Tài liệu Luận văn Đổi mới kinh tế Việt Nam với phép phủ định biện chứng: LUẬN VĂN:
Đổi mới kinh tế việt nam với
phép phủ định biện chứng
Lời nói đầu
Việc đổi mới nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu
bao cấp sang nền thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa mà Đảng cộng sản Việt Nam đã lựa chọn từ đại hội Đảng VI (1996) đang từng
bước thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Thực tiễn tình hình kinh tế của nước
ta trong những năm qua cho thấy công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam đang đi trên
con đường đúng đắn. Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đang dần
dần thu được những thành quả đáng chú ý. Từ một nước phải nhập khẩu gạo trong
những năm đầu giải phóng đất nước, đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong ba
nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, sánh vai cùng với Mỹ và Thái Lan. Quan hệ
thương mại của nước ta cũng ngày càng được mở rộng với chủ trường “ Việt Nan
muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Nước ta nhập WTO tổ chức thương
mại thế giớ...
30 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1078 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đổi mới kinh tế Việt Nam với phép phủ định biện chứng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đổi mới kinh tế việt nam với
phép phủ định biện chứng
Lời nói đầu
Việc đổi mới nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu
bao cấp sang nền thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa mà Đảng cộng sản Việt Nam đã lựa chọn từ đại hội Đảng VI (1996) đang từng
bước thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Thực tiễn tình hình kinh tế của nước
ta trong những năm qua cho thấy công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam đang đi trên
con đường đúng đắn. Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đang dần
dần thu được những thành quả đáng chú ý. Từ một nước phải nhập khẩu gạo trong
những năm đầu giải phóng đất nước, đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong ba
nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, sánh vai cùng với Mỹ và Thái Lan. Quan hệ
thương mại của nước ta cũng ngày càng được mở rộng với chủ trường “ Việt Nan
muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Nước ta nhập WTO tổ chức thương
mại thế giới – và đến khi đó thì nền kinh tế của Việt Nam sẽ có những bước tiến mới,
hứa hẹn một sự tăng trưởng cao. Không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà trong những
ngành khoa học cơ bản cũng dần dần được đầu tư thích đáng hơn và có sự chú ý hơn
của Nhà nước, bằng chứng là ngân sách Nhà nước cho những ngành này đã tăng lên
đáng kể so với những năm đầu thập kỷ 90. Để đạt được những thành tích đáng kể như
vậy ngoài sự nỗ lực gồng mình trong xu thế hội nhập với thế giới để không trở thành
“kể bị đào thải” thì một trong những điều kiện quan trọng để đưa nước ta có được vị
thế dần dần được khẳng định trong khu vực là do Đảng và Nhà nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã kiên trì đường lối lãnh đạo, quán triệt tư tưởng của chủ nghĩa
Mác – Lênin, coi đó là nền tảng tư tưởng và làm kim chỉ nam cho mọi lý luận khoa
học và xã hội mặc dầu đã có không ít những sự nghi ngờ, dèm pha về chủ nghĩa Mác –
Lênin, đặc biệt khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Trong quá trình lãnh đạo đất
nước để thực hiện mục tiêu “ dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”, tiến
lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã kiên định đường lỗi lãnh đạo, kế thừa và phát huy chủ
nghĩa Mác – Lênin và biết áp dụng thực tiễn phép biện chứng của Mác – xít một cách
linh hoạt trong những đường lối, định hướng, chính sách hoạch định phát triển kinh tế
xã hội khẳng định việc đổi mới nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn - trong
đó chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin luôn là nền tảng vững chắc là kim chỉ
nam dẫn đường.
Nhận thức tầm quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác Lênin, đặc
biệt là phép phù định biện chứng đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam, và đây
cũng là những lý luận cơ bản mà mỗi học sinh khi bước chân vào giảng đường đại học
cần phải nắm được, Bộ môn Triết học Mác Lênin – trong Đại học Kinh tế Quốc dân đã
có chủ trương cho sinh viên nghiên cứu và ngoài những giời giảng dậy trên lớp, bộ
môn đã nâng lên thành một đề tài nghiên cứu khoa học cho sinh viên. Trong quá trình
nghiên cứu đề tài, em rất vui khi được tiếp xúc với những lý luận cơ bản và cần thiết
và rất vui mừng khi được nâng cao kiến thức với một đề tài “Đổi mới kinh tế việt nam
với phép phủ định biện chứng”.
A.Cơ sở lý luận
Phần I: quy luật phủ định và phủ định
I. Khái niệm phủ định biện chứng và những đặc điểm của nó
1. Khái niệm
Triết học Mác thấy rõ sự chuyển hoá từ những thay đổi thành những thay đổi về
vật chất, sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ
mất đi và sự vật mới ra đời. Mỗi sự thay thế ấy làm thành một mắt khâu trong sợi dây
xích phát của hiện thực và của sự tư duy. Sự ra đời của cái mới là kết quả của sự phủ
định cái cũ, cái lỗi thời. Sự phủ định trong tự nhiên lẫn trong xã hội là sự phủ định làm
mất đi cái cũ và xuất hiện cái mơí, tiến bộ hơn.Sự phủ định như vậy là hình thức giải
quyết các mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật bị phủ định. Từ những sự nhận đinh
trên chủ nghĩa duy vật đã đưa ra khái niệm: Phủ định biện chứng là quá trình tự thân
vận động phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của
cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
2. Đặc điểm
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản
+ Thứ nhất, nó mang tính khách quan, là điều kiện của sự phát triển.
Phủ định biện chứng là quá trình mang tính khách quan do mâu thuẫn của bản
thân sự vật tự quy định. Hơn nữa, phương thức phủ định sự vật cũng không tuỳ thuộc
ý muốn của con người. Khi đề cập tới vấn đề này, chúng ta lưu ý rằng, mỗi sự vật có
phương thức phủ định riêng, do đó mà có sự phát triển. Sự phủ định là kết quả hoạt
động của quy luật mâu thuẫn và quy luật lượng chất cũ và xuất phát từ xu hướng vận
động của sự vật, hiện tượng, từ chính trong nội lực của sự vật.
Nguyên nhân của sự chuyển hoá đó là do sự phát triển của mâu thuẫn bên trong
của sự vật do sự biến hoá của một số điều kiện bên trong nào đó làm cho một số đặc
trưng, đặc tính hoặc hình thức vốn có mất ý nghĩa tích cực đáng được khẳng định
trong quá trình phát triển mà trở thành những cái tiêu cực ngăn cản sự phát triển nhất
định, mọi sự vật mới có ý nghĩa tích cực mới là cái ngăn cản sự phát triển nhất định,
mọi sự vật mới có ý nghĩa tích cực mới là cái nên khẳng định vượt qua khỏi điều kiện
phát triển đó thì ý nghĩa tích cực của nó sẽ mất đi và chuyển thành cái tiêu cực, cái cần
phải phủ định. Vì vậy cần phải chuyển hoá sang mặt đối lập của nó, cần phải có đặc
trưng, đặc tính khác đối lập với bản thân nó, hoặc hình thức khác mới có thể phát triển
lên được nếu không thì sự phát triển sẽ gặp trở ngại, sẽ thành ra sai lầm hay lệch lạc.
