Huy, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 5- 1986; “ Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, một nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại” của Lương Quỳnh Khuê, Tạp chí Triết học, số 4- 1992; “ Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường”, do Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội, 1994; “ Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” do Nguyễn Quang Uẩn chủ biên, tháng 4- 1995; “ Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường” của Thái Duy Tuyên, Tạp chí Triết học, số 5- 1995; “ Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay” của Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học, Số 6- 1996; “ Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý” của Nguyễn Tĩnh Gia, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 2- 1997; “ Định hướng xã hội chủ nghĩa về các quan hệ đạo đức trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay” của Đỗ Huy, Tạp chí Triết học, số 5- 1998; “ Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường” của Hoàng Trung, Tạp chí Triết học, số 5 – 1998; “Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển” của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 2- 1998. “ Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề đạo đức?” của Hoàng Trung, Tạp chí triết học, số 4- 2000; “ Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sỹ triết học của Nguyễn Văn Lý, 2000; “ Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xã hội” của Mai Xuân Lợi, Tạp chí Triết học, số 3- 2001; ; “ Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường” của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học, số 5- 2000; “ Kế thừa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay” của Lê Sỹ Thắng, Tạp chí Triết học, số 5- 2002; “ Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục” của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6- 2002; “ Khoa học công nghệ và đạo đức trong nền kinh tế thị trường” của Nguyễn Đình Hoà, Tạp chí Triết học, số 6 – 2002; “ Từ cái thiện truyền thống đến “ cái thiện” trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí triết học, số 8 – 2002; “ Quan hệ biện chứng giữa truyền thống với hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên hiện nay”, Luận án tiến sỹ triết học của Lê Thị Hoài Thanh, 2002; “ Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay” của Trần Văn Phòng, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5 – 2003..... Một số công trình khác đã đi sâu vào nghiên cứu giáo dục truyền thống, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đào tạo, bước đầu đã đưa ra một số giải pháp giáo dục truyền thống cho thanh niên, học sinh, sinh viên, như: “ Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sỹ Triết học của Trần Sỹ Phán, 1999; “ Tình cảm đạo đức và giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện nay”, Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 6-2000; “Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện nay” của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2- 2001; “ Kết hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức mới của người cán bộ lãnh đạo quản lý” của Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 4- 2001; “ Giáo dục truyền thống cho thanh niên”, Lương Ngọc, Nxb Thanh niên, HN, 1992; “ Kết hợp truyền thống và hiện đại trong quá trình đổi mới giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sỹ của Nguyễn Lương Bằng, 2001. Vấn đề lối sống, đã có một số công trình đề cập đến, như: “ Lối sống xã hội chủ nghĩa” của các tác giả Liên Xô cũ và cộng hoà dân chủ Đức ( sách dịch), Nxb Sự thật, 1982; “ Chủ nghĩa xã hội và nhân cách”, 2 tập, của các giả Liên Xô cũ (sách dịch), Nxb Sách giáo khoa Mác- Lênin, HN, 1993; “ Con người- những ý kiến mới về một đề tài cũ” của liên Xô cũ (sách dịch), Nxb Sự thật, 1987; “ Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn mực giá trị xã hội”, Nxb CTQG, 2001 do Huỳnh Khái Vinh chủ biên. Trong cuốn sách này, các tác giả đã bàn một cách sâu sắc phạm trù “lối sống”. Tìm hiểu sự tác động của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và xu hướng chuyển đổi lối sống ở nước ta trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; “ Bàn về lối sống và nếp sống xã hội chủ nghĩa”, Nxb Văn hoá, 1985, do Trần Độ chủ biên. Trong đó, phần thứ nhất của cuốn sách bàn về lối sống và nếp sống xã hội chủ nghĩa. Phần hai, các tác giả tập trung bàn về các giải pháp xây dựng lối sống, nếp sống xã hội chủ nghĩa. Nhìn chung các công trình nghiên cứu, các bài viết trên đều ít nhiều đề cập đến vấn đề lối sống và xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cũng như kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống vào xây dựng lối sống mới ở nước ta. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào trình bày một cách trực tiếp đến vai trò của các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc đối với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1 Mục đích của luận văn Từ việc phân tích sự ảnh hưởng của các giá trị đạo đức truyền thống đối với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay, tác giả đưa ra phương hướng và một số giải pháp nhằm xây dựng lối sống mới cho sinh viên ở Việt Nam nói chung và ở Nghệ An nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau: - Phân tích ảnh hưởng của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên ở một số trường cao đẳng, đại học ở Nghệ An hiện nay. - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu qủa tác động của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu ảnh hưởng, sự tác động của giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đạo đức, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống, vấn đề lối sống của thanh niên, sinh viên là vấn đề phong phú nhưng phức tạp, đòi hỏi phải được nghiên cứu từ nhiều góc độ, nhiều nhân tố tác động và nhiều khía cạnh khác nhau, trong phạm vi luận văn này chúng tôi chỉ đề cập đến một số nhân tố cơ bản của các giá trị đạo đức truyền thống tác động đến việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Nghệ An. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, giá trị đạo đức truyền thống, về lối sống và xây dựng lối sống mới. Đồng thời luận văn kế thừa có chọn lọc những thành tựu của một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể khác như: so sánh, thống kê, điều tra xã hội học.... 6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn - Góp phần làm sáng rõ thêm bản chất và tầm quan trọng của các giá trị đạo đức truyền thống đối với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt nam hiện nay. - Chỉ ra sự tác động của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên ở một số trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Từ đó, đưa ra những luận cứ khoa học cho việc đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tác động của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên ở Nghệ An nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, luận văn được bố cục thành 2 chương, 4 tiết. Chương 1 Giá trị đạo đức truyền thống và sự ảnh hưởng của nó tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay 1.1. Giá trị đạo đức truyền thống 1.1.1. Giá trị Trước thế kỷ XIX, những kiến thức về giá trị học đã gắn liền với những tri thức triết học. Đến đầu thế kỷ XX, giá trị học mới bắt đầu hình thành như một khoa học độc lập. Khái niệm “giá trị” trở thành trung tâm của giá trị học. Ngoài ra, nó còn được sử dụng trong các lĩnh vực như: triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế học...với những nội dung rộng, hẹp khác nhau. Xung quanh khái niệm “giá trị” cũng có nhiều cách hiểu khác nhau do xuất phát từ góc độ tiếp cận và nhằm những mục đích không giống nhau. Song, có thể thấy những điểm chung được đề cập đến trong quan niệm về “giá trị”, đó là: Thứ nhất, giá trị là ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh thần có khả năng thoả mãn nhu cầu tích cực của con người, là những thành tựu góp phần vào sự phát triển của xã hội. Như vậy, việc khẳng định nội dung của giá trị đã bao hàm trong nó sự phân biệt với các sự vật, hiện tượng mà ta gọi là “phản giá trị”, “vô giá trị”- tức là những gì đi ngược lại sự phát triển của lịch sử, ngăn cản sự tiến bộ của xã hội. Thứ hai, giá trị có tính lịch sử - khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức của con người ,mà do yêu cầu của từng thời đại lịch sử, trong đó có con người sống và hoạt động. Thứ ba, giá trị chứa đựng các yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của chủ thể trong quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự đánh giá, lựa chọn của chủ thể đối với sự vật, hiện tượng ấy. Thứ tư, giá trị được xác định trong mối quan hệ thực tiễn với con người, được xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ thực tiễn và được kiểm tra bằng thực tiễn. Thực tiễn “ vừa là tiêu chuẩn của chân lý về bản chất của khách thể, vừa là tiêu chuẩn chân lý về giá trị của khách thể” [50, tr 29]. Theo V.I.Lênin : “....toàn bộ thực tiễn của con người,- thực tiễn này vừa với tính cách là tiêu chuẩn của chân lý, vừa với tính cách là kẻ xác định một cách thực tế mối liên hệ giữa sự vật với những điều cần thiết đối với con người, cần phải được bao hàm trong “định nghĩa”” [52, tr 364]. Sự đánh giá đúng đắn của một giá trị không chỉ căn cứ vào nhu cầu, lợi ích của chủ thể đánh giá mà còn phải căn cứ vào hiệu quả xã hội của hoạt động của chủ thể theo đuổi những giá trị nhất định. Thứ năm, giá trị đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó là cái mà con người dựa vào để xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của mình, là cái mà con người mong muốn được theo đuổi. Giá trị là cơ sở của các chuẩn mực, quy tắc xác định cách thức hành động của con người. Nói cách khác, cách thức và hành động của con người trong xã hội được chỉ đạo bởi các giá trị, người ta dựa vào các giá trị được xã hội chấp nhận để lựa chọn cách thức suy nghĩ và hành động phù hợp nhất. Giá trị là động cơ thúc đẩy hoạt động của con người vì các nguyện vọng và mục đích của cá nhân đều được đối chiếu với các giá trị nằm trong cấu trúc của nhân cách. Các giá trị, nhất là các giá trị chung, phổ biến, được coi như phương tiện cơ bản để tạo nên sự liên kết, hợp tác của mọi thành viên trong nhóm, cộng đồng. Nói đến giá trị tức là “muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp; là nói đến cái khả năng thôi thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới” [99,tr 16]. Trong việc nghiên cứu giá trị, do những mục đích cụ thể khác nhau mà người ta thường phân loại giá trị theo cách của riêng mình. ở cấp độ chung nhất, các giá trị được chia thành: giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị vật chất thường được thể hiện một cách rõ nét trong kinh tế, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Giá trị tinh thần là những phẩm chất đặc biệt về trí tuệ, tình cảm, ý chí, nó được thể hiện trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn hoá, nghệ thuật, phong tục tập quán... Từ đó, giá trị tinh thần được phân thành các loại giá trị cơ bản như: giá trị khoa học, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, giá trị chính trị. Giá trị khoa học gắn với quá trình con người vươn lên nắm bản chất, quy luật của hiện thực khách quan để ngày càng làm chủ những điều kiện sinh hoạt của mình. Giá trị thẩm mỹ gắn với nhu cầu thưởng thức, đánh giá, hưởng thụ và sáng tạo cái đẹp trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Giá trị đạo đức gắn với nhu cầu điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo hướng tạo nên sự thống nhất hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.Những giá trị tinh thần ăn sâu, bám rễ vào trong đời sống của nhân dân và chúng trở thành những chuẩn mực để con người đánh giá, phân biệt cái đúng, cái sai, cái xấu, cái đẹp trong đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con người với xã hội, con người với con người. Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống xã hội và được con người lựa chọn, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử giữa con người với con người, con người với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Giá trị đạo đức biến đổi theo sự biến đổi của đời sống xã hội. Thực ra, sự phân chia giá trị như trên chỉ có ý nghĩa tương đối, vì các giá trị có liên quan chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, quyền công dân là một giá trị chính trị nhưng cũng mang giá trị đạo đức. Giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ có khác biệt nhau: giá trị đạo đức có quan hệ trực tiếp với những lợi ích xã hội nên bản chất xã hội của nó bộc lộ một cách trực tiếp và rõ nét hơn giá trị thẩm mỹ, giá trị đạo đức là cơ sở của các chuẩn mực điều tiết hành vi của con người còn các giá tri thẩm mỹ thoả mãn nhu cầu hưởng thụ cái đẹp, đem lại cho con người những khoái cảm tinh thần, giá trị đạo đức thể hiện rõ rệt trong các chuẩn mực đạo đức, còn các giá trị thẩm mỹ thể hiện tập trung trong các hình tượng nghệ thuật...Tuy nhiên, giữa chúng có sự thống nhất nhau, vì chúng có chung nguồn gốc từ lao động, đều phản ánh tồn tại xã hội và có vai trò to lớn trong việc hình thành nhân cách, lối sống, văn hoá, đạo đức của con người. Nghiên cứu sâu hơn về bản thân các giá trị, nếu xét theo chiều thời gian (lịch đại), có thể phân thành giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Mỗi dân tộc đều có truyền thống lịch sử của riêng mình. Truyền thống là điều kiện để duy trì và phát triển cuộc của cộng đồng. Nó là sản phẩm của quá trình phát triển của mỗi dân tộc, mỗi dân tộc khác nhau có truyền thống khác nhau. Thậm chí, cùng một dân tộc, qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau thì truyền thống cũng được biểu hiện dưới những sắc thái khác nhau. Tuyền thống vừa mang tính cộng đồng lại vừa mang tính giai cấp. Theo đó, trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp đều góp phần mình tạo dựng nên truyền thống của dân tộc mình, quốc gia mình. Trong truyền thống của mỗi dân tộc, có những truyền thống tốt nhưng cũng có những truyền thống lạc hậu. Tiêu chuẩn đánh giá “truyền thống” là mức độ đóng góp của nó vào sự tiến bộ xã hội, sự phù hợp với quy luật khách quan hay không. Từ những phân tích trên, chúng ta có thể nhận dạng về truyền thống qua những đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, truyền thống là kết quả hoạt động vật chất và tinh thần của con người trong quá khứ biểu hiện ở tính cách, phẩm chất, tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen trong tư duy, lối ứng xử, tâm lý. Thứ hai, truyền thống bao giờ cũng là truyền thống của một cộng đồng người (thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc, dòng họ, gia đình, làng xã...), là bản sắc của cả cộng đồng người. Thứ ba, truyền thống được hình thành trong lịch sử do tác động của môi trường tự nhiên và điều kiện địa lý, do tác động của quá trình lao động sản xuất và kết cấu kinh tế xã hội, sự tác động thường xuyên của lịch sử, tác động của môi trường văn hoá khu vực và thế giới. Thứ tư, truyền thống có tính kế tục từ lớp người trước sang lớp người sau, nó ăn sâu vào tâm lý, vào phong tục, tập quán, nếp nghĩ...của con người. Như vậy, truyền thống có tính cộng đồng, tính ổn định và tính lưu truyền. Những đặc trưng đó của truyền thống có tính độc lập tương đối, khi những cơ sở, điều kiện hình thành nên truyền thống đã thay đổi thì sớm muộn nội dung của truyền thống cũng dần biến đổi theo cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới. Truyền thống không phải là một phạm trù khép kín mà là hệ thống mở. Cho nên, những giá trị được tạo ra hôm nay và ngày mai nếu trở thành phổ biến và ăn sâu vào đời sống tâm lý, lối sống của cộng đồng thì sẽ tạo ra truyền thống mới. Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam là một bộ phận của hệ giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, nó là nhân lõi, là sức sống bên trong của dân tộc. Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của dân tộc, được xác định là các giá trị nhân văn mang tính cộng, là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên. Xét trong mối tương quan với khu vực và thế giới, đặc biệt với các dân tộc ở phương Đông, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta có những nét tương đồng với nhiều dân tộc khác vì các dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển của mình đều phải giải quyết những vấn đề chung như, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, ổn định và phát triển xã hội...Mặt khác, sự giao lưu quốc tế và sự giao thoa giữa các nền văn hoá diễn ra thường xuyên ở mức độ này hay mức độ khác, nhất là với những nước gần nhau đã ảnh hưởng lẫn nhau một cách khá rõ nét. Tuy vậy, do đặc thù về điều kiện lịch sử dân tộc mà sắc thái truyền thống của mỗi dân tộc là không giống nhau. Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận thiết yếu, nổi lên hàng đầu, tạo nên cốt lõi của hệ giá trị tinh thần đó. Chính vì vậy, khi nói đến những giá trị tinh thần của dân tộc ta, là nói đến những phẩm chất tốt đẹp, quý báu đã được hình thành và bảo lưu trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức ruyền thống của dân tộc ta được cô đúc, thử thách và tái tạo qua nhiều thế hệ khác nhau, theo những bước thăng trầm của lịch sử. Nó chứa đựng một tiềm năng hết sức to lớn và bền vững, nó chính là sức mạnh vốn có của dân tộc Việt Nam, giúp cho dân tộc ta tồn tại và phát triển. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta do chính cộng đồng người Việt Nam tạo lập trong quá trình dựng nước và giữ nước, với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù vốn có, đã tạo nên một bản sắc hết sức độc đáo cho dân tộc Việt Nam. 1.1.2. Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển qua hàng ngàn năm lao động sáng tạo, chiến đấu kiên cường của cả dân tộc. Là kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan. Trong thời gian qua, việc nghiên cứu để xác định các giá trị đạo đức truyền thống đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả. Đó cũng là vấn đề phức tạp và có nhiều mặt phải nghiên cứu. Nhưng đến nay vẫn chưa có sự thống nhất thật cao độ về cách sắp xếp các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam. Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động, cần cù sáng tạo, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc. Còn Giáo sư Trần Văn Giàu khi nói về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam lại sắp xếp: “Yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa” [28, tr.108] GS Nguyễn Hồng Phong lại nhận định: tính cách dân tộc gần như là tất cả nội dung của giá trị đạo đức truyền thống, bao gồm: tính tập thể- cộng đồng, trọng đạo đức, cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu chuộng hoà bình, nhân đạo lạc quan. Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn về công tác tư tưởng hiện nay chỉ rõ: “ Những giá trị văn hoá truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý “thương người như thể thương thân”, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động” [22, tr.19]. Tuy còn có sự khác biệt trong việc sắp xếp thang giá trị đạo đức truyền thống. Nhưng nhìn chung, các ý kiến đều thống nhất ở một điểm coi chủ nghĩa yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nó là “sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại” [28, tr.100], là “tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị” [28, tr. 94], là “động lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc ta” [60, tr.74]. Đối với dân tộc Việt Nam, tình yêu quê hương đất nước là một thứ tình cảm hết sức thiêng liêng, nó xuất phát từ ý thức cộng đồng gắn bó keo sơn. Mỗi người dân Việt Nam đều đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết, khi có giặc ngoại xâm thì sẵn sàng hy sinh thân mình, lúc hoà bình thì biết chăm lo xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Lòng yêu nước của dân tộc đã trở thành một triết lý sống, triết lý nhân sinh, trở thành chủ nghĩa yêu nước. Cũng trong cuốn “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”, Giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét: Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm của bản thân lịch sử Việt Nam, được bắt đầu từ tình cảm tự nhiên của mỗi người đối với quê hương mình tiến lên thành lý tưởng và hệ thống tư tưởng làm chủ của nhận thức đúng sai, tốt xấu, nên chăng và chỉ đạo rất nhiều phương lược xây dựng và bảo vệ nước nhà [29, tr 17]. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ngay từ đầu đã gắn con người với thiên nhiên, với quê hương xứ sở của mình, chính vì vậy truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam được bắt nguồn từ tình yêu quê hương làng xóm, yêu cây đa, bến nước, sân đình, nơi có ông bà, cha mẹ, con cái, bạn bè, bà con hàng xóm....Nơi con người hàng ngày vất vả chiến đấu với thiên nhiên để duy trì và xây dựng cuộc sống. Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn với lịch sử lâu dài và liên tục các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm. Vì vậy, yêu nước trước hết là tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc.Cho dù ở hoàn cảnh nào, nhân dân Việt Nam vẫn luôn kiên cường, bất khuất “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam cũng không hề giảm sút, nó luôn được hun đút, âm ỉ cháy trong lòng mỗi người dân nước Việt. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành, thử thách và khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, nó đã được bổ sung và phát triển qua từng thời kỳ, là một trong những giá trị truyền thống cao quý và bền vững nhất của dân tộc ta. Ngày nay, truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam được thể hiện trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt thể hiện ở sự nhất trí, tin tưởng vào đường lói đổi mới của Đảng, vào khả năng, sức mạnh tự lực, tự cường của mình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Dưới thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống yêu nước được phát huy lên tầm cao mới thành lý tưởng: sống, chiến đấu, lao động, học tập vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc nhân dân. Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Truyền thống nhân ái yêu thương con người là một trong những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, truyền thống này bắt nguồn sâu xa từ trong sinh hoạt công xã nông thôn, được củng cố, phát triển qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tấm lòng nhân nghĩa, nhân ái chính là cơ sở cho cách xử thế của người Việt Nam, là triết lý sống của dân tộc Việt Nam. Với người Việt Nam, sống là hết lòng vì nghĩa cả, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, khó khăn mà không hề tính toán, là lên án một cách mạnh mẽ những kẻ xấu, “tán tận lương tâm”, “phụ tình bạc nghĩa” Từ trong lịch sử, nhân dân Việt Nam luôn gắn tình yêu quê hương đất nước với lòng nhân ái, yêu thương con người. Cho nên con người yêu nước với con người yêu dân luôn gắn bó chặt chẽ nhau. Trong suốt trường kỳ lịch sử, dân tộc ta luôn đứng trước nguy cơ xâm lược và bị đồng hóa, hơn ai hết chúng ta hiểu rõ quyền sống của mình gắn với vận mệnh tổ quốc và dân tộc. Lòng nhân ái, vì con người của dân tộc ta còn thể hiện ở lòng vị tha cao thượng, không cố chấp đối với những người lầm đường, lạc lối. Chính tư tưởng “lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là sự thể hiện đỉnh cao của lòng nhân ái đó. Người Việt lấy tình yêu thương để làm cách xử thế ở đời, đối với kẻ thù, thậm chí còn mở đường hiếu sinh khi thua trận, Vua Quang Trung sau khi đánh bại quân Thanh, còn cấp lương thảo và phương tiện cho đám tàn quân về nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân tiêu biểu cho lòng nhân ái, nhân nghĩa của con người Việt Nam. Tư tưởng của Người được xuất phát từ lòng yêu thương con người, trước hết là người lao động, lòng yêu quê hương, đất nước. Bác đã giành cả cuộc đời mình cho độc lập của dân tộc, cho tự do và hạnh phúc của nhân dân. Nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế, ôm cả non sông mọi kiếp người”. Lòng nhân ái của Bác Hồ đã trở thành sức mạnh, trở thành vũ khí có tác dụng cảm hoá hàng vạn con người lầm đường, lạc lối, theo kẻ thù chống lại nhân dân. Bác xem họ như những đứa con “lạc bầy” cần được cưu mang. Người nói: giống như bàn tay cũng có ngón ngắn, ngón dài, nhưng ngắn, dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy chục triệu người cũng có người thế này, người thế khác, nhưng tất cả đều là dòng dõi tổ tiên ta, đều là người Việt Nam nên cần phải khoan dung. độ lượng. Thực hiện theo tư tưởng đạo đức của Người, hàng năm, Đảng và Nhà nước ta tổ chức xét miễn và giảm án cho những phạm nhân cải tạo tốt. Điều này thể hiện lòng nhân ái của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Ngày nay, truyền thống nhân ái, yêu thương con người được thể hiện rất rõ trong đường lối đối ngoại của Đảng ta: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Lòng nhân ái của người Việt Nam cũng là lòng yêu chuộng hoà bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Trong quan hệ với các nước láng giềng, nhân dân ta bao giờ cũng trọng tình hoà hiếu, cố gắng tránh để xảy ra những xung đột. Trong đường lối đối nội, Đảng ta đã khơi dậy các phong trào: “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình thương binh liệt sĩ, giúp đỡ những người già neo đơn không nơi nương tựa. Phát động phong trào xoá đói giảm nghèo, trợ giúp các dân tộc vùng sâu xa, rút ngắn khoảng cách giàu- nghèo, thành thị- nông thôn, đồng bằng- miền núi....Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng ta khẳng định: ...người Việt Nam vốn co lòng yêu nước thiết tha, có tinh thần dân chủ, bình đẳng trong quan hệ giữa người với người: thương nước- thương nhà- thương người- thương mình. Nhờ có tinh thần yêu nước và lòng nhân ái, thương yêu con người ấy mà nhân dân ta đã và đang làm nên lịch sử oanh liệt và rất đáng tự hào của mình. Do vậy, truyền thống nhân nghĩa nhân ái là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Nó là cái gốc của đạo đức, là nguyên do sâu xa, bền chặt của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, chủ nghĩa nhân đạo hiện thực. Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo là một trong những giá trị đạo đức có từ bao đời của dân tộc Việt Nam. Nó được hình thành và phát triển trong những điều kiện tự nhiên và xã hội hết sức khó khăn.Về tự nhiên: liên tục xảy ra bão lụt, hạn hán; về xã hội: liện tục chiến tranh chống giặc ngoại xâm.. Dẫu vậy, trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, nhân dân ta vẫn kiên trì bám đất, bám làng, vừa sản xuất vừa đánh giặc để tồn tại và bảo vệ tổ quốc. Với đức tính cần cù và tiết kiệm, dân tộc Việt Nam đã không chỉ đứng vững mà còn từng bước khẳng định vai trò, vị thế của mình trong khu vực và trên thế giới. Truyền thống cần cù của người Việt Nam luôn gắn với tiết kiệm, vì vậy cần mà không kiệm thì khác nào: “Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nêu rõ: con người phải có bốn đức tính: cần, kiệm, liêm, chính: Trời có bốn mùa: Xuân – hạ - thu - đông; Đất có bốn phương: Đông – Tây – Nam – Bắc: Người có bốn đức: cần – kiệm – liêm – chính. Thiếu một mùa thì không thành trời; Thiếu một hướng thì không thành đất: Thiếu một đức thì không thành người. Người cho rằng, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh của một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ. Cần, kiệm,liêm, chính là nền tảng, là cốt lõi của đạo đức mới. Ngày nay, cần cù, sáng tạo được biểu hiện càng rõ nét trong lao động sản xuất, trong khoa học kỹ thuật, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các phong trào thi đua rộng rãi và thường xuyên trên mọi lĩnh vực: ở biên cương, nơi đồng ruộng, trong nhà máy xí nghiệp, trong nhà trường...Đặc biệt trong quá trình đổi mới đất nước, với mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, hơn bao giờ hết truyền thống cần cù, sáng tạo càng được phát huy cao độ. Truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam cũng hoà vào dòng chảy của chủ nghĩa yêu nước và trở thành biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước. Đây là nhân tố tinh thần hợp thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Tư tưởng đoàn kết giữa các dân tộc anh em được thể hiện rất sớm trong cách lý giải về sự ra đời của dân tộc Việt Nam trong truyền thuyết “Trăm trứng nở trăm con”. Cho đến lịch sử hình thành dân tộc: theo tiếng gọi của tiếng trống Hùng Vương, mười lăm bộ lạc hợp thành quốc gia Văn Lang thống nhất. Thấy rõ vai trò của đoàn kết, cha ông ta đã luôn có ý thức chống chính sách chia rẽ của các thế lực ngoại bang cũng như xu hướng cát cứ của các thế lực phong kiến. Do vậy, từ chính sách “dùng người Việt đánh người Việt” của bọn phong kiến phương Bắc đến chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp, của đế quốc Mỹ đều lần lượt bị thất bại trước tinh thần đoàn kết của nhân dân ta. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở: Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong, “Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi” [67, tr.258]. Người còn khẳng định: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công. Trước lúc đi xa, Người còn căn dặn các cán bộ, đảng viên: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương cho đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình (Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được công bố năm 1969) Đoàn kết là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là điều kiện tất yếu để thể hiện ý chí tự lực, tự cường dân tộc, ngay cả khi đất nước có chiến tranh hay khi bước vào hoà bình. Nó đã trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Truyền thống hiếu học của người Việt Nam được hình thành từ nhiều thế hệ. Là người Việt Nam ngay từ thuở ấu thơ đã được sống trong lời ru của mẹ: “Qua sông phải bắc cầu kiều Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy” Truyền thống “Tôn sư trọng đạo” là một nội dung trong học thuyết của Nho giáo, khi vào Việt Nam được dân tộc ta tiếp biến, trở thành một nội dung đạo lý của người Việt Nam. Học trò nước ta luôn ghi nhớ: “Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy” hay “ Không thầy đố mày làm nên”, đó là một triết lý sống của người Việt Nam. Hiếu học là một truyền thống trong giáo dục của người Việt từ xưa tới nay. Có thể nói, ngay từ rất sớm con người đã sớm nhận thức được học hành không chỉ là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ của mỗi cá nhân. Người xưa từng nói: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri đạo” (Ngọc không mài dũa thì không thành đồ dùng được, người không học thì không biết đạo) hay “Hiếu nhân bất hiếu học kỳ tế dã ngu” (Kể cả những người mong muốn làm điều nhân đức chí thiện nhưng không học thì cũng bị sự ngu dốt che lấp đi). Ngay từ buổi đầu dựng nước, ông cha ta đã nhận ra tầm quan trọng của giáo dục, cho nên, việc chăm sóc và bồi dưỡng nhân tài đã được thực hiện sớm. Trong bia tiến sĩ năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba ( năm 1442) ở Văn Miếu (Hà Nội) có ghi: Hiền tài là nguyên khí của Nhà nước, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khi kém thì thế nước yếu và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai không chăm lo việc gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí [56, tr.176-177]. Cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh chỉ phấn đấu cho một mục đích tối cao là làm sao để “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Người đặt hy vọng và tin tưởng vào thế hệ trẻ: “Non sông ta có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc ta có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc, năm châu hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [66]. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta ý thức một cách sâu sắc rằng: “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Việc phát huy truyền thống hiếu học, tôn trọng người hiền tài càng trở nên có ý nghĩa, tôn trọng trí thức, tôn trọng hiền tài, tôn trọng sáng tạo trên cơ sở, nền tảng đạo đức trong sáng. Trong những chủ trương lớn xây dựng và phát triển văn hoá, Đảng ta nêu rõ: “Quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức và lối sống văn hoá cho thế hệ trẻ. Có chính sách trọng dụng người tài” [18, tr.81-82]. Có thể nói các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam không chỉ tạo nên sức mạnh cho nhân dân ta vượt qua những khó khăn, thách thức trong lịch sử. Trong hiện tại, các giá trị đạo đức ấy đang là động lực to lớn góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước. 1.2. ảnh hưởng của giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay 1.2.1. Lối sống và lối sống mới * Lối sống Lối sống là phạm trù bao quát một bình diện rộng lớn của con người và xã hội, do đó, có nhiều ngành khoa học nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau như: triết học, xã hội học, kinh tế chính trị học, văn hoá học....Một trong những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “lối sống” như một khái niệm khoa học là một học giả người Đức- ông Max Weber (1864- 1920). Đến nay, dù đã có nhiều quan điểm khác nhau bàn về lối sống nhưng vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về vấn đề này. C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức” có viết: Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống của họ [60, tr.30]. Như vậy, C. Mác đã khẳng định, sản xuất là yếu tố quyết định sự tồn tại của cá nhân và phương thức sản xuất là hình thức hoạt động cơ bản của con người, là phương thức sinh sống của con người, là mặt cơ bản của lối sống. Theo C. Mác, lối sống chính là phương thức, là dạng hoạt động của con người, nó chịu sự quyết định của phương thức sản xuất. Tuy chịu sự quyết định của phương thức sản xuất, nhưng lối sống không phải là sản phẩm thụ động của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và những điều kiện sống khác. Bởi lẽ, phạm vi của lối sống rộng hơn phương thức sản xuất. Ngoài những hoạt động vật chất, con