Tài liệu Luận văn Đường lối đổi mới của đại hội toàn quốc lần thứ VI: LUẬN VĂN:
Đường lối đổi mới của đại hội
toàn quốc lần thứ VI
Lời mở đầu
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội lần thứ VI của
Đảng đánh dấu một bước chuyển hướng và đổi mới quan trọng trong sự lãnh đạo
của Đảng trên mọi lĩnh vực. Trong lĩnh vực kinh tế, đó là chuyển hướng về bố trí cơ
cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, đổi mới các chính sách kinh tế và cơ chế quản lí, nhằm
khai thác mọi tiềm năng của đất nước, giải phóng năng lực sản xuất, tăng nhanh sản
phẩm xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Bước vào 5 năm này, bên cạnh những thành tựu quan trọng về phát triển sản
xuất, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật... tình hình kinh tế – xã hội nước ta đang còn
có khó khăn lớn trên nhiều mặt. Sản xuất tuy có tăng, nhưng tăng chậm so với yêu
cầu và khả năng thực tế. Một số chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm 1981 –
1985 không đạt. Hàng triệu lao động chưa có việc làm. Tài nguyên chưa được khai
thác tốt... Trong những khó khăn chung, đã...
23 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đường lối đổi mới của đại hội toàn quốc lần thứ VI, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đường lối đổi mới của đại hội
toàn quốc lần thứ VI
Lời mở đầu
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội lần thứ VI của
Đảng đánh dấu một bước chuyển hướng và đổi mới quan trọng trong sự lãnh đạo
của Đảng trên mọi lĩnh vực. Trong lĩnh vực kinh tế, đó là chuyển hướng về bố trí cơ
cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, đổi mới các chính sách kinh tế và cơ chế quản lí, nhằm
khai thác mọi tiềm năng của đất nước, giải phóng năng lực sản xuất, tăng nhanh sản
phẩm xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Bước vào 5 năm này, bên cạnh những thành tựu quan trọng về phát triển sản
xuất, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật... tình hình kinh tế – xã hội nước ta đang còn
có khó khăn lớn trên nhiều mặt. Sản xuất tuy có tăng, nhưng tăng chậm so với yêu
cầu và khả năng thực tế. Một số chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm 1981 –
1985 không đạt. Hàng triệu lao động chưa có việc làm. Tài nguyên chưa được khai
thác tốt... Trong những khó khăn chung, đã xuất hiện những nhân tố tích cực mới.
Qua thử nghiệm, tìm tòi, ở một số ngành, địa phương và cơ sở đã nảy nở những mô
hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, khai thác các khả năng để phát triển sản
xuất, khắc phục khó khăn trong đời sống. Trình độ của đông đảo cán bộ về nhận
thức và vận dụng các chủ trương, chính sách của Đảng, nắm bắt và đi sâu vào thực
tiễn được nâng lên. Hàng trăm công trình lớn, nhiều công trình vừa và nhỏ được xây
dựng trong thời gian qua, tuy có những mặt chưa hợp lí, song là những cơ sở vật
chất – kỹ thuật rất quan trọng.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng đã đánh giá những
thành tựu đạt được trong 5 năm qua, kiểm điểm những mặt yếu kém, phân tích
những sai lầm, khuyết điểm, đề ra mục tiêu và nhiệm vụ kinh tế, xã hội cho những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Báo
cáo này trình bày những phương hướng và mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế,
xã hội trong 5 năm 1986 – 1990, để chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch 5 năm 1986 –
1990.
Báo cáo chính trị đã xác định các mục tiêu chủ yếu về kinh tế, xã hội cho
những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là : sản xuất đủ tiêu dùng và có tích
luỹ; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lí nhằm phát triển sản xuất; xây dựng
và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất; tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội; bảo đảm nhu cầu
củng cố quốc phòng và an ninh, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc
đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Những quan điểm và chủ trương mới về kinh tế – xã hội do Đại hội lần này
của Đảng quyết định sẽ chỉ rõ con đường đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khó khăn
trước mắt và vững bước tiến lên.
Bài tiểu luận này xin được trình bày một số đường lối đổi mới của Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
I/ Công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng
Để thực hiện ba chương trình kinh tế lớn nói trên, tạo tiền đề đẩy mạnh công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo, cần phát triển một số
ngành công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng cần thiết phù hợp với khả năng trước
mắt. Đó là năng lượng, một số cơ sở cơ khí và nguyên vật liệu, giao thông vận tải
và thông tin bưu điện – những cơ sở vật chất kỹ thuật tối thiểu trong chặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, ngay từ đầu chúng ta
kết hợp chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, bao gồm công nghiệp nhẹ và công
nghiệp nặng, để tưng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lí.
Kinh nghiệm thực tế nhiều năm qua cho thấy, trong bước đầu công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa, vai trò của năng lượng cực kỳ quan trọng, quyết định nhịp độ
phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Trong những năm trước mắt, xuất phát từ điều
kiện tài nguyên và khả năng các mặt, chúng ta tập trung sức phát triển than, điện và
dầu khí, đồng thời tranh thủ sử dụng thêm các nguồn và dạng năng lượng khác như
khí mêtan, trấu, sức gió, năng lượng mặt trời.
Là một khâu quan trọng nhất của kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải đáng lẽ
phải đi trước một bước để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân,
nhưng nhiều năm qua, chúng ta chưa chú í đúng mức, nên việc vận chuyển hàng
hoá có nhiều khó khăn, việc đi lại của nhân dân phiền hà, trắc trở. Chúng ta phải
khắc phục sự lạc hậu trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải ưu tiên
phát triển vận tải đường thuỷ, tăng tỷ trọng vận tải đường sắt. Về giao thông, trước
mắt, chủ yếu là đầu tư khôi phục và bảo dưỡng đường sá, cầu cống, động viên khả
năng của Nhà nước và nhân dân mở mang giao thông nông thôn, đặc biệt là miền
núi và đồng bằng sông Cửu Long. Củng cố bảo đảm thông xe an toàn, xây dựng
thêm một số cầu mới. Củng cố đường sắt Hà Nội – Lào Cai, đường sắt bắc – nam,
mở rộng một số cảng, chú trọng hơn nữa nạo vét lòng sông và cửa biển.
Trong những năm qua, chúng ta đã dành nhiều vốn đầu tư để xây dựng các
công trình quan trọng về điện lực. Trong 5 năm tới, vẫn phải tiếp tục đầu tư mạnh
để tạo ra một bước chuyển biến đáng kể trong cân đối năng lượng. Đẩy mạnh thăm
dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía nam, để đến năm 1990 đạt sản lượng
dầu thô đáng kể; có phương án sử dụng tốt lượng khí khai thác được cùng với dầu.
