Tài liệu Luận văn Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá: LUẬN VĂN:
Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam quang vinh, luôn nêu cao bản chất cách mạng, là giai cấp lónh đạo
thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đó chỉ rừ:
Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn
gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên
phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đó
là người lónh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam
[36, tr.9].
Trải qua trên 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta lónh đạo,
giai cấp công nhân nước ta đang có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số
lượng, đa dạng về cơ ...
103 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam quang vinh, luôn nêu cao bản chất cách mạng, là giai cấp lónh đạo
thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đó chỉ rừ:
Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn
gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên
phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đó
là người lónh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam
[36, tr.9].
Trải qua trên 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta lónh đạo,
giai cấp công nhân nước ta đang có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số
lượng, đa dạng về cơ cấu, thực sự là lực lượng to lớn, không ngừng khẳng định và củng
cố bản chất giai cấp, nêu cao ý thức, trỏch nhiệm, giữ vững vị trớ lónh đạo, là lực lượng
đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy vậy, khi bước vào thời kỳ cách mạng mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, giai cấp công nhân đang đứng trước
những vấn đề bất cập: trước hết, cơ cấu, trỡnh độ học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề
nghiệp cũn thấp. í thức tổ chức kỷ luật lao động cũn nhiều hạn chế nờn chưa đáp ứng đũi
hỏi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đúng như Hội nghị Trung ương sáu khoá X
đã nhận định:
Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ
cấu và trỡnh độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ
thuật, cán bộ quản lý giỏi, cụng nhõn lành nghề; tỏc phong cụng nghiệp và kỷ luật lao
động cũn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có
hệ thống [15, tr.45].
Để tiếp tục làm trũn sứ mệnh lịch sử vẻ vang, lónh đạo thắng lợi sự nghiệp cách
mạng của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mới, xứng đáng là lực lượng cách mạng tiên
phong của toàn dân tộc thỡ việc xây dựng đội ngũ công nhân lớn mạnh cả về số lượng và
chất lượng là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Nằm ở phía tây nam của đất nước, thuộc đồng bằng sông Cửu Long tỉnh Kiên
Giang có diện tích tự nhiên 629.905ha, hơn 200 km đường bờ biển với diện tích vùng
biển là 63.000km2, có đường biên giới trên bộ với Campuchia, biên giới trên biển với
Campuchia, Thái lan, Malaysia; hơn nữa, Kiên Giang là địa phương có nguồn tài nguyên
- khoáng sản phong phú chủ yếu là các loại mỏ đá vôi vì vậy có tiềm năng to lớn để phát
triển mạnh nông nghiệp và nhiều ngành công nghiệp nhất là công nghiệp sản xuất vật liệu
xây dựng, sửa chữa và đóng mới tàu thuyền, công nghiệp chế biến thuỷ sản… cũng như
các ngành nghề dịch vụ - du lịch.
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lónh đạo, kinh tế trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đó cú những chuyển biến theo hướng tích
cực; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó, đội
ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang đó cú sự tăng nhanh về số lượng và chất lượng, là lực
lượng có vai trũ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xó hội của tỉnh.
Tuy nhiên, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đội ngũ công nhân tỉnh
Kiên Giang cũn hạn chế về nhiều mặt: trỡnh độ văn hoá, chuyên môn, tay nghề cũn thấp;
tỡnh trạng thừa lao động giản đơn, thiếu lao động có trỡnh độ chuyên môn cao, tay nghề
giỏi; toàn tỉnh lao động qua đào tạo nghề mới đạt 13%; lũng say mờ nghề nghiệp, ý thức
tổ chức, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp cũn yếu. Tỷ lệ đảng viên, đoàn viên
công đoàn, đoàn viên thanh niên trong công nhân cũn thấp, nhất là khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh; chưa phát huy vai trũ nũng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức nên chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh Kiên Giang .
Từ những vấn đề nêu trên việc nghiên cứu đề tài: “Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên
Giang trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” cú ý nghĩa về mặt lý luận và
thực tiễn gúp phần nõng cao chất lượng đội ngũ công nhân nhằm đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
2. Tỡnh hỡnh nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây ở Việt Nam, vấn đề giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch
sử của nó đó thu hỳt được quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và vấn đề này đã
được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Tiêu biểu có các công trình:
* Các văn bản của Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII
(1994): Về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X
(2008): Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
* Một số cụng trỡnh đó in thành sỏch:
- Viện công nhân và công đoàn - Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (2001): Xu
hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb
Lao động, Hà Nội.
- PGS, TS. Dương Xuân Ngọc (2004): Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- PGS, TS. Nguyễn Đăng Thành (2007), Góp phần xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam từ thực trạng công nhân Thành phố Hồ Chí Minh. Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
- Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (2007), Tăng cường sự lónh đạo của Đảng
đối với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập kinh tế quốc tế. Nxb Lao động, Hà Nội.
- PGS, TS. Tạ Ngọc Tấn. GS, TS. Trương Giang Long. Ths. Trần Văn Lợi (2008),
Thực trạng đời sống văn hoá - tinh thần của công nhân ở vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam và vấn đề đặt ra. Nxb công an nhân dân, Hà Nội.
* Các bài báo khoa học:
- PGS, TS. Phan Thanh Khôi (2006), Đại hội X của Đảng với vấn đề liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Tạp chí Lao động và
công đoàn, số 370 tháng 12 (kỳ 2), tr 4-5-35.
- TS. Dương Văn Sao (2007), Xõy dựng, phỏt huy vai trũ giai cấp cụng nhõn,
nhõn tố quyết định thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tạp chí Lao động và công đoàn, số 376 (kỳ 2), tr 2-3-35.
* Các luận văn, luận án:
- Nguyễn Văn Năm (1995), Cụng nhõn Hải Phũng trong cụng cuộc đổi mới những
vấn đề đặt ra và phương hướng giải quyết. Luận văn thạc sĩ triết học, chuyên ngành chủ
nghĩa xó hội khoa học.
- Trần Ngọc Sơn (2001), Sự phỏt triển của giai cấp cụng nhõn Việt Nam và vai trũ
của nú trong sự nghiệp cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hóa đất nước. Luận án tiến sĩ triết học,
chuyờn ngành chủ nghĩa xó hội khoa học.
- Phạm Hồng Hải (2002), Xây dựng đội ngũ công nhân Đồng Nai đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Luận văn thạc sĩ triết học, chuyên ngành chủ
nghĩa xó hội khoa học.
- Nguyễn Thị Hường (2005), Đội ngũ cụng nhõn Thỏi Nguyờn với quỏ trỡnh cụng
nghiệp hoỏ, hiện đại hoá, Luận văn thạc sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xó hội khoa
học.
Kết quả nổi bật của các công trình nghiên cứu nêu trên đây thể hiện ở các nội dung
như sau:
- Đi sâu phân tích khái niệm giai cấp công nhân; những đặc trưng, vai trũ và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng, nhất là trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Thực trạng và xu hướng biến đổi cơ cấu giai cấp công nhân Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội.
- Một số chủ trương, biện pháp cơ bản và cấp bách nhằm xây dựng giai cấp công
nhân ngang tầm nhiệm vụ mới.
Mặc dù vậy, cho đến nay, vấn đề công nhân vẫn cũn nhiều vấn đề cần được tiếp
tục triển khai nghiên cứu, làm rừ: khẳng định giai cấp công nhân vừa là chủ thể của nền
sản xuất công nghiệp đồng thời cũng là sản phẩm của nền sản xuất này nhưng môĩ một
tỉnh, thành phố đều có các điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xó hội riêng, khác biệt với
các tỉnh, thành phố khác nên đặc điểm đội ngũ công nhân ở mỗi địa phương là không
giống nhau nhưng trên thực tế sự khác biệt giữa đội ngũ công nhân tại các địa phương
chưa được làm rừ; chỉ mới nêu được những đặc trưng cơ bản của đội ngũ công nhân nói
chung mà chưa chỉ ra được đặc trưng, nét đặc thù đội ngũ công nhân ở từng ngành nghề,
từng tỉnh, địa phương, đặc biệt là đội ngũ công nhân mới hỡnh thành tại các tỉnh đang thực
hiện quá trình công nghiệp hóa mạnh mẽ và các giải pháp xây dựng đội ngũ công nhân vẫn
dừng lại ở những giải pháp mang tính phương hướng chung, chưa đưa ra được những giải
pháp đột phá phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng địa phương, từng ngành nghề cụ thể.
Chính vì vậy, việc triển khai đề tài: “Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” sẽ góp một phần khắc phục những hạn chế
nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở khái quát về giai cấp công nhân và quá trỡnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá tỉnh Kiên Giang, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang, luận
văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Kiên
Giang trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh nhà.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rừ đặc điểm, số lượng, chất lượng, vai trò, những nhân tố tác động và những
vấn đề đặt ra đối với đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Đề xuất một số phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội
ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó đặt trọng tâm vào đội ngũ những công nhân trực tiếp
sản xuất và tham gia phục vụ trong các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng về giai cấp công nhân và công nghiệp hóa, hiện đại
hoá. Đồng thời, luận văn có kế thừa và sử dụng kết quả nghiờn cứu của một số cụng
trỡnh khoa học cú liờn quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như là
phương pháp luận chung.
Ngoài ra, luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp cụ thể khác như: khảo sát, điều
tra xó hội học, thống kờ, phõn tớch- tổng hợp... để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Khẳng định đặc điểm nổi bật của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang là có quá
trỡnh ra đời sớm nhưng tính chất lao động công nghiệp vẫn đang trong quá trỡnh mới
hỡnh thành, và đội ngũ công nhân của tỉnh chủ yếu là lao động phổ thông sản xuất trong
lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác, chế biến thuỷ, hải sản là cơ sở làm rừ
thực trạng và vai trũ của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hoá.
- Nhấn mạnh việc giáo dục, đào tạo nghề thông qua việc liên doanh, liên kết giữa
các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp của tỉnh và của trung ương là một trong các giải pháp
chủ yếu nhằm từng bước xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
giảng dạy, học tập ở trường chính trị, các cơ quan, tổ chức làm công tác công đoàn trong
tỉnh Kiên Giang. Đồng thời là cơ sở cho việc hoạch định chính sách, đề ra kế hoạch, giải
pháp xây dựng đội ngũ công nhân trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 5 tiết.
Chương 1
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TỈNH KIÊN GIANG
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ GIAI CẤP CễNG NHÂN VÀ QUÁ TRèNH CễNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TỈNH KIÊN GIANG
1.1.1. Về khái niệm giai cấp công nhân
Trong từ điển tiếng Việt thuật ngữ công nhân được hiểu là những người lao động
chân tay làm việc ăn lương [49, tr.202]. Đây là cách hiểu khái quát, phù hợp với các quan
niệm thường ngày của người dân trong xó hội mà chưa phải là một quan niệm khoa học.
Bởi lẽ, quan niệm này có hạn chế là chưa nêu bật được bản chất, nguồn gốc ra đời giai
cấp công nhân, chưa phân biệt sự đồng nhất và khác biệt giữa giai cấp cụng nhõn trong
xó hội tư bản và trong xó hội xó hội chủ nghĩa. Hơn nữa, nếu quan niệm công nhân chỉ là
những người lao động chân tay để phân biệt với những người trí thức vốn là tầng lớp
những người làm nghề lao động trí óc phức tạp, sáng tạo, phát triển và truyền bá văn hoá
thỡ cũng chưa thật sự đúng bởi người công nhân giờ đây không phải chí có lao động chân
tay mà đó lao động bằng máy móc, đồng thời họ cũng là những người công nhân được
“trí thức hoá”, có trí tuệ.
Từ thực tiễn lịch sử cho thấy quan niệm của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác -
Lênin về giai cấp công nhân vẫn là những quan niệm khách quan , khoa học và đúng đắn,
bởi bản thân các ông không chỉ là người đó sống và làm việc trong xó hội tư bản chủ
nghĩa mà cũn là những người đó dành trọn cuộc đời để nghiên cứu về bản chất, nguồn
gốc ra đời, các xu hướng vận động phát triển của hiện tượng xó hội phức tạp này cũng
như đó phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người thủ tiêu giai cấp tư
sản và xây dựng thành cụng chủ nghĩa xó hội, chủ nghĩa cộng sản.
Trong rất nhiều tỏc phẩm của mỡnh, C.Mỏc và Ph.Ăngghen đó xem xột khỏi niệm
giai cấp cụng nhõn trờn tất cả cỏc khía cạnh, các dấu hiệu đặc trưng và các thuộc tính bản
chất nhất của nó. Ngay từ năm 1845, khi bắt tay vào nghiên cứu giai cấp công nhân trong
tác phẩm “Gia đỡnh thần thỏnh” C.Mỏc đó đặt câu hỏi:
Vấn đề không phải ở chỗ hiện nay người vô sản nào đó, thậm chí toàn bộ
giai cấp vô sản, coi cái gì là mục đích của mình. Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô
sản thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản
buộc phải làm gì về mặt lịch sử. Mục đích của nó và nhiệm vụ lịch sử của nó được
tình hình sinh hoạt của bản thân nó cũng như toàn bộ tổ chức của xã hội tư sản
hiện đại, chỉ ra từ trước một cách rõ rệt nhất và không thể cối cãi được [28,
tr.56].
Xác định đúng giai cấp vô sản là gỡ và nhiệm vụ lịch sử của giai cấp đó do điều
kiện khách quan như tỡnh hỡnh sinh hoạt, cũng như toàn bộ tổ chức của xó hội tư sản
hiện đại là đóng góp to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Thực vậy trong cỏc tỏc phẩm của mỡnh, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn luôn gắn
khái niệm giai cấp công nhân trong từng bối cảnh lịch sử cụ thể. Các ông đã dùng nhiều
thuật ngữ đồng nghĩa để chỉ giai cấp công nhân như: “giai cấp vô sản”, “giai cấp công
nhân”, “giai cấp công nhân đại công nghiệp”, “giai cấp công nhân hiện đại”. Đồng thời,
các ông đều đề cập đến mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và nền công nghiệp hiện
đại, khẳng định giai cấp công nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của nền sản xuất công
nghiệp hiện đại, không ngừng lớn mạnh về số lượng, chất lượng, cơ cấu gắn với sự phát
triển của nền sản xuất hiện đại, mang tính chất xã hội hoá rộng lớn.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, nói đến giai cấp công nhân là nói đến một cộng đồng
người chứ không phải là một cá nhân nào; hơn nữa, đề cập đến giai cấp công nhân không
phải là khu biệt nó mà phải xem xét trong mối quan hệ với lực lượng sản xuất xó hội, tức
là xác định vị trí của giai cấp công nhân trong lực lượng sản xuất. Giai cấp công
nhân, theo các ông là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành
công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xó hội hoỏ, quốc tế
hoỏ cao. Đây cũng là tiêu chí cơ bản phân biệt người công nhân hiện đại với người
thợ thủ công thời trung cổ hay người thợ trong công trường thủ công. C.Mác viết:
“Trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người công nhân sử dụng công
cụ của mỡnh, cũn trong cụng xưởng thỡ người công nhân phải phục tùng máy móc”
[32, tr.605]. Như vậy, nói đến giai cấp công nhân là nói đến những tập đoàn người
bao gồm những công nhân công xưởng, là sản phẩm của nền đại công nghiệp và phát
triển cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng:
“Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công
nghiệp, cũn giai cấp vụ sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [28,
tr.610] hay “công nhân là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc
vậy…Công nhân Anh là đứa con đầu lũng của nền công nghiệp hiện đại…” [31,
tr.11].
Như vậy, giai cấp công nhân ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển
của đại công nghiệp. Chính vỡ thế, giai cấp cụng nhõn là hiện thõn của lực lượng sản
xuất tiên tiến, hiện đại, và mang trong mỡnh những đặc trưng riêng có mà không một giai
tầng nào có được đó là tinh thần cách mạng triệt để, ý thức tổ chức kỷ luật, tỡnh đoàn kết
giai cấp quốc tế vô sảnMặt khác, khi giai cấp công nhân chưa giành được chính quyền
thỡ thõn phận của họ là thõn phận của những người làm thuê. Điều này đó diễn ra
trong thế kỷ XIX khi giai cấp công nhân - giai cấp những người làm thuê, do không
có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động, làm thuê cho nhà tư bản và bị nhà tư bản
bóc lột giá trị thặng dư. Chính vỡ vậy, C.Mỏc và Ph.Ăngghen đó gọi giai cấp cụng
nhõn là giai cấp vụ sản. Và chớnh điều này khiến cho giai cấp công nhân trở thành
giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản: Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên giai
cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện
là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng
thêm tư bản - cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mỡnh để
kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ
món hàng nào khác; vỡ thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự
lờn xuống của thị trường [30, tr.605].
Phát triển học thuyết mới của C.Mác và Ph.Ăngghen trong thời đại mới, thời đại
đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản - thời đại chủ nghĩa xó hội hiện thực. Lờnin đó
bổ sung, phỏt triển những thuộc tớnh mới của giai cấp công nhân. Theo Ông, giai cấp
cụng nhõn: “Là giai cấp thống trị về chớnh trị, giai cấp lónh đạo toàn xó hội trong cuộc
đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xó hội mới, trong toàn bộ cuộc
đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Xu hướng phát triển của giai cấp vô sản là đi
tới chỗ tự thủ tiêu mỡnh với tư cách là giai cấp vô sản” [21, tr.34].
C.Mác và Ph.Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã viết:
Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có
giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy
tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô
sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp [30. tr.610].
Về sau, trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta”, C.Mác tiếp tục khẳng định:
“giai cấp vô sản là một giai cấp cách mạng so với giai cấp tư sản, bởi vì bản thân nó, tuy
lớn lên trên miếng đất của đại công nghiệp, nhưng lại muốn làm cho nền sản xuất trút bỏ
các tính chất tư bản chủ nghĩa mà giai cấp tư sản đang cố duy trì vĩnh viễn [32, tr.38].
Vì vậy, giai cấp công nhân là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ,
hiện đại, đại biểu cho một phương thức sản xuất tiên tiến.
Như vậy là, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, giai cấp thực sự
cách mạng, có khả năng tổ chức, lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản, cách mạng xã hội chủ
nghĩa để thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa trên
phạm vi từng nước và trên phạm vi toàn thế giới không phải là ý muốn chủ quan, một sự
áp đặt khiên cưỡng mà do những điều kiện khách quan từ địa vị kinh tế - xã hội của giai
cấp công nhân gắn với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại, mang tính chất xã
hội hoá quy định.
Thực tế là, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng mạnh mẽ thì
mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa lực l-
ượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá rộng lớn với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản ngày cang diễn ra gay gắt. Việc chạy theo lợi nhuận bằng mọi
giá, với mọi thủ đoạn bóc lột công nhân đã dẫn đến kết cục là: “giai cấp tư sản không
những đã rèn vũ khí để giết nó, nó còn sinh ra những người sử dụng vũ khí ấy - những
người công nhân hiện đại, những người vô sản” [30, tr.695]
Sức thuyết phục trong việc luận giải bản chất, nguồn gốc và sứ mệnh lịch sử toàn
thế giới của giai cấp công nhân của C.Mác và Ph.Ăngghen thể hiện ở chỗ các ông luôn
gắn giai cấp vô sản - giai cấp công nhân “trên quy mô của lịch sử thế giới”. Trong tác
phẩm Hệ tư tưởng Đức, hai ông đã từng nêu rõ vấn đề này: “Như vậy là giai cấp vô sản
chỉ có thể tồn tại trên quy mô của lịch sử thế giới, cũng như chủ nghĩa cộng sản, tức là
hoạt động của giai cấp vô sản, hoàn toàn chỉ có thể tồn tại được với tư cách là một tồn tại
“có tính lịch sử thế giới” [29, tr.51].
Vận dụng sáng tạo, phát triển sáng tạo học thuyết Mác trong điều kiện mới,
V.I.Lênin tiếp tục phân tích và khẳng định “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân”, rằng “giai cấp công nhân đại biểu cho phương thức sản xuất tiên
tiến nhất” [20, tr.430].
Mặt khác, quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân và sứ mệnh
lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân còn được phân tích, luận giải trong mối quan
hệ giữa giai cấp công nhân với Đảng Cộng sản- là điều kiện chủ quan để giai cấp công
nhân có thể thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trước hết từ quan hệ lợi
ích. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nờu rừ vấn đề này:
Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với
các đảng công nhân khác.
Họ tuyệt nhiên không có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai
cấp vô sản.
Họ không đặt ra những nguyên tắc riêng biệt nhằm khuôn phong trào vô
sản theo những nguyên tắc ấy [30, tr.614].
Từ đó đã chỉ rõ: “về mặt thực tiễn, những người vô sản là bộ phận kiên quyết nhất
trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở
chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản” [30,
tr.614].
Như vậy, trong các tác phẩm của mình C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin tuỳ từng
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể cũn sử dụng một số hỡnh thức diễn đạt khác như: “lao
động làm thuê”, “giai cấp xó hội hoàn toàn chỉ sống dựa vào bán sức lao động của
mỡnh”, “giai cấp của những người hoàn toàn không có của”, “giai cấp công nhân làm
thuê thế kỷ XIX” để biểu đạt khái niệm giai cấp công nhân.
Cũng trong tỏc phẩm của mỡnh, C.Mác, Ph.Ăngghen đó phân biệt:
Những người công nhân đứng máy vốn là những người có trách nhiệm
trông coi máy phát động, nghĩa là cho nó ăn than, dầu, và những người giúp
việc hầu hết là trẻ em cho những công nhân cơ khí đó. Trên một mức độ nhiều
hay ít, tất cả những feeders (những người chỉ nạp nguyên liệu cho máy móc)
đều là những người giúp việc. Bên cạnh những loại thợ chính đó cũn cú những
người, với một số lượng không đáng kể, làm công việc kiểm tra toàn bộ máy
móc và thường xuyên sửa chữa máy móc như kỹ sư, thợ máy, thợ mộc… Đó là
lớp công nhân cao cấp, một phần có tri thức khoa học, một phần có tính thủ
công, đứng ngoài giới công nhân công xưởng và chỉ được kết hợp với những
công nhân này thôi. Sự phân công lao động đó có tính chất thuần tuý cụng
nghệ [28, tr.602].
Từ thực tiễn hoạt động trong phong trào cộng sản các ông đó hiểu rừ hơn ai hết xu
hướng vận động biến đổi của phong trào công nhân tất yếu dẫn đến có sự đổi thay trong
một bộ phận công nhân. Đó là cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều những người công
nhân cách mạng thỡ cũng đó xuất hiện một bộ phận cụng nhõn do yếu kộm trong quỏ
trỡnh tu dưỡng phấn đấu mà bị thoái hóa, biến chất nên bị khuất phục và trở thành công
cụ của giai cấp tư sản để phá hoại phong trào công nhân từ bên trong, mưu toan kỡm hóm
và khuụn cuộc đấu tranh của giai cấp cụng nhõn trong trật tự của “chủ nghĩa cụng liờn”
vỡ mục tiờu kinh tế và lợi ớch tầm thường do hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản chi phối.
Những phần tử “ vô sản” này C.Mác và Ph.Ăngghen gọi là “công nhân quý tộc”. Đây là
lý do giải thớch tại sao trong các tác phẩm của mình C.Mác và Ph.Ăngghen đó sử dụng
những hàm nghĩa khỏc nhau khi cùng phản ánh thuật ngữ “giai cấp vô sản”; trong đó,
“cụng nhõn quý tộc” và tầng lớp vụ sản lưu manh không cũn là bộ phận của giai cấp cụng
nhõn nữa mà, hoặc đó trở thành là tầng lớp cặn bó của xó hội, hoặc là một bộ phận của
giai cấp tư sản phản động để nhằm phân biệt với bản chất cỏch mạng của giai cấp cụng
nhõn gắn với vai trũ, sứ mệnh lịch sử của nú.
Như vậy, dựa trên hai tiêu chí cơ bản là 1) dựa vào vị trí vai trũ người công nhân
trong lực lượng sản xuất xó hội; 2) vị trớ người công nhân trong quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, C.Mác, Ph.Ăngghen đó phân định giai cấp công nhân với các giai tầng xó hội
khỏc, đồng thời sử dụng khá nhiều cách gọi, cách diễn đạt khác nhau tuỳ từng hoàn cảnh
lịch sử cụ thể để chỉ cùng một đối tượng, đó là giai cấp vô sản, giai cấp công nhân.
Ngày nay mặc dù thế giới có nhiều đổi thay, cơ cấu giai cấp xó hội của giai cấp
công nhân cũng vậy cũng có sự biến đổi, số lượng người công nhân lao động có trí tuệ
ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu giai cấp công nhân đặc biệt ở các quốc gia
công nghiệp phát triển. Hơn nữa, ngày nay chủ nghĩa tư bản do nắm và làm chủ được
công nghệ sản xuất hiện đại nên đó tạo nờn được những thành tựu to lớn trong sản xuất,
và cũng để điều tiết các mâu thuẫn trong xó hội bản thõn chủ nghĩa tư bản cũng đó tự
điều chỉnh để có thể thích nghi hơn với các cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ những mâu
thuẫn vốn có của nó nên thực hiện cổ phần hoá, người công nhõn vỡ vậy cũng có cổ phần
trong doanh nghiệp, đời sống luôn được cải thiện không ngừng nhưng khụng vỡ thế
những mõu thuẫn vốn cú của CNTB mất đi trái lại vấn cũn đó. Và những cuộc khủng
khoảng vẫn là bản chất của chế độ xó hội này mà hiện nay chúng ta đang chứng kiến sự
khủng hoảng toàn cầu của CNTB trên qui mô toàn thế giới bắt nguồn từ khủng hoảng tài
chính, nhà đất ở nước Mỹ. Chính vỡ vậy, những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin về giai cấp công nhân đến nay vẫn cũn nguyờn giỏ trị. Những quan điểm đó là
cơ sở, phương pháp luận khoa học để nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại trong điều
kiện lịch sử hiện nay.
Ở nước ta, các nhà khoa học cũng đó kế thừa quan niệm của các nhà kinh điển và
đưa ra một số quan niệm về giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay.
Trước hết, tác giả Bùi Đỡnh Bụn quan niệm về giai cấp cụng nhõn như sau:
Giai cấp công nhân hiện đại là một cộng đồng người lao động hỡnh thành
và phỏt triển cựng với cỏch mạng cụng nghiệp, với nhịp độ phát triển của lực
lượng sản xuất hiện đại có tính chất xó hội húa ngày càng cao, là lực lượng sản
xuất cơ bản, tiên tiến trong các hoạt động công nghiệp, trực tiếp sản xuất của
cải vật chất và cải tạo các quan hệ xó hội, là động lực chính của tiến trỡnh lịch
sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xó hội [3, tr.15].
Với quan niệm này tác giả đó nờu rừ cụng nhõn là sản phẩm và là chủ thể của nền
sản xuất cụng nghiệp, đó là lực lượng sản xuất cơ bản tạo ra của cải vật chất, là động lực
chủ yếu của tiến trỡnh lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xó hội.
Gần giống với quan niệm này, các tác giả trong giỏo trỡnh Chủ nghĩa xó hội khoa
học quan niệm:
Giai cấp công nhân là giai cấp những người lao động được hỡnh thành và
phỏt triển gắn liền với nền sản xuất cụng nghiệp ngày càng hiện đại- trỡnh độ
xó hội hoỏ và quốc tế hoá ngày càng cao; là đại biểu của lực lượng sản xuất tiên
tiến, quyết định nhất đối với sự tồn tại và phát triển của xó hội trong thời đại ngày
nay; là giai cấp duy nhất cú sứ mệnh lịch sử lónh đạo và tổ chức quá trỡnh cỏch
mạng xó hội chủ nghĩa, xõy dựng chủ nghĩa xó hội, chủ nghĩa cộng sản [52,
tr.60].
Rừ ràng, cỏc quan niệm về giai cấp cụng nhõn nờu trờn đây tuy ít nhiều có khác
nhau nhưng phần nào đó phản ỏnh được những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân
là lực lượng lao động hỡnh thành và phát triển gắn với sản xuất công nghiệp, khoa học kỹ
thuật và cụng nghệ cao, cú vai trũ to lớn trong nền sản xuất xó hội, và là một trong những
động lực chủ yếu trong quỏ trỡnh chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xó hội.
Đó là do lập trường giai cấp, thái độ chính trị, trỡnh độ nhân thức và phương pháp tiếp
cận khác nhau mà dẫn đến có các quan niệm không giống nhau về vấn đề này. Nhưng
quan niệm đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc nhất vẫn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về giai cấp công nhân.
Về giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp cụng nhõn Việt Nam là một bộ phận của giai cấp cụng nhõn thế giới. Vỡ
vậy, giai cấp cụng nhõn nước ta có đầy đủ những đặc trưng cơ bản của giai cấp công
nhân nói chung, đồng thời, có những nét đặc thù riêng có do hoàn cảnh lịch sử đất nước
Việt Nam quy định.
Thực vậy, xột về thời gian lịch sử thỡ giai cấp cụng nhõn Việt Nam ra đời gắn liền
với việc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, tức là cũng chỉ mới hỡnh thành và phỏt
triển từ đầu thế kỷ 20 trở lại đây, và đội ngũ công nhân buổi đầu ra đời chủ yếu cũng chỉ
phục vụ cho cuộc sống, sinh hoạt và công việc khai thác thuộc địa của thực dân, đó là các
ngành công nghiệp khai thác mỏ, đồn điền cao su, điện...do vậy giai cấp công nhân Việt
Nam chưa có thâm niên lâu đời như đội ngũ công nhân tại các quốc gia công nghiệp
khác. Mặt khác, do bị bóc lột tận xương tủy nên ngay từ khi ra đời và sau đó được Đảng
giác ngộ công nhân Việt Nam sớm nêu cao bản chất là lực lượng tiền phong trong mọi
hoạt động cách mạng, thực hiện thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc và hiện nay đang
cùng với mọi lực lượng xó hội khỏc tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH.
Về định nghĩa giai cấp công nhân Việt Nam cho đến nay cũng đó có khá nhiều
cụng trỡnh đề cập đến, tiêu biểu là: “Đổi mới chính sách xó hội đối với công nhân và thợ
thủ công” của Trung tõm nghiờn cứu thụng tin lý luận, Tổng liờn đoàn lao động Việt
Nam, 1995; “Một số vấn đề về giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam” của Giáo sư
Văn Tạo, 1997, trong đó các tác giả đều nhấn mạnh đến đặc điểm giai cấp công nhân
Việt Nam là con đẻ của nền sản xuất công nghiệp.
Gần đây văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X
cũng đưa ra quan niệm về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là:
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xó hội to lớn, đang phát
triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương
trong các loại hỡnh sản xuất kinh doanh và dịch vụ cụng nghiệp, hoặc sản xuất
kinh doanh và dịch vụ cú tớnh chất cụng nghiệp [15, tr.43].
Rừ ràng, đối với một vấn đề phức tạp như giai cấp công nhân thỡ việc cú nhiều
quan niệm khỏc nhau cũng là hết sức cần thiết, một mặt, nó phản ánh đúng sự quan tõm
chỳ ý của cả xó hội; mặt khác, đó là do cách tiếp cận, trỡnh độ nhận thức của các đối
tượng khác nhau là không giống nhau. Nhưng theo chúng tôi quan niệm trong văn kiện
Hội nghị Trung ương sáu Đại hội Đảng X là tương đối đầy đủ vỡ đó phản ỏnh được các
đặc điểm tỡnh hỡnh giai cấp cụng nhõn ở nước ta hiện nay cũng như đó nờu được bản
chất của thuật ngữ này: được ra đời và phát triển cùng với sản xuất công nghiệp, là sản
phẩm của công nghiệp và là chủ thể của nền sản xuất công nghiệp; nói cách khác, nói
đến công nhân là nói đến sản xuất công nghiệp, và nói đến sản xuất công nghiệp là nói
đến công nhân.
1.1.2.Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nhỡn lại lịch sử hỡnh thành CNXH hiện thực chỳng ta thấy hầu hết cỏc quốc gia
tiến hành cỏch mạng XHCN đều có nền kinh tế ở trỡnh độ phát triển thấp, chưa đạt trỡnh
độ CNTB phát triển. Ngay như nước Nga khi tiến hành xây dựng CNXH cũng vẫn ở
trỡnh độ rất lạc hậu, lại phải chịu nhiều hậu quả do chiến tranh tàn phá. Trong khi đó,
CNXH là một chế độ xó hội cú nền kinh tế, kỹ thuật ở trỡnh độ cao dựa trên cơ sở vật
chất là nền công nghiệp lớn hiện đại, có tính chất xó hội hoỏ sản xuất cao, trỡnh độ khoa
học, công nghệ hiện đại được hỡnh thành một cỏch cú kế hoạch và thống trị trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dõn. Đúng như V.I.Lênin đó nhận định: “chủ nghĩa cộng sản là chính
quyền xô viết cộng với điện khí hoá toàn quốc… Chỉ khi nào nước ta đó điện khí hoá, chỉ
khi nào công nghiệp, nôngn ghiệp và vận tải đó đứng vững trên cơ sở kỹ thuật của đại
công nghiệp hiện đại, thỡ lỳc đó, chúng ta mới có thể đạt được thắng lợi hoàn toàn” [23,
tr.195]; đồng thời “ cơ sở kinh tế duy nhất có thể có được của CNXH là nền đại công
nghiệp” [24, tr.60]. Chớnh vỡ vậy, cụng nghiệp hoỏ là quỏ trỡnh mang tớnh quy luật của
cỏc nước quá độ lên chủ nghĩa xó hội từ nền sản xuất nhỏ, tiểu, thủ công lạc hậu.
Đối với nước ta, một nước có nền kinh tế kém phát triển- tiểu nông lạc hậu-
quá độ lên chủ nghĩa xó hội “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa thỡ vấn đề đặt ra là phải
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xó hội, đảm bảo cho “CNXH có thể
phát triển trên cơ sở của chính mỡnh”. Chớnh vỡ vậy, cụng nghiệp húa, hiện đại hóa
đó được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xó hội.
Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960), Đảng ta đó xỏc định nhưng
nội dung cơ bản của công nghiệp hóa là: Thực hiện cụng nghiệp hoỏ xó hội chủ nghĩa
bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng đồng thời phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ. Văn kiện Đại hội nờu rừ:
Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công
nghiệp hóa xó hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng.
Trong nền kinh tế quốc dân, công nghiệp và nông nghiệp là hai bộ phận
chủ yếu quan hệ mật thiết với nhau: công nghiệp, trước hết là công nghiệp
nặng, giữ vai trũ chủ đạo, và nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp.
Vỡ vậy, chủ trương của Đảng ta về công nghiệp hóa xó hội chủ nghĩa ở miền
Bắc là: xõy dựng một nền kinh tế xó hội chủ nghĩa cõn đối và hiện đại kết hợp
công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc
hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại [49].
Đại hội IV, V, VI của Đảng đó tiếp tục khẳng định, cụ thể hóa từng bước
nội dung CNH; trong đó đáng lưu ý là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986)
đó đánh dấu bước chuyển hướng chiến lược về công nghiệp hóa từ chỗ “ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng” sang “lấy nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm”. Từ đó đến nay, việc nhận thức và
cách thức thực hiện công nghiệp hóa từng bước phù hợp với tỡnh hỡnh cụ thể của
đất nước. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VII đó xỏc định một bước cơ bản nội dung công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên
tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học -
công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao[9, tr. 65].
Như vậy, về bản chất công nghiệp hóa ở nước ta là quỏ trỡnh trang bị và trang bị lại
công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân; công nghiệp hóa không chỉ liên
quan đến phát triển công nghiệp mà là quá trỡnh bao trựm tất cả cỏc ngành, cỏc lĩnh vực
hoạt động của một nước; quá trỡnh cụng nghiệp húa trong bất kỳ giai đoạn nào cũng đều
vừa là quá trỡnh kinh tế - kỹ thuật vừa là quỏ trỡnh kinh tế - xó hội.
Hơn nữa, công nghiệp hóa cũng chính là quỏ trỡnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xó
hội theo hướng phát triển mạnh công nghiệp, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong cơ
cấu kinh tế và cơ cấu lao động, áp dụng rộng rói với hiệu quả cao những tiến bộ khoa
học, cụng nghệ mới, hiện đại, làm nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển nhanh, vững
chắc của toàn bộ nền kinh tế - xó hội.
Trong bối cảnh hiện nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Bởi lẽ,
hiện đại hóa là quá trỡnh chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xó hội từ chỗ theo những quy trỡnh cụng nghệ thủ
cụng là chớnh sang sử dụng một cỏch phổ biến những quy trỡnh cụng nghệ, phương tiện
và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tạo
ra năng suất lao động, hiệu quả và trỡnh độ văn minh kinh tế - xó hội cao. Điều này cũng lý
giải tại sao nếu CNH khụng gắn liền với hiện đại hoá thỡ Việt Nam khú trỏnh khỏi tỡnh
trạng sẽ là bói rỏc thải cụng nghiệp của cỏc quốc gia cụng nghiệp phỏt triển, và việc tụt hậu
ngày càng xa so với các quốc gia phát triển sẽ là điều hiện thực.
Rừ ràng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là hai quỏ trỡnh khỏc nhau, nhưng lại đan
xen, lồng ghép, bổ sung tạo nên sự phát triển toàn diện cả về kinh tế và xó hội.
Việt Nam là quốc gia đang phát triển, có lợi thế của các quốc gia đi sau, nếu chúng
ta biết học tập kinh nghiệm của các quốc gia đi trước như Nhật Bản, Hàn quốc, tranh thủ
được lợi thế này và có quan hệ thân thiện trên cơ sở “đôi bên cùng có lợi” với các đối tác
nước ngoài thỡ hoàn toàn cú thể cho phộp “đi tắt đón đầu”, đi ngay vào công nghệ hiện
đại mà không cần các bước công nghiệp hoá tuần tự vừa mất nhiều thời gian, công sức
vừa tốn kém tiền bạc như vốn đây một thời chúng ta đó quan niệm truyền thống giản đơn,
máy móc rằng việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá chỉ có thể từ việc tích luỹ từ
nội bộ nền kinh tế cũng như chỉ có thể dựa vào sự hỗ trợ quớ bỏu từ cỏc quốc gia xó hội
chủ nghĩa anh em.
Lẽ dĩ nhiên, đẩy mạnh CNH, HĐH chúng ta không thể đánh đổi bằng mọi giá,
không thể chỉ chạy theo số lượng đất nước có bao nhiêu khu công nghiệp, có bao nhiêu
dự án đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, số vốn đầu tư trực tiếp FDI là bao nhiêu, mà
phải trên cơ sở thực hiện đúng đắn, nghiêm ngặt các nguyên tắc: giữ vững độc lập tự chủ
đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn
dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo; lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; khoa học và
công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; lấy hiệu quả kinh tế - xó hội
làm tiờu chuẩn cơ bản và kết hợp kinh tế với quốc phũng, an ninh sẽ mở đường cho
những tư tưởng sáng tạo, thúc đẩy những hành động tích cực, tạo môi trường thuận lợi,
những tiền đề thúc đẩy thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng và nhân lên sức mạnh
của các nguồn lực, trong đó nguồn lực con người là quyết định, để phỏt triển kinh tế, dõn
chủ húa xó hội, thực hiện việc gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xó hội, bảo
vệ và cải tạo mụi trường sinh thái. Chính quá trỡnh cụng nghiệp húa, hiện đại hóa sẽ làm
thay đổi tư duy, trí tuệ, tư chất, nhân cách con người, kích thích tính năng động sáng tạo
và tạo cho con người khả năng thích ứng cao và ngày càng tự giác hơn với môi trường.
Quá trỡnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ tạo ra tiền đề, điều kiện, mở ra
triển vọng và đặt ra yêu cầu cho việc xây dựng giai cấp công nhân phát triển toàn diện về
mọi mặt, cả về số lượng và chất lượng bởi vỡ giai cấp cụng nhõn khụng chỉ là sản phẩm
và thành quả mà cũn là lực lượng chính của quá trỡnh cụng nghiờp hoỏ, hiện đại hoá.
Như vậy, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh toàn diện không có con đường
nào khác ngoài việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi lẽ, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là cơ sở, điều kiện, và là môi trường để phát triển công nhân; ngược lại, sự
phát triển lớn mạnh của giai cấp công nhân lại làm cho quỏ trỡnh cụng nghiệp hoá diễn ra
mạnh mẽ hơn. Không có sự lớn mạnh của giai cấp công nhân thỡ khụng cú thắng lợi của sự
nghiệp cụng nghiệp húa, hiện đại hóa. Điều này không chỉ đúng trên bỡnh diện quốc gia dân
tộc mà ngay từng tỉnh, từng địa phương, trong đó có tỉnh Kiên Giang cũng vậy.
1.2. ĐẶC ĐIỂM, SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG VÀ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TỈNH KIÊN GIANG TRONG SỰ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang khụng chỉ là chủ thể của quỏ trỡnh cụng nghiệp
hoỏ, hiện đại hoá mà cũn là sản phẩm của chớnh quỏ trỡnh này; khụng những vậy, họ cũn là
sản phẩm của hoàn cảnh, chịu sự tỏc động, chi phối của các điều kiện tự nhiên, kinh tế xó hội
của đất nước và của tỉnh. Vỡ vậy, chỉ cú thể hiểu rừ được đội ngũ này từ đó có giải pháp phát
huy vai trũ của họ khi chỳng ta làm rừ cỏc đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xó hội
của tỉnh.
1.2.1. Về điều kiện tự nhiên, tỡnh hỡnh kinh tế - xó hội tỉnh Kiờn Giang
* Về điều kiện tự nhiên tỉnh Kiên Giang
Kiên Giang là vùng đất tận cùng ở phía Tây Nam của Tổ quốc. Phía Đông và
Đông Nam giáp với tỉnh An Giang và Cần Thơ, phía Nam giáp tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu,
phía Tây Nam giáp vịnh Thái Lan, phía Bắc giáp vương quốc Campuchia. Kiên Giang có
14 đơn vị hành chính cấp huyện, thị: Thành phố Rạch Giá, thị Xó Hà Tiờn, huyện Kiờn
Lương, huyện Hũn Đất, huyện Tân Hiệp, huyện Châu Thành, huyện Giồng Riềng, huyện
Gũ Quao, huyện An Biờn, huyện An Minh, huyện Vĩnh Thuận, huyện Phỳ Quốc, huyện
Kiên Hải và huyện U Minh Thượng.
Kiên Giang có diện tích tự nhiên 6.269 km
2
, dân số gần 1,7 triệu người. Trong đó
dân tộc Kinh: 84,41%; Khmer: 12,23%; Hoa: 2,97%. Dân số của tỉnh phân bố không đều,
thường tập trung ở ven trục lộ giao thông, kênh rạch, sụng ngũi và một số đảo. Theo kế
hoạch dân số, phấn đấu hạ tỷ lệ sinh hàng năm từ 0,5-0,6‰ giai đoạn 2001-2005 và giảm
0,4‰ giai đoạn 2006-2010 thỡ qui mụ dõn số toàn tỉnh đến 2005 là 1.689.745 người và
đến năm 2010 hơn 1.834.000 người [50].
Với diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 629.905 ha, trong đó đất nông nghiệp
411.974 ha chiếm 65,72% đất tự nhiên, riêng đất lúa 317.019 ha chiếm 76,95% đất nông
nghiệp, bỡnh quõn một hộ cú hơn 1 ha đất trồng lúa, đất lâm nghiệp có 120.027ha chiếm
19,15% diện tích đất tự nhiên màu mỡ rất thích hợp với các cây công nghiệp như: đậu
phộng (lạc), đậu nành (đỗ tương), khóm (dứa), mía và nhiều loại cây ăn quả hứa hẹn cho
ngành chế biến có nhiều thuận lợi về nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, qui mô
diện tích và sản lượng thu hoạch đủ để đáp ứng cho nhu cầu phát triển công nghiệp chế
biến nông sản của tỉnh như: chế biến gạo, chế biến đường, chế biến khóm, các loại cây ăn
trái khác.
Với bờ biển dài 200km cú nhiều bói biển đẹp, núi và hang động và năm quần đảo
gồm hơn 140 đảo lớn nhỏ. Hệ sinh thái biển Kiên Giang là một trong ba vùng thuộc khu
dự trữ sinh quyển thế giới do UNESCO bỡnh chọn. Ngoài ra, Kiờn Giang cũn cú nhiều
thắng cảnh và di tớch lịch sử nổi tiếng như: Hũn Chụng, Hũn Trẹm, Hũn Phụ Tử, nỳi Mo
So, bói biển Mũi Nai,Thạch Động, Lăng Mạc Cửu, Đông Hồ, Hũn Đất, rừng U Minh,
đảo Phú Quốc… Kiên Giang cũn hướng tới phát triển du lịch sinh thái vùng U Minh lịch
sử, có hương của rừng tràm và vườn chim thiên nhiên, với những món ăn đặc sản rừng U
Minh. Với một tiềm năng du lịch như vậy, Kiên Giang có nhiều thuận lợi để phát triển
các ngành dịch vụ phục vụ du khách [5, tr.10].
Hơn nữa, nằm ở vị trí điểm trung tâm của khu vực éụng - Nam Á nờn Kiờn Giang
thực sự là địa điểm lý tưởng để khai thác du lịch, đặc biệt là du lịch biển, đảo quốc tếvà
các nhà đầu tư nước ngoài.
Hiện Phú Quốc đó được Chính phủ phê duyệt quy hoạch trở thành Khu du lịch
sinh thái nghỉ dưỡng chất lượng cao mang tầm khu vực và quốc tế.
Ngoài ra, Phú Quốc sẽ trở thành trung tâm giao thương quốc tế trong vựng vịnh
Thỏi Lan. éảo Phỳ Quốc phỏt triển sẽ là lợi thế cực kỳ to lớn để đưa những đảo cũn lại
thuộc quần đảo An Thới, Thổ Châu, Bà Lụa, Nam Du, Hải Tặc phát triển theo.
* Tỡnh hỡnh kinh tế - xó hội tỉnh Kiờn Giang
Về phát triển kinh tế:Kinh tế Kiên Giang trong những năm qua tiếp tục phát triển
ổn định, đạt mức tăng trưởng cao, nhiều chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế trung bỡnh từ năm 2001 đến năm 2005 là 11%/ năm, năm 2006 là
12,8%/năm. Riêng năm 2007 là 13,2%/năm, trong đó khu vực nông - lâm - thủy sản tăng
12,8%, công nghiệp - xây dựng tăng 13,5%, dịch vụ tăng 13,6%. Cơ cấu kinh tế năm
2007: Nông - lâm - thủy sản chiếm 43,76%, công nghiệp - xây dựng 25,76%, thương mại
- dịch vụ 30,48%. GDP bỡnh quõn đầu người 836,7 USD (nghị quyết Đảng bộ tỉnh đề ra
780 USD) [51, tr.1].
Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp: năm 2007 sản lượng lúa của tỉnh đạt 2,977
triệu tấn, tăng 233.000 tấn so năm trước (đạt 103,5% kế hoạch), trong đó lúa chất lượng
cao chiếm 68% tổng sản lượng. Các cấp, các ngành trong tỉnh đó tập trung chỉ đạo
chuyển đổi cơ cấu sản xuất, chuyển diện tích sản xuất lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng
thủy sản; nhiều mô hỡnh luõn canh, xen canh màu và nuụi trồng thủy sản cú hiệu quả, thu
nhập bỡnh quõn đạt 30 triệu đồng/ha đất nông nghiệp.
Đó hoàn thành quy hoạch chi tiết thủy lợi vựng U Minh Thượng và nuôi trồng
thủy sản ven biển. Hỗ trợ cho nông dân vay 12,5 tỷ đồng và lói suất 1,2 tỷ đồng mua 100
máy gặt đập liên hợp phục vụ sản xuất. Hoàn thành việc quy hoạch phát triển chăn nuôi
gia súc, gia cầm và điều chỉnh quy hoạch lâm nghiệp của tỉnh giai đoạn 2006 - 2015, diện
tích rừng hiện cũn 85.778 ha, đạt tỷ lệ che phủ 13% [51, tr.1].
Khai thác và nuôi trồng thủy sản, sản lượng 410.801 tấn, đạt 105,8% kế hoạch,
tăng 8,7% so năm trước, trong đó nuôi tôm phát triển khá (sản lượng 28.350 tấn, đạt
105% kế hoạch, tăng 24%). Tiếp tục đầu tư xây dựng và nâng cấp các cơ sở dịch vụ hậu
cần nghề cá; tăng cường các biện pháp bảo vệ nguồn lợi thủy sản, kiểm tra chất lượng
giống, hướng dẫn kỹ thuật cho các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung [51, tr.2].
Trên lĩnh vực sản xuất công nghiệp - xây dựng: giá trị sản xuất công nghiệp năm
2007 ước đạt 102% kế hoạch, tăng 13% so năm trước, chủ yếu do đóng góp của công
nghiệp ngoài quốc doanh tăng trưởng cao (đạt 119% kế hoạch, tăng 28,2%). Đó hoàn
thành quy hoạch chi tiết và giao các nhà đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công
nghiệp Tắc Cậu (giai đoạn II), Thạnh Lộc - Châu Thành; Thuận Yờn - Hà Tiờn; cụm
cụng nghiệp Vĩnh Hũa Hưng Nam - Gũ Quao và Thứ Bảy - An Biên; xúc tiến quy hoạch
cụm công nghiệp Vĩnh Phong - Vĩnh Thuận, Dương Đông và Vịnh Đầm - Phú Quốc.
Huy động vốn đầu tư phát triển 8.362,6 tỷ đồng, đạt 89,2% kế hoạch, trong đó vốn
nhà nước do địa phương quản lý 1.556 tỷ đồng, gần đạt kế hoạch, giải ngân đạt 87,5%.
Tập trung đầu tư cho các công trỡnh giao thông, thủy lợi, điện, giáo dục, y tế... Một số
công trỡnh trọng điểm hoàn thành đưa vào sử dụng như đường Tân Hiệp - Giồng Riềng -
Vị Thanh, cảng du lịch Bói Vũng - Phỳ Quốc, cảng sụng Tắc Cậu - Châu Thành; đang thi
công đường N1 (Hà Giang), đường Chín Rưỡi - Xẻo Nhào, khu trú bóo Hũn Tre - Kiờn
Hải, đường Dương Đông - Cửa Cạn, khởi công xây dựng cảng An Thới - Phú Quốc,...
Thực hiện nhựa hóa giao thông nông thôn đường về trung tâm xó đạt 60% [51, tr.3].
Thương mại - Dịch vụ: thương mại - dịch vụ tăng trưởng khá, tổng mức bán lẻ
hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 24,9% so năm trước. Kim ngạch xuất khẩu là 266
triệu USD, đạt 88,6% kế hoạch. Kim ngạch nhập khẩu 18,5 triệu USD, đạt 49,3% kế
hoạch. Đó hoàn thành và đưa vào sử dụng 01 trung tâm thương mại huyện, 16 chợ xó và
cửa khẩu Quốc tế Hà Tiờn. Hoàn thành thủ tục đầu tư các chợ đầu mối nông thủy sản
Thạnh Lộc, Tắc Cậu - Châu Thành. Tăng cường hợp tác, liên kết thương mại với thành
phố Hồ Chí Minh, Hậu Giang, An Giang và các tỉnh của Campuchia. Ngăn chặn, hạn chế
một bước tỡnh trạng buụn lậu xăng - dầu qua biên giới. Hoàn thành và triển khai quy
hoạch thương mại của tỉnh đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Đẩy mạnh tuyên
truyền, phổ biến về các thoả thuận, cam kết khi nước ta gia nhập WTO.
Kết thúc năm 2007, ngành Du lịch tỉnh Kiên Giang đó đón 3,27 triệu lượt
khách trong nước và quốc tế đến tham quan. So với năm trước tăng gần 28%, đạt tổng
doanh thu 384,37 tỷ đồng, tăng 6,6% so với năm 2006. Đặc biệt, thời gian lưu trú của
khách du lịch đến Kiên Giang trong năm 2007 là 1,75 ngày/người, tăng 4,31% so với
năm 2006. Tập trung hoàn thành quy hoạch chi tiết một số khu du lịch quan trọng, gắn
với cắm mốc giới quy hoạch và tiến hành quy hoạch các khu chức năng, khu đô thị trên
đảo Phú Quốc. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng các khu du lịch ở Hà Tiên,
Kiên Lương. Khảo sát mở tuyến du lịch mới đường biển từ Phú Quốc đi một số tỉnh của
Campuchia, Thái Lan. Đó tổ chức sơ kết thực hiện Nghị quyết số 02 của Tỉnh ủy về phát
triển du lịch của tỉnh đến năm 2010 và Nghị quyết 08 thực hiện Quyết định 178 của Thủ
tướng Chính phủ về đề án phát triển tổng thể đảo Phú Quốc. Đó thành lập Ban Quản lý
đầu tư phát triển Phú Quốc và đi vào hoạt động [51, tr.3].
* Về phát triển các thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển. Đó hoàn thành phương án sắp xếp,
đổi mới doanh nghiệp nhà nước của tỉnh giai đoạn 2002 - 2006 và xây dựng kế hoạch
sắp xếp và cổ phần hóa giai đoạn 2007 - 2009; qua sắp xếp đó giảm từ 23 cũn lại 11
cụng ty nhà nước (trong đó có 2 công ty hoạt động theo mô hỡnh cụng ty mẹ - cụng ty
con) và 21 cụng ty cổ phần cú vốn nhà nước; từng bước chấn chỉnh nâng cao hiệu quả
hoạt động.
Kinh tế tập thể phỏt triển mới 11 hợp tỏc xó, 541 tổ hợp tác, nâng tổng số hợp tỏc
xó hiện có trên toàn tỉnh là 122 và 2.320 tổ hợp tác; tập trung chỉ đạo xây dựng và nhân
rộng các mô hỡnh hợp tỏc xó điển hỡnh tiờn tiến.
Kinh tế tư nhân, cá thể tiếp tục được tạo điều kiện phát triển mạnh, năm 2007
về số lượng tăng 815 doanh nghiệp và tăng 70% vốn đăng ký so năm 2006. (Đến nay
toàn tỉnh có 3.258 doanh nghiệp tư nhân, với số vốn đăng ký 7.886 tỷ đồng) [51, tr.6].
Hoạt động khoa học - công nghệ cũng đó được triển khai ứng dụng vào sản xuất
nhằm thực hiện mụ hỡnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho các huyện, thị.
Tuy nhiờn, lĩnh vực kinh tế cũng cũn những khú khăn, yếu kém. Kinh tế tuy tăng
trưởng khá nhưng năng lực cạnh tranh và tính bền vững chưa cao. Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế cũn chậm so với yờu cầu, mục tiêu Đại hội VIII đảng bộ tỉnh đề ra. Một số lĩnh
vực đạt kế hoạch thấp như công nghiệp địa phương chỉ đạt 86,9%; huy động vốn đầu tư
phát triển 89%; kim ngạch xuất khẩu 88,7%, chủ yếu do khó khăn về vốn, nguồn nguyên
liệu, thị trường tiêu thụ, một số doanh nghiệp đang trong quá trỡnh chuyển đổi loại hỡnh.
Nhiều cụng trỡnh, dự ỏn phỏt triển nụng nghiệp nụng thụn chưa tích cực triển khai thực
hiện, nhất là về giao thông, thủy lợi, điện... Hiện cũn 10 xó thuộc 6 huyện (Hũn Đất,
Giồng Riềng, Châu Thành, Gũ Quao, An Minh, U Minh Thượng) chưa có đường ô tô đến
trung tâm, thực hiện nhựa hóa đường về trung tâm xó chỉ đạt 60% (nghị quyết đề ra
65%); dự án kinh tế hộ vùng đệm U Minh Thượng và đề án công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn có nhiều khó khăn, vướng mắc nhưng chậm sơ kết để chỉ đạo
uốn nắn.
Môi trường kinh doanh và đầu tư chưa được cải thiện nhiều nên việc thu hút vốn
đầu tư cũn hạn chế. Nhiều cụng trỡnh xõy dựng cơ bản triển khai thực hiện chậm, do
vướng mắc ở khâu giải toả bồi hoàn, giá vật tư tăng cao, chậm thanh quyết toán, năng lực
thi công yếu; nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, vốn đầu tư cho một số chương trỡnh, mục
tiờu quốc gia giải ngõn chậm. Chỉ số giỏ tiờu dựng tăng cao, nhất là giá xăng - dầu, vật tư
phân bón, thực phẩm... ảnh hưởng bất lợi đến sản xuất và đời sống của nhân dân; một số
tàu thuyền đánh bắt hải sản của ngư dân phải ngừng hoạt động. Bội chi ngân sách cao, do
vay hộ và nợ vay lớn, kéo dài, thu hồi vốn khó khăn.
* Văn hóa, xó hội, giỏo dục - đào tạo tiếp tục có những chuyển biến tiến bộ
Đến nay 14 huyện, thị, thành trong tỉnh đó hoàn thành việc kiểm tra và cụng nhận
đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở;
huy động học sinh 6 - 14 tuổi đến trường đạt 90,6%; khắc phục một bước bệnh thành
tích, tiêu cực trong giáo dục phổ thông. Số học sinh trúng tuyển đại học, cao đẳng là
3.426 em, tăng 1.073 em so năm 2006; triển khai thực hiện cho sinh viên nghèo vay vốn
để học tập. Thực hiện chương trỡnh kiờn cố húa trường lớp, đó sửa chữa, thay thế, xây
mới và đưa vào sử dụng 1.268 phũng học (đạt kế hoạch đề ra). Triển khai thực hiện nghị
quyết của Tỉnh ủy về phát triển giáo dục - đào tạo đến năm 2010 và định hướng đến năm
2015; chương trỡnh phỏt triển nguồn nhõn lực của tỉnh đến năm 2020. Thành lập thêm 16
trung tâm học tập cộng đồng, nâng tổng số 122 trung tâm, đạt 85,9% [51, tr.5].
Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân được chú trọng, tiếp tục củng cố,
hoàn thiện hệ thống y tế cơ sở, đến nay có 126/142 xó phường có trạm y tế; có 65,5%
trạm đạt chuẩn quốc gia. Thực hiện tốt bảo hiểm y tế cho các đối tượng chính sách và
người nghèo. Triển khai thực hiện các chương trỡnh y tế quốc gia, vệ sinh an toàn thực
phẩm, phũng chống dịch bệnh, nhất là dịch sốt xuất huyết, đó huy động cả hệ thống chính
trị tập trung ngăn chặn, không để xảy ra dịch lớn. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đỡnh
thực hiện đạt mục tiêu đề ra, giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên cũn 1,27% [51, tr.5].
* Cỏc lĩnh vực xó hội khỏc
Các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thông tin tuyên truyền, thể thao diễn ra sôi nổi
phục vụ khá tốt các ngày lễ, tết, bầu cử Quốc hội khóa XII và bầu bổ sung hội đồng nhân
dân các cấp. Đó chia tỏch Ban Chỉ đạo cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn
hóa và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, thành 2 ban chỉ đạo riêng; qua đánh giá phân
loại có 9/142 xó, phường có phong trào văn hóa tốt (tăng 4 xó). Thể dục - thể thao quần
chỳng tiếp tục phỏt triển, số người tham gia luyện tập thường xuyên chiếm 18% dân số.
Tham gia 34 giải thể thao khu vực, toàn quốc và quốc tế đạt 141 huy chương các loại;
đặc biệt có 16 vận động viên đua thuyền của tỉnh được chọn dự Seagames 24 tại Thái
Lan [51, tr.6].
Các cấp, các ngành trong tỉnh đó quan tõm giải quyết cỏc vấn đề xó hội, nhõn dịp cỏc
ngày lễ, tết tổ chức nhiều đoàn đi thăm hỏi, họp mặt, biểu dương, tặng quà cho các gia đỡnh
chớnh sỏch, người có công tiêu biểu; tổ chức truy điệu an táng 299 bộ hài cốt liệt sĩ quân
tỡnh nguyện Việt Nam hy sinh tại Campuchia; đưa 250 người có công đi tham quan, nghỉ
dưỡng; hoàn thành bàn giao 527/500 căn nhà tỡnh nghĩa. Thực hiện cỏc chương trỡnh, dự ỏn
giảm nghốo cú kết quả, hộ nghốo trong tỉnh cũn 8,98% (giảm 1,8%), đạt yêu cầu đề ra. Giải
quyết việc làm ổn định cho 28.589 người, vượt kế hoạch 19%, trong đó xuất khẩu lao động
500 người; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 13,1% (tăng 2,5%) [51, tr.6].
Đó vận động các nhà tài trợ và nhân dân đóng góp được 5.000 m2 đất và trên 8 tỷ
đồng xây dựng trường học. Hội Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị vận động các tổ chức
phi chính phủ cam kết tài trợ 77,5 tỷ đồng (đó giải ngõn được 45 tỷ) cho các dự án giáo
dục, y tế, giao thông nông thôn. Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo mổ mắt miễn phí cho
2.349 người, trong đó có 418 bệnh nhân nghèo người Campuchia [51, tr.6].
Tuy nhiên, lĩnh vực văn hóa - xó hội cũn một số mặt hạn chế. Chất lượng giáo dục
và đào tạo ở các cấp học cũn thấp. Hiện cũn 93/142 xó, phường chưa có trường mầm
non; huy động trẻ 6 - 14 tuổi đến trường chỉ đạt 90,6% (nghị quyết đề ra 92% trở lên); tỷ
lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đạt 73,9% (giảm 11,1% so năm học trước); số
học sinh thi đậu đại học, cao đẳng tuy tăng khá nhưng chỉ đạt 29,5% so với số đăng ký dự
thi. Công tác chống xuống cấp phũng học gặp khú khăn về kinh phí, hiện cũn 326 phũng
học cõy lỏ chiếm 4,2% và cũn thiếu 990 giáo viên các cấp học [51, tr.5]. Triển khai thực
hiện chương trỡnh phỏt triển nguồn nhõn lực của tỉnh cũn chậm, nhất là đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao.
Bệnh sốt xuất huyết diễn biến phức tạp, xảy ra 5.712 ca, tăng 999 ca so năm trước,
trong đó có 9 người chết; hiện cũn 48 trạm y tế xó chưa có bác sĩ và 3 xó mới chia tỏch
chưa có trạm y tế; các trung tâm y tế dự phũng huyện nhiều nơi chưa có trụ sở làm việc
và thiếu trang thiết bị.
Xuất khẩu lao động chỉ đạt 50% kế hoạch. Triển khai xây dựng các trung tâm dạy
nghề các huyện, thị, khu vực và các thiết chế văn hóa cơ sở cũn chậm (mới cú 5/142 xó,
phường có trung tâm văn hoá - thể thao, đạt 3,5%), nhiều nơi không có quỹ đất để xây
dựng, những nơi đó xõy dựng xong thiết chế văn hóa cơ sở cũn lỳng tỳng nội dung hoạt
động.
1.2.2. Đặc điểm đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hoá
Là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam, đội ngũ công nhân tỉnh Kiên
Giang là những người tham gia trực tiếp vào quá trỡnh lao động sản xuất vật chất, dịch
vụ công nghiệp có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế hiện có ở tỉnh. Hơn nữa, đây là
những người hiện đang sống và lao động trên địa bàn tỉnh nên bên cạnh những đặc điểm
cơ bản của đội ngũ công nhân Việt Nam đội ngũ công nhân tỉnh Kiờn Giang cũn cú
những đặc điểm riêng biệt do điều kiện lịch sử, tự nhiên, kinh tế xó hội của địa phương
qui định.
Một là, đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang có quá trỡnh ra đời sớm nhưng tính chất
lao động công nghiệp vẫn đang trong quá trỡnh mới hỡnh thành.
Với chính sách xâm lược thâm độc, tàn ác của thực dân ngày 21 tháng 6 năm 1867
vùng đất Kiên Giang đó hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp. Thực hiện chính sách khai
thác thuộc địa lần thứ nhất ngay từ những năm đầu thế kỷ XX thực dân Pháp đó dần nắm
giữ một số xí nghiệp cơ khí nhỏ, và bước đầu thành lập một số đồn điền như đồn điền
Cây Dừa ở Phú Quốc, đồn điền Nông Nghiệp ở Mong Thọ (D.A.O), ở Chắc Băng và
hóng khai thỏc lõm sản Miền Tây ở nhiều tỉnh từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Cà Mau.... Cùng
với các hoạt động trên người Pháp cũn tạo điều kiện cho một số giáo sĩ, địa chủ, quan lại,
tay sai người Việt và tư sản người Hoa khai khẩn đất hoang, đấu thầu để độc quyền khai
thác lâm sản, thủy hải sản, lập các vựa lúa độc quyền mua bán lúa gạo và dùng lực lượng
này làm chỗ dựa cho chúng trong quỏ trỡnh bỡnh định vùng đất giàu tiểm năng này.
Mặc dù vậy, khách quan xem xét, bên cạnh chính sách khai thác thuộc địa tàn
khốc thỡ thực dõn Phỏp cũng đó gúp phần hỡnh thành thờm một lực lượng lao động mơí
trên địa bàn tỉnh, đó là những người công nhân đầu tiên của tỉnh Kiên Giang.
Thực tế là, trong thời kỳ này, cũng như nhiều nơi khác, cuộc sống của những
người nông dân Kiên Giang phải chịu nhiều tầng áp bức, bị tước đoạt ruộng đất nên lâm
vào cảnh bần cùng, phải bỏ ruộng vườn, đi làm thuê, làm mướn. Đây là thời kỳ phôi thai
trong việc hỡnh thành đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang [24, tr.17].
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đội ngũ công nhân Kiên Giang
phát triển nhanh về số lượng và chất lượng, bởi lẽ, trong thời kỳ này bên cạnh những cơ
sở sản xuất công nghiệp trong vùng địch chiếm đóng đó xuất hiện những công binh
xưởng, những cơ sở sản xuất công nghiệp ở vùng tự do.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đội ngũ công nhân Kiên Giang
tiếp tục lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng và luôn cùng với quần chúng nhân dân đi
đầu trong việc đấu tranh chống lại bọn xâm lược cùng với bè lũ tay sai, ủng hộ cách
mạng.
Tư liệu lich sử để lại cho thấy ở vùng giải phóng, công nhân chủ yếu tập trung ở
các công binh xưởng, bao gồm công binh xưởng Rạch Giá và công binh xưởng Hà Tiên.
Công binh xưởng Rạch Giá lúc đầu (1960) chỉ có 8 người, tới năm 1962 do nhiệm vụ
tăng lên do đó quân số là 90 người. Trong kháng chiến chống Mỹ, công binh xưởng Rạch
Giá là một xưởng lớn có trên 200 cán bộ chiến sỹ với gần 70 đảng viên, sản xuất sửa
chữa nhiều loại vũ khí phục vụ cho chiến trường; trong những năm kháng chiến đó cú 25
cỏn bộ, cụng nhõn hy sinh và 21 người bị thương. Công binh xưởng Hà Tiên được thành
lập vào những năm 1960, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có trên 60 cán bộ,
công nhân làm việc tại đây, trong đó có 7 người đó hi sinh vỡ sự nghiệp giành độc lập
cho tổ quốc, 4 người khác bị thương.
Có thể nói, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ người
công nhân Kiên Giang dù ở vùng địch chiếm đóng hay trong vùng giải phóng vẫn luôn
hướng về cách mạng, đóng gúp cụng sức của mỡnh vào cuộc khỏng chiến của dõn tộc.
Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước đội ngũ công
nhân Kiên Giang phát triển theo những bước thăng trầm cùng với sự phát triển kinh tế -
xó hội của đất nước và của tỉnh.
Từ năm 1986 đến năm 1990, là những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới của
đất nước, tỡnh hỡnh kinh tế - xó hội của đất nước chưa thoát khỏi khủng hoảng, lạm phát
lên đến 774,7%. Trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, sản xuất công nghiệp chỉ có một số ít đơn
vị tạm thời làm ăn có hiệu quả, cũn lại hầu hết đều thua lỗ. Do sản xuất bị đỡnh đốn, các
công ty, xí nghiệp bị thua lỗ, nên người công nhân thiếu việc làm, cuộc sống gặp nhiều
khó khăn, điển hỡnh là những công nhân ở Công ty Xây lắp, Xí nghiệp mộc An Hoà, Xí
nghiệp Mỹ nghệ và hầu hết các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các huyện Giồng Riềng,
An Minh, Vĩnh Thuận, Hũn Đất phải giải thể [25, tr.197]. Do vậy, giai đoạn này số lượng
công nhân tỉnh Kiên Giang chỉ tăng 1,24%.
Từ năm 1990 đến 2000 tỡnh hỡnh kinh tế - xó hội tỉnh Kiờn Giang liờn tục đạt được
sự tăng trưởng khá cao. Bỡnh quõn hàng năm, tổng sản phẩm trên địa bàn tăng 10,1%, sản
xuất công nghiệp tăng 7,2%, dịch vụ tăng 9,5% [25, tr.201]. Công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp được tập trung theo hướng khai thác khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, chế
biến nông hải sản và cơ khí sửa chữa. Giá trị sản lượng công nghiệp địa phương bỡnh
quõn hằng năm tăng 12,9%. Thời kỳ này tỉnh đó cú kế hoạch quy hoạch và đang triển
khai xây dựng khu công nghiệp Kiên Lương - Ba Hũn - Hũn Chụng.
Mặc dù vậy, trong giai đoạn 1990 - 1996 Kiên Giang cũng như cả nước phải hứng
chịu nhiều khó khăn thách thức khắc nghiệt. Đó là khủng hoảng kinh tế - xó hội bắt
nguồn từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp từ trước đó chưa được khắc phục triệt để dẫn
đến tỡnh trạng nền kinh tế tiếp tục mất cân đối, sản xuất chưa có bước phát triển mạnh
mẽ. Ở ngoài nước tỡnh hỡnh biến động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu hết sức tiêu cực
đó tỏc động xấu đến kinh tế nước ta nói chung và Kiên Giang nói riêng.
Cũng trong thời kỳ này, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở
Châu Á nên một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kể cả một số doanh nghiệp
Nhà nước trong tỉnh sản xuất kinh doanh không ổn định dẫn đến tỡnh trạng nhiều cụng ty
phải hoạt động cầm chừng, một bộ phận công nhân không đủ việc làm, hoặc buộc phải
thôi việc vỡ vậy, ở giai đoạn này số lượng công nhân tỉnh Kiên Giang giảm 16,89%.
Từ năm 2000 đến nay đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang có sự gia tăng đáng kể
về số lượng (tăng 151,1%) so với giai đoạn trước đó. Có được thành tựu này trước hết do
Nhà nước ta đó cú chủ trương đúng đắn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng
dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Tại tỉnh Kiên Giang cũng đó cú nhiều chính sách ưu
đói, khuyến khớch đầu tư, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp ở nhiều lĩnh
vực khác nhau vào đầu tư sản xuất kinh doanh. Cùng với việc khu công nghiệp Tắc Cậu -
huyện Châu Thành đó hoàn thành giai đoạn I thỡ cũng đó cú nhiều doanh nghiệp trong
tỉnh được thành lập mới và đi vào hoạt động là cơ sở thu hút và giải quyết việc làm cho
nhiều công nhân.
Như vậy, chính quá trỡnh cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá đó tạo ra động lực để đội
ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang tăng nhanh về số lượng và tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trỡnh đẩy mạnh sản xuất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xó hội trờn địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Tuy nhiên, đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang hiện nay chỉ chiếm khoảng 4,1% dân số và
khoảng 6,3% lực lượng lao động của tỉnh, với số lượng công nhân này vẫn cũn quỏ khiờm
tốn nờn sẽ là một thỏch thức đối với việc thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hai là, đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang phần lớn xuất thân từ nông dân và có
tuổi đời cũn trẻ.
Cho đến nay, mặc dù đất nước tiến hành công cuộc đổi mới được trên 20 năm, và
tỉnh Kiên Giang đó cú nhiều chủ trương biện pháp tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp- dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản xuất nông
nghiệp, nhưng về cơ bản Kiên Giang vẫn là một tỉnh nông nghiệp. Đúng như Văn kiện
Đại hội đại biểu tỉnh Kiên Giang lần thứ VIII đó xỏc nhận: cơ cấu kinh tế của tỉnh năm
2006 là nông- lâm- thuỷ sản 44%, công nghiệp- xây dựng 28%, dịch vụ 28%.
Thực tế là, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian qua tỉnh đó cú nhiều
chuyển biến tớch cực, nhiều doanh nghiệp mới đó và đang tổ chức sản xuất có hiệu quả, thu
hút được nhiều lao động mới vào làm việc, đặc biệt là các ngành thu hút nhiều lao động vốn có
thành phần xuất thân chủ yếu từ lao động nông nghiệp, ví như: sản xuất vật liệu xây dựng, chế
biến nông sản, thuỷ sản.
Rừ ràng, việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế tất yếu dẫn đến chuyển dịch cơ cấu lao động,
nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc thu hút nhiều lao động, đặc biệt là lao động từ nông thôn thỡ
cũng chỉ mới giải quyết được một mặt, đó là việc làm mà chưa phải đó cú nhiều giỏ trị gia
tăng. Năng xuất lao động cũn thấp. Điều này có nguyên do lực lượng lao động tại các công
ty, xí nghiệp của tỉnh chủ yếu là lực lượng lao động trẻ vừa mới thoát ly từ mảnh đất nông
nghiệp, chưa được đào tạo qua các trường lớp dạy nghề nên ý thức, tỏc phong sản xuất cụng
nghiệp cũn hết sức sơ khai. Qua số liêu thống kê của ngành lao động thương binh xó hội lực
lượng lao động của tỉnh có độ tuổi từ 18-35 chiếm 65,4% lực lượng lao động trong các xí
nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và chế biến thuỷ sản.
Hơn nữa, trong đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang tỷ lệ nữ công nhân tỉnh Kiên
Giang chiếm hơn 50% nhưng thay đổi theo đặc trưng lao động của từng ngành. Ngành
chế biến thuỷ sản, dịch vụ và du lịch công nhân nữ chiếm hơn 70%. Ngành sản xuất vật
liệu xây dựng, khai thác mỏ công nhân nữ chiếm hơn 30%.
Ba là, đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang chủ yếu là lao động phổ thông sản xuất
trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác, chế biến thuỷ, hải sản.
Điều này bắt nguồn trước hết từ đặc điểm điều kiện tự nhiên của Kiên Giang vốn
là tỉnh có nguồn khoáng sản dồi dào bậc nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long với trên
152 điểm quặng và mỏ của 23 loại khoáng sản thuộc các nhóm như: nhóm nhiên liệu
(than bùn), nhóm không kim loại (đá vôi, đá xây dựng, đất sét…), nhóm kim loại (sắt,
Laterit sắt…), nhóm đá bán quý (huyền thạch anh - opal…), trong đó chiếm chủ yếu là
khoáng sản không kim loại dùng sản xuất vật liệu xây dựng, xi măng, ví như đá vôi. Hiện
nay tỉnh có hơn 20 ngọn núi với trữ lượng khoảng hơn 440 triệu tấn, có một số núi đá vôi
cần giữ lại di tích lịch sử, thắng cảnh và yêu cầu quân sự, nên trữ lượng để dùng cho sản
xuất vật liệu xây dựng là hơn 245 triệu tấn, với nguyên liệu này đủ để sản xuất 2,8 - 3
triệu tấn Clinker/năm trong thời gian trên 50 năm. Nguồn lợi khoáng sản trên sẽ sản xuất
các loại sản phẩm như: xi măng, gạch ngói, gốm sứ, đá ốp lát, đá xây dựng, vôi; đá
huyền, thạch anh làm đồ trang sức mỹ nghệ; cát làm thuỷ tinh; than bùn làm chất đốt,
phân bón… [5, tr.9].
Bên cạnh đó, Kiên Giang cũng là tỉnh có bờ biển rộng 63.290 km2, có hơn 140 hũn
đảo nằm trong vùng vịnh Thái Lan, có đường biên giới giáp Cam-pu-chia, Thái Lan và
Malaysia. Với những điều kiện tự nhiên trên, biển Kiên Giang là môi trường thuận lợi cho
các loài hải sản sinh sống và phát triển. Người dân ở đây có thể khai thác hải sản quanh năm.
Theo điều tra của Viện nghiờn cứu biển Việt Nam thỡ trữ lượng tôm, cá ở đây khoảng
464.660 tấn trong đó vùng ven bờ có độ sâu 20-50 m có trữ lượng chiếm 56% và trữ lượng
cá tôm ở tầng nổi chiếm 51,5%, khả năng khai thác cho phép bằng 44% trữ lượng, tức là
hằng năm có thể khai thác trên 200.000 tấn. Ngoài ra tỉnh đó và đang thực hiện dự án đánh
bắt xa bờ tại vùng biển Đông Nam bộ có trữ lượng trên 611.000 tấn với sản lượng cho phép
khai thác 243.660 tấn chiếm 40% trữ lượng [54].
éõy cũng là vựng biển nhiều san hụ, khoảng 200ha cùng 12.000ha thảm cỏ
biển, là nơi cư trú, nguồn thức ăn của nhiều loài cá biển, loài động vật biển quý hiếm,
tạo ra nguồn sinh cảnh biển rất đa dạng và hấp dẫn để khai thác du lịch. Thảm cỏ biển
ở Kiên Giang khá phong phú đa dạng, theo thống kê có tới 10 loài trong 16 loài được
công bố của toàn vùng biển Việt Nam. Ngoài ra là cỏc loài sinh vật biển quý hiếm
khỏc như cá ông sư, cá heo lưng gù, cá heo mừm dài, cỏ heo sọc, rựa biển.
Dựa trên các tiềm năng, thế mạnh này đó từ lõu tỉnh đó cú kế hoạch phát triển các
ngành công nghiệp vốn có thế mạnh, đó là công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, khai
thác và chế biến thuỷ sản, dịch vụ du lịch. Đây cũng là nguyên nhân mà đội ngũ công
nhân ngành này phát triển mạnh ở tỉnh, đồng thời cũng là điểm khác biệt của tỉnh so với
nhiều địa phương khác trong cả nước. Chẳng hạn so với tỉnh Bỡnh Dương, Đồng Nai,
thành phố Hồ Chí Minh( miền Nam), hay Hưng Yên, Vĩnh phúc( miền Bắc) vốn chủ yếu
là sản xuất các ngành nghề cơ khí, lắp ráp xe máy, hoặc may mặc, da dày.
Những đặc điểm của đội ngũ công nhân của tỉnh nêu trên đây thể hiện rừ trong
cỏc mặt số lượng, chất lượng cơ cấu, như sau:
1.2.3.Về số lượng và chất lượng đội ngũ công nhân Kiên Giang.
1.2.3.1. Về số lượng
Từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, tỡnh hỡnh kinh tế - xó hội Kiờn
Giang cú nhiều đổi thay là tác nhân trực tiếp làm cho đội ngũ công nhân Kiên Giang liên
tục phát triển qua các thời kỳ.
Bảng 1.1: Thống kê số lượng công nhân tỉnh Kiên Giang từ 1986 – 2008
Đơn vị tính: công nhân
Năm Tổng số
Doanh nghiệp
Nhà nước
Doanh nghiệp
ngoài Nhà nước
1986 35.702 4.738 30.964
1990 36.148 6.079 30.069
1996 36.042 3.499 32.543
2000 30.074 4.367 25.707
2008 75.543 4.932 70.611
Nguồn: Cục thống kê và Sở Lao động thương binh - xó hội tỉnh Kiờn Giang.
Từ số liệu thống kê trên cho ta thấy, nhờ có luồng gió mới của công cuộc đổi mới do
Đảng lónh đạo (1986), đó tạo mụi trường thuận lợi cho công nghiệp tỉnh Kiên Giang phát
triển, vỡ vậy, đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang từ năm 1986 đến nay nhỡn chung tăng
nhanh về số lượng. Nếu năm 1986 toàn tỉnh chỉ cú 36.148 cụng nhõn thuộc cỏc thành phần
kinh tế khỏc nhau thỡ chỉ sau trờn 20 năm con số này đó đạt được là 75.543 công nhân, tăng
gấp trên 2 lần. Trong đó khu vực nhà nước năm 1986 có 4738 công nhân, và khu vực ngoài
nhà nước có 30964 người thỡ đến năm 2008 con số tương ứng này là 4932 và 70611. Như
vậy khu vực nhà nước có tăng nhưng khu vực kinh tế ngoài nhà nước có tốc độ tăng nhanh
hơn. Điều này cho thấy chủ trương nhà nước về phát triển các thành phần kinh tế là đúng đắn
góp phần tăng nhanh lực lương lao động xó hội, giải quyết việc làm nhiều hơn và hiệu quả
hơn khu vực nhà nước.
1.2.3.2. Về chất lượng đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang
- Trỡnh độ học vấn của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang
Trỡnh độ học vấn là chỡa khoỏ để đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang tiếp nhận tri
thức hiện đại, nõng cao trỡnh độ chuyên môn nghề nghiệp. Thực tế quỏ trỡnh phỏt triển
kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cho thấy, trỡnh độ học vấn của công nhân
càng cao, thỡ họ càng cú điều kiện để tiếp nhận khoa học và công nghệ hiện đại; từ đó họ
càng có cơ hội thích ứng với sự chuyển đổi nghề nghiệp, tăng năng xuất lao động và tin
tưởng hơn vào cuộc sống. Trong những năm gần đây, trỡnh độ học vấn của đội ngũ công
nhân tỉnh Kiên Giang nhỡn chung đó được nâng lên, thể hiện qua các năm như sau:
Bảng 1.2: Thống kờ trỡnh độ học vấn đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang
Đơn vị tính: %
Trỡnh độ học vấn Mốc thời gian
2001 2004 2008
Tiểu học 4,12 3,23 4,55
Trung học cơ sở 26,70 25,39 18,62
Trung học phổ thông 69,17 71,37 74,93
Nguồn: Liên đoàn Lao động tỉnh Kiên Giang.
Qua số liệu thống kờ trờn cho thấy, trỡnh độ học vấn của đội ngũ công nhân tỉnh
Kiên Giang ngày được nâng lên, tỷ lệ cụng nhõn cú trỡnh độ trung học phổ thông ngày
càng tăng, tỷ lệ công nhõn cú trỡnh độ tiểu học có xu hướng giảm trong đội ngũ công
nhân Kiên Giang. Trỡnh độ học vấn của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang nếu xét về tỷ
lệ thỡ cao hơn mức trung bỡnh của cả nước; trung bỡnh cả nước công nhân có trỡnh độ
tốt nghiệp phổ thông trung học là 60%, thành phố Hồ Chớ Minh cụng nhõn cú trỡnh độ
tốt nghiệp phổ thông trung học là 56,7% [47, tr.51], đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang
tính đến 06 tháng đầu năm 2008 có trỡnh độ tốt nghiệp phổ thông trung học là 74,93%.
Trỡnh độ học vấn của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang đạt được kết quả cao hơn mức
trung bỡnh của cả nước là do, trên địa bàn tỉnh Kiên Giang công nhân tập trung chủ yếu
trong các ngành: sản xuất vật liệu xây dựng, có 05 nhà máy xi măng (03 nhà máy của tỉnh
Kiên Giang, 01 nhà máy của trung ương và 01 nhà máy liên doanh với nước ngoài) [5, tr
30].
Bên cạnh đó, du lịch cũng là thế mạnh của tỉnh Kiên Giang so với các tỉnh vùng
đồng bằng sông Cửu Long, hoạt động du lịch phát triển gắn với các dịch vụ phục vụ du
lịch như: vận tải, bưu chớnh viễn thụng... Vỡ vậy, với lợi thế về tiềm năng du lịch cũng
như ngành sản xuất xi măng đũi hỏi người công nhân phải có trỡnh độ cao, cho nên trỡnh
độ tốt nghiệp phổ thông trung học của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang tương đối cao.
Đạt được kết quả trên là do, trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hóa đất nước, đũi hỏi đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang phải không ngừng học tập,
nhằm bổ túc kiến thức với nhiều hỡnh thức khỏc nhau như: học tập trung, học bổ túc…
Tuy đạt được những kết quả như đó nờu trờn nhưng trỡnh độ học vấn của đội ngũ
công nhân Kiên Giang cũng cũn khụng ớt những hạn chế:
- Số lượng công nhân có trỡnh độ phổ thông trung học chỉ tập trung nhiều ở độ
tuổi từ 20 - 35 và chủ yếu ở công nhân nam, vỡ cụng nhõn nữ chủ yếu tập trung nhiều ở
ngành chế biến thuỷ sản, đũi hỏi trỡnh độ không cao, thậm chí chỉ cần được tuyển dụng
vào là có thể làm việc được ngay không cần đào tạo.
- So với yêu cầu đũi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trỡnh độ học
vấn của đội ngũ cụng nhõn tỉnh Kiờn Giang vẫn cũn thấp, tỷ lệ lao đông được đào tạo
qua các nhà trường cũn hết sức thấp nếu không muốn nói hầu như chưa được đào tạo, chủ
yếu là moiư học hết trung học cơ sở hoặc cao hơn là mới có trỡnh độ phổ thông trung
học.
Với thực trạng trỡnh độ học vấn của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang như hiện
nay đũi hỏi Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Kiên Giang cần phải có sự quan tâm để có
chính sách đào tạo, đào tạo lại cho thích hợp nhằm nâng cao hơn nữa trỡnh độ học vấn
của đội ngũ công nhân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
gúp phần phỏt triển kinh tế - xó hội tỉnh Kiờn Giang núi riờng và cả nước nói chung.
- Trỡnh độ chuyên môn kỹ thuật của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang
Tính đến 6 tháng đầu năm 2008, đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang đó qua đào
tạo chiếm 58,30%, cũn lại 41,70% tỷ lệ cụng nhõn chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ
thuật. Trong số công nhân đó qua đào tạo, chủ yếu là đạt trỡnh độ sơ cấp và trung cấp
(43,40%), công nhân đạt trỡnh độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm tỷ lệ thấp (14,90%)
[27, tr.29].