+ Thứ hai, nó mang tính kế thừa là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới.
Kế thừa là việc cái mới ra đời từ cái cũ đã giữa lại trong đó những yếu tố tích
cực tiến bộ từ cái cũ tạo đi phù hợp với hoàn cảnh mới.
Phủ định biện chứng không phải là thủ tiêu, sự phá hoại hoàn toàn của cái bị
phủ định. Trái lại, để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện chứng bao
hàm trong đó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ định. Phủ định
biện chứng, do vậy, là sự phủ định mang tính kế thừa. Với ý nghĩa như vậy, phủ định
đồng thời là khẳng định. Diễn đạt tư tưởng đó, Lênin có viết “ không phải sự phủ định
sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự nghi ngờ là cái đặc
trưng và cái bản chất trong phép biện chứng... mà là sự phủ định coi như là vòng khâu
của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”.
Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự ra
đời của cái mới. Thật ra, nó đã tham gia vào việc tạo ra cái hiện tại, nó tạo thành mối
liên hệ sống động trong thời gian. Một trong những hình thức quan trọng của cái được
kế thừa trong đời sống xã hội là truyền thống. Truyền thống là cái chứa đựng trong bản
thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái mới.
Trong qúa trình đổi mới hiện nay, chúng ta phải biết kế thừa những di sản tích
cực của dân tộc cũng như của thế giới. Nhưng có lúc, có nơi đã coi nhẹ việc khai thác
vốn quý báu của dân tộc, có quan điểm phủ định sạch trơn. Ngược lại, có lúc có nơi lại
phục hồi cả những phong tục tập quán đã lỗi thời, không biết đứng trên yêu cầu mới
của cách mạng mà cải biến và sử dụng những vốn cũ đó cho thích hợp.
II. Quy luật phủ định của phủ định và hình thức “xoáy ốc” của sự phát
triển.
1. Nội dung
Phủ định biện chứng nói lên một giai đoạn, một nấc thang trong quá trình phát
triển. Với tư cách là kết quả của “ phủ định lần thứ nhất”, cái mới cũng chứa đựng
trong bản thân mình xu hướng dẫn tới những lần phủ định tiếp theo – phủ định của phủ
định. Chỉ có thông qua phủ định của phủ định mới dẫn tới việc ra đời một sự vật, trong
đó có sự lặp lại một số đặc trưng cơ bản của cái xuất phát ban đầu nhưng trên cơ sở
cao hơn. Đến đây mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Khuynh hướn chung như vậy
của sự phát triển được khái quát thành nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ
định.
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng, như trên đã
nói, là sự thống nhất giữa loại bỏ, kế thừa và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng
được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới. Do đó, sự phát triển thông qua
những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng.
Đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định
chính là sự phát triển dường như quay lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn. Nói một
cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một chu kỳ phát triển. Phủ
định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là một bước trung gian trong sự
phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển. Sự
phát triển đi lên không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường “xoáy ốc”. Đề
cập đến con đường đó của sự phát triển biện chứng, Lênin viết. “ Sự phát triển hình
như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, một trình độ cao
hơn; sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng”.
Diễn tả quy luật phủ định bằng đường xoáy ốc chính là hình thức cho phép biểu
đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng của qúa trình phát triển biện chứng: tính kế thừa,
tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính chất tiến lên của sự phát triển. Mỗi vòng
mới của đường xoáy ốc thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời
dường như quay lại cái đã qua, dường như lặp lại vòng trước. Sự tiếp nối nhau của các
vòng thể hiện tính vô tận của sự phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao.
Quy luật phủ định của phủ định diễn tả sự phát triển theo đường xoáy ốc thông
qua phủ định của phủ định nhưng cần tránh khuynh hướng hiểu sự phát triển một cách
máy móc. Số lượng cần phủ định trong một chu kỳ phát triển một cách máy móc. Số
lượng các lần phủ định trong một chu kỳ phát triển cụ thể trong thực tế có thể nhiều
hơn hai, điều đó tuỳ theo tính chất của một quá trình phát triển cụ thể, nhưng ít nhất
cũng phải hai lần.
Từ những lập luận trên đây, chúng ta có thể hiểu nội dung cơ bản của quy luật
phủ định của phủ định như sau: quy luật này nói lên mối liên hệ sự kế thừa giữa cái bị
phủ định, do sự kế thừa đó sự phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch
trơn bác bỏ tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì
và giữ gìn nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lắp lại một số đặc điểm cơ bản
của cái xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát có tính chất tiến lên
không phải theo đường thẳng mà là đường xoáy ốc.
2. ý nghĩa của quy luật phủ định của phủ định
Trong hoạt động lý luận cũng như trong thực tiễn, chúng ta cần lưu ý rằng cái
mới nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất sẽ chiến thắng cái lạc hậu, cái mới ra
đời từ cái cũ, nó kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Do đó, cần chống lại thái
độ phủ định sạch trơn cái cũ.
Trong khi đấu tranh với cái cũ, chúng ta vừa phải biết sàng lọc, biết giữ lấy
những gì tích cực là có giá trị của cái cũ, cải tạo cái cũ cho phù hợp với những điều
kiện mới; chống thái độ “ hư vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận lịch sự, đánh giá quá
khứ. Chẳng hạn trước tình trạng tam thời khủng hoangả thoái trào hiện nay của chế độ
XHCN ở Liên Xô cũ và Đông Âu không chỉ những kẻ chống cộng có cả một số người
vốn là Macxít cũng ra sức phủ nhận những thành quả to lớn của CNXH đã tạo dượng
được ở những nước đó. Họ không thấy rằng trong hơn 70 năm tồn tại, CNXH ở Liên
Xô đã để lại những giá trị tích cực có giá trị lâu dài đối với lịch sử toàn thế giới.
Phần II. Những lý luận về thị trường
I. Nền kinh tế kém phát triển mang tính tự cấp, tự túc
ền kinh tế tự nhiên là hình thái kinh tế đầu tiên trong tiến trình phát triển kinh tế
– xã hội của loài người. Nền kinh tế tự nhiên là loại hình kinh tế tiến hành sản xuất sản
phẩm để thoả mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất. Các mối quan hệ sản xuất
kinh tế đều mang hình thái quan hệ hiện vật. Đây là nền kinh tế thị trường có thị
trường là kiểu hệ thống kinh tế đặc thù mà ở đó nhà nước chính thức có quyền lực kinh
tế vô cùng to lớn, nhưng trong thực tế quyền lực đó là sự bác bỏ về việc tưởng một cái
gì đó là việc thực hiện tích cực một sự lựa chọn. Mọi hoạt động của kinh tế đều được
điều chỉnh bởi nhà nước, từ giá cả tất nhiên gồm cả giá ngoại hối và việc phân phối
hàng tiêu dùng.
II. Nền kinh tế hàng hoá.
Nền kinh tế hàng hoá là một bước ngoặt phát triển cao hơn của kinh tế tự nhiên.
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội mà trong đó hình thái phổ biến
của sản xuất ra sản phẩm để bán để trao đổi trên thị trường. Trong nền kinh tế hàng
hoá gần như toàn bộ sản phẩm lao động xã hội và dịch vụ đều mang hình thaí hàng
hoá, tức là hầu như tất cả các mỗi quan hệ kinh tế đều được thực hiện dưới hình thái
quan hệ hàng hoá, tiền tệ trên thị trường.
III. Nền kinh tế thị trường tự do
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình tự cao được
điều tiết bởi cơ chế thị trường ở đó sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất
cho ai được quyết định thông qua thị trường cơ sở quan hệ cung cầu, giá cả.
Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi
phối của quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Nhân tố cơ bản của cơ chế thị trường là cung cầu và giá cả thị trường. Trong nền kinh
tế thị trường là hàng loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó như: quy luật giá trị,
quy luật kinh tế cung cầu, quy luật cạnh tranh... cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị
trường tuân theo những quy luật trên.
IV. Nền kinh tế thị trường hỗn hợp.
Đây là nền kinh tế thị trường thị trường phát triển ở trình độ cao mà ở đó chú
trọng tới vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế bên cạnh những quy luật vốn có
của thị trường.Thị trường lúc này chịu sự điều tiết của cả “bàn tay vô hình” và “ bàn
tay hữu hình”mà tuy theo mục đích phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia mà trong
từng thời kỳ, tương quan giữa việc sử dụng “ bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình”
được điều chỉnh. Nền kinh tế này còn gọi là nền kinh tế hỗn hợp.
B. phép phủ định biện chứng đối với công
cuộc đổi mới kinh tế ở Việt nam
I. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá là tất yếu khách quan, phủ định lại
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù hợp trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp ở
Việt Nam
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước
ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hưũ
công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta có thêm sự giúp đỡ tận
tình của các nước XHCN khác mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được tính ưu việt
của nó, từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá nhà nước
đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền
bạc để ổn định và phát triển nền kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phù
hợp, nó đã tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời
nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo
ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và nhà nước huy động ở mức
độ cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Nhưng sau ngày giải phóng Việt Nam bức tranh mới về hiện trạng kinh tế XH
đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả 3 loại hình kinh tế tự cấp, tự
túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hàng hoá. Đó là thực tế khách
quan tồn tại sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng nền kinh
tế chỉ huy như ở Miền Bắc trước đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều,
việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kiện kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện hàng
loạt các hiện tượng tiêu cực.
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một cách mạnh
mẽ mọi sản phẩm lao động, giá cả thì bị ấn định trước theo những chỉ tiêu của Nhà
nước, điều này dẫn đến việc những quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá cả,
quy luật cung cầu, quy luật giá trị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu thông
tiền tệ, giá cả không kiểm soát được, đặc biệt là trong những năm 80, lạm phát của
nước ta đã lên đến 3 con số làm cho đời sống nhân dân vô cùng khó khăn và tình hình
kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nền sản xuất kém phát triển được sự
bảo hộ của nhà nước lại càng trở nên trì trệ. Bộ máy quản lý doanh nghiệp không hiệu
quả, cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và không năng động, phong cách thì cửa
quyền dưới chính sách bù lỗ của nhà nước ngày càng không đem lại bất cứ một hiệu
quả kinh tế nào.
Đồng thời do chủ quan cúng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế
quản lý kinh tế, chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất
của đất nước, trái lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các
nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản
xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những việc đó gây ra rất xấu
cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan
hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích
luỹ hàng năm hầu như không có vốn đầu tư chủ yếu vào vay và viện trợ của nước
ngoài. Để cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm
phát cao đã làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số địa phương nạn
đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự xuy thái nền kinh tế là do áp dụng dập
khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả.
Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng như trên, thêm vào đó viện trợ nước
ngoài bị giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta với sự bức bách đòi hỏi phải đổi mới.
2. sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của
Nhà nước là một xu hướng phát triển yếu khách quan.
Trước những tồn tại và bất cập trên của nền kinh tế chỉ huy, tại Đại hội Đảng
VI (1996) đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển
đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh
XHCN. Đến đại hội đảng VII Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước
ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đã diễn ra ở đó, tức là chuyển nền kinhtế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng
trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Xét
dưới góc độ triết học, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn và phù hợp
với quy luật phủ định của phủ định và xu thế của thời đại.
Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không
thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng
sản xuất.
Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung còn rất cứng nhắc nên nó chỉ có
tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong gia đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển
nền kinh tế theo chiều rộng.
Thứ ba, xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta, những nhân tố của kinh tế thị
trường. Về vấn đề này có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng
thị trường nước ta là thị trường mới hình thành còn non yếu và là thị trường sơ khai.
Thứ tư, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang
hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu
tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn
với nền kinh tế thị trường thế giới.
Thứ năm, xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của
mỗi nước không thể tách rời với sự phát triển hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các
quốc gia đã làm thay đổi hẳn về chất, không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội
mạnh mà là tiềm lực kinh tế.
Thứ sáu, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể
nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống kinh tế –
xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp lạm phát khủng hoảng, ô nhiễm môi trường,
sự bùng nổ dân số cũng như hiện tượng XH khác. Những tình trạng và hiện tượng trên
ở mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đều có tác dụng ngược trở lại làm cản trở
sự phát triển bình thường của xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng,
vì vậy, sự tác động của nhà nước một chủ đề có khả năng nhận thức và vận dụng các
quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế XH. Thiếu
sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế chẳng khác nào khi vỗ tay mà chỉ dùng một tay.
Như vậy, nhìn lại ta thấy, Việt Nam trong thời kỳ dài tiến hành xây dựng nền
kinh tế cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phủ định “bàn tay vô hình” của thị trường, cơ
chế này đã có một vai trò lịch sử trong những năm 1950 – 1979 và đã có tác dụng đáng
kể trong việc tập trung các nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật của CNXH và đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước. Song cơ cấu này đã được duy trì quá lâu, làm cho từ tập trung ở
mức cần thiết chuyển sang tập trung cao độ, phát sinh quan liêu bao cấp kìm hãm và
cản trở sự phát triển kinh tế trong thời bình. Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, khi
cách mạng đã chuyển giai đoạn và trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều thay đổi,
đồng thời nhận thức sâu sắc phép phủ định biện chứng là cái mới sẽ tất yếu khách
quan ra đời thay thế cho cái cũ không còn phù hợp nữa, vì vậy, trong Đại hội lần thứ
VI của Đảng (1986), Đảng và Nhà nước ta đã mạnh dạn đưa ra đường lối đổi mới, điều
chỉnh cơ cấu kinh tế để chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, công nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân và
có những chính sách mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đưa nền kinh tế nước ta dần dần
hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý
đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại hội VII của Đảng khẳng
định: “ tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận
hành có hiệu qủa cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Những thay đổi chính
sách quan trọng đã được đề ra trong đường lối mới là.
Khẳng định sự phát triển lâu dài nền kinh tế nhiều thành phần. Điều này có ý
nghĩa là xoá bỏ sự kỳ thị trước đây đối với kinh tế tư nhân, đồng thời đặt kinh tế nhà
nước vào môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Khẳng định các quan hệ thị trường có vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Đổi mới chính sách cơ cấu theo hướng tập trung các
nguồn lực gia và ba mục tiêu lớn: phát triển nông nghiệp phát triển sản xuất hàng tiêu
dùng, đẩy mạng xuất khẩu và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, ổn định môi trường
kinh tế và xã hội thông qua việc cố gắng đạt các mục tiêu: cắt giảm lạm phát, giảm
thiếu hụt ngân sách, giảm mức bộ chi tiền mặt và ngân cao mức sống của nhân dân.
Những thay đổi có tính chất chiến lược về chính sách theo tinh thần các kết luận
của đại hội VI diễn ra kể từ năm 1998, và sau đó tiếp tục thúc đẩy của các nghị quyết
đại hội lần VII của Đảng cộng sản Việt Nam. Định hướng lớn trong chính sách kinh tế
mà đại hội VII đề ra.
Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN.
Xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng và quyền quản lý của nhà nước trong lĩnh vực
kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có chủ, mọi đơn vị kinh tế đều có chủ.
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng
bước công nghiệp hoá, thoát khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu.
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi với việc tăng cường vai trò
quản lý của nhà nước về kinh tế – xã hội.
Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khái quát đường lối đổi mới kinh
tế sau đại hội VII, tiếp tục đổi mới kinh tế với điểm trung tâm là hình thành nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN. Thực hiện quan điểm chiến lược đó, Đảng và nhà nước
Việt Nam đã có những chủ trương cần thiết để từng bước chuyển nền kinh tế tự nhiên,
lực lượng sản xuất bị vô chủ ở nhiều cấp độ khác nhau sang nền kinh tế thị trường qua
ba bước cơ bản.
- Cải cách cơ cấu sở hữu, biến nền kinh tế về cơ bản dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân và tập thể đối với tư liệu sản xuất thành nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên
đa dạng hoá hình thức sở hữu tư liệu sản xuất.
- Đổi mới kinh tế chuyển từ trạng thái nhà nước, chỉ huy nền kinh tế chủ yếu
bằng mệnh lệnh hành chính, bằng kế hoạch hoá tuyệt đối và tập trung cao sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
- Từng bước chuyển sang nền kinh tế tự cấp, tự túc, ưu tiên công nghiệp nặng
sang nền kinh tế hàng hoá và hình thành một hệ thống kinh tế mở.
Tóm lại, kể từ khi đại hội VI đến đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam,
hướng phát triển kinh tế ở Việt Nam cơ bản là chuyển từ nền kinh tế hiện vật, tự túc
với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
II. Tính kế thừa trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam
1. Đặc trưng của nền kinhtế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của
Nhà nước ở Việt Nam
a. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinhtế kém phát
triển, mang tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá, vận động theo cơ chế thị
trường.
Thật vậy, đi lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN nên nước ta
thiếu cái “ cốt vật chất” của một nền kinh tế phát triển, cơ cấu hạ tầng vật chất và xã
hội thấp kém, phân công lao đọng xã hội chưa sâu sắc, các mối quan hệ kinh tế kém
phát triển, thị trường còn đơn điệu. Đồng thời chúng ta còn mắc phải những sai lầm,
chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy luật quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không
tuân thủ theo “ quá trình lịch sử tự nhiên” trong sự phát triển xã hội nói chung và trong
nền kinh tế nói riêng. Điều này đòi hỏi phải có một sự đổi mới sâu sắc và toàn diện
cho phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan, phù hợp với xu thế thời đại ngày
nay.
b. Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần.
Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần là do nhiều hình thức sở hữu
khác nhau về tư liêụ sản xuất. Đại hội đảng VII đã khẳng định các thành phần kinh tế
đang tồn tại khách quan tương ứng với tình chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện nay có là: quốc doanh, tập thể, cá thể, tư nhân,
TBCN và tư bản nhà nước.
Nền kinh tế nhiều thành phần đang trong sự vận động của cơ chế thị trường ở
nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém,
đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú
trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý
theo định hướng XHCN. Do đó, việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải
đi đôi với tăng cường quản lý nhà nước về kinh tế xã hội. Để hạn chế và khắc phục
những hậu quả của mặt trái kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng phương hứng và phát huy bản
chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, đại hội đảng VII nhấn mạnh: nhà nước phải thực
hiện tốt vai trò quản lý kinh tế – xã hội bằng pháp luật, kế hoạch chính sách, thông tin,
tuyên truyền, giáo dục và các công cụ khác.
c. Nền kinh tế phát triển theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài
bằng nhiều hình thức.
Biệt lập trong trong sự phát triển kinh tế là cha đẻ của đói nghèo. Do đó, việc
mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau đối với nước ta
như là một tất yếu trong sự phát triển. Tất yếu là vì sản xuất và trao đổi hàng hoá tất
yếu vượt khỏi phạm vi quốc gia, mang tính chất quốc tế, đông thời đó cũng là tất yếu
của sự phát triển nhu cầu nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nhịp điệu
của nền kinh tế thế giới.
d. Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo định hướng XHCN thông qua bản chất
và vai trò quản lý của nhà nước.
Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải
quyết hết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống KT –XH đặt ra.
Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, ô nhiễm môi trường.... cũng như
hiện tượng xã hội khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức độ khác
nhau, trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động ngược trở lại, làm cản trở sự phát triển
bình thường của một xã hội chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Vì vậy, sự
tác động của nhà nước vào nền kinh tế là một tất yếu để làm cho nền kinh tế lành
mạng hơn, giảm bớt những thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển của nó.
2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý nhà nước ở Việt Nam.
Trước đây do chủ quan nóng vội muốn xây dựng một nền kinh tế thuần khiết
XHCN, nhà nước ta đã xây dựng một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hạch hoá
tập trung cao độ với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu mà không
chú ý tới yếu tố thị trường, hàng hoá sản xuất ra được định giá sẵn và không tuân theo
những quy luật của thị trường. Trên thực tế, cơ chế kinh tế đó đã là vật cản đối với sự
phát triển kinh tế. Do đó, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ra đời mang tính
khách quan nó là kết quả của giải quyết mâu thuẫn tự có của nền kinh tế tự cung tự
cấp. Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không có
nghĩa là phủ định sạch trơn tất cả những gì của nền kinh tế cũ mà một sự chuyển đổi
có tính chất kế thừa, trên cơ sở khắc phục, sử đổi những tồn tại, sai lầm vốn có và phát
huy những mặt tốt, mặt tích cực của nó, điều này được thể hiện như sau.
Trước hết đó là việc công nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế khác bên cạnh
hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay ở Việt Nam gồm các thành
phần kinh tế: thành phần kinh tế tư bản tư nhân... Như vậy mặc dù đã phủ định loại bỏ
những mặt yếu kém của nền kinh tế trước và phát triển nó một cách toàn diện tốt hơn.
Hai thành phần kinh tế quốc doanh và thành phần kinh tế tập thể vẫn giữa vai trò chủ
đạo trong đường lối phát triển kinh tế. Nhưng bước đổi mới quan trọng của Đảng và
Nhà nước là việc thừa nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế khác như kinh tế tư bản
tư nhân. Với sự chuyển đổi đó, phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế
của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, trái lại ngày càng phát triển cả về
chiều rộng và chiều sâu. ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề mới ra đời và phát
triển. Bên cạnh những ngành nghề mới ra đời và phát triển đó, những ngành nghề cổ
truyền có tiếng không chỉ trong nước mà cả thế giới, có tiềm năng lớn mà trước đây bị
cơ chế kinh tế cũ làm mai một nay được phục hồi và phát triển. Trong nội bộ từng khu
vực, từng ngành, địa phương, phân công lao độngngày càng chi tiết hơn. Điều đó được
phản ánh ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng cao hơn của sản phẩm lao động đưa
ra trên thị trường. Sự chuyên môn hoá và hợp hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc
gia trở thành quốc tế.
Cùng với việc công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau là sự
đa dnạg hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động như sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể của những người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa, sở hữu hỗn hợp khác: tư bản nhà nước, công ty cổ phần.
Đây cũng là một bước ngoặt quan trọng để giải phóng sức lao động, tạo điều
kiện cho quan hệ sản xuất phát triển phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và
phù hợp với yêu cầu phát triển của thời đại.
Ngoài việc chuyển đổi tư tưởng mạnh mẽ về việc đa dạng hóa các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế, tính kế thừa trong công cuộc đổi mới ở nước ta còn được
thể hiện trong việc tiếp tục duy trì và phát huy công cụ kế hoạch một cách linh hoạt
bằng việc kết hợp “bàn tay vô hình” với “ bàn tay hữu hình”. Nền kinh tế nước ta, từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung phụ thuộc hoàn toàn vào sự quản lý của nhà nước
đã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tôn trọng những quy luật
khách quan của thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh...
nhưng không phải để cho những quy luật này tự do chi phối điều tiết thị trường mà ở
đây có sự can thiệp của nhà nước. Nhà nước xuất hiện vừa với tư cách là một chủ thể
kinh tế hoạt động kinh doanh trên thị trường, vừa với tư cách là một chủ thể qủan lý,
bằng những chính sách linh hoạt của mình để điều tiết hoạt động thị trường. Nhà nước
không còn đưa ra kế hoạch sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiều mà vấn đề này sẽ được
thực hiện bởi thị trường. Nhà nước can thiệp với tư cách định hướng, điều tiết triên cơ
sở đưa ra các kế hoạch dài hạn.
Như vậy, nền kinh tế mới không thổi phồng, tuyệt đối hoá vai trò kinh tế của
nhà nước tới mức phủ nhận thủ tiêu vai trò chủ thể kinh tế của các công ty, xí nghiệp,
các tổ chức sản xuất kinh doanh độc lập. Thực hiện quản lý kinh tế của nhà nước trong
cơ chế quản lý tập chung quan liêu bao cấp là sai lầm. Trái lại vịn vào việc xây dựng
và phát triển vận động của các quy luật khách quan mà lại bỏ vai trò quản lý kinh tế
của nhà nước cũng không đúng. ở Việt Nam hiện nay để xây dựng và phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN tức là một mặt phải tiếp tục củng cố lại nền kinh tế thị trường với sự quản lý
của nhà nước, mặt khác phải không ngừng phát huy vai trò của nhà nước, của đảng,
luôn bảo đảm niềm tin của người dân lao động.
Hơn nữa, cơ chế thị trường với sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế nước ta. Việc bổ sung pháp
luật tiếp tục đổi mới cơ chế và ngân sách về kế hoạch hoá, về giá, tỉ giá, tài chính,
ngân hàng, lao động, tiền công, đất đai... đang tạo môi trường thuận lợi cho các doanh
nghiệp phát huy tính năng động tự chủ tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
3. Những thành tựucủa công cuộc đổi mới.
Với sự chuyển đổi sâu sắc trong đường lối phát triển kinh tế, chúng ta đã d đạt
giả quyết được hàng loạt các vấn đề kinh tế cơ bản như:
- Thúc đầy quá trình XH hoá sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công lao
động, chuyên môn hoá sản xuất cũng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề và sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề cho sự hợp tác
ngày càng chặt chẽ.
- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế hàng hoá sự
tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu buộc người sản
xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, cái
tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu xã hội, tìm
mọi cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu người tiêu
dùng... kết quả là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển sản xuất với thị trường.
- Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế trong
nước và hoà nhập nền kinh tế thế giới.
- Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản xuất khép
kín với kìm hãm sự phát triển cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế ở trình độ
cao thực hiện với hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta sau công cuộc đổi mới không những
đứng vững mà còn đạt được những thành tựu nổi bật, khắc phục nhiều mặt đình đốn,
suy thoái, tốc độ tăng trưởng khá và liên tục, điển hình là: Lạm phát được đẩy lùi từ
67% năm 1991 xuống 17,5% năm 1992 và còn 5,2% năm 1993. Đến nay lạm phát của
nước ta chỉ còn 0,1% .Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm 7,2% sản
xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, vấn đề lương thực được giải quyết tốt,
sản lượng lương thực năm 1993 xấp xỉ 25 triệu tấn, vượt mức đề ra trong năm 1995.
Cơ cấu kinh tế đang biến đổi, một số ngành sản xuất kinh doanh mới xuất hiện.
Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá.
Để khắc phục được hầu hết hậu quả do thị trường truyền thống bị giảm sút đột ngột;
mở rộng giao lưu với nhiều bạn hàn mới, tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm xấp xỉ
20%. Tính đến năm 1993 đã cấp 836 giấy phép đầu tư nước ngoài với tổng số vốn
đầu tư đăng ký là 7,5 tỉ USD nhưng tới năm 1996 đã cấp 16454 giấy phép đầu tư nước
ngoài với tổng số vốn đăng ký đã là 21,8 tỉ USD, bước đầu thu hút thêm viện trợ phát
triển và vốn vay ưu đãi từ các chính phủ; lập lại quan hệ bình thường với các tổ chức
tài chính tiền tệ quốc tế.
Tuy vậy theo nhận định của Đảng ta thì cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang
trong giai đoạn hình thành, các doanh nghiệp nhà nước đều được xắp xếp và đăng ký
lại. Đã giảm bớt một số lượng lớn nhưng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Số đơn
vị kinh doanh có hiệu quả tăng lên. Khu vực kinh tế nhà nước nhìn chung vẫn phát
triển, nắm những lĩnh vực then chốt và giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc doanh,
tỷ trọng GDP tăng từ 34% năm 1990 lên 39,9% năm 1992.
V. Xu hướng phát triển trong quy luật phủ định của phủ định
Với xu hướng phát triển lên nền kinh tế thị trường làm con người trở nên năng
động hơn thái độ dựa dẫm, ngồi chờ ỷ lại vào cấp trên và nhà nước đã mất đi đáng kể.
Các chính sách kinh tế mới với cơ chế thị trường thực sự đã khơi dậy và nâng cao vai
trò chủ động, kích thích sự sáng tạo của người quản lý, người điều hành lẫn người trực
tiếp sản xuất. Tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh được quan tâm đặc biệt, được coi
là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá một ngành sản xuất hoặc kinh doanh nào đó.
Nền kinh tế được cởi trói đã làm sống dậy biết bao tiềm năng vật chất và trí tuệ, giải
phóng được lực lượng sản xuất đã khơi dậy được các động lực cho chính nó. Nhờ vậy
mà đời sống của nhân dân ở nhiều vùng được cải thiện rõ rệt, điều quan trọng nhất là
đất nước đã ra khỏi khủng hoảng, đã tích lỹ từ nội bộ nền kinhtế cái thời mà nhiệm vụ
thường trực số một của chính phủ là lo điều hoà lương thực giữa các vùng, các miền
để cho dân có gạo ăn ở mức quy định, còn người dân muốn mua từ cái kim, sợi chỉ,
lạng đường cũng phải chen chúc xếp hàng và theo tem phiếu đã qua rồi để nhường chỗ
cho những lo toan mới là làm sao tiêu thụ các sản phẩm đã làm ra có đủ sức cạnh tranh
với hàng ngoại, chen chân vào được và hơn nữa trụ lại được ở thị trường các nước
khác.
Từ khi bắt đầu đổi mới, lĩnh vực đạt được những thành tựu lớn nhất, nổi bật
nhất là vững chắc nhất là nông nghiệp. Trước đây sau khi giành được thắng lợi vĩ đại
trong chiến tranh chống pháp chúng ta đã thực hiện chính sách công hữu hoá, xoá bỏ
sở hữu tư nhân phân phối sản phẩm bình quân, xây dựng các hợp tác xã quy mô lớn
chính sách trên đã đi đến thất bại từ khi thực hiện khoán 10 (tháng 4/1988) đã có sự
thay đổi đáng kể trong nền nông nghiệp với việc xác định hộ gia đình là đơn vị kinh tế
tự chủ đã từng bước khôi phục lại và tạo nên sức bật bất ngờ.
Cũng nhờ đổi mới chính sách kinh tế mà nhiều ngành nghề và nhiều vùng nghề
thủ công truyền thống có một thời bị thu hẹp, lại bị teo đi, thậm chí có nguy cơ mai
một này đã sống lại và phát triển mạnh hơn. Kinh tế hộ tư nhân đã phục hồi và phát
triển đã làm xuất hiện nhiều hàng hoá phát triển mà đã xuất hiện nhiều triệu phú và số
này đã chiếm từ 10 – 15% tổng số hộ nông dân.
Đối với kinh tế trong lĩnh vực công nghiệp đặc biệt là công nghiệp quốc doanh
do nhiều nguyên nhân khó khăn hơn, mặc dầu vậy, kết quả thu nhập được là tốc độ
tăng trưởng cũng đạt trên dưới 15% năm và hiện nay đang có xu hướng tăng cao hơn.
Bên cạnh đó luật đầu tư nước ngoài mà các chuyên gia phương Tây đánh giá là
tự do nhất so với các nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, là luật cởi mở
nhất ở châu á.Chính vì vậy ngày nay thị trường nước ta thu hút thêm nhiều vốn đầu tư
nước ngoài. Kể từ khi luật đầu tư nước ngoài trực tiếp được ban hành ngày 29/12/1987
đến tháng 5/1996 những kết quả đạt được là khả quan. Tính từ năm 1988 đến
22/5/1996 đã có gần 1.644 dự án đầu tư được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký là
gần 21,8 tỷ USD. Chắc chắn rằng với chính sách đổi mới kinh tế như hiện nay đã có
thể khẳng định được rằng những thành tựu thu được đã đem lại niền tin cho mọi người
trong việc thực hiện mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, chấm
dứt được sự khủng hoảng của một nền kinh tế thiếu hụt đã tồn tại nhiều năm.
Các chính sách kinh tế mới với cơ chế thị trường thực sự đã khơi dậy và nâng
cao vai trò chủ động, kích thích sự sáng tạo của người quản lý, người điều hành lẫn
người trực tiếp sản xuất. Tính hiệu quả của sản xuất và kinh doanh được quan tâm đặc
biệt, được coi là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá một ngành sản xuất hoặc kinh
doanh nào đó. Nền kinh tế được cởi trói đã làm sống dậy biết bao tiềm năng vật chất
và trí tuệ, giải phóng được lực lượng sản xuất đã khơi dậy được các động lực cho
chính nó. Nhờ vậy mà đời sống của nhân dân ở nhiều vùng được cải thiện rõ rệt, điều
quan trọgn nhất là đất nước đã ra khỏi khủng hoảng, đã tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế
cái thời mà nhiệm vụ thường trực số 1 của chính phủ là lo điều hoà lương thực giữa
các vùng, các miền để cho dân có gạo ăn ở mức quy định, còn người dân muốn mua từ
cái kim sợi chỉ, lạng đường cũng phải chen chúc xếp hàng vào theo tem phiếu đã qua
rồi để nhường chỗ cho những lo toan mới là làm sao tiêu thụ các sản phẩm đã làm ra
có đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại, chem chân vào được và hơn nữa trụ lại được ở
thị trường các nước khác.
Cũng nhờ đổi mới chính sách kinh tế mà nhiều ngành nghề và nhiều vùng nghề
thủ công truyền thống có một thời bị thu hẹp, lại bị teo đi, thậm chí có nguy cơ mai
một này đã sống lại và phát triển mạnh hơn. Kinh tế hộ tư nhân đã phục hồi và phát
triển đã làm xuất hiện nhiều triệu phú, tỷ phú. Ngay cả trong lĩnh vực nông nghiệp,
nhờ nền sản xuất hàng hoá phát triển mà đã xuất hiện nhiều triệu phú và số này đã
chiếm từ 10 – 15% tổng số hộ nông dân.
Đối với kinh tế trong lĩnh vực công nghiệp đặc biệt là công nghiệp quốc doanh
do nhiều nguyên nhân có khó khăn hơn, mặc dầu vậy, kết quả thu nhập được là tốc độ
tăng trưởng cũng đạt trên dưới 15% năm và hiện nay đang có xu hướng tăng cao hơn.
Bên cạnh đó luật đầu tư nước ngoài mà các chuyên gia phương tây đánh giá là
tự do nhất so với các nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, là luật cởi mở
nhất ở châu á.Chính vì vậy ngày nay thị trường nước ta thu hút thêm nhiều vốn đầu tư
nước ngoài. Kể từ khi luật đầu tư nước ngoài trực tiếp được ban hành ngày 29/12/1987
đến tháng 5/1996 những kết quả đạt được là khả quan. Tính từ năm 1998 đến
22/5/1996 đã có gần 1.644 dự án đầu tư trực tiếp cấp giấy phép với tổng số vốn đăng
ký là gần 21,8 tỷ USD. Chắc chắn rằng với chính sách đổi mới kinh tế như hiện nay đã
có thể khẳng định được rằng những thành tựu thu được đã đem lại niềm tin cho mọi
người trong việc thực hiện mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh,
chấm dứt được sự khủng hoảng của một nền kinh tế thiếu hụt đã tồn tại trong nhiều
năm.
c. Xu hướng phát triển của nền kinh tế Việt nam và một số giải pháp
I. Xu hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và không có
mô hình vạch sẵn. Do vậy không thể ngay từ đầu hình dung toàn bộ các chi tiết của mô
hình thị trường; cũng không thể vạch ngay được lịch trình cứng nhắc của bước chuyển
mà phải vừa thực hiện cơ chế thị trường vừa tổng kết để tiếp tục hoàn thiện. Việc
chuyển từng bước sang cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và các
điều kiện chính trị, kinh tế xã hội nước ta, không áp dụng các biện pháp sốc vừa là đặc
điểm, vừa là quan điểm quan trọng của quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế xuất phát
từ đặc điểm kinh tế trong nước và quan hệ với bên ngoài, chúng ta đã áp dụng cơ chế
thị trường từng bước không dùng liệu pháp sốc. Có thể nói cho đến nay đã có những
cơ bản của cơ chế thị trường, dù chưa đầy đủ hoàn thiện. Điều quan trọng là cơ chế
này được nhân dân đồng tình và phát huy được tác dụng trong mọi mặt của đời sống
kinh tế.
Thực tiễn quá trình chuyển đổi cũng xuất hiện hàng loạt vấn đề mới những yếu
tố cản trở đồng thời cũng phát triển thêm nhận thức, khẳng định các quan điểm về
CNXH, quan điểm sở hữu quan điểm về vai trò nhà nước trong cơ chế thị trường... mà
thiéu chúng không thể nào có cơ sở hình thành một cơ chế vận hành nền kinh tế một
cách đúng đắn phù hợp với thực tiễn nước ta. Mặc khác, chúng ta không phủ định sạch
trơn những kết quả đạt được của mô hình kinh tế cũ.
Chúng ta chủ trương chuyển cơ chế thị trường cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn
định chính trị làm tiêu đề và điều kiện cho phát triển kinh tế, mặt khác cũng nhận rõ
phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính, trên cơ sở đổi mới quản lý của nhà
nước nâng cao chất lượng, hiệu lực hiệu quả của quản lý của nó phù hợp với điều kiện
nền kinh tế thị trường, mà tiếp tục ổn định chính trị đưa cải cách tiến lên những bước
phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh
tế, thực hiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN. Điều này không tránh khỏi những khuyết tật vốn có của nền kinh tế thị trường
như các vấn đề về lạm phát, thất nghiệp, vấn đề công bằng xã hội, sự ô nhiễm môi
trường và những tệ nạn xã hội phát sinh do mở cửa nền kinh tế. Đứng trước thực trạng
trên, trong giai đoạn quá độ hiện nay để có một bước phát triển cao hơn, hoàn thiện
hơn thì tất yếu chúng ta phải tìm ra những biện pháp nhằm khắc phục những khuyết tật
của nền kinh tế thị trường trên cơ sở phát huy những mặt tích cực của nó, đồng thời
kiên định đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước mà kim chỉ nam chính là chủ
nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin.
II. Một số vấn đề cần nghiên cứu và các giải pháp thực hiện.
Theo phương diện triết học chuyển đổi sang nền kinh tế cơ chế thị trường với
sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, để đạt được một nền kinh tế vững
mạnh thì trước hết ta phải tìm ra con đường nhanh nhất để thực hiện đồng bộ cơ chế
thị trường theo định hướng XHCN.
Để thực hiện được mục tiêu cuối cùng là vững bước đi lên XHCN thì quá trình
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN cần được tiến hành theo 3
giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất là phát triển các vùng, tỉnh, thành phố, bộ phận nhân nhân
dân có điều kiện thuận lợi, đạt trình độ khá, giàu có nhanh. Muốn vậy, cần khuyến
khích mạnh mẽ để phát huy nội lực, thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài có hiệu
quả để tăng trưởng kinh tế nhanh, cho phép để cho một số vùng, một số tỉnh, một số
bộ phận dân có điều kiện thuận lợi, có lợi thế so sánh giàu nhanh hơn, sớm hơn các
vùng, tỉnh và một bộ phận nhân dân ở vùng khó khăn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Sự
giầu có nhanh hơn, sớm hơn của một số vùng, một số tỉnh và một bộ phận nhân dân
phải theo nguyên tắc bảo đảm cho nước mạnh. Xem xét một cách đồng bộ, chúng ta
thấy một mặt đây là xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường, so quan hệ
cung cầu và giá cả thị trường quyết định mà chúng ta đang chấp nhận; nhưng mặt khác
chúng ta thấy nền kinh tế thị trường có những khuyết tật, mặt trái như “ con dao hai
lưỡi” cho nền kinh tế thị trường của chúng ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Theo quan điểm đó, trong khi quan
điểm đó, trong khi thực hiện chính sách ưu tiên, thực hiện tập trung đầu tư của nhà
nước, khuyến khích đầu tư của nước ngoài, nhân dân để phát triển kinh tế nhằm cho
phép một số vùng, tỉnh, một bộ phận dân giầu lên nhanh hơn, sớm hơn, chúng ta cần
coi trọng đúng mức đến nhu cầu cần thiết tối thiểu về đầu tư trong việc phát triển ở các
vùng khó khăn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trước hết là các xã, các hộ đặc biệt khó
khăn ở đồng bằng trung du, miền núi, vùng sâu, vùng cao, vùng xa. Làm như vậy
chính là từng bước thực hiệm mục tiêu định hướng XHCN ngay trong quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Nhà nước phải xâydựng đúng đắn, đồng bộ quy hoạch phát triển chung của cả
nước, từng vùng, từng tỉnh, từng huyện, quận, từng xã phường, từng bản làng, phải coi
đây là cơ sở pháp lý thống nhất để xác định cơ cấu kinh tế.
Muốn vậy, cần thực hiện những chủ trương, biện pháp quan trọng sau đây:
- Nhà nước cần chỉ đạo xây dựng đúng đắn quy hoạch phát triển kinh tế – xã
hội của các vùng, các tỉnh trở thành vùng, tỉnh khá, giàu có. Ưu tiên tập trung đầu tư
ngân sách nhà nước để phát triển nhanh kinh tế xã hội của các tỉnh khó khăn theo quy
hoạch phát triển đã được duyệt.
- Nhà nước cần quy định rõ nghĩa vụ cho các vùng, tỉnh đã đạt được trình độ
khá và giầu có hơn đối với sự phát triển của các vùng tỉnh khó khăn như đưa vốn vào
đầu tư liên doanh, đào tạo cán bộ, công nhân, chuyển giao công nghệ..
- Có chính sách khuyến khích ưu đãi mạnh để thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài, đầu tư trong nước, đưa vốn vào, đưa công nghệ vào đầu tư phát triển các vùng
khó khăn, các vùng miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, các vùng trung du và đồng
bằng có nhiều khó khăn là các vùng khó khăn để phát triển các vùng này cần ưu đãi
khuyến khích về thủ tục đầu tư các quyền sử dụng đất, thuế xuất nhập khẩu, vay vốn
đầu tư.
- Các vùng, các tỉnh khó khăn cần chủ động có quy hoạch và kế hoạch đầu tư
phát triển kinh tế xã hội, khai thác tối đa các nguồn lực hiện có. Các vùng các tỉnh khó
khăn cần tạo những điều kiện thuận lợi cho các tổ chức đầu tư bằng ngân sách của Nhà
nước, đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước, các vùng và tỉnh giầu có hơn tiến hành
các hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh, bằng cách đó các vùng, tỉnh khó khăn sẽ
đạt được trình độ khá và giàu có về kinh tế để có cơ sở đảm bảo sự công bằng.
Giai đoạn ba là phát triển các vùng, các tỉnh thành phố cả nước đạt trình độ khá,
giàu có về kinh tế và đảm bảo được sự công bằng và công minh, vững bước đi lên
CNXH. Để thực hiện thành công giai đoạn này – giai đoạn công bằng xã hội, văn
minh, vững bước đi lên CNXH, chúng ta cần giải quyết tốt những vấn đề như là:
- Đánh giá tổng hợp kết quả, tồn tại trong việc phát triển ở giai đoạn một và giai
đoạn hai để có kế hoạch điều chỉnh cần thiết các vùng, các tỉnh, tiếp tục phát triển để
đảm bảo cho nhân dân các vùng, các tỉnh trong cả nước khá hơn, giàu hơn về kinh tế,
bảo đảm thực sự công bằng có cuộc sống vật chất, tinh thần văn minh: con người phát
triển toàn diện và mang đủ bản sắc dân tộc.
- Nhà nước cần tiếp tục đầu tư bằng ngân sách nhà nước, phát huy nguồn nhân
lực có của giai đoạn một và hai để thực hiện kế hoạch điều chỉnh trong phát triên ở các
tỉnh, vùng chưa đạt trình độ khá và giầu có so với mức trung bình chung của cả nước
sau khi kết thúc giai đoạn một và giai đoạn hai.
- Phát huy nội lực các vùng, các tỉnh giàu có đạt được trên mức trung bình
chung của cả nước để trực tiếp đầu tư, liên doanh, hỗ trợ, giúp đỡ các vùng, các tỉnh
chưa đạt trình độ trung bình chung của cả nước phát triển để đạt được mức trung bình
chung hoặc cao hơn trong giai đoạn ba.
- Thực hiện đầy đủ chính sách để bảo đảm sự công bằng trên các mặt: tuyệt đại
đa số người lao động, công dân Việt Nam có đủ việc làm, được học hành, vui chơi,
giải trí; đảm bảo đầy đủ các quyền dân chủ cho người lao động và công dân Việt
Nam; đảm bảo ăn ngon mặc đẹp, có cuộc sống tự do hạnh phúc và sốn văn minh về vật
chất.
- Bảo đảm thực hiện các chính sách văn minh về tinh thần và phát triển toàn
diện của người lao động và nhân dân Việt Nam, phát huy đầy đủ bản sắc văn hoá dân
tộc Việt Nam, đảm bảo cho mục tiêu của CNXH được thực hiện đầy đủ.
Tóm lại, cả ba giai đoạn nêu trên có trọng tâm, trọng điểm phát triển khác nhau
trong một quá trình thống nhất nên có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện và tiền
đề cho nhau phát triển và có những mặt đan xen nhau trong quá trình phát triển. Để
thực hiện được các giai đoạn phát triển cho thế hệ mai sau thì một bộ phận không nhỏ
thế hệ hiện tại của thế kỷ 20 và phần của thế kỷ 21 phải chấp nhận một sự bất công
bằng tạm thời trong một giới hạn nhất định, phải chấp nhận một sự phân hoá giàu
nghèo nhất định.... Sự thiệt thòi, hy sinh, mất công bằng, phân hoá giàu nghèo chỉ
được dao động trong giới hạn cho phép. Giới hạn cho phép đó được quy định hợp lý
bởi mục tiêu tăng trưởng, phát triển bền vững và ổn định chính trị xã hội. Điều đó đòi
hỏi trong tổ chức thực hiện điều hành phải phát hiện và kiên quyết điều chỉnh kịp thời
hàng năm, điều chỉnh trong từng giai đoạn để giữ vững giới hạn an toàn nhất cho sự
phát triển. Có thể khẳng định rằng mục tiêu ổn định chính trị xã hội là mục tiêu số
một, thường xuyên và lâu dài để điều chỉnh các giai đoạn phát triển và toàn bộ quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
Kết luận
Khi xem xét sự phát triển có một vấn đề được đặt ra là sự phát triển diễn ra theo
chiều hướng nào? Quan điểm duy vật biện chứng, triết học Mác đã mang lại câu trả lời
cho vấn đề ở chỗ: từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, sự đấu
tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật
mới ra đời. Sự ra đời đó là một mắt xích trong sợi dây xích phát triển và kết quả của sự
phủ định cái cũ, cái lỗi thời trên cơ sở kế thừa, lấp lại nhưng không quay trở lại và tính
chất tiến lên của sự phát triển.
Nhìm vào quá trình phát triển nền kinh tế nước ta, chúng ta thấy việc chuyển
đổi nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu báo cấp sang nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN là một tất yếu khách quan, phù
hợp với quy luật phát triển. Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, chúng ta cần xoá bỏ
và khắc phục được những khuyết tật, hạn chế của nền kinh tế chỉ huy, kế thừa những
mặt tích cực và phát huy chúng để xây dựng một nền kinh tế thế giới. Đây là bước
phát triển cao hơn so với nền kinh tế cũ nhưng chúng ta đã cần phải nhận thức sâu sắc
rằng đây không phải là sự phát triển cao nhất bởi mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại
trong lòng nó những mâu thuẫn, và cái mới sẽ ra đời thay thế cái cũ. Chính vì vậy mà
trên con đường phát triển kinh tế của mình, chúng ta luôn phải nghiên cứu tìm tòi ra
những giải pháp nhằm đạt được những bước phát triển cao hơn.
Mục lục
Lời nói đầu .......................................................................................................
A. Cơ sở lý luận ...............................................................................................
Phần I. Quy luật phủ định của phủ định.....................................................
I. Khái niệm phủ định biện chứng và những đặc điểm của nó .......................
1. Khái niệm ......................................................................................................
2. Đặc điểm........................................................................................................
II. Quy luật phủ định của phủ định và hình thức “xoáy ốc” của sự
Phát triển ..........................................................................................................
1. Nội dung ........................................................................................................
2. ý nghĩa của quy luật phủ định của phủ định................................................
Phần II. Những lý luận về thị trường ..........................................................
I. Nền kinh tế kém phát triển mang tính tự cấp, tự túc ............................
II. Nền kinh tế hàng hoá ................................................................................
III. Nền kinh tế thị trường tự do ..................................................................
IV. Nền kinh tế thị trường hỗn hợp .............................................................
B. Phép phủ định biện chứng đối với
công cuộc đổi mới ở việt nam ........................................................................
I. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá là tất yếu khách quan, phủ
định lại nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã khôngcòn phù
hợp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ..................
1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp ở Việt Nam ....................................................................................
2. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản
lý của nhà nước là một xu hướng phát triển tất yếu khách quan ..................
II. Tính kế thừa trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam .................
1. Đặc trưng của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự
quản lý của nhà nước ở Việt Nam ...................................................................
2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
Sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý nhà nước ở Việt Nam ..................
3. Những thành tựu và thành công đổi mới .....................................................
III. Xu hướng phát triển trong quy luật phủ định của phủ định ............
C. Xu hướng phát triển của nền kinh tế
Việt Nam và một số giải pháp .......................................................................
I. Xu hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong
giai đoạn thiếp theo .....................................................................................
II. Một số vấn đề cần nghiên cứu và các giải pháp thực hiện ..................
Kết luận .....................................................................................................
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Đổi mới kinh tế việt nam với phép phủ định biện chứng.pdf