Khởi công xây dựng nhà máy lọc dầu với công suất đợt I là 3 triệu tấn/năm. Nhanh
chóng khắc phục tình trạng phân tán của ngành cơ khí bằng cách sắp xếp, tổ chức
lại sản xuất trong cả nước trên cơ sở quy hoạch, phân công, hợp tác. Phát triển công
nghiệp nguyên liệu và vật liệu là một yêu cầu quan trọng để bảo đảm nhu cầu của
nền kinh tế quốc dân.
Về phân bón hoá học, huy động hết công suất và cải tạo một phần nhà máy
supe lân Lâm Thao, phát triển sản xuất phân lân nung chảy, phốt-pho-rit. Hoàn
thành khôi phục mỏ a-pa-tít Lào Cai và tiếp tục xây dựng nhà máy làm giàu quặng.
Tăng cường điều tra, thăm dò địa chất và khoáng sản, làm cho công tác này đáp ứng
được yêu cầu phát triển của các ngành kinh tế quốc dân.
Nâng cao chất lượng thông tin bưu điện, xây dựng tuyến vi-ba băng rộng Hà
Nội – thành phố Hồ Chí Minh, củng cố và mở rộng thông tin với nước ngoài, mạng
thông tin nội hạt của Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
II- Ba chương trình lớn : lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
Báo cáo chính trị đề ra ba chương trình kinh tế lớn : lương thực – thực phẩm,
hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Ba chương trình này liên quan chặt chẽ với nhau, là
cơ sở và tiền đề cho nhau. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng là những điều
kiện vật chất quan trọng nhất để ổn định tình hình kinh tế – xã hội và đời sống nhân
dân; xuất khẩu là một yếu tố có í nghĩa quyết định để thực hiện hai chương trình đó
và các hoạt động kinh tế khác.
1. Lương thực – thực phẩm
Trong bước đi hiện nay, nền nông nghiệp nhiệt đới nước ta chứa đựng những
tiềm năng to lớn và có vị trí cực kỳ quan trọng. Chính vì vậy, giải phóng năng lực
sản xuất, trước hết và chủ yếu là giải phóng năng lực sản xuất của hàng chục triệu
lao động với hàng triệu hécta đất đai trong nền nông nghiệp nhiệt đới này.
Trong 5 năm 1986 – 1990, chúng ta tập trung cho mục tiêu số một là sản
xuất lương thực và thực phẩm, đồng thời ra sức mở mang cây công nghiệp, nhất là
cây công nghiệp ngắn ngày, đi liền với xây dựng đồng bộ công nghiệp chế biến,
phát triển mạnh các ngành nghề, gắn lao động với đất đai, rừng, biển, nhằm khai
thác đến mức cao nhất những tiềm năng đó. Vấn đề lương thực phải được giải quyết
một cách toàn diện, chế biến đến phân phối và tiêu dùng. Gắn với việc giải quyết
lương thực, nhất thiết phải giảm mạnh tỷ lệ tăng dân số.
Những năm qua, nông nghiệp nước ta đã có chuyển biến, đạt được một số
thành tựu quan trọng, đặc biệt là sản xuất lương thực và tạo ra một số vùng chuyên
canh cây công nghiệp. Tuy nhiên sản lượng lương thực tăng không đều và chưa
vững chắc; diện tích cây công nghiệp tăng chậm, nhất là cây công nghiệp ngắn
ngày; chưa gắn việc phát triển nông, lâm, ngư nghiệp với công nghiệp chế biến; lao
động, đất đai, rừng, biển chưa được sử dụng tốt...
Hướng chủ yếu đối với lúa là thâm canh, tăng vụ và mở thêm diện tích ở
những nơi có điều kiện. Tình hình năng suất không đồng đều giữa các vùng và ngay
trong một địa phương nói lên khả năng thâm canh còn rất lớn. Vòng quay ruộng đất
hiện nay còn quá thấp chứng minh tầm quan trọng, tính bức xúc và hiệu quả của
tăng vụ. Cần xác định rằng đồng bằng sông Cửu Long là trọng điểm lúa hàng hoá
lớn nhất của cả nước; đồng bằng sông Hồng là trọng điểm sản xuất lúa của miền
Bắc, có í nghĩa quyết định đáp ứng nhu cầu của khu vực; các vùng khác cũng có
những trọng điểm lúa của mình. Nhấn mạnh cây lúa, nhưng tuyệt nhiên chúng ta
không coi nhẹ màu. Những năm gần đây, diện tích và sản lượng màu giảm sút là
một khuyết điểm cần được khắc phục. Mỗi vùng, căn cứ vào điều kiện cụ thể của
mình, cần xây dựng một cơ cấu cây màu thích hợp, bao gồm : ngô, khoai lang, sắn,
khoai tây và các cây có bột khác, trong đó chú trọng cây ngô. Đi đôi với phát triển
sản xuất, phải tổ chức tốt việc thu mua và chế biến, dùng màu phổ biến trong cơ cấu
bữa ăn.
Phấn đấu năm 1990 sản xuất 22 – 23 triệu tấn lương thực (quy thóc), bình
quân mỗi năm trong 5 năm đạt 20 – 20,5 triệu tấn, tăng 3 – 3,5 triệu tấn so với mức
bình quân hằng năm trong 5 năm trước.
Những năm qua, sâu bệnh đã gây cho sản xuất nông nghiệp không ít tổn thất.
Làm tốt công tác dự báo phát hiện sâu bệnh, có biện pháp chủ động phòng trừ tổng
hợp, kết hợp biện pháp sinh học với hoá học, là nhiệm vụ thường xuyên của các cơ
quan quản lí nông nghiệp và bà con nông dân.
Để thực hiện mục tiêu lương thực nói trên, cần áp dụng hàng loạt biện pháp
đồng bộ. Trước hết phải nói tới ruộng đất. Những năm qua, chúng ta đã để giảm sút
hàng chục vạn hécta đất lúa tốt. Phải quy hoạch hoàn chỉnh sử dụng đất đai, làm tốt
công tác quản lí ruộng đất, nhất là ở cơ sở và đối với đất lúa. Có thể nói thuỷ lợi là
biện pháp hàng đầu, cần được phát động thành phong trào quần chúng rộng khắp,
kết hợp với sự đầu tư đúng mức của nhà nước. Trong 5 năm này, hoàn thành đồng
bộ các công trình thuỷ lợi, tập trung vào những công trình phát huy ngay hiệu quả,
nhất là mở mang thuỷ lợi nhỏ để khai thác tối đa công suất của công trình lớn và
vừa đã được xây dựng. Trong các biện pháp đồng bộ, những năm tới, phân bón nổi
lên như là một yếu tố quyết định năng suất và thâm canh, một yêu cầu gay gắt mà
chúng ta phải tập trung sức giải quyết. Có chính sách khuyến khích đẩy mạnh
phong trào làm phân chuồng, phân xanh và các loại phân hữu cơ khác, bảo đảm một
phần đáng kể nhu cầu phân bón.
Thực tiễn ở nhiều vùng cho thấy cơ cấu giống và giống mới đi liền với cơ
cấu mùa vụ hợp lí góp phần quan trọng vào năng suất cây trồng và tính ổn định của
mùa màng. Vấn đề đặt ra là tổ chức cho được hệ thống giống từ trung ương đến cơ
sở.
Tuy nhiên, chương trình lương thực – thực phẩm không thể tách rời phát
triển nông nghiệp toàn diện. Ngoài những cây phục vụ nhu cầu thực phẩm nói trên,
chúng ta khuyến khích phát triển mạnh trồng cây công nghiệp, trồng rừng để khai
thác những tiềm năng to lớn của nền nông nghiệp nhiệt đới theo thế mạnh từng
vùng. Những năm tới, bằng việc đổi mới mạnh mẽ các chính sách thu mua, giá cả,
cơ chế đầu tư và cung ứng vật tư, lương thực... chúng ta ưu tiên phát triển cây công
nghiệp ngắn ngày, tập trung vào các cây lạc, đỗ tương, mía, thuốc lá, đay, cói... Chú
trọng đầu tư cho các vùng chuyên canh, kể cả hình thức tín dụng cho hợp tác xã và
kinh tế gia đình. Chúng ta còn nhiều đất trồng cây công nghiệp dài ngày như : cà
phê, chè, cao su, dừa, hồ tiêu...
Nhằm tăng chất lượng bữa ăn hằng ngày và cải tiến dần cớ cấu bữa ăn, việc
sản xuất thực phẩm cũng phải được coi trọng như sản xuất lương thực. Chúng ta có
nhiều khả năng phát triển toàn diện các nguồn thực phẩm động vật, thực vật phong
phú, đa dạng trên khắp các miền đất nước. Trước hết phải đẩy mạnh chăn nuôi, tăng
đáng kể đàn gia súc, gia cầm, chú í các loại không dùng hoặc ít dùng lương thực.
Hết sức khuyến khích chăn nuôi gia đình; khôi phục và phát triển chăn nuôi quốc
doanh và tập thể ở những nơi có điều kiện. Chính sách tạo giống cho chăn nuôi
cũng phải được coi trọng và khuyến khích đúng mức. Rau, đậu các loại, cây có dầu,
cây ăn quả là nguồn thực phẩm mà ở đâu cũng có điều kiện phát triển. Thuỷ hải sản
là một nguồn thực phẩm không những quan trọng cho nhu cầu tiêu dùng mà còn là
một nguồn hàng xuất khẩu có giá trị lớn. Đây là một tiềm năng lớn và cũng là một
khả năng thực tế.
Trong 5 năm này, phải có kế hoạch xây dựng, cải tạo một phần rừng tự nhiên
thành rừng kinh tế; bảo đảm vật tư kỹ thuật cho yêu cầu khai thác gỗ. Trong việc
khai thác, cần đề cao kỷ luật, giữ đúng quy trình kỹ thuật, có tính tới cân bằng sinh
thái, bảo vệ môi trường.
2. Hàng tiêu dùng
Phát triển sản xuất hàng tiêu dùng là một chương trình lớn, không chỉ có í
nghĩa trước mắt mà còn lâu dài và cơ bản. Đó là điều kiện để bảo đảm các nhu cầu
đời sống hằng ngày của nhân dân, giải quyết việc làm cho hàng triêu người lao
động.
ưu tiên các điều kiện vật chất để tận dụng công suất của các xí nghiệp hiện
có, nhất là các xí nghiệp lớn có năng suất, hiệu quả. Đối với các cơ sở sản xuất đã
được xây dựng nhiều năm, máy móc thiết bị đã quá cũ kỹ, hư hỏng, cần từng bước
đổi mới kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu về số lượng, chủng loại và chất lượng sản phẩm.
Để phát triển hàng tiêu dùng, điều có í nghĩa quyết định là nguyên liệu và
chính sách nguyên liệu. Phương hướng chủ yếu là tận lực khai thác các nguồn
nguyên liệu trong nước, đồng thời ưu tiên dành ngoại tệ để nhập khẩu những
nguyên liệu cần phải nhập. Đồng thời cần thấy rằng hiện nay lực lượng tiểu, thủ
công nghiệp đang sản xuất khoảng một nửa khối lượng hàng tiêu dùng và còn nhiều
khả năng thu hút hàng triệu lao động. Cần xoá bỏ ngay những chính sách, chế độ
đang gò bó lực lượng này, bao gồm hợp tác xã, tổ sản xuất, kinh tế gia đình, cá thể,
tư nhân.
Năm năm qua, sản xuất và tiêu dùng có mức phát triển, tuy nhiên còn chậm,
nhiều mặt hàng thông thường vẫn khan hiếm, chất lượng hàng tiêu dùng giảm sút đã
gây lãng phí lớn về vật tư và gây ra sự bất bình chính đáng trong nhân dân. Trong
khi đó, nhiều tiềm năng chưa được khai thác, nhất là lực lượng tiểu, thủ công
nghiệp và các nguồn nguyên liệu trong nước.
Cùng với phát triển sản xuất, phải thực hiện một chính sách tiêu dùng hợp lí,
tiết kiệm. Một mặt, chúng ta ra sức phát triển hàng tiêu dùng với chất lượng và mỹ
thuật ngày càng được nâng cao, phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của tiêu
dùng xã hội. Mặt khác, nhân dân ta, nhất là cán bộ, đảng viên cần tự giác dùng hàng
trong nước, thực hiện đúng chính sách của Đảng và Nhà nước là khuyến khích và
bảo vệ sản xuất, xác định tiêu dùng phù hợp với khả năng thực tế của nền kinh tế
hiện nay.
Các loại hàng kim khí tiêu dùng như xe đạp, quạt máy, máy khâu, đồng hồ,
lắp ráp máy thu thanh, máy thu hình... cần được sắp xếp, mở rộng sản xuất và nâng
cao chất lượng sản phẩm. Xà phòng, bột giặt là những hàng tiêu dùng không thể
thiếu, cần được bảo đảm đủ nguyên liệu cho sản xuất và quản lí chặt chẽ chất lượng.
Với phương hướng nêu trên, trong 5 năm tới, đưa nhịp độ tăng bình quân
hằng năm của sản xuất hàng tiêu dùng lên 13 – 15%. Chúng ta đặc biệt coi trọng
đẩy mạnh sản xuất vải, bảo đảm ở mức cần thiết các mặt hàng dệt khác; tăng nhanh
sản lượng giấy, bảo đảm đủ giấy viết và giấy in sách giáo khoa. Tăng sản xuất các
loại thuốc chữa bệnh thông thường; thường xuyên kiểm tra, quản lí thị trường,
nghiêm trị việc sản xuất thuốc giả. Cùng với việc bảo đảm đủ nguyên liệu cho các
nhà máy đường quốc doanh, các hợp tác xã, các huyện có điều kiện đều trồng mía
và phát triển các cơ sở chế biến nhỏ, để tự giải quyết đủ nhu cầu tại chỗ về đường,
mật các loại. Trong việc sản xuất thực phẩm, phải quản lí chặt chẽ chất lượng và
tiêu chuẩn vệ sinh.
3. Xuất khẩu
Trước hết, cần xây dựng một quy hoạch dài hạn và một kế hoạch cụ thể cho
từng thời kỳ về sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Trên cơ sở đó, có đầu tư đủ mức,
bảo đảm quỹ vật tư cần thiết cho sản xuất, chú trọng các vùng sản xuất tập trung,
các mặt hàng chủ lực. Khuyến khích thoả đáng đối với người trực tiếp sản xuất
hàng xuất khẩu, như cung ứng đủ lương thực và hàng tiêu dùng cần thiết, có giá
mua hợp lí.
Là mũi nhọn có í nghĩa quyết định đối với nhiều mục tiêu kinh tế trong 5
năm này, đồng thời cũng là khâu chủ yếu của toàn bộ các quan hệ kinh tế đối ngoại,
xuất khẩu phải trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả các ngành, các cấp; trong
thời gian tới, nhất thiết phải đạt được sự chuyển biến xứng đáng với tầm quan trọng
và khả năng thực tế của nó. Nhiệm vụ đặt ra là tăng nhanh khối lượng xuất khẩu,
đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu, khắc phục cung cách làm ăn ít hiệu quả, tình
trạng phân tán lộn xộn, gây thiệt hại cả ở thị trường trong nước lẫn nước ngoài.
Mức xuất khẩu phải tăng khoảng 70% so với 5 năm trước, dựa vào các mặt hàng
chính là nông sản và nông sản chế biến, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu, thủ công
nghiệp, thuỷ sản.
Trong 5 năm này, việc nhập khẩu phải theo hướng tạo điều kiện thực hiện
đầy đủ ba chương trình kinh tế lớn, khai thác tốt hơn tiềm năng lao động, đất đai và
công suất thiết bị hiện có. Trước yêu cầu rất lớn về nhập khẩu, phải đẩy mạnh xuất
khẩu sang cả hai khu vực xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trong việc sử dụng
ngoại tệ do xuất khẩu mang lại, ưu tiên dành phần cần thiết để đầu tư trở lại cho sản
xuất.
Để khắc phục tình trạng tranh mua, tranh bán, thiết lập trật tự, kỷ cương trong lĩnh
vực ngoại thương, cần tổ chức lại công tác xuất nhập khẩu một cách hợp lí. Chúng
ta hoan nghênh những tổ chức kinh tế của nước ngoài quan hệ trực tiếp với các tổ
chức kinh tế Việt Nam để mở rộng quy mô hợp tác, thoả mãn lợi ích của cả hai bên,
theo chính sách và luật pháp của Nhà nước ta.
Các quan hệ kinh tế đối ngoại phải thúc đẩy sự gắn bó ngày càng chặt chẽ
giữa nước ta với cộng đồng xã hội chủ nghĩa, trước hết là với Liên Xô. Chúng ta
đặc biệt chú trọng phát triển quan hệ hợp tác kinh tế, văn hoá giữa nước ta và hai
nước láng giềng anh em Lào, Cam-pu-chia, nhằm khai thác khả năng của mỗi nước
bổ sung cho nhau, làm cho mỗi nước và 3 nước ngày càng phát triển mạnh mẽ và
vững mạnh. Trong 5 năm này, thực hiện việc phối hợp kế hoạch giữa ba nước, tập
trung vào các lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu, phát triển giao thông vận tải; đồng thời tiếp tục giúp bạn về công
tác điều tra cơ bản, đào tạo cán bộ, trao đổi chuyên gia...
Đặt nền tảng của chiến lược kinh tế đối ngoại vào sự gắn bó với cộng đồng
xã hội chủ nghĩa, trước hết với Liên Xô, đồng thời chúng ta phấn đấu để có những
quan hệ ngày càng năng động hơn về kinh tế và khoa học kỹ thuật với các khu vực
khác trên thế giới. Ngoài hoạt động xuất, nhập khẩu, với những chính sách và thể
chế mới, chúng ta sẽ mở thêm quan hệ hợp tác với nhiều nước đang phát triển, với
một số nước hoặc tổ chức tư nhân trong thế giới tư bản chủ nghĩa.
Để thực hiện thắng lợi các chủ trương của Đảng về quan hệ kinh tế đối
ngoại, chúng ta í thức sâu sắc rằng làm ăn tốt, khai thác mọi khả năng ở trong nước
là tiền đề, điều kiện quyết định để mở mang quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Làm tốt những việc nêu trên là một bước chuẩn bị để trong những kế hoạch
sau, mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả của sự hợp tác quốc tế, làm cho nước ta
tham gia sâu hơn vào quá trình phân công và liên kết kinh tế xã hội chủ nghĩa, theo
hướng khai thác tốt hơn những tiềm năng của nước ta với sự hỗ trợ mạnh mẽ về vốn
và kỹ thuật của các nước anh em, bầu bạn, nhằm đẩy nhanh tiến trình công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa của nước ta và tăng thêm sức mạnh của cả cộng đồng xã hội
chủ nghĩa.
III/ Giá cả, thương nghiệp, tài chính, tiền tệ.
Trước hết, phải giảm nhịp độ tăng giá, tiến tới ổn định giá cả. Mọi biện pháp
giải quyết phải tập trung vào khâu then chốt là giảm tốc độ lạm pháp, thu hẹp mất
cân đối giữa khối lượng hàng hoá và tiền tệ lưu thông. Một mặt, giải phóng mọi
năng lực sản xuất, tập trung sức đẩy mạnh sản xuất một số mặt hàng thiết yếu đang
khan hiếm và một số mặt hàng có nguồn thu lớn cho ngân sách, đồng thời mở rộng
giao lưu hàng hoá, bãi bỏ việc ngăn sông cấm chợ, chia cắt thị trường, để tăng
nhanh khối lượng hàng hoá lưu thông. Mặt khác, Nhà nước phải quản lí chặt chẽ vật
tư, hàng hoá do kinh tế quốc doanh sản xuất và nhập khẩu, có chính sách giá và
phương thức mua bán hợp lí để năm được hàng, được tiền, điều chỉnh khối lượng
tiền trong lưu thông, tăng thu, giảm chi.
Tình hình giá cả, tài chính, tiền tệ tiếp tục biến động phức tạp là do hàng loạt
nguyên nhân mà Báo cáo chính trị đã phân tích. Tình hình này đang được khẩn
trương xử lí theo các quyết định của Đảng và Nhà nước. Cần thi hành các biện pháp
đồng bộ về bố trí sản xuất, nắm hàng, cải tạo và quản lí thị trường, về giá cả, tiền
lương, tài chính, tiền tệ.
Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phải được tăng cường về số lượng và chất
lượng, đổi mới phương thức kinh doanh, vươn lên làm chủ thị trường và giá cả. Đối
với giá bán lẻ hàng tiêu dùng, cần tích cực tạo điều kiện bán theo giá kinh doanh
thương nghiệp. Giá kinh doanh thương nghiệp được xây dựng theo nguyên tắc bảo
đảm cho xí nghiệp được xây dựng theo nguyên tắc bảo đảm cho xí nghiệp có lãi.
Tiền lương của công nhân, viên chức phải được điều chỉnh tương ứng với hệ thống
giá và mức giá đã hình thành trong thực tế. Nhà nước cần bảo đảm có đủ quỹ hàng
hoá bán bình thường cho người hưởng lương.
Thực hiện thường xuyên chế độ thanh tra tài chính, xử lí nghiêm theo pháp
luật để nhanh chóng thiết lập trật tự, kỷ cương về tài chính, phát động quần chúng
kiểm soát, giám sát để chống tệ tham nhũng, lãng phí.
Cần nhấn mạnh rằng : một nguyên nhân quan trọng của tình hình giá cả leo
thang từng tháng là lạm phát đã đến mức trầm trọng mà chúng ta phải có biện pháp
tích cực và đồng bộ để khắc phục. Trước hết là phải tăng cường quản lí tiền mặt.
Thực hiện kiểm tra, kiểm soát thường xuyên và xử lí nghiêm khắc để loại trừ tệ giữ
tiền mặt vượt mức quy định trong cơ quan va xí nghiệp. Về phần mình, Ngân hàng
phải cải tiến các hoạt động nghiệp vụ, đáp ứng kịp thời các yêu cầu hợp lí của các
cơ sở, khắc phục mọi hiện tượng cửa quyền, gây phiền hà, tiêu cực.
Nghiên cứu và ban hành chính sách tài chính quốc gia thống nhất phù hợp
với đặc điểm nước ta, giải quyết đúng đắn việc phân phối và phân phối lại thu nhập
quốc dân. Để bảo đảm được nguồn thu tài chính, Nhà nước tăng cường quản lí
thống nhất vật tư, kể cả nguồn nhập khẩu và sản xuất trong nước. Cải tổ hệ thống
cung ứng vật tư, có biện pháp kiên quyết chống thất thoát vật tư và hàng hoá. Các
đơn vị quốc doanh không được tuỳ tiện mua bán các loại vật tư do Nhà nước thống
nhất quản lí. Cấm tư nhân buôn bán vật tư Nhà nước.
Chuyển biến được tình hình giá cả, tài chính, tiền tệ là một vấn đề phức tạp
và khó khăn. Nhưng đây là một đòi hỏi vô cùng bức xúc của tình hình. Các cấp, các
ngành đều phải ra sức khôi phục kỷ cương, nêu cao í thức tổ chức kỷ luật, chấp
hành đúng những quy định của Đảng và Nhà nước.
Quản lí chặt chẽ vốn tín dụng, ngân hàng chỉ cho vay thêm vốn lưu động sau
khi đã kiểm tra mục đích kinh doanh và thật sự thiếu vốn. Việc cho vay đầu tư xây
dựng cơ bản chỉ thực hiện trên cơ sở nguồn vốn đã huy động được, có vật tư bảo
đảm và có hiệu quả rõ rệt. Mở rộng hoạt động của hợp tác xã tín dụng, để huy động
nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân phục vụ phát triển sản xuất và lưu thông. Đẩy
mạnh huy động tiền tiết kiệm trên cơ sở bảo hiểm giá trị tiền gửi bằng hiện vật và
có lãi suất thích hợp. Ngân hàng mở rộng thanh toán bằng chuyển khoản với
phương thức thuận lợi để phục vụ tốt cho sản xuất và lưu thông. Trên cơ sở đó, lập
lại vị trí của Ngân hàng là trung tâm thanh toán.
IV/ khoa học kỹ thuật.
Trong những năm qua, hoạt động khoa học và kỹ thuật đã có những thành
tựu mới đáng kể, nhất là trong nông nghiệp, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu bức
thiết của nền kinh tế, hiệu quả hoạt động khoa học và kỹ thuật chưa cao. Đội ngũ
cán bộ khoa học kỹ thuật đã có bước trưởng thành, nhưng tổ chức còn phân tán,
chưa thật sự gắn hoạt động khoa học, kỹ thuật với thực tiễn sản xuất.
Phát huy vai trò của các ngành khoa học xã hội tham gia đắc lực vào công
tác lí luận của Đảng, góp phần xây dựng Cương lĩnh về cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta trong thời kỳ quá độ, làm sáng tỏ các vấn đề lí luận về vận dụng các quy
luật kinh tế vào điều kiện cụ thể của nước ta.
Sắp xếp lại và kiện toàn các cơ quan nghiên cứu, sáp nhập những viện
nghiên cứu có chức năng trùng lặp hoặc hoạt động kém hiệu quả, kiện toàn một
cách đồng bộ một số viện đầu ngành quan trọng. Hình thành một số trung tâm khoa
học – kỹ thuật tổng hợp ở một số vùng kinh tế quan trọng như đồng bằng sông Cửu
Long, Tây Nguyên...
Thực hiện các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện và giải quyết quyền lợi
thích đáng để phát huy trí tuệ và tài năng của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật hiện
có, được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau, đều là những tri thức xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới cơ chế quản lí kinh tế và quản lí khoa học kỹ thuật là vấn đề có í
nghĩa quyết định trong việc đưa nhanh tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất và
đời sống. Trong khi tiếp tục hoàn thiện phương thức hoạt động theo chương trình,
cần mở rộng phương thức hợp đồng với những hình thức và phương pháp đa dạng,
linh hoạt, nhằm kết hợp các tổ chức kinh tế và các cơ quan khoa học, phát huy
quyền chủ động của các tổ chức đó dưới sự hướng dẫn của một kế hoạch thống
nhất. Cơ chế và chính sách quản lí của chúng ta phải làm cho các tổ chức kinh tế,
đặc biệt là cơ sở sản xuất đòi hỏi ứng dụng những thành tựu kho a học và tiến bộ kỹ
thuật, đồng thời các tổ chức đó phải đáp ứng những yêu cầu cần thiết của hoạt động
khoa học và kỹ thuật.
Khoa học, kỹ thuật là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Trong
những năm tới, phải vận dụng khoa học xã hội. Trong những năm tới, phải vận
dụng khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật trong việc nghiên cứu
chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, trong việc xác định các chủ trương, chính sách
trong tổ chức quản lí kinh tế và xã hội. Đặc biệt cần tập trung lực lượng khoa học
kỹ thuật của cả nước nghiên cứu và nhanh chóng áp dụng các thành tựu khoa học,
kỹ thuật phục vụ ba chương trình lớn lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng
xuất khẩu. Tham gia nghiêm cứu các chương trình tổng hợp tiến bộ khoa học – kỹ
thuật của các nước thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế, nhằm tận dụng những
thành tựu mới về khoa học, kỹ thuật, để giải quyết tốt hơn những nhiệm vụ cấp bách
trước mắt. Tiếp tục mở rộng và có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả của công
tác hợp tác khoa học, kỹ thuật với nước ngoài.
Các cấp uỷ đảng và chính quyền, từ trung ương đến cơ sở phải coi trọng lãnh
đạo công tác khoa học và kỹ thuật, đề xuất yêu cầu, có đầu tư và bảo đảm các điều
kiện cần thiết cho hoạt động khoa học, kỹ thuật. Chú trọng đẩy mạnh phong trào
quần chúng, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lí hoá sản xuất.
V/ các vấn đề xã hội và đời sống nhân dân.
Trước mắt, chúng ta quan tâm không chỉ các vấn đề sản xuất và kinh tế mà
mỗi người chúng ta còn day dứt hằng ngày bởi nhiều vấn đề xã hội gay gắt. Vì thế,
hơn bao giờ hết, chúng ta phải luôn kết hợp chặt chẽ kinh tế với xã hội, xã hội với
kinh tế. Mục tiêu ổn định tình hình, giải phóng năng lực sản xuất không chỉ là phát
triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật mới mà còn là giải quyết các vấn
đề xã hội, từ công việc làm đến đời sống vật chất và văn hoá, bồi dưỡng sức dân,
xây dựng các quan hệ xã hội tốt đẹp, lối sống lành mạnh, thực hiện công bằng xã
hội.
Tình hình kinh tế – xã hội của đất nước đòi hỏi giảm tỷ lệ phát triển dân số từ
2,2% hiện nay xuống còn 1,7% vào năm 1990. Phải thực hiện đồng bộ các biện
pháp như : đầu tư xây dựng các cơ sở dịch vụ y tế xã, các trung tâm hướng dẫn sinh
đẻ ở huyện, đồng thời sửa đổi và ban hành các chính sách có liên quan. Phải gây
thành í thức xã hội rộng khắp về thực hiện kế hoạch hoá gia đình.
Trong những năm tới, tạo thêm việc làm, sử dụng tốt lực lượng lao động xã
hội, kế hoạch hoá phát triển dân số là những yêu cầu kinh tế – xã hội cực kỳ quan
trọng. Nhiệm vụ đặt ra là giảm cho được tỷ lệ tăng dân số, giải quyết công việc làm
với mức cố gắng lớn nhất, thực hiện phân bố lại lao động, gắn lao động với khai
thác đất đai, phát triển ngành, nghề, vận động định canh, định cư.
Trên cơ sở sắp xếp và tổ chức lại sản xuất và công tác, bố trí cho những
người đang làm việc có đủ việc làm, có điều kiện làm việc với năng suất cao. Chế
độ tiền lương, các thang lương phải được sửa đổi và bổ sung. ở các thành phố của
nước ta, đang còn hàng chục vạn người lao động chưa có việc làm, trong số đó,
nhiều người có trình độ văn hoá, có hiểu biết kỹ thuật. Chúng ta phải phát huy thế
mạnh của họ, hướng vào khu vực sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch
vụ và gia công hàng xuất khẩu, phát triển kinh tế gia đình. Số lao động tăng thêm ở
nông thôn trước hết được sử dụng vào việc đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, khai
hoang, trồng rừng, nuôi cá và phát triển ngành, nghề. Nhà nước khuyến khích phát
triển kinh tế gia đình, kinh tế vườn theo quy hoạch, thực hiện các chính sách khuyến
khích như cho vay vốn, cung cấp giống và tạo các điều kiện thuận lợi về thị trường.
Từ mức bình quân đầu người quá thấp hiện nay, phấn đấu để tăng dần vải
mặc, phù hợp với tính chất lao động của từng ngành, nghề và điều kiện khí hậu từng
vùng, chú í các vùng dân tộc. Thuốc chữa bệnh đang là một vấn đề xã hội gay gắt.
Năm năm tới, phải tăng quỹ thuốc thông thường, thuốc kháng sinh, thuốc chống
dịch, thanh toán hầu hết các bệnh sốt rét, bạch hầu, bại liệt, ho gà, sởi... Cải thiện
điều kiện vệ sinh ở các thành phố như giải quyết vấn đề cống rãnh, bãi rác, cấp
nước sinh hoạt... ở nông thôn chú í xây dựng hố xí, giếng nước, nhà tắm hợp vệ
sinh,... Đẩy mạnh phong trào luyện tập thể dục, thể thao trong mọi lứa tuổi, nhất là
thanh niên, học sinh.
Nhà ở cũng đang là một vấn đề cấp bách ở một số vùng. Ngoài số vốn tập
trung của Nhà nước, cần huy động vốn tự có của các cơ sở sản xuất và của nhân dân
nhằm giảm bớt khó khăn về nhà ở, nhất là tại thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh... Trong 5 năm 1986 – 1990, chú trọng xây thêm nhà ở cho Hà Nội, các khu
công nghiệp, nông trường, lâm trường, thanh toán một phần quan trọng tình trạng
nhà ổ chuột. Dầu thắp sáng là một nhu cầu không thể để thiếu kéo dài như hiện nay
ở các vùng nông thôn, nhất là miền núi, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.
Tình hình phân bố lao động và dân cư không đồng đều giữa các vùng đang
đặt ra cho chúng ta một nhiệm vụ to lớn là phân bố lại lao động và dân cư trên quy
mô từng vùng và cả nước. Như báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương
Đảng đã xác định, ổn định và cải thiện đời sống là mục tiêu hàng đầu của những
năm tới. Nhiệm vụ hết sức quan trọng của tất cả các ngành, các cấp là bảo đảm
được mức cần thiết và ổn định của nhân dân về lương thực và thực phẩm chủ yếu
như cá, thịt, rau, nước chấm, dầu thực vật... Cơ cấu bữa ăn phải được cải tiến phù
hợp với điều kiện từng vùng, tăng thêm chất đạm, chất béo.
Để cải thiện điều kiện đi lại, cần tăng thêm phương tiện vận chuyển công
cộng ở các thành phố, chủ yếu là xe buít, xe lam. Đẩy mạnh sản xuất xe đạp và phụ
tùng với chất lượng tốt hơn, dành nhiều xe đạp và phụ tùng với chất lượng tốt hơn,
dành nhiều xe đạp bán cho nhân dân nông thôn.
Phát triển các hoạt động văn hoá, thông tin đang là một nhu cầu lớn trong đời
sống nhân dân. Phải tăng nhiều lượng xuất bản sách và một số loại báo hằng ngày
quan trọng, bảo đảm đủ sách giáo khoa cho học sinh.
Sự nghiệp văn hoá, giáo dục phải được tiếp tục phát triển và nâng cao chất
lượng. Hiện nay, còn một số trẻ em ở lứa tuổi đi học phổ thông cơ sở chưa đến
trường; vì vậy bảo đảm cho trẻ em đến tuổi được đi học là trách nhiệm chung của
ngành giáo dục, của các cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương tạo điều kiện về
trường sở, giáo viên, phương tiện giảng dạy và học tập. Phát triển giáo dục mầm
non, chú trọng chất lượng nuôi, dạy trẻ em. Phấn đấu hoàn thành về cơ bản phổ cập
giáo dục cấp 1, hạ tỷ lệ lưu ban, bỏ học. Tiếp tục thực hiện cải cách giáo dục với nội
dung thiết thực, phù hợp với điều kiện thực tế về dạy và học. Hệ thống các trường
dạy nghề, trung cấp, cao đẳng, đại học phải sớm được sắp xếp lại cho hợp lí, để tạo
điều kiện củng cố và nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học.
VI/ Điều chỉnh phương hướng và cơ cấu đầu tư
Tuy nhiên, đối với chúng ta hiện nay, vấn đề không chỉ là tạo ra nguồn vốn
mà điều đặc biệt quan trọng là sử dụng và quản lí tốt nguồn vốn để có hiệu quả lớn
nhất. Tình hình đầu tư xây dựng cơ bản trong những năm qua đã cho ta nhiều bài
học sâu sắc. Trước mắt, để thực hiện chủ trương điều chỉnh kinh tế, bố trí vốn tập
trung cho ba chương trình kinh tế lớn, nhất thiết không thể dàn đều.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước ta, yêu cầu về vốn
đầu tư luôn luôn được đặt ra một cách gay gắt. Những năm tới, một mặt, phải tranh
thủ các nguồn vốn bên ngoài với mức cao nhất; mặt khác, ở trong nước, bằng những
chủ trương và chính sách mới, chúng ta phát huy hơn nữa mọi khả năng về nguồn
vốn của tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở, của các thành phần kinh tế.
Nguồn vốn ấy phải được khai thác từ những thế mạnh hiện có của nền kinh tế là
nông, lâm, ngư nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp hiện chiếm khoảng 60% tổng sản
phẩm xã hội. Trong tất cả các ngành, các lĩnh vực, lao động được giải phóng trở
thành người chủ thật sự của quá trình sản xuất kinh doanh, sẽ vươn lên với sức sáng
tạo mới.
Trong nông nghiệp, phải tập trung cho sản xuất lương thực, thực phẩm là
trọng tâm số một, bảo đảm nhu cầu đầu tư cho thuỷ lợi, cho bảo quản và chế biến
lương thực, thực phẩm, đầu tư cho cây công nghiệp ngắn ngày.
Trong công nghiệp hàng tiêu dùng, chú trọng đầu tư chiều sâu và đồng bộ
hoá để tăng mức sử dụng công suât, xây dựng thêm một số xí nghiệp chế biến
đường, chè, dầu dừa...
Trong công nghiệp nặng, ưu tiên đầu tư cho những công trình có khả năng
huy động vào sản xuất trong kỳ kế hoạch như các công trình năng lượng, phân bón,
cơ khí...
Trong giao thông vận tải, coi trọng việc củng cố đường sắt bắc – nam, các
đoạn đường sắt đi vào các khu công nghiệp, các cảng sông, biển.
Trong lĩnh vực văn hoá, xã hội, trước hết đầu tư để duy trì những cơ sở hiện
có, và xây dựng mới ở những nơi thật cần thiết.
Trong những năm tới, một mặt, chúng ta phấn đấu có tĩch luỹ và tăng dần
tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế để tăng thêm vốn đầu tư; mặt khác, hết sức tranh thủ
và sử dụng có hiệu quả vốn bên ngoài, sớm chấm dứt việc dùng vốn bên ngoài và
vốn khấu hao cơ bản vào tiêu dùng.
VII/ Đổi mới cơ chế kế hoạch hoá
Nội dung kế hoạch phải thể hiện đúng các quan điểm của Đảng về bố trí cơ
cấu kinh tế, giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác các tiềm năng của
đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế, để phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa,
trước hết, quan trọng hơn cả là bảo đảm thực hiện ba chương trình kinh tế lớn.
Để bảo đảm hực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, xã hội trong 5 năm này,
cần đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, coi đây là một động lực mạnh mẽ làm chuyển
biến tình hình kinh tế – xã hội, thúc đẩy và tạo điều kiện cho các nhân tố mới phát
triển. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương đã xác định phương hướng
và nội dung chủ yếu về đổi mới cơ chế quản lí kinh tế. Theo phương hướng đó,
công tác kế hoạch hoá phải được đổi mới cả về nội dung và phương pháp.
Một nhiệm vụ rất quan trọng là xây dựng tốt kế hoạch 5 năm 1986 – 1990,
kế hoạch hằng năm và triển khai ngay việc nghiên cứu chiến lược kinh tế, xã hội,
tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất và kế hoạch dài hạn. Nhằm
khắc phục một bước rõ rệt bệnh tập trung quan liêu bao cấp trong kế hoạch hoá, cơ
chế kế hoạch hoá phải được xây dựng theo phương thức hạch toán kinh doanh xã
hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Kế hoạch địa phương (tỉnh – thành phố, quận – huyện) là kế hoạch toàn diện
về kinh tế, xã hội trên địa bàn lãnh thổ, bao gồm phần kế hoạch của các cơ sở do địa
phương trực tiếp quản lí và một bộ phận kế hoạch của các cơ sở trung ương trên địa
bàn lãnh thổ.