người còn có hoạt động chính trị, xã hội, nghệ thuật....Do vậy, phạm vi của lối sống tương ứng với hình thái kinh tế – xã hội. Lối sống phản ánh hoạt động chủ thể, bao gồm: nhận thức, tình cảm, động cơ, hành vi, ứng xử, thể chế xã hội...và cả những mối liên hệ giữa chúng. Có thể nói, “lối sống là sự khúc xạ hình thái kinh tế – xã hội trong nhận thức, tình cảm, thái độ và hoạt động xã hội, tổ chức đời sống và sinh hoạt cá nhân của con người” [99, tr.28]. C.Mác cho rằng, ở những hình thái kinh tế -xã hội khác nhau, sẽ có lối sống khác nhau. Đặc biệt, trong những hình thái kinh -tế xã hội có giai cấp, nhất là có đối kháng giai cấp thì lối sống mang tính giai cấp. Tiếp cận lối sống trên phương diện phương thức hoạt động và tổng thể những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của những cá nhân trong một hình thái kinh tế – xã hội, TS. Rútkêvich cho rằng: “ Lối sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định” [100, tr.45]. Còn G.Glezerman cho rằng: “lối sống là tổng hoà những nét cơ bản, nói lên đặc điểm của hoạt động sống của xã hội, các cá nhân trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định” [99, tr 18]. Xem xét lối sống gắn với hoạt động sống của con người với hình thái kinh tế – xã hội, TS triết học V.I.Tônxtưkhơ cho rằng: “lối sống là những hình thức cố định, điển hình của họat động sống cá nhân và tập đoàn của con người; những hình thức ấy nói lên đặc điểm về sự giao tiếp, hành vi và nếp nghĩ của họ trong các lĩnh vực lao động, hoạt động xã hội – chính trị, sinh hoạt và giải trí” [99, tr 18- 19]. Cùng với quan điểm xem xét lối sống là một phương thức hoạt động, I.V.Bextugiep cho rằng: “Lối sống được kiến giải như một phương thức hoạt động sống của con người, thì điều hợp lý là lấy các hoạt động sống quan trọng nhất làm nền tảng cho cơ cấu của lối sống, các lĩnh vực đó ta đều biết là: lao động, sinh hoạt, hoạt động chính trị – xã hội và văn hoá xã hội” [32, tr.19]. ở góc độ khác, M.N. Rutkêvich còn khẳng định, lối sống chịu sự quyết định của phương thức sản xuất, khái niệm “lối sống” và khái niệm “phương thức sản xuất” liên hệ chặt chẽ với nhau. Ông viết: “Lối sống là một trong những khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nó liên quan chặt chẽ với một khái niệm có ý nghĩa mấu chốt đối với nó là phương thức sản xuất của cải vật chất” [100, tr 12]. Theo hướng này, Z.Dunốp khẳng định “lối sống trước hết là những điều kiện trong đó con người tự tái sản xuất về mặt sinh học cũng như mặt xã hội. Đó là toàn bộ những hình thức hành vi hàng ngày, ổn định và điển hình của con người” [99, tr.19]. Định nghĩa này cho thấy lối sống chịu sự quy định của điều kiện vật chất, mà nó chính là nền tảng để thoã mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người và xã hội. ở Việt Nam, “lối sống” là một danh từ ghép. Lối là lề lối, thể thức, kiểu cách, phương thức. Sống là sinh hoạt, là quá trình hoạt động sinh vật của con người và xã hội. Hiện nay, nhiều từ điển Việt và Việt– Hán đã và đang lưu hành chỉ đề cập khái niệm “lối sống giản dị” làm ví dụ minh hoạ cho từ “lối” và dẫn” nếp sống” khi đề cập khái niệm sống”. Có tác giả cho rằng, từ lối sống và nếp sống là kết quả của việc tạo từ trong ngôn ngữ tiếng Việt và là cách dùng thuật ngữ khác nhau để dịch một thuật ngữ nước ngoài (Nga). Và “Sách cổ, sách chữ Hán, sách chữ Nôm không có hai thuật ngữ này. Trong thời kỳ cận đại và hiện đại (sau cách mạng tháng Tám) đã bắt đầu hình thành khái niệm về cách thức, lề lối, nề nếp của con người trong sự sống. Các khái niệm trên có thể mượn dịch hoặc phỏng theo từ nước ngoài” [33, tr.21]. Hiện nay khái niệm lối sống được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau: triết học, xã hội học, tâm lý học.... Trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam, khái niệm “lối sống” được đề cập lần đầu tiên ở Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng. Và tiếp tục được sử dụng trong các kỳ đại hội tiếp theo. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã nhấn mạnh: “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng... Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền” [19, tr.46- 47]. Có thể nói, chưa bao giờ lối sống được Đảng ta quan tâm sâu sắc như hiện nay. Tháng 7 năm 2004, Hội nghị lần thứ mười, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX họp tổng kết, đánh giá tình hình 5 năm thực hiện Nghị quyết năm, Ban chấp hành Đảng khóa VIII, Đảng ta đã 17 lần đề cập đến khái niệm lối sống. Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề lối sống, các đề tài nghiên cứu cấp nhà nước cũng bắt đầu tập trung nghiên cứu vấn đề này. Các tác giả đề tài cấp nhà nước KX.06-13 giai đoạn (1991 - 1995) đưa ra quan niệm: “Lối sống, trong chừng mực nhất định, là cách ứng xử của con người cụ thể, những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của môi trường sống. Môi trường là cái khách quan quy định, là điều kiện khách quan trực tiếp tác động và ảnh hưởng đến lối sống của con người, lối sống của các nhóm xã hội và cộng đồng dân cư”. Định nghĩa này cho thấy lối sống có quan hệ trực tiếp với môi trường sống và chịu sự quy định của nó, đồng thời tiếp cận lối sống như là một phương thức hoạt động thực tiễn của con người và do vậy, nó có ưu thế là làm sáng rõ mối quan hệ biện chứng giữa lối sống và môi trường. Trên cơ sở tiếp cận quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lối sống, GS Vũ Khiêu trong tác phẩm “Văn hoá Việt Nam, xã hội và con người” đã quan niệm lối sống theo nghĩa rộng: Lối sống là phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, nhóm xã hội, các cá nhân trong điều kiện của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hoá” [42, tr.514]. Xét lối sống gắn liền với hoạt động sống của con người và với một hình thái kinh tế - xã hội, GS Thanh Lê quan niệm: “Lối sống là một hệ thống những nét căn bản nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp các tập đoàn xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định” [49, tr.24]. ở góc độ xem xét tổng hoà các mặt cơ bản, khắc hoạ những đặc điểm cá nhân, tập thể, giai cấp và cộng đồng, GS.TS Nguyễn Văn Huyên cho rằng: Lối sống là tổ hợp các mô hình, cách thức và phong thái sống của con người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh vực hoạt động, từ sản xuất, tiêu dùng đến thái độ hành vi, cách tư duy, lối ứng xử giữa con người với con người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với phương tịên và mục đích sống [38, tr 29] GS.TS Đỗ Huy khẳng định: “Lối sống là tổng hoà những dạng hoạt động sống điển hình của con người trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định” [34, tr353]. Cùng với quan điểm này, TS Nguyễn Viết Chức trong quyển “Xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống văn hoá ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” đã định nghĩa: “Lối sống là tổng hoà những dạng hoạt động sống điển hình và tương đối ổn định của con người được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong sự thống nhất với các điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [10, tr.66- 67]. GS.TS Huỳnh Khái Vinh trong bài “Kế thừa và phát triển nếp sống thanh lịch của người Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” cũng cho rằng: Lối sống là một khái niệm có tính đồng bộ và tổng hợp. Nó bao gồm các mối quan hệ khác nhau của con người, kể cả đặc trưng sinh hoạt của họ trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Như vậy, điểm giống nhau cơ bản của các tác giả khi định nghĩa về lối sống là ở chỗ, cho rằng lối sống bao gồm tất cả các lĩnh vực hoạt động sống cơ bản của con người, từ lao động, sinh hoạt, hoạt động xã hội – chính trị và giải trí. Từ đó, chúng ta có thể khái quát về lối sống ở những đặc trưng cơ bản sau đây: Thứ nhất, nói đến lối sống là nói đến tổng hoà các hoạt động sống ổn định của con người gắn liền với dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội và các cá nhân trong cộng đồng. Vì vậy có thể phân loại lối sống theo ba cấp độ: lối sống của dân tộc, lối sống của giai cấp (nhóm xã hội), lối sống của cá nhân. Thứ hai, lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và các điều kiện sống của con người. Thứ ba, đặc trưng bản chất của lối sống trong toàn bộ hoạt động sống là hoạt động lao động sản xuất, bởi nó là hoạt động có tính chất nền tảng, có tính người trong việc sáng tạo ra các giá trị vật chất cũng như các giá trị tinh thần. Thứ tư, tổng hoà các khuôn mẫu ứng xử, các thể chế xã hội được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định, đó chính là nội dung và phạm vi của lối sống. Thứ năm, lối sống nói chung mạng tính văn hoá, bởi vì trong các hành động xã hội, các quan hệ xã hội, thể chế xã hội, các khuôn mẫu ứng xử....trong lối sống đều mang ý nghĩa văn hoá, hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp. * Một số khái niệm gần với khái niệm lối sống: Mức sống, là mức đạt được về các điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần và xã hội. Các nhà triết học Liên Xô trước đây xem lối sống ở hai mặt chất và lượng của nó. TS. Rútkêvich cho rằng: “Nếu như mặt chất của lối sống phản ánh tính chất của chế độ xã hội – kinh tế thì mặt lượng của lối sống được xác định bởi mức độ phụ thuộc của nhu cầu vào sự phát triển của lực lượng sản xuất ấy và mặt lượng này được thể hiện ở mức độ phúc lợi của nhân dân. Mức độ phúc lợi này thường được gọi là mức sống”. Hay Nói một cách giản đơn, không thể hiểu được lối sống của con người nếu không biết họ sản xuất và tiêu dùng như thế nào, với số lượng bao nhiêu, họ sống dở, chết dở hay được ăn uống theo mức ăn hợp lý, họ sống trong những căn nhà rách nát hay trong các phòng có đủ tiện nghi, họ có đủ quần áo hay mặc không, có biết chữ hay không, được học ở trường phổ thông trong bao nhiêu năm, có phương tiện đi lại không và phương tiện đó như thế nào... [100, tr.29, 33]. Cần lưu ý, không phải cứ mức sống biến đổi thì lối sống biến đổi vì mức sống không là điều kiện duy nhất của lối sống. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một lối sống không thể xem mức sống như là một cái gì đó ở bên ngoài, nó là cơ sở vật chất của lối sống. Nhưng không phải mức sống nâng cao thì lối sống cũng nâng cao. Thực tiễn cho thấy có trường hợp mức sống ngang nhau nhưng lối sống khác nhau. Cho nên, có những người mức sống rất cao nhưng lối sống lại đáng khinh và đáng phê phán. Chẳng hạn hành vi đê tiện, ích kỷ, chỉ biết mình, không quan tâm người khác. Trái lại có những người có điều kiện sống thiếu thốn, khó khăn vất vả về vật chất nhưng phẩm chất nhân cách của họ thì rất đáng trân trọng. Do vậy, sẽ là sai lầm khi đem đồng nhất mức sống với lối sống. Sai lầm này biểu hiện ở việc tuyệt đối hoá nhu cầu vật chất, chạy theo lối sống tiêu dùng, lối sống thực dụng, xem thường yếu tố tinh thần, xem thường yếu tố chính trị trong đời sống xã hội. Cho nên, khái niệm lối sống rất gần với khái niệm mức sống nhưng chúng không đồng nhất nhau. Vì mức sống là thuật ngữ kinh tế - xã hội dùng để đánh giá các nhu cầu vật chất và tinh thần đã được thoã mãn. Nếp sống và lẽ sống là hai khái niệm có nội hàm, ý nghĩa khác nhau và có ngoại diên hẹp hơn lối sống. L.V.Kô- kan cho rằng: “Nếp sống của con người được coi như là sự phản ánh của cá nhân vào xã hội, còn lối sống của con người được coi như là sự phản ánh của xã hội vào cá nhân” [32, tr.23]. Trong khi đó, A.P.Bu chen co lại nhận định: “nếp sống không phải là một phần mà là một trong những hình thức biểu hiện của lối sống” [32, tr.23]. Lối sống là một hệ thống những hành vi của con người, trong lao động cũng như trong các quan hệ xã hội khác. Những hành vi được lặp đi lặp lại nhiều lần thành quy định nề nếp, một thói quen, phong tục, tập quán, lễ nghi.... được gọi là nếp sống. GS. Vũ Khiêu quan niệm: “Nếp sống là toàn bộ thói quen được hình thành trong cuộc sống hàng ngày, những thói quen đã trở thành nếp trong sản xuất, chiến đấu, trong mọi quan hệ xã hội và trong mọi sinh hoạt riêng của mỗi con người. Những thói quen ấy còn gọi là tập quán” [40, tr.153]. Nếp sống là sự biểu hiện sinh động, cụ thể của lối sống, do đó, nó không phải là cái bất biến, vĩnh hằng, nghĩa là nó có thuộc tính biến đổi. Nhưng chỉ khi nếp sống thay đổi đến một chừng mực nhất định thì lối sống mới biến đổi. Điều này cho thấy, lối sống và nếp sống không thể tách rời nhau, nhưng chúng không phải là một. Đảng ta cũng từng khẳng định sự khác nhau này: Kiên trì xây dựng nếp sống mới lành mạnh, khoa học, tiết kiệm và giản dị; bảo vệ và phát triển các giá trị tinh thần. Kiên quyết bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan; tiếp tục đấu tranh quét sạch văn hoá thực dân mới và ảnh hưởng của các loại văn hoá phản động, đồi trụy khác. Tất cả những việc đó nhằm làm cho tư tưởng, tình cảm, lối sống mới thực sự chiếm ưu thế trong đời sống nhân dân [18, tr.100- 101]. Trong “Những nhiệm vụ cụ thể” xây dựng và phát văn hoá mới, con người mới thông qua tại Hội nghị lần năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII nhấn mạnh đức tính: “Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy ước cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái” [14, tr.59]. Lẽ sống, là thuật ngữ triết học, đạo đức, tâm lý phản ánh mặt ý thức của lối sống. Nó chính là sự lựa chọn chủ quan của con người về lối sống. Sự lựa chọn này thể hiện sự khẳng định của cá nhân hay của một dân tộc đối với lối sống. Nhưng không phải lẽ sống hoàn toàn không bị quy định bởi yếu tố khách quan (hoàn cảnh sống, chế độ kinh tế, chính trị – xã hội...). Lẽ sống có chức năng định hướng cho lối sống, bởi nó như là thế giới quan, nhân sinh quan của con người. Vai trò của lẽ sống đối với lối sống giống như “kim chỉ Nam” cho cá nhân điều chỉnh hành vi của mình, vì hạnh phúc cá nhân, vì cộng đồng xã hội. Một người có lẽ sống đúng đắn sẽ góp phần hình thành lối sống tốt đẹp. Do vậy, có thể nói, lẽ sống là mặt lý tưởng của lối sống, là nhân lõi của lối sống. Phong cách sống: là thuật ngữ tâm lý - xã hội dùng để chỉ thái độ, hành vi ứng xử và định hướng giá trị trong đời sống hàng ngày của cá nhân và của các nhóm xã hội. Phong cách sống chính là hình thức biểu hiện của lối sống trong sinh hoạt, trong các hoạt động xã hội của các cá nhân, của các nhóm xã hội. GS.TS. Đỗ Huy cho rằng: “phong cách sống chỉ rõ thái độ và cách thức sống, cách thức lao động, cách thức quản lý sản xuất và quản lý đô thị” [34, tr.200]. Phong cách sống chỉ rõ tính chất chủ quan của việc thực hiện các hành động sống. Nó không phụ thuộc hoàn toàn vào mức sống hay chất lượng sống. Ngoài các khái niệm đã trình bày, khi nghiên cứu lối sống, người ta còn đề cập các khái niệm: chất lượng sống, nhịp sống, môi trường sống, tiêu chuẩn sống, khuôn mẫu ứng xử..... * Lối sống mới - lối sống xã hội chủ nghĩa: Lối sống xã hội chủ nghĩa là một bước tiến, một sự thay đổi về chất trong lịch sử phát triển của nhân loại, nó là tổng thể những hình thức hoạt động cơ bản của con người trong những điều kiện của chủ nghĩa xã hội. ở mức độ khái quát nhất, lối sống xã hội chủ nghĩa được xác lập trên hai cơ sở: - Về cơ sở vật chất: lối sống xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng của phương thức sản xuất mới – phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong đó, quyền sở hữu về tư liệu sản xuất thuộc về quần chúng nhân dân lao động. - Về nền tảng tinh thần: lối sống xã hội chủ nghĩa lấy tư tưởng Mác – Lênin làm kim chỉ nam cho mọi hành động, cho lẽ sống, cho thái độ ứng xử giữa con người với con người. Lối sống xã hội chủ nghĩa là sự kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống tốt đẹp với những tư tưởng mới của thời đại, trong mọi hoạt động, hành vi.....Lối sống mới, nếp sống mới không chỉ là những biểu hiện đơn thuần về mặt kinh tế, đó còn là sự phản ánh đời sống lịch sử của dân tộc trong sự nối tiếp lâu dài của nó. Khác với lối sống thực dụng, lối sống xã hội chủ nghĩa không xem nhẹ vai trò của khoa học- kỹ thuật và lợi ích chính đáng của con người. Chính C.Mác trong nhiều tác phẩm của mình đã coi “khoa học là động lực của lịch sử” (lời của Ph. Ăngghen) và là “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Mặt khác, lối sống xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở kinh tế của nó là quyền chiếm hữu công cộng về tư liệu sản xuất đòi hỏi phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích cộng đồng. C.Mác và Ph.Ăngghen chưa bao giờ xem nhẹ lợi ích chính đáng của con người. Do đó, lối sống xã hội chủ nghĩa coi chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc đạo đức cơ bản của mình. Lối sống xã hội chủ nghĩa được xây dựng dựa trên quan niệm duy vật về lịch sử, coi quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Họ là người làm ra mọi giá trị vật chất và mọi giá trị tinh thần. Tuy nhiên, lối sống xã hội chủ nghĩa cũng coi trọng đúng mức vai trò của cá nhân, vĩ nhân trong lịch sử. Thực tiễn chứng minh rằng: “trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [51, tr.473]. Lối sống là một phạm trù lịch sử phản ánh điều kiện kinh tế – xã hội nhất định, được biểu hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống con người: lao động và hưởng thụ, sinh hoạt tinh thần và văn hoá, lối ứng xử giữa người với người, giữa chủ thể với khách thể...Do đó, không thể có một lối sống chung cho mọi giai cấp. Lối sống bao giờ cũng bị chi phối bởi lợi ích giai cấp . Chỉ có lối sống xã hội chủ nghĩa là có thể thống nhất cho toàn xã hội chứ không chỉ riêng giai cấp công nhân. Tất nhiên, như các tác giả trong “Bàn về lối sống, nếp sống xã hội chủ nghĩa” có khẳng định: “...ở mỗi vùng, mỗi người, cũng có thể có những nếp sống khác nhau, nhưng sự khác nhau đó là về mặt phong tục, tập quán, chứ về lối sống, về mặt tư tưởng, lẽ sống, nguyên tắc sống thì phải theo một hướng thống nhất". Lối sống xã hội chủ nghĩa chống lại tính chất phi đạo đức của lối sống thực dụng vị kỷ, sùng bái đồng tiền, tuyệt đối hoá xã hội tiêu dùng.... Nó đề cao những phẩm chất cao quý của con người, đề cao việc xây dựng văn hoá và việc lĩnh hội các giá trị văn hoá tinh thần của nhân loại và dân tộc, qua sự chọn lọc các giá trị đó mà đề ra những chuẩn mực, nguyên tắc cho lối sống và nếp sống trong xã hội mới. Chủ nghĩa Mác – Lê nin là hạt nhân tư tưởng của lối sống xã hội chủ nghĩa, nó quyết định hướng giá trị, thế giới quan và cảm quan về thế giới, quyết định những đặc điểm và xu hướng phát triển giá trị văn hoá tinh thần, làm phong phú những giá trị đạo đức, hình thành chủ nghĩa lạc quan, hình thành ý thức công dân, do đó, tạo ra khát vọng cho con người về tính ưu việt của cuộc sống mới và sự hoàn thiện lối sống cho mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng dân tộc. “Hệ tư tưởng ấy đã làm bật dậy tiềm năng và sức sống văn hoá, xác lập mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, giữa con người với môi trường và tự nhiên, là điều kiện vô cùng quan trọng để đặt nền móng cho lối sống xã hội chủ nghĩa” [49, tr.38]. Trên tinh thần của chủ nghĩa Mác- Lênin, mọi khuôn mẫu và nguyên tắc ứng xử của lối sống mới biểu thị tinh thần dân chủ thực sự, tình yêu tổ quốc xã hội chủ nghĩa gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, sự tôn trọng lao động gắn liền với tri thức khoa học, kỹ thuật, ý thức mình vì mọi người và mọi người vì mình, gắn liền với chủ nghĩa vị tha và tình nhân loại. Xét về nội dung, các phẩm chất của lối sống mới đều thuộc về phạm trù của đạo đức. Hay đúng hơn, đạo đức xã hội chủ nghĩa là cơ sở cho sự phát triển của lối sống mới xã hội chủ nghĩa, và ngược lại, chính lối sống xã hội chủ nghĩa tạo ra cơ sở thực sự cho sự phát triển đạo đức của con người mới. Lối sống mới xã hội chủ nghĩa được đặc trưng bởi ba phẩm chất quan trọng: yêu lao động, giàu tình thương và trọng lẽ phải. Đây là ba đặc trưng chi phối toàn bộ phẩm chất nội dung và các đặc điểm khác của lối sống mới. Lao động đã sáng tạo ra con người, đồng thời lao động cũng là điều kiện, phương tiện để con người tồn tại và phát triển. Thông qua lao động, con người không chỉ cải biến giới tự nhiên theo mục đích của mình mà còn “cải tạo” chính bản thân những người lao động, làm cho họ không ngừng hoàn thiện, phát triển cả thể chất lẫn tinh thần. Dưới chủ nghĩa xã hội, lao động và yêu lao động được coi là phẩm chất hàng đầu Đó là động lực tự giác sáng tạo, có ý thức trách nhiệm và tinh thần kỷ luật cao. Mọi người đều có ý thức tham gia lao động vì lợi ích của xã hội, của cộng đồng. Nguyên tắc cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa về lao động là làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Chính nguyên tắc này làm cho lối sống mới có tính công bằng, hợp lý và thực sự có dân chủ. Đó là cái làm cho lao động xã hội chủ nghĩa khác xa với lao động và lối sống trong các xã hội có đối kháng giai cấp, vì trong đó có tình trạng “ngồi mát ăn bát vàng” của một số kẻ có quyền, bóc lột, cướp đoạt lao động của người khác. Giàu tình thương, là một phẩm chất vốn có của dân tộc ta, một dân tộc đề cao lòng nhân đạo ngay cả với kẻ thù, là một dân tộc được thế giới đánh giá cao về lòng hiếu khách, tinh thần lạc quan. Đó là tình đoàn kết, đùm bọc giữa những con người cùng cảnh ngộ, là tình yêu đối với Tổ quốc, quê hương, làng mạc, với gia đình, người thân. Trong các chế độ xã hội cũ, do sự áp bức của giai cấp thống trị, do bất công trong xã hội nên tình yêu thương của con người không được bộc lộ rõ nét. Trong chế độ xã hội mới, lối sống mới tạo điều kiện cho tình thương, lòng nhân ái phát triển, được bồi dưỡng và nâng lên trong các ứng xử, hành vi theo hướng chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Dưới chủ nghĩa xã hội, tình yêu thương của con người không chỉ góp phần hoàn thiện nhân cách con người, phát triển toàn diện con người xã hội chủ nghĩa, đó còn là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của xã hội mới: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trọng lẽ phải là đặc trưng cơ bản của lối sống xã hội chủ nghĩa, đó là sự nhận thức và tôn trọng cái đúng, cái công bằng, cái thuộc về chân lý... Đó là tinh thần cầu thị, hành động vì lẽ phải, chính trực, không thành kiến, bè phái, không vì lợi ích cá nhân mà bênh cho cái xấu, cái sai, là tư tưởng “chí công vô tư” như Bác Hồ từng dạy, không khuất phục trước uy lực, không sa ngã trước giàu sang, một lòng vì nghĩa lớn, có thể hy sinh cả tính mệnh cho lý tưởng chung. ý nghĩa tích cực của lối sống xã hội chủ nghĩa thể hiện trình độ, ý thức tư tưởng và đạo đức được thực hiện trong các mắt xích của xã hội, trong mọi lĩnh vực của đời sống. Bên cạnh tư tưởng và đạo đức, cũng cần thấy các yếu tố khác xuất hiện trong lối sống như: văn hoá, trí tuệ, khoa học kỹ thuật, thẩm mỹ, nghệ thuật. Những yếu tố này có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành và khẳng định lối sống mới xã hội chủ nghĩa. Trên đây là những đặc trưng cơ bản của lối sống xã hội chủ nghĩa, nó đánh dấu một trình độ mới trong sự phát triển của xã hội. Nó quy định tính tất yếu và cấp thiết của việc xây dựng lối sống mới ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt đối với đối tượng là thanh niên, học sinh, sinh viên * Vấn đề xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay. Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, họ sống và học tập trong môi trường kinh tế, xã hội năng động, tiếp thu và vận dụng các thành tựu khoa học công nghệ một cách nhanh chóng. Một mặt, họ có trình độ nhận thức, trình độ khoa học cơ bản, có năng lực tư duy; mặt khác, họ là những người trẻ tuổi, kinh nghiệm sống chưa nhiều lại đang đứng trước sự tác động đa chiều của nền kinh tế thị trường. Do vậy, trong quá trình hình thành và phát triển, lối sống của sinh viên Việt Nam vừa mang đặc trưng của lối sống truyền thống của dân tộc vừa có những biểu hiện của lối sống mới. Trong lịch sử, cùng với quá trình dựng nước và giữ nước, lối sống của người Việt Nam cũng như lối sống của sinh viên được hình thành và phát triển mang bản chất và cốt cách của người Việt Nam. Dù còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu ở nước ta đều thống nhất: lối sống truyền thống của người Việt Nam được kết tinh từ các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc: yêu nước, đoàn kết, nhân ái, yêu thương con người, khoan dung, cần cù, hiếu học, thông minh, sáng tạo, tinh tế, kín đáo....Các giá trị đạo đức này đã góp phần tạo nên tính đặc trưng riêng của lối sống của người Việt Nam. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định: Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình- làng xã- Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... [18, tr. 56]. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới, các đặc trưng trên đã được kế thừa và phát huy ở những mức độ khác nhau, nhiều nội dung mới được bổ sung. Một số đặc trưng trước đây của lối sống là phù hợp nhưng hiện nay đã bộc lộ hạn chế, không phù hợp với thời đại. Chẳng hạn, kinh nghiệm chủ nghĩa dẫn đến yếu kém về lý luận; nặng tính cộng đồng dẫn đến phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò cá nhân, cào bằng, cục bộ địa phương, hẹp hòi, đố kỵ; lối sống nặng tình dẫn đến thiếu tinh thần pháp luật, dễ thỏa hiệp, tuỳ tiện, không tôn trọng quy luật khách quan; đề cao yếu tố tinh thần dẫn đến xem nhẹ yếu tố vật chất, duy ý chí; trọng quan chức, chuộng khoa cử, ít chú ý đến khoa học kỹ thuật để sản xuất kinh doanh. Trong công trình nghiên cứu “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của phát triển kinh tế- xã hội”, các tác giả đã nêu lên những định hướng cho lối sống, nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đó là con người có niềm tin vững chắc và quyết tâm cao thực hiện nhiệm vụ lịch sử trọng đại là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có bản lĩnh, có lòng nhân ái, nhân đạo cao cả, có trình độ khoa học công nghệ, có trình độ trí tuệ, trình độ tay nghề, có sức khoẻ, có ý thức về quyền công dân, có cá tính và bản sắc riêng. Nghị quyết của Bộ chính trị về “một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay” đã xác định: “Những giá trị văn hoá truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý “thương người như thể thương thân”, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động...Đó là nền tảng và sức mạnh tinh thần to lớn để nhân dân ta xây dựng một xã hội phát triển, tiến bộ, công bằng, nhân ái” [22, tr.19]. Như vậy lối sống mới mà nhân dân ta hướng đến xây dựng trước hết phải kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Các giá trị đạo đức truyền thống tồn tại một cách vững bền trong đời sống tinh thần của nhân dân ta, nó cũng là những giá trị không thể thiếu trong quá trình xây dựng lối sống mới, con người mới ở Việt Nam. Ngày nay, thế giới đang có nhiều biến động, môi trường xã hội nước ta có nhiều thay đổi, nhân dân ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Cùng với thanh niên, tầng lớp sinh viên Việt Nam đang trong quá trình phát triển để tự khẳng định vai trò là chủ nhân tương lai của nước nhà, họ cũng đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới, họ vừa có môi trường học tập, nghiên cứu thuận lợi, có điều kiện tiếp thu và vận dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật. Mặt khác, họ cũng chịu sự tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường. Trước tình hình đó, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm đúng mức tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên góp phần xây dựng con người mới – con người xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Lối sống mới cho sinh viên phải là lối sống chuẩn mực, có đạo đức, có lý tưởng cách mạng, có sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống dân tộc với tinh hoa văn hoá nhân loại dựa trên một nền tảng giáo dục toàn diện. Lối sống mới mà ta đang xây dựng trong thanh niên, sinh viên phải là lối sống có sự phát triển cao về thể lực, trí tuệ và tình cảm, có ý thức công dân. Trình độ trí tuệ là điều kiện cần thiết để phát huy sáng kiến- đây là một thế mạnh của sinh viên so với một tầng lớp thanh niên khác trong xã hội. Điều này không chỉ thể hiện tính đặc thù của sinh viên mà còn giúp họ có khả năng đề kháng, đẩy lùi các tập quán sinh hoạt lỗi thời, lạc hậu, tạo điều kiện cho việc xây dựng lối sống mới, văn minh hiện đại. Muốn xây dựng lối sống theo tiêu chí dân tộc, hiện đại và nhân văn trong tầng lớp sinh viên trong giai đoạn hiện nay, cần phải tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, không ngừng nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung và tầng lớp sinh viên nói riêng. Đồng thời hết sức coi trọng việc giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, phẩm chất, nhân cách cho sinh viên. Cơ sở bền vững của lối sống mới trong sinh viên là học tập và lao động, bởi lao động là nguồn sống, nguồn hạnh phúc chân chính, là nghĩa vụ góp phần hoàn thiện nhân cách con người, hình thành lối sống lành mạnh, tốt đẹp. Với chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mỗi công dân phải sống theo hiến pháp và pháp luật. Sinh viên cũng không ngoại lệ. Cho nên, việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên đòi hỏi phải nâng cao ý thức pháp luật cho họ, tạo cho họ có thói quen chấp hành luật pháp. Hệ thống pháp luật càng chặt chẽ, càng đầy đủ, đồng bộ càng thể hiện trình độ phát triển, trình độ văn minh và tiến bộ của xã hội. Đó sẽ là hành lang pháp lý để mọi người dân, trong đó có tầng lớp sinh viên sống, làm việc và học tập. Xu thế toàn cầu và hội nhập kinh tế thế giới đang tác động mạnh mẽ đến các quốc gia và vùng lãnh thổ, nó kéo theo cả những thời cơ và thách thức. Để chủ động hội nhập với xu thế tất yếu đó của lịch sử đương đại, đòi hỏi mỗi con người phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, phải “năng động hoá” lối sống của mình. Đó là lối sống năng động, nhạy bén, sáng tạo dựa trên một nền tảng chính trị vững chắc: chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng ta có thể đồng ý với quan niệm cho rằng: “Lối sống năng động khác xa với lối sống chụp giật và lừa đảo. Năng động là tính cách trong hoạt động sống biết vượt khó khăn, sáng tạo ra phương thức sống hoàn thiện hơn” [34, tr.364]. Như vậy, Thực chất của sự nghiệp xây dựng lối sống dân tộc- hiện đại ở nước ta là xác định sự lựa chọn của các cá nhân theo định hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là quá trình nhân đạo hoá toàn bộ đời sống xã hội mà mỗi cá nhân sẽ gia tăng tính tự chủ, tự giác, sức mạnh bên trong hướng tới các quá trình hoàn thiện của xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng [34, tr.366]. Nghị quyết lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã đề ra nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới gồm năm đức tính cơ bản: - Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. - Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì mục tiêu chung: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh - Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy ước cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. - Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao, vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. - Thường xuyên học tập, nâng cao hiêủ biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực [18, tr.58-59]. Có thể xem những yếu tố nêu trên chính là đặc trưng của lối sống mới mà người Việt Nam đang xây dựng trong giai đoạn cách mạng mới, trong đó có lối sống mới cho sinh viên. 1.2.2. Biểu hiện của ảnh hưởng của giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay Kế thừa là một trong những đặc trưng cơ bản, phổ biến của sự phát triển, là cái cầu nối giữa cái cũ và cái mới, giữa quá khứ và hiện tại. Tuy nhiên, sự phát triển không chỉ diễn ra bởi sự kế thừa mà còn có sự đổi mới, tái tạo. Đây là hai mặt thống nhất biện chứng trong sự phát triển, chúng luôn tồn tại song hành, thâm nhập và bổ sung lẫn nhau. Theo quan niệm mácxít, kế thừa không chỉ tồn tại sự theo thời gian, mà còn tồn tại theo không gian. Với tư cách là sản phẩm của lịch sử, của toàn bộ nền kinh tế, xã hội, khái quát toàn bộ hoạt động sống, phương thức sinh hoạt của các dân tộc, các giai cấp, nhóm xã hội cũng như các cá nhân...., lối sống xã hội chủ nghĩa không thể không kế thừa những giá trị phổ quát của toàn nhân loại cũng như các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên không nằm ngoài quy luật tác động đó. Những ảnh hưởng của cá giá trị đạo đức truyền thống đối với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên được thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, các giá trị đạo đức truyền thống làm cơ sở cho việc xây dựng lối sống mới nói chung và xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam nói riêng. Lối sống chính là sự thể hiện của nền tảng đạo đức, nói cách khác, nó là hình thức thể hiện các giá trị đạo đức truyền thống ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Nhìn vào lối sống, người ta có thể thấy được sự tiếp nối, sợi dây liên kết giữa quá khứ với hiện tại, giữa cái cũ và cái mới. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có và không thể xây dựng một lối sống tiến bộ nếu phủ nhận hoàn toàn các giá trị truyền thống mà cha ông để lại. Trái lại, các giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống là cội nguồn, gốc rễ để trên đó, chúng ta xây dựng lối sống mới trên cơ sở kết tinh những tinh hoa mới của nhân loại. Các giá trị đạo đức truyền thống còn tạo điều kiện và là yếu tố đảm bảo cho lối sống mới được khẳng định và phát triển một cách vững chắc. Các giá trị đạo đức truyền thống làm nên bản sắc văn hoá, tâm hồn, lối sống con người Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại. Sự hình thành và phát triển của sinh viên cũng không nằm ngoài quy luật đó, lối sống của họ không chỉ là sự kế thừa có chọn lọc các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc mà còn là việc phát huy truyền thống đáng tự hào của thế hệ sinh viên đi trước. Hiện nay, chúng ta đã và đang chọn lọc để phát huy những giá trị đạo đức truyền thống phù hợp với công cuộc đổi mới của toàn Đảng, toàn dân ta. Có những chuẩn mực đạo đức đã lỗi thời, không còn phù hợp sẽ bị gạt bỏ, nhưng cũng có những giá trị mới được khẳng định và đề cao. Chẳng hạn, chúng ta coi trọng các giá trị cá nhân, tính năng động, quyết đoán, khả năng thích nghi với điều kiện mới....Dẫu vậy, chúng ta không phủ nhận vai trò nền tảng của các giá trị đạo đức truyền thống trong đời sống tinh thần. Lối sống mới sẽ không thể hình thành nếu gạt bỏ các giá trị đạo đức truyền thống và không thể phát triển nếu không hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện con người. Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù có tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường nhưng các giá trị đạo đức truyền thống đích thực vẫn được nhân dân ta gìn giữ, phát huy. Việc xây dựng nền văn hoá mới, lối sống mới, con người mới mà lãng quên các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là sẽ tự đánh mất mình, “trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác” như nhà thơ Nga Gamđatốp từng nói. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc kế thừa, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Với Người, kế thừa các giá trị truyền thống nói chung, các giá trị đạo đức truyền thống nói riêng cần phải quán triệt các tư tưởng sau: Đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm Cái gì mới mà hay thì phải làm. Những tư tưởng này không chỉ là nội dung của nền đạo đức mới mà còn là nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng đạo đức của Người. Thứ hai, các giá trị đạo đức truyền thống là cơ sở góp phần định hướng cho việc xác định lý tưởng sống, hành vi, thái độ ứng xử của cá nhân mỗi người. Cùng với thanh niên nước nhà, sinh viên có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Họ là lực lượng mang trong mình những phẩm chất quý báu như trẻ, khoẻ, có tri thức, năng động, vượt khó. Họ thực sự là đại biểu cho sức sống, sức mạnh của dân tộc. Tuy nhiên, để những thế mạnh đó phát huy được trong cuộc sống, để họ thực sự là động lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, họ cần phải được định hướng một cách toàn diện, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống trong sáng. Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng lối sống mới cho sinh viên hiện nay thì các giá trị đạo đức truyền thống luôn là cơ sở góp phần định hướng cho các phẩm chất cao đẹp đó. Thật vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, các giá trị đạo đức truyền thống đang có sự biến đổi sâu sắc. Sự biến đổi ấy nhìn chung đi theo hai hướng: tích cực và tiêu cực. Nhưng trong sự biến động ấy, các giá trị đạo đức truyền thống vẫn là các tiêu điểm để từ đó các tầng lớp nhân dân, trong đó có thanh niên, sinh viên hướng theo để không đi lạc, để phân biệt được phải trái, đúng sai, chính tà, tốt xấu.....trên cơ sở đó, mọi người xác định được thái độ của mình mà hành động cho phù hợp. Đến đây, ta có thể khẳng định rằng; trong quá trình xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay, các giá trị đạo đức truyền thống có vai trò rất quan trọng, nó là cơ sở góp phần định hướng trong quá trình hình thành phong cách sống, lối sống mới. Về vấn đề này, GS.TS Huỳnh Khái Vinh nhận xét rằng: Cách thức tối ưu là dựa vào đạo đức, cụ thể là các giá trị và chuẩn mực đạo đức. Trong khi luật pháp ở nước ta vẫn còn đang trong quá trình xây dựng và phát triển (chứ chưa thể ở nấc thang hoàn thiện như ở những nước có truyền thống pháp quyền từ hàng trăm năm nay) thì các giá trị đạo đức vẫn còn đóng vai trò hệ chuẩn phổ quát nhất đối với sự phát triển văn hoá, xây dựng con người. Thông qua các giá trị đạo đức có thể phát huy đạo lý của dân tộc và bản sắc dân tộc để phát triển văn hoá, xây dựng con người. Bởi lẽ các chuẩn đạo đức tương đối mềm dẻo, được xác định bằng các tính chất nên hay không nên. Chúng được kiểm tra bằng lương tâm, danh dự, trách nhiệm, nghĩa vụ, ý nghĩa cuộc sống và dư luận xã hội, tức là được kiểm tra bằng tính tự nguyện, tự giác [98, tr.47]. ở đây khi bàn đến vai trò nền tảng của các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình xây dựng lối sống mới cho sinh viên không có nghĩa là chúng ta giữ nguyên những giá trị đó một cách cứng nhắc, giáo điều mà nhất thiết phải có sự đổi mới, phải làm cho các giá trị đó được sống lại và phát huy tốt trong điều kiện mới.Đi đôi với nó, chúng ta phải không ngừng bổ sung những giá trị mới của nhân loại, của dân tộc như coi trọng các giá trị cá nhân, tính năng động dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm... Như vậy, để xây dựng lối sống mới, chúng ta phải lấy các giá trị đạo đức truyền thống làm cơ sở, nền tảng trên cơ sở kế thừa và đổi mới. Theo V.I.Lênin: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của giai cấp vô sản khi giành được thắng lợi là phải nắm được các di sản văn hoá trước kia, chuyển hoá chúng thành tài sản của toàn dân, để sử dụng được những di sản quý giá đó vào việc xây dựng cho xã hội xã hội chủ nghĩa một nền văn hoá cao hơn nữa” [52, tr.34]. Như vậy, việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng lối sống mới là cấp thiết và tất yếu khách quan. Trong quá trình kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống, chúng ta cần tránh hai khuynh hướng cực đoan sau đây: Một là, xu hướng tuyệt đối hoá cái hiện đại, quay lưng với cái truyền thống mà biểu hiện của nó thường là chạy theo đồng tiền, đua đòi, thích hưởng thụ, lười lao động..., đây là khuynh hướng hư vô. Hai là, xu hướng tuyệt đối hoá truyền thống, coi nhẹ cái hiện đại, sống với lối sống cũ, đã qua, khôi phục cả những truyền thống lạc hậu, những hủ tục..., đây là khuynh hướng bảo thủ. Để khắc phục hai khuynh hướng sai lầm trên đây đòi hỏi sự kế thừa phải trên cơ sở có chọn lọc, có phê phán với tinh thần đổi mới. Như vậy, mặc dù có sự xuất hiện của những quan niệm mới về giá trị đạo đức nhưng không ai có thể phủ nhận được vai trò nền tảng của các giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển của lối sống mới, của nền văn hoá tinh thần mới. Thứ ba, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là động lực và là ngọn nguồn phát triển của dân tộc, tạo nên sức mạnh tinh thần và bản lĩnh dân tộc, đặc biệt là kích thích tầng lớp sinh viên tự tin vươn lên trong điều kiện mới đầy biến động như hiện nay. Trong xu thế quốc tế hoá dù muốn hay không các quốc gia cũng phải mở cửa hoà nhập chung với thế giới hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang làm cho các lĩnh vực của đời sống trở nên hết sức năng động, kéo theo các điều kiện và yêu cầu cuộc sống luôn thay đổi. Đặc biệt các thành tựu của cuộc cách mạng tin học đang làm cho các luồng tư tưởng, các sản phẩm văn hoá được truyền bá nhanh chóng và rộng khắp. Chính những nhân tố mới của thời đại đã tạo nên những mối quan hệ mới có ảnh hưởng đến các quan hệ truyền thống và các chuẩn mực tương đối ổn định. Tất cả những yếu tố mới ấy đã làm thay đổi tư duy, tác phong, lối sống của con người nói chung, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, trong đó có sinh viên, làm cho họ năng động hơn, nhạy cảm hơn, tăng khả namg nhận thức và cải tạo thế giới, thay đổi nhiều quan niệm sống của họ. Trước nhiều tác động mạnh mẽ của thời đại, nền kinh tế thị trường bên cạnh những yếu tố góp phần tích cực vào việc hình thành lối sống mới của con người Việt Nam hiện đại thì cũng có những mặt tiêu cực theo chiều hướng ngược lại. Vậy dựa vào đâu để con người có cơ sở sàng lọc những gì phù hợp, cần thiết cho sự phát triển riêng của dân tộc Việt Nam và loại bỏ những gì không phù hợp với quá trình xây dựng con người mới XHCN? Đó chính là những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Quá khứ, hiện tại và tương lai là một dòng chảy liên tục. Không có cái mới chân chính nào được tạo ra ở bên ngoài nền móng đạo đức truyền thống của dân tộc. Giá trị đạo đức truyền thống giúp cho thanh niên, sinh viên có lòng tự hào dân tộc, có niềm tin, sức mạnh vượt qua khó khăn mới do thực tiễn cách mạng đặt ra. Sẽ không bao giờ có con người Việt Nam hiện đại, phát triển toàn diện nếu như mỗi chúng ta không biết, không thấm nhuần lịch sử hào hùng mà cha ông để lại, trong đó có các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Theo đó, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên sẽ tạo khả năng to lớn cho sự hoàn thiện từng bước con người mới, từ đó sẽ nung nấu trong lòng họ những hoài bão, khát vọng đấu tranh và xây dưng tổ quốc ngày càng giàu mạnh vì một xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”. Ngoài ra các giá trị đạo đức truyền thống cũng đóng vai trò là cơ sở để tổng kết, tìm ra những phẩm chất mới trong việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay. Chúng ta biết rằng, trong thời đại ngày nay, khi điều kiện kinh tế- xã hội thay đổi đã làm cho nhiều giá trị truyền thống cũng phải thay đổi theo cho phù hợp. Thế nhưng trong tiến trình thay đổi đó, các giá trị đạo đức truyền thống đóng một vai trò vô cùng to lớn, bởi nó là cơ sở để từ đó con người tổng kết, tìm ra những phẩm chất mới. Chương 2 Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên ở Nghệ An hiện nay - Thực trạng và giải pháp 2.1. ảnh hưởng của giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Nghệ An hiện nay Đặc điểm sinh viên Nghệ An: Nghệ An là tỉnh Bắc Trung Bộ, nằm trong toạ độ từ 18°35’ đến 20°10’ vĩ độ Bắc, từ toạ độ 103°50’25” đến 105°40’30” kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hoá, phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Tây giáp các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôlikhămxay và Hủaphăn (nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào), phía Đông giáp biển Đông. Diện tích tự nhiên của Nghệ An là 16.370km, đứng đầu cả nước. Địa hình Nghệ An dài và rộng, có cả miền núi, trung du, đồng bằng và miền biển. Vì thế, người ta vẫn ví Nghệ An là một Việt Nam thu nhỏ. Lịch sử đã chứng minh, Nghệ An là một mảnh đất địa linh nhân kiệt, không chỉ nổi tiếng với truyền thống anh dũng, kiên cường trong đấu tranh giải phóng quê hương, đất nước mà còn có bề dày truyền thống văn hóa, lịch sử. Nhưng nổi bật hơn cả vẫn là cốt cách, nếp sống riêng của con người xứ Nghệ. Đó là: lý tưởng trong tâm hồn, kiên trung trong bản chất, khắc khổ trong sinh hoạt và cứng cỏi trong giao lưu. Đặng Thai Mai từng viết: “Không có miền nào lại có bản ngã rõ rệt như vùng này. Con người ở đây, đối với tự nhiên, đối với cái đẹp của lý tưởng, tuy không bộc lộ một cách ồn ào hời hợt nhưng lại có phần suy nghĩ điềm tĩnh, sâu sắc và bền bỉ cảm động thiết tha”. Chính từ những thăng trầm của lịch sử, từ sự khắc nghiệt của thiên nhiên và khát vọng sống của những con người được coi là có “chí khí” đã tôi luyện thành một cốt cách riêng có của người Nghệ An. Từ đó hình thành nên một cộng đồng có những đặc điểm tâm lý và phong tục khác biệt. Sự khác biệt này được lưu giữ và in đậm trong cả một quá trình lịch sử lâu dài với tính đa dạng, phong phú của cái chung với cái riêng, của cái cũ và cái mới, của hoàn thiện với cái chưa hoàn thiện... Những tính cách riêng trên đã và đang được người Nghệ An, trong đó có sinh viên tỉnh nhà gìn giữ và phát huy. Cùng với truyền thống văn hoá phong phú, đa dạng, người Nghệ An còn rất tự hào về truyền thống học hành, khoa bảng của mình. Trong lịch sử, Nghệ An đã sinh ra nhiều hiền tài góp phần làm rạng danh non sông, đất nước. Tiếp nối truyền thống hiếu học bao đời của con người xứ Nghệ, hiện tại, nền giáo dục Nghệ An đã và đang có những bước phát triển đáng kể, trong đó có giáo dục đại học. Số lượng các trường đại học, cao đẳng trong tỉnh ngày càng tăng, số lượng sinh viên ngày càng lớn.