Do đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang chưa qua đào tạo cũn chiếm tỷ lệ lớn nên
đó tạo ra lực cản rất lớn tới sự phỏt triển kinh tế - xó hội của tỉnh. Cụng nhõn chưa qua
đào tạo, tất yếu năng suất lao động không thể cao; việc ứng dụng những thành tựu khoa
học kỹ thuật cũng như công nghệ mới vào sản xuất rất khó khăn và hạn chế, sản phẩm,
dịch vụ làm ra khó có thể cạnh tranh trên thị trường, không thúc đẩy kinh tế - xó hội phỏt
triển.
Trước thực trạng trỡnh độ chuyên môn kỹ thuật của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên
Giang, để đội ngũ công nhân Kiên Giang có thể phát huy vai trũ của mỡnh đối với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh phải không ngừng thực hiện đào tạo, bồi
dưỡng cũng như đào tạo lại đội ngũ công nhân.
- Trỡnh độ tay nghề (bậc thợ) của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang
Trỡnh độ tay nghề (bậc thợ) của công nhân phản ánh trỡnh độ công nghệ của
doanh nghiệp, với những doanh nghiệp có trỡnh độ công nghệ tiên tiến, thỡ đũi hỏi trỡnh
độ tay nghề của người công nhân phải cao và ngược lại. Trỡnh độ tay nghề (bậc thợ) của đội
ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang được thể hiện như sau:
Bảng 1.3: Thống kờ trỡnh độ tay nghề (bậc thợ) đội ngũ công nhân
tỉnh Kiên Giang
Đơn vị tính: %
Trỡnh độ tay
nghề (bậc thợ)
Mốc thời gian
2001 2004 2008
Bậc 1 9,06 11,52 7,46
Bậc 2 24,69 22,41 20,20
Bậc 3 36,89 35,11 33,26
Bậc 4 14,17 13,76 11,93
Bậc 5 7,16 11,73 13,62
Bậc 6 3,04 2,13 2,06
Bậc 7 4,42 3,03 2,37
Nguồn: Liên đoàn Lao động tỉnh Kiên Giang.
Số liệu thống kờ trờn cho thấy, trỡnh độ tay nghề của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên
Giang cũn rất thấp. Công nhân bậc thấp (1-3) chiếm hơn 60%, trong khi đó công nhân
bậc cao (6-7) chỉ chiếm 4,43% và có xu hướng giảm xuống so với những năm trước đó
(năm 2007 thấp hơn năm 2001 là 3,03%).
Trỡnh độ tay nghề của công nhân không đều ở các ngành. Công nhân có trỡnh độ
tay nghề bậc cao chủ yếu ở ngành đũi hỏi trỡnh độ khoa học công nghệ, như bưu chính
viễn thông, điện lực; trong khi đó trỡnh độ tay nghề bậc thấp chủ yếu ở ngành chế biến
thuỷ sản và nông sản.
Trỡnh độ bậc thợ của công nhân nam cao hơn công nhân nữ. Điều này có lý do vỡ
nam giới cú nhiều điều kiện, thời gian rảnh dỗi, cũn nữ giới thường phải chăm lo việc
nhà, thêm nữa, tâm lý trọng nam kinh nữ cũng làm cho phụ nữ ít có điều kiện học tập,
nâng cao trỡnh độ. Cùng với sự phỏt triển xó hội nếu các cấp chính quyền và cơ quan
chức năng không có chiến lược giáo dục đào tạo thích hợp cho đội ngũ công nhân tỉnh
Kiên Giang thỡ trỡnh độ tay nghề của đội ngũ này rất khó được cải thiện, lao động phổ
thông vẫn là chủ yếu sẽ là một lực cản đối với sự phát triển kinh tế - xó hội trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang.
Như vậy, trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đũi hỏi người
công nhân phaỉ cú trỡnh độ tay nghề cao. Nhưng hiện nay trên địa bàn tỉnh Kiên Giang,
với 4,43% cụng nhõn cụng nhõn cú trỡnh độ tay nghề bậc 6-7 đó thể hiện sự thiếu hụt
nghiờm trọng cụng nhõn cú trỡnh độ tay nghề cao. Những hạn chế về trỡnh độ tay
nghề của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang là do Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Kiên Giang
chưa có một chiến lược về quy hoạch, đào tạo đội ngũ công nhân gắn với chiến lược phát
triển kinh tế - xó hội; cỏc trường đào tạo nghề chưa bắt kịp với yêu cầu phát triển, chưa có
chính sách đầu tư thoả đáng về kinh phí đào tạo cho công nhân, chưa tận dụng những tri
thức, kinh nghiệm của những công nhân có tay nghề cao đó lớn tuổi chuyển giao cho lớp trẻ.
Bản thõn nhiều cụng nhõn chỉ nhỡn thấy lợi ớch trước mắt, lo kiếm sống hàng ngày mà
không muốn giành thời gian cho học tập. Nhiều doanh nghiệp không cần kỹ thuật cao. Để
giảm chi phí nên họ ưu tiên tỡm nhõn cụng giỏ rẻ là những người lao động phổ thông chưa
qua đào tạo và không muốn bỏ kinh phí ra đào tạo. Do đó, việc nâng cao trỡnh độ tay nghề
cho đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang cũng như đưa những công nghệ tiên tiến vào doanh
nghiệp là một vấn đề cấp bách, là yêu cầu khách quan bảo đảm thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên đại bàn tỉnh Kiên Giang.
- Trỡnh độ lý luận chính trị và giác ngộ chính trị của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên
Giang
Trong những năm vừa qua, với sự tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước của các cấp, các ngành và những thành tựu do công
cuộc đổi mới đem lại, ý thức chớnh trị, sự tin tưởng vào sự lónh đạo của Đảng, vào con
đường đi lên CNXH của đất nước nên công tác quản lý điều hành của Nhà nước trong đội
ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang đó khụng ngừng được nâng lên. Đông đảo công nhân tỉnh
Kiên Giang đều tin tưởng và ủng hộ đường lối đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của cả nước nói chung, cũng như của Tỉnh nhà nói riêng. Mặc dù đội ngũ công
nhân tỉnh Kiên Giang vẫn cũn những khó khăn thách thức lớn về đời sống, thu nhập và
việc làm... nhưng họ vẫn luôn nêu cao tinh thần vượt mọi khó khăn, là lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang luôn
phát huy truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước, ý thức tự tụn dõn tộc, tự lực, tự
cường, tích cực học tập, năng động sáng tạo, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, với
khoa học công nghệ hiện đại, tham gia tích cực vào các tổ chức chính trị - xó hội, gúp
phần đưa các doanh nghiệp nhà nước vượt qua khó khăn, cũng như chủ động đấu tranh
bảo vệ lợi ích cho người lao động
Mặc dù vậy, cụng tỏc giỏo dục lý luận chớnh trị cho đội ngũ công nhân đôi lúc,
đôi nơi cũn chưa được chú trọng. Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang hiện nay đa số
chưa qua đào tạo lý luận chớnh trị. Theo số liệu thống kê năm 2001 có 87,09% công nhân
chưa qua lớp học lý luận chớnh trị nào, 12, 91% cụng nhõn cú trỡnh độ lý luận chính trị
(trong đó: trỡnh độ sơ cấp chính trị chiếm tỷ lệ 7,09%; trung cấp chính trị chiếm tỷ lệ
4,77%; trỡnh độ cao cấp chính trị chiếm tỷ lệ 0,79% và trỡnh độ cử nhân chính trị chiếm
tỷ lệ 0, 23%). Tới năm 2004 tỷ lệ này tuy có giảm xuống nhưng vẫn cũn 78,52% công
nhân chưa qua lớp học lý luận chớnh trị nào, 21,48% cụng nhõn cú trỡnh độ lý luận chính
trị (trong đó: trỡnh độ sơ cấp chính trị chiếm tỷ lệ 11,74%; trỡnh độ trung cấp chính trị
chiếm tỷ lệ 7,78%; trỡnh độ cao cấp chính trị chiếm tỷ lệ 1,00% và trỡnh độ cử nhân
chính trị chiếm tỷ lệ 0,96%). Năm 2008 tỷ lệ này cũng không chuyển biến là bao, vẫn có
77,4% công nhân chưa qua lớp học lý luận chớnh trị nào, 22,60% cụng nhõn cú trỡnh độ
lý luận chính trị (trong đó: trỡnh độ sơ cấp chính trị chiếm tỷ lệ 8,10%; trỡnh độ trung
cấp chính trị chiếm tỷ lệ 11,70%; trỡnh độ cao cấp chính trị chiếm tỷ lệ 2,00% và trỡnh
độ cử nhân chính trị chiếm tỷ lệ 0, 80%) [27, tr.34].
Qua số liệu trên cho thấy, mặc dầu tỷ lệ công nhân qua lớp học lý luận chính trị
giai đoạn sau có tăng so với giai đoạn trước: từ năm 2001 đến 2004 tăng 8,57%, từ năm
2004 đến 2008 tăng 1,12% nhưng trỡnh độ lý luận chính trị của đội ngũ công nhân tỉnh
Kiờn Giang nhỡn chung cũn thấp, đa phần chưa qua lớp học lý luận chớnh trị nào, hoặc
đó qua lớp học lý luận chớnh tri thỡ chủ yếu chỉ đạt trỡnh độ sơ cấp và trung cấp, cũn ở
trỡnh độ cao cấp và cử nhân thỡ chiếm tỷ lệ rất thấp.
Những hạn chế về trỡnh độ lý luận và giác ngộ chính trị của đội ngũ công nhân
tỉnh Kiên Giang bắt nguồn từ những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, do công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị của các cấp uỷ đảng,
chính quyền, đoàn thể ở các doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức, lực lượng
nũng cốt là đảng viên chưa gương mẫu trong học tập lý luận chính trị, phần lớn đảng viên
đi học tập lý luận chớnh tri chỉ nhằm đủ tiêu chuẩn trong đề bạt cán bộ lónh đạo và quản
lý. Tỡnh trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan trong việc giáo dục lý luận chớnh trị
cho cụng nhõn cũng làm cho việc học tập lý luận chớnh trị thiếu tớnh thuyết phục, kộm hiệu
quả
Thứ hai, trong cơ chế cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay đũi hỏi cỏc
doanh nghiệp không chỉ đảm bảo chất lượng mà cũn phải đẩy nhanh tiến độ sản xuất,
hoàn thành sản phẩm đúng thời hạn. Việc làm thêm giờ, tăng ca là tất yếu và diễn ra khá
phổ biến trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế dẫn đến tỡnh trạng công
nhân hầu như không cũn thời gian dành cho việc học tập, nõng cao trỡnh độ chuyên môn
kỹ thuật cũng như việc học lý luận chớnh trị.
Thứ ba, sự kiểm tra, giám sát của đảng uỷ cấp trên đối với công tác bồi dưỡng lý luận
chớnh trị chưa được thường xuyên, cũn mang nặng tớnh hỡnh thức.
Vấn đề tuyên truyền, đào tạo, bồi dưỡng nhằm giác ngộ ý thức chớnh trị cho đội
ngũ công nhân ở Kiên Giang có vai trũ đặc biệt quan trọng. Người công nhân nếu giác
ngộ được ý thức chính trị sẽ nhận thức được vai trũ của mỡnh trong tiến trỡnh cỏch mạng
cũng như trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và có cách ứng xử đúng đắn
trước các tỡnh huống xảy ra trong cuộc sống và trong lao động sản xuất. Điều này cũng
có nghĩa là, để đội ngũ công nhân thấy được vị trí, vai trũ của mỡnh trong đời sống xó
hội thỡ yờu cầu đặt ra là người công nhân phải có sự nhận thức chính trị đúng đắn, phải
thường xuyên được đào tạo về lý luận chớnh trị, được bồi dưỡng nhận thức về vị trí vai
trũ, sứ mệnh của mỡnh trong sự nghiệp đổi mới.
Nhưng thực hiện tốt vấn đề này thỡ nhiệm vụ đặt ra là phải chú trọng nhiều hơn
nữa đến công tác bồi dưỡng, nâng cao nhận thức chính trị cho đội ngũ công nhân tỉnh
Kiên Giang thể hiện trước hết là tích cực tuyên truyền sâu rộng, thúc đẩy phong trào học
tập lý luận chớnh trị trong đó trú trọng đến việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có như vậy, công
nhân mới thấy được vai trũ to lớn của mỡnh trong sự nghiệp cụng nghiệp hoỏ, hiện đại
hoá đất nước.
1.2.4. Những yếu tố tác động tới đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trong quỏ trỡnh phỏt triển của mỡnh, đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang chịu tác
động của nhiều yếu tố; cả khách quan và chủ quan, cả yếu tố trong nước và yếu tố quốc
tế. Trong phạm vi bản luận văn này chúng tôi xin tập trung làm rừ một số nhân tố sau và
xem đây là những yếu tố có tác động trực tiếp đến đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang:
1. Về việc làm của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang
Hàng năm số người đến tuổi lao động trên địa bàn tỉnh Kiên Giang tương đối lớn,
khoảng 40.000 người và 55.000 người cần việc làm, nhưng với tốc độ phát triển kinh tế
của tỉnh thỡ chỉ có thể giải quyết việc làm được cho khoảng 23.000 đến 29.000 lao động.
Điều này một phần có nguyên nhân do hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có quy
mô nhỏ, do đó chưa thu hút được nhiều lao động. Một số doanh nghiệp nhà nước chuyển
đổi hỡnh thức sở hữu (cổ phần hoỏ), dẫn đến nhiều lao động dôi dư bị mất việc làm.
Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp chỉ hợp đồng lao động theo mùa vụ từ 01 đến 03
tháng, hoặc thuê mướn công nhật, điển hỡnh là lao động trong các lũ vụi, ví như các công ty
trách nhiệm hữu hạn sản xuất, chế biến, xây dựng… Hiện tại, số doanh nghiệp có tỷ lệ lao
động theo mùa vụ cao là cụng ty liờn doanh Bao bỡ Hà Tiờn (53%), Cụng ty Kiờn Cường
(50%), Công ty Đầu tư và Xây dựng Kiên Giang (75,6%). Một số doanh nghiệp do thu hẹp
quy mô sản xuất nên nhiều lao động phải nghỉ việc, chuyển sang làm việc khác hoặc nghỉ chế
độ trước tuổi như Công ty cổ phần Xi măng Hà Tiên [16, tr.2]. Vỡ vậy, giải quyết việc làm cho
đội ngũ công nhân trên địa bàn tỉnh Kiên Giang cũn gặp nhiều khú khăn.
2. Về đào tạo nghề
Hiện tại, tỉnh có 04 trường cao đẳng là cao đẳng Cộng đồng, cao đẳng Kinh tế -
Kỹ thuật, cao đẳng Sư phạm và cao đẳng Y tế; phân hiệu Kiên Giang - đại học Nha
Trang; 01 trường trung cấp nghề chuyên nghiệp, nhiều trung tâm dạy nghề cấp huyện
cũng như cơ sở dạy nghề tư nhân. Bên cạnh đó, các trung tâm giới thiệu việc làm của
các đoàn thể cũng đó mở cỏc lớp đào tạo, tập huấn, giới thiệu việc làm cho nhiều lao
động. Một số doanh nghiệp đó tự tổ chức bồi dưỡng, đào tạo tại chỗ (vừa làm, vừa học)
hoặc gửi đi đào tạo, tổ chức thi tay nghề, bậc thợ cho công nhân như Công ty cổ phần Xi
măng Hà Tiên, Công ty cổ phần Xi măng Kiên Giang. Công ty xi măng Holcim đó liờn
kết với trường Cao đẳng kinh tế kỹ thuật tỉnh Kiên Giang mở lớp đào tạo kỹ thuật viên
sản xuất xi măng (76 học viên/06 khoá).
Tuy nhiên, hoạt động đào tạo nghề tại một số trường, trung tâm và doanh nghiệp vẫn
chưa được đẩy mạnh, chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp, nhất là lao động có
kỹ thuật cao, làm việc trong các doanh nghiệp đũi hỏi trỡnh độ tay nghề, kỹ thuật cao.
Nguyên nhân một phần do cơ sở vật chất phục vụ đào tạo nghề cũn thiếu, đội ngũ giáo viên
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề
vẫn cũn hạn chế, mối quan hệ giữa cỏc cơ quan và đơn vị đào tạo chưa tốt, một số doanh
nghiệp chưa quan tâm đến công tác đào tạo, nâng cao tay nghề cho công nhân.
Theo quy định các doanh nghiệp phải trích quỹ để đào tạo, nâng cao tay nghề, thi
nâng bậc cho người lao động, nhưng hầu hết các doanh nghiệp vẫn chưa thực hiện điều
này. Trong các doanh nghiệp phần lớn chỉ đào tạo trong nội bộ, chưa quan tâm tạo điều
kiện cho người lao động thi nâng bậc, được cấp chứng chỉ của cơ sở đào tạo. Điều này lý
giải tại sao hiện tại, tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh Kiên Giang cũn thấp so với mức
trung bỡnh của khu vực đồng bằng sông Cửu Long và của cả nước; tỷ lệ lao động qua
đào tạo nghề: năm 2005 là 9,4%, năm 2006 là 11%, năm 2007 là 13, 1% và dự kiến năm
2008 cũng chỉ đạt 15,3%. Do vậy, vẫn cũn rất thấp so với tỷ lệ chung của cả nước 20%
năm 2000 tăng lên 25% năm 2005 [14, tr.146].
3. Về tiền lương và nhà ở của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang
* Về tiền lương:
Tiền lương, tiền cụng là yếu tố cú vai trũ quan trọng đối với sự phát triển đội ngũ
công nhân Kiên Giang. Giải quyết tốt mối quan hệ tiền lương giữa chủ doanh nghiệp và
công nhân chính là giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong nền
kinh tế, tạo ra động lực cho kinh tế cũng như các chủ thể phát triển.
Nhỡn chung, tiền lương tại một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Kiên Giang cũn
thấp, chế độ nâng lương cho công nhân trực tiếp sản xuất ở một số doanh nghiệp chưa
đúng quy định, có doanh nghiệp cố tỡnh kéo dài thời hạn nâng lương của công nhân để
giảm mức tham gia đóng bảo hiểm xó hội, tỡnh trạng này xảy ra rất phổ biến. Việc tổ
chức thi tay nghề để nâng bậc thợ, bậc lương cho công nhân là việc làm cần thiết ở các
doanh nghiệp nhưng trên thực tế có rất ít doanh nghiệp thực hiện điều này, từ đó làm ảnh
hưởng đến quyền lợi trước mắt cũng như lâu dài của công nhân. Nhiều doanh nghiệp
chưa đăng ký thang bảng lương theo hướng dẫn của Bộ Lao động Thương binh và Xó
hội. Một số doanh nghiệp chưa tách bạch các khoản lương, phụ cấp, tiền ăn, làm thêm
giờ mà gộp chung lại để tính thành thu nhập.
Việc trả lương chậm hoặc chỉ cho tạm ứng lương ở các doanh nghiệp cũng cũn
phổ biến. Việc trớch, lập quỹ trợ cấp mất việc làm và chi trả nguồn quỹ này chưa thực
hiện đúng theo những quy định hiện hành. Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân trả lương
theo một đơn giá đó quy định, người lao động không biết định mức là bao nhiêu, công
đoàn cơ sở ít có những động thái can thiệp kịp thời nhằm giúp người lao động được
hưởng các quyền của mỡnh theo quy định ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống người
công nhân.
* Về nhà ở:
Trước tỡnh hỡnh đời sống của người công nhân gặp khó khăn, một số doanh
nghiệp đó cú những chớnh sỏch thớch hợp nhằm hỗ trợ cho cụng nhõn an tõm làm việc
bằng cách giải quyết chỗ ở cho công nhân theo khả năng của doanh nghiệp với các hỡnh
thức như: xây nhà tập thể, thuê phũng trọ của tư nhân để cho công nhân ở miễn phí như:
Công ty cổ phần Thuỷ sản Bim Kiên Giang, Công ty cổ phần xi măng Kiên Giang. Công
ty cổ phần xi măng Hà Tiên Kiên Giang đang lập dự án xây dựng nhà ở cho công nhân.
Đây là những hỡnh thức rất thiết thực nhằm giải quyết một phần khú khăn cho công
nhân, đồng thời tạo điều kiện cho họ an tâm sản xuất, góp phần làm lợi cho bản thân, cho
doanh nghiệp, cũng như đóng góp vào sự phát triển của xó hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những doanh nghiệp tạo điều kiện về nhà ở cho công nhân, thỡ
một số doanh nghiệp lại thuờ nhà trọ cho cụng nhõn nhưng lại thu tiền ở của công nhân đúng
với giá doanh nghiệp thuê (300.000đ/phũng/tháng/10m2) [16, tr.7]. Thực chất những doanh
nghiệp này không có sự hỗ trợ về nhà ở cho công nhân vỡ vậy cụng nhõn ở những doanh
nghiệp này đời sống gặp rất nhiều khó khăn. Ngay cả khi người công nhân đó thuê được
nhà trọ thỡ nhà ở cũng thường chật chội, rất nóng bức, ẩm thấp, thiếu vệ sinh ảnh hưởng
không nhỏ đến sức khoẻ người công nhân. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
làm ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.
4. Hợp đồng lao động và thoả ước lao động
Hợp đồng lao động và thoả ước lao động cú vai trũ quan trọng đối với cả công
nhân cũng như doanh nghiệp vỡ đây là cơ sở pháp lý để giải quyết những tranh chấp có
thể phát sinh giữa doanh nghiệp và cụng nhõn trong quỏ trỡnh lao động. Nó đảm bảo lợi
ích của cả hai bên trong quá trỡnh lao động. Thỏa ước lao động tạo thêm cơ sở pháp lý để
giải quyết các tranh chấp lao động, hạn chế được những bất đồng giữa người sử dụng lao
động và người lao động, giảm thiểu các cuộc đỡnh cụng, bói cụng và những cuộc đấu
tranh tự phát của người lao động.
Nhỡn chung trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, ý thức của cụng nhõn và chủ doanh
nghiệp về sự cần thiết của hợp đồng lao động và thỏa ước lao động ngày càng được nâng
cao. Có gần 95% lao động được ký hợp đồng lao động và phần lớn doanh nghiệp ký thoả
ước lao động tập thể. Việc các doanh nghiệp quan tâm thực hiện quy định về hợp đồng lao
động và thoả ước lao động tập thể đó phần nào hạn chế đơn thư khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực lao động, quyền lợi của người lao động cũng như của các doanh nghiệp được bảo đảm,
tỡnh trạng tranh chấp lao động trong các các doanh nghiệp trên địa bàn ngày càng giảm.
Tuy nhiên, nhiều hợp đồng lao động cũn mang tớnh hỡnh thức, nội dung chưa cụ
thể, không đúng quy định, đáng chú ý hơn là vẫn cũn một số cụng nhõn chưa được ký
hợp đồng lao động. Một số doanh nghiệp không trực tiếp ký hợp đồng lao động mà cho
các đội trưởng hoặc tổ trưởng tổ sản xuất ký hợp đồng hoặc hợp đồng bằng miệng không
có văn bản. Việc này xảy ra ở hầu hết các lũ sản xuất vôi, Công ty trách nhiệm hữu hạn,
doanh nghiệp ngành chế biến và xây dựng… Điển hỡnh như: Công ty liên doanh Bao bỡ Hà
Tiờn, Cụng ty Kiờn Cường, Công ty Đầu tư và Xây dựng Kiên Giang [16, tr.3] Tỡnh trạng
doanh nghiệp cố tỡnh ký hợp đồng theo mùa vụ hoặc hợp đồng theo công việc vẫn cũn
xảy ra làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách về lao động. Mặt khác, áp lực do
người lao động đang cần việc làm, ít hiểu biết pháp luật, người lao động chỉ thấy lợi ích
trước mắt nên đó khụng thực hiện đúng những quy định. Việc cấp sổ lao động trong các
doanh nghiệp đạt tỷ lệ rất thấp là một trong những nguyên nhân làm cho người công nhân
thiếu yên tâm tin tưởng vào doanh nghiệp.
5. Bảo hộ lao động và an toàn vệ sinh lao động của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên
Giang.
Bảo hộ lao động và an toàn vệ sinh lao động là những công cụ và biện pháp giúp
bảo vệ sức khoẻ và tính mạng của người lao động vỡ sẽ phũng, trỏnh được những tai nạn
đáng tiếc có thể xảy ra đối với công nhân trong khi lao động; đảm bảo được sức khoẻ,
tránh được bệnh nghề nghiệp, thời gian lao động của công nhân trong doanh doanh
nghiệp được đảm bảo.
Nhỡn chung, cỏc doanh nghiệp đó tổ chức học tập, huấn luyện và thực hiện cỏc
nội dung về cụng tỏc bảo hộ lao động, an toàn vệ sinh lao động. Hiện tại, hầu hết các
doanh nghiệp nhà nước và công ty cổ phần có vốn nhà nước đều có hội đồng bảo hộ lao
động và mạng lưới an toàn viên. Hàng năm, nhiều doanh nghiệp đều có trích kinh phí
trang bị và cấp bảo hộ lao động, nhất là đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực sản xuất, khai thác vật liệu xây dựng, chế biến thuỷ sản.
Công tác khám sức khoẻ định kỳ cũng được một số doanh nghiệp quan tâm. Cơ
quan quản lý nhà nước về lao động đó tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, tập huấn
an toàn vệ sinh lao động tại các doanh nghiệp. Nhờ vậy, điều kiện lao động tại một số
doanh nghiệp được cải thiện đáng kể.
Tuy vậy, trên địa bàn tỉnh Kiên Giang vẫn cũn nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện
đầy đủ các quy định, quy trỡnh về an toàn và vệ sinh lao động. Nhiều doanh nghiệp chưa
tổ chức tuyên truyền, tập huấn an toàn vệ sinh lao động, nếu cú chỉ là hỡnh thức nhằm
đối phó; chưa có kế hoạch bảo hộ lao động, mua sắm trang thiết bị bảo hộ lao động cấp
cho công nhân. Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa thành lập Ban an toàn lao
động và mạng lưới an toàn viên cơ sở theo quy định. Có những doanh nghiệp xảy ra tỡnh
trạng người lao động không chấp hành nội quy lao động như: không mang đồ bảo hộ lao
động, nhất là tại các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng nhưng không có biện pháp
kiên quyết xử lý.
Cụng tỏc phũng chống chỏy nổ của một số doanh nghiệp cũng chưa được chú ý.
Mụi trường làm việc của công nhân tại một số doanh nghiệp vẫn chưa được đảm bảo theo
quy định, đặc biệt là các tiêu chuẩn về hàm lượng bụi, tiếng ồn, không gian làm việc ở các
công ty sản xuất xi măng, công ty cổ phần sản xuất vật liệu Xây dựng; độ thoáng, ánh sáng,
nhiệt độ nơi làm việc không được đảm bảo ở Công ty Bao bỡ Hà Tiờn (tổ mỏy tạo sợi và
dệt) [16, tr.5].
Những năm qua, số vụ tai nạn lao động vẫn liên tiếp xảy ra. Từ đầu năm 2005 đến
nay đó xảy ra 61 vụ tai nạn lao động, làm chết 22 người và bị thương 46 người, làm tổn
thất tài sản trực tiếp và chi phí thuốc men, mai táng cho người bị nạn trên 2 tỷ đồng. Các
vụ tai nạn xảy ra tại các công trỡnh dõn dụng và cụng nghiệp cú chiều hướng gia tăng,
nổi cộm là các vụ tai nạn do ngó cao, sập cụng trỡnh và bị điện giật trong các công trỡnh
xõy dựng dõn dụng, gần đây nhất là 02 người chết và 01 người bị thương nặng tại công ty
cổ phần sản xuất vật liệu xây dựng Kiên Giang do bị sét đánh vỡ khụng tuõn thủ kỷ luật.
Một vấn đề đáng quan tâm là công tác khám sức khoẻ định kỳ cho người lao động rất ít
doanh nghiệp thực hiện. Một số doanh nghiệp có tổ chức khám nhưng cũn mang tớnh
hỡnh thức, hiệu quả thấp. Một số người lao động cũn ngần ngại khi đi khám sức khoẻ
định kỳ vỡ sợ nếu phát hiện bị bệnh sẽ không được bố trí công việc như: Công ty
trách nhiệm hữu hạn xuất nhập khẩu Kiên Giang. Công ty cổ phần vật liệu Xây dựng
Kiên Giang, qua khám sức khoẻ định kỳ có 11/96 lao động có hiện tượng bệnh nghề
nghiệp, chiếm tỷ lệ 11,5%. Đây là một thực tế đáng báo động về tỡnh hỡnh sức khỏe
người lao động.
6. Bảo hiểm xó hội và bảo hiểm y tế của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang
Bảo hiểm xó hội cũng như bảo hiểm y tế đối với công nhân là những vấn đề có
liên quan tới lợi ích trực tiếp và lâu dài đối với sức khoẻ và quyền lợi người công nhân,
nó giúp người công nhân có thể thanh toán các khoản tài chính khi họ hết tuổi lao động
hoặc ốm đau, bệnh tật. Vỡ vậy, bảo hiểm xó hội là một trong những nội dung được công
nhân thực s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.pdf