Kế hoạch cấp trung ương quyết định phương hướng chủ yếu, cơ cấu kinh tế,
cơ cấu đầu tư, các mục tiêu then chốt, các công trình trọng điểm, các sản phẩm chủ
yếu trực tiếp chi phối các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân.
Đối với các loạt vật tư kĩ thuật, Uỷ ban kế hoạch nhà nước cùng các bộ lập
cân đối trình Hội đồng bộ trưởng xét duyệt và giao nhiệm vụ cho cơ quan cung ứng,
cho các bộ và các địa phương. Việc sử dụng vật tư phải đúng mục tiêu kế hoạch,
không được dùng vật tư Nhà nước cung ứng để liên kết, bán lấy chênh lệch hoặc
dùng vào mục đích khác. Các nguồn vốn đầu tư đều phải được phản ánh trong kế
hoạch và được cân đối với nguồn vật tư và lực lượng xây dựng; vốn đầu tư của ngân
sách trung ương sẽ tập trung cho các công trình trọng điểm và các mục tiêu lớn của
nền kinh tế quốc dân.
Về quan hệ giữa trung ương và địa phương, cần thực hiện một cơ chế quản lí
thể hiện rõ sự gắn bó chặt chẽ giữa trách nhiệm và quyền hạn, nghĩa vụ và lợi ích.
Kế hoạch của các đơn vị cơ sở phải toàn diện, bao gồm các mặt sản xuất, kĩ thuật,
tài chính và xã hội trên cơ sở quyền chủ động sản xuất, kinh doanh, quyền tự chủ tài
chính của cơ sở phù hợp với Nghị quyết 306 (dự thảo) của Bộ chính trị.
Chúng ta khẳng định rằng : các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp,
căn cứ vào điều kiện kinh tế, xã hội của mình cũng như theo phương hướng, quy
hoạch và kế hoạch của cả nước, của tỉnh, và huyện. Đối với các hợp tác xã tiểu thủ
công nghiệp, Nhà nước thông báo những yêu cầu về sản phẩm chủ yếu để cơ sở có
căn cứ xây dựng kế hoạch, tìm khách hàng kí hợp đồng. Điều quan trọng là phải
thực hiện các chính sách về cung ứng vật tư, nguyên liệu, năng lượng, lương thực...
có tác dụng khuyến khích rõ rệt việc sản xuất hàng tiêu dùneg theo quy hoạch và
phân công sản xuất. Đối với những sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế do cơ sở quốc
doanh sản xuất, Nhà nước giao nhiệm vụ sản xuất và phân phối cho các cơ sở sản
xuất và tiêu thụ. Các cơ sở này dựa vào chỉ tiêu kế hoạch tiến hành kí hợp đồng
thực hiện.
Về xuất nhập khẩu, cần xác định danh mục và số lượng những mặt hàng
thống nhất xuất khẩu, để bảo đảm các cam kế quốc tế, coi đó là chỉ tiêu pháp lệnh
Nhà nước. Trung ương bảo đảm cân đối các điều kiện để các ngành, các địa phương
và cơ sở thực hiện kế hoạch sản xuất và giao hàng xuất khẩu. Kế hoạch xuất khẩu
cần được cân đối ở từng cấp với những nguồn vật chất cần thiết tuỳ theo khả năng
và điều kiện ở từng cấp.
Kết luận
ở trên là những phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội
trong 5 năm 1986 – 1990. Những phương hướng, mục tiêu đó thể hiện các quan
điểm của Đảng về chuyển hướng cơ cấu kinh tế và điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, về
cải tạo xã hội chủ nghĩa và đổi mới cơ chế quản lí phù hợp với đặc điểm nước ta
trong chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Các mục tiêu đề ra đã được tính toán một bước, dựa trên các khả năng trong
nước và ngoài nước đã được xác định cho đến nay. Đồng thời, cũng đã nêu ra
những biện pháp tích cực nhằm khai thác và phát huy mọi khả năng hiện có và sẽ
được tăng thêm trong 5 năm, chủ yếu là sắp xếp lại sản xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu
tư, vận dụng các thành tựu khoa học, kĩ thuật, sư dụng đúng đắn các thành phần
kinh tế, thực hành tiết kiệm triệt để, đổi mới cơ chế quản lí,... Trong các mục tiêu đã
có sự kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.
Thực hiện được những phương hướng, mục tiêu nói trên, đến năm 1990, nền
kinh tế và xã hội nước ta sẽ có những chuyển biến đáng kể. Hằng năm thu nhập
quốc dân sản xuất sẽ tăng bình quân 6 – 7%. Với 22 – 23 triệu tấn lương thực năm
1990, không những tạm đủ cho tiêu dùng, mà bắt đầu có dự trữ. Với sự phát triển
của than, điện và dầu khí, cân đối năng lượng sẽ được cải thiện một bước. Hàng tiêu
dùng đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của nhân dân, chủ yếu là những mặt
hàng thông thường sản xuất bằng nguyên liệu trong nước.
Trong 5 năm 1986 – 1990, mặc dù số dân sẽ tăng thêm khoảng 6 triệu người,
nhưng một số mức tiêu dùng về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu
tính bình quân đầu người vẫn tăng hơn những năm 1981 – 1985. Cùng với các biện
pháp tích cực trên lĩnh vực phân phối, lưu thông được thực hiện có kết quả, đời
sống nhân dân lao động sẽ được ổn định dần và có phần cải thiện. Điều quan trọng
là công bằng xã được thiết lập từng bước, trật tự, kỷ cương ngày càng được bảo
đảm.
Đó là những mục tiêu tuy còn thấp so với yêu cầu và phải phấn dấu rất mạnh
mới đạt được, song là những mục tiêu nhất thiết phải đạt. Chỉ có như vậy, mới thực
hiện được mục tiêu tổng quát là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế – xã hội, chuẩn
bị tiền đề cho bước phát triển đi lên trong những năm sau.
Tài liệu tham khảo :
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
Nhà xuất bản sự thật 1987.
2. Góp phần tìm hiểu lịch sử Đảng cộng sản Việt nam.
pgs-pts nguyễn trọng phúc.
lời mở đầu (3)
I/ Công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng (4)
II- Ba chương trình lớn : lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu (5)
III/ Giá cả, thương nghiệp, tài chính, tiền tệ (9)
IV/ khoa học kỹ thuật (10)
V/ các vấn đề xã hội và đời sống nhân dân (12)
VI/ Điều chỉnh phương hướng và cơ cấu đầu tư (13)
VII/ Đổi mới cơ chế kế hoạch hoá. (14)
VIII/ kết luận (16)
tài liệu tham khảo (17)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Đường lối đổi mới của đại hội toàn quốc lần thứ VI.pdf