Đây vừa là một thế mạnh, một lợi thế, đồng thời nó cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội cần phải quan tâm, trong đó có vấn đề xây dựng lối sống mới cho sinh viên. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Nghệ An có :2 trường đại học, gồm: Đại học Vinh trực thuộc Bộ Giáo dục Đào tạo và Đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh trực thuộc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội; có 6 trường Cao đẳng: Cao đẳng sư phạm, Cao đẳng y tế, Cao đẳng văn hoá nghệ thuật và Cao đẳng kinh tế kỹ thuật, Cao đẳng kỹ thuật Việt Hàn, Cao đẳng dạy nghề Việt Đức với tổng số sinh viên lên đến trên 30 nghìn người. Ngoài các trường đại học, cao đẳng, Nghệ An cũng có một hệ thống các trường trung cấp chuyên nghiệp như: Trung cấp kinh tế – kỹ thuật Hồng Lam, Trung cấp kỹ thuật công nghệ (Sara), Trung cấp tư thục du lịch miền Trung..... Đặc điểm nổi bật của sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng Nghệ An là hầu hết đều xuất thân từ những vùng quê nghèo của cả nước, đa dạng về thành phần, phong phú về nghề nghiệp tương lai, là lớp người năng động, sáng tạo, nhạy bén, có khát vọng vươn lên thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, có ý chí tự lực, tự cường, chủ động trong học tập, có ý thức tự trau dồi khiến thức chuyên môn, nâng cao trình độ học vấn để lập thân, lập nghiệp. Đa số sinh viên là những người sống có lý tưởng, có ước mơ và hoài bão lớn. Họ sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống hàng ngày để thực hiện ước mơ của mình. Phát huy truyền thống của quê hương Xô Viết anh hùng các thế hệ sinh viên Nghệ An đã và đang phát huy trí thông minh, sáng tạo, học tập và lao động cần cù, chịu khổ, luôn là lực lượng xung kích trong các phong trào của thanh niên tỉnh nhà. Tích cực tham gia vào các phong trào tình nguyện như: xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an toàn giao thông, tình nguyện về với đồng bào ở các vùng sâu, vùng xa trong tỉnh và các tỉnh Bắc trung bộ. Cũng như sinh viên cả nước, sinh viên Nghệ An có lòng tự trọng và ý thức dân tộc sâu sắc, có ý chí, tự lực, tự cường, cầu thị tiến bộ, giàu mơ ước và hoài bão, nhạy cảm về tình hình chính trị, có nhu cầu lớn về học tập, lao động, việc làm và các sinh hoạt văn hóa, tinh thần. Có thể khẳng định rằng ở Nghệ An đang hình thành một lớp sinh viên vững vàng về bản lĩnh chính trị, ý chí quyết đoán, biết kế thừa các giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống của quê hương, dân tộc để thành những con người mới phát triển toàn diện, là những chủ nhân không thể thiếu của tương lai đất nước. 2.1.1. Thực trạng lối sống của sinh viên Nghệ An hiện nay Trong những năm qua, với sự quan tâm của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, Trung ương Đoàn, Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam, phong trào sinh viên ở Nghệ An đã có những bước phát triển đáng kể, trong đó có sự chuyển biến về chính trị tư tưởng, lối sống.Trong Báo cáo tổng kết năm học 2008- 2009, Tỉnh đoàn Nghệ An đánh giá: đại bộ phận sinh viên trong toàn tỉnh đều có ý thức chính trị vững vàng, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đạo đức trong sáng, có lối sống lành mạnh, có tinh thần cảnh giác cao trước âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Hình ảnh sinh viên ngày càng được khẳng định, được các cấp ngành trong tỉnh đánh giá tốt. Trong 5 năm qua, cùng với cả nước, kinh tế Nghệ An liên tục có những bước tăng trưởng khá, tình hình chính trị ổn định, các hoạt động giao lưu hợp tác trong nước và quốc tế được đẩy mạnh, truyền thống văn hoá được gìn giữ và phát huy một cách phù hợp với hoàn cảnh mới. Điều đó đã tạo nên môi trường học tập ngày càng tốt hơn cho sinh viên. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên rèn luyện đạo đức, nhân cách và lối sống, chuẩn bị tốt hành trang trước khi ra trường. Nét nổi bật của sinh viên xứ Nghệ nhất là ý chí cần cù và đức tính hiếu học. Mảnh đất Nghệ An đã nghèo lại còn khắc nghiệt về tự nhiên, người Nghệ An, do vậy đã mang sẵn đức tính cần cù, vượt khó để tồn tại, phát triển và vươn lên để khẳng định mình. Tiếp nối truyền thống của cha ông, sinh viên xứ Nghệ dù ở giai đoạn nào cũng mang trong mình quyết tâm học để thoát nghèo. Họ xác định học tập là con đường tốt nhất để thay đổi cuộc sống bản thân và gia đình theo hướng tích cực hơn. Hầu hết sinh viên trong các trường cao đẳng, đại học ở Nghệ An hiện nay có quyết tâm học tập cao, tinh thần tự học, tự nghiên cứu rất lớn, khả năng tự rèn luyện và vượt khó rất đáng ghi nhận.Theo thống kê của Sở Giáo dục - Đào tạo Nghệ An, năm học 2008 -2009, số sinh viên đạt kết quả học tập và tốt nghiệp tương đối cao: Đại học Vinh có 43% sinh viên có học lực khá và giỏi, 20% đạt danh hiệu sinh viên ưu tú, sinh viên xuất sắc; Cao đẳng Sư phạm: có 37% sinh viên khá giỏi, Cao đẳng y: có 38% sinh viên có học lực khá giỏi. Với ý chí học tập và rèn luyện nghiêm túc ngay từ rất sớm nên sinh viên các trường ở Nghệ An có nhiều cơ hội tìm kiếm việc sau khi ra trường. Năm học 2007 – 2008, số sinh viên có việc làm sau khi tốt ngiệp tương đối cao so với các địa phương khác: Đại học Vinh có 64% , Đại học Sư phạm kỹ thuật có 53%, Cao đẳng Sư phạm có 57%, Cao đẳng y có 72%... Cũng như sinh viên cả nước, sinh viên Nghệ An đang sống trong môi trường thông tin đa chiều, dưới áp lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế, họ nhận thức rõ hơn về tình hình, nhiệm vụ của quê hương, đất nước trong giai đoạn hiện nay. Là lớp người nhạy bén trước những sự kiện trong nước và quốc tế nên tư tưởng đạo đức lối sống của họ cũng có những chuyển biến nhất định. Hầu hết sinh viên Nghệ An có thái độ và nhận thức chính trị đã và đang được nâng cao theo hướng tích cực. Số đông sinh viên mong muốn được đứng trong hàng ngũ của Đảng, tích cực trong các hoạt động chính trị xã hội, có tinh thần và nhiệt huyết tham gia các phong trào tình nguyện vì cộng đồng. Năm học 2008 -2009, số sinh viên được kết nạp Đảng trong các trường đại học, cao đẳng tăng so với các năm học trước (Đại học Vinh có: 75 sinh viên, Đại học Sư phạm kỹ thuật có 22 sinh viên, Cao đẳng Sư phạm có 37 sinh viên, Cao đẳng văn hoá nghệ thuật có 24 sinh viên). Điều này chứng tỏ ý thức học tập và rèn luyện của sinh viên toàn tỉnh ngày càng cao, ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp của họ ngày càng lớn. Cùng với sinh viên ở các địa phương khác, sinh viên Nghệ An hiện nay rất quan tâm tới vấn đề việc làm trước khi ra trường, có nhu cầu được thể hiện mình, được đóng góp sức lực và trí tuệ cho sự phát triển của quê hương đất nước. Theo đó, ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng của sinh viên cũng ngày càng nâng cao, điều này được thể hiện ở nhu cầu muốn có việc làm trong các cơ quan nhà nước của sinh viên Nghệ An tương đối cao. Theo kết quả điều tra tại một số trường cao đẳng, đại học ở Nghệ An khi tiến hành đề tài, cho thấy: Có: 68% sinh viên muốn được làm việc trong các cơ quan nhà nước. 12% sinh viên muốn làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài 8% sinh viên muốn tự kinh doanh sau khi ra trường. Đa số sinh viên Nghệ An có định hướng giá trị đúng đắn về cuộc sống, có thái độ ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ xã hội. Họ đã thể hiện rõ nét tính cách vốn có của con người xứ Nghệ: trân trọng sự sẻ chia, giúp đỡ lẫn nhau, đề cao sự chân thành, tình yêu thương, sống đoàn kết và trách nhiệm. Mặc dù chịu sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, nhưng đa số sinh viên Nghệ An vẫn coi trọng, giữ gìn và bảo tồn những giá trị văn hoá nói chung, giá trị đạo đức truyền thống của quê hương, đất nước. Theo kết quả điều tra lấy ý kiến của sinh viên tại 3 trường: Đại học Vinh, Cao đẳng Sư phạm, Cao đẳng văn hoá nghệ thuật về những giá trị và định hướng giá trị, cho thấy: Bảng 2.1: Những giá trị và định hướng giá trị của sinh viên Nghệ An Tỷ lệ % so với tổng số TT Giá trị xã hội Rất quan trọng Quan trọng Tương đối quan trọng Không quan trọng Không quan tâm 1 2 3 4 5 6 7 8 Sống tự do Sống có đạo đức Có học vấn cao Sống có niềm tin Sống có lý tưởng Sống có tình nghĩa Sống có lòng tự trọng Tinh thần tự lập 68 60 36 43 42 61 44 52 32 18 28 32 40 32 38 24 0 16 12 13 11 7 13 13 0 6 4 12 7 0 5 11 0 0 0 0 0 0 0 0 9 10 Sống đoàn kết Cái đẹp và cái thiện 36 45 32 34 30 8 2 13 0 0 Mặc dù phải sống trong điều kiện còn nhiều khó khăn, môi trường học tập không thuận lợi như các địa phương khác nhưng sinh viên Nghệ An vẫn nổ lực không ngừng để có được những thành tích đáng để tự hào. Cùng với thanh niên toàn tỉnh, họ đang viết tiếp lịch sử tự hào của tuổi trẻ Nghệ An bằng việc tham gia các hoạt động xã hội vì cộng đồng, các phong trào đền ơn đáp nghĩa, các hoạt động tình nguyện, hiến máu nhân đạo, đến với người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, đến với những bà mẹ Việt Nam anh hùng, những gia đình có công với cách mạng. Trong năm học 2008 -2009, đã có hơn 1000 lượt sinh viên trong toàn tỉnh tham gia hiến máu nhân đạo, trong đó, Đại học Vinh có gần 500 sinh viên, Đại học Sư phạm kỹ thuật có gần 100 sinh viên, Cao đẳng nghệ thuật có 120 sinh viên, Cao đẳng Sư phạm có gần 200 sinh viên tham gia. Bên cạnh những biểu hiện tích cực cần được khẳng định, lối sống của sinh viên Nghệ An hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm và lo ngại. Dưới sự tác động của kinh tế thị trường cộng với sự quyết tâm rèn luyện của một bộ phận sinh viên chưa cao đã làm cho bức tranh về lối sống của sinh viên tỉnh Nghệ An vẫn còn mảng tối. Còn có một bộ phận sinh viên mơ hồ về lý tưởng cách mạng, chưa gắn bó với sinh hoạt tập thể, ngại tham gia hoạt động xã hội, ngại khó, sợ khổ. Tại trường Đại học Vinh và Cao đẳng Sư phạm, khi đặt câu hỏi: Bạn có nhu cầu tham gia các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng không? cho 100 sinh viên thì có đến 17% sinh viên trả lời không muốn tham gia hoặc không quan tâm, có 13% sinh viên chưa biết sẽ làm gì sau khi ra trường. Một bộ phận sinh viên tỉnh nhà cũng chưa xác định trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội, đến trường là do bắt buộc từ phía gia đình nên ý chí không cao, chưa tích cực học tập rèn luyện. Còn có hiện tượng sinh viên thiếu trung thực trong các kỳ thi, kiểm tra, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng thích ứng với nghề nghiệp sau khi ra trường yếu, khả năng tự lập nghiệp, năng lực giao tiếp và tổ chức hoạt động còn hạn chế so với yêu cầu của thực tiễn. Một số sinh viên còn có biểu hiện lối sống thực dụng, hưởng thụ, đua đòi, xa hoa, chạy theo và tìm mọi cách để thoã mãn các nhu cầu vật chất, sống thiếu văn hoá. Vi phạm đạo đức truyền thống, thậm chí vi phạm pháp luật vẫn còn diễn ra đâu đó trong sinh viên các trường cao đẳng, đại học trong toàn tỉnh. Bảng 2.2: Đánh giá về những biểu hiện tiêu cực trong lối sống của sinh viên (Khảo sát tại Đại học Vinh và Cao Đẳng Sư phạm) Tỷ lệ % so với tổng số TT Biểu hiện tiêu cực trong lối sống Kết quả 1 2 3 4 5 6 7 8 Đi học muộn hoặc bỏ học Nghiện hút Cờ bạc, riệu chè, cắ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối Sống mới cho sinh viên Việt nam hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan