Tài liệu Luận văn Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá: LUẬN VĂN:
Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên
trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua các giai đoạn cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiền
phong là Đảng Cộng sản đã thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, góp phần làm nên
những trang sử vàng chói lọi của dân tộc. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục lãnh
đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện những nhiệm vụ mới. Trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vai trò cách mạng, vai trò lãnh đạo, tính
tiên phong của giai cấp công nhân càng trở nên quan trọng, có ý nghĩa quyết định sự thành
công và chiều hướng phát triển của đất nước. Đất nước có phát triển bền vững, đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn phụ thuộc vào sự phát triển giai cấp công nhân.
Một giai cấp công nhân tiên tiến, hiện đại, đại diện cho một phương thức s...
102 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1276 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên
trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua các giai đoạn cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiền
phong là Đảng Cộng sản đã thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, góp phần làm nên
những trang sử vàng chói lọi của dân tộc. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục lãnh
đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện những nhiệm vụ mới. Trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vai trò cách mạng, vai trò lãnh đạo, tính
tiên phong của giai cấp công nhân càng trở nên quan trọng, có ý nghĩa quyết định sự thành
công và chiều hướng phát triển của đất nước. Đất nước có phát triển bền vững, đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn phụ thuộc vào sự phát triển giai cấp công nhân.
Một giai cấp công nhân tiên tiến, hiện đại, đại diện cho một phương thức sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, giác ngộ chính trị cao, làm chủ vận mệnh của mình, của đất nước luôn là mong
muốn của toàn xã hội.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Đối với giai cấp công nhân, phát
triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ
học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước” [8, tr.120].
Để có thể tiếp tục làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình trong thời kỳ mới, giai
cấp công nhân Việt Nam phải không ngừng hoàn thiện, phát triển về số lượng và chất
lượng, nâng cao trình độ nghiệp vụ, năng động và sáng tạo, vươn lên chiếm lĩnh những
đỉnh cao của khoa học - kỹ thuật hiện đại, xứng đáng là lực lượng cách mạng tiên phong
của toàn dân tộc.
Hưng Yên là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, liền kề với
thủ đô Hà Nội. Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên là một bộ phận của giai cấp công nhân
Việt Nam, có truyền thống kiên cường bất khuất. Từ khi có Đảng lãnh đạo, đội ngũ công
nhân tỉnh Hưng Yên đã thể hiện rõ vai trò to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ngày nay, vai trò đó càng quan trọng. Hiện nay, đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên đã và
đang có những biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Bên cạnh những mặt mạnh
như: năng động, sáng tạo, chịu khó học hỏi để nâng cao tay nghề, vươn lên chiếm lĩnh
khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, đội ngũ này cũng bộc lộ một số hạn chế như: số
lượng ít, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp của công
nhân còn thấp, kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân của tỉnh xuất thân
từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống, khả năng ứng dụng tiến bộ khoa
học - kỹ thuật hiện đại vào sản xuất còn ít. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của đội
ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên chưa đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn
nhiều hạn chế. Thực trạng đó đòi hỏi phải từng bước khắc phục nhằm phát triển số lượng
và nâng cao chất lượng của đội ngũ công nhân Hưng Yên để hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình. Chính vì lẽ đó tác giả đã chọn đề tài: “Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” làm luận văn tốt nghiệp cao học với
mong muốn đóng góp vào việc nghiên cứu vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề giai cấp công nhân ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều công
trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
* Các văn bản của Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Nghị quyết Trung ương 7 khoá VII đã thông qua “Chính sách phát triển công
nghiệp, công nghệ và xây dựng giai cấp công nhân nhằm đẩy tới một bước công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước” được thể hiện trong cuốn sách “Qua các Đại hội và Hội nghị
Trung ương từ 1930 - 2002” do Nguyễn Trọng Phúc chủ biên, Nxb Lao động, Hà Nội
2003. Hội nghị coi vấn đề xây dựng công tác công nhân và công đoàn là nhiệm vụ trọng
tâm của toàn Đảng trong thời kỳ phát triển mới, bởi vì chỉ với một giai cấp công nhân
trưởng thành về chính trị, có trình độ tổ chức, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, mới
có thể là nòng cốt để liên minh với nông dân, trí thức, tập hợp và đoàn kết các thành phần
khác, phấn đấu cho thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Mới đây, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết Trung ương 6 khóa X, trong
đó có Nghị quyết chuyên đề “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Đây là Nghị quyết trực tiếp
nhất bàn về giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Những quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo trong Nghị quyết chính là cơ sở lý luận quan trọng để triển khai những nội
dung của đề tài.
* Một số công trình đã in thành sách:
- “Giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ
XXI”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Lao động, Hà Nội 2002 là công trình nghiên cứu
khoa học của tập thể tác giả. Các tác giả đã phân tích các nhân tố tạo động lực cho sự
phát triển của giai cấp công nhân, từ đó đề xuất một hệ thống quan điểm và giải pháp để
nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam xứng đáng là lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay; đồng thời tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân Việt Nam.
- “Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước” của PGS. TS Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004. Đây là
một công trình nghiên cứu khá toàn diện về giai cấp công nhân Việt Nam. Từ lý luận đến
thực tiễn, tác giả đã đề cập đến giai cấp công nhân, thực trạng và xu hướng biến đổi của
giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ đó đề ra
phương hướng, mục tiêu, giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam.
- “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân và công đoàn Việt
Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế”, là kỷ yếu hội
thảo khoa học, Nxb Lao động, Hà Nội, 2007. Cuốn sách bao gồm các bài viết về: vị trí,
vai trò của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với giai cấp công nhân và tổ chức Công
đoàn…
- “Góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam từ thực trạng công nhân thành
phố Hồ Chí Minh” do PGS. TS Nguyễn Đăng Thành chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội 2007. Các tác giả đã phân tích thực trạng đội ngũ công nhân thành phố Hồ Chí
Minh, qua đó phần nào khái quát thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam để từ đó nghiên
cứu, tham khảo và đưa ra những luận cứ khoa học cho việc định hướng phát triển giai cấp
công nhân nước ta hiện nay.
* Các bài đăng trên tạp chí:
- “Nội dung và chủ thể, quan điểm và giải pháp “trí thức hoá công nhân” ở nước ta
hiện nay”, của PGS. TS Phan Thanh Khôi, tạp chí Lao động và Công đoàn số 329 tháng
4 (kỳ 1) - 2005. Tác giả đã đưa ra một số nội dung, các chủ thể chính, những quan điểm
cơ bản trong quá trình “trí thức hoá công nhân” ở nước ta hiện nay, từ đó đề xuất các giải
pháp lớn nhằm “trí thức hoá công nhân” ở nước ta hiện nay.
- “Xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân, nhân tố quyết định thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, TS Dương Văn Sao, Tạp chí Lao động và
Công đoàn số 376, tháng 3 (kỳ 2) - 2007. Tác giả đã khẳng định: Giai cấp công nhân là nhân
tố quyết định thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từ đó đề
xuất một số chủ trương, chính sách nhằm phát huy vai trò giai cấp công nhân trong giai đoạn
hiện nay.
* Các luận văn, luận án tiến sĩ:
“Xây dựng đội ngũ công nhân ở Đồng Nai đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa” của Phạm Hồng Hải, luận văn thạc sỹ triết học, Hà Nội 2002. “Xu
hướng biến động của giai cấp công nhân ở tỉnh Quảng Ninh trong thời kỳ đổi mới” của
Nguyễn Thị Huyền Thái, luận văn thạc sỹ triết học, Hà Nội 2006. “Vấn đề đình công của
công nhân ở nước ta hiện nay” của Phạm Thị Xuân Hương, luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội
2001. “ý thức chính trị của công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở
nước ta hiện nay” của Dương Thị Thanh Xuân, luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội 2007…
ở tỉnh Hưng Yên, Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân, Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội, Liên đoàn Lao động đã phối hợp với một số doanh nghiệp, cơ quan thông tin đại
chúng tổ chức nghiên cứu, toạ đàm một số vấn đề về đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên.
Nhưng đó là những công trình bước đầu và chủ yếu dưới góc độ thống kê, phân tích thực
trạng đội ngũ công nhân qua kết quả điều tra xã hội học về tay nghề, bậc thợ, giới tính,
tuổi đời, mức sống. Chưa có nghị quyết riêng nào về đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên,
cũng như chưa có đề tài khoa học nào nghiên cứu vấn đề đội ngũ công nhân tỉnh Hưng
Yên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở cấp thạc sỹ và tiến sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ thực trạng và xu hướng biến đổi của đội ngũ công nhân tỉnh
Hưng Yên, luận văn đề xuất một hệ thống giải pháp chủ yếu có tính khả thi để xây dựng
và phát huy vai trò của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ đặc điểm và vai trò của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phân tích thực trạng của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên, từ đó dự báo xu hướng
biến đổi của đội ngũ này trong thời gian tới.
- Đề xuất phương hướng cơ bản và một số nhóm giải pháp chủ yếu để xây dựng đội
ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn
toàn tỉnh Hưng Yên
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đội ngũ công nhân trên địa bàn tỉnh Hưng Yên từ khi tái lập tỉnh (năm
1997) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm, Nghị quyết của Đảng về giai cấp công nhân, về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đồng thời, luận văn có sử dụng kết quả nghiên cứu của một số công
trình khoa học có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, đồng thời kết hợp các phương
pháp khác như: lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; điều tra xã hội học; thống kê và
so sánh để giải quyết những vấn đề của đề tài.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Nghiên cứu một cách có hệ thống về thực trạng của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng
Yên, dự báo xu hướng biến đổi của nó.
- Đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của đội ngũ công nhân
ở tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn kết cấu thành
3 chương và 6 tiết.
Chương 1
đặc điểm và vai trò của đội ngũ công nhân tỉnh hưng yên trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
1.1. giai cấp công nhân trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
Khái niệm giai cấp công nhân đã được đề cập và luận bàn ngay khi giai cấp công
nhân xuất hiện trên vũ đài chính trị. Cho đến nay đã có nhiều khái niệm giai cấp công
nhân khác nhau do nhiều nhà nghiên cứu tuỳ thuộc ở lập trường giai cấp, thái độ chính
trị, trình độ nhận thức và phương pháp tiếp cận khác nhau đưa ra nhiều ý kiến không
giống nhau. Quan niệm về giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn hàm chứa
tính khách quan và khoa học hơn cả bởi dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận
biện chứng duy vật. Trong nhiều tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét
khái niệm giai cấp công nhân trên tất cả các khía cạnh, các dấu hiệu đặc trưng nhất và các
thuộc tính bản chất của nó. Ngay từ năm 1845, khi bắt tay vào nghiên cứu giai cấp công
nhân, trong tác phẩm “Gia đình thần thánh”, C.Mác đã đặt câu hỏi: “Vấn đề là ở chỗ giai
cấp vô sản thực sự là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó giai cấp vô sản
buộc phải làm gì về mặt lịch sử” [19, tr.56].
Trong lời nói đầu tác phẩm: “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hê
ghen”(1844), C.Mác đã chỉ ra nguồn gốc kinh tế, xã hội và xu hướng phát triển của giai cấp
công nhân - trong tác phẩm C.Mác sử dụng thuật ngữ giai cấp vô sản. Theo C.Mác: “Giai
cấp vô sản Đức là con đẻ của nền đại công nghiệp non trẻ đang hình thành ở Đức”. Quan
điểm này không những chỉ rõ giai cấp vô sản được hình thành từ chủ nghĩa tư bản công
nghiệp mà còn đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ đang trong giai đoạn hình thành và
phát triển.
Trong tác phẩm: “Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh” (1844 - 1845), Ph.Ăngghen
khẳng định: “Giai cấp công nhân Anh là kết quả chủ yếu của cuộc cách mạng công
nghiệp ở Anh. Lịch sử giai cấp công nhân Anh bắt đầu từ nửa thứ hai của thế kỷ thứ
XVIII. Công nghiệp nhỏ đã làm nảy sinh ra giai cấp công nhân. Công nhân công nghiệp
là hạt nhân của phong trào công nhân” [19, tr.354].
Ngoài ra, C.Mác và Ph.Ăngghen còn sử dụng một số thuật ngữ khác ngoài “giai cấp
vô sản”, “giai cấp công nhân” để biểu đạt khái niệm “giai cấp công nhân”. Chẳng hạn
như: “giai cấp vô sản công nghiệp”, “giai cấp vô sản hiện đại”, “giai cấp công nhân đại
cơ khí”…Bên cạnh đó, trong một số điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, các ông còn sử dụng
một số hình thức diễn đạt khác như: “lao động làm thuê”, “giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ
sống dựa vào bán sức lao động của mình”, “giai cấp của những người hoàn toàn không có
của”, “giai cấp công nhân làm thuê thế kỷ XIX”… Có thể khẳng định rằng, các thuật ngữ
đã nêu chỉ là sự khác nhau về hình thức biểu đạt trong những văn cảnh cụ thể của một
khái niệm: “Giai cấp công nhân” với sự thống nhất về bản chất: lực lượng lao động trong
nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
C.Mác, Ph.Ăngghen phân biệt giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới và
bản chất cách mạng với bộ phận công nhân đã bị tha hóa, đánh mất mình bằng những
thuật ngữ đối ngược nhau: giữa một bên là “giai cấp vô sản cách mạng” với một bên là
“tầng lớp vô sản lưu manh” mất gốc, những phần tử cặn bã của xã hội; đồng thời để phân
biệt giai cấp công nhân cách mạng với bộ phận công nhân đã khuất phục, trở thành công
cụ từ bên trong, mưu toan kìm hãm và khuôn cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
trong trật tự của “chủ nghĩa tư bản” vì mục tiêu kinh tế và lợi ích tầm thường do hệ tư
tưởng tư sản và tiểu tư sản thao túng, các ông đã sử dụng thuật ngữ: “công nhân quý tộc”.
Như vậy, tầng lớp vô sản lưu manh và "công nhân quý tộc" không còn là bộ phận của giai
cấp công nhân nữa mà đã trở thành một bộ phận của giai cấp tư sản hoặc đã là tầng lớp
cặn bã của xã hội.
Tuy có khác nhau trong cách gọi, cách diễn đạt, do khác nhau nhưng những thuật
ngữ không giống nhau nêu trên về khái niệm giai cấp công nhân đều được các nhà kinh
điển mác xít sử dụng như một khái niệm đồng nhất dựa trên hai tiêu chí cơ bản để phân
định giai cấp công nhân với các giai tầng xã hội khác, đó là:
Thứ nhất, vị trí của giai cấp công nhân trong lực lượng sản xuất.
Giai cấp công nhân là những người (tập đoàn người) lao động trực tiếp hay gián tiếp
vận hành công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa,
quốc tế hóa cao. Đây cũng là tiêu chí cơ bản để phân biệt người công nhân hiện đại với
người thợ thủ công thời trung cổ hay người thợ trong công trường thủ công. C.Mác chỉ
rõ: “Trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người công nhân sử dụng công
cụ của mình, còn trong công xưởng thì người công nhân phải phục tùng máy móc” [22,
tr.605]. Điều đó cho thấy, hai ông luôn nói đến giai cấp công nhân với tư cách là tập đoàn
người bao gồm những người công nhân công xưởng, là sản phẩm của nền đại công
nghiệp và phát triển cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. Chúng ta có thể thấy rõ
điều này trong những luận điểm sau đây của C.Mác. Ph.Ăngghen: “Các giai cấp khác đều
suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là
sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [20, tr.610]; “Công nhân cũng là một phát
minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy…Công nhân Anh là đứa con đầu lòng
của nền công nghiệp hiện đại” [21, tr.11].
Như vậy, giai cấp công nhân ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của
đại công nghiệp. Chính vì thế, giai cấp công nhân là hiện thân của lực lượng sản xuất
hiện đại, đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến và mang trong mình những đặc trưng
riêng mà không một giai - tầng nào có được, đó là: tính tiên tiến, hiện đại, tinh thần khoa
học và cách mạng triệt để; ý thức tổ chức kỷ luật; tình đoàn kết giai cấp.
Thứ hai, vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Vào thế kỷ XIX ở xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người lao
động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc
lột về giá trị thặng dư. Đối diện với nhà tư bản, công nhân là những người lao động tự do,
những người bán sức lao động của mình để kiếm sống. C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt nhấn
mạnh tiêu chí này vì chính điều này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng
với giai cấp tư sản.
Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp
công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được
việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản
- cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn
từng bữa một, là một hàng hoá, tức là một món hàng đem bán như bất cứ một
món hàng nào khác; vì thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh,
mọi sự lên xuống của thị trường [20, tr.605].
Vì tiêu chí thứ hai này nói lên một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công
nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nên C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công
nhân là giai cấp vô sản.
Từ hai tiêu chí trên, trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”
(1847), Ph.Ăngghen đã đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân:
Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng
việc bán sức lao động của mình chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ
số tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết toàn
bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình
cải biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc cạnh
tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp của những
người vô sản là giai cấp lao động trong thế kỷ XIX… Giai cấp vô sản do cuộc
cách mạng công nghiệp sản sinh ra [20, tr.456 - 457].
Như vậy, mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen chưa nêu lên thành một định nghĩa hoàn chỉnh
về giai cấp công nhân, nhưng qua một số tác phẩm, với các cách tiếp cận khác nhau, các ông
đều đưa ra một cách khái quát nhất những đặc trưng cơ bản, những thuộc tính bản chất của giai
cấp công nhân. Nhờ đó, chúng ta có thể dễ dàng nhận diện được giai cấp công nhân trong xã
hội tư bản chủ nghĩa.
Phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen trong thời đại mới - thời đại đế
quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, đặc biệt trong chủ nghĩa xã hội hiện thực, trên cơ
sở quan niệm đúng và mới về giai cấp, V.I.Lênin bổ sung thêm những thuộc tính mới của
giai cấp công nhân. Theo V.I.Lênin, sự phân chia giai cấp trong xã hội phải dựa vào địa
vị và sự khác nhau của các tập đoàn người trong quan hệ đối với chế độ sở hữu tư liệu
sản xuất, trong quan hệ đối với quản lý sản xuất và trong quan hệ đối với sản phẩm.
Trong tác phẩm: “Sáng kiến vĩ đại”, V.I.Lênin đã đưa ra một định nghĩa nổi tiếng về giai
cấp, làm tiêu chuẩn để phân chia cơ cấu giai cấp - xã hội, để trên cơ sở đó có sự nhận
thức đúng về giai cấp công nhân:
Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác
nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch
sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của
họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng
thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là
những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập
đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế
xã hội nhất định [18, tr.17 - 18].
Trên cơ sở quan niệm mới về giai cấp như vậy, trong nhiều tác phẩm của mình như:
“Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga”, “Nhà nước và cách mạng”, “Kinh tế chính
trị trong thời đại chuyên chính vô sản”…V.I.Lênin đã chỉ ra: sau khi cách mạng vô sản
thành công, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền. Địa vị kinh tế - xã hội
của giai cấp công nhân đã hoàn toàn thay đổi, từ thân phận nô lệ làm thuê trở thành giai
cấp thống trị về chính trị, thông qua đảng tiên phong của mình lãnh đạo toàn xã hội cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Giai cấp công nhân không còn theo đúng nghĩa đen
của nó. Theo V.I.Lênin, giai cấp công nhân là giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh
đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội
mới, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Xu hướng phát triển
của giai cấp công nhân là đi đến chỗ tự thủ tiêu mình với tính cách là giai cấp vô sản.
Theo V.I.Lênin, công nhân là những người lao động chuyên nghiệp, làm việc trong nền
đại công nghiệp.
Những quan điểm về giai cấp công nhân của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin nêu
ở trên đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
khoa học quan trọng để nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại trong điều kiện hiện nay.
Góp chung vào sự nỗ lực làm sáng tỏ khái niệm giai cấp công nhân, thời gian gần
đây, ở nước ta đã có khá nhiều học giả, các trung tâm nghiên cứu đã đưa ra khá nhiều
định nghĩa khác nhau về giai cấp công nhân.
Tập thể tác giả trong công trình nghiên cứu khoa học: “Một số vấn đề về chủ nghĩa
Mác - Lênin trong thời đại ngày nay” định nghĩa như sau:
Giai cấp công nhân là những người lao động sản xuất trong các ngành
công nghiệp thuộc các trình độ kỹ thuật khác nhau mà địa vị kinh tế - xã hội
tuỳ thuộc vào chế độ xã hội đương thời: ở các nước tư bản, họ là những người
không có hoặc cơ bản không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư
sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa,
họ là những người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất
chủ yếu và cùng hợp tác lao động cho mình [11, tr.97].
Trong cuốn giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học do Hội đồng Trung ương chỉ đạo
biên soạn giáo trình quốc gia các môn học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã định
nghĩa:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát
triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ
phát triển của lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, tái sản xuất ra của cải vật chất
và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp
công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất
phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở
các nước xã hội chủ nghĩa, họ là những người đã cùng nhân dân lao động làm
chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích
chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ [12,
tr.99].
Các định nghĩa nêu trên về giai cấp công nhân, nhìn chung đều phản ánh được đặc
trưng cơ bản của giai cấp công nhân: là người lao động công nghiệp gắn với khoa học - kỹ
thuật, công nghệ hiện đại trong nền sản xuất xã hội, địa vị kinh tế - xã hội, vai trò và sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân… Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ đã diễn ra với tốc độ rất nhanh và đang tác động trực tiếp, sâu sắc dẫn đến
sự biến đổi về cơ cấu, số lượng, chất lượng, ngành nghề, phương thức và phong cách lao
động cũng như năng lực trí tuệ của giai cấp công nhân. Vì vậy sẽ không thể đưa ra một định
nghĩa về giai cấp công nhân một cách khoa học, nếu như không đổi mới nhận thức về giai
cấp công nhân trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Một vấn đề nữa gây nhiều tranh
cãi về định nghĩa giai cấp công nhân là địa vị của họ trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã
hội trong giai đoạn hiện nay là gì?
Một là, ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay một bộ phận công nhân có cổ phần,
cổ phiếu.
Hai là, ở các nước xã hội chủ nghĩa đang tiến hành đường lối phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế đó, ngoài bộ phận công nhân
trong thành phần kinh tế nhà nước còn có bộ phận công nhân trong thành phần kinh tế
ngoài nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vẫn là công nhân làm
thuê và vẫn bị bóc lột về giá trị thặng dư, do vậy vấn đề làm chủ của giai cấp công nhân
sẽ như thế nào?
Việc có nhiều định nghĩa về giai cấp công nhân chứng tỏ rằng đó là một vấn đề
phức tạp, còn chưa có sự thống nhất trong quan niệm. Do đó, để đưa ra một định nghĩa
chính xác và hoàn hảo về giai cấp công nhân trong tình hình hiện nay là một điều không
dễ dàng, đòi hỏi nỗ lực và sự phối hợp của nhiều nhà khoa học, nhiều trung tâm nghiên
cứu xã hội.
Trên cơ sở kế thừa tư tưởng của các nhà kinh điển mác xít; những điểm cơ bản của
các định nghĩa nêu trên kết hợp với phong trào công nhân, chúng tôi xin đưa ra định
nghĩa về giai cấp công nhân như sau:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, được hình thành và phát
triển cùng với nền sản xuất công nghiệp hiện đại, là lực lượng sản xuất cơ bản và tiên
tiến, là lực lượng lãnh đạo và là động lực chủ yếu của quá trình chuyển biến cách
mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước và trên toàn thế giới.
Trong các nước tư bản chủ nghĩa do không có hoặc cơ bản không có những tư liệu
sản xuất, họ phải bán sức lao động làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị
thặng dư; trong các nước xã hội chủ nghĩa, họ cùng nhân dân lao động làm chủ các
tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng lao động sáng tạo vì lợi ích của bản thân, đồng thời
vì lợi ích chung của xã hội.
Từ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân, vận
dụng vào Việt Nam, mới đây trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá X) "Về tiếp
tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước" đã khẳng định “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội
to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công
hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản
xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” [9, tr.43].
Như vậy, có thể nói giai cấp công nhân là hiện thân của lực lượng sản xuất hiện đại, là
lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.1.2. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hóa đã khởi đầu cách đây từ ba trăm năm. Từ thế kỷ XVIII, cuộc cách
mạng công nghiệp đầu tiên trên thế giới đã diễn ra ở Anh, sau đó lan truyền sang một số
nước khác ở Tây Âu như: Hà Lan, Pháp, Đức, Italia…Dù công nghiệp hóa được diễn ra
sớm như vậy nhưng mãi đến cuối thế kỷ XIX, thuật ngữ “công nghiệp hóa” mới xuất hiện
với ý nghĩa là biến một lĩnh vực sản xuất nào đó hoạt động theo cung cách của ngành
công nghiệp cơ khí mới ra đời. Đến nửa sau thế kỷ XX, khái niệm công nghiệp hóa mới
được dùng phổ biến với ý nghĩa như một giai đoạn phát triển kinh tế của một nước bao
hàm nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp.
Như vậy, khái niệm công nghiệp hóa ra đời gắn liền với sự xuất hiện của máy móc
và sự thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hóa - nghĩa là gắn với sự hình
thành và phát triển của công nghiệp. Bản thân nền công nghiệp luôn vận động và phát
triển: từ kỹ thuật cơ khí giản đơn với máy hơi nước làm động lực tới cơ khí phức tạp với
động cơ đốt trong, rồi điện năng và các dạng năng lượng mới làm động lực, sau đó là tự
động hóa, điện tử hóa…Từ đó, quan niệm về công nghiệp hóa cũng dần được mở rộng
theo nhiều nghĩa khác nhau. Cho đến nay, mặc dầu về thuật ngữ và cả thực tiễn “công
nghiệp hóa” không còn mới mẻ, nhưng khái niệm “công nghiệp hóa” vẫn là nội dung
được nhiều nhà khoa học trao đổi, bàn luận nhiều và còn chưa có sự thống nhất hoàn toàn
về định nghĩa này. Có lúc “công nghiệp hóa” được dùng với ý nghĩa là xây dựng và mở
rộng lĩnh vực công nghiệp chế tác (manufacturinh), ví dụ: từ điển Petit Laroussc illustre 1992
đã định nghĩa đơn giản là: “Công nghiệp hóa là đưa đặc tính công nghiệp cho một hoạt động;
trang bị (cho một vùng, một nước) các nhà máy, các loại công nghiệp…” [14, tr. 48].
Lại có quan niệm cho rằng nội dung chủ yếu của công nghiệp hóa là phát triển công
nghiệp nặng. Trong một thời gian dài, quan niệm này được lưu hành một cách phổ biến ở
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (cũ) như: “Công nghiệp hóa là quá trình xây
dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển
công nghiệp nặng với ngành trung tâm là chế tạo máy” [14, tr.49]. Quan niệm về công
nghiệp hóa như vậy có thể thích hợp với bối cảnh của Liên Xô lúc bấy giờ. Nước Nga trước
cách mạng tuy đã có đại công nghiệp, nhưng chủ yếu vẫn là nước nông nghiệp và mức độ
công nghiệp phát triển lạc hậu hơn so với những nước tư bản Tây Âu. Mặt khác, Liên Xô
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong sự bao vây cô lập của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế
quốc, yêu cầu phát triển nền kinh tế khép kín, tự lực cánh sinh đòi hỏi Liên Xô phải tập trung
phát triển công nghiệp nặng là chủ yếu.
Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) sau nhiều
vòng tranh luận đã đưa ra một định nghĩa có tính quy ước về công nghiệp hóa như sau:
Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ
phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu
kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra các phương tiện sản
xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp độ tăng trưởng cao trong
toàn nền kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ kinh tế và xã hội [ 1, tr.6].
Tóm lại, tuy có nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa nhưng chủ yếu là
hai quan niệm sau:
Một là, theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa là quá trình phát triển công nghiệp trong
một thời kỳ nhất định, trong đó nền sản xuất xã hội được tổ chức theo lối công nghiệp
dựa trên cơ sở thay thế lao động thủ công bằng máy móc và máy móc chiếm ưu thế.
Hai là, theo nghĩa rộng, công nghiệp hóa là quá trình công nghiệp liên tục, cải tổ
thường xuyên cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hiện đại, ngày càng đa dạng.
Có nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa như vậy là bởi trên thực tế, công
nghiệp hóa là quá trình phức tạp, lâu dài mà việc phân biệt các mốc giới, định tính, định
lượng và về thời gian không phải là điều dễ dàng. Mặt khác, sự biểu hiện về mô hình của
nó gắn với mỗi quốc gia dân tộc do những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau cũng không
thể thuần nhất. Dù như vậy, cũng cần hiểu một cách khái quát nhất: Công nghiệp hóa là
quá trình phát triển kinh tế diễn ra lâu dài, bắt đầu từ khi xuất hiện công nghiệp và đến
khi nền kinh tế với công nghiệp phát triển cao cũng chưa phải là điểm kết thúc mà lại có
thể là mở đầu cho một cuộc cách mạng công nghiệp mới.
ở nước ta, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được coi là nhiệm vụ trung tâm của
thời kỳ quá độ, đã được Đảng ta đề ra từ Đại hội III (năm 1960): Công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa là “quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện sự phân công mới về lao
động xã hội và là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản
xuất mở rộng” [4, tr.182]. Đường lối công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa lúc đó được xác
định là: “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ”.
Có thể nói, suốt một thời gian dài (từ năm 1960 đến năm 1986) quan niệm về công
nghiệp hóa ở nước ta hầu như không thay đổi, mặc dù có được điều chỉnh dần dần qua
các Đại hội IV, V. Quan niệm đó có thể phù hợp với điều kiện nước ta và thế giới lúc bấy
giờ (hoàn cảnh chiến tranh và sự đối lập giữa hai hệ thống buộc chúng ta phải tự lực cánh
sinh và xây dựng nền kinh tế “khép kín”). Nhưng một thực tế là quan niệm đó đã đưa lại
hiệu quả rất thấp về công nghiệp hóa ở nước ta. Mặc dù chúng ta đã xây dựng được một
số cơ sở kinh tế công nghiệp quan trọng, then chốt, nhưng về cơ bản nước ta vẫn là một
nước nông nghiệp lạc hậu, tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân còn thấp.
Dần dần, cùng với sự phát triển lý luận và thực tiễn, cái nhìn về công nghiệp hóa cũng trở
nên rộng hơn, phức tạp hơn, chứ không chỉ đơn thuần là phát triển công nghiệp là chính
và càng không thể quy về phát triển công nghiệp nặng, mặc dù sự phát triển này có ý
nghĩa quan trọng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã có sự chuyển hướng
chiến lược về công nghiệp hóa: từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang lấy nông
nghiệp, công nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm. Điều đó đã tạo
nên khởi sắc mới cho tiến trình công nghiệp hóa ở nước ta. Những điều nói trên muốn
chứng minh một thực tế là: quan niệm như thế nào (đúng hay sai) không chỉ đơn thuần có
ý nghĩa về mặt học thuật mà còn quyết định đến sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nói riêng, sự phát triển của đất nước nói chung.
Do đó, quan niệm về công nghiệp hóa trong thời đại ngày nay phải bao hàm được
những nội dung và mục tiêu cơ bản sau: công nghiệp hóa là quá trình trang bị và trang bị
lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân; công nghiệp hóa không chỉ
bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của đất nước; quá trình công nghiệp
hóa trong bất kỳ giai đoạn nào cũng đều vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật vừa là quá
trình kinh tế - xã hội. Công nghiệp hóa không phải là một mục đích tự thân mà là một
phương thức có tính chất phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi nước. Từ đó có thể
hiểu:
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội theo
hướng phát triển mạnh công nghiệp, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong
cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, áp dụng rộng rãi với hiệu quả cao những
tiến bộ khoa học, công nghệ mới, hiện đại, làm nền tảng cho sự tăng trưởng và
phát triển nhanh, vững chắc của toàn bộ nền kinh tế - xã hội [ 32, tr.63].
Quan niệm này không những phản ánh được nội dung của quá trình công nghiệp hóa
mà còn nêu bật được mục tiêu công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa chính là quá trình trang
bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, bao hàm tất cả
các ngành, các lĩnh vực hoạt động chứ không riêng chỉ phát triển ở lĩnh vực công nghiệp.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ đã phát
triển mạnh mẽ, loài người đang bước vào kinh tế tri thức, vì vậy công nghiệp hóa đòi hỏi
phải gắn với quá trình hiện đại hóa, kể cả những nước có nền kinh tế lạc hậu như ở nước
ta. Công nghiệp hóa phải gắn với việc tận dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện
đại, công nghệ tiên tiến của thế giới vào sản xuất. Công nghệ truyền thống gắn với ứng
dụng thành tựu khoa học và công nghệ tiến tiến của thời đại, đó là giải pháp để đưa nước
ta thoát khỏi đói nghèo lạc hậu. Tất nhiên, công nghiệp hóa và hiện đại hóa là hai khái
niệm khác nhau nhưng lại đan xen, tích hợp, lồng ghép và bổ sung cho nhau. Nếu như
công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh công
nghiệp thì :
Hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ chỗ theo những quy trình
công nghệ thủ công là chính sang chỗ sử dụng một cách phổ biến những quy
trình công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự
phát triển của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tạo ra năng suất lao động, hiệu quả
và trình độ văn minh kinh tế, xã hội cao [ 32, tr.63].
Sự gắn kết giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang trở thành xu thế tất yếu
của các nước đang phát triển. Nó trở thành khái niệm “kép” trong nhận thức về mục tiêu
phát triển kinh tế của nhiều quốc gia.
Trên tinh thần đó, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa VII đã xác
định nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ
sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng
suất lao động xã hội cao [5, tr.65].
Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng ta đã phản ánh được phạm
vi rộng lớn, xác định được vai trò quan trọng của công nghiệp và khoa học, công nghệ
trong quá trình công nghiệp hóa. Đó thực chất là quá trình thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội nhằm cải biến nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững
chắc, thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.3. Mối quan hệ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển của
giai cấp công nhân
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển giai cấp công nhân có mối
quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau, biểu hiện ở chỗ: công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là điều kiện để giai cấp công nhân phát triển lớn mạnh về mọi mặt. Ngược lại, sự
phát triển lớn mạnh của giai cấp công nhân sẽ tác động trở lại thúc đẩy mạnh mẽ sự thành
công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học đã vạch rõ “Giai cấp vô sản là sản
phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [20, tr.610], giai cấp công nhân “là đứa con đầu
lòng của nền đại công nghiệp hiện đại” [21, tr.11]. Đại công nghiệp đã sinh ra giai cấp
công nhân, đồng thời cũng là cơ sở vật chất thông qua đó, giai cấp công nhân tác động
vào tiến trình phát triển xã hội như một lực lượng chủ đạo.
Mối quan hệ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển giai cấp công
nhân biểu hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra yêu cầu khách quan về phát triển
giai cấp công nhân.
Theo quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nêu trên, đặc trưng của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa được hiểu là sử dụng một cách phổ biến nguồn nhân lực có trình
độ chuyên môn kỹ thuật cao dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học,
công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao, trong đó, chủ thể để thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chính là giai cấp công nhân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X chỉ ra mục tiêu: phấn đấu đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu đó
phải “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức” nhằm
rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tạo ra cơ sở vật chất - kỹ
thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nói đến “nền kinh tế tri thức”, năm 1996, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế, viết
tắt là OECD đã đưa ra khái niệm như sau: Một nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền
bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu của sự tăng trưởng, tạo ra việc làm trong tất cả
các ngành kinh tế được gọi là nền kinh tế tri thức.
Trong kinh tế tri thức, yếu tố đầu vào chủ yếu của sản xuất là tri thức, không phải là
vốn và sức lao động. Do vậy, trong nền kinh tế tri thức, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng các ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức là đặc trưng
rất cơ bản.
Hiện nay, Việt Nam tuy còn là nền kinh tế nông nghiệp, song đã có đội ngũ cán bộ
khoa học khá đông (khoảng 1,5 triệu người) có khả năng tiếp cận và ứng dụng các thành
tựu khoa học - kỹ thuật cao của thế giới. Một số ngành công nghệ cao đã được đầu tư
phát triển, nhất là trong lĩnh vực điện tử - viễn thông, mà trước hết là công nghệ tin học,
công nghệ phần mềm, công nghệ sinh học. Mặt khác, chúng ta cũng không xem nhẹ việc
đầu tư vào nghiên cứu cơ bản. Do đó, chúng ta có cơ sở khoa học cho việc đồng thời thực
hiện hai nhiệm vụ: chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và từ
nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta phải nắm bắt, khai
thác, sử dụng các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và những yếu tố của kinh tế tri
thức, trên cơ sở đó có thể "tăng tốc", "đi tắt, đón đầu", bỏ qua lối mòn mà các nước đã
phải vất vả trải qua, quan điểm đó có điều kiện thực hiện khi tri thức đã mang tính toàn
cầu.
Ngày nay, do tri thức và khoa học kỹ thuật cao phát triển nên vai trò của tài nguyên
và lao động giản đơn ít có lợi thế hơn công nghệ cao, công nghệ thông tin, lao động có
chuyên môn, kỹ thuật và trình độ quản lý cao. Mặt khác, các nước đi sau có thể ứng dụng
những thành tựu khoa học và công nghệ mới, học tập kinh nghiệm của các nước tiến tiến
trong việc quản lý và phát triển nguồn nhân lực, phát triển khoa học - công nghệ, song chỉ
thành công khi có chính sách đúng về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao, đặc biệt là việc phát triển nhanh đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề,
trình độ cao và sử dụng có hiệu quả đội ngũ chuyên gia giỏi cả trong nước và nước ngoài.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
từng bước vững chắc chuyển sang nền kinh tế tri thức là có căn cứ khoa học và phù hợp
với xu thế chung của thời đại. Thể hiện nhất quán tư tưởng đó, Đại hội X khẳng định:
Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi
thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với sự phát triển kinh tế tri thức, coi
kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện
đại hóa [8, tr.95].
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra yêu cầu khách quan phải phát triển
giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng, mà đặc biệt là về chất lượng của giai
cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay (bao gồm cả nâng cao trình độ văn hoá, trình độ
chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng và tác phong lao động công nghiệp; ý thức giác ngộ chính
trị, ý thức pháp luật cho giai cấp công nhân).
Thứ hai, sự phát triển của giai cấp công nhân là nhân tố có ý nghĩa quyết định và là
chủ thể trực tiếp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Giai cấp công nhân là một trong những yếu tố cơ bản nhất của lực lượng sản xuất.
V.I.Lênin đã nói: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là
người lao động” [17, tr.430]. Vì vậy, sự phát triển và hoàn thiện về mọi mặt của giai cấp
công nhân sẽ tác động trở lại tạo điều kiện thúc đẩy nền công nghiệp phát triển mạnh mẽ.
Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Bởi lẽ, họ là lực lượng có mặt trong mọi ngành, mọi thành phần kinh tế, mọi cơ
sở sản xuất kinh doanh, trong những lĩnh vực kinh tế then chốt của đất nước. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước muốn thành công đòi hỏi phải hội tụ nhiều yếu tố khách quan, chủ
quan như: đường lối, chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với điều kiện trong
nước và quốc tế; có vốn, khoa học - kỹ thuật, công nghệ hiện đại, tài nguyên thiên nhiên,
thông tin…Trong những điều kiện, yếu tố ấy thì người công nhân có vai trò quan trọng nhất.
Không ai có thể thay thế được người công nhân trong quá trình sản xuất. Máy móc dù có
hiện đại đến mấy, dù có thể là những rô bốt thông minh song cũng đều phải do con người
sáng tạo ra và chỉ hoạt động được nhờ có sự vận hành và điều khiển bởi bàn tay, khối óc của
người công nhân. Thực tế trong những năm đổi mới đã chứng tỏ, giai cấp công nhân là lực
lượng tiên phong trong sản xuất vật chất. Giai cấp công nhân ngày càng được bổ sung tri
thức và trở thành những người lao động có trình độ học vấn và tay nghề, thích ứng với cơ
chế thị trường, tiếp cận nhanh với khoa học - công nghệ tiên tiến hiện đại, có nhiều phát
minh, sáng kiến có giá trị kinh tế được áp dụng trực tiếp vào sản xuất, góp phần quyết định
vào việc thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng. Xuất phát từ vị trí trong lực lượng
sản xuất, từ vai trò trong tiến trình cách mạng, Đảng ta đã chỉ rõ: “Giai cấp công nhân Việt
Nam thông qua Đảng tiên phong của mình đã lãnh đạo cách mạng nước ta trong hơn nửa thế
kỷ qua, ngày nay đang đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [5, tr.67].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định: “Đối với giai cấp công
nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” [8, tr.118].
Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nước ta từ nay đến năm 2020 và thời gian tiếp
theo là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước trở
thành nước công nghiệp phát triển. Để thực hiện được nhiệm vụ này phải phát triển tối đa
các nguồn lực, trong đó nguồn nhân lực là quan trọng nhất. Trong nguồn nhân lực của đất
nước, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu và tham gia trực tiếp nhất vào quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử quan trọng
và vĩ đại này, tất yếu giai cấp công nhân phải không ngừng tăng nhanh về số lượng, phát
triển về chất lượng, vững vàng về lập trường, tư tưởng và kiên định con đường độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng
phải thực sự là lực lượng đi tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển của giai cấp công nhân là
hai nhiệm vụ phải được thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, hỗ trợ nhau, bằng cách
vừa tăng cường đầu tư phát triển số lượng, chất lượng giai cấp công nhân, sử dụng có
hiệu quả nguồn nhân lực này, vừa đầu tư vào các ngành công nghệ kỹ thuật cao, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức. Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa tạo sự phát triển cho công nghiệp, nhờ đó đem lại những lợi ích cơ bản, trực
tiếp thiết thân tới người công nhân, như việc làm, đời sống vật chất và tinh thần được
nâng lên và tạo điều kiện cho giai cấp công nhân phát triển về mọi mặt. Công nhân và
công nghiệp là hai mặt của một vấn đề trong mối quan hệ biện chứng thống nhất. Sự phát
triển của công nghiệp là điều kiện cho sự phát triển của công nhân. Ngược lại, mỗi bước
tiến của giai cấp công nhân lại là chủ thể trực tiếp thúc đẩy công nghiệp phát triển. Trong
mối quan hệ ấy, lợi ích của giai cấp công nhân gắn liền với lợi ích trực tiếp của sự phát
triển công nghiệp. Mọi chủ trương đường lối phát triển công nghiệp nói riêng, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung đều đem lại lợi ích trực tiếp cho giai cấp công nhân.
Bởi vậy ở một mức độ nào đó có thể hiểu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển công
nghiệp là vì giai cấp công nhân. Tất nhiên, chúng ta phải hiểu là: “Công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa này được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công
nhân, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân
tộc” [5, tr.44].
1.2. khái quát về tỉnh hưng yên và đặc điểm, vai trò của đội ngũ công nhân tỉnh trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên
1.2.1.1. Về điều kiện tự nhiên
Hưng Yên nằm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, phía đông
giáp tỉnh Hải Dương, phía nam giáp tỉnh Thái Bình, phía tây giáp tỉnh Hà Nam, phía bắc
liền kề với thủ đô Hà Nội và tỉnh Bắc Ninh. “Tỉnh Hưng Yên được thành lập vào năm
Minh Mạng thứ 12 (năm 1831)” [33, tr.9]. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử vô cùng to
lớn, lần đầu tiên trong lịch sử cái tên Hưng Yên được xuất hiện.
Là một tỉnh đất không rộng và thuần nông nhưng là một miền quê tươi đẹp, một
mảnh đất phù sa màu mỡ, có đặc sản nhãn lồng và có truyền thống văn hiến, với Phố
Hiến một thời là chốn phồn hoa đô hội mà người xưa đã có câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ
nhì Phố Hiến”. Hưng Yên còn là đất “địa linh nhân kiệt”, nơi sản sinh ra nhiều bậc tài
danh của đất nước trong nhiều thời kỳ lịch sử và là quê hương của nhiều nhà cách mạng,
nhiều vị tướng tài.
Hòa bình lập lại, tỉnh Hưng Yên trải qua nhiều lần thay đổi địa giới hành chính:
ngày 26 - 01 - 1968, ủy ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 504 - NQ/ TVQH
phê chuẩn hợp nhất hai tỉnh là Hưng Yên và Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng. Sau
đó, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX, ngày 06 - 11 - 1996, Quốc hội lại phê chuẩn
việc chia tỉnh Hải Hưng thành hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Ngày 01 - 01 -
1997, tỉnh Hưng Yên được tái lập. Hiện nay, tỉnh Hưng Yên có 10 đơn vị hành chính
cấp huyện bao gồm: “Thị xã Hưng Yên, các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Mỹ Hào,
Yên Mỹ, Khoái Châu, Ân Thi, Kim Động, Tiên Lữ, Phù Cừ với 160 xã, phường, thị
trấn; diện tích tự nhiên là 992,092 km2, dân số đến năm 2005 là khoảng 1,1 triệu
người” [10, tr.10].
Tỉnh Hưng Yên không có núi nhưng lại nhiều sông ngòi, hệ thống đại thủy nông Bắc -
Hưng - Hải được khởi công vào năm 1956 đã hòa cùng hệ thống sông ngòi trước đó tạo
thành một hệ thống thủy nông giao thông phong phú.
Tỉnh có địa hình tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình so với nước biển là + 4m,
có 61.037 ha đất nông nghiệp, đất đai trong tỉnh chủ yếu là đất phù sa, đất cát pha và một
phần đất thịt rất thích hợp với các loại cây trồng như: lúa, màu, cây công nghiệp, cây ăn
quả.
Nhờ nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nóng ẩm nên khí hậu của địa phương chia
làm hai mùa nóng, lạnh rõ rệt. Mùa nóng được bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 8. Mùa lạnh
từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong năm đo được là
23oc. Nhiệt độ cao nhất vào tháng 5 lên tới 380c, lượng mưa hàng năm đạt từ 1800 đến
2200 mm. Độ ẩm tương đối trung bình tháng từ 80 đến 90 %. Một số năm còn xảy ra lốc,
mưa đá tuy không lớn nhưng cũng gây thiệt hại cho mùa màng và tài sản.
1.2.1.2. Về kinh tế - xã hội tỉnh Hưng Yên
Là tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, bao gồm 7 tỉnh, thành phố: Hà
Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc và Bắc Ninh. Một khu
vực có nhiều lợi thế và đang trở thành vùng phát triển sôi động, có ưu thế rất thuận lợi
cho việc hội nhập với nền kinh tế Châu á và thế giới thông qua mở rộng các hoạt động
sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài.
Sau hơn 10 năm tái lập tỉnh (từ năm 1997 đến nay), kinh tế của tỉnh Hưng Yên có
tốc độ tăng trưởng cao. Đến hết năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) tăng bình
quân 13%/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp,
dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp (năm 1997 cơ cấu kinh tế nông nghiệp, công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ là: (60% - 15% - 25%); đến năm 2007 cơ cấu kinh tế là:
(25,9% - 42,8% - 31,3%), thu nhập bình quân đầu người đạt 11,2 triệu đồng/ 1 năm [40,
tr.1-2].
Việc kêu gọi và thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước những năm qua đã làm thay
đổi đáng kể nền kinh tế của tỉnh. Từ một tỉnh thuần nông là chủ yếu đã chuyển dần sang
công nghiệp và dịch vụ. Năm 2007, công nghiệp tỉnh Hưng Yên vươn lên vị trí thứ 10
trong 64 tỉnh, thành phố cả nước. Đến nay tỉnh đã quy hoạch 20 khu công nghiệp tập
trung, trong đó có 14 khu công nghiệp đã có nhà đầu tư cơ sở hạ tầng và 6 khu công
nghiệp chưa có nhà đầu tư cơ sở hạ tầng. Trong số 14 khu công nghiệp, 3 khu công
nghiệp đã hoàn thiện cơ sở hạ tầng và tiếp nhận các dự án đầu tư (khu công nghiệp Phố
Nối A, khu công nghiệp Phố Nối B, khu công nghiệp Thăng Long II).
Với số dân 1,1 triệu người, lực lượng lao động khoảng 650.000 người, lao động trẻ từ
18 đến 35 tuổi hàng năm có từ 15.000 đến 16.000 người. Trên địa bàn tỉnh, có một số trường
Đại học và Cao đẳng đào tạo có uy tín như: Đại học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên, Đại học
dân lập Chu Văn An, Cao đẳng Bách khoa Hưng Yên, Cao đẳng Quản trị kinh doanh,…
Hàng năm các trường này đào tạo khoảng trên 10.000 sinh viên, học viên tốt nghiệp. Mặt
bằng dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên. Đời sống nhân dân ngày càng
được cải thiện rõ rệt, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được củng cố
và phát triển.
Như vậy, với điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội nêu trên có thể nói tỉnh Hưng
Yên là nơi hội tụ những yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa, tạo tiền đề để tỉnh thực hiện
thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2.2. Đặc điểm của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên
Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên là người trực tiếp lao động sản xuất vật chất,
dịch vụ công nghiệp. Họ có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế ở tỉnh. Là một bộ
phận của giai cấp công nhân Việt Nam nên đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên mang đầy
đủ những đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời còn có những đặc
điểm riêng do điều kiện lịch sử, tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh quy định.
Những đặc điểm của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên là:
1.2.2.1. Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên phần lớn xuất thân từ nông dân và
tuổi đời còn trẻ
Với điểm xuất phát là một tỉnh thuần nông, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, trong
những năm qua, tỉnh đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công
nghiệp và dịch vụ. Một số khu công nghiệp, nhà máy đã được xây dựng và đi vào hoạt
động nên đã thu hút được một lượng khá đông nông dân vào làm và trở thành công nhân.
Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên phần lớn xuất thân từ nông dân (chiếm 33,2%) trong
tổng số công nhân của tỉnh [2, tr.91]. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ công
nhân trong quá trình sản xuất công nghiệp. Bên cạnh sự cần cù, chịu khó, sống gần với dân
nên rất hiểu được nhu cầu của nhân dân thì họ cũng bộc lộ hạn chế, đó là: trình độ học vấn
và chuyên môn còn thấp nên việc tiếp thu tri thức khoa học - công nghệ hiện đại vào sản xuất
là hạn chế, bị ảnh hưởng tâm lý sản xuất nhỏ, bảo thủ, lạc hậu, tư tưởng cục bộ địa phương,
còn nhiều biểu hiện tự do tùy tiện, chưa được rèn luyện tác phong sản xuất công nghiệp, ý
thức giác ngộ chính trị, ý thức pháp luật còn yếu.
Đặc biệt đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên hầu hết ở độ tuổi rất trẻ. “Đại đa số
công nhân có độ tuổi từ 18 - 35” [2, tr.92]. Đây là tiềm năng để phát triển đội ngũ công nhân
của tỉnh và có tác động rất tích cực như: năng động, có sức khỏe tốt, dễ thích ứng, dễ tiếp
nhận cái mới, tính linh hoạt, cơ động trong sản xuất công nghiệp cao; thường xuyên có yêu
cầu đổi mới kỹ thuật và công nghệ; sẵn sàng chấp nhận sự cạnh tranh cao…; tuy nhiên, do
tuổi đời còn trẻ nên dễ bồng bột, thiếu kinh nghiệm thực tiễn; dễ bị kích động và bị lôi kéo
vào các tệ nạn xã hội, những tranh chấp lao động, đình công bãi công vô tổ chức…
1.2.2.2. Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên có quá trình ra đời muộn; tính chất
lao động công nghiệp mới hình thành và đang trên đà phát triển rất nhanh
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong thời kỳ thực dân Pháp tiến hành khai thác
thuộc địa ở Việt Nam lần thứ nhất (1897 - 1914) và lần thứ hai (1919 - 1929). Hưng Yên
là một tỉnh nông nghiệp và dường như trong suốt những năm thực dân Pháp chiếm đóng
ở đây không có một cơ sở công nghiệp nào đáng kể cho nên đội ngũ công nhân chẳng
những ra đời muộn hơn so với các thành phố công nghiệp khác như: (Hà Nội, Hải
Phòng, Nam Định…) mà số lượng cũng không đông. “Thành phần đội ngũ công
nhân tỉnh Hưng Yên ở những năm đầu thế kỷ XX gồm có công nhân đồn điền, công
nhân xây dựng đường giao thông” [36, tr.27]. Là một đội ngũ lao động mới của xã
hội, vừa chân ướt chân ráo ở nông thôn ra, họ là những người dân bị bần cùng hóa,
bị đẩy đến các công trường, đồn điền. Nhưng do chính sách sử dụng, do biện pháp
tuyển mộ có luôn phiên, có thời hạn nên số lượng công nhân thời bấy giờ không thể
ổn định lâu dài. Tất cả số phu, số thợ những năm đầu thế kỷ XX ở tỉnh Hưng Yên
sau này không phải đều trở thành công nhân giao thông hay công nhân xây dựng.
Chỉ đến khi các tuyến đường, các xí nghiệp, công sở hoàn thiện và ổn định thì đội
ngũ công nhân mới từng bước trưởng thành và qua đấu tranh mới tự ý thức được về
giai cấp của mình. Từ khi được tái lập tỉnh (01 - 01 - 1997) đến nay, công nghiệp ở
tỉnh Hưng Yên mới thật sự bắt đầu và đang phát triển rất nhanh. Đó cũng là bước
ngoặt đánh dấu mốc khởi đầu cho sự phát triển của đội ngũ công nhân công nghiệp ở
tỉnh Hưng Yên. Do là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, khu vực
có nhiều tiềm năng lợi thế và đang trở thành vùng phát triển sôi động, các địa
phương xung quanh tỉnh Hưng Yên đều là những nơi có quan hệ về thị trường trong
và ngoài nước, về khoa học công nghệ, về nguồn nhân lực, nguồn nguyên liệu,
nguồn lương thực…, nên triển vọng phát triển công nghiệp của tỉnh Hưng Yên là rất
mạnh và đa dạng. Đây sẽ là một lợi thế để tỉnh Hưng Yên phát triển mạnh đội ngũ
công nhân có tính chất lao động công nghiệp ngày càng cao.
1.2.2.3. Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên hiện nay chịu sự tác động mạnh mẽ
và trực tiếp của quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa, bao cấp sang cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa
Quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế đang làm cho đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên
biến đổi về cơ cấu, số lượng, chất lượng trên hai phương diện chính:
Một mặt, quá trình xây dựng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đã thúc đẩy sự biến đổi đội ngũ công nhân trong các thành phần kinh tế
theo hướng: số lượng công nhân trong khu vực nhà nước giảm mạnh do chủ trương sắp
xếp lại doanh nghiệp nhà nước (từ 5.533 công nhân năm 1997 xuống còn 1.315 công
nhân năm 2007); số lượng công nhân trong khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng mạnh (từ 32.024 công nhân năm 1997 tăng lên
99.801 công nhân năm 2007) [2, tr. 97].
Mặt trái của kinh tế thị trường, như các chủ doanh nghiệp tìm mọi cách để tăng giá
trị thặng dư, những giới hạn của sở hữu tư nhân trong khi giải quyết những vấn đề xã hội…
khiến cho việc bảo vệ quyền và lợi ích của công nhân trong các thành phần kinh tế này đã,
đang và sẽ là vấn đề lớn và phức tạp.
Mặt khác, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển đổi cơ cấu
sản xuất kinh doanh đang làm biến đổi sâu sắc cơ cấu, số lượng và chất lượng đội ngũ
công nhân tỉnh Hưng Yên. Tốc độ phát triển nhanh của công nghiệp, dịch vụ và nhu cầu
lớn về nguồn lao động là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu, số
lượng, chất lượng đội ngũ công nhân của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. Tác động mạnh
và trực tiếp nhất với người công nhân vẫn là quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất và thay
đổi quy trình công nghệ tại các doanh nghiệp, khá nhiều công nhân ở độ tuổi trên 40 đã
không theo kịp quá trình này.
Cơ chế thị trường vừa tận dụng mọi trình độ lao động lại vừa phân hóa, đào thải
công nhân theo các trình độ tay nghề. ở tỉnh Hưng Yên hầu như vẫn chấp nhận tất cả mọi
trình độ lao động, hiển nhiên là với mức lương rất khác nhau. Theo đó, những vấn đề xã
hội nảy sinh cũng tương ứng với trình độ công nghệ. Hiện tượng đình công hay tranh
chấp lao động cũng xảy ra ở một số doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tại một số doanh nghiệp nhà nước, quá trình
chuyển đổi cơ chế sản xuất và quản lý còn chậm; dấu vết của cơ chế bao cấp, ưu đãi vẫn
còn; hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp vẫn chưa tương xứng với vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước.
1.2.3. Vai trò của đội ngũ công nhân tỉnh hưng yên trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.3.1. Đội ngũ công nhân là lực lượng lãnh đạo quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở tỉnh Hưng Yên thông qua Đảng bộ tỉnh
Là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam, đội ngũ công nhân tỉnh Hưng
Yên thông qua Đảng bộ tỉnh và cấp ủy Đảng các cấp đã cụ thể hóa những mục tiêu, quan
điểm, phương hướng, nhiệm vụ của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào điều
kiện cụ thể của Hưng Yên và tại các doanh nghiệp mà đội ngũ công nhân đang trực tiếp
lao động sản xuất; đề ra những giải pháp thích hợp sát với thực tiễn nhằm phát huy mọi
nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển trên địa bàn tỉnh. Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng
Yên cũng thông qua tổ chức công đoàn tham gia cùng với các cấp ủy Đảng tạo điều kiện
và môi trường cho các thành phần kinh tế phát triển; tham gia xây dựng, giám sát, kiểm
tra việc thực hiện các chính sách xã hội nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh
tế của tỉnh Hưng Yên đã có bước phát triển với tốc độ nhanh, khá toàn diện và vững chắc,
GDP năm sau luôn cao hơn năm trước (bình quân tăng 13%/ năm), tốc độ tăng trưởng
công nghiệp của tỉnh năm 2007 là: “Công nghiệp nhà nước tăng 20,7%; công nghiệp địa
phương tăng 22,25%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 38,3%” [40, tr.2-3].
Có được những kết quả trên là do sự cố gắng, phấn đấu của toàn thể cán bộ và nhân
dân trong tỉnh, trong đó đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên đóng vai trò chủ yếu. Điều đó
càng khẳng định vai trò to lớn của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trong sự phát triển
kinh tế - xã hội, vai trò lãnh đạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh.
1.2.3.2. Đội ngũ công nhân là lực lượng sản xuất chủ yếu trong quá trình phát
triển công nghiệp theo hướng hiện đại hóa ở tỉnh Hưng Yên
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là quá trình chuyển đổi căn bản toàn bộ nền
kinh tế theo hướng đẩy mạnh sự phát triển công nghiệp gắn với việc áp dụng công nghệ
hiện đại. Vì vậy, vai trò của giai cấp công nhân là vô cùng to lớn vì họ là những người
trực tiếp sản xuất và hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực công nghiệp. ở tỉnh Hưng Yên,
trong những năm qua, đội ngũ công nhân là những người lao động trực tiếp và có mặt ở
tất cả các ngành công nghiệp quan trọng, các khu công nghiệp then chốt và ở mọi thành
phần kinh tế. Sự phát triển kinh tế ở tỉnh trong những năm qua chủ yếu dựa vào tốc độ
tăng trưởng về công nghiệp. Năm 2007, công nghiệp tỉnh Hưng Yên đã vươn lên vị trí
thứ 10 trong 64 tỉnh, thành phố trong cả nước. Vì vậy, sự phát triển của ngành công
nghiệp là yếu tố quyết định tạo nên sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Trong giai đoạn hiện nay, cùng với quá trình đổi mới kinh tế và chuyển giao công
nghệ hiện đại, với vai trò là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, đội ngũ công nhân
tỉnh Hưng Yên là người đầu tiên tiếp nhận, lắp đặt, vận hành, điều khiển, sử dụng máy
móc và các thiết bị hiện đại. Bản thân họ là những người đi đầu trong việc ứng dụng
thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế
cao, tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng có chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã
hội.
Trong thời gian qua, do yêu cầu của sản xuất công nghiệp, đội ngũ công nhân của
tỉnh tiếp tục được trang bị kỹ thuật, công nghệ mới thay thế và cải tạo dây chuyền sản
xuất theo hướng hiện đại như: sản xuất thành công máy biến áp 1 pha và 3 pha, công suất
điện 16.000 KVA, điện áp đến 35 KV theo công nghệ mới của Châu Âu tại Công ty Cổ
phần chế tạo máy biến áp Mi Ba. áp dụng công nghệ sản xuất thép và cán thép thế hệ mới
của Italia và một số nước tiên tiến khác tại Công ty Cổ phần thép Việt ý. Nhờ đầu tư
thêm một loạt dây truyền máy móc, thiết bị mới, hiện đại của một số nước Châu Âu nên
doanh số năm 2007 của Công ty ống thép Hòa Phát, thuộc tập đoàn Hòa Phát đạt 1.373 tỷ
đồng, vượt 50% so với năm 2006, tiếp tục khẳng định vị thế số một của mình trong việc
sản xuất và tiêu thụ ống thép tại Việt Nam [3, tr.12]. Tại nhà máy sơn Al Pha Nam, do
được trang bị dây truyền sản xuất đồng bộ với công nghệ tiên tiến của các nước G7 vào
loại hiện đại nhất và năng lực sản xuất lớn nhất tại Việt Nam nên sản phẩm sơn có chất
lượng cao, ổn định, được thị trường đánh giá cao. Với công nghệ chế biến, sản xuất bánh
kẹo liên tục được cải tiến và đổi mới, tạo ra được nhiều sản phẩm bánh, kẹo đa dạng
phong phú, chất lượng không ngừng nâng lên, được thị trường tin dùng các sản phẩm của
Công ty Cổ phần chế biến thực phẩm Kinh Đô miền bắc. Các sản phẩm dệt, may mặc,
giầy da xuất khẩu nhờ cải tiến công nghệ nên đã có mặt tại thị trường Mỹ, Nhật Bản, EU
và được bạn hàng đánh giá cao [3, tr.13]. Bên cạnh việc tiếp nhận và trực tiếp vận hành
có hiệu quả các dây truyền công nghệ hiện đại, áp dụng những thành tựu khoa học - kỹ
thuật tiên tiến trên thế giới vào sản xuất, đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên còn không
ngừng học hỏi sáng tạo, cải tiến công cụ sản xuất, đưa ra nhiều sáng kiến làm lợi cho tỉnh
hàng tỷ đồng. Nhờ có quá trình đẩy mạnh sản xuất, tỉnh Hưng Yên đã mở rộng thị trường
đến hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ với nhiều sản phẩm phong phú. Hình thành một số
ngành sản xuất chủ lực như: điện tử, dệt may, cơ khí và luyện thép. Kim ngạch xuất khẩu
tăng bình quân hàng năm là 17%/ năm, nhờ đó mà tổng thu ngân sách từ công nghiệp
thời gian qua liên tục tăng, ngành công nghiệp đã đóng góp cho ngân sách tỉnh hàng năm
đạt 70%. Tất cả những điều nói trên đã khẳng định rõ: Sự phát triển của công nghiệp đã
tác động lớn đến tốc độ tăng trưởng của mỗi địa phương và nhân tố đẩy nhanh sự phát
triển công nghiệp hiện đại không ai khác chính là giai cấp công nhân. Đối với tỉnh Hưng
Yên, đội ngũ công nhân đã không ngừng lớn mạnh theo thời gian và đang ngày càng
chứng tỏ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại
hóa ở tỉnh.
1.2.3.3. Đội ngũ công nhân góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã
hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tỉnh Hưng Yên
Sự lớn mạnh của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên gắn liền với xây dựng đường lối
công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại địa phương trên cơ sở các tiềm năng của tỉnh, đã làm
cho tốc độ tăng trưởng kinh tế dần đi vào ổn định, tỷ trọng công nghiệp ngày càng chiếm
tỷ lệ cao và sự đóng góp vào ngân sách của tỉnh mỗi năm một tăng, nhờ đó mà kinh tế -
xã hội tỉnh Hưng Yên được khởi sắc, đời sống nhân dân được cải thiện, tạo thêm việc làm
thường xuyên cho 23,5 ngàn lao động. Số hộ nghèo giảm từ 8,54% năm 2001 xuống còn
3% năm 2007; tháng 4 năm 2005 đã xóa xong nhà tranh tre vách đất cho hộ nghèo. Mật
độ điện thoại tăng cao, năm 2005 đạt 7,5 máy/ 100 dân, đến năm 2007 đạt 39,2 máy/ 100
dân. 100% xã, phường, thị trấn có bác sỹ, công tác chăm sóc người bệnh từng bước
chuyển dần sang chăm sóc toàn diện. Tỷ lệ số hộ dùng nước sạch đạt 80%; 100% xã,
phường có điện lưới quốc gia, sóng phát thanh, truyền hình được phủ sóng trên toàn tỉnh.
Tỷ lệ làng, khu phố văn hóa đạt 65% [40, tr.11]. Tỉnh đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học và hoàn thành phổ cập trung học cơ sở năm 2001, đang triển
khai tích cực phổ cập bậc trung học phổ thông, đa số các xã đều có trung tâm học tập cộng
đồng, công tác khuyến học được đẩy mạnh, mặt bằng dân trí và chất lượng nguồn nhân lực
được nâng lên. Nhìn chung kinh tế - xã hội của tỉnh và đời sống của nhân dân được nâng lên
rõ rệt. Đây chính là một trong những điều kiện cơ bản để quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đi đến thành công.
1.2.3.4. Đội ngũ công nhân quan hệ gắn bó với các giai cấp, tầng lớp khác, nhất
là giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, tạo nên khối liên minh công - nông - trí thức,
là cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân trên địa bàn tỉnh Hưng Yên
Sự gắn bó của nhân dân tỉnh Hưng Yên vốn đã có truyền thống từ rất lâu đời. Được
cấu thành từ ba vùng đất của trấn Sơn Nam, trấn Hải Đông và trấn Kinh Bắc, vùng đất
Hưng Yên vốn có một vị trí đặc biệt trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước. Tuy chưa phải
là một trung tâm kinh tế mạnh nhưng với vị trí của mình, mảnh đất này đủ sức chặn đứng
các hướng tấn công của kẻ thù từ Biển Đông vào sông Luộc, sông Hồng, đến Thăng Long
và vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ [33, tr.25], từ đó đã tạo nên sự đoàn kết giữa các
tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ngày nay, giai cấp công nhân trở thành lực lượng lãnh đạo có vai trò quan trọng và là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển công nghiệp đã
làm xuất hiện nhiều nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp mới được xây dựng ở tỉnh và
đã thu hút hàng vạn lao động ở nông thôn tham gia vào sản xuất công nghiệp; quá trình
đô thị hóa ngày càng phát triển làm cho giữa nông thôn và thành thị càng xích lại gần
nhau hơn. Người nông dân muốn phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động phải dựa
vào phương tiện sản xuất, tri thức khoa học - kỹ thuật mà giai cấp công nhân và đội ngũ
trí thức cung cấp. Đến lượt mình, giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức muốn tồn tại và
đẩy mạnh sản xuất cũng phải gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp và giai cấp nông dân.
Chính đó đã tạo nên mối quan hệ khăng khít trên cơ sở cùng có lợi giữa công nhân - nông
dân - trí thức. Khối liên minh công - nông - trí, trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò
lãnh đạo, là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, nhân tố nội lực cơ bản của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên không chỉ liên minh
với nông dân và trí thức, mà còn là trung tâm đoàn kết, tập hợp các giai cấp và tầng lớp
khác trong xã hội, vì thế sức mạnh đoàn kết đó đã và đang được phát huy và trở thành
động lực quan trọng để tỉnh Hưng Yên thực hiện tốt những nhiệm vụ của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kết luận chương 1
Khái niệm giai cấp công nhân đã được đề cập và luận bàn ngay khi giai cấp công
nhân xuất hiện trên vũ đài chính trị. Những quan điểm về giai cấp công nhân của
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Khi nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa dù có nhiều cách hiểu hiểu và định nghĩa
khác nhau, nhưng ngày nay, quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bao hàm
mục tiêu và nội dung cơ bản là quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực của một
nước.
Đối với nước ta, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất yếu khách quan để đưa nước
ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ đặt ra yêu cầu khách
quan về sự phát triển giai cấp công nhân. Ngược lại, sự phát triển của giai cấp công nhân
lại là nhân tố có ý nghĩa quyết định và là chủ thể trực tiếp thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên
có vai trò rất to lớn, họ không những là lực lượng lãnh đạo, lực lượng đi đầu trong phát
triển công nghiệp, mà còn tác động tích cực vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở
tỉnh, góp phần không nhỏ nâng cao đời sống cho nhân dân, có quan hệ với các giai cấp và
tầng lớp khác, tạo môi trường thuận lợi cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
tỉnh.
Chương 2
thực trạng và xu hướng biến đổi của đội ngũ
công nhân tỉnh hưng yên trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.1. thực trạng của đội ngũ công nhân tỉnh hưng yên
2.1.1. Thực trạng về số lượng
Trong những năm qua, đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên có sự biến đổi khá lớn
theo chiều hướng liên tục phát triển về số lượng. Cụ thể: “Năm 1997 toàn tỉnh có 37.557
người, năm 2000 có 41.544 người, năm 2003 có 68.790 người và năm 2007 có 101.116
người” [2, tr.97].
Số liệu trên cho thấy số lượng công nhân của tỉnh phát triển nhanh chủ yếu là từ
năm 2000 trở đi, trước đó có phát triển nhưng với tốc độ chậm, đó là do tỉnh mới được tái
lập, cơ sở vật chất chưa được hoàn thiện, cơ cấu kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào phát triển nông
nghiệp là chính. Hơn nữa tỉnh cũng chưa có nhiều chính sách ưu đãi thu hút đầu tư vào sản
xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh.
Từ năm 2000 đến nay, đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên phát triển rất nhanh là do
cơ chế thị trường ở nước ta nói chung và ở tỉnh Hưng Yên nói riêng đã được thể hiện rõ
nét. Chủ trương của tỉnh là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp
và dịch vụ, coi phát triển công nghiệp là mặt trận hàng đầu. Đó là những yếu tố tác động
lớn làm cho số lượng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trong thời gian qua tăng nhanh,
đặc biệt khi Luật đầu tư nước ngoài đã bắt đầu phát huy hiệu quả. Với vị trí địa lý thuận
lợi, tỉnh Hưng Yên cũng là một trong những địa điểm thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư
trong và ngoài nước. Khi tái lập, trên địa bàn tỉnh chỉ có 7 dự án đầu tư (trong đó có 5 dự
án nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 61,43 triệu USD và 2 dự án đầu tư trong nước với
tổng vốn đầu tư 35 tỷ đồng. Đến hết năm 2007, trên địa bàn tỉnh đã có 606 dự án đầu tư
trong và ngoài nước với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 35.972 tỷ đồng, trong đó có 490 dự
án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đạt 25.021 tỷ đồng và 116 dự án đầu tư nước
ngoài với tổng vốn đầu tư đạt 659 triệu USD [40, tr.2].
Số dự án đầu tư trong và ngoài nước tăng nhanh đã thu hút rất lớn số lượng công
nhân lao động vào làm việc ở các khu vực này, vì vậy số lượng công nhân của tỉnh trong
những năm qua phát triển nhanh. Như vậy, chính quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đã tạo ra động lực để đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên tăng nhanh về số lượng và tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình đẩy mạnh sản xuất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trên địa bàn
tỉnh.
2.1.2. Thực trạng về cơ cấu về đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên
2.1.2.1. Về thành phần xuất thân
Thành phần xuất thân của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên phần lớn từ nông dân,
chiếm đến (33,2%), do vốn xuất phát từ một tỉnh thuần nông, chủ yếu dựa vào phát triển
nông nghiệp là chính. Chỉ đến khi tỉnh chủ trương chuyển đổi sang hướng phát triển công
nghiệp và dịch vụ, năm 2000 công nghiệp của tỉnh bắt đầu khởi sắc. Nhiều cánh đồng của
người nông dân trong tỉnh đã trở thành nơi để xây dựng các khu công nghiệp, cụm công
nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp. Từ đó đã thu hút nhiều người nông dân vào làm việc.
“Số công nhân xuất thân từ học sinh là 20,2%” [3, tr.90]. Dù trình độ của họ chưa cao,
song xét từ góc độ đào tạo và khả năng cống hiến lâu dài thì đây cũng là điểm thuận lợi,
bởi lẽ số công nhân này tuổi đời còn rất trẻ, khả năng tiếp thu và nắm bắt công nghệ
tương đối nhạy bén, nếu được đào tạo một cách cơ bản họ sẽ trở thành lực lượng đông
đảo và có vai trò lớn trong quá trình đẩy mạnh sản xuất. Số công nhân tốt nghiệp từ các
trường đào tạo nghề đạt 15,9%, tỷ lệ này chưa phải là cao so với một số tỉnh khác.
Nếu xét khái quát và phân tích sâu sắc hơn thì phần lớn đội ngũ công nhân của tỉnh
đều xuất thân từ nông dân, hay còn mang đậm dấu vết của người nông dân trong nền sản
xuất nhỏ nông nghiệp ở nước ta. Số công nhân xuất thân từ học sinh phổ thông hay tốt
nghiệp từ các trường dạy nghề cũng phần lớn là con em nông dân, sống phụ thuộc vào
gia đình.
2.1.2.2. Cơ cấu giới tính và tín ngưỡng tôn giáo
- Về giới tính, tỷ lệ công nhân nữ ở tỉnh Hưng Yên hiện nay chiếm khá đông, nhiều
hơn công nhân nam. “Trong tổng số 101.116 công nhân của tỉnh năm 2007 có tới 54.687
công nhân nữ (chiếm khoảng 53%), còn lại là công nhân nam (chiếm khoảng 47%)” [3,
tr.4]. Tình trạng công nhân nữ nhiều hơn công nhân nam là do ngành công nghiệp ở tỉnh
Hưng Yên hiện nay mới chủ yếu phát triển công nghiệp nhẹ như các ngành: chế biến thực
phẩm, may mặc, sản suất bánh kẹo, giày da, dệt nhuộm, điện tử. Sở dĩ, lao động nữ tập
trung ở các ngành này một phần là do bị ảnh hưởng bởi định kiến giới. Hiện nay, nhìn
chung xã hội vẫn quan niệm những ngành này phù hợp với lao động nữ hơn lao động
nam do nhiều người quan niệm rằng: những ngành này không đòi hỏi trình độ và tay
nghề cao, công việc lại nhẹ nhàng, dễ xin việc, dễ học việc và dễ làm, trong khi các
ngành công nghiệp nặng như: sản xuất thép, cơ khí tuy mới phát triển song thu hút chủ
yếu là lao động nam.
Tỷ lệ công nhân nữ nhiều công hơn công nhân nam đã phản ánh sự phát triển trong
cơ cấu công nghiệp của tỉnh Hưng Yên là phát triển công nghiệp nhẹ nhiều hơn công
nghiệp nặng. Đồng thời nó cũng phản ánh một sự thật là sự bất bình đẳng giới trong sản
xuất công nghiệp ở Hưng Yên còn khá nặng. Điều này sẽ gây bất lợi cho công nhân nữ.
Bởi vì, hiện nay trong phần lớn các cơ sở công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên mặc dù thời gian
làm việc bình quân của nữ cao hơn nam nhưng mức tiền lương trung bình của lao động
nữ luôn bị thấp hơn nam. Điều này là do: trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ của nữ
thấp hơn nam, do vậy họ thường phải đảm nhận những công việc ở những vị trí thấp và
có thu nhập thấp. Đây là một xu hướng chưa tích cực trong phát triển sản xuất công
nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay.
- Về tín ngưỡng, tôn giáo, tỉnh Hưng Yên hiện nay, có hai tôn giáo chính là Phật
giáo và Thiên chúa giáo, các tôn giáo khác chưa có nơi thờ tự và số lượng tín đồ không
đáng kể. “Số lượng công nhân có đạo, ước tính khoảng 15%, trong đó Phật giáo là 8,0%,
Thiên chúa giáo là 7,0%, còn lại là công nhân không có tôn giáo” [3, tr.6]. Như vậy, hiện
nay phần lớn công nhân của tỉnh không có tôn giáo. Đây cũng là điểm thuận lợi cho việc
tiếp thu khoa học - kỹ thuật, công nghệ của công nhân do không bị hạn chế bởi đức tin
tôn giáo và nhận thức của các tín đồ. Tuy nhiên trong thời gian tới cũng cần phải tuyên
truyền, giáo dục để công nhân không bị ảnh hưởng nhiều tiêu cực của tôn giáo, có ý thức
vươn lên trong lao động sản xuất theo phương châm “sống tốt đời đẹp đạo”, đồng thời
cũng phải đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng theo hoặc không theo
bất cứ một tôn giáo nào của công nhân.
2.1.2.3. Về cơ cấu độ tuổi
Tuổi đời của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên càng ngày có xu hướng trẻ hóa.
Hiện nay, tuổi đời của đội ngũ công nhân tỉnh có tỷ lệ như sau: “Độ tuổi từ 18 - 25 chiếm
34,46%; độ tuổi từ 26 - 30 chiếm 21,14%; độ tuổi từ 31 - 35 chiếm 17,40%; độ tuổi từ 36
- 40 chiếm 12,50%; độ tuổi từ 41 - 45 chiếm 8,50%; độ tuổi từ 46 - 50 chiếm 4,15%; độ
tuổi từ 51 - 55 chiếm 1,50%; độ tuổi từ 56 - 60 chiếm 0,35%” [3, tr.5].
Như vậy, số liệu trên cho thấy: "độ tuổi lao động của công nhân tỉnh Hưng Yên từ
18 - 35 chiếm tới 73%, độ tuổi từ 36 - 45 chiếm 21%, độ tuổi từ 46 - 60 chỉ chiếm 6%" [3,
tr.5]. Điều này cho thấy, đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên hiện nay đa số là ở trong độ tuổi
còn rất trẻ, có sức khỏe tốt, đây là một trong những ưu thế trong sản xuất và tiếp thu khoa
học công nghệ, thuận lợi trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sở dĩ
trong những năm gần đây, tỷ lệ lớp công nhân trẻ ở tỉnh Hưng Yên tăng rất cao là do tỉnh
mới được tái lập, có lực lượng lao động dồi dào, hơn nữa công nghiệp cũng đang phát triển
nên đã thu hút nhiều lao động trẻ vào làm, trong số đó có cả lực lượng lao động ở một số tỉnh
bạn đến (khoảng 30%) như: Hà Nội, Thái Bình, Hải Dương, Hà Nam, Bắc Ninh. Mặt khác,
do nhu cầu lao động của các doanh nghiệp - nhất là các doanh nghiệp ngoài nhà nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đa số đều tuyển dụng đội ngũ công nhân lao động
trẻ nên nhóm công nhân độ tuổi từ 18 - 35 thường chiếm ưu thế trong các doanh nghiệp này.
2.1.2.4. Về cơ cấu ngành nghề
Số lượng công nhân tỉnh Hưng Yên hiện nay đang bị mất cân đối giữa các ngành
công nghiệp. Biểu hiện cụ thể là: năm 2007 trong tổng số 101.116 công nhân công
nghiệp của toàn tỉnh có đến 100.736 công nhân thuộc ngành công nghiệp chế biến; 245
công nhân thuộc ngành công nghiệp khai thác mỏ và 135 công nhân thuộc ngành sản xuất
và phân phối điện, khí đốt, hơi nước. Trong số 100.736 công nhân thuộc ngành công
nghiệp chế biến, có: 22.313 công nhân ngành trang phục và nhuộm da thú; 20.981 công
nhân sản xuất thực phẩm và đồ uống; 8.814 công nhân chế biến gỗ, sản xuất các sản
phẩm từ tre nứa; 7.925 công nhân sản xuất thủy tinh, các sản phẩm từ thủy tinh, gốm sứ;
7571 công nhân sản xuất giường, tủ, bàn nghế; 2.262 công nhân sản xuất máy móc và
thiết bị. Còn lại là công nhân thuộc các ngành chế biến khác như: dệt, thuộc sơ chế da, va
li, túi sách, sản xuất giấy, sản xuất kim loại, sản xuất xe có động cơ rơ moóc…[2, tr.99].
Đặc biệt trong vài năm gần đây, cùng với cơ cấu kinh tế chuyển đổi theo hướng tích cực,
công nhân dịch vụ công nghiệp không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Nếu
như khi mới tái lập tỉnh, ngành dịch vụ chỉ được coi như là một ngành phụ của sản xuất
kinh doanh thì hiện nay đã có cơ cấu riêng, trở thành một ngành kinh doanh lớn và đến
nay đã chiếm tỷ trọng khá cao (31,3%), chỉ sau tỷ trọng công nghiệp, xây dựng (42,8%).
Ngoài ra cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, một số ngành nghề đòi hỏi phải gắn
với công nghệ hiện đại nên bước đầu ở tỉnh Hưng Yên đã hình thành một đội ngũ công
nhân có trình độ cao tuy số lượng chưa nhiều, họ chủ yếu từ Hà Nội về làm việc tại một số
công ty như: Công ty điện tử LG, Công ty ô tô nông dụng Cửu Long, Công ty Cổ phần
thép Việt ý, Công ty Cổ phần ống thép Hòa Phát… Điều này đã đóng góp tích cực vào sự
phát triển chung của tỉnh Hưng Yên.
2.1.2.5. Cơ cấu đội ngũ công nhân giữa các thành phần kinh tế
Trong thời gian qua, cơ cấu đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên giữa các thành phần
kinh tế đã có sự biến đổi rất to lớn. Nguyên nhân chủ yếu là khi tỉnh được tái lập vốn đã có
rất ít doanh nghiệp nhà nước (13 cơ sở), đến năm 2007 chỉ còn (5 cơ sở), do trong quá trình
sản xuất kinh doanh làm ăn thua lỗ, bị giải thể hay được sắp sếp lại theo hướng cổ phần hóa,
vì thế số lượng công nhân ở khu vực kinh tế nhà nước giảm đi. Mặt khác, do chính sách thu
hút đầu tư nên đã xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế cùng tham gia vào sản xuất kinh
doanh.
Biểu hiện cụ thể: năm 1997, toàn tỉnh có 13.742 cơ sở sản xuất kinh doanh ngoài
nhà nước, 7 cơ sở sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài. Đến năm 2007, tăng lên 17.781 cơ
sở sản xuất kinh doanh ngoài nhà nước, 116 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm
(liên doanh và 100% vốn đầu tư nước ngoài). Số lượng công nhân cũng có sự thay đổi
như: Năm 1997, số công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước là 5.533 người, khu vực
kinh tế ngoài nhà nước là 31.327 người, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 679 người.
Đến năm 2007, số công nhân khu vực nhà nước chỉ còn 1.315 người, khu vực kinh tế
ngoài nhà nước tăng mạnh là 83.268 người, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
cũng tăng mạnh là 16.533 người [2, tr.97].
Như vậy, số lượng đội ngũ công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước ngày càng có
xu hướng giảm đi, số công nhân trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài ngày càng tăng lên. Xu hướng này sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.
2.1.3. Thực trạng chất lượng của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên
Chất lượng của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên được biểu hiện trên một số lĩnh
vực sau như: trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ lý luận, ý thức giác
ngộ giai cấp, đời sống của công nhân…
2.1.3.1. Về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đặt ra yêu cầu công nhân phải không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao
trình độ mọi mặt. Điều này cũng đã thể hiện ở đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên như
sau:
- Về trình độ học vấn:
Trình độ học vấn là chìa khóa để tiếp nhận tri thức khoa học, công nghệ hiện đại.
Thực tế quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho thấy,
trình độ học vấn của công nhân càng cao họ càng có điều kiện để tiếp nhận khoa học -
công nghệ hiện đại, và do đó càng có cơ hội thích ứng với sự chuyển đổi nghề nghiệp.
Trình độ học vấn của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên được biểu hiện như sau: “Năm
1997, tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học (cấp I) là 27,2%; tốt nghiệp phổ thông cơ sở (cấp II) là 38,2%;
tốt nghiệp phổ thông trung học (cấp III) là 34,6%. Đến 2007, tỷ lệ công nhân tốt nghiệp tiểu
học chỉ còn 2,2%; tốt nghiệp phổ thông cơ sở là 36,3%; tốt nghiệp phổ thông trung học là
61,5%” [2, tr.89]. Nhìn vào số liệu trên ta thấy, sau 10 năm tái lập tỉnh trình độ học vấn của
công nhân dần được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ công nhân tốt nghiệp phổ thông trung học ngày
càng tăng lên. Có được kết quả trên là do Đảng bộ tỉnh Hưng Yên rất quan tâm đến công tác
giáo dục và đào tạo, nhằm không ngừng nâng cao trình độ học vấn cho đội ngũ công nhân
của tỉnh, tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Tỷ lệ công nhân chỉ tốt nghiệp phổ thông cơ sở còn khá nhiều (36,3%), vẫn còn công
nhân chỉ tốt nghiệp bậc tiểu học (2,2%), đa số những công nhân này chủ yếu làm việc ở
ngành may mặc và giầy da. Với trình độ học vấn còn thấp như thế tất yếu sẽ ảnh hưởng đến
chất lượng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ thực trạng trên, nếu chúng ta không có một chính sách đào tạo, đào tạo lại thích
hợp, thì rất khó có thể nâng cao trình độ học vấn của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên
lên.
- Về trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Là một tỉnh cũng có một số trường đào tạo nghề cho công nhân như: trường Đại học
Sư Phạm Kỹ Thuật Hưng Yên, trường Cao đẳng Bách Khoa Hưng Yên, trường Cao đẳng cơ
điện, trường trung cấp nghề Hưng Yên, trường trung cấp Việt Hàn, song tỷ lệ công nhân qua
đào tạo còn ít, cụ thể: “Số công nhân có trình độ từ cao đẳng trở lên là 15,4%, công nhân kỹ
thuật là 27,1%, công nhân trình độ trung cấp là 15,9%, không được đào tạo là 41,6%” [3,
tr.10].
Một điểm bất cập nữa hiện nay tỷ lệ công nhân lành nghề, thợ bậc cao còn ít, cụ thể:
“Thợ lành nghề bậc cao (bậc 6 - 7) chỉ chiếm 10,2%, công nhân lao động giản đơn là
18,6%, lao động (bậc 1 - 3) là 30,2%, lao động (bậc 4- 5) là 20,0%" [3, tr.10]. Trong khi
đó, ngày càng nhiều công nhân có tay nghề cao đang được thu hút vào các doanh nghiệp
ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là một lực cản lớn đối
với sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội ở tỉnh Hưng Yên hiện nay cũng như
ảnh hưởng đến sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sự thiếu hụt nghiêm trọng công nhân có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và tay
nghề bậc cao bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Trong đó có những nguyên nhân sau:
mặc dù những năm gần đây nước ta nói chung và tỉnh Hưng Yên nói riêng đã chú
trọng đến công tác đào tạo nghề cho người lao động nhưng vẫn chưa có một chiến
lược và quy hoạch đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ học vấn và tay nghề cao gắn
với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Công tác định hướng học nghề trong các
trường phổ thông còn chậm. Tâm lý học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học
thường muốn thi Đại học mà không muốn học nghề để trở thành công nhân, chỉ khi thi
trượt thì mới tính đến học nghề. Có trường dù đã xây dựng xong nhưng không tuyển
đủ học viên, nên việc giảng dạy ở đây rất cầm chừng, như trường Trung cấp nghề
Hưng Yên. Hệ thống các trường dạy nghề trong tỉnh còn ít, cả tỉnh hiện nay mới có 5
trường tham gia vào công tác dạy nghề. Nội dung giảng dạy còn nghèo nàn chưa đổi
mới để phù hợp với thị trường lao động. Đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm trong công
tác dạy nghề còn mỏng; tỉnh chưa có trường đào tạo nghề chất lượng cao. Công tác tổ
chức các hội thi tay nghề cho công nhân trong tỉnh không được thường xuyên. Chưa
có chính sách khuyến khích công nhân học nghề và đầu tư thỏa đáng kinh phí cho đào
tạo công nhân. Do thiếu một chiến lược và quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng lớp công
nhân trẻ có tay nghề bậc cao chuẩn bị thay thế lớp công nhân lớn tuổi, nên dẫn đến sự
bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo và tình trạng thừa thầy, thiếu thợ càng diễn ra. Nhiều
doanh nghiệp sử dụng lao động do mở rộng sản xuất, tìm kiếm giá nhân công rẻ nên
tuyển lựa tự do chủ yếu là các lao động không cần qua đào tạo. Khi vào làm chỉ cần
học trong một thời gian ngắn là đã trở thành công nhân như ngành may mặc, giầy da...
Nhiều công nhân phần đa chỉ lo kiếm sống để nuôi bản thân và phần nào giúp thêm
gia đình, nên họ không muốn giành thời gian cho đào tạo lại… Khắc phục những mặt
hạn chế trên là yêu cầu khách quan để góp phần nâng cao chất lượng của đội ngũ công
nhân tỉnh Hưng Yên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.1.3.2. Về trình độ lý luận, ý thức giác ngộ giai cấp
- Về trình độ lý luận:
Những năm qua, với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đội ngũ
công nhân tỉnh Hưng Yên nói riêng và giai cấp công nhân Việt Nam nói chung đang
đứng trước nhiều khó khăn, thử thách gay gắt về việc làm, thu nhập, và đời sống. Nhưng
nhìn chung, đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên vẫn tin tưởng và ủng hộ đường lối đổi
mới, nêu cao tinh thần vượt mọi khó khăn, ra sức thực hiện đường lối đổi mới, là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần tạo nên những
thành tựu quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh. Thời gian qua, vấn
đề nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ công nhân luôn được Đảng bộ và chính
quyền các cấp trong tỉnh quan tâm, song kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế. Cụ thể
như sau: Số công nhân chưa qua đào tạo lý luận chính trị chiếm 65,72%, trong đó chưa
học chiếm tới 51,71% và không có điều kiện đi học là 13,01%, không muốn đi học là
1,0%. Số hiện đang học các lớp bồi dưỡng chính trị chiếm tỷ lệ rất thấp 2,1%. Số đã qua
các lớp học chính trị là 32,18%, song chủ yếu là ở trình độ sơ cấp chính trị (24,32%),
trong đó chủ yếu được đào tạo trước khi chưa tách tỉnh và đa số họ là những cán bộ, lãnh
đạo, quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước. ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước, tỷ lệ
trên còn thấp hơn, cụ thể là: không qua các lớp chính trị chiếm (81,32%) mà chủ yếu là
chưa đi học, nếu có đi học thì cũng là ở trình độ sơ cấp (12,17%) [3, tr.9], nên trong quá
trình điều tra xã hội học có những câu hỏi về đường lối, chủ trương, pháp luật của Nhà
nước, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hầu như là trả lời không đúng hay
không có ý kiến.
- Vấn đề ý thức giác ngộ giai cấp:
ý thức giai cấp của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên còn nhiều hạn chế. Theo
một điều tra, khi được hỏi rằng giai cấp, tầng lớp nào có vai trò quan trọng nhất đối
với sự phát triển của xã hội ở nước ta hiện nay, 4,6% số công nhân điều tra trả lời là
giai cấp nông dân và 32,0% trả lời là đội ngũ trí thức [41, tr.95]. Hiện nay ở tỉnh
Hưng Yên một bộ phận công nhân chưa thấy được vị trí, vai trò lịch sử của mình đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Họ cho rằng đội ngũ trí thức và giai cấp
nông dân mới có vai trò trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Bởi Hưng Yên
vốn là một tỉnh thuần nông, thành phần xuất thân chủ yếu của công nhân là nông dân.
Điều đáng lo ngại là số công nhân trẻ dưới 30 tuổi lại có nhiều người nhận thức sai
lệch về vấn đề này. Tình trạng trên diễn ra có thể do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể chưa tuyên truyền có hiệu quả hay chưa
quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm nâng cao ý thức
chính trị cho công nhân, nhất là ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước và kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài.
- Nguồn bổ sung vào đội ngũ công nhân trong tỉnh chủ yếu xuất thân từ nông dân,
học sinh, tuổi đời còn trẻ chưa từng trải qua đấu tranh trong lao động sản xuất và chiến
đấu cho độc lập dân tộc, chỉ từ những hiện tượng bề ngoài mà đã đánh giá cao vai trò của
nông dân và đội ngũ trí thức.
- Do thấy nông dân chiếm đa số trong xã hội, sản xuất ra những sản phẩm thiết yếu
cho sự tồn tại của con người nên cho rằng giai cấp nông dân có vai trò quan trọng nhất
đối với sự phát triển của đất nước; thấy cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển
như vũ bão, kinh tế tri thức đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nhân loại
nên họ cũng cho rằng đội ngũ trí thức có vai trò quyết định đến sự phát triển của xã hội.
Thiếu sự từng trải, hiểu biết lý luận chính trị còn hạn chế nên không nắm được bản chất
của vấn đề, không hiểu được giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức không đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến, không có hệ tư tưởng độc lập, nên không thể lãnh đạo
cách mạng, không thể có vai trò quan trọng nhất đối với sự phát triển của đất nước, mà
vai trò đó phải là giai cấp công nhân.
- Đời sống của người công nhân còn gặp nhiều khó khăn, thiếu việc làm và phải
cạnh tranh nên ít có thời gian tham gia hoạt động xã hội, có tư tưởng ngại học tập chính
trị.
- Tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là sau sự sụp đổ của Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, âm mưu diễn biến hòa bình cũng làm suy giảm
lòng tin của công nhân.
- Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức có quyền quan liêu, cửa quyền,
tham nhũng - là nguyên nhân chủ yếu khiến cho công nhân thiếu tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
Những hạn chế trên cần phải sớm khắc phục trong thời gian sớm nhất, bởi vì, nếu
không hiểu rõ vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình, không thấm nhuần chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước thì đội ngũ công nhân chưa thể xứng đáng với vai trò là lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2.1.3.3. Về tham gia các tổ chức đảng và đoàn thể
- Tổ chức đảng và tổ chức đoàn thanh niên:
Tính đến thời điểm cuối năm 2007, số công nhân là đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam, đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh của tỉnh Hưng Yên chiếm một
tỷ lệ rất thấp, nhất là trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài, cụ thể: công nhân là đảng viên trong khu vực kinh tế nhà nước chiếm 14,
87%, khu vực kinh tế ngoài nhà nước chỉ chiếm 4,57%, khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài hầu như là không có. Tỷ lệ đoàn viên thanh niên trong khu vực kinh tế nhà
nước chiếm số đông 49,5%, khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 30,3% [3, tr.15].
Như vậy, đảng viên và đoàn viên trong đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên hiện nay
vẫn chưa phát triển mạnh và phân bố không đều ở các khu vực kinh tế. Số lượng đảng
viên và đoàn viên ở khu vực kinh tế nhà nước luôn cao hơn ở khu vực kinh tế ngoài nhà
nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Một thực tế nữa là cũng có công nhân
mặc dù tuổi đời còn trẻ nhưng họ không có nguyện vọng tham gia vào các tổ chức này.
Bên cạnh đó, một số tổ chức cơ sở đảng, đoàn thanh niên ở tỉnh Hưng Yên hoạt động
kém hiệu quả, mang tính hình thức, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, chủ yếu phụ thuộc vào
chương trình hoạt động của đoàn cấp trên; chưa có nhiều hình thức để động viên, khuyến
khích công nhân tham gia; bản thân các đồng chí đảng viên và đoàn viên thanh niên chưa
thật sự gương mẫu trong lao động sản xuất cũng như trong sinh hoạt cuộc sống hàng
ngày.
- Tổ chức công đoàn:
So với tổ chức đảng và đoàn thanh niên thì số công nhân tham gia vào tổ chức công
đoàn tỉnh Hưng Yên hiện nay ngày càng đông. Theo báo cáo của Liên đoàn lao động tỉnh
từ năm 2001 - 2007, việc xây dựng tổ chức công đoàn cơ sở và công tác phát triển đoàn
viên công đoàn rất được chú trọng, cụ thể: năm 2003, toàn tỉnh mới có 745 công đoàn cơ
sở, trong đó có 681 công đoàn cơ sở thuộc khu vực nhà nước (gồm hành chính sự nghiệp,
xã phường, thị trấn và sản xuất kinh doanh), 64 công đoàn thuộc khu vực kinh tế ngoài
nhà nước. Đến năm 2007, toàn tỉnh có 1.043 công đoàn cơ sở, trong đó có 856 công đoàn
thuộc khu vực nhà nước (gồm hành chính sự nghiệp, xã phường, thị trấn và sản xuất kinh
doanh), 187 công đoàn cơ sở thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước [37, tr.10]. Qua số
liệu trên ta thấy: số lượng công đoàn cơ sở thuộc khối khu vực kinh tế ngoài nhà nước từ
năm 2003 - 2007 tăng khá nhanh. Sở dĩ có kết quả trên là do được sự quan tâm của các
cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, hoạt động của bản thân các công đoàn cơ sở trong
việc bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của người lao động, trong tuyên truyền
đường lối chủ trương, pháp luật Lao động của Nhà nước tương đối thành công, nhất là
trong giải quyết các tranh chấp lao động. Theo kết quả điều tra sơ bộ, hầu hết số công
nhân được hỏi về hoạt động của công đoàn cơ sở đều trả lời: công đoàn đã đứng ra bảo vệ
quyền lợi chính đáng cho người lao động, có vai trò quan trọng trong tuyên truyền,
đường lối, chủ trương luật pháp của Nhà nước nhất là Luật công đoàn, Luật lao động.
Theo kết quả phân loại của Liên đoàn lao động tỉnh năm 2007, 70% công đoàn cơ
sở đạt tiêu chuẩn công đoàn vững mạnh, trong đó 30% đạt xuất sắc, song chủ yếu là công
đoàn thuộc khu vực kinh tế nhà nước hoặc công đoàn cơ sở thuộc khối hành chính sự
nghiệp. Còn công đoàn khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài chỉ đạt 45,2%.
Bên cạnh những mặt đạt được như trên, cần thấy một thực tế hiện nay là các tổ chức
công đoàn làm công tác tuyên truyền giáo dục ý thức chính trị, ý thức giác ngộ giai cấp
cho đội ngũ công nhân còn rất hạn chế, thậm trí còn tránh đề cập đến trong các sinh hoạt
công đoàn thường kỳ. Hiện tượng này diễn ra chủ yếu ở công đoàn khu vực kinh tế ngoài
nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Hoạt động của ban chấp hành
công đoàn cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ (kể cả trình độ, phương pháp hoạt
động, giáo dục vận động thuyết phục) nên hoạt động của công đoàn cơ sở còn lúng túng,
không có hiệu quả như: Công ty Cổ phần Mirae Fiber, Công ty TNHH Thuận Phát, Công
ty TNHH may Phú Dụ. Có những Công ty do đặc thù sản xuất hoặc chủ sử dụng chưa
tạo điều kiện để tổ chức công đoàn hoạt động hoặc hoạt động có hiệu quả nên đã quá
thời gian thành lập Ban chấp hành công đoàn lâm thời nhưng đến nay vẫn chưa Đại
hội như: Công ty TNHH Thuận Phát, Công ty TNHH may Phú Dụ, Công ty TNHH
Tuấn Lợi, Công ty sản xuất và thương m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.pdf